|
||
VIỆT TÂN CHỮA CHÁY
Cháy đâu chữa đó –Cháy đó chữa đâu –Chữa đâu cháy đó
LS Đinh Thạch Bích
Qua một số điện thư hồi âm, tôi được biết khá nhiều thính giả hoan nghênh những bài nói chuyện của tôi trên diễn đàn VietNamExodus, đặc biệt là bài phỏng vấn của Hồng Phúc trên đài Việt Nam Hải Ngoại, phát thanh từ vùng Virginia Miền Đông Hoa Kỳ, với đề tài “Những Sự Kiện Xưa Nay Giấu Kín Về Băng Đảng Việt Tân”. Ngoài ra, tôi c̣n nhận được một số tài liệu về các nỗ lực gọi là “giải độc” của các đầu lĩnh Việt Tân (VT) ở khắp nơi: từ Hoa Kỳ đến Âu Châu qua Úc Châu rồi Canada. Với các nỗ lực đó, tôi nhận thấy luận điệu “giải độc” mà VT tung ra, từ Nguyễn Trọng Việt, Trần Đức Tường đến Trần Xuân Ninh,Nguyễn Ngọc Đức …, xa gần đều giống nhau. Thật tội nghiệp, họ càng nói càng ấp úng, càng bộc lộ tŕnh độ ấu trĩ, giấu đầu ḷi đuôi. Sự lúng túng của VT khiến tôi không khỏi liên tưởng tới câu đồng bào trong nước thường dùng để châm biếm Việt Cộng : Sai Đâu Sửa Đó; Sửa Đó Sai Đâu; Sửa Đâu Sai Đó. Trước tṛ hề “chữa cháy” của VT, nhất là khi thấy họ càng “chữa cháy” th́ càng “lạy ông tôi ở bụi này”, tôi bỗng thấy thương hại, không cười đựơc nữa, phải thốt ra câu này : Cháy đâu chữa đó; Cháy đó chữa đâu; Chữa đâu cháy đó. Với đề tài trên, tôi đă có một bài nói trên VietNam Exodus. Bài vừa tung ra là tôi lập tức vất vả : các nơi hồi âm, yêu cầu chuyển bài nói thành bài viết, để các báo địa phương tiện đăng lại, và cộng đồng các nơi tiện in ấn, truyền tay mà phổ biến. Hơn nữa, nhận thấy trứơc đây v́ dùng văn nói, nên có nhiều điểm tôi nói chưa được rơ lắm, cũng cần phải viết rơ nghĩa thêm.V́ thế, tôi phải có bài viết này. Hăy xem qúy vị VT “chữa cháy” ra sao ?
I. Chữa Cháy Về Danh Xưng.
Hai năm rơ mười, danh xưng của quư vị VT là :Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, gọi tắt là Việt Tân. Ngay khi quư vị ấy vừa đưa cái tên này ra, tôi đă nhẹ nhàng nhắc bảo rằng : hai khái niệm Canh Tân và Cách Mạng là một cặp đối nghịch, không thể đứng chung với nhau đựơc. Suốt 3 năm, từ khi “ra công khai” ở bên Đức, có thấy ai trong quư vị VT nói ǵ về dị tướng “đầu gà đít vịt” của cái danh xưng ấy đâu. Bây giờ, sau khi bị “chệch hướng” rồi “chẻ hai”, cả hai nửa của VT đều đâm ra ấp úng, ăn nói quanh co về cái danh xưng “mặt giơi tai chuột” ấy. Tiếu lâm hơn nữa, một bên lấy danh nghĩa “cấp chỉ huy” để “khai trừ” bên kia về tội “tiết lộ bí mật”, “không tuân lệnh cấp trên”, “vô kỷ luật” …; c̣n bên kia tự nhận ḿnh là “chính thống”, lên án bên nọ là “chệch hướng”.
1) Biện luận của phe “chính thống” : Phe Trần Xuân Ninh tự nhận chính thống, lên án phe kia là “chệch hướng”. Theo TXN, “VC c̣n nắm quyền độc tài th́ không thể nào canh tân được”, cho nên phải “làm cách mạng đánh đổ VC đi, rồi mới canh tân được”. Nghe ra có vẻ “chính thống”. Tiếc thay, bất cứ ai có chút kiến thức về “cách mạng” đều biết rằng cách mạng nào cũng có hai phần : (a) phần đánh đổ, và (b) phần xây dựng. Phần (a) là đánh đổ một hệ giá trị cũ; và phần (b) là xây dựng một hệ giá trị mới. Hệ giá trị cũ sập rồi, không ai có thể lựợm lại bất cứ mảnh vụn nào trong đống đổ nát hậu cách mạng, phủi bụi đi để mà “canh tân” cho thành một thứ ǵ đó, mà coi cho được. Ông TXN nhập nhằng coi cái phần (b) này của cách mạng là “canh tân” của ông ấy. Thưa ông : “canh” diễn nôm là “đổi”; “tân” diễn nôm là “mới”. Canh tân là “làm cho cái cũ thành ra mới”. Đó là điều mà Việt Cộng đă chủ trương từ hơn 20 năm nay, với khẩu hiệu “đổi mới hay là chết”. Việt Cộng Canh Tân là Việt Cộng Đổi Mới.Cộng sản hùng hục đánh nhau với tư bản là thứ cộng sản cũ, là cộng sản sập tiệm. Cộng sản đầu hàng tư bản, ḷn trôn tư bản để trở thành tư bản đỏ, để được tư bản làm ngơ cho tiếp tục cầm quyền, là cộng sản đổi mới, là cộng sản canh tân, là thứ cộng sản đang đóng kịch “hội nhập” vào kinh tế thị trường, lừa bịp tư bản vào thế “nuôi ong tay áo”. Hệ giá trị Mác-xít, cộng sản, một khi đă bị cách mạng của chúng ta đánh sập xuống rồi, chúng ta nhất thiết phải thay thế nó một cách trọn vẹn (ṭan bộ) bằng hệ giá trị tự do-dân chủ- nhân quyền, chứ không thể lượm xác chết cộng sản lên rồi “canh tân” nó thành bất cứ thứ ǵ có giá trị tự do-dân chủ-nhân quyền. TXN có thể căi rằng : khi ông ta nói “canh tân” là nói “canh tân đất nước sau cách mạng” chứ có phải “canh tân Việt Cộng” đâu ! Nếu nói thế, th́ ông đă cố t́nh quên rằng cái ư “canh tân sau cách mạng” của ông nó đă nằm trong cái phần (b) của định nghĩa cách mạng rồi (là xây dựng một hệ giá trị mới đó!) Can chi đảng của ông phải tách nó ra thành tôn chỉ mục đích của đảng, để rồi “bị hiểu lầm”, “bị xuyên tạc”, bị “ngộ nhận” lung tung; thậm chí ngay nội bộ đảng của ông cũng v́ thế mà lục đục, “chệch hướng” diễn tṛ đánh nhau với “chính thống”. Tôi không tin rằng TXN không biết những điều tôi vừa nói. Ông ta không phản bác ǵ khi Mặt Trận “buôn kháng chiến” biến thành Đảng Việt Nam Canh Tân Cách Mạng. Chẳng qua khi các ông lấy tên tắt của đảng là Việt Tân, ai cũng biết các ông đặt khái niệm “canh tân” nặng hơn khái niệm “cách mạng”. Chủ trương đích thực của các ông là “canh tân”. Nhăn hiệu “cách mạng” được các ông gắn thêm vào làm cái đuôi của tên đảng, là cái “vỏ bọc” giúp che đậy chân tướng của các ông mà thôi. Phe “cấp chỉ huy” của VT có vẻ “lương thiện” hơn phe “chính thống” của TXN.. 2) Biện luận của phe “cấp chỉ huy” : Phe này v́ đă lộ liễu chủ trương “canh tân” là chính, cho nên biện luận ít vất vả hơn phe “chính thống” của TXN. Ông Nguyễn Trọng Việt cắt nghĩa đại khái rằng đảng của ông chủ trương “tiếp cận” với Việt Cộng để về nước tranh đấu dân quyền và dân sinh cho Việt Nam; NTV cho đó là ư nghĩa của mục đích “canh tân” nằm nơi tên đảng. Khi được hỏi về ư nghĩa hai chữ cách mạng nơi tên đảng, NTV cho biết hai chữ ấy chẳng qua là để nhắc nhở các đoàn viên, “phải cách mạng bản thân, rồi mới canh tân được đất nước”. Chúng ta hoan nghênh sự “lương thiện” của NTV. Danh xưng của một tổ chức tự nhận là “cách mạng” thường thường phải nói lên được chủ trương và đường lối của tổ chức ấy. Việc “ cách mạng bản thân” chẳng qua nằm trong phần đào luyện cán bộ, ở dưới tầm của tôn chỉ và mục đích, can chi đem lên tên đảng để cho bị … kẹt ! Với lối giải thích ṿng vo, NTV đă đánh tụt ư nghĩa cách mạng trong tên đảng, để cho ư nghĩa ấy không c̣n nằm trong tầm vóc chính sách nữa. Các “cấp chỉ huy” của VT ở bên Pháp cũng như ở bên Úc, đều có luận điệu “lương thiện một cách khờ dại” không kém NTV, tuy rằng ông nào ông nấy đều thuộc lọai “miệng trơn như mỡ”, nhưng nhiều lúc v́ “miệng quá trơn” nên đâm ra buột miệng, lấy lại không kịp, lỡ cho lỡ luôn. Trong một lúc miệng quá “trơn”, NTV đă “rất khiêm nhượng” khoe rằng VT từng họat động bí mật ở trong nước từ hơn 20 năm nay, và chỉ mới ra công khai ở hải ngọai có 3 năm nay thôi. Nghe tới đây, câu hỏi đơn giản bật ngay ra trong đầu tôi : “Nếu quả thật như NTV nói, VT “nằm” lâu như thế trong nước rồi, nay cần ra công khai đối lập với VC, chỉ cần khởi động cái vốn “bí mật” sẵn có đó lên, dùng nó mà tranh đấu cho dân sinh, dân quyền, can ǵ phải đặt vấn đề về nước để tiếp cận cho sinh rắc rối, đến nỗi “chệch hướng” với lại “khai trừ” và … chẻ hai. “Chữa cháy” cho việc “canh tân” dưới chế độ Việt Cộng, NTV không ngần ngại viện luôn tới Cụ Phan Bội Châu. Ông ta mượn tạm của Cụ Phan câu “nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí” để biện minh cho việc VT đem “con ông cháu cha” VC sang du học Âu Mỹ. Ông ta cứ tưởng mọi người không biết việc nước Mỹ đă chi hàng trăm triệu đô la trích trong ngân sách quốc gia (trong đó có tiền đóng thuế của người Mỹ gốc Việt chúng ta) tài trợ cho một chương tŕnh tuyển lựa sinh viên VN xuất sắc, đem qua Mỹ du học. Chương tŕnh ấy ban đầu giao cho ông Phạm Đức Trung Kiên phụ trách; mới đây nghe đâu đă giao cho người khác. Đâu phải đợi VT kiếm cớ mượn hơi xen vào để biện minh cho việc làm ăn ám muội của họ. II. Chữa cháy về tiền bạc và về lề thói họat động bí mật. Ngọai trừ một số c̣ mồi ngọai vi của VT, báo chí và truyền thông hải ngọai rất công bằng, luôn dành cho VT cơ hội để “giải độc” theo ư muốn. Đài phát thanh VOVN ở Houston, Texas, với nữ kư giả Phương Hoa, đă dành cho TXN một buổi phỏng vấn khá dài, và TXN đă tŕnh diễn một màn kịch “càng chữa càng cháy” khá ngọan mục. Được hỏi về vấn đề tiền bạc quyên góp của đồng bào cho Quỹ Yểm Trợ Kháng Chiến, mà bà Phương Hoa cho là “một số tiền khổng lồ”, TXN chối lấy chối để. Không thể chối rằng “không thâu tiền”, TXN nói đi nói lại rằng chỉ là số tiền nhỏ thôi. Ông ta viện dẫn những việc vụn vặt : · Bản thân ông chỉ đóng mỗi lần hai ba chục Đô thôi; · Có lần, ở nơi kia, có một cụ bà lên đóng “có 5 chục Đô” mà cả hội trường hoan hô cụ ầm ầm; · Đồng bào tị nạn lúc đó ông Carter cho sang chỉ có 14 ngàn “ṭan là ăn oen-phe” (nguyên văn của TXN), tiền đâu mà đóng nhiều. Không thể tưởng tượng nổi, TXN cả gan coi thường đồng bào đến như thế ! · Con số 14 ngàn ông Carter xin Quốc Hội Mỹ tài trợ chỉ là con số bổ túc định kỳ. Con số Việt tị nạn sơ khởi là 150 ngàn, sau tăng lên 180 ngàn, và tùy theo t́nh h́nh, cứ thế mà tăng lên măi. TXN tưởng đồng bào ta không biết đếm số hay sao ? Càng chữa càng cháy là thế đấy ông ạ! · “Có 5 chục Đô” mà TXN cho là số tiền nhỏ à? Phải chăng TXN xài “tiền chùa” quen rồi, nên 5 chục Đô ông ta cho là nhỏ ? Cụ bà đóng góp “có 5 chục đô” mà đựơc hoan nghênh rầm trời, đâu phải v́ số tiền lớn nhỏ, mà v́ tinh thần ủng hộ cao độ, v́ sự khích lệ vô giá cụ đem lại cho chính nghĩa. TXN lấy số tiền lớn nhỏ để đo sự ủng hộ vô giá của đồng bào . Khỏang 7 hay 8 năm trước khi Mặt Trận HCM thâu tiền đồng bào, tôi từng chứng kiến “hiện tượng” đóng góp chưa từng thấy, khi Báo Hồn Việt ra đời (tờ báo đầu tiên của Người Việt Hải Ngọai trên đất Mỹ), phải nói là “tiền vào như nước”. Ấy là “mua báo” chứ không phải ủng hộ vô tội vạ. Đó mới là lúc bà con ta “ăn oen-phe bạo” hơn bao giờ hết, chứ không phải lúc MT/HCM thâu tiền đồng bào đâu.Ng̣ai việc đóng góp, c̣n biết bao nhiêu vụ “văn nghệ kháng chiến”, mỗi vụ một vài chục ngàn Đô là thường. Lại c̣n những “thùng tiền kháng chiến” đặt đầy khắp các chợ … những tóan đồng phục nâu đi quyên góp kiểu “băng đảng” dữ dằn.Nhiều chủ chợ, khi thấy thùng tiền không được đầy, đă phải tự bỏ thêm tiền vào để tránh bị hạch hỏi, gây khó khăn. Vậy mà TXN dám bảo “đâu có bao nhiêu”! Nhưng, vấn đề không phải ở chỗ đó. Dầu ít dầu nhiều, dầu c̣n hay hết, vấn đề là phải kết tóan. Số thâu bao nhiêu, giấu diếm đă đành. Lúc c̣n “kháng chiến” viện cớ “bí mật quân sự” để không khai báo đă đành. Nhưng HCM đă chết, cuộc kháng chiến” đă thành chuyện mây khói, th́ phải kết tóan sổ sách mới phải chứ ! Dù không trưng được sổ sách chi tiết, ít ra cũng phải có một lời “chó chết hết chuyện”, không thể cứ măi..”im lặng là vàng"! Đàng này, HCM chết queo rồi mà hàng năm vẫn có “Thư Chúc Tết Đồng Bào” là sao ? Giở lại báo “Kháng Chiến” mà xem. Mười ngàn quân đâu rồi ? Các Ủy Ban Kháng Quản đâu rồi ? 36 đ̣an thể gia nhập Mặt Trận đâu rồi.? Nữ kư giả Phương Hoa của VOVN liên tiếp đặt nhiều câu hỏi hóc búa, dồn TXN vào thế phải nói ra sự thật, bằng không th́ tự lột mặt nạ. Và TXN đă tự lột mặt nạ một cách thật “ngây thơ vô số tội” ! TXN đă phải viện cả cha mẹ ra “cứu giá”. Ông nói đại khái rằng :”Cha mẹ tôi dạy tôi là không được nói dối, phải nói sự thật; nếu có điều ǵ không nên nói th́ tôi không nói, chứ tôi không nói dối”. Bà Phương Hoa lập tức hỏi dồn :”Như thế là ông c̣n giấu nhiều điều ?” TXN thảng thốt :”Vậy chẳng lẽ ra trước công chúng mà cởi hết quần áo ra à?” TXN, không hề biết rằng trong cách mạng cũng như trong chính trị của xă hội tự do dân chủ, người của công chúng (public figure) phải tôn trọng nguyên tắc trong sáng (transparency). Hễ khuất tất th́ công chúng “khui” tới cùng. Người của công chúng không c̣n có đời tư để mà giấu diếm. Trong xă hội tự do dân chủ, nhà chính trị phải luôn luôn trong sáng và công khai hóa tất cả mọi việc thường được gọi là “riêng tư”, nhất là vấn đề tài sản và chi tiêu tài chánh. Chúng ta từng chứng kiến có vị nguyên thủ nước tự do đă phải “ra trước công chúng, cởi hết quần áo” như thế nào. Chỉ có các lănh tụ độc tài, nhất là bọn Việt Cộng thường viện cớ nào là bí mật quốc gia, an ninh quốc pḥng để che giấu, không chịu “trong sáng” trước công chúng, không chịu công khai hóa tài chánh. Đó cũng là một trong nhiều lư do khiến VC bị trở ngại khi xin vào mậu dịch quốc tế (WTO). Gần đây, áp lực quốc tế đă buộc VC phải “trong sáng”, ít ra là trong ngân sách quốc gia, mà quốc tế vẫn chưa thoả măn. Ngoài khái niệm trong sáng (transparency), người của công chúng c̣n phải tôn trọng nguyên tắc “accountability” ( có trách nhiệm), cụ thể trong tiền bạc phải sổ sách phân minh. Thâu tiền của công chúng không có sổ sách, lại thường thâu tiền mặt; khi bị hỏi tới th́ căi chầy rằng “ai chứng minh được là có đóng góp th́ mới được quyền hỏi”. Công chúng chỉ c̣n có nước “bắc thang lên hỏi ông trời; tiền đưa ‘khiến chán’ có đ̣i được không”! Công chúng mất tiền là chuyện nhỏ. Niềm tin của quần chúng vào chính nghĩa quốc gia mất đi, không ǵ có thể đền bù được. Đó mới là đại tội của dư đảng HCM và băng đảng VT, không ǵ có thể biện minh được, không căi chầy căi cối vào đâu được. Với đại tội này, ngay đến đời con đời cháu bọn họ cũng khó thể ngẩng đầu lên mà nh́n vào mặt bất cứ người Việt Nam nào. TXN có viện cả đến cha mẹ ra cũng bằng vô ích mà thôi. Ngay trong đường lối, chính sách, VT cũng lại “bí mật”; ai tiết lộ là phạm kỷ luật. Đến khi có bất đồng trong nội bộ, nửa bên này tố nửa bên kia là “chệch hướng”, ḿnh mới là “chính thống” ... và ngược lại. Rồi tổ chức họp báo để công chúng phân xử. Thử hỏi chủ trương đường lối các ông giấu biệt, công chúng biết căn cứ vào đâu để phán xét ai “chệch hướng” và ai “chính thống” ? Công chúng đành phải làm khán giả, xem các ông tố nhau, coi như xem tấn tuồng “diễu dở” mà thôi. III. Cơ cấu và vận hành của tổ chức : không “chữa cháy” vào đâu được. Về cơ cấu của VT, tôi từng vạch rơ rằng : đó là một cơ cấu đảng cộng sản thu nhỏ (mini) ở hải ngoại. Tuy nhiên, tôi cũng từng mở đường cho VT chạy trốn, để cho rằng “có thể” các ông VT không biết một cơ cấu tổ chức nào khác, đành “mượn tạm” của Việt Cộng mà xài đỡ vậy. Nhưng VT đă không chịu bỏ chạy. Mà c̣n căi chầy căi cối, nên tôi đành phải tặng họ bài học đích đáng hơn. 1) Cơ cấu dân chủ tập trung : a) Bản văn “khai trừ” TXN đă tố cáo đầy đủ : nào là “không tuân lệnh cấp chỉ huy”; nào là “không tôn trọng đoàn kết nội bộ”; nào là “vô kỷ luật” , nào là “tước bỏ đảng tịch có thời hạn” v.v... Cứ đem bản điều lệ đảng cộng sản VC ra so sánh là thấy giống gần như nguyên văn. b) Qua các văn bản họ tố cáo nhau, ta bắt gặp một bộ máy đảng VT sao chép y như đảng cộng sản VC. Cũng Bộ Chính Trị. Cũng Trung Ương ửy viên. Cũng Hội nghị Trung Ương trước khi có Đại Hội Đảng. Cũng đánh số các Đại Hội Đảng y như VC : Hội nghị trung ương đảng 8 ... Đại Hội Đảng 5 v.v... Đâu phải chỉ riêng VT nắm “độc quyền” làm cách mạng. Biết bao nhiêu đoàn thể cách mạng chống cộng, người ta quẳng bỏ “dân chủ tập trung” từ khuya rồi, khi phát giác rằng “dân chủ tập trung” xuất phát từ trường quân chính Hoàng Phố, do Nga Cộng lập ra để giúp Tàu Cộng đào tạo cán bộ cộng sản ở Châu Á. Trường đó có Chu Ân Lai là chính uỷ, có cố vấn là Borodin, và Hồ Chí Minh là thông ngôn của Borodin. Cũng từ trường Hoàng Phố, c̣n đẻ ra phương pháp vận hành đảng cộng sản, có tên là Tam Pháp Bửu. Đảng VT đang áp dụng “bửu bối” này trong sinh hoạt cộng đồng ở hải ngoại. Vậy Tam Pháp Bửu là ǵ ? 2) Vận hành theo Tam Pháp Bửu : Tam Pháp Bửu là phương pháp vận hành Đảng qua 3 tầng cơ cấu. Đó là “bửu bối” vận hành tổ truyền của đảng cộng sản ở bất cứ đâu, từ đế quốc Nga (gồm cả Đông Âu) của Stalin, cho đến đế quốc Tàu của Mao Trạch Đông và tiểu bá Việt Cộng của giặc Hồ. Cho nên đă được đặt tên như thế từ sơ thuỷ. . Ba tầng cơ cấu đó là : Đảng, Đoàn, và Mặt Trận. Đảng là cốt lơi. Đoàn là cánh tay nối dài, đồng thời là “hậu bị” của Đảng (mà VT gọi chệch ra là “hậu duệ”). Mặt Trận là ngoại vi. Nếu không lập được Mặt Trận làm ngoại vi, hoặc v́ lư do nào đó Mặt Trận bị trở ngại (hoặc giải tán) th́ lập Phong Trào. Nếu không tiện lập Phong Trào (như ở hải ngoại này) th́ đi “chinh phục” (tiếng này là của TXN) các Cộng Đồng địa phương làm ngoại vi. Cơ cấu vận hành như thế, được các cấp “chỉ huy” VT coi như không ai biết là của cộng sản, nên họ không chối căi, chỉ biện minh đại khái rằng ... cái này không phải của chúng tôi; cái kia chúng tôi bị chống đối v́ “cán bộ dở quá” không “chinh phục” được ngoại vi. Thí dụ : Đoàn Thanh niên Phan Bội Châu. TXN bảo rằng VT có một số người trong đó; nếu v́ thế mà bảo Đoàn ấy là “của VT” th́ “các em sẽ giận đấy”. Dĩ nhiên, đa số người trẻ gia nhập Đoàn ấy đâu có biết là bị VT (chỉ có vài người gài vào mà) thao túng, vạch ra th́ họ giận, nhưng họ sẽ không giận người vạch ra, mà giận kẻ gài người vào thao túng. Hội chuyên gia cũng thế, TXN không chối là VT có gài người vào, và cho hiểu ngầm rằng VT chưa “chinh phục” được Hội này. Mải lo chữa cháy, TXN vô t́nh đă xác nhận rằng chẳng những VT tổ chức theo mô h́nh đảng cộng sản thu nhỏ, mà c̣n vận hành theo lề lối Tam Pháp Bửu của cộng sản nữa. Đồng thời TXN c̣n thú nhận rằng VT bị cộng đồng người Việt khắp nơi vạch mặt và tẩy chay, v́ cán bộ VT “dở quá”, không “chinh phục” được ngoại vi. Chưa hết, tôi sẽ vạch rơ thêm rằng việc VT gài người vào các tổ chức của chúng ta bằng thủ đoạn có tên là ǵ ? 3) Gài người theo thủ đoạn Minh Cưu : Thủ đoạn này được Trung Quốc Quốc Dân Đảng phát hiện và đặt tên. Khi các cố vấn Trung Hoa Dân Quốc sang giúp Việt Nam Cộng Hoà về Tâm Lư Chiến và Chiến Tranh Chính Trị, họ đă có bài giảng về thủ đoạn “minh cưu”. Nếu tôi không lầm th́ một tác giả Đài Loan, ông Tưởng Vĩnh Kính có nhắc lại thủ đoạn này của Việt Cộng trong cuốn “Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc”, đă được một dịch giả Việt Tị Nạn ở Mỹ dịch ra tiếng Việt, hiện c̣n bày bán tại các tiệm sách. Trước đó, một học giả của nhóm Tạp Chí Việt Nam Hải Ngoại là ông Vũ Quang Hân cũng có dịch cuốn này ra và đăng từng kỳ trên tạp chí nói trên. Rất tiếc, dịch chưa xong th́ ông Vũ Quang Hân ngă bệnh và qua đời, chỉ kịp tóm lược những chương sau chót, trong đó có nhắc đến thủ đoạn “minh cưu” của lăo Hồ. Vậy “minh cưu” là cái ǵ ? Theo ông Vũ Quang Hân, “minh cưu” là tên Tàu của con chim Tu Hú. Chim Tu Hú thường xuất hiện đông đảo ở Bắc Việt Nam vào mùa trái vải chín. Khi nó hót lên, tiếng hót the thé hệt như người ta réo lên hai tiếng Tu Hú, và bọn trẻ con chúng tôi bấy giờ mỗi lần nghe chúng hót thường nhái lại “ Tu Hú ... chú mày chết!” Theo ông Vũ Quang Hân, chim Tu Hú thường không làm tổ. Chúng thường ŕnh kiếm các tổ sáo sậu, chờ lúc sáo mẹ đẻ trứng xong, phải rời tổ chốc lát đi kiếm ăn, Tu Hú bèn xâm nhập, ăn cắp trứng sáo tự “bồi dưỡng”, rồi lần hồi đẻ trứng của nó vào tổ sáo sậu. Sáo mẹ cứ thế mà ấp trứng chim tu hú. Trứng nở rồi, vẫn chưa biết ḿnh đang nuôi chim giống khác, chim con của ḿnh đă bị nó đánh cắp, ăn sống nuốt tươi từ khuya rồi. Người Tàu quốc gia đă dùng h́nh ảnh sáo sậu bị tu hú ăn thịt mất con mà cứ nuôi con cho tu hú để mô tả thủ đoạn mà già Hồ đă dùng để cài người vào các tổ chức quốc gia lưu vong bên Tàu cùng thời với ông ta. Trung Hoa Quốc Gia c̣n nêu từng trường hợp cụ thể, giặc Hồ đă dùng thủ đoạn “minh cưu” như thế nào để người Việt quốc gia lưu vong cứ “đẻ trứng sáo” mà chim con nở ra lại cứ là chim tu hú cộng sản. Nổi bật là hai trường hợp : Phạm hồng Thái và Phan Bội Châu. a/ Bài học Tâm Tâm Xă sau khi Phạm Hồng Thái nổ bom cảm tử : Sau khi Phạm Hồng Thái nổ bom ở Sa Diện giết chết Toàn Quyền Pháp Merlin, Tâm Tâm Xă trong t́nh trạng “rắn không đầu”, trở thành ổ sáo sậu cho Tu Hú Hồ chui vào đẻ trứng cộng sản. Bầy tu hú con nở ra, trở thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Về sau, chim tu hú đổi lông màu đỏ, trở thành một trong 3 mảng cộng sản cấu thành Đảng Cộng Sản Đông Dương. b/ Bài học Kỳ Ngoại Hầu Cường Để : Đảng Cộng Sản Pháp, theo lệnh của Quốc Tế 3, vận động với chính phủ Pháp, đem tô giới Pháp ở Thượng Hải (nếu tôi không lầm) đổi với chính phủ Nhật lấy việc Nhật trục xuất các nhà cách mạng Đông Du khỏi nước Nhật. Kỳ Ngoại Hầu phải lưu vong sang Tàu. Giặc Hồ đă mưu toan hăm hại Kỳ Ngoại Hầu rồi “minh cưu” mà đoạt lấy Việt Nam Quang Phục Hội. May thay, tranh thủ thời gian này, Kỳ Ngoại Hầu chuồn về Việt Nam giúp lập ra Đạo Cao Đài và Việt Nam Phục Quốc Hội. T́nh h́nh thay đổi, Kỳ Ngoại Hầu về lại được Nhật, thoát khỏi kế “minh cưu” của giặc Hồ. c/ Bài học Phan Bội Châu : Vắng Kỳ Ngoại Hầu, Phan Bội Châu lănh đạo Việt Nam Quang Phục Hội. Giặc Hồ bèn bày gian kế “bán” cụ Phan cho Pháp, và Việt Nam Quang Phục Hội cuối cùng cũng không thoát khỏi gian kế “minh cưu” của giặc Hồ. d/ Bài học Hoàng Cơ Minh : HCM nằm ở Nhật, mướn đất ở biên giới Thái-Lào lập “khu chiến”. Không tuyển được lính, HCM phải tuyển quân bừa băi, rước ngay tu hú VC vào “đẻ trứng” trong quân ngũ của ḿnh. Bọn tu hú VC trong MT/HCM ở Mỹ “gài độ” cho HCM cứ phải thỉnh thoảng sang Thái để “dời trại”. Trong khi đó, VC ở Hà Nội “mua đứt” chính quyền Thái với khẩu hiệu “biến chiến trường thành thị trường”. Trong lần “dời trại” cuối cùng (mà tuyên truyền MT gọi là “Đông tiến”), Thái Lan bắt HCM phải dời trại sâu hơn vào đất Lào, dưới sự hướng dẫn của t́nh báo Lào Cộng. Dẫn tới dẫn lui, toán quân của HCM bị lọt ổ phục kích. HCM chết, một số chiến sĩ anh dũng chết theo. Một số khác bị bắt cầm tù. Có vài người ở tù chung với người tù quốc gia; một trong những người tù quốc gia ấy hiện đang phụ giúp một phần công tác điện toán cho Vietnam Exodus, đă nghe các nhân chứng sống kể lại chi tiết cái chết của HCM và toán “Đông Tiến” như thế nào. Câu hỏi đặt ra là : tại sao HCM chết mà MT lại không cho ông ta chết như một anh hùng, hi sinh v́ lư tưởng “diệt Cộng phục quốc”? Tại sao HCM đă chết mà cứ phải hàng năm chúc Tết đồng bào ? TXN bảo rằng MT cần phối kiểm thật kỹ mới dám xác nhận sự sống chết của “lănh tụ tối cao”. Đồng ư ! Nhưng nếu c̣n bán tín bán nghi th́ ai bắt MT phải dối gạt đồng bào bằng những thư chúc Tết giả mạo kia ? Không thể hiểu nổi sự dối gạt kia, nếu không biết về thủ đoạn “minh cưu” của Việt Cộng. HCM tuy ở tầm vóc thấp kém hơn, nhưng cũng đă bị VC “gài độ” cho phải chết. HCM có chết th́ tu hú VC mới có cơ hội xâm nhập vào ổ sáo sậu MT mà tha hồ đẻ trứng. HCM chết mà không được báo tử ngay, là v́ đàn tu hú VC cần thời gian để đẻ thật nhiều trứng vào ổ sáo sậu MT. Và đàn tu hú con nở ra cần thời gian mọc lông mọc cánh rồi con sáo sậu HCM mới được chúng cho phép chết. Đủ lông đủ cánh rồi th́ đàn tu hú MT công khai nhận ḿnh là tu hú chứ không phải là sáo sậu nữa. Đó là lúc khai tử MT và Việt Tân ra công khai. e/ Bài học nơi các Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại : Đàn tu hú VT nhô ra là các Cộng Đồng khắp nơi vất vả hơn trước nhiều. Chúng một ḿnh một chợ, đua nhau “chinh phục ngoại vi”. Nơi nào “chinh phục” không được th́ chúng lập ra thêm một tổ chức cộng đồng thứ hai để cạnh tranh ảnh hưởng. Cạnh tranh không nổi th́ chúng giở tṛ phá hôi bôi nhọ, đánh phá bẩn thỉu, thơ rơi xuyên tạc rỉ tai vu oan giá hoạ ... Chúng không từ một hành vi hạ cấp nào, miễn đạt mục đích. Bị phản ứng, bị tẩy chay, bị xa lánh, VT không chịu từ bỏ cung cách ám muội hoặc sửa đổi lề lối hành xử; ngược lại (như TXN “chữa cháy”) chúng chỉ cho là tại “cán bộ dở” chứ không phải đường lối tư cách VT sai trái. Quả thật là đàn tu hú VT này đă hết thuốc chữa. Ta không có cách đối xử nào khác hơn là trường kỳ đối phó với chúng như đối phó với VC thứ thiệt ở bên nhà. IV. KẾT LUẬN. Đến đây, tưởng đă tạm đủ vạch trần chân tướng băng đảng VT, dư đảng MT/HCM. Họ càng “chữa cháy” càng làm cho đám cháy bùng to hơn, càng bộc lộ chân tướng của họ rơ rệt hơn. Họ rất không muốn “ra trước công chúng, cởi hết quần áo ra” bao giờ. Nhưng càng “chữa cháy” họ càng tự lột mặt nạ. Tóm tắt lại, chân tướng đó là ǵ ? · Là một tổ chức bạo lực, ra đời như một băng đảng, điều hành như một tổ chức tội phạm (organized crime), từng bị cơ quan an ninh thẩm quyền bắt giam và điều tra, rồi “free bargain” sao đó mà được bỏ qua. · Là một băng đảng “buôn kháng chiến”, từng quyên góp hàng chục triệu đô la của đồng bào mà không có sổ sách ǵ cả. HCM c̣n sống th́ viện cớ “bí mật quân sự”, không báo cáo chi tiêu. HCM chết rồi vẫn khăng khăng là c̣n sống để tiếp tục quyên góp. HCM chết rồi mà hàng năm vẫn chúc Tết đồng bào. Kháng chiến ma đă được khai tử cùng với HCM, vẫn không khai báo sổ sách ǵ với đồng bào. · Là một cánh tay nối dài của đảng CSViệt Nam, từ cơ cấu tổ chức đến phương thức điều hành. Điều lệ nội qui, nhất nhất đều sao chép lại của đảng CSViệt Nam. Sau khi HCM chết, chúng cố bưng bít, kéo dài thời gian khai báo, để bọn “tu hú” VT có th́ giờ vào đẻ trứng trong hang ổ dư đảng MT/HCM. Tu hú VT nở ra đủ lông đủ cánh rồi, chúng mới khai tử cả MT lẫn HCM và công khai cho tu hú VT ra công khai. · Với cánh tay nối dài VT, đảng CSViệt Nam dùng bửu bối “tam pháp bửu” xâm nhập và thao túng khối Người Việt Tị Nạn CS trên toàn thế giới. Chúng đă và đang làm ǵ? * Nơi nào chúng xâm nhập được (TXN gọi là “chinh phục được”), chúng lèo lái Cộng Đồng Người Việt, t́m cách “Việt kiều hoá” họ, dẫn giắt họ vào khuôn khổ của Nghị Quyết 36, dần dà thuần phục dưới sự “chỉ đạo” của các “sứ quán” (mà chúng gọi là “các quan sứ”.) Việc này, băng đảng VT đă giúp VC thành công gần phân nửa. * Nơi nào chúng không xâm nhập được th́ chúng đẻ ra một tổ chức trùng dụng (duplicate) và cạnh tranh bất chánh (unjust competition) với tổ chức chính thống của đồng bào. * Xâm nhập không được, trùng dụng và cạnh tranh bất chánh cũng không được, th́ chúng phá hôi bôi nhọ, tuyên truyền rỉ tai khiêu khích và ly gián để người quốc gia quay ra đánh phá lẫn nhau, chúng đóng vai “ngư ông đắc lợi”. Đến khi cộng đồng ta trở thành “hũ mắm thối” rồi, ai cũng chán ngán, những người có tâm huyết không ai buồn đưa lưng ra “vác ngà voi” nữa, khoảng trống đă đủ lớn rồi, chúng từ từ tiến ra chiếm lĩnh, ngon ơ không tốn công sức ǵ cả. * Đến một lúc, sau khi thành công quá dễ dàng trên khắp thế giới, chúng đâm ra chủ quan, ước tính sai phản ứng ngược (backfire) của đồng bào. Chiến dịch CHUẨN NHẬN (RECOGNITION) BIỂU TƯỢNG CỜ VÀNG là một bất ngờ (surprise) đối với chúng, mà chúng vẫn chưa kịp cảnh giác. Vận động đổi Ngày Quốc Hận 30-4 thành Ngày Tự Do, chúng bị đồng bào vạch mặt ra, phải “chữa cháy” đổi thành Ngày Đấu Tranh Cho Tự Do, vẫn bị đồng bào tẩy chay. Vận động của chúng, muốn đổi ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thành Ngày Quốc Khánh, bị đồng bào chửi cho tắt bếp. Chúng luôn luôn t́m cách xoá mờ tụ điểm đấu tranh đánh đổ bạo quyền VC của đồng bào hải ngoại, làm cho các mục tiêu chính nhoè nhoẹt đi (outfocus) thành những mục tiêu rất là vớ vẩn, chẳng hạn như hội thảo về chất độc da cam; lo lắng về sông Cửu Long bị khô cạn; hạch hỏi VC rằng sao không tích cực hơn để chống nạn cúm gà toi v.v... Bị chúng dẫn dụ vào các mục tiêu lang bang như thế, riết rồi bà con ta quên bẵng đi tụ điểm đấu tranh đánh VC nó ở chỗ nào, đánh vào tử huyệt nào th́ VC mới chết. Bọn VC ở Hà Nội chỉ cần có thế. Chúng nuôi bọn chim tu hú VT cũng chỉ để làm những việc như thế. Nhưng chúng đă bị bà con ta tặng cho những phản ứng ngược đáng để nhớ đời. Thú vị hơn cả là vụ “dàn chào” Phan Văn Khải. Chúng chen vào Ban Tổ Chức biểu t́nh, bị trói vào những kỷ luật khắt khe, không dễ ǵ biến đả đảo Phan Văn Khải thành “hoan nghênh” PVK được. Chúng bèn giở tṛ phá bĩnh, biến biểu t́nh ôn hoà thành bạo động, cũng lại bị Ban Trật Tự nhờ cảnh sát dẹp tan. PVK được TT Bush chỉ cho nh́n đám biểu t́nh, tưởng đâu hoan hô, té ra chỉ thấy đả đảo rầm trời. Bọn các “quan sứ” bị “đ́” sát ván; dĩ nhiên sau đó các quan lại “đ́” xuống tới đám tu hú VT. Vấn đề “chính thống” và “chệch hướng” bắt đầu đặt ra. Đến khi xảy ra vụ ở bên UÔc, “Duyên Dáng Việt Nam” biến thành “Dơ Dáng Việt Cộng” th́ đám tu hú VT không c̣n “chữa cháy” ǵ được nữa với các “quan sứ”. VT “nắm” Cộng Đồng. VT “làm việc” đêm ngày với DDViệt Nam, thế mà bà con chống cộng vẫn cứ rượt cho VC chạy có cờ. Đúng là một lũ ăn hại. Gần đây, có lẽ Hà Nội đă nh́n thấy từ tu hú VT tới “quan sứ” khắp nơi toàn là“ăn cơm tao mà hại tui”, nên “ngài” phó thủ tướng Vũ Khoan đă cảnh cáo nhẹ nhàng rằng “công tác kiều vận yếu kém, v́ nặng về hành chánh mà thiếu chiều sâu, thiếu sắc bén”. Câu này có nghĩa là ǵ ? Câu này có nghĩa trước hết là đám tu hú VT có thể bị mất “dóp”. Mất “dóp” ở hải ngoại, VT chỉ có hai nẻo đi. Một là về nước tiếp cận để canh tân. Đó là đường “binh” của các “cấp chỉ huy” mà kẻ bị khai trừ gọi là “chệch hướng”. Hai là ở lại hải ngoại với đồng bào “làm cách mạng rồi canh tân sau”. Đó là đường “binh” của đám tự nhận là “chính thống”. Hiểu ngôn từ Việt Cộng giữa hai hàng chữ (between the lines) ta có thể đoán ra rằng VC có ư định đổi hướng công tác kiều vận. Chê trách “nặng về hành chánh”, có nghĩa rằng từ nay công tác kiều vận không c̣n trong tay các “quan sứ” nữa. Toàn là một lũ con ông cháu cha, chiếm chỗ ngon ở hải ngoại để mà “phè”, làm đâu hỏng đó. Từ nay cần “chiều sâu” và “sắc bén”, có nghĩa là công tác kiều vận sẽ nặng về t́nh báo với sự tận dụng văn hoá vận, phối hợp với trí vận và kinh tài, kinh doanh. Một cách cụ thể, ta sẽ thấy những ngày sắp tới ṿng tṛn công tác kiều vận của VC như sau : (a) kinh tài kinh tế nuôi báo chí truyền thông (bằng quảng cáo hoặc bằng tài trợ, mua chuộc ngầm); (b) báo chí truyền thông nuôi văn hoá vận và trí vận, điều kiện hoá tâm lư kiều bào có lợi cho VC; (c) Tâm lư thuận lợi rồi, đồng bào quay lại nuôi kinh tài kinh tế VC. Ṿng tṛn khép kín, cứ thế tiếp tục vận hành. Không lâu, thay v́ VC nằm vùng hay tu hú VT, ta sẽ thấy quanh ta nào là “phái khiển”, nào là “t́nh báo công tác món”, nào là “đặc t́nh” biệt động v..v.và..... Năm xưa, VNCH từng bị VC làm rối bét hậu phương với ṿng tṛn khép kín nói trên. Năm nay, ở hải ngoại, ta có khả năng đối phó với ṿng tṛn quái ác đó hay không? Đó là vấn đề tôi sẽ tham khảo, thảo luận với bà con trong một dịp khác.
Ls Đinh Thạch Bích Toà soạn chúng tôi nhận và lên mạng nửa đêm về sáng 17 - 4 - 2006 |