MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vSoHavViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười Dân
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài G̣nvLuật KhoavCafevn
vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm
Đôi lời về “Hội nghị Thành Đô năm 1990”
05/05/2019 7:13
Hội nghị Thành Đô
là chủ đề mà không chỉ tôi, c̣n rất nhiều người quan tâm và nguồn
thông tin cực kỳ khó tiếp cận nên việc làm sao để nắm khái quát cơ
bản về việc này phải tốn rất nhiều công sức qua các kênh truyền
thông đại chúng hoặc không chính thức.
Nói về Hội nghị
này th́ thành phần tham gia gồm có:
* PHÍA VIỆT NAM:
1 – Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam – Nguyễn Văn Linh;
2 – Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng (Thủ tướng) – Đỗ Mười;
3 – Cố vấn cấp
cao – Phạm Văn Đồng,
4 – Chánh văn
pḥng Trung ương Đảng – Hồng Hà;
5 – Trưởng ban
đối ngoại trung ương Đảng – Hoàng Bích Sơn;
6 – Thứ trưởng Bộ
ngoại giao – Đinh Nho Liêm
* PHÍA TRUNG
QUỐC:
1 – Tổng bí thư
Đảng cộng sản Trung Quốc – Giang Trạch Dân;
2 – Thủ tướng
Chính phủ – Lư Bằng,
Và các cán bộ
chuyên ngành
Hội nghị diễn ra
trong hai ngày từ 03 đến 04/9/1990 tại thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ
Xuyên. Tại sao lại tổ chức ở Thành Đô mà không phải Bắc Kinh? V́ hai
bên xác định đây là hội nghị bí mật, không muốn cho dư luận biết,
bởi lúc đó Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Á vận hội 1990 sẽ được tổ chức
vào cuối tháng 9. Đă có rất nhiều nhà báo đến đây, việc xuất hiện dù
là bí mật 01 đoàn toàn lănh đạo cấp cao 01 quốc gia láng giềng đang
có xung đột với Trung Quốc trong thời điểm này chắc chắn sẽ bị
truyền thông Phương Tây khai thác triệt để.
1. Tại sao lại
phải bí mật ?
– Bởi Hội nghị
này chủ yếu bàn về “chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở
Campuchia” mà không có các phái Campuchia tham dự. Đây là điều hết
sức tế nhị và phức tạp trong một sự kiện ngoại giao lớn, bởi nó nếu
nói theo 01 khía cạnh lịch sử th́ giống với vấn đề “Mỹ-Trung” bắt
tay nhau về Chiến tranh ở Việt Nam, việc không có đại diện của
Campuchia mà lại quyết về vấn đề quốc gia của họ nếu thế giới nhất
là Liên Hợp Quốc biết th́ rơ ràng việc chấp nhận các điều khoản
trong đó là điều sẽ khó mà xảy ra, chưa kể sẽ có quốc gia mượn cớ
này thay mặt Liên Hợp Quốc vào Campuchia để thực thi cái gọi là “Bảo
an” của Liên Hợp Quốc th́ sẽ rất rắc rối. Chính v́ vậy, cho đến tận
bây giờ, cả hai bên vẫn chưa chính thức công bố nội dung của Hội
nghị. Điều đó gây nên những nghi ngờ thậm chí suy luận không tốt về
Hội nghị cũng như đối với các nhà lănh đạo nước ta.
– Muốn đánh giá
đúng vai tṛ và giá trị lịch sử to lớn của Hội nghị này, ta phải trở
lại bối cảnh của Việt Nam và thế giới vào thời điểm đó, cụ thể:
+ Năm 1990, năm
thứ 4 của công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta có phần khởi sắc
nhưng tiến triển rất chậm chạp, thậm chí nhiều ngành đang trên đà
suy thoái, đời sống nhân dân vẫn rất khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu
do Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, nước ngoài không thể đầu tư vào Việt
Nam. Lúc này, hệ thống Xă hội chủ nghĩa trên đà tan ră, viện trợ của
các nước anh em không c̣n. Đặc biệt, do hơn chục năm chiến tranh
biên giới, chúng ta không thể yên ổn tập trung xây dựng đất nước.
Bên cạnh đó, chi phí cho chiến tranh quá lớn với 1,5 triệu quân dàn
trải hai đầu chiến tuyến Bắc, Nam.
+ Về mặt quân sự,
tại biên giới phía Bắc vẫn c̣n xung đột nhỏ lẻ xảy ra. Trên mặt trận
Campuchia, mặc dù ta đă truy đuổi tàn quân Polpot lên sát biên giới
Thái Lan, nhưng lực lượng của chúng c̣n khá mạnh, trong khi Quân đội
của Thủ tướng Hun Sen lại rất yếu. Chúng ta đă rút phần lớn Quân
t́nh nguyện Việt Nam về nước, nhưng không dám rút hết v́ bạn không
đủ sức đơn độc chống lại lực lượng Khmer Đỏ đang được hậu thuẫn mạnh
mẽ từ Trung Quốc và Phương Tây. Mặt khác, suốt 10 năm bố trí lực
lượng trên vùng rừng núi hiểm trở, “rừng thiêng nước độc” dọc biên
giới Campuchia – Thái Lan, bộ đội ta không những thương vong lớn
trong chiến đấu mà c̣n hi sinh quá nhiều do ḿn, sốt rét ác tính và
bao căn bệnh kỳ lạ khác.
+ Trước t́nh thế
đó, lănh đạo nước ta rất muốn có một hiệp ước ḥa b́nh cho đất nước
Campuchia để quân đội Việt Nam rút hoàn toàn về nước mà chính quyền
của bạn do ta hậu thuẫn vẫn đứng vững. Tuy nhiên, ta không thể đàm
phán trực tiếp với Khơme-Đỏ và các phái đối lập được bởi thực chất
ngay chính các nhóm thế lực này cũng không dám tự ư quyết những vấn
đề này, bởi chúng c̣n phải phụ thuộc vào ai th́ các bạn chắc đă
biết. Con đường duy nhất là phải qua Trung Quốc bởi Khơme Đỏ là “con
bài” nằm trong tay họ.
+ Lúc này, Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh đang ở những năm cuối cùng của nhiệm kỳ lănh
đạo. Ông muốn sớm chấm dứt chiến tranh để tập trung tiềm lực xây
dựng đất nước theo cương lĩnh đổi mới mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề
ra. Nguyện vọng của ông được Đại tướng Lê Đức Anh khi đó đang là Bộ
trưởng Bộ Quốc pḥng hoàn toàn ủng hộ. Đại tướng Lê Đức Anh từng có
5 năm là Tư lệnh Quân t́nh nguyện Việt Nam tại Campuchia. Hơn ai
hết, ông hiểu rất rơ những gian nan và tổn thất của bộ đội ta trên
mặt trận đặc biệt này. Và có lẽ, ông cũng là người muốn chấm dứt
chiến tranh hơn tất cả.
2. Diễn biến, quá
tŕnh:
Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh quyết định gặp Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam lúc
bấy giờ là Trương Đức Duy.
– Lần thứ nhất,
ông gặp tại Văn pḥng Trung ương Đảng, tuy chỉ mang tính chất xă
giao, nhưng đă phát đi tín hiệu là: “ta muốn có một hội nghị với
lănh đạo Trung Quốc để đàm phán về b́nh thường hóa quan hệ Việt –
Trung và lập lại ḥa b́nh ở Campuchia”.
Lănh đạo Trung
Quốc sau đó đă nhanh chóng đồng ư. Họ đồng ư là điều dễ hiểu. Chế độ
diệt chủng do họ dựng nên và nuôi dưỡng bị thế giới lên án chỉ c̣n
một nhóm tàn quân có nguy cơ bị tiêu diệt, trong khi xung đột biên
giới Việt – Trung đă gây tổn thất nhiều sinh mạng cho quân đội nước
họ. Lănh đạo Trung Quốc bị mất ḷng dân và suy giảm uy tín trên thế
giới. Lúc này, họ đang ở thế bí và cũng muốn có ḥa b́nh, ổn định
như ta, việc tiếp tục phải chi tiền cho Khơme-Đỏ và thực hiện chính
sách đối đầu với Việt Nam không có lợi cho t́nh h́nh “chính trị –
kinh tế – xă hội” mà Trung Quốc đang phải xử lư, thậm chí có thể dẫn
tới sự sụp đổ chế độ nếu Trung Quốc ngày càng sa lầy.
– Lần thứ hai,
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc
pḥng để bàn về nội dung cụ thể chương tŕnh Hội nghị. Tại sao lại ở
Bộ Quốc pḥng mà không phải ở Bộ Ngoại giao theo như thông lệ (sự
kiện này liên quan chủ yếu đến các chuyên gia ngoại giao).
Nguyên nhân chính
là do phía Trung Quốc không có thiện cảm với Bộ trưởng Bộ ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch. Họ cho rằng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch có thái độ
chống Trung Quốc và chỉ có Lê Đức Anh là một trong số lănh đạo của
ta muốn b́nh thường hóa quan hệ với họ mà thôi.
– Và chẳng bao
lâu sau, lănh đạo Trung Quốc đă mời đích danh Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng sang dự Hội nghị
tại Thành Đô.
3. Kết quả Hội
nghị:
Gồm hai phần được
kư kết:
1/ Phần thứ nhất:
Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, b́nh thường hóa quan hệ
Việt – Trung.
2/ Phần thứ hai
gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là:
– Các bên ngừng
bắn, chấm dứt chiến tranh;
– Quân đội Việt
Nam rút hết về nước;
– Thành lập Hội
đồng ḥa giải dân tộc do Norodom Shihanouk làm chủ tịch;
– Tiến tới tổng
tuyển cử, thành lập chính quyền mới;
– Sau tổng tuyển
cử, các bên phải công nhận và tôn trọng quyền tự quyết của Chính
quyền Campuchia mới.
Theo đánh giá,
Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đ̣i hỏi bức thiết của t́nh thế
đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành ṣng phẳng, vị thế hai bên
ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi.
Tuy nhiên, bên có lợi lớn hơn cả là Việt Nam. V́:
– Nhờ chấm dứt
chiến tranh, b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc
biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của
nước ta.
– Phái Khơme Đỏ
dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ
vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia ḥa b́nh, biên giới
Tây Nam ổn định.
– Hội nghị là
tiền đề giúp ta thực hiện b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước
phương Tây, sau đó tiến tới xóa bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh
tế.
– Chấm dứt chiến
tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà c̣n tạo điều kiện
cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống c̣n 0,5 triệu, giảm chi phí quân
sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế
như ngày nay.
Vậy th́, có thể
gọi Hội nghị Thành Đô là một HIỆP ĐỊNH H̉A B̀NH kư kết cho cả ba dân
tộc Việt – Trung- Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém ǵ hai Hội
nghị: Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ
lập lại ḥa b́nh cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ
có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn
ra, th́ Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo ḥa b́nh lâu dài, bền
vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.
P/s: Thật nực
cười khi có những người vẫn tin rằng Hội nghị Thành Đô là để bàn về
việc “sáp nhập Việt Nam vào thành 01 tỉnh của Trung Quốc vào năm
2020”, có lẽ tư duy “nô lệ”, “lệ thuộc” của họ ăn quá sâu nên nh́n
cái ǵ cũng phải gắn đến vấn đề đó!
=======
Bs.Trần Thanh
Chương
LÊ ANH HÙNG
Nên hiểu ‘Mật ước Thành Đô’ như thế nào?
13/12/2017
Hội nghị Thành Đô
đă diễn ra trong bí mật.
Hội nghị Thành Đô
là một chủ đề gây rất nhiều tranh căi ở Việt Nam cũng như trong các
cộng đồng người Việt hải ngoại suốt nhiều năm qua.
Chỉ 4 ngày sau
khi được Đại sứ Trung Quốc thông báo, ba nhà lănh đạo Việt Nam là
TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng đă có
mặt tại Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) vào đúng ngày
Quốc khánh lần thứ 45, trong khi Đặng Tiểu B́nh thậm chí không thèm
xuất hiện như lời hứa hẹn lấp lửng ban đầu.
Bối cảnh
Cuối thập niên
1980, hệ thống xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu bắt đầu chao đảo trước khi
sụp đổ hàng loạt.
Về phần ḿnh, mặc
dù đă thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại hội VI nhưng Việt Nam
vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị -
kinh tế - xă hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975.
Lo sợ cho số phận
của ḿnh và tự huyễn hoặc “dù bành trướng thế nào th́ Trung Quốc vẫn
là một nước XHCN”, một số nhân vật chủ chốt trong ban lănh đạo CSVN,
đứng đầu là TBT Nguyễn Văn Linh, đă quay sang ôm chân các ông chủ
Trung Nam Hải, bất chấp thực tế là trước đó Bắc Kinh đă đánh chiếm
toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động cuộc chiến tranh biên giới từ
1979 - 1989, thảm sát 64 quân nhân Việt Nam rồi chiếm đảo Gạc Ma năm
1988.
Mật ước Thành Đô?
Từ nhiều năm
trước, trong dư luận đă lan truyền thông tin rằng kết quả Hội nghị
Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lănh đạo CSVN đề nghị và lănh
đạo Trung Quốc đồng ư để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của
Trung Quốc.
Đến tháng 5/2014,
một số trang mạng thậm chí c̣n đăng tải nội dung của bản “mật ước”
(được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xă công bố): “…Và Việt
Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc
chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đă dành cho Nội
Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
Phía Trung Quốc
đồng ư và đồng ư chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời
gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các
bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đ́nh các dân tộc
Trung Quốc.…”
Đâu là sự thật?
Trong cuốn hồi kư
“Hồi ức và Suy nghĩ” của ḿnh, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang
Cơ đă tiết lộ: “Sau 2 ngày nói chuyện (3 - 4/9/1990), kết quả được
ghi lại trong một văn bản gọi là ‘Biên bản tóm tắt’ gồm 8 điểm. Khi
nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói
về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai
nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn
việc giải quyết vấn đề Campuchia với b́nh thường hoá quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc.”
Nghĩa là, Hội
nghị Thành Đô kết thúc song việc b́nh thường hoá quan hệ hai nước,
điều mà ban lănh đạo Việt Nam nóng ḷng mong đợi, vẫn chưa chốt lại
được. V́ thế, giả thuyết về bản “mật ước” kia rơ ràng là thiếu cơ
sở.
Thậm chí ngay cả
“Biên bản tóm tắt” 8 điểm nói trên cũng không được phía Việt Nam
thực hiện đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phản đối của Bộ Ngoại
giao dưới quyền Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, với sự đồng t́nh của một
vài uỷ viên Bộ Chính trị khác, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ đă thuật
lại trong hồi kư. (Trong cuộc họp kiểm điểm về Hội nghị Thành Đô,
Phó Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă nói: “…Ḿnh bị nó lừa nhiều cái quá.
Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”)
Thiếu tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh (Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974-1987)
cho biết là mặc dù cùng 19 cựu sỹ quan cao cấp khác kư tên vào bản
kiến nghị yêu cầu minh bạch hóa Hội nghị Thành Đô song ông cũng
không tin vào thông tin phía Trung Quốc đưa ra.
Đại tá Nguyễn Văn
Tuyến (cán bộ tiền khởi nghĩa và là thành viên sáng lập CLB chống
tham nhũng, tiêu cực của các vị lăo thành cách mạng ở Hà Nội) cho
chúng tôi biết là trong một cuộc gặp với Thường trực Ban Bí thư Đinh
Thế Huynh, khi ông đề cập đến “Mật ước Thành Đô”, ông Huynh khẳng
định đích thân ông ta đă vào kho lưu trữ của đảng để t́m nhưng không
hề thấy bản “mật ước” đó. (Lănh đạo cộng sản nói th́ không hẳn là
đáng tin, song điều đó không có nghĩa là họ chưa bao giờ nói thật.
Và sự khẳng định của nhân vật số 5 trong ban lănh đạo Việt Nam phù
hợp với logic ở trên, cũng như với một tài liệu được cho là của Ban
Tuyên giáo Trung ương năm 2014 nhằm giải thích về Hội nghị Thành
Đô.)
Toan tính ǵ?
“Người Trung Quốc
làm ǵ cũng có tính toán.” Thông tin về “Mật ước Thành Đô” được Bắc
Kinh tung ra ngay giữa lúc họ đưa giàn khoan HD981 vào sâu trong
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 đến
15/7/2014. Rơ ràng, họ muốn qua đó để biện hộ cho hành vi xâm phạm
chủ quyền Việt Nam, gây chia rẽ trong ban lănh đạo CSVN, khiến người
Việt trong và ngoài nước bị phân hoá, và cuối cùng là làm suy yếu nỗ
lực của Hà Nội trong việc chống lại hành vi ngang ngược đó.
Mặc dù nội dung
cụ thể của “Mật ước Thành Đô” được Bắc Kinh “tiết lộ” vào thời điểm
họ đưa giàn khoan HD981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, nhằm mục đích như chúng tôi đă đă chỉ ra, song thông tin về sự
tồn tại của nó th́ đă xuất hiện từ lâu. Vậy động cơ của họ là ǵ?
Quả thực, không
khó để nhận ra toan tính của Bắc Kinh khi cho lan truyền thông tin
về “Mật ước Thành Đô”. Đây thực sự là một mũi tên trúng nhiều đích
theo đúng bản chất “thâm như Tàu” của họ: (i) khiến những người Việt
tâm huyết với công cuộc chống bành trướng Trung Quốc nản ḷng (do
nghĩ rằng mọi nỗ lực đều vô ích bởi cái văn kiện bán nước kia); (ii)
làm phân tâm những người chống hiểm hoạ Trung Quốc tại Việt Nam
(thay v́ lẽ ra cần tập trung vào việc vạch trần và ngăn chặn bàn tay
tội ác của “nhóm lợi ích Tàu” trong bộ máy hiện hành th́ họ lại
phung phí thời gian và công sức vào việc tranh căi hoặc lên án và
đ̣i bạch hoá một chuyện không có thật trong quá khứ); và (iii) khiến
cho người dân b́nh thường không tin tưởng vào truyền thông phi chính
thống (khi thấy trên mạng toàn loan truyền những thông tin nhảm
nhí).
Không chỉ nặn ra
cái gọi là “Mật ước Thành Đô”, Bắc Kinh thậm chí c̣n dựng lên cả một
câu chuyện kỳ bí qua tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo” của Hồ
Tuấn Hùng. Theo đó, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc -
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Sinh Cung (nguyên quán Kim Liên, Nam Đàn,
Nghệ An), mà là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. (Ngoài những mục đích
nêu trên, điều này c̣n giúp dọn đường dư luận để “con ngựa thành
Troy” Hoàng Trung Hải ngày càng “chui sâu, leo cao” và cuối cùng là
thâu tóm chiếc ghế Tổng Bí thư.)
Không c̣n nghi
ngờ ǵ, “Mật ước Thành Đô” là một câu chuyện bịa đặt nhằm phục vụ
mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải. Việc nhà cầm quyền CSVN không công
khai Thoả thuận Thành Đô là v́ đó không chỉ là một thất bại nhục nhă
trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, mà c̣n là bằng chứng không thể
chối căi về hành vi “cơng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”
của họ. Chỉ chừng ấy thôi họ đă bị lịch sử và nhân dân đời đời lên
án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt Nam thành một bộ phận
của “đại gia đ́nh các dân tộc Trung Quốc”.
Ngoài ra, ngay cả
khi “Mật ước Thành Đô” là sự thật đi nữa th́ nó cũng không có giá
trị pháp lư, bởi nó không tuân theo những tŕnh tự pháp lư thông
thường của một hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ
Mười hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp
ước vô cùng hệ trọng như thế. Trong khi đó, những người kư kết “mật
ước” đó hoặc đă chết, hoặc gần như không c̣n ảnh hưởng trên chính
trường, nên nó lại càng vô giá trị.
Trong một bài
viết trước đây, chúng tôi đă chỉ ra rằng, nếu các bản tuyên bố chung
Việt - Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng th́ Việt Nam đă
trở thành “một bộ phận không thể tranh căi của Trung Quốc” từ lâu,
chứ chẳng cần phải đợi đến khi “Mật ước Thành Đô” được thi hành.
Điều này không xẩy ra bởi thực tế là trong ban lănh đạo Việt Nam
luôn tồn tại những thành phần ư thức được hiểm hoạ phương bắc mà Bắc
Kinh chưa thao túng được (chẳng hạn như Nguyễn Cơ Thạch và Vơ Văn
Kiệt trong “Hồi ức và Suy nghĩ”), bên cạnh áp lực từ một công chúng
vốn ngày càng bộc trực và “dị ứng” với những ǵ liên quan đến Trung
Quốc.
Bất luận thế nào, việc đất nước chúng ta ngày càng bị các gọng ḱm của Đại Hán siết chặt như hiện nay không phải là v́ “Mật ước Thành Đô” kia, mà chính là v́ 90 triệu người Việt, đặc biệt là những tinh hoa của giống ṇi, đă làm chưa đủ để bảo vệ giang sơn gấm vóc mà tổ tông đă đổ bao máu xương để dựng xây, ǵn giữ.
'Đă đến lúc công
bố mật ước Thành Đô?'
17 tháng 10 2014
Hội nghị Thành Đô
được nhóm họp vào ngày 3-4/9/1990 tại Trung Quốc.
Việc công bố các
văn bản như mật ước Thành Đô giữa lănh đạo Việt Nam và lănh đạo
Trung Quốc gần một phần tư thế kỷ về trước là điều Việt Nam nên làm
hiện nay, theo một sử gia về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Tuy nhiên, sự
kiện cuộc gặp cấp cao đó đă diễn ra 'quá lâu' và nay giới nghiên cứu
'không c̣n quan tâm' nữa, theo một chuyên gia khác về lịch sử Đảng
từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Song nếu cần t́m
hiểu về hội nghị này, th́ những ai quan tâm nên tiếp cận với Văn
pḥng Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, vẫn theo chuyên gia
này.
Trong khi đó, Hội
nghị Thành đô là một sự kiện vẫn c̣n tác động tới đường lối và cán
bộ của bộ máy lănh đạo của Việt Nam ngày nay, điều được gọi là 'Hội
chứng Nguyễn Cơ Thạch', theo một cựu lănh đạo cấp Vụ ngành ngoại
giao Việt Nam.
Trước hết, trao
đổi với BBC hôm 17/10/2014, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nêu quan điểm về
mức độ quan tâm của giới nghiên cứu tới cuộc gặp cấp cao từng xảy ra
từ năm 1990 vốn đang được dư luận Việt Nam 'quan tâm' trở lại gần
đây:
Quan tâm là quan
tâm từ cái thời ấy thôi, chứ bây giờ giới nghiên cứu cũng không quan
tâm nhiều lắm, chủ yếu là bên chính trị thôi. Bởi v́ đấy là thuộc về
lĩnh vực quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, c̣n chúng tôi về lịch
sử không được am tường những vấn đề đó
PGS. TS Nguyễn
Trọng Phúc, Viện Lịch sử Đảng
"Quan tâm là quan
tâm từ cái thời ấy thôi, chứ bây giờ giới nghiên cứu cũng không quan
tâm nhiều lắm, chủ yếu là bên chính trị thôi," Phó Giáo sư Nguyễn
Trọng Phúc nói.
'Hỏi Văn pḥng TƯ
Đảng'
Khi được hỏi Hội
nghị được cho là có vai tṛ mở ra b́nh thường hóa quan hệ giữa Việt
- Trung sau nhiều năm xung đột, chiến tranh căng thẳng, tại sao lại
không được giới nghiên cứu quan tâm, giáo sư Phúc đáp:
"Bởi v́ đấy là
thuộc về lĩnh vực quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, c̣n chúng tôi
về lịch sử không được am tường những vấn đề đó.
"Cứ liên lạc với
chỗ Văn pḥng Trung ương Đảng th́ may ra người ta biết."
Hôm thứ Sáu, khi
được hỏi về việc có nên giải mật để công bố hay bạch hóa trước công
luận và tại Quốc hội các văn kiện liên quan 'mật nghị', hay 'mật ước
Thành Đô 1990 hay không, kể cả các văn bản, văn kiện chỉ đạo đường
lối, sách lược, chính sách liên quan 'chịu tác động' từ Hội nghị
này, một sử gia khác về lịch sử Đảng nói:
Bản quyền hình
ảnhXINHUA
Image caption
Các ông Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng dự Hội nghị Thành Đô.
"Tôi nghĩ rằng
văn bản nào chăng nữa th́ độ mật, độ bí mật ǵ đó, nếu có, th́ nó
chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định.
"Và nếu có những
văn bản như thế, th́ tôi nghĩ cũng nên hoàn toàn công khai. Hoàn
toàn nên công khai, chứ không có ǵ phải giữ bí mật quá lâu," Phó
Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói.
"Nhưng chỉ có
điều Việt Nam cầm văn bản đó, th́ Việt Nam công khai đến đâu, đến
cấp nào, đấy là một câu chuyện.
"Phía Trung Quốc
th́ nói thật là có những tài liệu đến nay đă hơn nửa thế kỷ rồi, bây
giờ người ta cũng chẳng công khai. Phía Trung Quốc th́ rơ ràng rất
khó lấy được tài liệu chính thức từ phía họ.
"C̣n phía Việt
Nam, các tài liệu đă công khai rất nhiều, nhưng tôi nghĩ không phải
là đă hết. Mà chắc chắn là vẫn c̣n những điều ǵ đó mà chưa công
khai, th́ văn bản đó tôi nghĩ, nếu có, th́ nên công khai.
"Để cho nhân dân,
để cho cán bộ, để cho tất cả mọi người có thể hiểu được thực sự,
thực hư lúc bấy giờ, trong bối cảnh như vậy, với tư cách là những cá
nhân, không phải với tư cách là một tập thể, đương nhiên những cá
nhân có trọng trách và trách nhiệm, th́ đă có những thỏa hiệp như
thế nào với phía Trung Quốc về câu chuyện này. Đấy tôi nghĩ là điều
nên làm."
'Thất thố ngoại
giao?'
Tôi nghĩ rằng văn
bản nào chăng nữa th́ độ mật, độ bí mật ǵ đó, nếu có, th́ nó chỉ có
giá trị trong thời hạn nhất định. Và nếu có những văn bản như thế,
th́ tôi nghĩ cũng nên hoàn toàn công khai. Hoàn toàn nên công khai,
chứ không có ǵ phải giữ bí mật quá lâu
PGS. TS. Vũ Quang
Hiển, ĐHQG Hà Nội
Hôm 15/10/2014,
một cựu cán bộ ngoại giao của Việt Nam, nguyên Tổng Lănh sự Việt Nam
tại Quảng Châu, Trung Quốc, nói với BBC một số nguyên tắc về ngoại
giao và thể thức (protocol) ngoại giao có thể đă bị Trung Quốc vượt
qua và đem lại lợi thế cho ḿnh trong cuộc mật đàm.
Ông Dương Danh Dy
nói: "Phê phán tại sao Hội nghị đó có những kết quả như thế này, như
thế kia, nói thế th́ nó đụng nhiều người."
"Tôi biết chuyện
này khá rơ nhưng chưa tiện nói bây giờ, bởi v́ Trung Quốc rơ ràng có
ư định trong chuyện đưa một số nhà lănh đạo Việt Nam vào bẫy, mắc
bẫy của họ.
"Chẳng hạn như
chuyện phía Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lăo
thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, th́ họ để ba ông ở ba biệt thự
khác nhau, thế th́ những ông đă già bảy mươi, tám mưới như ông Phạm
Văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn Văn Linh lúc đó th́ làm sao mà hội
ư được với nhau...?"
Cũng hôm thứ Tư,
một cựu quan chức khác ở Bộ Ngoại giao Việt Nam, người không muốn
tiết lộ danh tính, nói với BBC:
Image caption
Có ư kiến nói sự
'thôi chức vụ' của ông Nguyễn Cơ Thạch là điều kiện b́nh thường hóa
quan hệ Việt - Trung.
"Một số cán bộ
ngoại giao cấp cao có thể đă tiếp cận được văn bản và các tài liệu,
nhưng việc được phép phổ biến, công bố tới đâu, có những nguyên tắc
hạn chế."
Theo cựu nhân
viên ngoại giao này, phía Trung Quốc đă chuẩn bị rất kỹ các nội dung
đàm phán, kư kết, kể cả những điều được cho là 'phụ lục' nhưng lại
có vai tṛ như những nguyên tắc chỉ đạo cho b́nh thường hóa và cả
'hậu b́nh thường hóa' lẫn 'tái cấu trúc' quan hệ và chiến lược 'quan
hệ, hợp tác' giữa hai nước dài hạn, điều mà Việt Nam lâu nay vẫn gọi
là 'các thỏa thuận cấp cao' và 'sự kế tục'.
Trong đó cụ thể
có các nguyên tắc 'chỉ đạo' đàm phán không chỉ liên quan t́nh h́nh
chính trị và điều kiện tái lập quan hệ nhất thời mà c̣n các phương
châm 'chỉ đạo chiến lược và lâu dài' về giải quyết tranh chấp, xung
đột trong quá khứ và thực tế khi đó để lại và một số ràng buộc chính
trị dưới danh nghĩa 'quan hệ về ư thức hệ' liên Đảng v.v...
'Hội chứng Nguyễn
Cơ Thạch'
Hôm 17/10, một
cựu lănh đạo cấp Vụ phó ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC rằng
hậu quả của Hội nghị Thành Đô vẫn c̣n 'đang tác động' tới tâm lư của
lănh đạo, cán bộ và đường lối của Việt Nam hiện nay trong quan hệ
liên quan Trung Quốc.
Theo ư kiến này,
việc ông Nguyễn Cơ Thạch, khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao, bị Trung Quốc 'gây áp
lực' với Việt Nam và đặt điều kiện phải 'loại bỏ' để b́nh thường hóa
quan hệ, đă gây ra một 'nỗi sợ' với giới chức không chỉ trong ngạch
ngoại giao của Việt Nam, suốt từ đó đến nay, trong các quan hệ, công
việc của nhà nước liên quan Trung Quốc.
Hội chứng Nguyễn
Cơ Thạch là việc Trung Quốc đă khống chế toàn bộ lănh đạo Việt Nam
để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt
Nam
Ông Đặng Xương
Hùng, cựu Vụ phó Bộ Ngoại giao
"Hội chứng Nguyễn
Cơ Thạch là việc Trung Quốc đă khống chế toàn bộ lănh đạo Việt Nam
để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt
Nam," cựu Lănh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ, nguyên Vụ Phó Bộ Ngoại giao,
ông Đặng Xương Hùng nói.
"Trong đó không
chế về mặt đối ngoại, khống chế về mặt tổ chức nhân sự cũng như cơ
cấu nhà nước của Việt Nam, làm sao có lợi nhất đối với Trung Quốc."
Theo cựu quan
chức ngoại giao nay đang tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ, việc này tạo
thành một hội chứng đáng kể mà theo ông:
"Bất cứ nhân vật
nào lên đều không dám đụng tới Trung Quốc và không dám nói nhiều,
không dám đứng ra như dạng ông Nguyễn Cơ Thạch đă đứng ra công khai
chống lại việc b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc (đặt dưới các
điều kiện bất lợi cho Việt Nam) th́ sẽ bị 'xử lư'.
"Nhiều nhân vật
sau này, khi đụng chạm đến vấn đề Trung Quốc, khi đụng chạm giải
quyết vấn đề biên giới cũng như vấn đề biên giới, cũng như những vấn
đề về tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông cũng như thế, đều có
những dấu hiệu của hội chứng Nguyễn Cơ Thạch.
"Tức là rất sợ
những ư kiến cả nhân của ḿnh về vấn đề quan hệ với Trung Quốc...
rất sợ Trung Quốc sẽ xử lư qua việc khống chế lănh đạo cao nhất của
Việt Nam và làm ảnh hưởng đến chức vụ của ḿnh với những quyền lợi
và lợi ích của ḿnh trong cơ cấu nhà nước."
'Can thiệp nhân
sự?'
Bản quyền hình
ảnhXINHUA
Image caption
Cựu Tổng bí thư
Đỗ Mười, Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh đón ông Giang Trạch Dân.
Cũng hôm 17/10,
khi được hỏi có thể có một khả năng tác động sâu và cao như vậy từ
phía Trung Quốc vào nhân sự lănh đạo của Việt Nam hay không, thông
qua trường hợp được cho là đă xảy ra với cố Ngoại trưởng Việt Nam
Nguyễn Cơ Thạch, PGS Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội b́nh
luận thêm:
"Cách gây sức ép
của Trung Quốc trên tất cả các mặt, kể cả về mặt nhân sự nếu như
Trung Quốc có thủ đoạn như vậy, tôi nghĩ là hoàn toàn có thể có.
"Nhưng vấn đề đặt
ra là ví dụ nhân sự như ông Nguyễn Cơ Thạch mà Trung Quốc không
thích bởi v́ sao? Nguyễn Cơ Thạch có thể có quan niệm đối ngoại
khác, nó rộng mở hơn, nó thoáng hơn, mà người Trung Quốc không muốn
Việt Nam có một nhân vật như vậy ở trong giới lănh đạo cao cấp.
"Có thể họ gây
sức ép đ̣i hỏi không nên như vậy, không nên thế nọ, không nên thế
kia, cái điều đó người Trung Quốc có thể làm lắm, tôi cũng tin là
người Trung Quốc có thể làm các điều này.
Văn bản của Ban
Tuyên giáo... th́ nó có thật đấy. Họ đưa ra để giải thích vấn đề
Thành Đô, nhưng chúng tôi hoài nghi sự giải thích đấy ở chỗ không
biết là có đến nơi, đến chốn không, và chúng tôi đang muốn là Quốc
hội phải thành lập một Ủy ban nghiên cứu và bạch hóa vấn đề này
Ông Nguyễn Khắc
Mai, cựu Vụ trưởng Dân Vận TƯ Đảng
"Tức là về mặt
nào đấy có thể nói là họ muốn can thiệp vào vấn đề nhân sự của riêng
Việt Nam.
"Nhưng về phía
Việt Nam, ai là người thay ông Nguyễn Cơ Thạch, và người đó có làm
theo ư đồ của Trung Quốc hay không?
"Đấy lại là một
việc khác và người Trung Quốc không thể lănh đạo, không thể chỉ đạo
việc đó được," sử gia chuyên về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà
Nội nêu quan điểm.
Hôm 15/10, một
quan chức Vụ trưởng, thuộc Ban Dân vận Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam, nói đang có yêu cầu công khai ra Quốc hội Việt Nam về Hội nghị
Thành Đô, ngay cả trước khi có một tài liệu được cho là của Ban
tuyên huấn Trung ương của Đảng về Hội nghị được loan truyền trên
mạng Internet.
"Văn bản của Ban
Tuyên giáo... th́ nó có thật đấy. Họ đưa ra để giải thích vấn đề
Thành Đô.
"Nhưng chúng tôi
hoài nghi sự giải thích đấy ở chỗ không biết là có đến nơi, đến chốn
không.
"Và chúng tôi đang muốn là Quốc hội phải thành lập một Ủy ban nghiên cứu và bạch hóa vấn đề này," ông Nguyễn Khắc Mai nói với BBC từ Hà Nội.
Nhắc lại 'Món nợ Thành Đô'
14 tháng 10 2014
Các ông Lư Bằng
và Giang Trạch Dân đóng vai tṛ quan trọng tại Hội nghị Thành Đô
Hồi kư 'Hồi ức và
Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Quang Cơ
đă đề cấp đến những ǵ xảy ra sau Hội nghị Thành Đô 3-4 tháng
9/1990 giữa lănh đạo Việt Nam và Trung Quốc năm 1990, chủ đề hiện
được dư luận ở Việt Nam quan tâm trở lại:
Sau đây là hai
chương BBC Tiếng Việt xin trích dẫn từ các nguồn mở đă đăng trên
mạng Internet ở nước ngoài ở dạng tư liệu, mở đầu là chương 16 dưới
tiêu đề 'Món nợ Thành Đô':
“Từ tháng 9/90,
Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đ̣i ta thực
hiện thoả thuận đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận SNC có 13
thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ khơi sâu
thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện
thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ
trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của
Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xă giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh
người ta đưa tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lănh đạo
Đảng về chủ trương đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp
cấp cao Trung Quốc không có ông Nguyễn Cơ Thạch.
Sau Thành Đô,
trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam
th́ phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công kích
lănh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở
Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lư Bằng tiếp anh
Vơ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với
Đại sứ ta.
Trung Quốc một
mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết th́ quan hệ Trung
– Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm ḍ và tích cực tác động
đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng
sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991. Từ tháng 3/91, tại kỳ họp
Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lư Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt
đă tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề
Campuchia. Về vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ
con số 13, tạm gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức
“Sihanouk chủ tŕ các cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3
phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang
quan hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia, mời Hun Sen thăm Bắc Kinh
trong 3 ngày (22-24/7/91).
Chiều Chủ nhật
18/11/90 họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi P5 thoả
thuận về văn kiện khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề Campuchia
đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ Ngoại
giao, tôi tŕnh bày đề án về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện khung
của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính trị cho ư kiến. Khi tôi tŕnh
bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:
1. Vấn đề SNC là
vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng
chủ quyền của bạn;
2. Về văn kiện
khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không sau
này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lư Trường Sa… Ta thấy rơ Trung Quốc
và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác nhau.
Cuối cuộc họp,
Tổng bí thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ư với bạn được…
Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau th́ tôi không đồng ư. Sau hội nghị
Trung ương, Bộ Chính trị sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên quan đến
ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc nói về
Trung Quốc như thế nào?”
Image captionBộ
trưởng Nguyễn Cơ Thạch là nhân vật lớn của ngành ngoại giao Việt
Nam
Nguyễn Cơ Thạch
nói luôn: “Đồng ư đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.
Dự thảo Hiệp định
toàn bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đă được các thành
viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở Paris ngày
23/12/90. Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về Campuchia,
nhất là những vấn đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết định và
chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ư
để họ tránh được những thất bại không đáng có, nhưng ta không thể
làm thay. Như vậy ta vừa hết ḷng giúp bạn vừa không để Việt Nam một
lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để
vấn đề giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành
vấn đề lịch sử trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Theo yêu cầu của
bạn, ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê Công Phụng,
Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom Penh
làm việc với bạn với mục đích:
a. T́m hiểu suy
nghĩ và ư định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi bạn đă chấp
nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và chấp nhận
về cơ bản dự thảo Hiệp định 26/11 của P5 tại cuộc họp Paris
23/12/90;
b. Thuyết phục
bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền
Campuchia để chỉ thảo luận và giải quyết trong SNC;
c. Thoả thuận kế
hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi tiếp tôi, anh
Hun Sen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh nhất là muốn có
một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng, không để cho
Pol Pot quay trở lại… T́nh h́nh hiện nay rất tế nhị. T́nh h́nh phức
tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần
chấp nhau một giải pháp như vậy th́ nội bộ Campuchia đă hỗn loạn rồi
chứ chưa nói là kư kết. Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt.
Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến tŕnh giải pháp.
Như vậy, qua các
cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty và Thứ trưởng
Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hun Sen chiều 16/11, có
thể thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện
tại v́ nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu v́
trong nội bộ lănh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp c̣n
rất mạnh. Hun Sen cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị
Campuchia, trong cuộc họp Trung ương ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông
báo cho Trung ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”.
Tuy nhiên, tôi
lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động lănh đạo
Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được cho
ḿnh một đường lối rơ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước với
những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.
Bản quyền hình
ảnhAP
Các lănh đạo
Việt Nam, Vơ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
Trong lần gặp
Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép bạn
“cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh
vấn đề diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ
tịch”. Heng Somrin về nói lại với Bộ Chính trị Đảng Campuchia th́
tất cả đều băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt
nên nghe có thể sai sót. Thực ra, như Hun Sen nói với anh Ngô Điền,
khi nghe Heng Somrin nói lại những ư kiến của anh Linh, Bộ Chính trị
Campuchia rất lo v́ thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá. Ngày
13/3/91 Hun Sen nói với anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá
Khmer đỏ, nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ
có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con bài mặc cả trong đàm phán ngay từ
đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu
cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt Nam gây ra
cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không thể chấp
nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hun Sen làm phó,
không đ̣i chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.
Trong cách làm
này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là có lợi ích
đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi ích của
bạn không. Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu
nay giữa ta với Phnom Penh.
Đầu năm 1991, Bộ
Chính trị đă có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh (24-25/1/91)
để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi tŕnh bày chủ trương tách mặt quốc
tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ư kiến
của Hun Sen cho biết là Bộ Chính trị Campuchia quyết định không đi
vào giải pháp trong năm 1991. Bộ Chính trị quyết định cần thăm ḍ
khả năng họp Bộ Chính trị 3 nước để hướng Campuchia đi vào giải
pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ư chứ không quyết định, ta
không thể ép bạn, đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc
làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi
đă ngỏ ư với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương khoá tới. Anh
Thạch tỏ ư không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc bầu đại biểu
ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đă gửi thư cho anh Nguyễn Đức
Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự Đại
hội VII. Lúc này tinh thần tôi đă có phần mệt mỏi v́ những sự việc
trong thời gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi
nhận được giấy đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào
Đoàn đại biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII.Tháng 6/91, tôi có giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu
tỉnh Sơn La rồi tiếp tục tham gia Trung ương khoá VII.
T́nh h́nh bất
đồng ư kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay
gắt. Ngày 13/4/91, trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về t́nh h́nh thế
giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại
hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “T́nh h́nh thế giới và chiến
lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại
tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc pḥng, tŕnh bày về t́nh h́nh thế giới
và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát
biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản tŕnh bày sáng nay (của Bộ Ngoại
giao) và bản tŕnh bày t́nh h́nh quân sự chiều nay của Bộ Quốc pḥng
có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương th́ phải thảo luận
t́nh h́nh trước, nhưng cách đánh gia t́nh h́nh c̣n khác nhau.”
Cố vấn Phạm Văn
Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng
làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của ḿnh. Bộ
Chính trị đă giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm nhưng lại
chưa làm”.
Lê Đức Anh: “Bộ
Chính trị nên nghe t́nh h́nh nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta
cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh giá chung, mỗi ngành có đề
án riêng, không làm chung được.”
Nguyễn Cơ Thạch
đồng ư 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về t́nh h́nh, c̣n công
tác th́ mỗi ngành làm.
Trên tinh thần
đó, ngày 2/591, đă có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh và Quốc
pḥng để thống nhất nhận định t́nh h́nh thế giới. Dự họp về phía Bộ
Quốc pḥng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân, Bộ Nội vụ có:
Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. C̣n 3
phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị B́nh, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang
Tạo. Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự
nhất trí trong nhận định t́nh h́nh, chỉ nhất trí được mấy điểm lư
luận chung chung.
Bản quyền hình
ảnhAFP
Quan hệ Việt
Nam - Campuchia vốn phức tạp từ mấy chục năm qua
Chỉ c̣n một tháng
đến ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3 ngày (15,16 và
17/5/91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về t́nh h́nh thế giới và
việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng
tới”. Bộ Chính trị có mặt đông đủ. Theo dơi cuộc họp ở ghế dự thính.
Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm điểm
việc thực hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI th́ dự
thính thu hẹp lại chỉ c̣n có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm
và tôi. Từ đầu đến cuối, tôi đă nhận rơ sự đấu tranh giữa hai quan
điểm về mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện
đường lối đối ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung
Quốc.
Bản dự thảo báo
cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đă có một số việc làm không đúng với
các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự
thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết
13 của Bộ Chính trị (20/5/88)”, “giữa ta và bạn Campuchia đă bộc lộ
sự khác nhau khá rơ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu b́nh
tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô…; đă bỏ
lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười
sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi
Thái), đă làm nảy sinh tranh căi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng
sai trong chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn
đề chống diệt chủng và “giải pháp Đỏ”.
Anh Vơ Chí Công:
“Về Trung Quốc rất phức tạp… Bộ Chính trị đă đánh giá Trung Quốc có
hai mặt xă hội chủ nghĩa và bá quyền. Về xă hội chủ nghĩa cũng cần
thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn là chưa b́nh thường hoá quan hệ…
Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải quyết nổi. Ví
dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết ta không có ư đồ đó
song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạtta
ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, v́ như vậy th́ có nghĩa là
Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là
tranh thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, c̣n ǵ
là Trung Quốc nữa?
Tới cuối cuộc
họp, Nguyễn Đức Tâm c̣n nói:
“Chưa làm dự thảo
Nghị quyết ngay được v́ qua thảo luận thấy ư kiến Bộ Chính trị c̣n
khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại
hội đến nơi, sau Đại hội không c̣n Bộ Chính trị này nữa, tuy một số
đồng chí c̣n ở lại… Mặc dù vậy Nguyễn Thanh B́nh chủ tŕ cuộc họp
vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.”
'Lịch sử chưa
sang trang'
Chương 20 là
chương kêt thúc hồi kư, dưới tiêu đề “Kết thúc một chặng đường nhưng
lịch sử chưa sang trang”, ông Trần Quang Cơ viết:
“Sau 12 năm ṛng
ră, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đă kết thúc và đă trở
thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn c̣n có nhiều tính chất thời
sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.
Tiếp sau việc vấn
đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện b́nh thường hoá quan
hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5/11/91, Tổng
bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă có cuộc đi thăm chính
thức nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu sự b́nh thường hoá
quan hệ giữa hai nước.“Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc
tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau, không xâm phạm
lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Quan hệ
Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ
như những năm 50-60…”
Bản quyền hình
ảnhREUTERS
Image caption
Ông Trần Quang Cơ
đă nh́n thấy trước kế hoạch độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Tuy nhiên sau khi
b́nh thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên
nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn
đề liên quan đến lănh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2,
3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn
tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh
chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc kư kết
họp đồng thăm ḍ khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ
Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (băi
Tư Chính).
V́ sao Trung Quốc
tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? V́ Trung Quốc cho rằng t́nh
h́nh đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu
tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton,
thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho ḿnh một vị thế đỡ
bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ư đồ gấp rút
biến biển Nam Trung Hoa – mà ta gọi là Biển Đông – thành vùng biển
độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.
1. Trật tự thế
giới cũ không c̣n, trật tự thế giới mới chưa h́nh thành. Các đối thủ
chính của Trung Quốc ở châu Á – Thái B́nh Dương đều đang gặp khó
khăn, Liên Xô vừa tan ră. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách
thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á – Thái
B́nh Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị
đụng đến.
Trung Quốc nhẩn
nha trong các bước b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề
mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong, nhằm đạt
mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng
của Trung Quốc
2. Đông Nam Á mới
bắt đầu quá tŕnh nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước
đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi
đối với ư đồ bá quyền của Trung Quốc, đang c̣n có những trở ngại
(nghi ngờ nhau do khác ư thức hệ, va chạm lợi ích, ư đồ của Thái Lan
đối với Lào, Campuchia) đ̣i hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn
tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông
Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng
thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar,
Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3. Bản thân Việt
Nam c̣n đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh,
vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong t́nh h́nh mới sau
khi Liên Xô tan ră, quan hệ với Mỹ chưa b́nh thường hoá, Trung Quốc
muốn đi vào b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
V́ vậy Trung Quốc
nhẩn nha trong các bước b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa
tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong,
giành lợi thế cho ḿnh trên mọi lĩnh vực quan hệ.
Cả hai mặt đều
nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực
ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế
giới bên ngoài.
Nội dung cuốn
hồi kư (2005) thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao Trần
Quang Cơ đă được công bố lần đầu năm 2008 trên nhiều trang mạng ở
nước ngoài. BBC Tiếng Việt chưa có điều kiện phỏng vấn chính tác
giả về những nội dung này.
Hồi kư của ĐS Trương Đức Duy về Hội
nghị Thành Đô
09/11/2014 at 11:31#4354
HỒI KƯ CỦA TRƯƠNG ĐỨC DUY
(Trích, người dịch Quốc Thanh)
“….Vào 1 giờ chiều, chiếc chuyên cơ hạ cánh
đúng giờ xuống Sân bay Thành Đô. Khi đoàn đại biểu tới Nhà khách
Tỉnh ủy Tứ Xuyên, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] và Thủ tướng Lư
[Bằng] đứng trước cửa nhà khách đón khách. Sau khi chủ và khách đă
ngồi cả trong nhà khách, hai bên hỏi han lẫn nhau đồng thời tiến
hành trao đổi đơn giản.
Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] giải thích:
“Đồng chí Đặng Tiểu B́nh đi nghỉ ở xa, nên lần này không gặp các vị
được”. Cuộc gặp mặt đơn giản kết thúc xong th́ nghỉ ngơi một lúc,
đến 3 giờ chiều, hai bên bắt đầu tiến hành hội đàm chính thức ṿng
đầu. Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] bắt đầu bằng một phát biểu ngắn,
tiếp theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc lời mở đầu theo một bản đă
chuẩn bị sẵn. Sau đó, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] tŕnh bày một
cách có hệ thống về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và mối
quan hệ Trung-Việt.
Thủ tướng Lư [Bằng] phát biểu kĩ hơn về
giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Sau khi nghỉ 15 phút,
Nguyễn Văn Linh làm một bài phát biểu dài, nhấn mạnh trước đây Trung
Quốc đă dành sự ủng hộ và giúp đỡ hết sức to lớn cho cách mạng Việt
Nam và các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Đảng, chính phủ và
nhân dân Việt Nam măi măi không bao giờ quên; ông bày tỏ bây giờ
nguyện sẽ cùng với phía Trung Quốc nỗ lực giải quyết tốt vấn đề
Campuchia, sớm thực hiện b́nh thường hóa quan hệ hai nước, khôi phục
lại mối quan hệ truyền thống tốt đẹp Việt-Trung.
Chủ tịch Đỗ Mười cũng có bài phát biểu
tương ứng, bày tỏ phía Việt Nam nguyện cùng với phía Trung Quốc giải
quyết thật tốt vấn đề Campuchia, sẽ tiến hành nghiên cứu kĩ lưỡng
phương án giải pháp do phía chúng ta đề xuất. Hội đàm ṿng đầu chủ
yếu xoay quanh việc Việt Nam rút quân triệt để khỏi Campuchia và vấn
đề thành lập bộ máy quyền lực lâm thời – Hội đồng tối cao Campuchia
(tức phương án phân bổ quyền lực) sau khi rút quân.
Sau tiệc chiêu đăi tối, các ban làm việc
của hai bên đă tiến hành bàn bạc căng thẳng từng chi tiết trong
Phương án giải pháp cho vấn đề Campuchia, theo chỉ đạo cụ thể của
lănh đạo từng bên, nhằm chuẩn bị tốt cho cuộc hội đàm chính thức vào
ngày hôm sau, đồng thời bên phía ta đề nghị soạn thâu đêm luôn một
bản dự thảo văn kiện chung.
Sáng ngày hôm sau tổ chức hội đàm ṿng hai,
trọng điểm là vấn đề Campuchia. Qua nỗ lực suốt cả một đêm của các
ban làm việc hai bên, cả hai bên đă dần đi đến nhất trí đối với
Phương án giải pháp cho vấn đề Campuchia. Nhưng trong hội đàm ṿng
hai vẫn c̣n xuất hiện một điểm bất đồng, đó là việc lập ra Hội đồng
tối cao Campuchia gồm 13 đại biểu do phía ta đề xuất, phân bổ cụ thể
là: 6+2+2+2+1 (tức phái Hun Sen 6 người, phái Campuchia dân chủ 2
người, phái Sihanouk 2 người và phái Son Sann 2 người + đích danh
Sihanouk làm Chủ tịch).
Đỗ Mười bày tỏ tán thành để Sihanouk làm
Chủ tịch Hội đồng tối cao Campuchia, nhưng cho rằng nên gộp Sihanouk
vào trong danh mục phái Sihanouk, hai bên mỗi bên một nửa đă là
thiệt cho Phnom Penh rồi, nếu như bên phái đối lập lại c̣n nhiều hơn
1 người, th́ như vậy là không công bằng. Phía ta tŕnh bày theo lư
chủ trương và đ̣i hỏi rộng răi của cộng đồng quốc tế, chứng tỏ
phương án này là thích hợp nhất. Trong giờ nghỉ, Nguyễn Văn Linh đă
có cuộc hội ư lại với Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng.
Trong buổi tiệc, Nguyễn Văn Linh thay mặt
phía Việt Nam bày tỏ sự nhất trí toàn bộ với phương án do phía ta đề
xuất, đồng thời nói sau khi về nước sẽ làm việc ngay với Phnom Penh,
đồng thời cũng mong Trung Quốc thúc đẩy thực hiện việc ḥa giải thực
sự giữa Khơme Đỏ với Phnom Penh. Đến đây, vấn đề Campuchia đă được
bàn bạc ổn thỏa, trở ngại lớn nhất trong quan hệ Trung-Việt đă được
loại bỏ.
Tiếp đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ giữa
hai nước hai Đảng được bàn bạc trao đổi một cách khá thuận lợi,
không gợi lại quá nhiều nợ nần cũ. Sau khi hai vấn đề lớn trong cuộc
hội đàm lần này đă được trao đổi ổn thỏa, Tổng bí thư Giang Trạch
Dân bày tỏ, giữa hai nước chúng ta từ đây có thể “khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai”, đồng thời dùng hai câu thơ của Lỗ Tấn [2] “Độ
tận kiếp ba huynh đệ tại/ Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu”[3] làm
lời kết cho cuộc hội đàm nội bộ lần này.
Phía Việt Nam bày tỏ hết sức mĩ măn và phấn
khởi trước thành quả của cuộc hội đàm lần này. Cuối cùng, Tổng bí
thư Giang Trạch Dân đề nghị, hai bên cần kí vào một bản kỷ yếu về
thành quả của cuộc hội đàm lần này, Nguyễn Văn Linh vui vẻ đồng ư.
Chiều hôm đó, trước khi Đoàn đại biểu Việt Nam rời Thành Đô, Tổng bí
thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng và Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đă cùng nhau kí vào bản
“Kỷ yếu hội đàm Thành Đô” mang ư nghĩa lịch sử.
Sau khi đoàn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm
Văn Đồng nói lời tạm biệt với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng
Lư Bằng và các đồng chí Tằng Khánh Hồng, Tề Hoài Viễn, Chu Thiện
Khanh…, đă đáp lên chiếc chuyên cơ của phía ta rời Thành Đô bay tới
Nam Ninh, dừng ở Nam Ninh rồi đổi ngay sang chuyên cơ của phía Việt
Nam bay về Hà Nội. Tôi cũng ngẫu nhiên đi theo Đoàn đại biểu Việt
Nam quay về Hà Nội.
Trên đường về, không khí trong khoang máy
bay khác hẳn với lúc đến. Các vị lănh đạo trao đổi bàn bạc nhiều,
những người khác cũng nói cười vui vẻ. Chủ nhiệm Văn Pḥng Trung
ương Đảng Hồng Hà phấn khởi nói với tôi: “Cuộc gặp lần này rất thành
công, quá tốt!” Trưởng Ban đối ngoại Trung ương Hoàng Bích Sơn cũng
tràn đầy phấn khởi nói, về đến Hà Nội tôi sẽ mở tiệc mời đồng chí
Đại sứ thưởng thức toàn những món ăn có tiếng của Việt Nam.
Một lúc sau, Chủ tịch Đỗ Mười đi lại phía
tôi hỏi: “Nguyên văn hai câu thơ mà đồng chí Giang Trạch Dân trích
dẫn đọc thế nào ấy nhỉ?” Tôi dùng ngay âm đọc Hán Việt (chú thích:
Trong Nho học Việt Nam có một phép đọc cố định đối với chữ Hán) đọc
lại một lượt cho ông ấy nghe, ông ấy c̣n bắt tôi viết nguyên văn ra,
rồi nhờ tôi dịch ra tiếng Việt.
Đỗ Mười xem cả nguyên văn lẫn phần dịch ra
tiếng Việt hai lần rồi bảo: “Đồng chí Giang Trạch Dân dẫn hai câu
thơ này vào lúc kết thúc hội đàm là quá xác đáng!”. Về Hà Nội được
ít ngày, tôi lại đọc được một bài thơ do Nguyễn Văn Linh viết thể
hiện tâm trạng cảm khái cùa ḿnh sau thành công của cuộc “Hội đàm
Thành Đô”: “Huynh đệ chi giao sổ đại truyền/ Oán hận khuynh khắc hóa
vân yên/ Tái tương phùng thời tiếu nhan triển/ Thiên niên t́nh nghị
hựu trùng kiến” [4]
Nguồn:
中越高层成都会晤的前前后后
– Mạng Báo buổi sáng Liên hợp.
[1] Quảng Đông – Quảng Tây –ND
[2] Chỗ này tác giả nhầm. Đây là hai câu
thơ của nhà thơ đời Thanh Giang Vĩnh. – ND
[3] Tạm dịch: Trải qua cơn sóng gió/ t́nh
anh em vẫn c̣n/ Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù . – ND
[4] Tạm dịch: Anh em chơi với nhau đă mấy
thế hệ/ Oán hận trong khoảnh khắc đă biến thành mây khói/ Khi gặp
lại nhau cười rạng rỡ/ T́nh nghĩa ngàn năm xây dựng lại -ND.
Video tham khảo:
中越高层成都秘密会晤
一年后关系正常化
– Cuộc gặp mật cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô – Một năm sau, b́nh
thường hóa quan hệ.
Trương Đức Duy“
Nguồn: Facebook Dân Choa
Nhật kư Lư Bằng viết về Hội nghị Thành Đô
Tác giả: Lư Bằng
| Biên dịch : Nguyên Hải
[Năm
1986]
Ngày 26 tháng 12,
Thứ Sáu, trời âm u, có mưa
Tại Đại hội VI
Đảng Cộng Sản Việt Nam [ĐCSVN], Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí
thư Đảng, thay cho nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời hồi tháng 7.
[Năm
1989]
Ngày 26 tháng 8,
Thứ Bảy, trời âm u, có mưa
Hôm nay Việt Nam
tuyên bố đă “rút toàn bộ quân đội” từ Campuchia. Điều đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề Campuchia, cũng quét sạch
trở ngại cho việc b́nh thường hóa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
Bước ngoặt trong
mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam —Hội nghị Thành Đô
[Năm
1990]
Ngày 6
tháng 6, Thứ Tư, trời hửng.
Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh hội kiến Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc pḥng
Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện b́nh thường hóa quan hệ hai nước,
hai đảng và mong muốn sớm đi thăm Trung Quốc.
Ngày 26
tháng 8, Chủ Nhật, trời âm u có mưa.
Tôi nói với đồng
chí Giang Trạch Dân về việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
[ĐCSVN] Nguyễn Văn Linh và những người lănh đạo chủ yếu phía Việt
Nam đến thăm Trung Quốc với tính chất nội bộ, đồng chí Giang Trạch
Dân tỏ ư hoàn toàn tán thành.
Ngày 27
tháng 8, Thứ Hai, trời mưa.
Tôi đă báo cáo
đồng chí Đặng Tiểu B́nh về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ
hội kiến Nguyễn Văn Linh. Xét thấy Á Vận Hội sắp cử hành tại Bắc
Kinh, mà lần gặp gỡ này bàn đến việc b́nh thường hóa quan hệ hai
nước Trung-Việt, là chuyện trọng đại, để tiện giữ bí mật, địa điểm
hội đàm thu xếp tại Thành Đô.
Ngày 30
tháng 8, Thứ Năm, trời hửng.
Việc đồng chí
Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm với Tổng Bí thư ĐCSVN
Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, đă gửi lời mời
cho phía Việt Nam. Giờ đây hăy xem Việt Nam trả lời thế nào.
Ngày 2
tháng 9, Chủ Nhật, trời hửng.
Ba giờ rưỡi
chiều, tôi đáp chuyên cơ cất cánh từ sân bay Tây Giao Bắc Kinh,
khoảng 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi đi ô tô, sau 20 phút
đến Nhà khách Kim Ngưu, Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ. Đồng
chí Giang Trạch Dân đáp một chuyên cơ khác đến Thành Đô sau tôi nửa
giờ. Buổi tối từ 8 giờ rưỡi đến 11 giờ, tôi và đồng chí Giang Trạch
Dân trao đổi ư kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày
mai.
Ngày 3 tháng 9,
Thứ Hai, Thành Đô, trời hửng.
Buổi sáng, tôi
đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng chí tiếp tục nghiên cứu
phương châm hội đàm với phía Việt Nam chiều nay.
Buổi chiều khoảng
2 giờ, Tổng Bí thư Trung ương ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn TƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến Nhà
khách Kim Ngưu. Giang Trạch Dân và tôi đón họ tại nhà trệt số 1.
Nguyễn Văn Linh mặc âu phục màu cà phê, có phong thái học giả. Đỗ
Mười c̣n khỏe mạnh, tóc bạc phơ, mặc âu phục màu lam. Hai người này
đều ở độ tuổi 73-74, c̣n Phạm Văn Đồng hai mắt bị đục thủy tinh thể,
thị lực rất kém, mặc bộ đại cán màu lam, giống cán bộ lăo thành
Trung Quốc.
Buổi chiều, hội
đàm bắt đầu, trước tiên Nguyễn Văn Linh phát biểu một bài dài. Tuy
đă tỏ ư muốn giải quyết thật nhanh vấn đề Campuchia và nói thành lập
Hội đồng Tối cao Campuchia là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, không nên
loại bỏ bất cứ bên nào, nhưng lại tỏ ư không muốn can thiệp vào việc
nội bộ của Campuchia. Xem ra trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh
chỉ muốn tỏ thái độ về nguyên tắc, mà
đặt trọng điểm vào mặt b́nh thường hóa quan hệ Trung-Việt.
Hội đàm kéo dài
một mạch đến 8 giờ tối. 8 giờ rưỡi mới bắt đầu tiệc chiêu đăi tối.
Trên bàn ăn, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân từng người làm việc với
Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười.
Ngày 4
tháng 9, Thứ Ba, trời âm u.
Buổi sáng, chúng
tôi tiếp tục họp với các đồng chí lănh đạo Việt Nam. Đến giờ này,
nên nói là các vấn đề hội nghị nêu ra đă đạt được sự đồng thuận
tương đối trọn vẹn, quyết định dự thảo biên bản hội nghị.
Hai giờ rưỡi
chiều, hai bên Trung Quốc-Việt Nam làm lễ kư biên bản ở nhà trệt số
Một nhà khách Kim Ngưu, Tổng Bí thư và Thủ tướng mỗi bên đều kư. Đây
là bước ngoặt có tính lịch sử trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
Ngay tại lễ kư, đồng chí Giang Trạch Dân tặng các đồng chí Việt Nam
câu thơ “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân
cừu [Tạm dịch : Qua hoạn nạn, anh em c̣n đó. Gặp nhau cười, hết sạch
ơn thù] ”. Đây là câu thơ của Lỗ Tấn.[1] Các đồng chí Việt Nam tỏ ư
vui mừng với việc tặng thơ này.
4 giờ chiều,
chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, Khoảng 6 giờ 10 đến nơi.
Đảng Cộng
sản Việt Nam họp Đại hội VII
[Năm 1991]
Ngày 29
tháng 6, Thứ Bảy.
Đại hội VII ĐCSVN
bế mạc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn
Đồng là Cố vấn. Tinh thần cơ bản của Đại hội VII ĐCSVN là kiên tŕ
chủ nghĩa xă hội, cải cách kinh tế, chủ trương hữu nghị Việt
Nam-Liên Xô, Việt Nam-Trung Quốc. Tinh thần này có lợi cho việc cải
thiện quan hệ Trung-Việt.
Ngày 30
tháng 7, Thứ Ba, Bắc Kinh, trời hửng.
Buổi chiều tôi
hội kiến với Đại biểu đặc biệt Trung ương ĐCSVN Lê Đức Anh và Hồng
Hà. Họ yêu cầu tổ chức cuộc gặp cấp cao Trung-Việt. Tôi nói là để
cho nhân dân hai nước có chuẩn bị, để các nước khác trong ASEAN
không đến nỗi có lo ngại, Trung Quốc-Việt Nam trước tiên nên tiến
hành gặp gỡ cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Ngoại giao. C̣n nói về
gặp gỡ cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng trên nguyên tắc
không có vấn đề ǵ. Ngày mai Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sẽ chính
thức trả lời họ. Về việc b́nh thường hóa quan hệ kinh tế Trung-Việt,
có thể trên nguyên tắc b́nh đẳng cùng có lợi, các đơn vị đối tác của
hai bên sẽ bàn bạc giải quyết, Trung Quốc đều có thái độ tích cực
đối với các vấn đề nối lại thương mại, bưu chính, hàng không, quyết
toán ngân hàng, khôi phục giao thông trên bộ.
Thực hiện b́nh
thường hóa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam
Ngày 5
tháng 11, Thứ Ba, trời hửng.
5 giờ chiều, đồng
chí Giang Trạch Dân và tôi làm nghi thức đón Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ
Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt thăm Trung Quốc tại
quảng trường Đông Môn bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân. Tiếp đó chúng
tôi hội đàm. Trên vấn đề Đài Loan, Đỗ Mười có thái độ rơ ràng. Đồng
chí Giang Trạch Dân nói, sau khi mối quan hệ hai nước trải qua một
khúc quanh co, hôm nay người lănh đạo hai nước Trung-Việt có thể
ngồi với nhau làm cuộc gặp gỡ cấp cao, điều này có ư nghĩa quan
trọng. Đây là cuộc gặp kết thúc quá khứ, mở ra tương lai, đánh dấu
sự b́nh thường hóa mối quan hệ hai nước, nó ắt sẽ có ảnh hưởng sâu
xa đối với sự phát triển mối quan hệ giữa hai nước. Đỗ Mười nói,
việc b́nh thường hóa mối quan hệ Việt-Trung phù hợp nguyện vọng và
lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, cũng có lợi cho ḥa b́nh và
ổn định khu vực này và thế giới. Tiếp đó vào tiệc chiêu đăi.
Ngày 6
tháng 11, Thứ Tư, trời hửng.
Buổi chiều, tôi
hội đàm với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt, không khí hội
đàm rất tốt. Trước hết tôi nói, sáng nay Tổng Bí thư Giang Trạch Dân
và Tổng Bí thư Đỗ Mười đă tiến hành cuộc hội đàm rất tốt, hai bên đă
gắng sức trao đổi mọi ư kiến. Vơ Văn Kiệt có thái độ đúng trên vấn
đề Đài Loan. Trong hội đàm, tôi đă nêu ra các vấn đề nợ, biên giới,
nạn dân v.v… Hai bên đồng ư sau này sẽ bàn lại. Về việc Việt Nam đề
xuất vay tiền cho các dự án mới, tôi nhận lời trước hết sẽ khảo sát
các dự án của Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nói hiệp định giải
quyết chính trị toàn diện vấn đề Campuchia đă kư tại Paris, việc thi
hành hiệp định này c̣n cần tới sự tiếp tục cố gắng của các bên.
Ngày 7
tháng 11, Thứ Năm, trời hửng.
Buổi chiều, hiệp
định thương mại Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc giải quyết
công việc ở biên giới hai nước được kư tại Nhà khách quốc tế ở Điếu
Ngư Đài. Lănh đạo Đảng và Chính phủ hai nước dự lễ kư kết. Sau đó
tôi và đồng chí Giang Trạch Dân nói lời tạm biệt với Đỗ Mười và Vơ
Văn Kiệt. Họ sẽ đi thăm Quảng Châu, Thâm Quyến.
—————
Bài viết trích từ
nhật kư của cựu Thủ tướng Trung Quốc Lư Bằng. Nhật kư của Lư Bằng
được in thành sách dưới tên “Ḥa b́nh Phát triển Hợp tác — Lư Bằng
ngoại sự nhật kư”, Tân Hoa xuất bản xă.
Nguồn:
李鹏日记披露1990年代中越关系正常化始末
2012年05月03日
人民网
李鹏
Đọc thêm:
Hồi kư Trần Quang
Cơ
Hồi kư của ĐS
Trương Đức Duy về Hội nghị Thành Đô
Nội t́nh cuộc gặp
lănh đạo Trung – Việt
tại Thành Đô
————————
[1] Giang Trạch
Dân nói câu thơ này là của Giang Vĩnh (1681-1762), nhà thơ đời
Thanh. Giang Trạch Dân quê ở Giang Loan, Vụ Nguyên (nay thuộc Giang
Tây), mà Giang Vĩnh là danh nhân lịch sử vùng này, chắc hẳn ông biết
rơ về Giang Vĩnh. Như vậy có thể Lỗ Tấn đă mượn câu thơ ấy của Giang
Vĩnh đưa vào bài thơ “Đề Tam Nghĩa Tháp ” Lỗ Tấn làm năm 1933. Ông
Cổ Tiểu Tùng Phó Viện trưởng Viện Khoa học xă hội Quảng Tây cũng nói
như Giang Trạch Dân (ND).
Hội nghị Thành Đô và t́nh thế ngoại
giao Việt Nam
Nguồn: Elliott,
David W.P., 2012, Changing Worlds: Vietnam’s Transition from Cold
War to Globalization (pp. 112-116). Oxford University Press.
Biên dịch: Nguyễn
Huy Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Mùa hè năm 1990,
những biến chuyển bắt nguồn từ những sự kiện trong năm trước đó đă
bắt đầu làm thay đổi các động lực của ngoại giao quốc tế. Hồi kư của
Trần Quang Cơ về giai đoạn rất quan trọng trong quá tŕnh b́nh
thường hóa quan hệ Việt-Trung đă minh họa đầy đủ sự chuyển dịch này.
Trong khi Bộ Chính trị (Việt Nam) vẫn tiếp tục tranh luận xem nên cố
gắng đạt được thỏa thuận với Trung Quốc dựa trên ư thức hệ chung
(tức “giải pháp đỏ” [cho vấn đề Campuchia]) hay là nên tham gia vào
giải pháp ngoại giao với kết quả khó dự đoán hơn thông qua Liên Hợp
Quốc, tức là sẽ bao gồm cả Hoa Kỳ và ASEAN, ông Cơ đă xin ư kiến ông
Phạm Văn Đồng, lúc đó là “cố vấn” Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông
Đồng nói với ông Cơ đầu tháng 8 năm 1990, “Phải dám chơi với Liên
Hợp Quốc, với Hội đồng Bảo an, với Mỹ và phương Tây. Cần tranh thủ
nhân tố Mỹ trong t́nh h́nh mới… Đề án về lư thuyết th́ tốt nhưng làm
sao thực hiện được… Không nên đặt yêu cầu quá cao ‘giữ vững thành
quả cách mạng (Campuchia)’… Đi vào tổng tuyển cử bạn giành 50% là lư
tưởng.”
Không lâu sau
cuộc tṛ chuyện này, Trung Quốc bất ngờ gửi lời mời khẩn tới Thủ
tướng Đỗ Mười (không lâu sau thay thế Nguyễn Văn Linh làm TBT) và
Phạm Văn Đồng tới gặp tại Thành Đô xa xôi (phía Trung Quốc nói cần
họp ở đó để dễ giữ bí mật) để tham gia vào một nỗ lực giải quyết vấn
đề Campuchia và đạt được bước đột phá trong việc b́nh thường hóa
quan hệ Trung – Việt. Điều này là rất bất ngờ do đến thời điểm đó
Trung Quốc vẫn kiên quyết khẳng định rằng vấn đề Campuchia phải được
giải quyết theo ư Trung Quốc trước khi có thể đàm phán b́nh thường
hóa quan hệ.
Phân tích của
Trần Quang Cơ là Trung Quốc giờ phải thay đổi lập trường do ưu tiên
hàng đầu của họ là phát triển kinh tế đă bị cản trở bởi các biện
pháp trừng phạt sau vụ Thiên An Môn.
Ngoại giao được
tăng tốc bởi các bên khác (bao gồm Mỹ, Nhật, và ASEAN) và việc mất
đi yếu tố chính giúp đoàn kết lập trường của Trung Quốc với ASEAN
(việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia), cùng với mối lo ngại ngày
càng tăng của ASEAN về ư đồ của Trung Quốc trong khu vực, đang làm
đe dọa đến khả năng kiểm soát kết quả giải quyết vấn đề Campuchia
của Trung Quốc – từ đó dẫn tới việc Bắc Kinh có động lực muốn nhanh
chóng đạt được thỏa thuận với Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh
và Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái đoàn Việt Nam tới Thành Đô vào đầu
tháng 9 năm 1990, đáng chú ư là không có Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Cơ Thạch, vốn được Bắc Kinh xem là người cương quyết chống Trung
Quốc. Trong các cuộc họp của Bộ Chính trị ông Thạch đă lên tiếng
phản đối cả “giải pháp đỏ” ở Campuchia và việc đánh cược mọi con bài
ngoại giao của Hà Nội dựa trên lợi ích chung giữa Việt Nam và Trung
Quốc trong việc chung sức “bảo vệ chủ nghĩa xă hội,” như Nguyễn Văn
Linh và một số lănh đạo Bộ Chính trị khác ủng hộ.
Lập trường của
ông Thạch đă suy yếu do không thể chứng minh bất kỳ kết quả nào thu
được từ “lá bài Mỹ.” Cuối cùng, giới lănh đạo Đảng đă quyết định gạt
bỏ ông Thạch vốn gay gắt chống Trung để xoa dịu Bắc Kinh.
Bất chấp những
chỉ dấu mơ hồ từ phía Trung Quốc rằng Đặng Tiểu B́nh sẽ tham dự hội
nghị Thành Đô (để thuyết phục Phạm Văn Đồng tới dự và tranh thủ thâm
niên và uy tín của ông vào dịp này), Đặng đă không xuất hiện, và
Giang Trạch Dân cùng Lư Bằng là người đại diện cho Trung Quốc. Sau
này Vơ Văn Kiệt cho rằng đây là một sự xúc phạm cố ư đối với Việt
Nam, và phái đoàn Việt Nam đă “sập bẫy” bằng cách gửi đến một nhà
lănh đạo cấp cao mà Trung Quốc không đáp lại tương xứng.
Phái đoàn Việt
Nam nhanh chóng phát hiện ra phía Trung Quốc không hề quan tâm đến
“giải pháp đỏ” hay bất kỳ h́nh thức liên minh ư thức hệ nào với Việt
Nam. “T́nh h́nh quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay
nhau là sách lược không có lợi cho chúng ta,” phía Trung Quốc nói.
Dù miễn cưỡng viện dẫn sự đoàn kết ư thức hệ trong việc nuôi dưỡng
mối quan hệ liên đảng giữa các phe phái cộng sản đối lập tại
Campuchia, nhưng Trung Quốc vẫn qua mặt Bộ Ngoại giao có xu hướng
chống Trung Quốc của Việt Nam để làm việc trực tiếp với Ban Đối
ngoại Trung ương ĐCSVN. Với việc Trung Quốc nhấn mạnh việc duy tŕ
quan hệ với Việt Nam chủ yếu là trên cơ sở phi ư thức hệ giữa hai
nhà nước, lẽ ra hoạt động ngoại giao giữa hai nước nên được thực
hiện thông qua các kênh liên lạc của chính phủ thay v́ các kênh
đảng. Điều này cho thấy Trung Quốc chỉ viện đến sự đoàn kết giữa hai
đảng khi nào t́nh h́nh phù hợp với lợi ích riêng, và tiếp tục khước
từ lời kêu gọi của Việt Nam là thay thế Liên Xô làm “thành tŕ xă
hội chủ nghĩa” trong một thế giới đang thay đổi.
Gọi hội nghị
Thành Đô là một thất bại ngoại giao đối với Việt Nam, Trần Quang Cơ
cho rằng lư do chính là Việt Nam đă tự huyễn hoặc ḿnh bằng cách bám
vào niềm tin rằng Trung Quốc có quan tâm đến một liên minh ư thức hệ
để chống lại âm mưu “diễn biến ḥa b́nh” của các nước đế quốc nhằm
lật đổ các nước cộng sản c̣n lại. Sự sụp đổ của những nỗ lực thất
bại nhằm đạt được một “giải pháp đỏ” là bước quan trọng cuối cùng
dẫn tới vai tṛ ngày một phai nhạt của bóng ma “diễn biến ḥa b́nh”
vốn được các phần tử bảo thủ của Việt Nam lấy làm cái cớ để phản đối
các lực lượng theo xu hướng hội nhập của một hệ thống hậu Chiến
tranh Lạnh đang toàn cầu hóa.
Như xát muối vào
vết thương, Trung Quốc hân hoan tiết lộ nội dung hội nghị cho Hun
Sen và một loạt các bên khác rằng các nhà lănh đạo Việt Nam đồng ư
chấp nhận cho các thế lực chống Hun Sen chiếm ưu thế trong chính phủ
liên minh – trên thực tế là bán đứng phe được Việt Nam bảo trợ vốn
đang là thế lực thống trị ở Campuchia trong thời gian đó. Một trong
những mục tiêu của việc tiết lộ cuộc đàm phán được cho là bí mật này
là nhằm xây dựng một h́nh ảnh Việt Nam tráo trở và không đáng tin
cậy với đồng minh, đồng thời gây chia rẽ trong giới lănh đạo Việt
Nam. Trong vấn đề này Trung Quốc đă thành công: trong một cuộc họp
Bộ Chính trị giữa tháng 5 năm 1991, Phạm Văn Đồng bày tỏ ân hận v́
bị đẩy vào ủng hộ một chính sách không khôn ngoan. Thủ tướng Đỗ Mười
cũng lấy làm tiếc về kết quả, với lư do nó sẽ khiến Việt Nam trở
thành người bạn không đáng tin cậy trong con mắt các đối tác. Nguyễn
Cơ Thạch cũng nói với TBT Linh rằng ông đă mắc một sai lầm nghiêm
trọng.
Vào ngày Quốc
khánh mùng 2 tháng 9 năm 1990, một ngày trước khi diễn ra hội nghị
bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Thành Đô, bài phát biểu của
Thủ tướng Đỗ Mười nhân dịp này đă ghi nhận lời kêu gọi của Lư Bằng
rằng “hai nước láng giềng” (không phải “hai bên đồng chí”) cần khôi
phục quan hệ b́nh thường và t́m một giải pháp chính trị cho vấn đề
Campuchia. Ông Mười nhắc lại sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Quốc cho
Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh vũ trang, và nói rằng “Trong công
cuộc đổi mới của đất nước ngày nay, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế có
ư nghĩa rất quan trọng.”
Một ư nghĩa của
điều này là Việt Nam có dấu hiệu đang chuyển từ những bước đi địa
chính trị trên bàn cờ toàn cầu sang phát triển kinh tế – trong quá
tŕnh đó việc b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ có lợi,
nhưng không sống c̣n như trong lĩnh vực chiến lược. Trước đó trong
bài phát biểu của ḿnh, Đỗ Mười nói, “T́nh h́nh quốc tế đang diễn
biến hết sức phức tạp. Khủng hoảng ở các nước xă hội chủ nghĩa Đông
Âu rất nghiêm trọng, không phải là không có tác động đáng kể đến
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta. Các thế lực thù địch
đang tiến hành nhiều hoạt động chống phá sự nghiệp phát triển và bảo
vệ Tổ quốc của nhân dân ta.”
Như một chỉ dấu
nữa cho thấy quan điểm của giới lănh đạo Việt Nam về bản chất của
quan hệ quốc tế đang thay đổi, Đỗ Mười vạch ra những đường nét rộng
lớn của hiện tượng sau này được gọi là “toàn cầu hóa.” “Cuộc cách
mạng khoa học công nghệ và xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới
đang cho người dân thế giới nhiều cơ hội lớn để phát triển.” Thừa
nhận rằng “đă có nhiều sai lầm” trong chính sách kinh tế “trong
nhiều năm,” ông Mười nói rằng “Hiện nay chúng ta phải đối mặt với
thực tế là mức sống và tŕnh độ phát triển của nhân dân ta đang quá
thấp. Đây là t́nh h́nh bức bách và thách thức lớn đối với nhân dân
ta.”
Động lực cho sự
nhượng bộ ở Thành Đô nhằm b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc vừa
là chính sách thực dụng (bù đắp cho sự thiếu hụt hỗ trợ từ Liên Xô
và thừa nhận thực tế là vị thế chiến lược của Trung Quốc đă cải
thiện) vừa mang tính ư thức hệ (duy tŕ và tăng cường số lượng giảm
sút của các nước cộng sản ṇng cốt). Bài phát biểu tháng 9 năm 1990
của Đỗ Mười, một bản chi tiết hơn của bài phát biểu tháng 12 năm
1989, cũng cho thấy Việt Nam đă cố gắng suy tính những tác động của
quan hệ quốc tế trong kỷ nguyên mới, trong đó cả chính sách (địa
chính trị) thực dụng và các yếu tố ư thức hệ đều không mang tính
quyết định trong việc giải quyết vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam,
đó là sự lạc hậu về kinh tế. Ở thời điểm đó, giải thoát khỏi gánh
nặng Campuchia và t́m cách thỏa hiệp với Trung Quốc để Việt Nam có
thể tập trung phát triển là điều cần thiết.
Mặc dù phái đoàn
Việt Nam ở Thành Đô đă đưa ra sự nhượng bộ lớn là chấp thuận đề xuất
của Trung Quốc vốn có thể làm nghiêng cán cân sang hướng có lợi cho
các đối thủ của Hun Sen, nhưng Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc
pḥng Lê Đức Anh đă bay tới Phnom Penh và cố gắng thuyết phục Hun
Sen đồng ư hợp tác với các lực lượng Pol Pot, do bức tranh toàn cảnh
là các nước đế quốc đang cố gắng tiêu diệt chủ nghĩa xă hội, và
Campuchia có thể tự cứu ḿnh bằng cách đạt được ḥa giải giữa phe
cộng sản của Hun Sen và phe Khmer Đỏ. Nguyễn Văn Linh nói với lănh
đạo Campuchia, “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu
thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu
thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay
chặt chẽ với đế quốc.” Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm:
“Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở
Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rơ ràng nó
là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải t́m đồng minh. Đồng minh
này là Trung Quốc.” “Giải pháp đỏ” vẫn c̣n trong tâm trí hai nhà
lănh đạo đảng và quân đội này của Việt Nam, nhưng khi không có sự
ủng hộ của Trung Quốc, giải pháp này đành chịu thất bại.
“Giải pháp đỏ”
cũng làm đồng minh Campuchia của Việt Nam trở nên xa lánh. Đại sứ
Việt Nam thông báo rằng sau cuộc họp này thái độ của Hun Sen đối với
Việt Nam đă thay đổi – điều này cuối cùng dẫn đến cảnh Đại sứ Ngô
Điền “đơn độc” buộc phải chứng kiến sự tan ră của Đảng Cộng sản
Campuchia. Kết cục là Việt Nam không c̣n nước cộng sản nào bảo trợ
cho ḿnh, và cũng không c̣n nước cộng sản nào để ḿnh bảo trợ nữa.
Trần Quang Cơ có lẽ đă không đơn độc khi kết luận rằng hội nghị
Thành Đô là “vết nhơ về ngoại giao của Việt Nam.” Việt Nam đă không
chỉ bộc lộ mong muốn theo đuổi một chính sách lạc hậu dựa trên sự
đoàn kết ư thức hệ với Trung Quốc, mà sự tiết lộ ranh mănh của Trung
Quốc về thất bại của Việt Nam trong việc đạt được một “giải pháp đỏ”
và sự phản bội người đồng minh của ḿnh đă làm suy yếu nỗ lực đa
dạng hóa chính sách và mở rộng không gian đối ngoại của Việt Nam.
Lập trường của Trung Quốc đă biến việc đa dạng hóa chính sách đối
ngoại trở thành con đường ngoại giao khả thi duy nhất thay thế cho
sự phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc.
Ngay cả cuốn hồi
kư thẳng thắn của Trần Quang Cơ về hội nghị Thành Đô giữa các nhà
lănh đạo Việt Nam và Trung Quốc cũng không đề cập đến một đề xuất đi
xa hơn vấn đề Campuchia của Trung Quốc. Một tờ báo Anh dẫn nguồn
t́nh báo phương Tây cho rằng Trung Quốc đă đề nghị cung cấp cho Việt
Nam các loại hàng hóa cơ bản mà nay Liên Xô không c̣n có thể cung
cấp, và trả lại một phần đáng kể quần đảo Trường Sa (khu vực có trữ
lượng dầu lửa tiềm năng). “Để đổi lại, Trung Quốc đề nghị Hà Nội
‘điều phối’ – nói cách khác là điều chỉnh theo hướng lệ thuộc –
chính sách đối ngoại của Việt Nam theo chính sách của Bắc Kinh. “Hà
Nội đă tiến rất gần [đến việc chấp nhận],” theo một nguồn t́nh báo ở
Bangkok. “Và đó là điều thực sự làm tôi ngạc nhiên, chứ không phải
là lời từ chối cuối cùng của họ. Củ cà rốt giơ ra trước mặt Hà Nội
là rất lớn, và họ đă phải suy đi nghĩ lại trước khi khước từ toàn
bộ. Nó cho thấy Việt Nam đă tuyệt vọng đến mức nào.” Trên thực tế,
vị thế chiến lược xấu đi của Việt Nam đă nhanh chóng buộc nước này
phải miễn cưỡng chấp nhận vai tṛ cửa dưới mà Trung Quốc đề nghị –
ngay cả khi không c̣n những củ cà rốt.
David W. P. Elliott là giáo sư ngành quản trị và quan hệ quốc tế tại Pomona College. Tựa đề bài viết do Nghiencuuquocte.net tự đặt.
Nội t́nh cuộc gặp lănh đạo Trung –
Việt tại Thành Đô
Tác giả: Lư Gia
Trung[1] | Biên dịch: Nguyên Hải
Tháng 11 năm
1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Việt Nam Vơ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lănh
đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện b́nh thường hóa
mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối
quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được
mục tiêu ấy, cả hai bên đều đă có những cố gắng lớn, trong đó cuộc
gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lănh đạo hai nước có ư nghĩa
lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ
Trung-Việt, không những san bằng con đường b́nh thường hóa mối quan
hệ này mà c̣n có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát
triển mối quan hệ hai nước.
Thay đổi chính
quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai
Năm 1975 sau khi
cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lănh
đạo Việt Nam hồi đó đă không kịp thời hàn gắn các vết thương do
chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối
nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự
ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên
cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của
đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc,
một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang
Campuchia. Những việc làm của họ đă đưa nền kinh tế Việt Nam tiến
gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.
Tháng 7-1986,
Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI
ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ
Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành
viên ban lănh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí
mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung
Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao,
cho rằng ông là người lănh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam.
Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không
tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lănh đạo
đương thời, v́ thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng
Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm
sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải
“làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai
nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện
quan hệ với Trung Quốc.
Thế nhưng Bộ
Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền
nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ –
vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, t́m đủ mọi cách can
nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người
lănh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc
trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ư tưởng của ông cũng
chưa được nhiều người lănh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong t́nh h́nh
đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một
vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết.
Cay-xỏn
Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu B́nh thổ lộ
điều bí mật
Tháng 10-1989,
Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng pḥng
Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón.
Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt th́ Thủ tướng Lư Bằng
sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc
chiêu đăi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha
thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu B́nh có thể hội kiến Cay-xỏn
Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ư Đặng Tiểu B́nh tuổi đă cao, không
thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn
Phôm-vi-hản vẫn kiên tŕ yêu cầu gặp Đặng Tiểu B́nh, tôi nhớ là họ
trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong t́nh h́nh đó, qua nhiều lần
nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu B́nh gặp
ngắn gọn có tính nghi lễ. V́ vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị
đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi tṛ chuyện.
Không ngờ hai vị
lănh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề
có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn
thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào
trạng thái không b́nh thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”,
chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn b́nh
thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản c̣n
chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh
tới Đặng Tiểu B́nh, nói Việt Nam đă có nhận thức mới đối với t́nh
h́nh Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, c̣n
nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung
Quốc.
Đặng Tiểu B́nh
cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh
và nói:
Tôi quen đồng chí
Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất
có lư trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải
quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đă già, sắp nghỉ hưu,
tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu,
vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc –
Việt Nam khôi phục b́nh
thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ
được dẹp bỏ.
Đặng Tiểu B́nh
đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi
Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ư kiến đó tới
Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu B́nh c̣n nói một câu ư vị sâu
sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc
ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như
buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu
nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đă mất niềm tin với
Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện
b́nh thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và
dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.
Nguyễn Văn Linh
tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ư hữu hảo
Cay-xỏn
Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông
đă kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của
Đặng Tiểu B́nh. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có
hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông
hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải
quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào
th́ phải bàn với Trung Quốc. Ông c̣n ư thức được rằng Đặng Tiểu B́nh
tuy đă gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời ḿnh thăm Trung
Quốc. Trong t́nh h́nh đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc
là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.
Ngày 5-6-1990,
qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đă hội kiến
Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương
ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi
thăm của ông tới các đồng chí lănh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh,
Giang Trạch Dân, Lư Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt
Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đă gặp
Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu B́nh v.v…
Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu B́nh là người
cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học tṛ của họ.
Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ
địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ
tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời
kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đă viện trợ to lớn cho
Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do
Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về
chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân
dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận
dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của
Trung Quốc th́ Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.
Nguyễn Văn Linh
nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất,
Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đă
xuất hiện t́nh h́nh khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm
nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng
khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn.
Ông nói rằng Việt Nam đă làm một số việc không tốt với Trung Quốc.
Ông luôn chủ trương làm sai th́ phải sửa. Mong các đồng chí Trung
Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đă qua rồi
th́ để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối
quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này.
Nguyễn Văn Linh
nói t́nh h́nh quốc tế đang thay đổi mạnh, t́nh thế ở Đông Âu diễn
biến rất phức tạp, t́nh thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế
quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến ḥa b́nh, mơ tưởng một
lần tiêu diệt chủ nghĩa xă hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là
thành tŕ của ḥa b́nh thế giới, nhưng hiện nay thành tŕ này đang
lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng
lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong t́nh h́nh hiện nay,
Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần
Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng
giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần
có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc.
Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực ḷng của ông.
Nguyễn Văn Linh
nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách ḥa
b́nh, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng
không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy
hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong
thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary ḥa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối
ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay.
Ư tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.
Nguyễn Văn Linh
tỏ ư ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lănh đạo Trung Quốc cao nhất
để trao đổi ư kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể
không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho
thấy người lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau
th́ dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có
thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh c̣n
nói, ông đă nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng
với người lănh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề
Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.
Khi hội kiến, Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói
chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của
Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội
kiến rất có thể có dụng ư là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc
Tổng Bí thư nói ǵ, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] c̣n có chút hy
vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ
nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh
chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.
Sau khi kết thúc
cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi
tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong
nước có chỉ thị ǵ. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời
rằng hăy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và
giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau
khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống
đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà
lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh đó, làm cách nào để phá vỡ thế
bí, thực hiện cuộc gặp với lănh đạo Trung Quốc là vấn đề đ̣i hỏi
Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung.
Một nhân vật bí
ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư
Sáng ngày
16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xă hội Việt Nam đến
trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón
của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đă tiếp ông này
tại pḥng khách Sứ quán. V́ Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai
người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón
ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ
muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản,
nói là không cần thiết. V́ vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới
Đại sứ Trương.
Nói đoạn, Hoàng
lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải
thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đă được
Tổng Bí thư soát lại không có ǵ sai. Trong đó có đoạn nói :
“Tháng 10 năm
ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí
Đặng Tiểu B́nh và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những
năm c̣n sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam b́nh thường
hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong
muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ tŕ Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi
phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt
đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này
tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng
viên ĐCSVN dành cho tôi.”
“Sở dĩ vấn đề
Campuchia – trở ngại ấy căi nhau măi chưa thể giải quyết là do
Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng
hiện nay người lănh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi
sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ
Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính
của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi
phục t́nh hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành
gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải
quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy th́ đề
nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.”
“Để việc thảo
luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể
thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính
trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng
tôi đi Trung Quốc.”
“Điểm xuất phát
tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe
ư kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu B́nh, Lư Bằng,
cũng là để các đồng chí lănh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu
rơ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn t́m ra phương án giải
quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước
mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.”
“Nếu được các
đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của
Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây
dựng t́nh hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách
mạng chung.”
Đỗ Mười mà Nguyễn
Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt
Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn
Trung ương Đảng.
Hoàng giải thích,
ông hiểu ư của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm
ngầm gây bế tắc, tiến tŕnh Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề
Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí
thư muốn đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm,
lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết
định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp
hành.
Tiễn đưa Hoàng
xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong
nước biết các ư kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng
đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề
xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của ḿnh hay không. Chỗ
khó là bên nhà vừa mới trả lời rơ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung
Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đ̣i phía Việt
Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc
tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới
thu xếp cuộc gặp người lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh này, nếu
lặp lại ư kiến của bên nhà th́ coi như không nêu ra kiến nghị nữa;
nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ư kiến bên nhà th́ liệu có bị
hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng?
V́ việc đó, chiều
hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí
thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi
nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong
nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước
rơ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện t́nh h́nh mới, Nguyễn Văn
Linh quyết kế đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân
thành có tính thực chất với người lănh đạo nước ta; v́ vậy Đại Sứ
quán nên căn cứ t́nh h́nh mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là
Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn
Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.
Đại sứ Trương thi
hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc pḥng
Đêm 19 tháng 8,
Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ
Trương t́m cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở
bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí
thư để trực diện t́m hiểu ư đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả
ǵ lập tức báo cáo trong nước. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đối với
Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên
tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rơ mức độ khó khăn
của công việc này.
8 giờ sáng ngày
20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên
cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được
kế sách hay nào. Mọi người đều rơ, trong suốt những năm 80, Việt Nam
luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm
nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh
truyền h́nh đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các
buổi chiêu đăi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt
Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung
Quốc. Trong t́nh h́nh như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào t́m
gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là
người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết.
Trong t́nh h́nh
t́m không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một
chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ
Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc
pḥng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc
giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5
ra, Lê Đức Anh c̣n nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc.
Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc
pḥng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là
Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.
Quả nhiên Đại
tướng Lê Đức Anh rất vui ḷng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày
21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc
pḥng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và
nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ
Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm
trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh, ngỏ ư bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ư
kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ư sẽ
lập tức làm ngay việc này.
Chiều hôm ấy Cục
trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp
hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho
biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7
giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc pḥng, hai bên đều không
mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không
cắm quốc kỳ. Vũ c̣n nói việc này chỉ có ông và Trưởng pḥng Vũ Tần
của Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam biết, những người khác đều
không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại
sứ Trương.
Có những sự việc
không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đă ấn định 6
giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đă gửi
thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp
Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại
sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ
đến Đại Sứ quán. Sau khi vào pḥng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ
thiểu năo đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp
tân d́u đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất
xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm
cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, v́ thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài
được một lúc thôi ạ. Ông Lư, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và
phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói
vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau
ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời
Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm b́nh phục.” Nói đoạn, ông thân
chinh d́u Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra
khỏi pḥng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ
sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc pḥng
Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh
bí mật gặp Đại sứ Trương
Khi gặp Đại sứ
Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đă nhờ Hoàng Nhật
Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương,
nội dung cũng chính xác không có ǵ sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản
thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với
Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, v́ không đồng ư với một
số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính
quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội
V ĐCSVN lại v́ ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên
cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ư
với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị.
Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với
Trung Quốc. Nếu Bác Hồ c̣n th́ nhất định sẽ không xuất hiện những
chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, chính sách của Việt
Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người
Hoa có đóng góp quư giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng,
Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có t́nh có lư.
Nguyễn Văn Linh
nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm
vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi
phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục
Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan
chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc
trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi
Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong t́nh h́nh quốc tế hiện nay,
đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển t́nh đoàn kết hữu nghị
và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rơ
ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có
một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc b́nh thường hóa mối
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991.
Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn ḷng người đối với toàn đảng và
toàn dân Việt Nam.
Về vấn đề
Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rơ tính chất quan trọng và
bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và
Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn
đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ
Ngoại giao do ông ta nắm có ư đồ gây rối, hiện nay con đường này rất
khó đi. V́ vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội
đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng, cùng bàn bạc
phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề
Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn
các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc.
Nguyễn Văn Linh c̣n nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ
Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân,
Thủ tướng Lư Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc
th́ đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt
Nam ư định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà
nước Vơ Chí Công, trực diện chuyển ư kiến của người lănh đạo Trung
Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn.
Đại sứ Trương cảm
ơn Nguyễn Văn Linh đă tiếp và tỏ ư sẽ lập tức báo cáo trong nước
biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.
Gặp gỡ bí mật
Thành Đô
Chiều 28 tháng 8
năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ
Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân
và Thủ tướng Lư Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ
ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN
Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính
trị vấn đề Campuchia đă chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam
cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và
sớm thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp
sửa tiến hành tại Bắc Kinh, v́ để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm
sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.
Lănh đạo hai nước
tại Thành Đô
Lănh đạo hai nước
tại Thành Đô
Đại sứ Trương Đức
Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu t́m cách
nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới
Nguyễn Văn Linh. Nhờ đă có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi
người ít nhiều đă có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên
quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Thế là 8 giờ
sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông
giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh.
Một tiếng đồng hồ
sau, Trưởng pḥng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam
hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của
Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm
ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội
kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại
sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung
ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội
kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lănh đạo Việt Nam
khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ư của Nguyễn Văn Linh, 1
giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại
Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên.
Qua sự bố trí của
Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ
Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Pḥng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ
Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ư kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch
Dân và Thủ tướng Lư Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ.
Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ư với thời gian và
địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo
cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách
nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh
c̣n nói, nếu t́nh h́nh sức khỏe cho phép th́ đồng chí Phạm Văn Đồng
cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ
Trương lập tức báo cáo trong nước biết t́nh h́nh cuộc gặp chiều nay.
Ngày 30, trong
nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch tŕnh đại thể của lần
gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà
Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lănh đạo hai bên hội đàm,
buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đăi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp
tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau
khi thỉnh thị và được trong nước đồng ư, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp
chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm.
Sáng ngày 3, tôi
đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để
tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía
Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi c̣n có Chánh
Văn pḥng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng
Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương
Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên
Trung ương Đảng), c̣n lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại
sứ Trương tới gần sân bay th́ thấy một xe con kiểu b́nh thường màu
đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nh́n, v́ xe không treo màn cửa
nên có thể thấy rơ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh
người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn
giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức
chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không
làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ
Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh.
Sau khi từ Thành
Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lănh đạo hai
nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và
khôi phục quan hệ b́nh thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề
Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ
quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối
quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban
này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền
Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái
Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2
đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ư có thể tiếp thu
phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân
Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6
so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía
chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng th́
nói phương án của phía Trung Quốc đă không công bằng lại cũng không
hợp lư. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ư dựa vào phương án của phía
Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh.
Về mối quan hệ
Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nh́n về phía trước,
không rà lại các món nợ cũ. Lănh đạo hai nước đều đồng ư dựa theo
tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới
trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lănh đạo hai
nước đă kư kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân c̣n ư
vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh:
“Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm
dịch : Qua kiếp nạn, anh em c̣n đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn
thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh
đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái
tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải t́nh nghị hựu trùng
kiến.”[3]
Để bảo đảm cuộc
gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn pḥng Đối ngoại đă làm rất
nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đă phải đưa đi nơi
khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón
các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên
Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này,
không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.
16 chữ vàng của
mối quan hệ Trung Quốc –Việt Nam
Một năm sau cuộc
gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và
tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lănh
đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện b́nh thường hóa
quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.
Tháng 2-1999 lănh
đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát
triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ
“Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ
vàng”.
Tháng 7 và tháng
11 năm 2005, lănh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm
lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng
nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức
độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước măi măi làm láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan
hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng
đường mới.
Nguồn: Tạp chí
Trung Quốc
《党史纵横》(Đảng
sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết
có đăng trên mạng China.com.
—————
[1] Tác giả bài
viết này có lẽ là Lư Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán
Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lư học tiếng Pháp
tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách
Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc
(ND).
[2] Bệnh Meniere
là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND).
[3] Chúng tôi
đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là
lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”.
Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm
dịch ư: T́nh anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận
tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại t́nh hữu
nghị muôn đời (ND).
[4] Tạp chí “Đảng
sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Pḥng Nghiên cứu lịch sử đảng của
Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lăo cán bộ
Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất
tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và
ngoài Trung Quốc. (ND)
Quan hệ Việt-Trung qua con mắt một
học giả Trung Quốc
Nguồn: Xie Tao,
“China and Vietnam: Thoughts From a Chinese Sojourner in Ho Chi Minh
City,” The Diplomat, 02/03/2017.
Biên dịch: Nguyễn
Huy Hoàng
Đầu tháng 2 năm
nay, tôi có chuyến thăm thứ hai đến Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Khác với chuyến thăm lần đầu cách đây bốn năm, lần này tôi quyết
định dành phần lớn thời gian trong năm ngày ở đây để khám phá các
bảo tàng trong thành phố. Ở Việt Nam lúc này là mùa khô, và các bảo
tàng sẽ cung cấp một nơi trú ẩn dễ chịu trước cái nóng hầm hập trên
đường phố. Vả lại, con trai tôi mới bốn tuổi trong chuyến thăm đầu,
và tôi nghĩ lớn thêm bốn năm là đủ cho nó học được chút ǵ đó từ các
bảo tàng về lịch sử và văn hóa của một đất nước mà nó đă đến thăm
hai lần.
Quan trọng hơn,
là một nhà khoa học chính trị, tôi hy vọng chúng sẽ giúp tôi t́m
hiểu xem Việt Nam nh́n nhận như thế nào về mối quan hệ với Trung
Quốc. Với vai tṛ hết sức quan trọng của các bảo tàng – cũng như bản
đồ và các cuộc điều tra dân số – trong quá tŕnh h́nh thành bản sắc
quốc gia, như Benedict Anderson đă thảo luận sâu rộng trong cuốn
sách được đánh giá cao The Imagined Communities của ông, tôi chắc
chắn câu chuyện của chính phủ Việt Nam về mối quan hệ song phương sẽ
khác câu chuyện của chính phủ Trung Quốc, nhưng tôi không biết chính
xác th́ khác như thế nào.
Sáng ngày thứ
hai, tôi đến Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Tôi đă nghe những
người từng đến thăm bảo tàng nói đây là nơi dành riêng cho cuộc
chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi cũng biết rằng Trung Quốc đă cung
cấp một lượng lớn viện trợ cho Việt Nam trong cuộc chiến, mặc dù Bắc
Kinh chưa bao giờ tiết lộ con số chính xác. Một nguồn tin của Trung
Quốc ước tính con số này rơi vào khoảng 20 tỷ USD (tính theo cơ sở
giá trong những năm 1970). Hơn nữa, Bắc Kinh cũng gửi 300.000 nhân
viên quân sự qua biên giới trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968,
theo một nguồn tin khác. Bởi vậy mà trước khi đến bảo tàng, tôi đă
nghĩ sẽ có ít nhất một hai hiện vật để ghi nhận sự giúp đỡ hào phóng
mà Trung Quốc dành cho Việt Nam.
Tầng trệt của bảo
tàng là một bộ sưu tập ảnh và áp phích. Các bức ảnh cho thấy các
cuộc tập hợp, diễu hành, biểu t́nh phản đối chiến tranh trên khắp
thế giới (và cả ở Mỹ), trong khi các tấm áp phích dùng từ ngữ và
h́nh ảnh để truyền tải sự ủng hộ của quốc tế dành cho Việt Nam và
phản đối Hoa Kỳ. Đến cuối bộ sưu tập tôi gặp ba bức ảnh. Bức thứ
nhất chụp cảnh Mao Trạch Đông bắt tay với Hồ Chí Minh. Bức thứ hai
chụp hai quả khinh khí cầu treo hai dải băng rôn dài – một ghi “Mao
chủ tịch muôn năm” và một ghi “Hồ chủ tịch muôn năm” – trên quảng
trường Thiên An Môn đông đúc ở Bắc Kinh. Bức thứ ba chụp cảnh Mao
đón tiếp một phái đoàn Việt Nam. Hóa ra chỉ có ba bức ảnh này trong
bảo tàng cao ba tầng gợi ư sự thừa nhận và biết ơn của Việt Nam đối
với sự trợ giúp của Trung Quốc trong Chiến tranh Việt Nam.
Chiều ngày thứ
tư, tôi đến thăm Bảo tàng Lịch sử. Sau khi nhanh chóng đi qua hai
gian trưng bày đầu tiên, có các hiện vật và trang phục truyền thống,
tôi đến lối vào gian trưng bày thứ ba. Ở đầu lối vào là một tấm bảng
ghi “Bắc thuộc – Đấu tranh giành độc lập.” Gian trưng bày thứ ba này
có khoảng hai chục tấm áp phích và bản đồ phục dựng. Tôi đặc biệt
thấy cuốn hút trước một tấm áp phích, ghi (nguyên văn) như sau:
Sau khi An Dương
Vương thất bại trong cuộc kháng chiến chống Triệu Đà (179 TCN), Việt
Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị, bóc lột, và đồng
hóa. Trong hơn 1.000 năm, người Việt Nam đă cố gắng hết sức để ǵn
giữ văn hóa truyền thống, ngôn ngữ dân tộc, tiếp nhận và Việt hóa
các yếu tố văn hóa Hán; đồng thời tổ chức hơn 100 cuộc nổi dậy chống
lại những kẻ xâm lăng để giành chủ quyền với cuộc nổi dậy đầu tiên
là của Hai Bà Trưng (40–43 CN). Năm 938, Ngô Quyền đánh đuổi hoàn
toàn quân Trung Quốc xâm lược trên sông Bạch Đằng lịch sử, bắt đầu
kỷ nguyên tự do và độc lập cho người Việt Nam.
Sau tấm áp phích
là một chuỗi các bản đồ phục dựng, thể hiện không chỉ các tuyến
đường của “quân Trung Quốc xâm lược” liên tiếp, mà c̣n cả vị trí của
các cuộc kháng chiến. Một tấm bản đồ mô tả “các cuộc nổi dậy tiêu
biểu chống quân xâm lược phương Bắc (thế kỷ 1–10).” Một tấm thể hiện
“chiến thắng của quân đội Đại Việt trước quân Tống xâm lược
(1076–1077).” Tấm bản đồ thứ ba cho thấy “cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
(1418–1427).” Đến khi bước ra khỏi lối vào, tôi đă có một cái nh́n
rơ ràng về cách mà Trung Quốc từng – và có lẽ là vẫn – được nh́n
nhận bởi người láng giềng phương Nam.
Đến tối về lại
pḥng khách sạn, tôi cố gắng lư giải những ǵ ḿnh đă thấy trong Bảo
tàng Lịch sử. T́nh cờ tôi có mang theo một cuốn sách du lịch của
Lonely Planet năm 2014 về Việt Nam, nên tôi bắt đầu đọc phần giới
thiệu ngắn gọn về lịch sử đất nước. Rồi tôi thấy một mục có tiêu đề
“China Bites Back” (Trung Quốc nổi giận), viết như sau:
Trung Quốc một
lần nữa nắm quyền kiểm soát ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 15, đem văn
khố quốc gia và một số trí thức của đất nước về Nam Kinh [kinh đô
nhà Minh] – một tổn thất có tác động lâu dài lên nền văn minh Việt
Nam. Sưu cao thuế nặng và lao động khổ sai cũng là điển h́nh của
thời kỳ này. Nhà thơ Nguyễn Trăi (1380–1442) viết về giai đoạn này:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Nhơ bẩn thay, nước
Đông Hải không rửa sạch mùi.”
Thành thật mà
nói, tôi đă không hề chuẩn bị tinh thần để đón nhận một đoạn thơ như
thế. Quả thật, với tôi, nó nghe cũng giống như một đoạn thơ lên án
quân Nhật Bản xâm lược Trung Quốc nếu tác giả không được nêu tên.
Tôi thực sự choáng váng trước mức độ oán hận trong hai ḍng thơ này.
Chắc chắn là tôi nhận thức được rất rơ rằng hai đất nước đă trải qua
một mối quan hệ nhiều rắc rối kể từ cuối những năm 1970: một cuộc
đụng độ biên giới năm 1979, các cuộc đụng độ trên biển vào cuối
những năm 1980, và căng thẳng trên các đảo tranh chấp ở Biển Đông kể
từ năm 2010. Nhưng tôi không biết sự thù địch của Việt Nam với Trung
Quốc lại sâu đậm và mạnh mẽ như thế. Như một “bách niên quốc sỉ” đă
trở thành một phần không thể tách rời trong kư ức tập thể của người
Trung Quốc, “ngàn năm Bắc thuộc” cũng phát triển thành một thành tố
cốt lơi trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam, bất kể kư ức của
người Trung Quốc thay đổi như thế nào, hay bản sắc Việt Nam là do tự
phát triển hay được h́nh thành một cách nhân tạo.
Bỏ cuốn Lonely
Planet xuống, tôi cố gắng lư giải mối quan hệ Việt-Trung. Bỗng nhiên
tôi nhớ ra một đoạn trích thường được [một số học giả phương Tây]
cho là của Hồ Chí Minh, vị cha già của Việt Nam hiện đại. Ông Hồ
được cho là đă nói như sau vào năm 1946, ít lâu sau khi ông đồng ư
cho phép quân đội Pháp trở lại Việt Nam:
Các anh thật
thiển cận! Các anh không nhận ra Trung Quốc ở lại nghĩa là thế nào
sao? Các anh không nhớ lịch sử của ḿnh sao? Lần cuối đến đây, họ đă
ở lại một ngàn năm. Pháp là người ngoài. Họ yếu. Chủ nghĩa thực dân
sắp chết. Người da trắng đă tận số ở châu Á. Nhưng nếu ở lại bây giờ
th́ người Trung Quốc sẽ không bao giờ rời đi. C̣n tôi, tôi thà ngửi
cứt Pháp trong năm năm tới c̣n hơn ăn cứt Tàu cả cuộc đời.
Sự tha thứ nhanh
chóng của Hồ Chí Minh đối với thực dân Pháp góp phần giải thích thái
độ rộng lượng dễ thấy của người Việt đối với người Mỹ. Một vật trưng
bày trong Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nói rằng 3 triệu người
Việt (trong đó có 2 triệu dân thường) đă bị giết, 2 triệu người bị
thương, cộng thêm 300.000 người mất tích trong cuộc chiến chống Mỹ.
Bên cạnh tổn thất kinh hoàng về người c̣n có tổn hại to lớn mà chất
độc da cam gây ra cho cả môi trường địa phương và người dân sống ở
đó. Rất có thể những hành động ô nhục và tội ác mà người Mỹ gây ra
trong khoảng mười năm c̣n tồi tệ hơn nhiều so với những ǵ mà Trung
Quốc đă gây ra (cho Việt Nam) trong hơn một ngàn năm. Vậy mà người
Việt Nam vẫn có vẻ nhanh chóng vượt qua được sự tàn ác của Mỹ.
Quá khứ có thể
cho chúng ta biết ǵ về tương lai của mối quan hệ Việt-Trung? Một
bài học có vẻ đúng: Các lực lượng ly tâm của chủ nghĩa dân tộc mạnh
hơn rất nhiều so với các lực lượng hướng tâm của chủ nghĩa cộng sản.
Cũng như Mao cuối cùng đă cắt đứt với Stalin, cuối cùng Hồ Chí Minh
cũng quay lưng lại với Mao. Cào vỏ bọc một người cộng sản, rồi ta sẽ
thấy không sâu bên dưới lớp da là một nhà dân tộc chủ nghĩa. Chừng
nào những kư ức về “ngàn năm Bắc thuộc” c̣n tươi mới trong ư thức
tập thể của người Việt, hứa hẹn của Bắc Kinh về sự trỗi dậy ḥa b́nh
sẽ c̣n không đáng tin, và những căng thẳng tiếp diễn ở Biển Đông chỉ
khiến hứa hẹn đó thêm phần đáng ngờ. Hà Nội sẽ tiếp tục t́m kiếm sự
ủng hộ từ những bên thứ ba để chuẩn bị nghênh đón sự trỗi dậy không
ḥa b́nh của Trung Quốc.
Với những suy
nghĩ này, tôi chuẩn bị cho điểm dừng tiếp theo: Yangon, Myanmar.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử