}
November 27, 2018
I – CÁC THUẬT NGỮ VĂN CHƯƠNG (*)
Am
tường những thuật ngữ của văn chương tức là hiểu được những yếu tính của văn
chương để rồi từ đó ứng dụng vào tác phẩm của mình hầu làm cho tác phẩm trở
nên hay- đẹp, đúng ý mong muốn.
Chúng ta phải công nhận rằng về bộ môn này, Tây
Phương đã phát triển lên tới đỉnh cao cho nên không có điều chi xấu hổ nếu
chúng ta phải học hỏi nơi họ. Có thể những tác phẩm hay của tổ tiên chúng ta
cũng đạt tới đỉnh cao này nhưng vì tổ tiên chúng ta không chịu phân tích,
không hệ thống hóa mà chỉ ngầm hiểu hoặc hiểu theo linh tính cho nên con
cháu đời sau muốn tìm hiểu những thành tố của văn chương không biết nương
tựa vào đâu. Trong khi đó, vì chuộng tinh thần khoa học cho nên Tây Phương
đã phân tích và liệt kê ra. Sau đây là một số những thuật ngữ văn chương –
giống như những dụng cụ quý báu trợ lực cho người làm thơ, viết văn:
Alliteration:
Lập lại phụ âm đầu.
Thí dụ: Ðó là anh chàng ngờ nghệch, ngốc
nghếch.
Cô ta vừa dịu dàng vừa duyên dáng.
Allusion: Nói
bóng nói gió, ám chỉ.
Chẳng hạn người con trai muốn cưới người con gái khâu
giúp mình cái áo trong bài ca dao “Tát Nước Đầu Đình” nhưng lại nói
bóng nói gió như sau:
Mai mốt lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò.
Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Giúp em đôi chiếu em nằm.”
Anecdote: Giai
thoại
Là một đoạn văn ngắn được chen vào để mua vui hoặc
phóng phú hóa câu chuyện.
Aphorism:
Cách ngôn
Là câu nói dường như có giá trị muôn đòi. Thí dụ: Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây. Ăn mặn khát nước v.v..
Characterization:
Xây dựng nhân vật (sao cho độc đáo)
Climax:
Cực điểm của câu truyện, là chỗ phăng ra manh mối và từ đó căng thẳng giảm
dần và câu truyện đi vào kết thúc.
Conflict: Xung
đột, mâu thuẫn (để đẩy truyện đi tới)
Connotation/denotation:
Nghĩa rộng, sự bao hàm
Description:
Sự mô tả, miêu tả
Đó là cách mà người viết văn vẽ nên một hình ảnh, một
khủng cảnh, một con người, một biến cố, một tình huống qua việc chọn chữ,
nhất là các tính từ (adjectives) phải hết sức cẩn thận. Mọi sự cường điệu,
làm dáng, buông thả sẽ làm hư tác phẩm.
Dramatic irony:
Tình huống trớ trêu. Một thí dụ của tình hưống trớ trêu là khi Romeo tưởng
Juliet đã chết cho nên lấy dao tự sát trong khi khán giả hay người đọc biết
chắc rằng Juliet vẫn còn sống.
Event:
Diễn biến của câu truyện.
Exposition:
Sự phơi bày
Là đoạn văn quan trọng trong bố cục để giới thiệu bối
cảnh, nhân vật cốt lõi của câu chuyện. Thí dụ, tác giả có thể mở đầu câu
chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” như sau, “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh
là cuộc tranh giành Công Chúa Mỵ Nương con Hùng Vương, kéo dài đã hơn 5000
năm nay.”
Falling action:
Xung đột / căng thẳng giảm dần (sau cực điểm của câu truyện).
Figurative language:
Dùng ngôn ngữ bóng bẩy.
Thiếu ngôn ngữ bóng bẩy thì không phải là tác phẩm
văn chương. Sau đây là một đoạn văn sử dụng ngôn ngữ vừa hiện thực vừa bóng
bẩy của Margaret Mitchell khi mô tả Scarlett trong tác phẩm
“Cuốn Theo Chiều Gió” ( Gone With The Wind)
“Vào buổi chiều rực nắng của Tháng Tư năm 1861,
tại đồn điền của cha nàng, Scarlett nổi bật như một bức tranh tuyệt đẹp khi
nàng ngồi ở dưới hàng lan can dâm mát cùng với Stuart Tarleton và Brent
Tarleton. Chiếc váy màu xanh trang điểm hoa hồi trải dài mười một bộ trên
chiếc giá đỡ thật hợp với đôi dép da dê mà cha nàng mới mua cho nàng ở
Atlanta. Chiếc váy làm tăng thêm vẻ tuyệt mỹ của chiếc eo thon nhỏ và bộ
ngực nảy nở của lứa tuổi mười sáu được nâng bởi chiếc nịt bó sát lấy thân
hình. Cho dù dưới chiếc váy trải dài nề nếp, mái tóc được búi trong
lưới, đôi bàn tay trắng nhỏ để yên trên lòng, nàng vẫn không thể nào giấu
được con người thực của nàng. Trên khuôn mặt khả ái, đôi mắt ấy thật hiếu
động, phá phách và tràn đầy nhựa sống, hoàn toàn khác hẳn với vóc dáng đoan
trang, thùy mị của nàng. Phong thái đó là do mẹ nàng đặt để lên nàng bằng
những lời khuyên răn nhẹ nhàng và bằng kỷ luật khắt khe của bà vú – nhưng
còn đôi mắt thì kia thì là cái gì riêng tư của nàng.” (Bản dịch của tác
giả)
Flashback:
Hồi tưởng, hồi ức
Thí dụ, nhà văn có thể đang đi trên con đường ngày
hôm nay nhưng nhớ lại những kỷ niệm đã có trên con đường này thuở ấu thơ.
Foil:
Nhân vật tương phản, phản diện, cũng còn gọi là antagonist
Foreshadowing:
Báo hiệu, báo trước, điềm báo trước (để dẫn dắt độc giả)
Chẳng hạn đôi tình nhân đang đứng tâm sự bên cầu,
người con gái khẽ thở dài, vân vê tà áo nói, “ Em không biết cuộc tình
chúng mình rồi đây sẽ ra sao! ” Câu văn này chính là điềm báo trước cho
một cơn dông bão sẽ xảy đến. Nhưng nếu sau này chẳng có biến cố gì xảy ra cả
thì đoạn văn trên là một đoạn văn thừa. Chẳng hạn đoạn Kiều nghe Vương Quan
kể chuyện Ðạm Tiên “ Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa “ rồi sau đó
nàng thắp hương khấn vái, rút trâm trên đầu, vạch da cây mà “Vịnh bốn câu
ba vần “ rồi “Lại càng mê mẩn tâm thần” chính là điềm báo trước
cuộc đời cô sau này cũng sẽ “đoạn trường” như Ðạm Tiên.
Hyperbole:
Ngoa ngôn, cường điệu (để nhấn mạnh và gây ấn tượng)
Thí dụ: Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn.
Ngửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa (Nguyễn
Gia Thiều)
Thân hình bà ấy to như cái bồ sứt
cạp.
Lưng bà ấy rộng như cái cánh phản cho nên
thiên hạ gọi bà ấy là Bà Phán Cảnh.
Imagery:
Giàu hình ảnh/ tượng hình. Một tác phẩm giàu hình ảnh sau này quay thành
phim sẽ hấp dẫn khán giả.
Inference:
Ðể người đọc có thể suy luận, suy diễn ra
Inversion:
Sự đảo ngược thứ tự của chữ trong một câu để tạo nên chất thơ:
Thí dụ: Hai câu sau đây nếu để nguyên thì không giầu
chất thơ:
Em đến chơi chiều thu
Lá vàng rơi lác đác
Nhưng nếu đảo ngược thì lại có nhiều chất thơ:
Chiều thu em đến chơi
Lác đác lá vàng rơi
Và ta có thể thêm hai câu nữa để kết thúc bài
thơ này:
Mắt em chìm trong mộng
Tình anh đã chín rồi.
Irony:
Mỉa mai, cay đắng.
Main character:
Nhân vật chính là nhân vật được nhắc nhở nhiều nhất và sẽ xuất hiện từ đầu
tới cuối, qua đó nhà văn xây dựng đề tài của mình. Mọi diễn tiến, mọi tình
huống phải xoay quanh nhân vật chính. Tôi đã đọc một “truyện ngắn”
đăng trên một nhật báo lớn nhất ở San Jose năm 1995 với đoạn nhập đề như
sau: “Hôm đó Nga tình tờ gặp Trí. Trí có người chị tên Bích và
Bích có người anh rể tên Hoàng .” Ngay phần nhập đề, tác giả đã
“quay” độc giả chóng cả mặt bằng cách giới thiệu một lúc bốn nhân vật mà
không biết ai là nhân vật chính ! Có lẽ học trò Lớp Năm ngày xưa cũng không
viết một đoạn văn kỳ lạ đến như vậy. Rất may cho chúng ta là tác giả không
viết tiếp:“Hoàng có đứa con gái tên Lisa Nguyễn và bạn nó là Catherin
Lê mới vừa thi hoa hậu áo dài và nó có thằng bồ tên Tony. ” Ðọc
một đoạn văn dẫn nhập như thế chắc độc giả sẽ ngã ra bất tỉnh nhân sự ! Thế
nhưng khuyết điểm này tôi thường gặp ở khắp mọi nơi nhất là trong thể loại
truyện ngắn hiện đang có khuynh hướng phổ biến ở hải ngoại.
Main idea:
Ý chính
Ý chính đây là ý chính của một đoạn văn. Một truyện
được nối kết bằng nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn có một ý chính. Nếu đọc một
đoạn văn mà độc giả hoặc nhà phê bình không thể đúc kết được ý chính thì
đoạn văn đó trở nên vô giá trị dù tác giả có trổ hết tài văn chương như thế
nào đi nữa. Như chúng ta đã biết một tác phẩm hay sau này có thể được viết
rút gọn lại để cho phù hợp với nhiều trình độ khác nhau. Nếu các nhà biên
soạn không sao hiểu được ý chính của một đoạn văn chắc chắn họ sẽ xếp tác
phẩm ấy sang một bên. Sự kết thúc ý chính của một đoạn văn thường được nhận
thấy bằng dấu chấm xuống hàng và thụt lui đầu dòng.
Metaphor:
Phép ẩn dụ, so sánh gián tiếp hai vật khác nhau nhưng lại có những nét
chung.
Thí dụ:
Sao là những ngọn nến lung
linh trên trời.
Mẹ già như chuối ba hương
Như sôi nếp một như đường mía lau (Ca Dao)
Em là dòng dõi Nàng Tô Thị (Cung
Trầm Tưởng)
Mood:
Tâm trạng tức trạng thái tâm lý do tác giả tạo ra trong truyện.
Motif:
Yếu tố chủ yếu, mấu chốt trong chuyện. Chẳng hạn cô gái kết hôn với hoàng tử
trong các câu truyện thần tiên. Cô gái hóa thành chồn tinh trong truyện Liêu
Trai Chí Dị.
Motivation:
Ðộng lực, lý do thầm kín.
Onomatopoetic: Xử
dụng những chữ tượng thanh.
Thí dụ: Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om
sòm bên
vách bức tranh gà
Chí cha chí chát khua giày dép
(Trần Tế Xương )
Tiếng suối chảy róc rách.
Súng nổ ầm ầm.
Tiếng pháo nổ đì đùng
Tiếng trẻ nhỏ nói bí bô.
Ông Tây xí xô xí xào.
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Kiều)
Tiếng lá rơi xào xạc.
Những chiếc lá khô khốc lăn lông lốc trên đường.
Personification:
Nhân cách hóa
Gán cho đồ vật, con vật một ý nghĩ, cảm xúc như
con người.
Thí dụ:
–Chiếc
xe lửa nặng nề, mệt nhọc, thở dài một tiếng rồi dừng lại trên sân ga.
– Từng đợt sóng vỗ bờ rì rào thong thả chạy vào bờ, trào bọt trắng như muốn vỗ
về xóm chài nhỏ bé đang chìm đắm trong giấc ngủ về
đêm.(Trích truyện dài Chọn Lựa)
– Giấc mơ đó cứ thì thầm bên gối nàng biết bao đêm như vậy.
Plot:
Bố cục
Cách sắp xếp các diễn biến sao cho hợp lý, hấp dẫn.
Point of view:
Quan điểm của tác giả.
Pun:
Lối chơi chữ
Với mục đích khôi hài, mỉa mai, châm biếm. Điều này
có thể thấy rất nhiều trong văn chương bình dân Việt Nam, chẳng hạn như “lớn
lại” là “lái lợn”, “tượng lo” là “lọ tương”.
Realism: Hiện
thực – tức mô tả sự kiện đúng như trong cuộc sống, không lý tưởng hóa, lãng
mạn hóa hoặc cường điệu.
Resolusion:
Kết cuộc, kết thúc.
Rhyme and Rhythm:
Xử dụng vần điệu, nhạc điệu của ngôn ngữ để tạo tính trầm bổng cho bài văn,
bài thơ.
Thí dụ: Trong Quê Mẹ của Thanh Tịnh, đoạn văn sau đây
rất trầm bổng và đầy nhạc điệu:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng
nhiều, trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức, hoang
mang của buổi tựu trường. Buổi mai hôm ấy, buổi mai đầy sương thu và đầy giá
lạnh…”
Rising action:
Xung đột mỗi lúc mỗi trở nên căng thẳng.
Satire:
Tính trào phúng, tính trào lộng.
Setting:
Bối cảnh, khung cảnh mà câu truyện xảy ra thường bao gồm thời gian và không
gian/địa điểm. Nếu không nói rõ không gian và thời gian, sau này các nhà đạo
diễn sẽ vô cùng bối rối nếu tác phẩm được quay thành phim.
Simile:
Ví von
Dùng những chữ như: Như thể, giống như, chẳng khác
nào.
Thí dụ:
– Sương như búa bổ mòn gốc liễu. (Cung Oán
Ngâm Khúc)
– Nàng vũ nữ có thân hình uyển chuyển như một con mèo.
– Nó nói dối như cuội.
Stereotype:
Rập lại khuôn mẫu có giá trị bất di bất dịch. Thí dụ:
– Mai cốt cách, tuyết tinh thần. (Kiều)
(Tuyết tượng trưng cho sự trong trắng, Mai tượng
trưng cho sự thanh cao)
– Chẳng hạn như bà mẹ ghẻ trong các câu truyện thần tiên (Tấm
Cám, Cinderella, Cô Bé Lọ Lem)
– Gian ngoan như Tào Tháo
Style: Lối
hành văn – chẳng hạn như Hemingway nổi tiếng vì đã dùng những câu văn
ngắn gọn và dễ hiểu.
Supporting details:
Những chi tiết, tình tiết để dẫn chứng cho một hình ảnh mà tác giả đưa ra.
Chẳng hạn khi tác giả nói hắn là một gã lưu manh thì phải có những chi tiết
dẫn chứng xem gã lưu manh như thế nào.
Symbol:
Tượng trưng, tiêu biểu
Theme:
Chủ đề (tình yêu, chiến tranh, xã hội, tù đày…)
Tone:
Văn phong
Văn phong là nét độc đáo của từng tác giả. Có tác giả
thích lối văn cầu kỳ, có tác giả thích lối văn châm biếm cay độc hoặc hài
hước hoặc lãng mạn, bình dị.
Voice:
Tính độc đáo – Không thể tìm thấy nơi tác giả khác. Nếu nhà văn không tạo
được tính độc đáo thì tác phẩm của mình sẽ chết trong đám loạn quân.
II- CÁC THỂ LOẠI VĂN CHƯƠNG (*)
Nền văn chương của Tây Phương đã phát triển tới đỉnh
cao cho nên hết sức đa dạng và phong phú. Sau đây là một số thể loại văn
chương:
– Truyện
Ngụ Ngôn ( Allegory)
– Tự Truyện
(Autobiography) viết về cuộc đời của mình
– Tiểu Sử (
Biography) viết về cuộc đời của người khác
– Thơ Trào
Phúng (Burlesque)
– Bình luận
(Criticism)
– Truyện
Trinh Thám (Detective Story)
– Nhật Ký
(Diary)
– Kịch
(Drama)
– Thiên Sử
Thi, Thiên Anh Hùng Ca (Epic)
– Thơ viết
dưới dạng thư gửi cho ai (Epistle)
– Tiểu Luận
( Essay)
– Truyện Cổ
Tích (Fable)
– Truyện
Quái Ðản, Hoang Ðường (Fantasy) chẳng hạn trong đó có những con thú, cái máy
biết nói tiếng
người. Tây Du Ký thuộc thể loại vừa Dã Sử , Huyền Thoại (Legend) vừa
hoang đường (Fantasy).
– Tiểu
Thuyết (Fiction)
– Truyện
Dân Gian (Folklore)
– Truyện Ma
(Ghost Story)
– Huyền
Thoại, Dã Sử (Legend) truyện thêm thắt dựa vào một nhân vật lịch sử có thật.
– Truyện
Thiếu Nhi (Literature for Children)
– Bài Hát
Ru Con (Nursery Rhyme)
– Thơ Nhại
(Parody) nhại một bài thơ khác
– Thơ
(Poetry)
– Tiểu
Thuyết Diễm Tình (Romance)
– Trường
Thiên Tiểu Thuyết (Saga)
– Hài Kịch
(Satire)
– Truyện
Ngắn (Short Story)
– Truyện
Kinh Dị (Suspense Story) không phải truyện ma, trong đó tạo ra những tình
huống kinh hoàng khi
con người phải đối đầu với cái chết. Tây Phương phát triển rộng rãi bộ môn
này và lan qua kịch kinh dị,
phim
kinh dị “toát mồ hôi lạnh”như loại phim Hitchkok cuối thập niên 1960.
Còn văn chương Việt Nam
ít thấy
truyện kinh dị, có lẽ do tâm tính, văn hóa và ảnh hưởng tôn giáo chăng?
– Truyện Phóng Ðại (Tall Tell) như đấm một cái
chết con voi, búng một cái chết con cọp, nhảy một cái qua
ngọn núi.
II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM VIẾT VĂN
Tôi
nghĩ rằng bất cứ nhà văn nào sau một thời gian cũng sẽ rút ra được một số
kinh nghiệm. Ðối với tôi, giai đoạn từ 1986 tới 1995 là giai đoạn say sưa
viết và chưa rút ra kinh nghiệm hoặc chỉ kinh nghiệm chút ít. Dĩ nhiên kinh
nghiệm của mỗi nhà văn đều khác nhau nhưng cùng chung một mục đích sao cho
tác phẩm hoàn thiện, tránh những khuyết điểm nhỏ nhặt đáng tiếc làm hư tác
phẩm.
Thứ nhất:
Phải viết bằng cả khối chân tình và rung động. Không ai buộc nhà văn phải
trải qua những tình huống đề cập trong truyện bởi không một ai có thể có đủ
mọi thứ kinh nghiệm trên cõi đời. Do đó nhà văn có thể tưởng tượng hoặc hư
cấu. Nhưng dù hư cấu, tưởng tượng như thế nào đi nữa, nhà văn phải rung động
hoặc thích thú với những gì mình viết ra. Bất kỳ một sự làm dáng, cường điệu
nào cũng sẽ làm hỏng tác phẩm. Ngoài ra, viết theo mệnh lệnh, viết theo
thiên kiến, viết theo thị hiếu của quần chúng, xu thời cũng sẽ hỏng tác
phẩm.
Thứ hai:
Không có một luật lệ nào buộc nhà văn phải viết thế này, phải viết thế kia.
Trong khi viết văn, nhà văn là Ông Trời. Ông ta có thể cho người chết đã
ngàn năm, sống dậy và nói chuyện khơi khơi với chúng ta. Ông ta cũng có thể
cho một cô công chúa cành vàng lá ngọc lấy một tên vô loại xấu xa. Ông ta có
thể cho một bà mệnh phụ lấy ngay người đầy tớ của mình. Nhưng cho dù hư cấu
như thế nào đi nữa nhà văn vẫn phải thuyết phục được độc giả chấp nhận câu
chuyện mà ông ta bịa đặt, rồi vui buồn, phẫn nộ, thống khoái, kinh hoàng với
những gì ông ta viết. Ðó chính là thiên tài của nhà văn làm cho câu truyện
sống động, hợp lý.
Thứ ba:
Nhà văn không phải đơn thuần diễn tả sự kiện vì tác phẩm còn bao gồm tư
tưởng và xúc cảm do chứng kiến, do hồi ức hay do tưởng tượng. Nếu muốn tìm
hiểu sự kiện không thôi thì nên đọc báo. Nhà văn có thể dùng ngôn ngữ rất
bóng bẩy hoặc lối văn hàm ngụ hoặc ẩn dụ cho nên một đoạn văn có thể tối
nghĩa với người này nhưng lại gây thích thú cho người khác. Do đó muốn
thưởng thức văn chương cũng cần phải làm quen với văn chương, phải đọc
nhiều, phải suy nghĩ nhiều. Người đọc không cần phải từng trải việc đời
nhưng cần có đầu óc bén nhạy để hiểu được và cảm được những gì người khác đã
trải, đã cảm nghiệm, đã suy nghĩ.
Nói vậy không có nghĩa nhà văn muốn viết thế nào thì
viết. Dù dùng nhiều ẩn dụ, dù dùng ngôn ngữ bóng bẩy, dù dùng lối văn hàm
ngụ – vẫn có một giới hạn – đó là người đọc phải hiểu nhà văn viết cái gì.
Muốn người đọc hiểu mình viết gì, nhà văn phải dùng những câu văn trong
sáng. Có điều luẩn quẩn là, muốn tạo một đoạn văn trong sáng chỉ cần tránh
một đoạn văn tối nghĩa. Ðoạn văn tối nghĩa là đoạn văn mà người đọc không
hiểu tác giả muốn nói gì. Khi chính nhà văn còn chưa rõ ý nghĩa của câu văn
mình viết ra thì nên bỏ câu văn hoặc đoạn văn đó, đừng tiếc. Muốn có một
đoạn văn trong sáng thì nhà văn phải dùng chữ cho chính xác. Một đoạn văn
dùng chữ không chính xác có khi chưa hẳn là đoạn văn tối nghĩa nhưng khiến
người đọc hiểu lầm ý của mình. Sau đây là một vài thí dụ về
cách xử dụng chữ cho chính xác:
1. Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám tâm sự cùng nàng.
2. Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám ngỏ ý cùng nàng.
Câu 1: Chàng không dám tâm tình với nàng chuyện gì
đó.
Câu 2: Chàng không dám nói rằng (ngỏ ý rằng) chàng đã
yêu nàng.
3. Chàng ta hùng hổ tiến tới.
4. Chàng ta hùng dũng tiến tới.
Câu 3: Chàng ta tiến tới với thái độ gây hấn.
Câu 4: Chàng ta tiến tới với thái độ tự tin.
Nói tóm lại, phải chọn chữ và câu văn thích hợp để
trình bày, diễn tả một không khí thống nhất, thích hợp với một tình thế nào
đó. Chẳng hạn không thể có một chữ, một câu văn bỡn cợt trong đoạn văn đang
mô tả một không khí trang nghiêm – nếu không phải là truyện hài hước. Tôi
còn nhớ kỷ niệm “tập làm văn” năm 1955 khi còn học Đệ Thất (Lớp 6 bây giờ).
Trong một bài luận văn, để diễn tả nỗi vui của trẻ thơ, học sinh tôi đã dùng
danh từ “khoái tỉ “. Sau khi chấm bài xong, giáo sư gọi tôi lên nói “Chữ
“khoái tỉ” không được đứng đắn em không
nên dùng trong văn chương.” Nghe thầy dạy thế, tôi hiểu ngay. Hai chữ “khóa
tỉ” tức vui sướng- là ngôn ngữ đường phố của bọn trẻ con chúng tôi. Trải
qua 57 năm tức hơn nửa thế kỷ mà tôi vẫn còn nhớ bài học văn chương quý giá
này. Ngoài ra, chúng ta phải chọn chữ thật dịu dàng, dễ thương, thật nhẹ và
thật thơ mộng để mô tả buổi gặp gỡ đầu tiên của mối tình đầu. Chúng ta hãy
đọc một đoạn văn mô tả một cảnh vượt thác dưới đây để xem khả năng chọn chữ
của tác giả: “ Chiếc phao nổi chở bốn người chồm lên, nhảy
xuống theo dòng nước cuộn chảy. Nước từ trên cao đổ xuống ầm ầm làm
cho người ta có cảm tưởng họ đang vật lộn với con thủy quái hung dữ
đang vùng vẫylàm bắn tung bọt nước trắng xóa.” (Trích trong Reading
Literature của nxb McDougal, Littell)
Thứ tư:
Phải tránh những đoạn văn thừa thãi. Ðoạn văn thừa thãi làm sự tập trung của
độc giả bị gián đoạn và đôi khi gây phản ứng bực bội. Mỗi câu văn viết ra
đều có ý tứ, không ngoài mục đích dẫn dắt độc giả đi tới. Do đọc nhiều, tôi
nhận thấy những đoạn văn thừa thãi phát xuất từ tính dễ dãi của người viết
hoặc người viết muốn khoe kiến thức của mình. Do có những đoạn văn thừa thãi
mà tác phẩm trở nên nhạt nhẽo khiến không hấp dẫn người đọc.
Chúng ta nên nhớ rằng một tác phẩm văn chương không
phải là một tài liệu phô diễn kiến thức. Muốn tìm hiểu kiến thức người ta sẽ
không tìm đến sách văn chương. Khi nhà văn đang mô tả đôi tình nhân trong
một quán nhỏ ngồi bên nhau với ly ruợu, má người đàn bà ửng hồng vì men rượu
song cũng vì men tình mà tác giả lại chuyển sang bàn về hằng trăm thứ rượu
chát (rượu vang) có trên cõi đời này để khoe kiến thức thì đúng là tiểu
thuyết kiếm hiệp câu giờ của Kim Dung. Những chi tiết thừa thãi này sẽ làm
hỏng tác phẩm.
Một tác phẩm có giá trị là một tác phẩm cô đọng. Cô
đọng không có nghĩa là thiếu, nhưng chắc chắn không thừa. Sau hai mươi năm
viết văn, giả thử bây giờ cho tôi viết lại tất cả các tác phẩm mà tôi đã
xuất bản, thì tất cả những tác phẩm đó chỉ còn lại hai phần ba số trang là
cùng. Nói khác đi, mới khởi đầu viết người ta có khuynh hướng viết cho thật
nhiều, viết tràng giang đại hải. Nhưng khi đã viết nhiều rồi thì lại muốn
viết ngắn, viết cô đọng. Cái khác biệt giữa nhà văn mới vào nghề và nhà văn
trưởng thành ở chỗ đó.
Thứ năm:
Thời gian và không gian của tác phẩm cần phải nêu rõ và chính xác. Không nên
viết về những gì mà mình không chắc chắn. Những gì không chắc chắn nên coi
lại các tài liệu lưu trữ. Cách trang phục, ăn nói của mỗi thời đại, mỗi nơi
đều khác nhau. Trí nhớ và đầu óc tưởng tượng của con người dù sao cũng có
giới hạn. Ngoài ra nhiều hình ảnh cũng đã phai mờ theo thời gian và lầm lẫn
niên hiệu, ngày, tháng. Leon Tolstoi khi viết bộ Chiến Tranh và Hoà Bình đã
phải đi đến tận nơi quan sát địa thế để viết về những trận đánh. Khi viết
truyện ngắn “Songkhla Dậy Sóng” tôi đã phải mở sách tham khảo để nghiên cứu
về Thái Lan, Thị Trấn Songklha cùng một số bờ biển Thái Lan cũng như các tên
gọi như Surat, Thom, U Thai, Khamphaeng đều lấy ra từ những tài liệu này.
Nhờ đã từng đi qua các nơi như Phan Thiết, Vũng Tàu và một vài bến cảng ở
Hoa Kỳ cùng đọc những truyện về cướp biển– chính những kinh nghiệm đó đã
giúp tôi tìm ra được những cái tên như Quán Biển Xanh, Quán Giang Hồ, Con
Tàu Lươn Biển, Con Tàu Sóng Thần làm cho câu truyện vừa thơ mộng, vừa có
tính trinh thám.
Thứ sáu:
Nên viết truyện ngay trên máy điện tử. Trước đây ở vào những năm đầu của
thập niên 1990 khi máy điện tử đã trở nên cực kỳ phổ thông và giá đã hạ, một
số người khuyên tôi nên dùng máy điện tử để viết văn, tôi một mực từ chối.
Lý do thứ nhất là viết văn trên máy điện tử đòi hỏi phải học đánh máy là
điều tôi ghét thậm vì khó và phải đánh máy cả mười ngón tay. Thứ hai viết
văn bằng máy điện tử làm mất cả hứng. Nhà văn với cây bút đã trở thành thói
quen cả mấy trăm năm nay rồi. Nay buộc ngồi trước chiếc máy điện tử coi bộ
gò bó quá. Nhà văn cần phải lang thang vớ vẩn, có khi phải nằm dài ra để suy
nghĩ, có khi phải nhâm nhi cà-phê, phì phèo thuốc lá. Cho nên tôi nhất định
không chịu viết văn trên máy điện tử. Thế nhưng do nhu cầu đọc và viết điện
thư cho nên dù muốn dù không tôi cũng phải ngồi trước chiếc máy điện tử đánh
máy lai rai. Lâu rồi cũng thành thói quen và từ năm 1997 đến nay tôi đã
chính thức viết văn bằng máy điện tử mà không thấy trở ngại và cũng chẳng
thấy gì gọi là mất hứng. Ðiều này giúp tôi giải quyết một vấn nạn đã làm tôi
khổ tâm trong bao năm nay là phải chép lại vài trăm trang của bản thảo – một
công tác mà tôi coi như lao động khổ sai. Dĩ nhiên khi đi xa không thể
đem theo máy điện tử, tôi có thói quen đem theo một xấp giấy bỏ trước túi
áo. Tưởng tượng ra điều gì hoặc sáng tác được bài thơ nào tôi ghi ra ngay và
khi về thì đánh máy lại. Viết văn bằng máy điện tử quen rồi cũng thấy thú vị
và trở nên ghiền và nhất là tiết kiệm được vài trăm đô-la nếu sau này chúng
ta có ý định xuất bản tác phẩm. Ngoài ra lại còn tránh được tai nạn hỏi –
ngã đang là một vấn nạn lớn ở hải ngoại bây giờ. Nếu mình nhờ người ta
đáng máy, phần lớn những người đánh máy thuê ăn tiền trình độ học vấn thấp
cho nên thường lẫn lộn giữa dấu hỏi và dấu ngã làm cho người đọc hết sức bực
mình và làm giảm giá trị của bài văn, bài thơ, và có thể di hại đến nhiều
thế hệ sau này nhất là thế hệ trẻ ở hải ngoại không được học cũng như không
được dạy Việt Ngữ đúng mức.
Vào ngày 11 Tháng 9, năm 2001 khi khủng bố tấn công
vào Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở New York và Hoa Kỳ đã mở cuộc tấn công
vào hang ổ của nhóm khủng bố Taliban và từ đó cái tên A Phú Hãn xuất hiện
trên mặt báo chí không thiếu một ngày nào. Thế nhưng ở San Jose và
Westminster không thiếu gì những tờ báo lớn đã nhiều lần đi những hàng chữ
lớn A Phú Hản (dấu hỏi) thay vì A Phú Hãn (dấu
ngã). Nếu sai sót này cứ kéo dài mãi thì chẳng bao lâu nữa sẽ xuất hiện một
thứ “Việt Ngữ “ quái đản ở hải ngoại với Hoàng Xuân Hãn, Trần Nguyên
Hãn sẽ biến thành Hoàng Xuân Hản và Trần Nguyên Hản và những câu thơ
trác tuyệt trong Kiều hay Chinh Phụ Ngâm hoặc Cung Oán Ngâm Khúc cũng sẽ lộn
tùng phèo như sau:
Dưới cầu nước chãy trong veo
Bên cầu tơ liểu bóng chiều thướt tha (Kiều)
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẫu vẻ người tang thương (Cung
Oán)
Vầng trăng ai xẽ làm đôi
Nữa in
gối chiếc nữa soi dặm trường (
Chinh Phụ Ngâm)
Không phải
chỉ hải ngoại mới có “thảm họa hỏi- ngã “ mà ngay trong nước cũng vậy. Tình
cờ vào một siêu thị tôi thấy trên chai nước chấm sản xuất ở Việt Nam ghi Nước
Mắm Pha Sẳn thay vì phải ghi Nước Mắm Pha Sẵn.
Sau hết, viết văn trên máy điện tử dù tiện lợi song
có điều ai cũng phải công nhận là đối với những nhà văn có tài, người đời
sau muốn mua lại các bản thảo thì đành chịu thua. Viết văn trên máy điện tử
người ta có khuynh hướng sửa chữa ngay cho nên không thể nào có bản thảo –
ngoại trừ các tác phẩm viết dở dang đã được lưu trữ vào đĩa và có thể coi đó
như bản thảo.
Đào Văn Bình
(Trích sách 20 Năm Viết Văn xb năm2004)
(*) Sách Literature của McDougal , Littell