at Capitol.  June 19.1996

 

 

with Sen. JohnMc Cain

 

with Congressman Bob Barr

with General John K Singlaub

CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.

 CaliToday .NVR .Phê Bình . TriThucVN

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *

KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU

CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS

BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV

DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG  ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION

VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  3. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  4. Báo Cáo Tình Trạng Nhân Quyền

  5. China Reports US

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Vấn Đề Tôn Gíao

  13. https://live.childrenshealthdefense.org/chd-tv/

  14. https://www.thelastamericanvagabond.com/

  15. https://nhandan.vn/

  16. https://www.themoscowtimes.com/

  17. dnews.com | News of the Palouse since 1911

ADVERTISEMENT

 

Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic- Sputnik

https://www.intelligencesquaredus.org/

Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense

Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US Histor. Insider

World History - Global Times - Conspiracy - Banking - Sciences

World Timeline - EpochViet - Asian Report - State Government

 

 

https://lens.monash.edu/@politics-society/2022/08/19/1384992/much-azov-about-nothing-how-the-ukrainian-neo-nazis-canard-fooled-the-world

 

 

with General Micheal Ryan

THÁNG 09-2023

 

US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS . TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC - COVERTACTION

EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS

 AP - NTD - REPUBLIC - TTV - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUS - TTRE - VTX - SONY - SOHA -TN CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW  NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR

POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN

NATURAL- PEOPLE- BRIGHTEON - CITY JOURNAL- EUGENIC- 21CENTURY - PULLMAN- SPUTNIK- COMPACT- DNYUZ

   

NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM

 

Vũ khí hạt nhân và chiến tranh Việt Nam

Hoa Kỳ và việc không sử dụng vũ khí hạt nhân kể từ năm 1945

 từ Nina Tannenwald, Điều cấm kỵ hạt nhân:

( Nhà xuất bản Đại học Cambridge)

 

tháng 3 năm 2003

 

Bài viết này, “Vũ khí hạt nhân và Chiến tranh Việt Nam,” là một chương trong cuốn sách sắp xuất bản của Nina Tannenwald, Điều cấm kỵ hạt nhân: Hoa Kỳ và việc không sử dụng vũ khí hạt nhân từ năm 1945 (từ Nhà xuất bản Đại học Cambridge). Cuốn sách tập trung vào cách tổng thống Mỹ và các cố vấn của ông nghĩ về việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong thời kỳ khủng hoảng, đồng thời phân tích các yếu tố quân sự, chính trị và quy chuẩn đã hạn chế việc sử dụng chúng. Cuốn sách lập luận rằng một điều cấm kỵ hạt nhân đã phát triển trong nền chính trị toàn cầu, điều này đã giúp coi vũ khí hạt nhân là vũ khí chiến tranh. Phân tích dựa trên nhiều nguồn tài liệu chính, bao gồm các tài liệu được giải mật và tài liệu thu được theo Đạo luật Tự do Thông tin, cũng như các hồi ký cá nhân và các cuộc phỏng vấn.

 

Nina Tannenwald là Trợ lý Giáo sư Nghiên cứu Gia đình Joukowsky tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Watson thuộc Đại học Brown, và hiện là Học giả Carnegie đang nghỉ phép tại Trung tâm Hợp tác và An ninh Quốc tế tại Đại học Stanford. Có thể liên hệ với cô ấy theo số 650-723-6840 hoặc ninat@stanford.edu.

 

Chưa bao giờ có khoảng cách quân sự giữa một siêu cường và một quốc gia phi hạt nhân

 

trạng thái lớn hơn; chưa bao giờ nó ít có khả năng được gọi đến.

 

Henry Kissinger, 1994.

 

Trong tất cả các trường hợp xung đột trong Chiến tranh Lạnh mà Hoa Kỳ có thể đã sử dụng vũ khí hạt nhân, Chiến tranh Việt Nam là một trong những thử nghiệm mạnh mẽ nhất về điều cấm kỵ đối với việc sử dụng chúng lần đầu. Tại Việt Nam, Hoa Kỳ đã chọn cách thua trong một cuộc chiến tranh nhục nhã và hủy diệt trước một đối thủ nhỏ bé, phi hạt nhân trong khi tất cả vũ khí hạt nhân của nước này vẫn nằm trên kệ. Trong mười năm cam kết quân sự với miền Nam Việt Nam trong những năm 1960 và 1970, Hoa Kỳ đã chịu tổn thất lớn về nhân lực, tiền bạc và trang thiết bị với cái giá chính trị to lớn. Các quan chức Mỹ nhiều lần tuyên bố rằng Mỹ không thể chấp nhận việc để mất Đông Nam Á vào tay chủ nghĩa cộng sản và rằng cuộc chiến này rất quan trọng đối với lợi ích, uy tín và an ninh của Mỹ.

 

Khi chiến tranh leo thang, Mỹ sẵn sàng duy trì các chính sách có sức tàn phá lớn. Chiến dịch Sấm Rền, bắt đầu vào tháng 3 năm 1965, kéo dài trong ba năm và thả nhiều quả bom xuống Việt Nam hơn số bom rơi xuống toàn bộ châu Âu trong Thế chiến thứ hai.[1] Bắt đầu từ năm 1969, các cuộc không kích của B-52 đã phá hủy nhiều vùng rộng lớn ở Bắc và Nam Việt Nam, Campuchia và Lào. Lực lượng Hoa Kỳ đã sử dụng thuốc diệt cỏ và chất làm rụng lá để phá hủy đất trồng trọt và rừng, ném bom lửa và bom napalm, và cuối cùng là rải mìn ở cảng Hải Phòng. Người ta ước tính có khoảng 3,6 triệu người Việt Nam, cả miền Bắc và miền Nam, đã thiệt mạng trong cuộc xung đột, và 58.000 người Mỹ.[2]

 

Chiến tranh Việt Nam cũng là một trường hợp tốt để khám phá vai trò của một điều cấm kỵ vì sự tương đồng được nhận thức rộng rãi với Chiến tranh Triều Tiên trong số những người ra quyết định của Hoa Kỳ vào thời điểm đó.[3] Ở Hàn Quốc, Hoa Kỳ đã chứng minh rằng, mặc dù gần như độc quyền về hạt nhân, một cường quốc hạt nhân vẫn có thể tham gia vào một cuộc chiến tranh phi hạt nhân có giới hạn. Tuy nhiên, do chi phí quân sự và chính trị của cuộc chiến đó đối với Hoa Kỳ, sau Triều Tiên, rất nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra về tính khả thi và mong muốn tiến hành một cuộc chiến tranh hạn chế khác theo cách tương tự.[4] Một bài học phổ biến mà Quân đội (cùng với một số nhà lãnh đạo chính trị) học được từ tình trạng bế tắc ở Triều Tiên là không bao giờ xảy ra một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á nữa, mà ý nghĩa thực sự của nó, mà những người trong chính quyền có khả năng tiếp cận kế hoạch quân sự đều hiểu, không bao giờ là một cuộc chiến tranh trên bộ chống lại Trung Quốc mà không có vũ khí hạt nhân. .

 

Nếu lãnh đạo Mỹ mong muốn sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam thì không thiếu đầu đạn cũng như không thiếu mục tiêu phù hợp. Các bến cảng, bến đỗ, đường tiếp tế, cầu, đường sắt và sân bay đều có thể bị tấn công dứt điểm bằng vũ khí có hiệu suất tương đối thấp. Như McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia cho các tổng thống Kennedy và Johnson, sau này đã nhận xét, những mục tiêu như vậy có thể đã bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân và rất có thể với tổn thất về người thấp hơn so với tổn thất về người trong cuộc chiến thực sự diễn ra.[7] Hơn nữa, nỗi lo sợ bị trả đũa hạt nhân không phải là mối lo ngại nổi bật. Bundy nhớ lại, Rất ít, nếu có, [việc không sử dụng vũ khí hạt nhân] vì sợ rằng những người bạn của [Miền Bắc] Việt Nam có đầu đạn của riêng họ, người Nga hoặc người Trung Quốc, sẽ sử dụng một số trong số chúng để đáp trả.[8]

 

Với bối cảnh này, một trong những đặc điểm đáng chú ý của Chiến tranh Việt Nam là các nhà lãnh đạo Mỹ ít suy nghĩ nghiêm túc về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Bất chấp cam kết tránh thất bại, các lý thuyết phổ biến về chiến tranh hạt nhân hạn chế và mức độ tàn phá gây ra cho Việt Nam bằng các biện pháp thông thường, các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ chưa bao giờ thực sự tiến gần đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc xung đột. Tổng thống Kennedy và Johnson ít xem xét nghiêm túc các lựa chọn hạt nhân và từ chối đưa ra bất kỳ mối đe dọa hạt nhân nào, mặc dù có một số khuyến nghị nên làm như vậy. Trong khi Tổng thống Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger tích cực khám phá các lựa chọn hạt nhân hơn và tham gia vào các mối đe dọa hạt nhân mơ hồ, cuối cùng họ cũng không tiến gần đến việc thực sự sử dụng vũ khí như vậy trong cuộc xung đột.

 

Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn không phải là vấn đề như Bundy đã miêu tả trong lịch sử uy nghiêm của ông về việc ra quyết định hạt nhân.[9] Trên thực tế, chúng là ẩn ý đang diễn ra của một cuộc chiến diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân đã được thảo luận trong nhiều cuộc họp khác nhau của các quan chức cấp cao trước đợt triển khai quân lớn đầu tiên của Mỹ vào tháng 3 năm 1965 và trong những khoảng thời gian lẻ tẻ cho đến năm 1972. Cả các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị đều nghĩ rằng vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ hữu ích về mặt quân sự, và thậm chí là cần thiết, nếu xung đột mở rộng và các nhà lãnh đạo Mỹ nhận được khuyến nghị sử dụng chúng hoặc đe dọa sử dụng chúng từ những cá nhân có uy tín, trong đó có chính Bundy. Ngoài ra, Nixon và Kissinger cũng đã tự mình suy nghĩ về điều đó.

 

Tại sao các nhà lãnh đạo Mỹ không sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật để tránh một thất bại đáng tiếc và có thể rút ngắn chiến tranh, cứu mạng sống và kho báu của người Mỹ? Nỗi sợ leo thang chiến tranh không kiểm soát được với Nga hoặc Trung Quốc là một phần quan trọng của lời giải thích. Tuy nhiên, những rủi ro như vậy đã bị tranh cãi gay gắt trong suốt cuộc chiến, và quân đội cũng như hầu hết các nhà lãnh đạo chính trị chủ chốt đều tán thành các chính sách liên quan đến việc mạo hiểm chiến tranh với Trung Quốc nếu cần thiết. Với tình hình này, những hạn chế về mặt chính trị và quy phạm đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân trở nên đặc biệt nổi bật. Cuối cùng, mặc dù vũ khí hạt nhân có thể hữu ích về mặt quân sự trong chiến tranh, nhưng rõ ràng là vào thời điểm chiến tranh diễn ra, chúng không thể sử dụng được về mặt chính trị, và đối với một số quan chức, thậm chí còn không thể chấp nhận được về mặt đạo đức.

 

Chính quyền Johnson và Việt Nam

 

Năm 1961, Tổng thống Kennedy đã từ chối can thiệp vào cuộc khủng hoảng ở Lào, bất chấp khuyến nghị của hầu hết các cố vấn của ông khi làm như vậy - ngay khi ông nhận ra rằng quân đội Mỹ chắc chắn sẽ bị áp đảo về số lượng trên bộ và các chỉ huy quân đội Mỹ sẽ trông cậy vào vũ khí hạt nhân để giải quyết vấn đề. cân bằng.[10] Vấn đề vũ khí hạt nhân lại nảy sinh dưới thời Tổng thống Johnson trong bối cảnh quyết định can thiệp quân sự vào Việt Nam năm 1964-65, mà đỉnh điểm là chiến dịch ném bom Sấm Rền và đợt đưa quân đội Mỹ lớn đầu tiên vào tháng 3 năm 1965. đã gửi quân tới bảo vệ miền Nam Việt Nam, Bộ Tổng tham mưu liên quân thường xuyên thúc đẩy việc mở rộng chiến tranh, bao gồm cả các lựa chọn hạt nhân. Các cuộc thảo luận sâu rộng nhất của chính quyền Johnson về vũ khí hạt nhân diễn ra trong cuộc vây hãm Khe Sanh năm 1968, nhưng thậm chí điều này cũng không đi xa được. Có hai lời phê bình liên tục về việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong cuộc xung đột: Bản ghi nhớ nổi tiếng của Thứ trưởng Ngoại giao George Ball vào tháng 10 năm 1964 và một nghiên cứu mới được giải mật do nhà vật lý Freeman Dyson và ba nhà khoa học khác thực hiện vào năm 1966. Cả hai bài báo này đều bị bác bỏ mạnh mẽ. chống việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh.

 

 

Các kịch bản chính về sử dụng vũ khí hạt nhân

 

Kịch bản chính của việc sử dụng vũ khí hạt nhân là một cuộc chiến tranh trên bộ lớn chống lại quân đội Trung Quốc và Bắc Việt, mặc dù các phương án khác đôi khi được đề xuất. Cả các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị đều nghĩ rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong một cuộc chiến như vậy là có thể, và thậm chí có thể là cần thiết, để tránh thất bại. Mặc dù các chỉ huy quân sự đôi khi bị chia rẽ về việc liệu vũ khí hạt nhân có cần thiết trong một cuộc chiến rộng lớn hơn hay không, các Tham mưu trưởng liên quân đã ước tính rằng vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ hữu ích về mặt quân sự, lập luận trong một bản ghi nhớ vào tháng 3 năm 1964 rằng các cuộc tấn công hạt nhân sẽ có xác suất xảy ra cao hơn nhiều. ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc hơn là đáp trả bằng vũ khí thông thường.[11] Như một nhóm công tác của JCS đã nói, Chắc chắn không có người có trách nhiệm nào đề xuất tiến hành một cuộc chiến như vậy [chống lại Bắc Việt và Trung Quốc], nếu nó xảy ra, trên cơ sở gần giống với Hàn Quốc. Tất nhiên, ngay cả việc sử dụng vũ khí hạt nhân vào một thời điểm nào đó cũng có thể là lý do tại sao chúng ta chi hàng tỷ USD để sở hữu chúng.[12] Về cơ bản, các Tham mưu trưởng liên quân cho rằng các chính sách thời Eisenhower vẫn có hiệu lực mà Hoa Kỳ đã thực hiện để bảo vệ nhiều khu vực với giả định rằng vũ khí hạt nhân sẽ được sử dụng khi cần thiết và chúng sẽ có hiệu quả.

 

Ví dụ, các nhà lãnh đạo quân sự không chắc chắn liệu việc ném bom thông thường vào các tuyến đường tiếp tế của Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam có đủ hay không và cho rằng cần phải có ít nhất lực lượng mặt đất và có thể cả vũ khí hạt nhân. Đô đốc Harry D. Felt, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) tin rằng trong trường hợp xảy ra một cuộc chiến tranh lớn trên bộ, không có cách nào khả thi để cầm chân lực lượng Cộng sản trên bộ mà không sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật, và đó là điều cần thiết là các chỉ huy Hoa Kỳ phải được tự do sử dụng chúng khi có kế hoạch dự phòng. Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Earle Wheeler phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn chặn các đường tiếp tế nhưng cho rằng chúng sẽ cần thiết trong một cuộc chiến lớn chống lại Trung Quốc, và chỉ nên được sử dụng trong những trường hợp cực đoan như cứu một lực lượng đang bị đe dọa hủy diệt hoặc tiêu diệt một mục tiêu đặc biệt như cơ sở vũ khí hạt nhân.[13] Tuy nhiên, Tướng Maxwell Taylor, người từng giữ chức Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và một thời gian làm đại sứ Mỹ tại miền Nam Việt Nam, lại tỏ ra nghi ngờ hơn về sự cần thiết của vũ khí hạt nhân.[14]

 

Các nhà lãnh đạo chính trị hàng đầu đã đi xa đến mức các Tham mưu trưởng liên quân. Nhưng trong các cuộc thảo luận năm 1964-65 về việc có nên can thiệp vào chiến tranh hay không, họ đã nêu ra vấn đề vũ khí hạt nhân và dường như đã sẵn sàng chấp nhận rằng chúng phải sẵn sàng để sử dụng. Đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, Henry Cabot Lodge, trong các cuộc gặp vào tháng 4 và tháng 5 năm 1964, đã đặt ra câu hỏi liệu có cần vũ khí hạt nhân để bảo vệ miền Nam Việt Nam hay không. Trong cuộc họp vào ngày 27 tháng 4, Ngoại trưởng Dean Rusk bày tỏ lo ngại về việc liệu điều này có lôi kéo được Liên Xô hay không, đồng thời lưu ý rằng ông rất ấn tượng với việc Tưởng Giới Thạch bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân. William Bundy, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách vùng Viễn Đông, cho rằng việc sử dụng hạn chế các loại vũ khí như vậy để ngăn chặn ở những khu vực không có dân cư có thể lại là một câu chuyện khác. Rusk tỏ ra nghi ngờ rằng điều này có thể có hiệu quả, mặc dù anh cho rằng một số mối đe dọa có thể hữu ích. [15]

 

Vào tháng 11 năm 1964, ngay sau khi Johnson tái đắc cử tổng thống, một lực lượng đặc nhiệm liên ngành do William Bundy chủ trì đã được thành lập để phân tích các đường hướng hành động chính của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong các bình luận bằng văn bản về các dự thảo đưa ra ba lựa chọn A, B và C, Bundy đã hỏi về Lựa chọn B, đường lối hành động tích cực nhất, Ở giai đoạn nào, nếu có, vũ khí hạt nhân có thể được yêu cầu và ở quy mô nào. ? Ý nghĩa của việc sử dụng như vậy là gì? Ông nhận xét: Đây rõ ràng là một vấn đề nhạy cảm. Tổng thống có thể muốn một câu trả lời chính xác hơn những gì xuất hiện trên báo chí.[16]

 

Vào ngày 23 tháng 11, JCS, trong một bản ghi nhớ gửi Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, đã chỉ trích lựa chọn A là không thỏa đáng và đưa ra các phiên bản riêng của họ về các lựa chọn B và C, trong đó sẽ bao gồm một quyết định trước để tiếp tục gây áp lực quân sự, nếu cần thiết, đến mức tối đa. giới hạn về những hành động quân sự có thể đóng góp vào các mục tiêu quốc gia của Hoa Kỳ.[17] Trong bối cảnh đó, việc đề cập đến vũ khí hạt nhân là không thể nhầm lẫn. Các Bộ trưởng đã lập luận trước đó, vào ngày 10 tháng 11, rằng nguy cơ xung đột hạt nhân sẽ ngăn cản sự can thiệp của cộng sản Trung Quốc, đồng thời bày tỏ rõ ràng sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân nếu Trung Quốc can thiệp.[18]

 

Trong cuộc họp của Ủy ban điều hành (ExCom) của NSC ngày 24/11 để thảo luận về 3 phương án, có người đã hỏi liệu vũ khí hạt nhân có thể được sử dụng hay không. McNamara nói rằng ông không thể tưởng tượng được trường hợp nào chúng sẽ được xem xét, nhưng McGeorge Bundy nghĩ rằng trong một số trường hợp nhất định, có thể có áp lực chính trị và quân sự để xem xét việc sử dụng chúng.[19] Tuy nhiên, không có câu trả lời chính xác nào được đưa ra, và Hồ sơ Lầu Năm Góc ghi chú sau một đề cập không thuyết phục về vũ khí hạt nhân và một lần nữa, vấn đề này không thực sự được tiếp tục.[20] ExCom cuối cùng đã chọn tùy chọn C, kế hoạch của Chiefs, với một số sửa đổi. Bản thảo cuối cùng ngày 2 tháng 12 của bài viết (được Johnson phê duyệt vào ngày 7 tháng 12) đã kết hợp lời kêu gọi của các Tham mưu trưởng về các biện pháp đáp trả mạnh mẽ đối với sự leo thang của Bắc Việt,

 

Mặc dù không có vũ khí hạt nhân nào được triển khai tại Việt Nam nhưng chúng vẫn có mặt trên các tàu sân bay và được dự trữ trong khu vực, số lượng ngày càng tăng cho đến giữa năm 1967.[22] Các kế hoạch của CINCPAC nhằm leo thang chiến tranh lớn bao gồm cả các lựa chọn hạt nhân và phi hạt nhân. Lịch sử của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương được giải mật gần đây xác nhận sự tồn tại của các kế hoạch chiến tranh hạt nhân này, lần đầu tiên được tiết lộ trong Hồ sơ Lầu Năm Góc.[23] Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự can thiệp của Trung Quốc vào các hoạt động thù địch sẽ yêu cầu thực hiện CINCPAC OPLAN 39-65 và/hoặc OPLAN 32-64. Trong trường hợp Trung Quốc tham chiến, lực lượng Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC) sẽ tấn công các mục tiêu được chọn ở Trung Quốc bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân và/hoặc phi hạt nhân, theo chỉ đạo của JCS.[24] Ngoài ra, khi Thủy quân lục chiến Mỹ đến Đà Nẵng vào tháng 3 năm 1965, họ đã mang theo những khẩu pháo 8 inch có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, mặc dù họ không có đầu đạn hạt nhân.[25] Do đó, Hoa Kỳ sẽ tương đối dễ dàng thay đổi tính chất của cuộc chiến tranh sang chiến tranh hạt nhân.

 

Tuy nhiên, có một số hạn chế trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân, bao gồm nguy cơ leo thang, chi phí chính trị và các cân nhắc về đạo đức.

 

Rủi ro leo thang không chắc chắn

 

Hạn chế vật chất quan trọng nhất trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân là nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh rộng hơn với Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Mỹ lo ngại rằng việc Mỹ xâm chiếm miền Bắc Việt Nam hoặc việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở đó có thể khiến Trung Quốc tham chiến. Chiến thắng trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc có thể đòi hỏi phải sử dụng vũ khí hạt nhân. Trong một kịch bản xa xôi nhưng xấu nhất, điều này có thể kích động Liên Xô tham chiến, mặc dù hầu hết các quan chức Mỹ đánh giá điều này khó xảy ra. Do đó, Hoa Kỳ có thể buộc phải sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên, với những hậu quả khó lường và có thể là thảm khốc.

 

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự bất đồng gay gắt về những rủi ro leo thang như vậy trong suốt cuộc chiến. JCS có xu hướng coi họ thấp hơn nhiều so với các nhà lãnh đạo chính trị, và do đó sẵn sàng tán thành các chính sách hiếu chiến hơn. Các tù trưởng cùng với các chỉ huy trên chiến trường luôn vận động để mở rộng chiến tranh và dỡ bỏ những hạn chế trong giao tranh như là cách duy nhất để đạt được chiến thắng. Vào ngày 22 tháng 1 năm 1964, họ nói với McNamara rằng Hoa Kỳ phải sẵn sàng gạt bỏ nhiều hạn chế tự đặt ra hiện đang hạn chế hiệu quả của chúng ta và thực hiện những hành động táo bạo hơn có thể chứa đựng những rủi ro lớn hơn. Họ chủ trương một chiến dịch ném bom mạnh mẽ chống lại miền Bắc Việt Nam và đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ vào cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Đáp lại, McNamara chỉ đạo họ lập kế hoạch cho một chiến dịch hành động bí mật và các cuộc tấn công trên không và trên biển vào miền Bắc Việt Nam nhưng không bao gồm vũ khí hạt nhân. JCS sau đó phàn nàn rằng nếu Trung Quốc tham gia chiến tranh thì có thể cần đến vũ khí hạt nhân, và đệ trình một kế hoạch mà đỉnh điểm là tấn công vào cơ sở sản xuất nguyên tử của Trung Quốc, nơi sẽ sản xuất bom vào tháng 10 năm 1964. McNamara ban đầu cũng có lập trường hung hăng tương tự về vấn đề này, nhưng sau đó thu nhỏ lại trước khi trình lên Tổng thống.[26]

 

Cựu tổng thống Eisenhower, người đã kêu gọi tham vấn về Việt Nam vào tháng 2 năm 1965, ngay trước quyết định cuối cùng ủng hộ việc triển khai quân lớn đầu tiên của Mỹ, đã nhận thấy lựa chọn hạt nhân là hoàn toàn hợp lý. Ông nói với Tổng thống Johnson và các cố vấn cấp cao rằng ông nghĩ người Trung Quốc sẽ không tham chiến, nhưng nếu họ làm vậy thì ông sẽ sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào được yêu cầu, kể cả vũ khí hạt nhân nếu cần thiết. Ông khuyến nghị sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trên tàu sân bay để trả đũa ngay lập tức, gợi ý rằng chúng có thể được sử dụng trong các đội quân lớn và các kho tiếp tế. Theo quan điểm của ông, điều này sẽ không làm tăng cơ hội leo thang căng thẳng. Nhấn mạnh lợi ích của các mối đe dọa răn đe, ông đề nghị đe dọa Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân.[27]

 

Hơn nữa, như đã làm trong Chiến tranh Triều Tiên, ông rõ ràng ủng hộ việc thách thức điều cấm kỵ về việc sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu tiên. Ông nói, Hoa Kỳ không nên bị ràng buộc bởi những hạn chế của Chiến tranh Triều Tiên, bao gồm cả thỏa thuận của các quý ông về việc không sử dụng vũ khí hạt nhân. Điều này sẽ giúp người Trung Quốc đứng ngoài cuộc chiến.[28] Quan điểm này được chia sẻ bởi lãnh đạo miền Nam Việt Nam, Tướng Nguyễn Khánh, người đã nói với Rusk trong chuyến thăm của Rusk tới Đông Nam Á vào tháng 4 năm 1964 rằng theo quan điểm của ông, Hoa Kỳ có thể sử dụng bất cứ thứ gì họ muốn để chống lại Trung Quốc.[29] Háo hức mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Khánh không phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân, đồng thời lưu ý trong một trường hợp khác rằng việc ném bom nguyên tử một cách quyết liệt vào Nhật Bản đã cứu sống không chỉ người Mỹ mà cả người Nhật.[30]

 

Tuyên bố của Eisenhower gợi ý rằng ông, giống như JCS, nhận thấy có ít hạn chế vật chất đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ông tin rằng vũ khí hạt nhân sẽ hữu ích trên chiến trường, nhận thấy rủi ro leo thang ở mức tối thiểu và không thể hiện mối lo ngại rõ ràng nào về hậu quả lâu dài của việc sử dụng chúng. Ông không đưa ra bất kỳ lời cảnh báo nào với Johnson và các cố vấn của ông. Theo quan điểm của ông, hạn chế chính trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân là một thỏa thuận mang tính chuẩn mực chính trị - mà ông chủ trương phá bỏ. Có thể lập luận rằng ông là một vị tướng già không còn được nhắc đến nữa, nhưng những tuyên bố của ông hoàn toàn nhất quán với những tuyên bố ông đưa ra khi còn làm tổng thống. [31]

 

Ngoại trưởng Rusk tán thành khuyến nghị của Eisenhower về việc tiến hành một chiến dịch gây áp lực chống lại miền Bắc Việt Nam, mặc dù ông không chia sẻ quan điểm của Eisenhower về vũ khí hạt nhân. Trong một bản ghi nhớ cá nhân mạnh mẽ gửi cho Tổng thống ngay sau cuộc gặp với Eisenhower, ông viết, Mọi thứ có thể nên được thực hiện để đẩy lùi cuộc xâm lược Hà Nội-Việt Cộng ngay cả khi có nguy cơ leo thang lớn.[32] Tại cuộc họp của NSC vào tháng 5 năm 1964, Rusk đã đề nghị chuyển một sư đoàn Mỹ ở Hàn Quốc tới Đông Nam Á và đưa ra tuyên bố công khai rằng bất kỳ cuộc tấn công nào vào Hàn Quốc sẽ bị đáp trả bằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân.[33] Ông tin rằng nếu sự leo thang dẫn đến một cuộc tấn công lớn của Trung Quốc, thì nó cũng sẽ liên quan đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân, một rủi ro mà ông sẵn sàng chấp nhận. Nhưng giống như quân đội, Rusk cho rằng rủi ro leo thang là thấp. Ông cho rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc là những người thực tế, sẽ hành động thận trọng, một phần vì kho vũ khí hạt nhân của Mỹ. Như ông đã lưu ý với Bộ trưởng Ngoại giao Romania vào tháng 10 năm 1965, Xét cho cùng, năng lực hạt nhân của Trung Quốc trong tương lai gần sẽ luôn ở mức tầm thường so với khả năng của Mỹ. Tuy nhiên, Rusk phản đối mạnh mẽ việc ném bom gần biên giới Trung Quốc, và, mặc dù ông nhận thấy mối đe dọa hạt nhân có tác dụng nào đó, không giống như Eisenhower, ông không thực sự ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân.[35]

 

Quan điểm lành tính của quân đội về nguy cơ leo thang đặc biệt đáng báo động đối với Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, người lo ngại về một cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài với Trung Quốc, có thể gây thương vong đáng kể cho Mỹ. Như ông đã viết trong một bản ghi nhớ hoài nghi nổi tiếng về việc Mỹ tiến hành cuộc chiến với McNamara, Bundy và Rusk vào tháng 10 năm 1964, Tại thời điểm này, chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng đối với việc sử dụng ít nhất là vũ khí hạt nhân chiến thuật. Người dân Mỹ sẽ không chấp nhận một lần nữa những thất vọng và lo lắng do chúng ta không tham gia chiến tranh hạt nhân ở Triều Tiên. Ball lo lắng rằng thực tế là không còn tình trạng thiếu đầu đạn hạt nhân phù hợp nữa đã loại bỏ một hạn chế quan trọng về vật chất đối với hoạt động sản xuất của họ.

 

Sử dụng. Việc hợp lý hóa việc rời bỏ sắc lệnh tự phủ nhận của Hàn Quốc sẽ là vì chúng ta không có vũ khí hạt nhân trên chiến trường vào năm 1950 nhưng chúng ta có chúng ngày nay.[36] Với tình hình có nhiều hạt nhân và đánh giá lành tính của quân đội về hậu quả của một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn hoặc việc sử dụng vũ khí hạt nhân, Ball lo lắng rằng có rất ít hạn chế về quân sự hoặc vật chất đối với việc phân tích các lựa chọn hạt nhân của quân đội.

 

Ball và những người khác nhạy cảm với rủi ro leo thang cũng lo lắng về phản ứng không chắc chắn của Liên Xô trước việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân. Ông viết trong bản ghi nhớ tháng 10 năm 1964, Mặc dù không thể chắc chắn, nhưng nhận định tốt nhất là Liên Xô không thể ngồi yên và để vũ khí hạt nhân được sử dụng chống lại Trung Quốc.[37] Tương tự, trong một bản ghi nhớ dài gửi cho Johnson cùng ngày với cuộc gặp với Eisenhower, Phó Tổng thống Hubert Humphrey, người phản đối quyết định mở rộng chiến tranh năm 1965, đã cảnh báo rằng nếu một cuộc chiến tranh với Trung Quốc bị loại trừ vào năm 1952-53 chỉ khi Nếu Hoa Kỳ đã có khả năng hạt nhân có thể sử dụng được thì việc biện minh cho một cuộc chiến như vậy bây giờ sẽ càng khó khăn hơn. Không ai thực sự tin rằng Liên Xô sẽ cho phép chúng ta tiêu diệt Trung Quốc Cộng sản bằng vũ khí hạt nhân, vì vị thế cường quốc thế giới của Nga sẽ bị suy giảm nếu nước này làm vậy.

 

Tuy nhiên, không giống như các cuộc khủng hoảng Chiến tranh Lạnh trước đây, trong cuộc xung đột ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ không nghĩ rằng chiến tranh với Liên Xô sắp xảy ra và không hề nản lòng trong việc tiến hành chiến tranh vì lo ngại Liên Xô sẽ tham gia chiến sự. Điều này là do sự chia rẽ Trung-Xô và sự thù địch công khai giữa hai cường quốc cộng sản vào giữa những năm 1960, cùng với sự hòa hoãn tương đối giữa Hoa Kỳ và Liên Xô sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Các ước tính tình báo chính thức của Hoa Kỳ nhất quán tuyên bố rằng khó có khả năng Trung Quốc hoặc Liên Xô sẽ can thiệp trừ khi Hoa Kỳ xâm chiếm miền Bắc Việt Nam bằng một cuộc phô trương quân đội lớn, ném bom Trung Quốc hoặc tấn công các tàu tiếp tế của Liên Xô tại cảng Hải Phòng. Ước tính tình báo quốc gia đặc biệt ngày 9 tháng 10, 1964 tuyên bố rằng Chúng tôi gần như chắc chắn rằng cả Hà Nội và Bắc Kinh đều lo lắng không tham gia vào loại chiến tranh mà trong đó sức nặng lớn của vũ khí Mỹ có thể được sử dụng để chống lại họ. Ngay cả khi Hà Nội và Bắc Kinh ước tính rằng Mỹ sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại họ, họ cũng không thể chắc chắn về điều này….[40]

 

Đến giữa năm 1965, chính quyền tin rằng cam kết của Liên Xô trong việc cải thiện quan hệ lâu dài với phương Tây được ưu tiên hơn việc hỗ trợ cho miền Bắc Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1965, sau khi chiến dịch Sấm Rền bắt đầu, lãnh đạo Trung Quốc Chu Ân Lai đã ra tín hiệu cho Washington thông qua người Pakistan và người Anh rằng lực lượng Trung Quốc sẽ không can dự quân sự vào Việt Nam nếu Hoa Kỳ kiềm chế xâm lược miền Bắc Việt Nam hoặc Trung Quốc và không ném bom miền Bắc Việt Nam. Đê sông Hồng phía Bắc. Tuy nhiên, nếu chiến tranh nổ ra, ngay cả vũ khí hạt nhân cũng không buộc họ phải rút lui, và chiến tranh sẽ không có ranh giới.[41]

 

Tuy nhiên, Tổng thống Johnson đã quyết tâm, thậm chí bị ám ảnh, với việc kiềm chế chiến tranh, một quan điểm được chia sẻ bởi McNamara và những người khác, những người cho rằng ngay cả khi rủi ro thực sự của một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn là thấp thì hậu quả vẫn không thể chấp nhận được. Vấn đề là nguy cơ leo thang không kiểm soát được, có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc. Johnson và các cố vấn của ông, những người kỳ cựu trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, đã cam kết hạn chế càng nhiều càng tốt khu vực địa lý của cuộc xung đột và số lượng vũ lực được sử dụng. Đặc biệt, Johnson bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi không ngừng về sự can thiệp của Liên Xô và Trung Quốc.[42]

 

Tuy nhiên, mặc dù mối lo ngại leo thang đóng một vai trò nào đó nhưng chúng vẫn chưa được xác định rõ ràng. Trong khi các nhà lãnh đạo quốc gia rõ ràng muốn tránh leo thang có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh thông thường hoặc chiến tranh hạt nhân quy mô lớn, các quan chức chính trị và quân sự hàng đầu lại không đồng tình mạnh mẽ về những rủi ro và hậu quả của việc leo thang.[43] Trên thực tế, nỗi lo sợ thất bại ở Việt Nam liên tục khiến những rủi ro leo thang đáng kể có thể chấp nhận được. Vào ngày 9 tháng 2 năm 1965, McGeorge Bundy viết cho Thượng nghị sĩ Mike Mansfield rằng chính quyền sẵn sàng chấp nhận rủi ro chiến tranh với Trung Quốc, và ngụ ý sẵn sàng hy sinh ít nhất tương đương với Chiến tranh Triều Tiên.[44] Mặc dù các nhà lãnh đạo dân sự hàng đầu không ủng hộ hay ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân, và mặc dù McNamara sau này nhớ lại rằng mình đã kinh hoàng trước quan điểm của JCS về vũ khí hạt nhân, vào những thời điểm trong giai đoạn 1964-1965,

 

Mối quan tâm chính trị và quy chuẩn

 

Trước sự không chắc chắn và bất đồng về rủi ro leo thang, những lo ngại chính trị và quy chuẩn về việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể đã trở nên đặc biệt nổi bật, nếu không muốn nói là mang tính quyết định, đối với nhiều quan chức hàng đầu. Giống như ở Triều Tiên, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ lo ngại rằng, do sự ghê tởm của công chúng thế giới đối với vũ khí hạt nhân thậm chí còn mạnh hơn cả những năm 1950, việc sử dụng vũ khí như vậy trong cuộc xung đột ở Việt Nam sẽ gây nguy hiểm cho vị thế lãnh đạo và đạo đức của Hoa Kỳ trong mắt bạn bè và đồng minh, đặc biệt nếu Hoa Kỳ Các bang lại sử dụng chúng với người châu Á. Trong một bản ghi nhớ gửi Tổng thống Johnson, Thứ trưởng Ball viết: Sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại người Trung Quốc rõ ràng sẽ gây ra những vấn đề chính trị sâu sắc nhất. Việc sử dụng chúng không chỉ tạo ra những áp lực không thể cưỡng lại được đối với sự can dự lớn của Liên Xô,

 

Thật vậy, các nhà lãnh đạo nước ngoài đã cảnh báo riêng tư và công khai về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tưởng Giới Thạch, lãnh đạo nước Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc, nói với Rusk trong chuyến đi của Rusk tới Đông Nam Á vào tháng 4 năm 1964 rằng về nguyên tắc ông phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề Trung Quốc.[46] Trở về Washington, Rusk báo cáo với NSC rằng ông rất ấn tượng trước tuyên bố đầy nhiệt huyết của Tưởng rằng chiến tranh hạt nhân ở châu Á là sai lầm.[47] Việc Tưởng phản đối sử dụng vũ khí hạt nhân chắc chắn một phần xuất phát từ lo ngại của ông rằng Đài Loan sẽ là đối tượng rất có thể bị Trung Quốc phản công, có thể áp đảo, và Tưởng cùng chế độ của ông ta sẽ gặp nguy hiểm. Một tháng sau, tại Honolulu, Rusk lưu ý rằng nhiều nhà lãnh đạo thế giới tự do sẽ phản đối việc [sử dụng vũ khí hạt nhân] này. [48] ​​Khi đại sứ Pháp tại Washington gợi ý với Rusk vào tháng 7 năm 1964 rằng mối đe dọa hạt nhân có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đối với người Trung Quốc, Rusk lại trả lời rằng người châu Á, kể cả Tưởng Giới Thạch, phản đối mạnh mẽ việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở nước này. Châu Á.[49] Các nhà lãnh đạo nước ngoài khác kêu gọi kiềm chế bao gồm U Thant, Tổng thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Lester Pearson của Canada và thủ tướng Anh Harold Wilson.[50] Sự phản đối ngày càng tăng của công chúng đối với cuộc chiến đã khiến các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cảm thấy mất tinh thần trước sự phẫn nộ của công chúng thế giới rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể gây ra. [49] Các nhà lãnh đạo nước ngoài khác kêu gọi kiềm chế bao gồm U Thant, Tổng thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Lester Pearson của Canada, và thủ tướng Anh Harold Wilson.[50] Sự phản đối ngày càng tăng của công chúng đối với cuộc chiến đã khiến các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cảm thấy mất tinh thần trước sự phẫn nộ của công chúng thế giới rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể gây ra. [49] Các nhà lãnh đạo nước ngoài khác kêu gọi kiềm chế bao gồm U Thant, Tổng thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Lester Pearson của Canada, và thủ tướng Anh Harold Wilson.[50] Sự phản đối ngày càng tăng của công chúng đối với cuộc chiến đã khiến các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cảm thấy mất tinh thần trước sự phẫn nộ của công chúng thế giới rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể gây ra.

 

Nhưng không chỉ mối quan tâm và sự ghê tởm của người khác mới đóng vai trò quan trọng. Một điều cấm kỵ về hạt nhân đã trở nên cố hữu trong giới quan chức cấp cao của chính quyền Kennedy và Johnson. Đặc biệt, Tổng thống Johnson bị ám ảnh bởi việc hạn chế chiến tranh. Giống như Truman trong Chiến tranh Triều Tiên, ông ghê tởm ý nghĩ rằng mình có thể phải cân nhắc việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Hồi ký của ông không đề cập đến việc xem xét sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam.[51] Các cố vấn cấp cao của ông đã chứng minh một cách mạnh mẽ rằng ngay từ năm 1964, Johnson đã có suy nghĩ rõ ràng rằng ông sẽ không ra lệnh sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu tiên ngoại trừ trường hợp Liên Xô xâm lược mạnh mẽ ở châu Âu. Ông chưa bao giờ nêu ra với những cố vấn này câu hỏi người dân Mỹ sẽ ủng hộ quyết định sử dụng bom ở Việt Nam đến mức nào.[52]

 

Johnson đã lên tiếng mạnh mẽ trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964 khi Thượng nghị sĩ Barry Goldwater, người vận động tranh cử tổng thống của Đảng Cộng hòa vào tháng 5 năm 1964, đề xuất trong một bài phát biểu rằng vũ khí hạt nhân chiến thuật nên được đối xử giống như vũ khí thông thường hơn và chúng nên được sử dụng ở Việt Nam. Tháng 10 trước đó, Goldwater đã khuyến nghị giao trách nhiệm về các quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân cho các chỉ huy quân sự trên chiến trường trong một số trường hợp (Johnson, tiếp tục chính sách của Eisenhower, đã giao một số quyền nhưng chỉ trong những trường hợp rất hạn chế).[53] Trong một bài phát biểu tại Detroit vào Ngày lễ Lao động năm 1964, Johnson đã phản đối mạnh mẽ quan điểm của Goldwaters. Ông mô tả thảm họa của chiến tranh hạt nhân và nói: Đừng nhầm lẫn. Không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân thông thường. Anh ấy tiếp tục:

 

Trong 19 năm đầy hiểm nguy, không quốc gia nào thả bom nguyên tử để chống lại quốc gia khác. Làm như vậy bây giờ là một quyết định chính trị ở mức cao nhất. Và nó sẽ dẫn chúng ta vào con đường không chắc chắn của những đòn đánh và đòn phản công mà kết cục không ai có thể biết được. Không có Tổng thống Hoa Kỳ nào có thể thoái thác trách nhiệm về một quyết định như vậy. [54]

 

Việc đề cập đến 19 năm đầy rẫy hiểm nguy là một điều mạnh mẽ và tuyên bố của Johnson nhấn mạnh cả truyền thống không sử dụng lẫn nỗi lo sợ về sự leo thang không thể kiểm soát. Bundy sau này viết rằng mặc dù có yếu tố chính trị trong bài phát biểu của Johnson nhưng cũng có niềm tin sâu sắc.[55] Hai yếu tố dường như là chìa khóa trong suy nghĩ của Johnson: tác động lâu dài của bất kỳ việc sử dụng bom nào đối với sự tồn tại của năng lượng được cân nhắc một cách thận trọng và mong muốn không trở thành tổng thống đầu tiên sau 20 năm sử dụng vũ khí hạt nhân, tức là phá vỡ truyền thống mạnh mẽ về việc không sử dụng giờ đây đã trở thành một điều cấm kỵ. Johnson không muốn trở thành tổng thống tạo tiền lệ cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Đối với ông, có vẻ như việc sử dụng bom ở Việt Nam thực sự là điều không thể tưởng tượng được.

 

Nhiều cố vấn của Johnson, đặc biệt là Robert McNamara và Dean Ruskal, đã có sẵn niềm tin vững chắc về vũ khí hạt nhân vào thời điểm này. Các cuộc khủng hoảng Chiến tranh Lạnh ở Berlin và Lào (1961) và tên lửa của Liên Xô ở Cuba (1962) đã buộc họ phải đối mặt với khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Kinh hoàng trước học thuyết hạt nhân của Eisenhower về việc trả đũa ồ ạt, Kennedy và các cố vấn của ông đã tìm kiếm các kế hoạch chiến tranh linh hoạt hơn, trong đó chú trọng nhiều hơn đến vũ khí thông thường. Hơn nữa, vào đầu những năm 1960, một cuộc tranh luận nổi lên giữa nhóm các nhà phân tích kiểm soát vũ khí dân sự non trẻ về giá trị của chính sách không sử dụng đầu tiên đã bắt đầu thách thức logic của chính sách răn đe hiện hành của Hoa Kỳ dựa trên mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân trước.[ 56]

 

Dưới thời McNamara, Lầu Năm Góc bắt đầu sửa đổi Chính sách An ninh Quốc gia Cơ bản (BNSP) của Eisenhower, nhưng quá trình này sa lầy vào một số vấn đề nan giải, một trong số đó là câu hỏi khó hiểu về việc khi nào, nếu có, vũ khí hạt nhân chiến thuật có thể được sử dụng. Đó là một trong nhiều lý do tại sao chưa bao giờ có một BNSP được thống nhất cuối cùng cho chính quyền Kennedy. Walt Rostow, một người diều hâu đã đảm nhận quá trình sửa đổi kế hoạch khi ông trở thành người đứng đầu Bộ phận hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao vào năm 1962, nhận thấy vai trò của vũ khí hạt nhân chiến thuật là một vấn đề khó giải quyết. Nó vẫn là một vấn đề nan giải chưa được giải quyết vì sự khác biệt về quan điểm ở Lầu Năm Góc.[57] Do đó, dự thảo BNSP chỉ đơn giản là đưa ra một tuyên bố về tình thế tiến thoái lưỡng nan do vũ khí hạt nhân chiến thuật đặt ra: chúng cực kỳ quan trọng trong vai trò ngăn chặn cuộc tấn công thông thường quy mô lớn ở châu Âu và các nơi khác,

 

Sự phản đối ngày càng tăng đối với chính sách sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật phản ánh đáng kể quan điểm cá nhân của McNamara. Ngay từ đầu trong nhiệm kỳ bộ trưởng quốc phòng, McNamara đã phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân, coi chúng là phản cảm về mặt đạo đức và thiếu tiện ích, những vấn đề mà ông thường cùng nhau giải quyết. Ông đã kinh hoàng trước bản tóm tắt mà ông nhận được vào đầu tháng 2 năm 1961, chỉ mới nhậm chức được hai tuần, từ Tướng Thomas Power, tư lệnh Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC), về SIOP-62, kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Hoa Kỳ kế thừa từ Eisenhower. sự quản lý. Nó kêu gọi một cuộc tấn công phủ đầu toàn diện vào Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc, sử dụng sức nổ gấp một triệu lần so với vụ nổ ở Hiroshima, để đáp lại một cuộc xâm lược thực tế hoặc đơn thuần sắp xảy ra vào châu Âu của Liên Xô có liên quan. không hề có vũ khí hạt nhân. [58] Hàng triệu người Trung Quốc sẽ bị tiêu diệt mà không có lý do rõ ràng. Trở về Washington, McNamara ra lệnh xem xét lại kho dự trữ hạt nhân, cuối cùng dẫn đến việc đơn phương cắt giảm 50% trọng lượng dự trữ. Ông cũng ra lệnh tăng cường khả năng phi hạt nhân để chống lại sự xâm lược thông thường để Hoa Kỳ không bị buộc phải dựa vào vũ khí hạt nhân chiến thuật.[59]

 

McNamara rõ ràng đã quyết định từ rất sớm rằng Hoa Kỳ không bao giờ nên tấn công trước bằng vũ khí hạt nhân. Điều này đã được làm rõ trong các tài liệu chính sách mà ông gửi cho chủ tịch JCS ngay sau cuộc họp báo về kế hoạch chiến tranh khiến ông rất băn khoăn.[60] Ông thường xuyên tuyên bố rằng ông đã khuyên riêng cả Kennedy và Johnson đừng bao giờ bắt đầu sử dụng vũ khí hạt nhân, và họ đã đồng ý.[61]

 

Daniel Ellsberg, một nhà lập kế hoạch của Lầu Năm Góc, người không đồng tình với chủ trương mạnh mẽ của McNamara về việc ném bom miền Bắc Việt Nam, và người sau này trở nên nổi tiếng vì làm rò rỉ Hồ sơ Lầu Năm Góc cho báo chí, tuy nhiên, cảm thấy rằng McNamara chia sẻ sự ghê tởm mạnh mẽ của cá nhân ông đối với vũ khí hạt nhân. Nhớ lại cuộc gặp riêng với McNamara năm 1961, trong đó McNamara nói một cách hết sức say mê về sự nguy hiểm của vũ khí hạt nhân và các kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Hoa Kỳ, Ellsberg viết rằng ngày hôm đó ông đã gây ấn tượng mạnh mẽ và tích cực với tôi với niềm tin chắc chắn rằng trong mọi trường hợp đều không được có cuộc chiến đầu tiên. việc sử dụng vũ khí hạt nhân của Mỹ ở châu Âu. Anh ấy nói thêm, tôi chưa bao giờ có cảm giác mạnh mẽ hơn ở người khác về nhận thức sâu sắc về tình huống này và mức độ quan tâm của anh ấy để thay đổi nó.[62] Sau cuộc họp, Trợ lý của McNamara nói với Ellsberg rằng suy nghĩ của Johnson về chủ đề này không khác McNamaras một chút nào. [63] Cuộc họp này diễn ra ngay cả trước cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, một sự kiện khiến McNamara nhận ra mối nguy hiểm của sự leo thang không kiểm soát được.

 

Giống như McNamara, Dean Rusk, Ngoại trưởng của cả Kennedy và Johnson, đều thấy vũ khí hạt nhân là điều ghê tởm. Với nền tảng về luật pháp quốc tế, ông đã áp dụng cách tiếp cận mang tính nguyên tắc mạnh mẽ đối với vấn đề ngoại giao và vai trò của Mỹ trên thế giới. George Ball, người không đồng ý với quan điểm khá tích cực của Rusk về cuộc chiến, tuy nhiên vẫn mô tả ông là một người có lòng chính trực và lòng vị tha phi thường.[64] Theo Rusk, chúng tôi chưa bao giờ cân nhắc nghiêm túc việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông ủng hộ việc sử dụng vũ lực một cách hung hãn nhưng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam và các nơi khác vì rủi ro hậu quả, chi phí chính trị, thiếu mục tiêu tốt ở Việt Nam, các lựa chọn thay thế thông thường phù hợp, nhưng đặc biệt là vì việc giết hại thường dân không thể chấp nhận được. [65] Rõ ràng là Rusk đã bị ấn tượng bởi sự phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân mà anh gặp phải trong các chuyến đi tới châu Á. Ông lưu ý rằng nhiều người châu Á dường như nhìn thấy yếu tố phân biệt chủng tộc trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ sẽ làm với người châu Á chứ không phải với người phương Tây?[66] Sau đó, ông viết, “Trong mọi trường hợp, tôi sẽ không tham gia vào lệnh tiến hành một cuộc tấn công đầu tiên [hạt nhân], ngoại trừ một cuộc tấn công quy mô lớn [của Liên Xô]”. ] cuộc tấn công thông thường vào Tây Âu,” điều mà ông cho là khó xảy ra.[67] Mục đích hợp lý duy nhất của vũ khí hạt nhân là đảm bảo rằng không ai khác sẽ sử dụng chúng để chống lại chúng ta.[68] Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ sẽ làm với người châu Á chứ không phải với người phương Tây?[66] Sau đó, ông viết, “Trong mọi trường hợp, tôi sẽ không tham gia vào lệnh tiến hành một cuộc tấn công đầu tiên [hạt nhân], ngoại trừ một cuộc tấn công quy mô lớn [của Liên Xô]”. ] cuộc tấn công thông thường vào Tây Âu,” điều mà ông cho là khó xảy ra.[67] Mục đích hợp lý duy nhất của vũ khí hạt nhân là đảm bảo rằng không ai khác sẽ sử dụng chúng để chống lại chúng ta.[68] Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ sẽ làm với người châu Á chứ không phải với người phương Tây?[66] Sau đó, ông viết, “Trong mọi trường hợp, tôi sẽ không tham gia vào lệnh tiến hành một cuộc tấn công đầu tiên [hạt nhân], ngoại trừ một cuộc tấn công quy mô lớn [của Liên Xô]”. ] cuộc tấn công thông thường vào Tây Âu,” điều mà ông cho là khó xảy ra.[67] Mục đích hợp lý duy nhất của vũ khí hạt nhân là đảm bảo rằng không ai khác sẽ sử dụng chúng để chống lại chúng ta.[68]

 

Đây là những lời thừa nhận đáng chú ý của McNamara và Rusk. Trên thực tế, các quan chức hàng đầu của Mỹ đã có những cam kết riêng tư về việc không sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu, một phần vì lý do đạo đức, mặc dù thực tế là những quan điểm đó mâu thuẫn trực tiếp với chính sách răn đe chính thức của Mỹ dựa vào việc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân. (Chúng cũng mâu thuẫn với kế hoạch của Hoa Kỳ về chiến tranh hạn chế, nhấn mạnh đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên trong cuộc xung đột với lực lượng lớn của Trung Quốc ở châu Á). McGeorge Bundy sau đó viết rằng ông tin rằng McNamara và Rusk sẽ từ chức nếu Tổng thống Johnson yêu cầu quyết định sử dụng bom ở Việt Nam, và Johnson thầm đánh giá cao điều này.[69]

 

Bản ghi nhớ bóng năm 1964

 

Phân tích có hệ thống nhất về hậu quả của việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam là của Thứ trưởng Ball trong bản ghi nhớ tháng 10 năm 1964. Trong khi ông một lần nữa nêu lên nguy cơ can thiệp của Liên Xô sau bất kỳ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nào, điểm nhấn chính của ông là về những hậu quả chính trị tiêu cực của bất kỳ việc sử dụng nào như vậy. Toàn bộ đoạn văn dưới tiêu đề Áp lực sử dụng vũ khí nguyên tử, hơn chục đoạn, được dành để đánh giá cái giá phải trả về mặt chính trị đối với giới lãnh đạo Hoa Kỳ đối với bất kỳ việc sử dụng bom nào. Không nơi nào ở đây ông đề cập đến nguy cơ trả đũa hạt nhân hoặc leo thang thành một cuộc chiến tranh rộng hơn, cũng như lợi ích quân sự của vũ khí hạt nhân, điều mà ông dường như cho rằng (ngược lại, khi ông đề cập đến nguy cơ Liên Xô can thiệp để đáp trả việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân). vũ khí hạt nhân,

 

Trong phân tích của mình, Ball lưu ý rằng trong mắt công chúng thiếu sự phân biệt có ý nghĩa giữa vũ khí chiến thuật và vũ khí chiến lược, cũng như cú sốc sâu sắc sẽ xảy ra sau bất kỳ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nào không chỉ ở Nhật Bản mà còn giữa các quốc gia không phải da trắng ở mọi châu lục. Ông dự đoán rằng sự mất uy tín của chúng ta ở các nước không liên kết và kém phát triển sẽ tăng lên rất nhiều nếu chúng ta buộc phải sử dụng dù chỉ một loại vũ khí hạt nhân.[70]

 

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là phân tích về hậu quả của việc hợp pháp hóa việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ball viết rằng nếu Hoa Kỳ sử dụng loại vũ khí đó,

 

…hành động của chúng ta sẽ giải phóng Liên Xô khỏi những ức chế mà tình cảm thế giới đã áp đặt lên nước này. Nó sẽ làm đảo lộn sự cân bằng mong manh giữa khủng bố mà phần lớn thế giới phải phụ thuộc vào để duy trì hòa bình. Cho dù Liên Xô có thực sự sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại các quốc gia khác hay không, thì việc chúng ta đưa ra lời biện minh cho việc sử dụng chúng sẽ tạo ra một làn sóng sợ hãi mới…. Đảng Cộng sản chắc chắn sẽ chỉ ra rằng chúng ta là quốc gia duy nhất từng sử dụng vũ khí hạt nhân. sử dụng vũ khí hạt nhân trong cơn tức giận. Và Liên Xô sẽ nhấn mạnh vị trí ưu việt tương đối của mình trong việc sở hữu một kho vũ khí hạt nhân mà họ chưa bao giờ sử dụng.

 

Ông viết: “Hậu quả của việc này không thể phóng đại được”. Việc Mỹ sử dụng bom lần đầu tiên sẽ cản trở tất cả những tiến bộ đạt được trong quan hệ giữa các siêu cường trong vài năm trước đó. Nó cũng sẽ tạo ra sự phẫn nộ trong nước đối với một Chính phủ đã đẩy nước Mỹ vào tình thế một lần nữa buộc chúng ta phải sử dụng năng lượng hạt nhân để làm mất uy tín của thế giới.[71]

 

Mối lo ngại của Ball về tiền lệ tiêu cực do việc sử dụng dù chỉ một loại vũ khí hạt nhân đặt ra chủ yếu không phải vì nó chứng tỏ rằng những vũ khí đó hữu ích về mặt quân sự hoặc nó sẽ mời gọi sự trả đũa của Liên Xô. Đúng hơn, nó gợi ý rằng vũ khí hạt nhân là hợp pháp. Nếu Mỹ sử dụng bom, Liên Xô sẽ thoải mái sử dụng nó để chống lại các quốc gia khác. Hợp pháp hóa việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ làm suy yếu sự hạn chế mang tính quy phạm lớn đối với việc sử dụng chúng trong wara yếu tố ổn định chính của răn đe hạt nhân thành công (cân bằng khủng bố). Nói cách khác, kỳ vọng mang tính quy chuẩn chung về việc không sử dụng là một yếu tố thiết yếu chứ không phải là giải pháp thay thế cho khả năng răn đe hạt nhân ổn định. Vì điều này, quốc gia nào phá vỡ truyền thống không sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ bị các quốc gia kỳ thị là kẻ bị hạ đẳng.

 

Bản ghi nhớ của Balls — hoặc ít nhất là một phần của nó — không được đón nhận nồng nhiệt. Rusk và McNamara hoàn toàn bác bỏ câu hỏi của ông về lập luận của chính quyền về việc ném bom thông thường vào miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, có vẻ như họ khá đồng tình với lập luận của ông về vũ khí hạt nhân, về cơ bản phù hợp với quan điểm riêng của họ.[72]

 

Lừa đảo hạt nhân

 

Tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy các quan chức Mỹ không hoàn toàn phản đối việc đưa ra các mối đe dọa hạt nhân. Vào ngày 22 tháng 4 năm 1965, ngay sau đợt triển khai quân đội Mỹ đầu tiên tới Việt Nam, và khi chính quyền Johnson đang chuyển trọng tâm sang nỗ lực lớn hơn để giành chiến thắng trong cuộc chiến trên bộ, McNamara đã đưa ra một cuộc họp báo không công khai cho các phóng viên. Sau khi xem xét và bảo vệ chiến lược của Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông đã đưa ra một chiêu trò lừa bịp hạt nhân mới. Một phóng viên tờ New York Times đã ghi lại lời của ông:

 

Chúng tôi KHÔNG tuân theo chiến lược công nhận bất kỳ khu bảo tồn hoặc bất kỳ hạn chế vũ khí nào. Nhưng chúng tôi sẽ chỉ sử dụng vũ khí hạt nhân sau khi áp dụng đầy đủ kho vũ khí phi hạt nhân. Nói cách khác, nếu 100 máy bay không thể tiêu diệt được mục tiêu thì chúng ta không nhất thiết phải sử dụng vũ khí hạt nhân; chúng tôi sẽ thử 200 chiếc máy bay, v.v. Nhưng việc hạn chế sử dụng vũ khí hạt nhân KHÔNG áp đảo. Thừa nhận nó sẽ là một bước tiến lớn. Trích dẫn: Chúng tôi sẽ sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào mà chúng tôi cảm thấy cần thiết để đạt được mục tiêu của mình, nhận ra rằng người ta phải bù đắp bằng giá cả — và cái giá đó bao gồm tất cả các yếu tố tâm lý, tuyên truyền, v.v. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến những người vô tội. Không thể tưởng tượng được trong hoàn cảnh hiện tại rằng điện hạt nhân sẽ mang lại lợi ích ròng so với mức giá khủng khiếp phải trả.

 

Những nhận xét này đã gây xôn xao dư luận khi chúng xuất hiện trên các mặt báo vào ngày 25 tháng 4, và McNamara đã sửa đổi công khai nhận xét của mình vào ngày hôm sau. Ông nói, không có yêu cầu quân sự nào đối với vũ khí hạt nhân trong tình hình hiện tại và có thể thấy trước, và không có mục đích hữu ích nào có thể được phục vụ bằng việc suy đoán về các tình huống bất ngờ từ xa.[74] Tuy nhiên, như David Kaiser lưu ý, lời đe dọa ban đầu của ông không thể là ngẫu nhiên.

 

Trong khi Eisenhower vẫn là người ủng hộ kiên định nhất về lợi ích của các mối đe dọa hạt nhân, ngay cả McGeorge Bundy cũng đùa giỡn với ý tưởng này. Trong một bản ghi nhớ gửi McNamara vào tháng 6 năm 1965 chỉ trích việc gia tăng quân đội Mỹ mà McNamara đang lên kế hoạch, Bundy lưu ý đến các mối đe dọa hạt nhân của Eisenhower trong Chiến tranh Triều Tiên và gợi ý rằng Hoa Kỳ ít nhất nên xem xét mối đe dọa thực tế nào về hành động lớn hơn có sẵn cho chúng ta đối với chúng ta. liên lạc với Hà Nội. Ông nói thêm, việc ngăn chặn hoàn toàn nguồn cung cấp cho miền Bắc Việt Nam bằng đường hàng không và đường biển có thể là một ứng cử viên cho tối hậu thư như vậy. Đây là những vũ khí có thể hữu ích hơn cho chúng ta nếu chúng ta không cần phải sử dụng đến chúng.[75] McNamara sau đó đã viết rằng ông không chia sẻ quan điểm của Bundy về vũ khí hạt nhân và đe dọa sử dụng chúng, mặc dù ông đã chia sẻ mọi thứ khác - một hồi ức có phần không nhất quán với hành vi của ông vào thời điểm đó.

 

Trò lừa đảo hạt nhân có thể chính là điều Bundy đề xuất – một chiến lược truyền đạt sự nghiêm túc tới Hà Nội và Moscow. Các nhà lãnh đạo Liên Xô thực sự đã biết rằng các quan chức Mỹ đang cân nhắc các lựa chọn hạt nhân, một viễn cảnh mà họ lo ngại nhất. Theo nhà sử học Ilya Gaiduk, dựa trên các tài liệu mới có được của Liên Xô, vào mùa hè năm 1965, các nhà lãnh đạo Liên Xô thường xuyên nhận được báo cáo rằng Hoa Kỳ có thể sử dụng vũ khí hạt nhân để trấn áp cuộc nổi dậy ở miền Nam Việt Nam. Vào tháng 6 năm 1965, tình báo Liên Xô thông báo cho Điện Kremlin rằng trong cuộc trò chuyện với Ngoại trưởng Ý Amintore Fanfani, Rusk đã thừa nhận rằng triển vọng sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam nằm trong chương trình nghị sự của các nhà hoạch định chính sách Mỹ.[78] Mặc dù không rõ mức độ tin cậy của báo cáo hoặc ý nghĩa chính xác của chương trình nghị sự, báo cáo rõ ràng đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Liên Xô xem xét nghiêm túc câu hỏi về sự sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân của Mỹ và ý định của chính quyền Johnson về vấn đề này.[79] Do đó, dường như đã có một số hình thức đe dọa hạt nhân, ngay cả khi đó là một trò lừa bịp.

 

Hiệu ứng cấm kỵ

 

Bất chấp những trò lừa bịp về hạt nhân, ngày càng rõ ràng rằng, trái ngược với Hàn Quốc mười năm trước, việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam thực sự ngày càng không thể tưởng tượng được. Việc thực hiện một điều cấm kỵ hạt nhân có thể được nhìn thấy theo nhiều cách khác nhau. để làm xói mòn điều cấm kỵ, và thậm chí chống lại việc phân tích các lựa chọn hạt nhân. Những diễn biến như vậy phản ánh gánh nặng ngày càng tăng về bằng chứng cho bất kỳ việc sử dụng vũ khí nào như vậy.

 

Các quan chức hàng đầu không chỉ phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân mà còn nhất quán với những suy nghĩ cấm kỵ, ngay cả việc phân tích đơn thuần những loại vũ khí đó theo kiểu chi phí-lợi ích bắt buộc mà chính quyền Kennedy nổi tiếng về cơ bản cũng là điều cấm kỵ. Samuel Cohen, một nhà vật lý vũ khí tại Tập đoàn RAND, người đã ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong Chiến tranh Triều Tiên và là một trong những người hiếm hoi đam mê lựa chọn như vậy trong Chiến tranh Việt Nam, đã đi ngược lại tư duy cấm kỵ. Như ông nhớ lại, bất cứ ai ở Lầu Năm Góc bị phát hiện đang suy nghĩ nghiêm túc về việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc xung đột này sẽ sớm bị bóp cổ. Mối quan hệ tốt đẹp trước đây của ông với các quan chức Lầu Năm Góc đã giảm sút vì quan điểm ủng hộ vũ khí hạt nhân của ông: Khi những người thuộc phe Kennedy bước vào, mối quan hệ của tôi với Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng tụt xuống gần như bằng không. Những người ở vị trí chủ chốt…không có ích gì cho quan điểm của tôi.[80]

 

Trong các trò chơi chiến tranh của Lầu Năm Góc, chẳng hạn như trò chơi được tổ chức vào tháng 9 năm 1964, để xác định xem liệu chỉ riêng hỏa lực thông thường có thể ngăn chặn sự can thiệp của Trung Quốc vào một cuộc chiến ở Đông Nam Á hay không, câu trả lời mà trò chơi đưa ra có lẽ là không. Tuy nhiên, chỉ một số ít các nhà lãnh đạo Mỹ trong trò chơi chiến tranh bỏ phiếu sử dụng vũ khí hạt nhân để phá hủy các cơ sở sản xuất hạt nhân của Trung Quốc và thực hiện một cuộc tấn công hạt nhân chung vào Trung Quốc.[81]

 

Một thách thức rõ ràng đối với điều cấm kỵ là nỗ lực được đề cập trước đó của Goldwater trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964 nhằm giới thiệu lại khái niệm về vũ khí hạt nhân thông thường - cùng một khái niệm mà Eisenhower và Dulles đã tìm cách thúc đẩy nhưng không thành công mười năm trước đó. Vào tháng 5 năm 1964, Goldwater công khai lập luận rằng vũ khí hạt nhân lẽ ra phải được sử dụng ở Điện Biên Phủ để làm rụng lá cây, và theo cách tương tự, vũ khí nguyên tử năng suất thấp nên được sử dụng làm chất làm rụng lá dọc biên giới miền Nam Việt Nam, cùng với việc mở rộng ném bom thông thường. chiến dịch Bắc Việt. Ý tưởng này ngay lập tức bị Tổng thư ký LHQ U Thant phản đối.[82] Chính quyền Johnson đã truy đuổi Goldwater với tác động tàn khốc, chạy các chương trình truyền hình chống Goldwater với chủ đề chống hạt nhân. [83] Lầu Năm Góc đáp lại sự điên rồ của Goldwater bằng cách mô tả các đặc tính kỹ thuật của vũ khí hạt nhân, cho rằng thật vô lý khi gọi chúng là vũ khí thông thường. Goldwater khẳng định quân đội sở hữu vũ khí hạt nhân rất nhỏ với sức nổ chỉ bằng một phần kiloton. Nhưng không có kết quả. Johnson đáp lại bằng bài phát biểu nổi tiếng trong Ngày Lao động rằng không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân thông thường. McNamara sau này đã viết về Goldwater, tuyên bố của ông ngụ ý rằng ông thấy không có sự khác biệt thực sự giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84] Goldwater khẳng định quân đội sở hữu vũ khí hạt nhân rất nhỏ với sức nổ chỉ bằng một phần kiloton. Nhưng không có kết quả. Johnson đáp lại bằng bài phát biểu nổi tiếng trong Ngày Lao động rằng không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân thông thường. McNamara sau này đã viết về Goldwater, tuyên bố của ông ngụ ý rằng ông thấy không có sự khác biệt thực sự giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84] Goldwater khẳng định quân đội sở hữu vũ khí hạt nhân rất nhỏ với sức nổ chỉ bằng một phần kiloton. Nhưng không có kết quả. Johnson đáp lại bằng bài phát biểu nổi tiếng trong Ngày Lao động rằng không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân thông thường. McNamara sau này đã viết về Goldwater, tuyên bố của ông ngụ ý rằng ông thấy không có sự khác biệt thực sự giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84] Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84] Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84]

 

Các tuyên bố của Goldwaters ủng hộ tính hợp pháp của vũ khí hạt nhân - giống như của Eisenhower và Dulles trước đó - thể hiện nỗ lực của công chúng nhằm thách thức điều cấm kỵ ngày càng tăng đối với việc sử dụng chúng bằng cách làm xói mòn ranh giới giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Phản ứng mạnh mẽ của chính phủ và công chúng đã minh họa cho quan điểm như vậy đối với hầu hết mọi người. Chính quyền Johnson đã sử dụng cuộc tranh cãi để thu được lợi ích chính trị, đánh vào nỗi lo sợ của công chúng về chiến tranh hạt nhân. Nhưng phản ứng mạnh mẽ của nó cũng nhằm củng cố và duy trì quan điểm được chia sẻ rộng rãi của công chúng cho đến thời điểm này rằng vũ khí hạt nhân không phải là vũ khí thông thường và tái khẳng định điều cấm kỵ. Những bình luận của Goldwater góp phần đáng kể vào thất bại vang dội của ông.[85] Vào giữa những năm 1960, việc ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong bài phát biểu tranh cử đã vượt quá giới hạn chấp nhận được của hầu hết mọi người.

 

Điều tra và thách thức điều cấm kỵ

 

Như ở Hàn Quốc, những người không đồng tình với chính sách chính thức cho rằng những lo ngại mang tính quy chuẩn đã ngăn cản các nhà hoạch định chính sách suy nghĩ hợp lý về các lựa chọn hạt nhân. Samuel Cohen, nhà khoa học vũ khí của RAND, đã cố gắng vô ích để thu hút sự quan tâm của Washington đến lợi ích của việc phân biệt đối xử vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông nhớ lại, tôi đã tập trung nghiên cứu cách sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn chặn Việt Cộng.[86] Lời kể của ông về những nỗ lực thúc đẩy các lựa chọn hạt nhân chiến thuật trong chiến tranh, cũng như phân tích của ông về việc các nhà hoạch định chính sách và các nhà khoa học phản đối lựa chọn này, cung cấp một góc nhìn hấp dẫn về hoạt động của điều cấm kỵ.

 

Như ông nhớ lại sau này, trong bài thuyết trình về vũ khí hạt nhân chiến thuật mà ông dành cho các nhà lập kế hoạch chủ chốt ở Bộ Ngoại giao vào năm 1965, rõ ràng là dù khán giả của ông có tò mò đến đâu từ quan điểm kỹ thuật thì họ vẫn kiên quyết phản đối việc phát triển và sử dụng vũ khí hạt nhân. loại vũ khí này từ quan điểm chính trị. Trong suốt cuộc nói chuyện, ông đã mô tả một số hệ thống vũ khí giả định trong đó vũ khí hạt nhân hiệu suất thấp sẽ được sử dụng để đẩy đạn kim loại hoặc trọng tải vũ khí thông thường khổng lồ. Trong một ví dụ, vụ nổ hạt nhân sẽ diễn ra trên chiến trường nhưng sẽ chỉ gây ra những tác động thông thường lên mục tiêu. Ông kỳ vọng rằng có thể sẽ có một số người quan tâm đến những lựa chọn này, mà ông cho rằng chúng hiệu quả và phân biệt đối xử hơn so với các cuộc tấn công nổ mạnh tiêu chuẩn. Thay vào đó, phe đối lập vẫn nhất trí, vì lý do đơn giản là bản chất của các hiệu ứng không thực sự được tính đến. Đúng hơn, thực tế là một vụ nổ hạt nhân đang diễn ra trên khu vực hoạt động của nhà hát.[87]

 

Bị thu hút bởi quan điểm chống hạt nhân, Cohen giờ đây đã cố gắng tìm hiểu xem nó sâu sắc đến mức nào. Ông mô tả một thiết bị giả định khác, một khẩu pháo nổ hạt nhân khổng lồ, nơi chất nổ có năng suất rất thấp có thể bắn những trọng tải thông thường khổng lồ đi xa hàng trăm dặm. Tác động quân sự của loại vũ khí hoàn toàn thông thường sẽ chỉ được cảm nhận trên chiến trường, trong khi nguồn năng lượng hạt nhân cần thiết để cung cấp những loại vũ khí này sẽ nằm ở bên ngoài khu vực chiến trường. Khán giả của ông vẫn kiên quyết phản đối và nhất trí rằng kế hoạch này cũng không thể chấp nhận được, ngay cả khi vụ nổ hạt nhân xảy ra ở Hoa Kỳ. Những phản ứng này đã gây ấn tượng với Cohen về cảm nhận sâu sắc của chính quyền đối với việc quân đội sử dụng chất nổ hạt nhân. Đến bây giờ tôi nhận ra rằng miễn là chất nổ hạt nhân được sử dụng trong cơn giận dữ, Hoa Kỳ chính sách cho rằng loại chất nổ và vị trí địa lý của vụ nổ là hoàn toàn không liên quan. Điểm mấu chốt là hành động kích nổ chất nổ trong lúc tức giận là một điều cấm kỵ về mặt chính trị.[88]

 

Những vũ khí hư cấu của Cohen là một công cụ rõ ràng và khéo léo để khám phá phạm vi và nội dung của điều cấm kỵ mà cá nhân ông không chia sẻ. Quả thực, từ không thể tưởng tượng được ngày càng len lỏi vào các cuộc thảo luận về vũ khí hạt nhân. Trong một bản ghi nhớ ngày 12 tháng 9 năm 1967 gửi cho Walt Rostow, người đã thay thế McGeorge Bundy làm cố vấn an ninh quốc gia, Robert Ginsburgh, cấp phó của Rostow, đã liệt kê bảy biện pháp quân sự để đạt được tốc độ tiến bộ ngoạn mục hơn trong cuộc chiến. Vụ cuối cùng là Tạo ra vùng đất hoang với vũ khí hạt nhân hiệu suất thấp ở phía Nam miền Bắc Việt Nam là điều hầu như không thể tưởng tượng được.[89]

 

Chiến tranh leo thang

 

Cả Bộ Tham mưu Liên quân và Tướng William Westmoreland, tư lệnh Mỹ ở Việt Nam, đều thúc ép thực hiện một chương trình ném bom đầy tham vọng hơn trong suốt năm 1966 và đến năm 1967. Họ vận động để leo thang chiến tranh và tăng thêm quân vào năm 1966, sau vụ đánh bom Giáng sinh năm 1965 bị chỉ trích nhiều. tạm dừng, và một lần nữa vào cuối tháng 5 năm 1967. Trong một bản ghi nhớ gửi McNamara vào ngày 20 tháng 5 năm 1967, các Tham mưu trưởng lập luận về việc tăng cường các cuộc không kích vào miền Bắc Việt Nam, và bày tỏ niềm tin của họ rằng các cuộc xâm lược Bắc Việt, Lào và Campuchia có thể trở nên cần thiết, liên quan đến việc triển khai lực lượng Mỹ tới Thái Lan, huy động quân dự bị và rất có thể là việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở miền nam Trung Quốc. Họ nhận ra rằng những hành động này có thể dẫn đến đối đầu với Trung Quốc và/hoặc Liên Xô ở Đông Nam Á hoặc các nơi khác, nhưng họ cho rằng những bước đi như vậy là cần thiết để rút ngắn những gì họ dự đoán nếu không sẽ là thêm 5 năm chiến tranh nữa.[90] McNamara sau đó mô tả rằng ông cảm thấy kinh hoàng trước cách thức ung dung mà quân đội đề xuất các chính sách gây hấn, theo quan điểm của ông, điều này gây ra những rủi ro không thể chấp nhận được về chiến tranh với Trung Quốc, bao gồm cả việc Mỹ có thể sử dụng vũ khí hạt nhân.[91]

 

Báo cáo Jason năm 1966

 

Nghiên cứu có hệ thống duy nhất được biết đến về vai trò của vũ khí hạt nhân chiến thuật trong chiến tranh được thực hiện bởi bốn nhà khoa học dân sự tư vấn cho chính phủ Hoa Kỳ với tư cách là thành viên của JASON - một nhóm gồm khoảng 40 nhà khoa học trẻ đã gặp nhau vào mùa hè hàng năm kể từ năm 1959 để xem xét việc phòng thủ- các vấn đề liên quan đến Lầu Năm Góc.[92] Khi chiến tranh leo thang vào mùa xuân năm 1966, một quan chức cấp cao của Lầu Năm Góc có cơ hội tiếp cận với Tổng thống Johnson đã được một nhà khoa học nghe thấy nói rằng: Thỉnh thoảng nên ném một quả bom hạt nhân vào, chỉ để giữ cái còn lại. đoán phụ.[93] Freeman Dyson, một trong những tác giả của báo cáo và là nhà vật lý tại Princeton, kể lại rằng điều này xảy ra tại một cuộc họp giao ban tại Bộ Ngoại giao hoặc tại một bữa tiệc không chính thức, trong khi Steven Weinberg, một nhà khoa học khác, khi đó đang rời Berkeley tại Harvard, nhớ lại tin đồn lan truyền rằng ai đó ở Lầu Năm Góc hoặc Hội đồng An ninh Quốc gia đang thúc đẩy việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam hoặc Lào.[94] Hai người này - cùng với Robert Gomer và S. Courtenay Wright, đều ở Chicago vào thời điểm đó - quá kinh hoàng trước tuyên bố này nên họ quyết định phải làm gì đó.[95]

 

Lo ngại rằng vũ khí hạt nhân không phải là điều không thể tưởng tượng được, các nhà khoa học đã xin phép Bộ Quốc phòng thực hiện một nghiên cứu có hệ thống về những hậu quả có thể xảy ra khi sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam. Họ rõ ràng có ý định chấm dứt mọi suy nghĩ còn sót lại rằng những vũ khí như vậy có thể hữu ích trong chiến tranh. Trong khi bản ghi nhớ năm 1964 của Ball nhấn mạnh đến hậu quả chính trị thì nghiên cứu này lại tập trung vào lợi ích quân sự của vũ khí hạt nhân trong cuộc xung đột.

 

Nhóm đảm nhận nhiệm vụ này không đáp lại các kế hoạch hoặc mối đe dọa chiến tranh hạt nhân cụ thể cũng như không đáp ứng yêu cầu từ Lầu Năm Góc. Dyson sau đó viết rằng ông không có bằng chứng nào cho thấy việc sử dụng vũ khí hạt nhân được xem xét nghiêm túc trong việc truy tố Chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, anh ấy nói thêm, Chúng tôi không có cách nào để biết người nói đang nói đùa hay nghiêm túc. Để đề phòng anh ấy nghiêm túc, chúng tôi quyết định nghiên cứu.[96]

 

Tôi và tôi cũng tin những người khác, Weinberg viết sau này, cảm thấy rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ khiến chiến tranh thậm chí còn có sức tàn phá khủng khiếp hơn nó vốn đã trở thành; nó sẽ tạo ra một tiền lệ khủng khiếp cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân cho mục đích khác ngoài mục đích răn đe; nó sẽ không giúp ích gì nhiều cho chiến tranh; và nó sẽ mở ra khả năng tấn công hạt nhân vào các căn cứ của chúng ta ở Việt Nam. Tất cả điều này là một phản ứng ngay lập tức, không dựa trên bất kỳ phân tích cẩn thận nào. Vì vậy chúng tôi quyết định thực hiện phân tích và viết báo cáo.[97]

 

Sau ba tháng làm việc, các tác giả đã tạo ra một báo cáo mật có tiêu đề Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á, trình bày những phân tích và kết luận của họ theo những gì Dyson sau này mô tả là một phong cách quân sự cứng rắn có chủ ý. Phân tích nhằm chứng minh rằng ngay cả từ quan điểm quân sự hẹp nhất, bất chấp mọi cân nhắc về chính trị và đạo đức, việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ là một sai lầm tai hại.[98]

 

Được giải mật gần đây, báo cáo dài 55 trang đưa ra bằng chứng mạnh mẽ chống lại việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam.[99] Phân tích tập trung vào việc liệu có những mục tiêu phù hợp ở Việt Nam cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân một cách chiến thuật và ảnh hưởng đến các hoạt động trên bộ của đối phương hay không. Nó xác định việc sử dụng chiến thuật theo nghĩa chặt chẽ, tức là nhắm vào các mục tiêu quân sự, chỉ trong phạm vi chiến trường trên bộ và đồng thời tránh thương vong cho dân thường đến mức có thể. Các tác giả giải thích lý do cho sự tập trung này là vì chúng tôi mong muốn tập trung càng nhiều càng tốt vào lĩnh vực phân tích kỹ thuật quân sự và tránh dính líu đến các phán xét chính trị và đạo đức.[100]

 

Phân tích nêu bật nhiều trở ngại quân sự đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân một cách chiến thuật: khó khăn trong việc xác định mục tiêu và thực tế là ngay cả khi tồn tại các mục tiêu tốt, việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của kẻ thù. Trong một số trường hợp, có những lựa chọn thay thế hiệu quả hơn.

 

Báo cáo đã xác định nhiều mục tiêu mà về nguyên tắc, vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ hữu ích. Cầu, sân bay và địa điểm tên lửa là những mục tiêu TNW ​​[vũ khí hạt nhân chiến thuật] lý tưởng.[101] Các sân bay cũng là mục tiêu lý tưởng của TNW và là mục tiêu tốn kém cho các cuộc ném bom thông thường. Việc áp dụng ném bom hạt nhân chiến thuật sẽ nhanh chóng khiến mười sân bay đang hoạt động còn lại ở miền Bắc Việt Nam không thể hoạt động được.[102] Các mục tiêu tiềm năng khác là tập trung quân lớn, hệ thống đường hầm và các căn cứ của Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam. TNW có thể rất hiệu quả nếu vị trí của các căn cứ được biết chính xác, đặc biệt nếu các cuộc tấn công có thể được thực hiện mà không báo trước. Tuy nhiên, việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở miền Nam Việt Nam sẽ “hữu ích nhưng không mang tính quyết định. Nó sẽ tương đương với sự gia tăng đáng kể sức mạnh của các cuộc oanh tạc B-52.

 

Ví dụ, sẽ cần 3000 vũ khí hạt nhân chiến thuật mỗi năm để ngăn chặn các tuyến đường tiếp tế như đường mòn Hồ Chí Minh. Vấn đề hơn nữa là lực lượng Mỹ có thể trở nên dễ bị tổn thương trước một cuộc phản công do Liên Xô dàn dựng; và việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật lần đầu tiên chống lại quân du kích có thể tạo tiền lệ dẫn đến việc quân du kích sử dụng vũ khí tương tự chống lại các mục tiêu dễ bị tổn thương hơn của Hoa Kỳ.

 

Trên thực tế, báo cáo kết luận rằng có rất ít mục tiêu phù hợp hoặc cách sử dụng hiệu quả. Việc sử dụng TNW vào các mục tiêu quân đội sẽ chỉ có hiệu quả trong việc ngăn chặn kẻ thù di chuyển một lượng lớn quân theo đội hình tập trung. Chừng nào kẻ thù còn di chuyển quân theo nhóm nhỏ và sử dụng rừng che phủ, hắn sẽ đưa ra một số mục tiêu quân sự phù hợp cho TNW. Sử dụng bom đạn dạng hộp sẽ tiết kiệm chi phí hơn so với sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công quân đội ngoài trời.[104] Các căn cứ của Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam có thể bị phá hủy một cách hiệu quả bằng các cuộc tấn công hạt nhân chiến thuật, nhưng điều này đòi hỏi số lượng lớn vũ khí và vị trí chính xác của các mục tiêu bằng các cuộc tuần tra trên mặt đất.[105] Vũ khí hạt nhân chiến thuật cũng có thể chặn các con đường và đường mòn trong khu vực rừng rậm bằng cách đốn ngã cây cối, nhưng những cây đổ có thể bị chặt và dọn sạch tương đối dễ dàng.

 

Cuối cùng, việc sử dụng bụi phóng xạ từ vũ khí nổ trên mặt đất để khiến các con đường không thể vượt qua sẽ đòi hỏi phải sử dụng vũ khí hạt nhân nhiều lần và bản thân nó sẽ không tạo ra rào cản lâu dài cho việc di chuyển của con người và vật tư mà không gây nguy hiểm cho dân thường ở khoảng cách lên tới 200 dặm. [106] Khi tiến hành phân tích, các tác giả đã rút ra một phần những phát hiện từ các nghiên cứu về trò chơi chiến tranh hạt nhân của RAND và Research Analysis Corporation từ cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, cũng như các nghiên cứu OREGON TRAIL năm 1965, cho thấy những khó khăn trong việc xác định mục tiêu quân đội kịp thời.

 

Nửa sau của báo cáo xem xét khả năng dễ bị tổn thương của lực lượng Hoa Kỳ trước cuộc tấn công của quân nổi dậy được trang bị vũ khí hạt nhân chiến thuật do Liên Xô hoặc Trung Quốc cung cấp. Các căn cứ, bến cảng và khu vực đóng quân của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam rất dễ bị máy bay ném bom của Liên Xô và quân du kích xâm nhập, đồng thời sẽ là những mục tiêu hấp dẫn cho TNW [sử dụng để trả đũa]. Trên thực tế, họ dễ bị tổn thương hơn nhiều trước việc sử dụng hiệu quả vũ khí hạt nhân so với những nơi đóng quân nhỏ hơn, tương đối cơ động và khó phát hiện của kẻ thù.

 

Ngoài ra, các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng lâu dài của việc tránh tạo tiền lệ cho việc lực lượng du kích sử dụng TNW. Họ viết rằng lực lượng Hoa Kỳ sẽ luôn dễ bị tổn thương hơn nhiều so với quân nổi dậy trước một cuộc tấn công hạt nhân.[107] Những mối nguy hiểm do hoạt động du kích gia tăng trên khắp thế giới trong tương lai chắc chắn sẽ trở nên gay gắt hơn nếu Mỹ dẫn đầu bằng việc khởi động chiến tranh hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á.[108]

 

Báo cáo đã đi đến một kết luận chắc chắn: kết quả tổng thể của nghiên cứu của chúng tôi là xác nhận quan điểm chung rằng việc sử dụng TNW ở Đông Nam Á sẽ không mang lại cho Mỹ lợi thế quân sự mang tính quyết định nếu việc sử dụng vẫn đơn phương và nó sẽ gây bất lợi mạnh mẽ về mặt quân sự. hiệu ứng nếu kẻ địch có thể sử dụng TNW để đáp trả.[109]

 

Mặc dù ban đầu nghiên cứu tuyên bố rằng nó chỉ nhằm mục đích phân tích kỹ thuật thuần túy, nhưng trên thực tế, nó bao gồm những đánh giá mạnh mẽ về chi phí chính trị và hậu quả của việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Phần cuối cùng, Hậu quả Chính trị, liệt kê các kịch bản có thể xảy ra trong đó phản ứng trước việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật là leo thang, mặc dù phần này không ước tính xác suất tương đối của các kịch bản này. Các tác giả lưu ý rằng kết quả cuối cùng là không thể dự đoán được. Chúng tôi chỉ đơn thuần chỉ ra rằng chiến tranh tổng quát có thể xảy ra, thậm chí từ việc sử dụng NW ít mang tính khiêu khích nhất mà một trong hai bên có thể nghĩ ra.[110]

 

Đáng kể nhất, họ kết luận rằng ngay cả khi không có kết quả trả đũa lớn, việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật lần đầu tiên ở Việt Nam sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về lâu dài:

 

Điều quan trọng nhất trong số này có lẽ là việc vượt qua ngưỡng hạt nhân. Như Herman Kahn đã chỉ ra, việc kiêng sử dụng bất kỳ NW nào đều được công nhận rộng rãi như một ngưỡng chính trị và tâm lý, cho dù sự phân biệt giữa hạt nhân và phi hạt nhân có thể hợp lý hay phi lý đến đâu. Vượt qua nó có thể làm suy yếu đáng kể các rào cản đối với việc phổ biến và sử dụng chung vũ khí hạt nhân. Đây sẽ là bất lợi cuối cùng của Mỹ, ngay cả khi nó không làm tăng khả năng xảy ra chiến tranh chiến lược.[111]

 

Các tác giả lập luận, dù Mặt trận Dân tộc Giải phóng Việt Nam hay các đồng minh bên ngoài có phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân của chính họ hay không, tác động của việc Mỹ sử dụng hạt nhân trước đối với dư luận thế giới nói chung và các đồng minh của Mỹ nói riêng sẽ vô cùng bất lợi. Ngoại trừ Thái Lan và Lào, phản ứng gần như chắc chắn sẽ bị lên án ngay cả ở châu Á và có thể dẫn đến việc Nhật Bản bãi bỏ các nghĩa vụ hiệp ước.[112] Ảnh hưởng đến dư luận ở Hoa Kỳ sẽ cực kỳ gây chia rẽ, bất kể có bao nhiêu sự chuẩn bị trước đó. Tóm lại, họ kết luận, những tác động chính trị của việc Mỹ sử dụng TNW lần đầu ở Việt Nam sẽ rất xấu và có thể là thảm họa.[113]

 

Do đó, từ góc độ quân sự thuần túy, ngay cả khi vấn đề thu thập mục tiêu có thể được giải quyết (và điều đó không rõ ràng), để vũ khí hạt nhân chiến thuật có hiệu quả, chúng sẽ phải được sử dụng với số lượng lớn (và với tần suất lớn như vậy) đến mức chi phí chính trị sẽ lớn hơn lợi ích quân sự. Khi nguy cơ bị trả đũa được thêm vào, cùng với nguy cơ vũ khí lan rộng sang lực lượng du kích trên khắp thế giới, nó đã trở thành một lập luận mạnh mẽ phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong chiến tranh.

 

Báo cáo gây tò mò ở một số khía cạnh. Nó tập trung vào các kịch bản mà vào thời điểm đó được nhiều người coi là khó xảy ra, chẳng hạn như việc sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại quân nổi dậy. Việc Liên Xô cung cấp vũ khí hạt nhân chiến thuật (báo cáo đề cập đến súng cối nguyên tử hoặc súng không giật) cho lực lượng Bắc Việt cũng là một kịch bản khó xảy ra, do Liên Xô kiểm soát vũ khí hạt nhân chặt chẽ như thế nào. Hơn nữa, báo cáo không chú ý đến những gì thực sự có trong kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Mỹ đối với Đông Nam Á vào giữa những năm 1960. Những đặc điểm khó hiểu này có lẽ có thể được giải thích bởi hoàn cảnh thúc đẩy các nhà khoa học thực hiện nghiên cứu (và Bộ Quốc phòng đồng ý với nó), sẽ được thảo luận thêm dưới đây.

 

Khía cạnh thú vị cuối cùng của nghiên cứu là cách bốn nhà khoa học, những người cho rằng vũ khí hạt nhân bị phản đối về mặt đạo đức, đã nỗ lực đưa ra lập luận chống lại việc sử dụng vũ khí hạt nhân theo thuật ngữ quân sự thuần túy, tin rằng điều này sẽ tăng cường sự tiếp nhận của các nhà hoạch định và ra quyết định quân sự. ở Lầu Năm Góc và CIA, những khán giả có khả năng nhất của nó. Như Weinberg sau này đã mô tả, việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như là một ý tưởng khủng khiếp vì nhiều lý do đạo đức và luân lý, nhưng cũng có thể là chính trị. Anh ấy giải thích thêm rằng Mặc dù sự phản đối của tôi là về đạo đức và chính trị, nhưng tôi cũng nghĩ rằng có khả năng người ta có thể tạo ra một trường hợp tốt từ quan điểm quân sự thuần túy cứng rắn, nhưng tôi không biết. Do đó, ông đã tham gia vào nghiên cứu với một số kỳ vọng rằng điều này sẽ xảy ra. [114] Bản thân các tác giả coi báo cáo là đưa ra lời phê bình mạnh mẽ về lợi ích của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh. Bài báo đó đưa ra tất cả các lý do tại sao bạn không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam, một trong những tác giả của nó đã nhận xét trong một cuộc phỏng vấn sau đó.[115]

Nghiên cứu có ảnh hưởng gì không?

 

Số phận của báo cáo này và vai trò của nó, nếu có, trong việc ảnh hưởng đến suy nghĩ của chính quyền về vai trò của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh, vẫn còn mơ hồ. Các tác giả đã trao nó cho các nhà tài trợ của họ ở Bộ Quốc phòng và không bao giờ nghe nói đến nó nữa.[116] Tuy nhiên, Seymour Deitchman, lúc đó đang làm việc tại Viện Phân tích Quốc phòng (IDA), một trung tâm nghiên cứu được liên bang tài trợ theo hợp đồng với Bộ Quốc phòng, và thừa nhận trong báo cáo, sau đó đã viết rằng báo cáo đã được gửi đến văn phòng của McNamara. IDA cung cấp hỗ trợ hành chính và kỹ thuật cho nhóm JASON. Deitchman nhớ lại những cuộc họp ngắn về các nghiên cứu của JASON vào mùa hè năm đó với ba khán giả: chính các JASON, John McNaughton sau đó là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề An ninh Quốc tế, người quản lý mối quan hệ của JASON với McNamara, và chính McNamara.[117]

 

Deitchman nhớ lại rõ ràng cuộc họp báo về nghiên cứu vũ khí hạt nhân với JASON. Tôi nhớ mình bị ấn tượng bởi kết luận chính rằng nếu chúng tôi bắt đầu theo con đường đó [sử dụng vũ khí hạt nhân], chúng tôi có nguy cơ bị tổn thương nhiều hơn Bắc Việt và Việt Cộng… McNamara đã nhận được các báo cáo tóm tắt về nghiên cứu của JASON hàng năm, và, theo Deitchman, có thể đã được thông báo ngắn gọn vào cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1966. Điều này có thể bao gồm một cuộc họp ngắn về nghiên cứu vũ khí hạt nhân, mặc dù Deitchman không nhớ chắc chắn. Theo Deitchman, sau cuộc họp giao ban, báo cáo chưa bao giờ được lưu hành.

 

Vì Bộ Quốc phòng đã phải phê duyệt các chủ đề cho các nghiên cứu của JASON (do chính JASON chọn), tại sao Bộ lại đồng ý nghiên cứu về vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam? Ở đây chúng ta chỉ có những phác thảo mờ nhạt nhưng hấp dẫn. Deitchman nhớ lại cuộc nói chuyện định kỳ quanh Lầu Năm Góc vào mùa xuân và mùa hè năm đó về việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật để chặn các lối đi giữa Bắc Việt Nam và Lào, đặc biệt là đèo Mụ Gia, một phần quan trọng của tuyến đường tiếp tế hướng về phía Nam. Đèo này bị B-52 ném bom dữ dội và không thành công bắt đầu từ tháng 7 năm 1966, gây tổn thất nặng nề cho Hoa Kỳ. Vì vậy, khi JASON đề xuất chủ đề nghiên cứu vũ khí hạt nhân, McNaughton và McNamara có thể đã thấy nó là một công cụ hữu ích để chỉ ra ý tưởng tồi khi sử dụng vũ khí hạt nhân là gì.

 

Do đó, vẫn chưa rõ báo cáo có ảnh hưởng gì. Có vẻ như nó có ít hoặc không ảnh hưởng gì đến bản thân McNamara vì ông đã kiên quyết phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Vào thời điểm đó (1967), ông cũng ngày càng nghi ngờ liệu có thể thắng cuộc chiến bằng cách triển khai thêm quân vào miền Nam Việt Nam và tăng cường ném bom miền Bắc Việt Nam (ông đã đề nghị từ chức với Johnson vào tháng 11 năm đó, phần lớn là do vỡ mộng). với chiến tranh). Trong một cuộc phỏng vấn sau đó, McNamara không nhớ cuộc nghiên cứu hay cuộc họp báo, nhưng thừa nhận rằng cuộc họp báo có thể đã xảy ra. Ông nói rằng bản thân ông không cần nghiên cứu như vậy, vì ông và trợ lý McNaughton đã hoàn toàn phản đối vũ khí hạt nhân, nhưng điều đó không có nghĩa là nó không hữu ích.[118]

 

Chẳng hạn, nó có thể đã giúp ông chấm dứt những cuộc nói chuyện lỏng lẻo về các lựa chọn hạt nhân. Khi Deitchman trở lại Lầu Năm Góc vào mùa thu năm 1966, ông không nghe nói gì thêm về việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông nhớ lại, mặc dù tôi không biết, nhưng tôi nghĩ thật hợp lý khi kết luận rằng, nếu ý tưởng đó đã được xem xét trước khi nghiên cứu, thì ông McNamara chỉ đơn giản bác bỏ nó như một điều gì đó không cần phải suy nghĩ nghiêm túc, và do đó cuộc nói chuyện chỉ đơn giản là đã đi xa.

 

Khe Sanh

 

Nỗ lực duy nhất của chính quyền Johnson nhằm xem xét kỹ hơn lợi ích quân sự của vũ khí hạt nhân nhằm giải tỏa cuộc vây hãm lực lượng Thủy quân lục chiến đồn trú tại Khe Sanh vào đầu năm 1968 đã nhanh chóng bị hủy bỏ trong cơn ác mộng về quan hệ công chúng. Đây có lẽ là thời điểm có nguy cơ nghiêm trọng nhất mà JASON dự đoán. Bằng chứng mới cho thấy các quan chức chính quyền hàng đầu đã thảo luận về chủ đề này tại một số cuộc họp trong những ngày quan trọng căng thẳng cuối tháng 1 và đầu tháng 2 năm 1968, mặc dù với giọng điệu hết sức miễn cưỡng.[119] Johnson nói rõ rằng ông không muốn đối mặt với quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân và liên tục tìm kiếm sự đảm bảo từ các nhà lãnh đạo quân sự rằng họ có đủ lực lượng thông thường để bảo vệ Khe Sanh.

 

Trong một bản ghi nhớ gửi Tướng Wheeler vào ngày 31 tháng 1 năm 1968, Robert Ginsburgh, Phó Walt Rostows trong Hội đồng An ninh Quốc gia và là người liên lạc của nó với JCS, đã lưu ý rằng nếu tình thế tuyệt vọng phát triển ở Khe Sanh, nơi 6000 lính thủy đánh bộ bị bao vây bởi 15.000-20.000 quân. Quân Bắc Việt, vấn đề TAC NUCS sẽ được nêu ra. Ginsburgh hỏi Wheeler liệu việc phân tích mục tiêu dự phòng có phù hợp hay không. Chữ viết tay trên bản ghi nhớ là những ghi chú rằng các kế hoạch cần phải được giữ rất rất chặt chẽ.[120] Ginsburgh và Rostow rõ ràng đã thảo luận về vấn đề này được khoảng một tuần.[121]

 

Ngày hôm sau, Wheeler trưng cầu ý kiến ​​của Tướng Westmoreland và Đô đốc Ulysses Sharp, các chỉ huy Mỹ tại Việt Nam, về việc có nên sử dụng vũ khí hạt nhân nếu tình hình trở nên tuyệt vọng. Lưu ý đến những điểm tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ, ông hỏi liệu có những mục tiêu phù hợp cho các cuộc tấn công hạt nhân hay không, liệu một số kế hoạch dự phòng có thể phù hợp hay không và những gì bạn cho là một số ưu và nhược điểm quan trọng hơn. Ông cảnh báo họ phải giữ chủ đề này thật chặt chẽ.[122] Westmoreland và Sharp rõ ràng đã thảo luận về sự cần thiết phải lập kế hoạch cho vấn đề này và đã thiết lập nó theo cơ sở cần biết nghiêm ngặt nhất, Sharp viết lại vào ngày hôm sau.

 

Theo yêu cầu, Westmoreland bắt đầu triệu tập một nhóm nghiên cứu bí mật để phân tích các phương án hạt nhân. Nhưng gần như ngay lập tức Washington đã dập tắt nó vì sợ quá muộn rằng nó sẽ bị rò rỉ ra báo chí. Các cố vấn chính trị của Johnson đã đảo ngược hướng đi, nhanh chóng ngăn chặn mọi yêu cầu về giải pháp hạt nhân từ Công ty Cổ phần bằng cách đảm bảo rằng Westmoreland có tất cả các lực lượng thông thường mà ông ta cần để bảo vệ Khe Sanh. Rostow đề nghị trong một bản ghi nhớ gửi tổng thống vào ngày 2 tháng 2 rằng Westmoreland sẽ được cung cấp thêm một sư đoàn dự bị, giải thích mong muốn của ông là tránh tình trạng khủng hoảng chiến trường trong đó Westy và JCS sẽ yêu cầu bạn giải phóng vũ khí hạt nhân chiến thuật. Ông cũng thúc giục Tướng Wheeler được thông báo rằng nhiệm vụ của ông là giảm thiểu khả năng các Cảnh sát trưởng nêu ra vấn đề hạt nhân.[125]

 

Trong một bản ghi nhớ ngày hôm sau, Tướng Wheeler tìm cách trấn an tổng thống, viết rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân là không cần thiết trong tình hình hiện tại. Nhưng ông không loại trừ họ. Nếu tình hình ở khu vực DMZ thay đổi đáng kể, chúng ta nên chuẩn bị sử dụng các loại vũ khí có hiệu quả cao hơn để chống lại lực lượng đông đảo. Trong hoàn cảnh như vậy, tôi hình dung rằng vũ khí hạt nhân chiến thuật hoặc tác nhân hóa học sẽ là những ứng cử viên tích cực cho việc sử dụng.[126] Trong một bản ghi nhớ gửi cho Johnson cùng ngày, dường như được thúc đẩy bởi những gợi ý trên báo chí và các bộ phận khác của chính phủ rằng việc cân nhắc cấp cao về vũ khí hạt nhân đang được tiến hành, Rostow đã xin lỗi về sai lầm của mình khi nêu vấn đề với Tướng Wheeler và các chỉ huy, điều này vô tình tạo ra ấn tượng rằng chính phủ đang nghĩ đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ông giải thích rằng ông chưa bao giờ có ý định thực hiện bất kỳ công việc chính thức nào của nhân viên về vấn đề hạt nhân, đồng thời nói thêm rằng lỗi là của tôi.[127]

 

Nói cách khác, không những không nên sử dụng vũ khí hạt nhân mà thậm chí còn không nên nghiên cứu các lựa chọn hạt nhân. Không được phép phân tích, thậm chí không được phép xuất hiện. Những phẩm chất cấm kỵ nổi lên rõ rệt ở đây một điều gì đó không được làm, không được nói, không được phân tích, không được nghĩ đến. Ngay cả Walt Rostow cũng không được phép phân tích vấn đề. Johnson sau đó rất tức giận vì sự vô trách nhiệm trong kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân của chúng tôi.[128]

 

Westmoreland, một người luôn ủng hộ việc sử dụng lực lượng lớn hơn ở Việt Nam, đã viết trong hồi ký của mình rằng ông cho rằng việc xem xét các lựa chọn hạt nhân chiến thuật tại Khe Sanh là một ý tưởng thận trọng. Khu vực xung quanh Khe Sanh hầu như không có người ở nên thương vong dân sự sẽ ở mức tối thiểu. Ông thấy sự tương đồng với việc sử dụng bom nguyên tử trong Thế chiến thứ hai để gửi thông điệp tới Nhật Bản, cũng như vai trò của các mối đe dọa hạt nhân của Mỹ đối với Triều Tiên mà nhiều người cho rằng đã chấm dứt Chiến tranh Triều Tiên. Ông viết rằng việc sử dụng một số loại vũ khí hạt nhân chiến thuật nhỏ ở Việt Nam hoặc thậm chí là mối đe dọa về vũ khí hạt nhân đã nhanh chóng đưa cuộc chiến ở đó kết thúc. Nếu các quan chức Washington có ý định gửi một thông điệp tới Hà Nội thì chắc chắn vũ khí hạt nhân chiến thuật cỡ nhỏ sẽ thực hiện được điều này một cách hiệu quả. Westmoreland vào thời điểm đó và thậm chí còn cảm thấy mạnh mẽ hơn sau đó rằng việc không xem xét giải pháp thay thế hạt nhân là một sai lầm.

 

Bất chấp những nỗ lực của chính quyền, những tin đồn rằng họ đang dự tính sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam vẫn lan truyền, và kết quả là sự phản đối kịch liệt của công chúng đã minh họa cho tính cực kỳ nhạy cảm của vấn đề này. Khi Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy, người vận động tranh cử tổng thống, công khai vấn đề này vài ngày sau đó, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã kịch liệt phủ nhận việc vũ khí hạt nhân đang được xem xét. [130] Tướng Wheeler nói với một tiểu ban Thượng viện rằng ông không nghĩ vũ khí hạt nhân là cần thiết để phòng thủ Khe Sanh, nhưng nếu có phát triển, JCS sẽ đề nghị với Tổng thống Johnson rằng chúng nên được sử dụng.[131] Vào ngày 9 tháng 2, khi điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, Rusk phủ nhận sự tồn tại của bất kỳ kế hoạch sử dụng hoặc dự trữ vũ khí hạt nhân nào ở Việt Nam, nhưng không loại trừ hoàn toàn. Thượng nghị sĩ Fulbright, Chủ tịch Ủy ban cùng với Thượng nghị sĩ Clark và Aiken đã lên án khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân.[132] Cuộc điều tra của Quốc hội được thúc đẩy một phần bởi những suy đoán về lý do cử bốn nhà khoa học hạt nhân đến Việt Nam. Trên thực tế, các nhà khoa học đã được cử đi nghiên cứu hàng rào điện tử tuyến McNamara nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Bắc Việt qua khu phi quân sự ngăn cách hai nước Việt Nam.[133] Chuyến đi của họ không liên quan gì đến vũ khí hạt nhân. Thủ tướng Anh Harold Wilson, trong chuyến thăm Washington trong cuộc tranh luận này, đã thẳng thắn nói trong cuộc phỏng vấn trên chương trình Face the Nation của CBS rằng việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật là một điều hết sức điên rồ. Ông nói, nó không chỉ là một thảm họa đối với vị thế của Mỹ mà còn có tác động rất nghiêm trọng.

 

Tuy nhiên, một số nhân vật của công chúng đã kêu gọi sử dụng vũ khí hạt nhân. Đại diện Wayne Hays, một thành viên của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, không đồng tình với những người chỉ trích, nói rằng, Thay vì phải chịu một thất bại thảm hại và sự tiêu diệt một số lượng đáng kể lực lượng của chúng ta, tôi nghĩ chúng ta sẽ thật ngu ngốc và hoàn toàn ngu ngốc nếu tham gia. vị trí đó (Khe Sanh) và không sử dụng chúng.[135] Nghị sĩ Charles Bennett kêu gọi sử dụng mọi lực lượng cần thiết để giành chiến thắng trong cuộc chiến, kể cả việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí nguyên tử và xâm lược miền Bắc Việt Nam nếu cần thiết.[136]

 

Trong thông cáo báo chí ngày 9 tháng 2 và một lần nữa trong cuộc họp báo một tuần sau đó, Tổng thống Johnson phủ nhận mạnh mẽ rằng ông đã nhận được bất kỳ yêu cầu nào từ các cố vấn quân sự hoặc chính trị của mình về việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông nhấn mạnh rằng mọi quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân đều thuộc về Tổng thống. Ông nói, trong bảy năm làm việc tại Cơ quan Hành pháp, không có khuyến nghị nào được đưa ra cho tôi về việc triển khai vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, tôi nghĩ chúng ta nên chấm dứt cuộc thảo luận.[137] Thư ký báo chí George Christian nói rõ rằng chính quyền Johnson rất buồn vì câu hỏi về vũ khí hạt nhân đã được nêu ra. ông nói rằng thảo luận và suy đoán vô trách nhiệm là có hại cho đất nước.[138]

 

Sự phủ nhận dứt khoát của Johnson có lẽ hơi quá đáng, vì vấn đề vũ khí hạt nhân đã được thảo luận tại bữa trưa thứ Ba thường kỳ tại Nhà Trắng giữa các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao, tổng thống và Tướng Wheeler.[139] Đúng là tổng thống chưa nhận được bất kỳ yêu cầu nào về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, anh chưa nhận được sự đảm bảo chắc chắn từ JCS rằng họ sẽ không bao giờ đưa ra yêu cầu như vậy; các chỉ huy quân sự đã không thể đưa ra sự đảm bảo dứt khoát cho Johnson rằng Khe Sanh có thể được giữ vững mà không cần vũ khí hạt nhân, trong điều kiện thời tiết xấu cản trở sự yểm trợ bằng đường không thông thường.

 

Sau khi các nhà khoa học nổi tiếng George Killian, George Kistiakowsky và II Rabi bày tỏ mối quan ngại trong một bức điện gửi cho Eisenhower về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam, McNamara đã gọi điện riêng cho từng người trong số họ để đảm bảo với họ rằng không có sự cân nhắc nào về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Họ đã được truyền cảm hứng để viết một phần bởi một bài báo trong đó Eisenhower được cho là đã để ngỏ cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở miền Nam Việt Nam.[140] Mặc dù Eisenhower không còn là tổng thống nữa, nhưng thành tích của ông với tư cách là một vị tướng xuất sắc đã khiến quan điểm của ông về các vấn đề quân sự trở nên có sức nặng.

 

Nhìn chung, trong cuộc khủng hoảng Khe Sanh, các nhà lãnh đạo chính trị đã thể hiện mối quan tâm lớn hơn nhiều và dành nhiều thời gian hơn để xử lý khía cạnh quan hệ công chúng của vũ khí hạt nhân so với lợi ích thực tế của chúng tại Khe Sanh. Như một bài báo của Washington Post đã đưa ra, các chuyên gia vũ khí của Lầu Năm Góc cho rằng các vấn đề kỹ thuật cũng lớn gần như các vấn đề chính trị trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân.[141] Nói cách khác, những hạn chế về chính trị đã đặt ra trở ngại lớn hơn cho quyền tự do sử dụng vũ khí hạt nhân so với những khó khăn về mặt kỹ thuật trong trường hợp này, chủ yếu là bụi phóng xạ. Ngày 9 tháng 3, tờ Washington Post đăng bài xã luận rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam sẽ là một thảm họa.[142] Khi các quan chức chính quyền Johnson gặp nhóm cựu quan chức cấp cao Wise Mena để tư vấn về các lựa chọn quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam một tháng sau, vào ngày 25 tháng 3, để đưa ra quyết định về nỗ lực chiến tranh thất bại sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, bài học hạt nhân ở Khe Sanh có thể đã được phản ánh. Từ chối yêu cầu thêm 200.000 quân, họ cũng kết luận, mà không cần thảo luận rõ ràng, rằng việc sử dụng vũ khí nguyên tử là điều không thể tưởng tượng được.[143]

 

Chính quyền đã đảm bảo rằng Westmoreland có đủ lực lượng thông thường để bảo vệ Khe Sanh. Trận chiến diễn ra ở đó, theo cách nói của Westmoreland, là một màn trình diễn hỏa lực đáng kinh ngạc; xét tới khả năng ném bom của những chiếc B-52, một trong những chiếc nặng nhất và tập trung nhất trong lịch sử chiến tranh.[144] Những chiếc B-52 cuối cùng đã thả hơn 100.000 tấn thuốc nổ xuống một chiến trường rộng 5 dặm vuông.[145] Theo yêu cầu của Westmorelands, Johnson đã cho phép sử dụng cái gọi là bom phân mảnh có kiểm soát (COFRAM), đạn pháo và lựu đạn, một số có chứa đạn con, phát nổ với hiệu ứng rất nguy hiểm. Thông tin về sự tồn tại và sử dụng loại vũ khí này được bảo vệ chặt chẽ nhất có thể.[146]

 

Dư luận

 

Ngay cả trước con số thương vong ngày càng tăng của người Mỹ ở Việt Nam, dư luận vẫn phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh. Dư luận Mỹ luôn phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu tiên kể từ giữa những năm 1950. Số lượng cuộc thăm dò vừa phải về chủ đề này trong Chiến tranh Việt Nam cho thấy rằng, xét về mặt dư luận, việc cấm sử dụng lần đầu vẫn tồn tại trong chiến tranh, ngay cả khi thương vong của người Mỹ ngày càng gia tăng.[147]

 

Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến (1964-66), chỉ có sự ủng hộ hạn chế cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân, khoảng 15% chấp thuận thực hiện bước đi như vậy. Khi chiến tranh tiếp tục, tỷ lệ ủng hộ sử dụng vũ khí hạt nhân tăng lên 24% và sau đó lên 42%.[148] Nhưng về một câu hỏi được đặt ra cả trước và sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân mùa đông 1968 về việc sử dụng vũ khí nguyên tử trên mặt đất, một cuộc thăm dò của Harris đã tìm thấy câu trả lời giống nhau trong cả hai trường hợp: khoảng 25% ủng hộ, 55% phản đối. Khi câu hỏi được diễn đạt gay gắt hơn, liệu người trả lời sẽ đồng ý hay không đồng ý với quan điểm cho rằng chúng ta nên dốc toàn lực để giành chiến thắng quân sự ở Việt Nam, sử dụng bom nguyên tử và vũ khí, khoảng 26% tán thành và cao hơn câu hỏi về vũ khí mặt đất của Harris. , khoảng 65 phần trăm không tán thành.[149]

 

Vì vậy thái độ ủng hộ sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam chưa bao giờ đạt được số đông hoặc đa số. Công chúng không chỉ phản đối phần lớn việc sử dụng vũ khí hạt nhân mà vào cuối cuộc chiến, một cuộc khảo sát với các nhà lãnh đạo ưu tú cho thấy họ cũng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Hơn nữa, như Thomas Graham đã báo cáo, một cơ sở câu hỏi khảo sát đa dạng hơn cho thấy điều cấm kỵ không chỉ áp dụng cho Việt Nam mà còn cho các đề xuất sử dụng vũ khí hạt nhân khác, cho thấy bản chất chung hơn của quan điểm.[150] Kiểu thái độ của công chúng này (ban đầu mức độ ủng hộ thấp, sau đó cao hơn, nhưng chỉ trong những điều kiện hạn chế nhất định) phù hợp với cùng một kiểu mẫu chung được tìm thấy trong Chiến tranh Triều Tiên, mặc dù mức độ khác nhau. Công chúng Mỹ ít sẵn sàng khuyến nghị sử dụng vũ khí nguyên tử ở Việt Nam hơn ở Hàn Quốc.

 

Tại một hội nghị hồi tưởng về Chiến tranh Việt Nam năm 1997, McNamara phủ nhận mạnh mẽ rằng dư luận thế giới đã hạn chế việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Thay vào đó, ông nhấn mạnh rằng đó là vì nó không được mong muốn về mặt quân sự cũng như không được chấp nhận về mặt đạo đức…. Nó chẳng liên quan gì đến những gì thế giới có thể nghĩ về nó. Ông tiếp tục, …Tổng thống Kennedy và Johnson đã đưa ra những quyết định rõ ràng và cụ thể, không đủ tiêu chuẩn về việc không sử dụng vũ khí hạt nhân, đặc biệt vì nó được coi là không thể chấp nhận được về mặt đạo đức. Đó cũng là lời khuyên của tôi dành cho họ. Tôi đã ở bên mỗi người trong số họ, vào những dịp riêng biệt, khi họ đưa ra những quyết định này. Việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam chưa bao giờ được coi là khả thi.[151]

 

Với vai trò quan trọng của dư luận tiêu cực trong việc định hình việc ra quyết định của Mỹ về cuộc chiến nói chung, tuyên bố mạnh mẽ của McNamara có vẻ không hợp lý. Tuy nhiên, quan điểm của ông về vũ khí hạt nhân đã được định hình rõ ràng trước khi Mỹ can thiệp vào Việt Nam thông qua kinh nghiệm của ông về các cuộc khủng hoảng ở Berlin, Lào và Cuba. Tuyên bố của ông nhấn mạnh mức độ mà ông và những người khác tin rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân đơn giản là sai lầm; tức là vấn đề không phải là xoa dịu quan điểm của người khác, đúng hơn là CHÚNG TÔI nghĩ điều đó là sai.

 

Nixon và Kissinger

 

Ngược lại hoàn toàn, điều cấm kỵ này chủ yếu hoạt động như một sự ràng buộc mang tính công cụ, chứ không phải thực chất, đối với các quan chức hàng đầu của chính quyền Nixon, những người không hề tỏ ra miễn cưỡng khi nghĩ đến các lựa chọn hạt nhân. Tổng thống Nixon, con diều hâu chống cộng nguyên mẫu, đã mơ ước kết thúc chiến tranh Việt Nam bằng một đòn hạ gục. Ông tán thành tin rằng lời đe dọa hạt nhân của Mỹ đã chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và kỳ vọng sẽ sử dụng nguyên tắc đe dọa sử dụng vũ lực quá mức để mang lại chiến thắng ở Việt Nam. Mô tả lý thuyết điên rồ của mình cho trợ lý lâu năm HR Haldeman vào mùa thu năm 1968, ông đã thuyết phục các nhà lãnh đạo Bắc Việt rằng ông bị ám ảnh bởi chiến thắng trong cuộc chiến và sẵn sàng tung ra bạo lực tàn nhẫn nhất đối với đất nước của họ nếu họ không chấm dứt nó, ngụ ý một mối đe dọa hạt nhân. [152]

 

Nixon là người ủng hộ mạnh mẽ ưu thế hạt nhân của Hoa Kỳ và giống như Eisenhower, người mà ông từng giữ chức phó tổng thống, là người tin tưởng vào hiệu quả của các mối đe dọa hạt nhân. Mặc dù ông tin rằng một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô sẽ là một thảm họa, nhưng dường như ông không coi bản thân vũ khí hạt nhân là có bất kỳ sự ăn năn đạo đức cụ thể nào. Trong mọi cuộc khủng hoảng Chiến tranh Lạnh, Nixon luôn thúc giục leo thang và sử dụng vũ lực nhiều hơn. Với tư cách là Phó Tổng thống vào năm 1954 dưới thời Eisenhower, ông đã ủng hộ việc triển khai quân đội Hoa Kỳ để thay thế tổn thất của Pháp ở Việt Nam và năm sau đó đã chủ trương Hoa Kỳ sử dụng vũ khí nguyên tử để ngăn chặn các động thái của Trung Quốc vào Việt Nam.[153] Năm 1964, ông đã kêu gọi tiến hành các cuộc tấn công trả đũa chống lại Lào và Bắc Việt. Năm sau, ông phản đối nỗ lực của chính quyền Johnson trong việc bắt đầu đàm phán với lý do Bắc Việt coi đó là bằng chứng của sự yếu kém. Ông đã phản đối những lời kêu gọi đàm phán liên tục vì những điều đó sẽ chỉ khuyến khích Hà Nội. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1968, ông đã chỉ trích chính quyền Johnson vì chính sách sử dụng vũ lực từ từ.[154] Ông thường nói với các trợ lý trong những ngày đầu cầm quyền rằng, tôi không có ý định trở thành tổng thống đầu tiên thua trong một cuộc chiến.[155]

 

Nixon, người tự hào là người cứng rắn, đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time vào năm 1985 rằng ông đã cân nhắc việc sử dụng vũ khí hạt nhân bốn lần trong thời gian cầm quyền của mình, một trong số đó là việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Anh ấy nói với Time rằng anh ấy đã phản đối việc ném bom vào đê điều, vốn có thể khiến 1 triệu người chết đuối, vì lý do tương tự như tôi đã từ chối lựa chọn hạt nhân. Bởi vì các mục tiêu được đưa ra không phải là mục tiêu quân sự.[156]

 

Tuy nhiên, Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Nixon, đã bác bỏ tuyên bố của Nixon một cách công khai. Kissinger đã báo cáo trong một cuộc phỏng vấn rằng "Tôi có thể nói một cách an toàn rằng chưa bao giờ có một trường hợp hay cuộc khủng hoảng cụ thể nào mà việc sử dụng vũ khí hạt nhân được chính phủ xem xét." bất kỳ kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân. Chưa bao giờ có bất kỳ quyết định nào, thậm chí là quyết định ngẫu nhiên về việc sử dụng vũ khí hạt nhân nếu tình huống bất ngờ như vậy xảy ra. Và chưa bao giờ có bất kỳ cuộc thảo luận nào về việc chúng tôi sẽ chuẩn bị đi bao xa trong những tình huống bất ngờ này.

 

Những tuyên bố này và hồ sơ về thái độ của Nixon và Kissinger đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân nói chung rất khó giải thích. Bởi vì thiên hướng cường điệu và khoa trương cường điệu của Nixon, cũng như bởi vì các ghi chép quan trọng trong hồi ký của thời kỳ này mang tính chọn lọc và ý thức hệ một cách bất thường, nên các bằng chứng thường xuất hiện mâu thuẫn. Một số hồ sơ về Việt Nam trong các bài viết của Nixon và Kissinger gần đây đã được mở ra cho công chúng, nhưng việc tường thuật đầy đủ phải chờ được công bố trong tương lai. Theo Stephen Ambrose, người viết tiểu sử hàng đầu của Nixon, trong những cân nhắc của Nixon về cách kết thúc chiến tranh, việc sử dụng vũ khí nguyên tử “theo mô hình của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai” là “không thể thực hiện được”. điều này hoàn toàn nằm ngoài vấn đề, và đặc biệt không phải đối với Kissinger, người mà sự phủ nhận của ông có vẻ cường điệu quá mức đối với trường hợp của Việt Nam.

 

Trong quá trình xem xét Việt Nam ngay cả trước khi nhậm chức, Nixon nói rằng ông đã cân nhắc và với vẻ hối tiếc rõ ràng về việc từ chối ném bom đê điều hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân, nói rằng ông không thể cho phép trái tim tôi điều khiển cái đầu của mình, trái tim ông muốn một đòn hạ gục, đầu ông bị kiềm chế bởi sự phẫn nộ của công chúng. anh biết điều đó sẽ gây kích động. Ông thừa nhận, nếu ông chọn một trong hai cách hành động này, sự náo động trong nước và quốc tế sẽ gây tổn hại cho chính sách đối ngoại của chúng ta trên mọi mặt trận.[159] Ông cũng lưu ý rằng nó sẽ cản trở mối quan hệ được cải thiện với Liên Xô và Trung Quốc. Lý luận của ông rất có giá trị và ông không bao giờ loại trừ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nói chung.

 

Trước đó, trong cả hai chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964 và 1968, Nixon đã lên tiếng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Vào tháng 8 năm 1964, Nixon đã viết một bài báo trên Readers Digest, Cần thiết ở Việt Nam: Ý chí chiến thắng, trong đó ông chỉ đặt ra một giới hạn về những gì nên làm ở Việt Nam: Tôi kiên quyết phản đối việc sử dụng bất kỳ loại thiết bị hạt nhân nào. , không chỉ vì điều này sẽ gây ra hậu quả tai hại đối với dư luận thế giới, mà còn vì nó hoàn toàn không cần thiết.[160] Vào cuối tháng 1 năm 1965, ông ủng hộ việc ném bom của hải quân và không quân Hoa Kỳ vào miền Bắc Việt Nam, đồng thời nói rằng lực lượng mặt đất là không cần thiết và nhắc lại rằng vũ khí hạt nhân không nên được xem xét.[161] Bốn năm sau, khi tái tranh cử tổng thống, Nixon đã có một bước đột phá lớn khi vào tháng 10 năm 1968, Ứng cử viên tổng thống George Wallace thông báo rằng ông đã chọn Tướng Curtis LeMay, cựu chỉ huy bộ chỉ huy ném bom hạt nhân chiến lược, làm người tranh cử của mình. LeMay, trong cuộc họp báo đầu tiên, nói rằng ông sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân ngay lập tức tại Việt Nam. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về. với tư cách là bạn đồng hành của anh ấy. LeMay, trong cuộc họp báo đầu tiên, nói rằng ông sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân ngay lập tức tại Việt Nam. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về. với tư cách là bạn đồng hành của anh ấy. LeMay, trong cuộc họp báo đầu tiên, nói rằng ông sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân ngay lập tức tại Việt Nam. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về.

 

Mối quan tâm của Nixon trong việc khám phá các lựa chọn hạt nhân trên cương vị tổng thống cũng ngang bằng, thậm chí có lẽ còn vượt xa sở thích của Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger của ông. Kissinger, trước đây là một học giả, đã viết một cuốn sách bán chạy nhất, Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại, trong đó ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong các cuộc chiến tranh giới hạn.[163] Ngày càng chỉ trích các chiến lược hạt nhân dựa trên sự trả đũa lớn, ông cho rằng các chiến lược chiến tranh hạn chế và chiến tranh hạt nhân hạn chế sẽ hữu ích hơn cho cả chiến đấu và ngoại giao. Kể từ khi cuốn sách được xuất bản vào năm 1957, Kissinger đã rút lui khỏi các khía cạnh của chính sách đó, nhưng ông vẫn tiếp tục là người ủng hộ mạnh mẽ việc phát triển các lựa chọn hạt nhân hạn chế. Trong một cuộc phỏng vấn tháng 3 năm 1976 trên US News and World Report, Kissinger đã công khai thừa nhận rằng,

 

Theo sự xúi giục của ông, một trong những mục tiêu đầu tiên của Nhà Trắng Nixon là sửa đổi chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ để cung cấp các lựa chọn hạt nhân hạn chế hơn. Một ngày sau lễ nhậm chức của Nixon vào ngày 20 tháng 1 năm 1969, Nixon và Kissinger đã ra lệnh cho NSSM-3 (Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia), một nghiên cứu về cân bằng lực lượng thông thường và hạt nhân. Được hoàn thành vào tháng 5, nó nhấn mạnh sự cần thiết của các lựa chọn hạt nhân hạn chế, một quan điểm được Kissinger rất đồng tình. Tuần đầu tiên nhậm chức, JCS đã trình bày với Nixon và Kissinger một bản tóm tắt hết sức bi quan về việc xây dựng vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Liên Xô đang tiến gần đến mức ngang bằng với Mỹ về lực lượng hạt nhân và thậm chí có thể đạt được ưu thế. Đối với Kissinger, việc Mỹ sắp mất đi ưu thế chiến lược đòi hỏi phải xem xét lại chiến lược hạt nhân của Mỹ.

 

NSSM-3 dẫn đến một nghiên cứu tiếp theo vào tháng 6 năm 1969 yêu cầu NSC và Lầu Năm Góc kiểm tra các lựa chọn nhắm mục tiêu hạt nhân hạn chế.[166] Kissinger muốn nhân viên NSC phát triển một chiến lược trong đó các lựa chọn hạt nhân dường như thực sự có thể sử dụng được. Nhưng đến mùa xuân năm 1970, chính quyền đã phải gác lại việc xem xét chiến lược. Bất chấp áp lực từ Kissinger, nhân viên NSC tiến hành nghiên cứu một cách chậm rãi, một phần vì việc phát triển các lựa chọn hạt nhân hạn chế dường như không được ưu tiên trước các vấn đề cấp bách khác như Chiến tranh Việt Nam và các cuộc đàm phán SALT sắp tới. Tuy nhiên, Nhà Trắng ngày càng gặp phải sự phản đối từ các quan chức Bộ Ngoại giao, những người lo ngại rằng việc sẵn có các lựa chọn hạt nhân hợp lý sẽ khiến việc sử dụng vũ khí hạt nhân có nhiều khả năng xảy ra hơn.

 

Kế hoạch dự phòng của Việt Nam

 

Trong cùng thời gian này, việc lập kế hoạch bắt đầu dựa trên những phương án tích cực hơn cho Việt Nam. Vào ngày 27 tháng 1 năm 1969, Nixon, Kissinger, Tướng Wheeler và Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird đã gặp nhau để thảo luận về các lựa chọn quân sự có thể khiến Bắc Việt trở nên thẳng thắn hơn trong các cuộc đàm phán ở Paris. Vào ngày 21 tháng 2, Laird chuyển cho Kissinger một báo cáo rất sơ bộ của CTCP về vấn đề này. Báo cáo tối mật đã xác định năm kịch bản khá gay gắt, kịch bản cuối cùng liên quan đến cái mà nó gọi là leo thang kỹ thuật,—sử dụng vũ khí nguyên tử, sinh học hoặc hóa học gây chết người. Khi đánh giá lựa chọn này, báo cáo lưu ý rằng việc sử dụng những loại vũ khí như vậy ở Việt Nam sẽ gây ra phản ứng rất mạnh mẽ của công chúng và Quốc hội, đồng thời nói thêm rằng phản ứng có thể dự đoán được trên toàn thế giới [đối với kịch bản này], đặc biệt là ở Nhật Bản và Okinawa… hãy tấn công chống lại việc sử dụng nó.[167 ]

 

Cả Laird, Kissinger và trợ lý quân sự của Kissinger, Alexander Haig đều không có thiện cảm với các đề xuất. Khi chuyển báo cáo cho Kissinger, Haig nhận xét rằng các kế hoạch này rộng hơn loại mà ông và Tổng thống hình dung như những tín hiệu có thể chấp nhận được về ý định của Hoa Kỳ nhằm leo thang các lựa chọn quân sự ở Việt Nam.[168] Kissinger nhận thấy các kế hoạch đã được hình thành tốt nhưng thực tế của môi trường trong nước và quốc tế hiện tại không cho phép chấp nhận những rủi ro mà chúng đặt ra vào thời điểm này. Ông đề xuất những hành động tinh tế hơn có thể làm giảm nguy cơ bị giới truyền thông tin tức chú ý hoặc tình trạng bất ổn trong nước, chẳng hạn như tăng cường liên lạc quân sự và tăng cường trinh sát trên không, những hoạt động có thể tạo ấn tượng về việc tăng cường lực lượng của Hoa Kỳ.[169]

 

Hoạt động Móc vịt

 

Tuy nhiên, ngay sau đó, Kissinger đã chọn xem xét những lựa chọn kém tinh tế hơn. Trong cùng thời gian NSC được giao nhiệm vụ nghiên cứu các lựa chọn hạt nhân hạn chế, Kissinger đang điều tra các trường hợp dự phòng hạt nhân liên quan đến Việt Nam. Trường hợp then chốt là Chiến dịch Duck Hook, một kế hoạch sử dụng vũ lực quy mô lớn chống lại miền Bắc Việt Nam được phát triển vào mùa xuân và mùa hè năm 1969.[170] Được phát triển bởi Kissinger và một số cộng sự, nó kêu gọi ném bom ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực trọng điểm khác ở miền Bắc Việt Nam; khai thác bến cảng và sông ngòi; ném bom hệ thống đê sông Hồng; một cuộc xâm lược trên bộ vào miền Bắc Việt Nam; việc phong tỏa Sihanoukville, có thể phá hủy bằng vũ khí hạt nhân các tuyến đường chính Bắc-Nam dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh; và vụ đánh bom các tuyến đường sắt chính của miền Bắc Việt Nam với Trung Quốc. Một sự riêng biệt, thậm chí còn có nghiên cứu bí mật hơn đề cập đến những tác động của việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trên các tuyến đường sắt, kênh vận chuyển chính từ Liên Xô và Trung Quốc.[171] Theo Haldeman, tham mưu trưởng và người bạn thân tín của Nixon, Kissinger đã vận động hành lang cho các lựa chọn hạt nhân vào mùa xuân và mùa thu năm 1969.[172]

 

Cuối tháng 8, Nixon xem xét kế hoạch dự phòng của K đối với Việt Nam nhưng không đưa ra quyết định bằng cách này hay cách khác. Vào cuối tháng 8 và sang tháng 9, Kissinger lo ngại rằng quyết tâm tinh thần của Nixon về một lập trường kiên quyết trong cuộc chiến đang bị lung lay, và ông đã thực hiện các bước để thúc giục ông ta chấp thuận cái được gọi là cuộc tấn công dã man, quyết định vào tháng 11 Optiona nhằm vào Bắc Việt Nam để chấm dứt. chiến tranh. Vào ngày 9 tháng 9, Kissinger gặp Tướng Wheeler để thảo luận về kế hoạch quân sự cho chiến dịch Duck Hook…và truyền đạt cho ông ta mệnh lệnh cá nhân của tổng thống rằng việc lập kế hoạch phải được thực hiện theo các kênh quân sự nghiêm ngặt, do đó sẽ ngăn cản việc thảo luận về kế hoạch ngay cả với Bộ trưởng Quốc phòng. .[173]

 

Vào cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9, Kissinger đã tập hợp một nhóm nhân viên được chọn lọc của mình để thực hiện một nghiên cứu tối mật nhằm khám phá khía cạnh quân sự của đồng xu, tức là các nghiên cứu Duck Hook hiện có.[174] Ông mô tả nó với họ như một vấn đề rất, rất nhạy cảm. Trong Những năm ở Nhà Trắng, Kissinger viết rằng ông đã nói với nhóm rằng điều cần thiết là một kế hoạch quân sự được thiết kế để có tác động tối đa đến khả năng quân sự của kẻ thù nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh.[175] Những lựa chọn này có thể bao gồm việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong một tình huống duy nhất được kiểm soát cẩn thận.[176] Một tài liệu Khái niệm Hoạt động tuyệt mật vào giữa tháng 9 cho biết Hoa Kỳ quyết tâm áp dụng bất kỳ lực lượng nào cần thiết để đạt được các mục tiêu cơ bản của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Áp lực quốc tế và trong nước, và khả năng phản ứng của Liên Xô hoặc Trung Quốc sẽ là những yếu tố quan trọng nhưng không nhất thiết loại trừ những hành động táo bạo hoặc giàu trí tưởng tượng…. [177] Tài liệu có lưu ý rằng việc ném bom các con đê sẽ gây ra những vấn đề cụ thể ở Hoa Kỳ.

 

Kissinger nói với cả nhóm rằng, tôi không tin rằng một cường quốc hạng tư nhỏ bé như Bắc Việt Nam lại không có điểm đột phá. Chính quyền Johnson không bao giờ có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng tôi dự định sẽ nắm bắt được vấn đề.[178] Khi một nhân viên hỏi về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân, Kissinger trả lời rằng chính sách của chính quyền này là không sử dụng vũ khí hạt nhân. Nhưng ông không loại trừ việc sử dụng thiết bị hạt nhân để chặn tuyến đường sắt quan trọng tới Trung Quốc nếu đó là cách duy nhất để làm điều đó. Sau này một người tham gia nhớ lại rằng tôi đoán tất cả chúng tôi đều ở trong trạng thái sốc nhẹ.[179] Điểm nhấn của các kịch bản là tung ra những đòn không khí dã man, được lặp đi lặp lại trong khoảng thời gian. Nghiên cứu chỉ được thực hiện trên cơ sở hiệu quả quân sự. Rất ít cân nhắc về đạo đức hoặc chính trị được đưa vào bức tranh.

 

Vẫn chưa rõ liệu nhóm đặc biệt có thực sự xem xét trong nghiên cứu của mình khả năng sử dụng thiết bị hạt nhân như một phần trong đề xuất phong tỏa miền Bắc Việt Nam hay không. Tad Szulc báo cáo rằng điều đó không xảy ra và Kissinger không được biết là đã ám chỉ đến điều đó lần nữa.[181] Trợ lý của Kissinger, Roger Morris nói rằng ông đã được xem kế hoạch nhắm mục tiêu hạt nhân, trong khi các trợ lý khác sau đó nói với những người phỏng vấn rằng họ không nhớ đã gặp bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Nixon và Kissinger đang cân nhắc sử dụng thiết bị hạt nhân trong chiến dịch Duck Hook.[182] Haldeman rõ ràng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam chủ yếu vì nó có thể làm tổn hại đến cơ hội tái tranh cử của Nixon vào năm 1972.[183]

 

Trong tháng 9 và tháng 10, Nixon tiếp tục đe dọa leo thang chiến tranh một cách kịch tính. Để củng cố họ, ông đã ra lệnh thực hiện cảnh báo hạt nhân bí mật trên toàn thế giới, một trong những hoạt động quân sự bí mật lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nó bắt đầu vào ngày 13 tháng 10 và kéo dài một tháng.[184] Tuy nhiên, khi các cuộc biểu tình rầm rộ của công chúng phản đối cuộc chiến dự kiến ​​diễn ra vào ngày 15 tháng 10 và ngày 13-15 tháng 11 ở Hoa Kỳ sắp diễn ra, Nixon đã hủy bỏ Duck Hook. Trong hồi ký của mình, ông cho rằng làn sóng phẫn nộ trên toàn thế giới về việc leo thang chiến tranh đã làm suy yếu kế hoạch của ông.[185] Một nhân viên NSC lại nhớ khác, nhớ lại rằng các kế hoạch tấn công đã bị đánh bại trong gang tấc chủ yếu là do sự không chắc chắn của Nixon về hiệu quả quân sự, chứ không phải vì bất kỳ nghi ngờ nào lớn hơn bắt nguồn từ lo ngại về hậu quả trong nước hoặc đối ngoại.[186] Kissinger đã rút lui khỏi kế hoạch,

 

Giả sử Nixon có thể bí mật sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam theo kiểu ném bom bí mật vào Campuchia thì sao? Có rất ít lý do để nghĩ rằng anh ấy sẽ không làm như vậy. Vào ngày 11 tháng 5 năm 1969, Nixon, Kissinger và các trợ lý khác đã lên một chiếc máy bay phản lực tối mật của Bộ Tư lệnh Dù trở về Washington từ Key Biscayne. Nixon đọc một bản báo cáo về kế hoạch hoạt động hạt nhân đã được hoàn thành vài ngày trước đó. Một trong những phát hiện của nghiên cứu là SIOP không có các lựa chọn hạn chế linh hoạt trong các kịch bản tấn công quy mô lớn của nó. Nixon đã viết nguệch ngoạc vài dòng trên tập giấy màu vàng, hiện đã được giải mật: Những kế hoạch này thật đáng xấu hổ. Cuối cùng, họ thực sự không có lựa chọn nào ngoài những lựa chọn này, bởi vì nếu bạn sử dụng lực lượng riêng biệt thì SIOP sẽ trở nên bất khả thi. Nếu nghi ngờ, chúng tôi sẽ ném bom Campuchia. [188] Phải chăng điều này cho thấy họ đang nghĩ đến kế hoạch dự phòng hạt nhân cho miền Bắc Việt Nam? Nó không rõ ràng.

 

Đúng như vậy, Nixon đã giữ bí mật về kế hoạch Duck Hook ngay cả với các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng của ông, William Rogers và Melvin Laird. Khi họ phát hiện ra điều đó chỉ khi chính Nixon tiết lộ kế hoạch, họ đã thúc giục chống lại nó, nhấn mạnh sự phản đối ngày càng tăng của công chúng đối với việc leo thang chiến tranh.[189] Hai nhà khoa học được tư vấn về kế hoạch nhắm mục tiêu hạt nhân Duck Hook phản đối đường lối hành động hạt nhân, vì cả lý do quân sự và đạo đức.[190]

 

Với ngoại lệ đáng chú ý là Samuel Cohen, hầu hết các nhà khoa học và nhà phân tích quốc phòng dân sự đều tham gia vào việc tư vấn chính sách phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam, vì cả lý do quân sự và đạo đức. Daniel Ellsberg, lúc đó là nhà phân tích quốc phòng tại RAND, đã chỉ đạo một nghiên cứu toàn diện về các lựa chọn quân sự của Mỹ ở Việt Nam theo yêu cầu của Kissinger vào cuối năm 1968. Ellsberg kiên quyết từ chối xem xét các lựa chọn hạt nhân chiến thuật trong nghiên cứu này. Sau này ông nhớ lại rằng tôi sẽ không tham gia vào một bài báo đề xuất rằng vũ khí hạt nhân xứng đáng được xem xét ở Việt Nam.[191] Hai nhà khoa học được yêu cầu xem lại hồ sơ mục tiêu hạt nhân Duck Hook vào năm 1969 đều rất đau khổ trước lựa chọn hạt nhân, một trong số họ lo ngại rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể khiến người Trung Quốc phải tham gia. Họ thúc giục Paul Doty, một nhà hóa sinh hàng đầu của Harvard và là bạn của Kissinger, đã ngăn cản việc lập kế hoạch và truyền đạt quan điểm tương tự cho Haldeman, một người quen cũ của một trong những nhà khoa học.[192] Ngay cả nhà vật lý Edward Teller, một trong những nhà khoa học hiếu chiến nhất quốc gia và là người ủng hộ vũ khí hạt nhân lâu năm, cũng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam với lý do chúng không hữu ích khi chống lại quân du kích. Gọi những người ủng hộ việc sử dụng là những kẻ ngu ngốc, ông tuyên bố rằng, Chỉ có một số kẻ ngốc và họ thực sự là những kẻ ngu ngốc được đề nghị sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam.[193] Tuy nhiên, Kissinger không có nhiều lợi ích đối với các nhà khoa học, đặc biệt là vì các nhà khoa học trong Ủy ban Cố vấn Khoa học của Tổng thống đã không đưa ra lời khuyên mà ông mong muốn về ABM. Chúng dường như không có nhiều tác động đến suy nghĩ của ông về vũ khí hạt nhân. và truyền đạt quan điểm tương tự cho Haldeman, một người quen cũ của một trong những nhà khoa học.[192]

 

Mùa xuân năm 1972: Theo đuổi đòn knock-out cuối cùng

 

Vào mùa xuân năm 1972, Nixon đang xem xét các phương án leo thang ở miền Bắc Việt Nam, vượt xa một cuộc tấn công ném bom tổng lực. Theo các băng ghi âm của Nhà Trắng được công bố gần đây, vào ngày 25 tháng 4, một vài tuần trước khi ông ra lệnh leo thang chiến tranh, Kissinger đã đưa ra cho ông một loạt các lựa chọn leo thang, bao gồm cả việc tấn công các nhà máy điện và bến cảng của Bắc Việt. Haldeman và thư ký báo chí Ron Ziegler cũng có mặt. Nixon nói, tôi vẫn nghĩ chúng ta nên phá bỏ đê ngay bây giờ. Điều đó sẽ nhấn chìm mọi người? Kissinger trả lời: Khoảng 200.000 người. Nixon tuyên bố, Không, không, không…Tôi thà sử dụng bom hạt nhân còn hơn. Anh hiểu chưa, Henry? Kissinger trả lời: “Tôi nghĩ điều đó là quá đáng”. Nixon trả lời, Quả bom hạt nhân, điều đó có làm phiền ông không?… Tôi chỉ muốn ông nghĩ lớn, Henry, vì Chúa.[194]

 

Theo nhật ký của Haldeman, Nixon, Kissinger và Haig lại thảo luận về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân một tuần sau đó, vào ngày 2 tháng 5, khi các cuộc đàm phán hòa bình trở nên khó khăn. Chủ đề nảy sinh trong cuộc gặp trên du thuyền của tổng thống Sequoia, ngay sau khi Kissinger trở về từ cuộc đàm phán ở Paris, trong bối cảnh thảo luận về các lựa chọn quân sự để chấm dứt chiến tranh. Nixon bác bỏ lựa chọn hạt nhân cũng như việc xâm lược miền Bắc và ném bom đê sông Hồng. Thay vào đó, ông ủng hộ việc phong tỏa các cảng Bắc Việt và mở rộng ném bom lên phía bắc vĩ tuyến 20, bình luận rằng ông muốn nơi đó bị ném bom tan tành.[195]

 

Vào ngày 4 tháng 5, khi đang thảo luận về quyết định của mình với Kissinger, Haig và John Connally, Nixon đã đập mạnh xuống bàn khi mắng mỏ…Miền Nam Việt Nam có thể thua. Nhưng Hoa Kỳ không thể thua…Dù chuyện gì xảy ra với miền Nam Việt Nam, chúng ta sẽ đánh bại Bắc Việt…..Một lần, chúng ta phải sử dụng sức mạnh tối đa của đất nước này…chống lại đất nước nhỏ bé khốn nạn này….[196] Ngày hôm sau, trong cuộc trò chuyện, Nixon nhận xét với Kissinger rằng thương vong dân sự là kết quả của tất cả các cuộc chiến tranh. Điểm duy nhất mà bạn và tôi không đồng ý là vấn đề đánh bom. Bạn quá quan tâm đến dân thường và tôi không quan tâm. Tôi không quan tâm. Kissinger trả lời: “Tôi quan tâm đến thường dân vì tôi không muốn thế giới huy động để chống lại bạn như một tên đồ tể”. Chúng ta có thể làm điều đó mà không phải giết hại thường dân.[197]

 

Những đề nghị của Nixon về việc sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại miền Bắc Việt Nam, hoặc thực hiện các biện pháp quyết liệt khác có thể giết chết nhiều dân thường, phản ánh rõ ràng sự thất vọng của ông đối với cuộc chiến. Họ không phải là một lựa chọn trực tiếp. Vào thời điểm này của cuộc chiến, rõ ràng là việc sử dụng vũ khí hạt nhân là không khả thi về mặt chính trị, cả trong nước lẫn quốc tế. Nixon đã tự mình làm rõ điều này trong một cuộc họp của NSC vào ngày 8 tháng 5, khi ông kêu gọi một “sự phân tích máu lạnh” về tình hình hiện tại ở Việt Nam. Sau khi thảo luận về các phương án khai thác, Nixon giải thích: “Dù chúng ta làm gì, chúng ta cũng phải luôn tránh nói những điều chúng ta sẽ không làm, chẳng hạn như vũ khí hạt nhân. Tôi đề cập đến họ và nói rằng tôi không coi chúng là cần thiết. Rõ ràng, chúng ta sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng chúng ta nên để nó lơ lửng trên đó.

 

Do đó, Nixon, người rõ ràng có rất ít sự ức chế cá nhân về việc vi phạm một loạt các chuẩn mực dân chủ quan trọng trong nhiệm kỳ tổng thống của mình khi ông cho rằng có thể thoát khỏi điều đó, đã bị kiềm chế một cách mạnh mẽ bởi sự ghê tởm và phản đối của những người khác. Sự kiềm chế mà ông thể hiện liên quan đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân chủ yếu là kết quả của những hạn chế về dư luận. Haig, một người có đường lối cứng rắn từng phục vụ ở Việt Nam và sau này trở thành ngoại trưởng, đồng thời là người đã giúp lập kế hoạch Duck Hook, cho rằng việc không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam và các cuộc xung đột khác trong Chiến tranh Lạnh là do những lo ngại mang tính quy chuẩn—-của những người khác. Ông viết vào năm 1992, Về phía Mỹ, lập luận đạo đức chống lại việc sử dụng những loại vũ khí như vậy, hoặc thậm chí là đe dọa sử dụng chúng, dựa trên sức mạnh của niềm tin tôn giáo. [199] Ông lập luận chống lại quan điểm đạo đức này và lo ngại rằng những hạn chế như vậy sẽ làm suy yếu khả năng răn đe. Tuy nhiên, ông viết, ….sự tồn tại đơn thuần của sức mạnh vượt trội của chúng ta thường giúp chúng ta thoát khỏi thảm họa tiềm ẩn mặc dù chúng ta đã quyết tâm, trong sâu thẳm tâm hồn dân tộc, không bao giờ sử dụng nó.[200] Vì những hạn chế về mặt đạo đức như vậy, ông cảm thấy rằng không có tổng thống Mỹ nào sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân ngoại trừ trường hợp cực đoan là bảo vệ châu Âu.

 

Việc coi một điều gì đó như một niềm tin tôn giáo gợi ý rằng nó được coi là vấn đề của đức tin và lòng nhiệt thành, và không thể chấp nhận được hoặc ít nhất là khác biệt với lập luận hợp lý. Điều này thường đặc trưng cho một điều cấm kỵ.

 

Phần kết luận

 

Truyền thống không sử dụng vũ khí hạt nhân xuyên suốt cuộc xung đột ở Việt Nam. Trong chiến tranh, ba chính quyền Hoa Kỳ đã dần dần nâng cao mức độ bạo lực và thực hiện các chính sách gây tranh cãi gay gắt, tuy nhiên tất cả đều đặt ra giới hạn sử dụng vũ khí hạt nhân. Bất chấp những chi phí khổng lồ và những thất vọng của cuộc chiến, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn tránh sử dụng thứ có thể giành chiến thắng bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật.

 

Chúng ta có thể phân biệt nhiều động cơ khác nhau dẫn đến việc không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam: thứ nhất, lo sợ leo thang vô ý, bắt nguồn từ tính toán về nguy cơ leo thang không kiểm soát, cộng với khả năng xảy ra một kết quả thảm khốc vô cùng—yếu tố chi phối thúc đẩy McNamara và những người khác; thứ hai, bảo tồn truyền thống không sử dụng, điều mà Ball đã nhấn mạnh; và cuối cùng, một điều cấm kỵ, một niềm tin chuẩn mực rằng sử dụng vũ khí hạt nhân là sai lầm.

 

Do đó, có vẻ như khả năng chính quyền Johnson sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam gần như bằng không, bất kể các tướng Westmoreland, Sharp hay Wheeler nghĩ gì. Ngược lại, đối với Nixon và Kissinger như đối với Eisenhower trước đó, ít bị ảnh hưởng bởi niềm tin đạo đức cá nhân, điều cấm kỵ hoạt động chủ yếu như một công cụ hạn chế việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Mặc dù Nixon đã nói một đường lối cứng rắn và gửi công hàm cho Bắc Việt đe dọa sử dụng vũ lực trên diện rộng nếu họ không đồng ý đàm phán, nhưng cuối cùng ông và Kissinger đã nhiều lần bị đẩy lui khỏi khát vọng đánh đòn hạ gục trước sự lên án của dư luận trong nước và thế giới. Họ sẽ không thể sử dụng vũ khí hạt nhân nếu không gây ra sự phản đối kịch liệt nhất. Nixon có lẽ không đích thân chia sẻ điều cấm kỵ hạt nhân. Ông không nghĩ việc sử dụng vũ khí hạt nhân là sai nhưng ông bị hạn chế vì những người khác, kể cả các thành viên trong bộ máy quan liêu của ông, đã giữ nó. Như Kissinger sau này lập luận, Chưa bao giờ khoảng cách quân sự giữa một siêu cường và một quốc gia phi hạt nhân lại lớn hơn; chưa bao giờ nó ít có khả năng được viện dẫn hơn.[201]

 

Điều cấm kỵ có tầm quan trọng như thế nào đối với việc ngăn chặn việc giải thích việc không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam? Lực lượng hạt nhân của Liên Xô và Trung Quốc có thể đã ngăn cản bất kỳ ý định tấn công quân sự nào của Mỹ vào các thánh địa của Việt Nam bên trong Trung Quốc, nhưng chúng không ngăn cản được ý định tấn công miền Nam Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân trong bất kỳ cuộc chiến tranh mở rộng nào. Mức độ mà Hoa Kỳ có thể leo thang cuộc chiến ở Việt Nam là câu hỏi mở nhất.[202] Ở đây, nỗi lo sợ về một phản ứng hạt nhân của Liên Xô hay Trung Quốc không còn tác động mạnh mẽ đến các nhà lãnh đạo Mỹ. Đúng hơn, họ lo lắng về khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh thông thường quy mô lớn, những hậu quả chính trị và quân sự lâu dài không chắc chắn của nó, cũng như khả năng leo thang thành chiến tranh hạt nhân ngày càng xa vời. Bởi vì những tính toán này không chắc chắn,

 

Nhưng sẽ là sai lầm nếu đưa ra sự phân đôi quá rõ ràng giữa sức mạnh của điều cấm kỵ và sức mạnh của nguy cơ leo thang, bởi vì chúng không hoàn toàn độc lập. Sự tồn tại của điều cấm kỵ về vũ khí giúp hình thành các phán đoán về điều gì tạo nên sự leo thang trên chiến trường. Nếu các nhà lãnh đạo quốc gia chỉ đơn giản coi vũ khí hạt nhân chiến thuật chỉ là một loại vũ khí khác, thì tác động leo thang của việc sử dụng chúng có thể sẽ được đánh giá ít nghiêm trọng hơn nhiều. Do đó, điều cấm kỵ, bằng cách giúp xác định ngay từ đầu những gì tạo nên sự leo thang, đã góp phần nâng cao nhận thức của những người ra quyết định về những rủi ro như vậy trong chiến tranh.

 

Điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ thực sự sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam? Ít nhất là từ thời điểm Mỹ tiến hành các cuộc không kích nhằm đáp trả sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng 8 năm 1964, giới lãnh đạo Bắc Việt đã dự đoán sẽ bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Vào thời điểm đó, họ gửi phụ nữ và trẻ em về nông thôn và bắt đầu lên kế hoạch cho thương vong lên tới hàng triệu người. Chưa bao giờ họ có ý định đầu hàng nếu không thống nhất được với miền Nam dưới sự lãnh đạo và kiểm soát tối cao của Hà Nội. Vì vậy, thật khó để thấy việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật có thể tạo ra sự khác biệt nhỏ nhất đối với kết quả cuối cùng như thế nào. Bắc Việt hoàn toàn dự kiến ​​sẽ bị thiêu hủy với số lượng lớn, và nếu một cuộc tấn công hạt nhân xảy ra, họ vẫn sẵn sàng kiên trì.[203]

 

Trường hợp Việt Nam minh họa thế nào, mười năm sau chiến tranh Triều Tiên, bất chấp sự phát triển tạm thời của tất cả các loại vũ khí hạt nhân nhỏ, hiệu suất thấp, dễ sử dụng hơn, chúng lại ít được sử dụng hơn bao giờ hết. Mặc dù những lo ngại về sự leo thang rõ ràng đã đóng một vai trò trong việc ngăn cản việc sử dụng chúng, nhưng những lo ngại đó đã được củng cố mạnh mẽ bởi những cân nhắc về mặt chính trị và quy phạm. Vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, điều cấm kỵ hạt nhân đã có tác dụng mạnh mẽ và lan rộng hơn; nó ngày càng trở nên ít thăm dò hơn, được coi là hiển nhiên hơn. Hơn nữa, bản thân điều cấm kỵ này càng trở nên cố thủ hơn do Chiến tranh Việt Nam. Mọi nghi ngờ còn lại về việc liệu Chiến tranh Triều Tiên có được tiến hành đúng đắn liên quan đến vũ khí hạt nhân hay không đã được Việt Nam dập tắt, điều này khẳng định rằng ngay cả vũ khí hạt nhân chiến thuật cũng không thể sử dụng được về mặt chính trị.

 

Ngay cả Henry Kissinger cũng buộc phải đối mặt với những hạn chế mang tính quy phạm về quyền lực vật chất. Mặc dù ông đã viết một cuốn sách ca ngợi việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật nhưng sau đó ông đã rút lui khỏi điều đó. Khi vào Nhà Trắng, ông thấy tiếc rằng các quốc gia hạt nhân không nhất thiết phải sử dụng sức mạnh này để áp đặt ý chí của mình. Khả năng hủy diệt tỏ ra khó chuyển thành mối đe dọa chính đáng ngay cả đối với các quốc gia không có khả năng trả đũa.[204] Ông cho rằng điều này là do sức tàn phá khủng khiếp của vũ khí hạt nhân. Nhưng như Kissinger biết rõ, vũ khí dưới kiloton không hẳn là tuyệt vời đến thế. Cho nên hắn có chút không thành thật. Nhưng như sự sẵn sàng chiến đấu chống lại Hoa Kỳ của người Bắc Việt đã minh họa, chỉ sức mạnh vật chất thôi không đủ để răn đe. Một trong những bài học lớn của Việt Nam dành cho sinh viên và những người thực hành quan hệ quốc tế là những giới hạn mang tính quy phạm và chính trị đối với sức mạnh vật chất. Không nơi nào điều này được minh họa rõ ràng hơn việc không sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh.

 

[1] Robert McNamara, Nhìn lại: Bi kịch và bài học của Việt Nam (New York: Times, 1995), tr. 174.

 

[2] James Blight, chủ biên. Bỏ lỡ những cơ hội? Xem xét lại các quyết định của Chiến tranh Việt Nam, 1945-68. Hội nghị Hà Nội, ngày 20-23 tháng 6 năm 1997. Bản ghi chép. Viện Nghiên cứu Quốc tế Watson, Đại học Brown, tháng 4 năm 1998, trang 9-10.

 

[3] Điều này được thảo luận chi tiết trong Yuen Foong Khong, Analogies at War: Korea, Munich, Điện Biên Phủ, and the Vietnam Decisions of 1965 (Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1992).

 

[4] William W. Kaufmann, Chiến lược McNamara (New York: Harper & Row, 1964), trang 15-16. Khổng, Tương tự trong chiến tranh.

 

[5] Daniel Ellsberg, Bí mật: Hồi ký Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (New York: Viking, 2002), tr.63.

 

[6] Ví dụ, xem Henry Kissinger, Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1957); Robert Osgood, Limited War: The Challenge to American Strategy (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 1957); Morton H. Halperin, Chiến tranh giới hạn trong thời đại hạt nhân. (New York: Wiley, 1963).

 

[7] McGeorge Bundy, Nguy hiểm và Sống sót (New York: Random House, 1988), tr. 536.

 

[8] Như trên, tr. 536.

 

[9] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót. Ông chỉ dành tám trang trong cuốn sách 735 trang về lịch sử hạt nhân cho Việt Nam.

 

[10] Tham mưu trưởng liên quân phản đối đề xuất gửi một số lượng nhỏ quân đội Mỹ tới khu vực và khuyến nghị can thiệp quy mô lớn, thậm chí sử dụng vũ khí hạt nhân hoặc không can thiệp. Bản ghi nhớ cuộc họp về Lào, ngày 29 tháng 4 năm 1961, FRUS, 1961-63, 24:150-54.

 

[11] Bản ghi nhớ của JCS gửi Bộ trưởng Quốc phòng, ngày 2 tháng 3 năm 1964, JCSM-174-64. FRUS, 1964-68, 1:115.

 

[12] PP, Tập. III, tr. 623.

 

[13] PP, Tập. III, tr. 238.

 

[14] PP, Tập. III, tr. 175.

 

[15] Bản ghi nhớ (W. Bundy), Thảo luận về các hành động mở rộng có thể có liên quan đến Việt Nam, 27 tháng 4 năm 1964, Hồ sơ Hội nghị Ban Thư ký Điều hành, 1949-72, Hộp 343, Manila (SEATO) Đài Bắc và Sài Gòn, 20 tháng 4 -29, RG 59, NA. Tôi cảm ơn William Burr về tài liệu này. Điện tín của Đại sứ quán tại Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Sài Gòn, ngày 4 tháng 5 năm 1964, trong FRUS 1964-68 1: 286.

 

[16] Bản ghi nhớ của Chủ tịch Nhóm công tác NSC (W. Bundy) gửi Bộ trưởng Ngoại giao, ngày 24 tháng 11 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:941.

 

[17] Kaiser, Bi kịch Mỹ, tr. 366-7.

 

[18] Như trên, tr. 360.

 

[19] PP, Tập. III, tr. 238.

 

[20] PP, Tập. III, tr. X

 

[21] Kaiser, Bi kịch nước Mỹ, tr. 378. Chương 12 của Kaiser cung cấp một phân tích mở rộng về quá trình ra quyết định đằng sau báo cáo này.

 

[22] Đến đầu năm 1963, số lượng triển khai vũ khí hạt nhân trên đất liền của Mỹ tới Guam, Okinawa, Philippines và Đài Loan đã tăng lên khoảng 2400, tăng 66% so với mức năm 1961. Kho dự trữ trên bờ ở Thái Bình Dương đạt đỉnh điểm khoảng 3.200 vũ khí vào giữa năm 1967, trong đó có 2.600 chiếc ở Hàn Quốc và Okinawa, và bắt đầu giảm sau đó. Robert Norris, William Arkin và William Burr, Họ ở đâu, Bản tin của các nhà khoa học nguyên tử (tháng 11-tháng 12 năm 1999), trang 30-31.

 

[23] Lịch sử chỉ huy CINCPAC năm 1963, 1964, 1966. Tôi rất biết ơn Viện Nautilus đã cung cấp các bản sao của những tài liệu này.

 

[24] PP, Tập. III, trang 636, 639.

 

[25] Ted Gittinger, ed., The Johnson Years: A Vietnam Roundtable (Austin, Tex: Thư viện Lyndon Baines Johnson: Trường Công vụ Lyndon B. Johnson), tr. 64.

 

[26] Bản ghi nhớ từ JCS gửi McNamara, ngày 22 tháng 1 năm 1964, được trích dẫn trong McNamara, In Retrospect, trang 107-110; Bản ghi nhớ của SecDef gửi Taylor, ngày 21 tháng 2 năm 1964; Bản ghi nhớ từ JCS gửi McNamara, ngày 2 tháng 3 năm 1964, và Bản ghi nhớ từ SecDef gửi Tổng thống, ngày 16 tháng 3 năm 1964, trong FRUS 1964-68, 1:97-99, 112-118, 153-167.

 

[27] Biên bản cuộc gặp với Tổng thống Johnson, Washington, DC, ngày 17 tháng 2 năm 1965. FRUS, 1964-68, 2:305.

 

[28] Cùng nguồn, FRUS, 1964-68, 2:305. Vào tháng 5 năm 1962, Eisenhower cũng đã khuyến nghị với Kennedy việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc khủng hoảng ở Lào.

 

[29] Biên bản đối thoại giữa Ngoại trưởng Rusk và Thủ tướng Khánh, Sài Gòn, 18/4/1964. FRUS, 1964-68, 1:244.

 

[30] Điện tín từ Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao, Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964. FRUS, 1964-68, 1:410.

 

[31] Xem Chương 5 và 6. David Kaiser lập luận rằng Eisenhower đã chứng tỏ trong cuộc họp rằng ông đã được thông báo đầy đủ về chính sách của chính quyền và cơ sở lý luận của nó. Kaiser, Bi kịch Mỹ, tr. 403.

 

[32] Dean Rusk gửi Tổng thống, ngày 23 tháng 2 năm 1965, Triển khai, tập. 2, tab 61-87, NSCH, Box 40, NSF, LBJL, trích dẫn trong McNamara, In Retrospect, p. 173.

 

[33] Cuộc họp Ban chấp hành NSC, Washington, DC, ngày 24 tháng 5 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:371.

 

[34] Bản ghi nhớ đối thoại, Bữa tối thư ký của Bộ trưởng Ngoại giao Rumani Manescu, Washington, DC, 14/10/1965, FRUS, 1964-68, 3:455-6.

 

[35] Lịch sử bi thảm của Rusk về vấn đề Triều Tiên chắc chắn đã ảnh hưởng đến những quan điểm này. Chính trong sự giám sát của ông với tư cách là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao về các vấn đề Viễn Đông, cuộc tấn công bất ngờ của Trung Quốc qua sông Áp Lục vào tháng 11 năm 1950 đã xảy ra. Rusk bị ám ảnh bởi điều này suốt cuộc đời. Vì lẽ đó, ông có khuynh hướng coi mọi vấn đề của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á là mối đe dọa xâm lược từ phương Bắc, và mù quáng không nhìn nhận vấn đề ở miền Nam là phong trào phản kháng nội bộ, không ngăn chặn sự xâm lược của Bắc Việt.

 

[36] George Ball, Các giả định làm nền tảng cho chính sách Việt Nam của chúng ta có giá trị đến mức nào? bản ghi nhớ, ngày 5 tháng 10 năm 1964. In lại trên tờ The Atlantic Monthly, tháng 7 năm 1972, trang 41-42. Nhấn mạnh thêm.

 

[37] Quả bóng, giá trị thế nào? P. 43.

 

[38] Bản ghi nhớ của Phó Tổng thống Humphrey gửi Tổng thống Johnson, Washington, ngày 17 tháng 2 năm 1965. FRUS, 1964-68, 2:311. Trên thực tế, chính quyền Eisenhower không loại trừ khả năng xảy ra chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1953. Xem Chương 5.

 

[39] PP, Tập. III, tr. 175.

 

[40] Trích trong bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Ngoại trưởng Rusk, ngày 23 tháng 11 năm 1964. PP, Tập. III, tr. 645. Xem thêm Ước tính Tình báo Quốc gia Đặc biệt, SNIE 50-2-64, Washington, 25 tháng 5 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:380.

 

[41] Chen Jian, “Sự tham gia của Trung Quốc vào Chiến tranh Việt Nam, 1964-69, The China Quarterly, Số 142 (tháng 6 năm 1995), trang 366-7; Kaiser, Bi kịch Mỹ, trang 439-40.

 

[42] Herring, Cuộc chiến tranh dài nhất nước Mỹ, trang 5, 46.

 

[43] Cả Ball và McNamara kể từ đó đều tuyên bố rằng họ đã đánh giá quá cao nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc. Trong hồi ký năm 1982 của mình, Ball thừa nhận rằng, nhìn lại, ông đã phóng đại nguy cơ về mối đe dọa từ Trung Quốc và khả năng tham gia chiến tranh, nhưng vào thời điểm đó chúng ta hầu như không biết gì về những gì đang diễn ra trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. George W. Ball, Quá khứ có khuôn mẫu khác: Hồi ký (New York: Norton, 1982), tr. 505, fn. 10. McNamara sau này đã mô tả sự đánh giá hoàn toàn không chính xác về mối đe dọa của Trung Quốc đối với an ninh của chúng ta nhưng đó là quan điểm được chia sẻ rộng rãi giữa các quan chức hàng đầu. McNamara, Nhìn lại, trang 218-19.

 

[44] FRUS 1964-68, 2:94, 96.

 

[45] Bản ghi nhớ của Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Ball gửi Tổng thống Johnson, ngày 13 tháng 2 năm 1965. FRUS, 1964-68, 2:255.

 

[46] Trích từ Cuộc trò chuyện giữa Bộ trưởng Rusks với Tổng thống Tưởng Giới Thạch, ngày 16 tháng 4 năm 1964. Tại http://www.seas.gwu.edu/nsarchive/coldwar/documents.

 

[47]Cuộc họp NSC lần thứ 528, ngày 22 tháng 4 năm 1964. FRUS, 1964-68, 1:258; Giấy tờ Lầu Năm Góc, Tập. III, tr. 65.

 

[48] ​​Điện tín từ Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao, Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:410.

 

[49] Rusk gặp Đại sứ Alphond, Đại sứ quán Pháp, 20/7/1964. FRUS, 1964-68, 1:557.

 

[50] Bản ghi nhớ cuộc trò chuyện giữa Tổng thống Johnson và Thủ tướng Pearson, Khách sạn Hilton, NY, ngày 28 tháng 5 năm 1964. FRUS, 1964-68, 1:395; Điện tín của Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao, Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964, Ibid, tr. 410.

 

[51] Lyndon Johnson, The Vantage Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt, Rinehart và Winston, 1984, 1971).

 

[52] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót, tr. 537; Robert McNamara, Vai trò quân sự của vũ khí hạt nhân: Nhận thức và nhận thức sai lầm, Đối ngoại, Tập. 3 (Mùa thu 1983), trang 58-80.

 

[53] Theodore H. White, Sự hình thành của Tổng thống 1964 (New York: Nhà xuất bản Athenaeum, 1965), tr. 311

 

[54] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót, tr. 537.

 

[55] Như trên, tr. 538.

 

[56] Xem Morton Halperin, “Đề xuất cấm sử dụng vũ khí hạt nhân,” Viện phân tích quốc phòng, Nhóm nghiên cứu đặc biệt, Bản ghi nhớ nghiên cứu số. 4 (Wash. DC: IDA, 1961); Thornton Read, Đề xuất vô hiệu hóa vũ khí hạt nhân (Princeton: Trường Woodrow Wilson, 1961); Robert Tucker, Đề xuất không sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu (Princeton: Trường Woodrow Wilson, 1963).

 

[57] Walt W. Rostow, Sự khuếch tán quyền lực (New York: MacMillan, 1972), tr. 175.

 

[58] Fred Kaplan, The Wizards of Armageddon (New York: Touchstone, 1983), trang 270-72. Nhà vật lý Herbert York, nhà tư vấn vũ khí cho chính phủ, người đi cùng McNamara trong chuyến đi tới SAC, kể lại rằng các vị khách cũng rất ấn tượng, kinh ngạc và thậm chí choáng váng như ông khi lần đầu tiên nghe báo cáo về kế hoạch chiến tranh một năm trước đó. Herbert York, Chế tạo vũ khí, Nói chuyện hòa bình (New York: Basic Books, 1987) trang 185, 204.

 

[59] York, Chế tạo vũ khí, tr. 204. Kaufmann, Chiến lược McNamara, Ch. 2.

 

[60] McNamara gửi Chủ tịch JCS, ngày 10 tháng 2 năm 1961, Phụ lục A, đính kèm trong JCS 2101/408, CCS 3001 Chính sách An ninh Quốc gia Cơ bản (10 tháng 2 năm 1961), RG 218, NA, như được trích dẫn trong Marc Trachtenberg, The Berlin Crisis, trong Trachtenberg, Lịch sử và Chiến lược (Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1991), tr. 220.

 

[61]McNamara, Vai trò quân sự của vũ khí hạt nhân, và McNamara, Nhìn lại.

 

[62]Ellsberg, Bí mật, trang 57, 59.

 

[63] Như trên. trang 59, 60.

 

[64] Ball, Quá khứ có hình mẫu khác, tr. 384.

 

[65] Dean Rusk, Như tôi đã thấy (New York: WW Norton & Co., 1990), tr. 457.

 

[66] Điện tín từ Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao, Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:410.

 

[67] Rusk, Như tôi đã thấy, tr. 248.

 

[68] Như trên, tr. 366.

 

[69] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót, tr. 537.

 

[70] Quả bóng, Hiệu lực thế nào, tr. 42.

 

[71] Như trên, tr. 42.

 

[72] Bản ghi nhớ nói chung đã có ảnh hưởng quan trọng đến việc William Bundy soạn thảo các giấy tờ tùy chọn vào tháng sau, trong đó phương án C ít nhiều tuân theo các lập luận của Ball về chiến lược Việt Nam. Kaiser, Bi kịch Mỹ.

 

[73] Krock Papers, Thư viện Mudd, Hộp 1, trích dẫn trong Kaiser, American Tragedy, p. 432

 

[74] Cùng nguồn, trang New York Times, 25-4-1965, tr. 1; Ngày 27 tháng 4 năm 1965, tr. 1,36.

 

[75] Bản ghi nhớ của Trợ lý Đặc biệt của Tổng thống về các vấn đề An ninh Quốc gia (Bundy) gửi Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, ngày 30 tháng 6 năm 1965, FRUS, 1964-68, 3:91.

 

[76] McNamara, Nhìn lại, tr. 194.

 

[77] LBJ, các cuộc trò chuyện được ghi âm, phát hành năm 1995, như được trích dẫn trong Kaiser, American Tragedy, p. 433.

 

[78] Ilya Gaiduk, Liên Xô và Chiến tranh Việt Nam (Chicago: Ivan R. Dee, 1996), tr. 73.

 

[79] Như trên, tr. 47.

 

[80] Samuel Cohen, Sự thật về bom neutron (New York: Morrow, 1983), tr. 95, 84.

 

[81] Thomas Allen, Trò chơi chiến tranh (New York: McGraw Hill, 1987), trang 193-206.

 

[82]New York Times, ngày 27 tháng 5 năm 1964, tr. 1.

 

[83] Lawrence Wittner, Chống bom: Lịch sử Phong trào Giải trừ Vũ khí Hạt nhân Thế giới, 1954-1970 (Stanford: Nhà xuất bản Đại học Stanford, 1998), tr. 438.

 

[84] McNamara, Nhìn lại, tr. 150.

 

[85] Johnson nhận được 61,1% số phiếu phổ thông và 90% số phiếu đại cử tri. White, Quá trình hình thành Tổng thống 1964, trang 315-16.

 

[86] Cohen, Sự thật về bom neutron, tr. 84.

 

[87] Như trên, tr. 93.

 

[88] Cùng nguồn, trang 93-94.

 

[89] Bản ghi nhớ cho Rostow từ Robert Ginsburgh, ngày 12 tháng 9 năm 1967. Thư mục: Robert S. McNamara–SEA,NSF, Files of Walt Rostow, Box 3, LBJL, p. 2.

 

[90] McNamara, Nhìn lại, tr. 275, trích dẫn JCSM-286-67, Bản ghi nhớ của Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ đề: Hoạt động chống lại Bắc Việt, ngày 20 tháng 5 năm 1967; vàJSM-288-67, Bản ghi nhớ gửi Bộ trưởng Quốc phòng: Chủ đề: Tình hình Quân sự Hoa Kỳ trên toàn thế giới, ngày 20 tháng 5 năm 1967, CF, VN, NSF, LBJL.

 

[91] McNamara, Nhìn lại, trang 160-61, 275.

 

[92]Để biết thêm về Jasons, xem Gregg Herken, Cardinal Choices: President Science Advisor from the Atomic Bomb to SDI (New York: Oxford University Press, 1992), trang 152-56.

 

[93] Freeman Dyson, Bình luận về Báo cáo của Jason, ngày 8 tháng 1 năm 2003.

 

[94] Steven Weinberg, liên lạc với Peter Hayes, ngày 25 tháng 12 năm 2002.

 

[95]Freeman Dyson, Làm xáo trộn vũ trụ (New York: Sách cơ bản, 1979), tr. 149.

 

[96] Dyson, Bình luận về Báo cáo của Jason.

 

[97] Weinberg, giao tiếp.

 

[98] Dyson, Làm xáo trộn vũ trụ, tr. 149.

 

[99] F. Dyson, R. Gomer, S. Weinberg và SC Wright, “Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á,” Nghiên cứu S-266, Phân khu Jason, DAHC 15-67C-0011, Washington, DC, tháng 3 năm 1967 ( sau đây là Báo cáo của Jason). Được giải mật vào tháng 12 năm 2002. Tôi biết ơn Peter Hayes của Viện Nautilus vì đã cung cấp một bản sao của nó và nỗ lực suốt 19 năm của ông để nó được giải mật.

 

[100] Như trên, tr. 2.

 

[101] Như trên, tr. 4.

 

[102] Như trên, tr. 12.

 

[103] Như trên, tr. 25.

 

[104] Như trên, trang 4, 15..

 

[105] Như trên, tr. 4.

 

[106] Như trên, tr. 4.

 

[107] Như trên, tr. 46.

 

[108] Như trên, tr. 47.

 

[109] Như trên, tr. 7.

 

[110] Như trên, tr. 49.

 

[111] Như trên, tr. 50.

 

[112] Như trên, tr. 50.

 

[113] Như trên, tr. 51.

 

[114] Phỏng vấn tác giả, Austin, TX, ngày 2 tháng 12 năm 1998.

 

[115] Jason Division: Các chuyên gia tư vấn của Division cũng là giáo sư bị tấn công, Khoa học, ngày 2 tháng 2 năm 1973, tr. 461.

 

[116] Dyson, Làm xáo trộn vũ trụ, tr. 149.

 

[117] Seymour Deitchman, Bình luận về báo cáo của JASON, ngày 25 tháng 2 năm 2003.

 

[118] Trao đổi với tác giả, 3-3-2003.

 

[119] Giấy tờ Walt Rostow, Giấy tờ Tom Johnson, LBJL.

 

[120] Bản ghi nhớ gửi Tướng Wheeler từ Robert N. Ginsburgh, ngày 31 tháng 1 năm 1968, NSF, Walt Rostow Papers, Box 7, LBJL.

 

[121] Bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Tổng thống Johnson, ngày 3 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL.

 

[122] Tướng Wheeler gửi Tướng Westmoreland và Đô đốc Sharp (JCS 01154), ngày 1 tháng 2 năm 1968, Hồ sơ NS, Lịch sử NSC, Bài phát biểu ngày 31 tháng 3, Tập 2, Hộp 47, LBJL.

 

[123] Cable from General Sharp to General Wheeler (JCS 01154), 2/2/1968, NSF, NSC Histories, Bài phát biểu ngày 31 tháng 3, Tập 2, hộp 47, LBJL.

 

[124] Bản ghi nhớ viết tay của Robert Ginsburgh gửi Walt Rostow, truyền các bản sao của cáp Wheeler. Không ghi ngày tháng nhưng đôi khi trước ngày 10 tháng 2 năm 1968. Ngoài ra Bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Tổng thống, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Cả hai đều có trong NSF, Rostow, Box 7, LBJL.

 

[125] Bản ghi nhớ gửi Tổng thống từ Walt Rostow, ngày 2 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL.

 

[126] Bản ghi nhớ gửi Tổng thống của Tướng Wheeler, ngày 3 tháng 2 năm 1968, CM-2944-68, NSF, Lịch sử NSC, Bài phát biểu ngày 31 tháng 3, Tập. 6, Khe Sanh báo cáo, AS, Hộp 48, LBJL. John Prados và Ray W. Stubbe, Thung lũng Quyết định: Cuộc vây hãm Khe Sanh (Boston: Houghton Mifflin, 1991), tr. 291.

 

[127] Bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Tổng thống Johnson, ngày 3 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL.

 

[128] David M., Barrett, ed., Lyndon B. Johnsons Vietnam Papers (College Station: Texas A&M University Press, 1997), p. 722.

 

[129] William C. Westmoreland, Báo cáo của một người lính (Garden City, NY: Doubleday, 1976), tr. 338.

 

[130] Washington Post, ngày 12 tháng 2 năm 1968.

 

[131] Wheeler nghi ngờ Khe Sanh sẽ cần vũ khí nguyên tử, New York Times, 15/02/1968.

 

[132] Fulbright và Rusk xung đột trên Atom Talk, Washington Post, 17 tháng 2 năm 1968.

 

[133] Tin đồn về việc sử dụng vũ khí nguyên tử được các chuyên gia Asian Trips khuấy động, New York Times, ngày 11 tháng 2 năm 1968. Các nhà khoa học là Richard Garwin của Đại học Columbia, Henry Kendall của MIT và Stanford, Julius P. Molnar của Phòng thí nghiệm Điện thoại Bell, và David Israel của Bộ Quốc phòng.

 

[134] Sử dụng A-Arm được gọi là Lunacy của Wilson, Washington Post, ngày 12 tháng 2 năm 1968.

 

[135] Như trên.

 

[136] Thư gửi Tổng thống của Nghị sĩ Charles Bennett, ngày 31 tháng 1 năm 1968, và Thư gửi Charles Bennett từ Barefoot Sanders, ngày 1 tháng 2 năm 1968. NSF, Country File, Vietnam, Box 102, Folder: Vietnam 7F (2)b, 12/67-3/68, Quan điểm và Tuyên bố của Quốc hội [1 trên 2], LBJL.

 

[137] Công văn của các Tổng thống: Lyndon B. Johnson, 1968-69, Quyển I (Washington, DC: GPO, 1970), tr. 234.

 

[138] Washington Post, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Hai ngày trước đó, Johnson đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ ký nghị định thư liên quan đến hiệp ước tạo ra một khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Mỹ Latinh. Nó cam kết Hoa Kỳ không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại bất kỳ quốc gia Mỹ Latinh nào tham gia hiệp ước. Public Papers, Tuyên bố của Tổng thống về Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân ở châu Mỹ Latinh, ngày 14 tháng 2 năm 1968, tr. 223.

 

[139]Ellsberg, Bí mật, tr. 201.

 

[140] Bản ghi nhớ của Robert McNamara gửi Tổng thống Johnson, ngày 19 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL; Ghi chú cuộc họp của Tom Johnson, Thư mục: Ngày 20 tháng 2 năm 1968–1:05 chiều–Bữa trưa thứ Ba.

 

[141] Washington Post, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Nhấn mạnh thêm.

 

[142] Việc sử dụng vũ khí hạt nhân là lời mời dẫn đến thảm họa, Washington Post, ngày 9 tháng 3 năm 1968.

 

[143] Tóm tắt các Ghi chú của M. Bundy liên quan đến cuộc họp của Wise Men, ngày 26 tháng 3 năm 1968. Hồ sơ Ghi chú Cuộc họp, Nhóm Cố vấn Đặc biệt, Hộp 2, LBJL.

 

[144] Westmoreland, Báo cáo của một người lính, tr. 340.

 

[145] Herring, Cuộc chiến dài nhất nước Mỹ, tr. 205.

 

[146] Bản ghi nhớ gửi Tổng thống của Walt Rostow, ngày 2 tháng 2 năm 1968; và Bản ghi nhớ dành cho Chủ tịch, JCS, Chuyển phát một số loại bom, đạn phân mảnh có kiểm soát (COFRAM), vào Đông Nam Á, cả trong NSF, Lịch sử NSC, Bài phát biểu ngày 31 tháng 3, Hộp 47, LBJL. Prados và Stubbe, Thung lũng Quyết định, trang 293-4.

 

[147] Thomas W. Graham, Ý kiến ​​của công chúng Mỹ về NATO, Răn đe mở rộng và sử dụng vũ khí hạt nhân: Phân hạch trong tương lai? CSIA Thỉnh thoảng Paper số 4 (Trung tâm Khoa học và Quan hệ Quốc tế, Trường Chính phủ Kennedy, Nhà xuất bản Đại học Harvard của Mỹ, 1989), trang 14-15. Nghiên cứu của Graham, dựa trên kết quả của hơn 90 cuộc khảo sát dư luận, một số chưa bao giờ được công bố, là phân tích toàn diện nhất về thăm dò dư luận về vũ khí hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh. Để có sự so sánh chi tiết về dư luận trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, xem John Mueller, War, Presidents and Public Opinion (New York: John Wiley & Sons, 1973).

 

[148] Graham, Ý kiến ​​công chúng Mỹ, tr. 14.

 

[149] Mueller, Chiến tranh, các Tổng thống và Ý kiến ​​Công chúng, tr. 105.

 

[150] Graham, Ý kiến ​​công chúng Mỹ, tr. 15.

 

[151] Tàn lụi, bỏ lỡ cơ hội?, tr. 88.

 

[152] HR Haldeman với Joseph DiMona, The Ends of Power (New York: Times Books, 1978), trang 82-83. Về lý thuyết người điên của Nixon, xem Jeffrey Kimball, Nixons Vietnam War (Lawrence: University of Kansas Press, 1998), Ch. 4.

 

[153] Vào tháng 3 năm 1955, tờ New York Times đưa tin rằng Nixon đã cảnh báo Cộng sản Trung Quốc một cách thẳng thắn nhất rằng họ sẽ phải đối mặt với vũ khí nguyên tử nếu họ bắt tay vào bất kỳ cuộc xâm lược mới nào…[và] một cuộc chiến nổ ra ở Thái Bình Dương ….Chất nổ nguyên tử chiến thuật hiện nay đã trở thành thông thường và sẽ được sử dụng để chống lại các mục tiêu của bất kỳ thế lực hung hãn nào….New York Times, ngày 13 tháng 3 năm 1955.

 

[154] Ball, Quá khứ có hình mẫu khác, tr. 410.

 

[155] Roger Morris, Sự vĩ đại không chắc chắn: Henry Kissinger và Chính sách đối ngoại của Mỹ (New York: Harper & Row, 1977), tr. 154.

 

[156] What the President Saw: A Nation Coming to its Own, Time, 29 tháng 7 năm 1985, 48-53. “Nixon nói rằng ông ấy đã cân nhắc việc sử dụng vũ khí nguyên tử trong 4 lần,” New York Times ngày 22 tháng 7 năm 1985. Ba lần còn lại là trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, sự gia tăng tranh chấp biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc (ông ấy đã đưa ra lời đe dọa hạt nhân ngụ ý) và cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971.

 

[157] “Phỏng vấn Henry A. Kissinger: Chúng ta chưa bao giờ tiến gần đến chiến tranh hạt nhân, Washington Post, ngày 11 tháng 8 năm 1985.

 

[158]Stephen Ambrose, Nixon: The Triumph of a Politician, 1962-1962, (New York: Simon and Schuster, 1989), tr. 223.

 

[159] Richard M. Nixon, No More Vietnams (New York: Arbor House, 1985), tr. 102; Richard M. Nixon, RN: Hồi ký của Richard Nixon (New York: Grosset và Dunlap, 1978) trang 347-8.

 

[160] Richard M. Nixon, Cần thiết ở Việt Nam: Ý chí chiến thắng, Readers Digest, tháng 8 năm 1964, trang 37-43.

 

[161] William Bundy, Một trang web rối rắm: Việc hoạch định chính sách đối ngoại dưới thời Tổng thống Nixon (New York: Hill và Wang, 1998), tr. 15.

 

[162] Ambrose, Nixon, tr. 193.

 

[163] Kissinger, Vũ khí hạt nhân và chính sách đối ngoại.

 

[164] US News and World Report, tháng 3 năm 1976.

 

[165] Terry Terriff, Chính quyền Nixon và việc xây dựng chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ (Ithaca: Nhà xuất bản Đại học Cornell, 1995), trang 54-60.

 

[166] Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 117; Terriff, Chính quyền Nixon, trang 52-53; 60-69.

 

[167] SM-71-69, Hồ sơ đặc biệt Haig, Hồ sơ Việt Nam (tháng 1-tháng 3 năm 1969), Hộp 1007, Hồ sơ NSC, NPMP.

 

[168] Bản ghi nhớ của Kissinger từ Haig, ngày 2 tháng 3 năm 1969, và Bản ghi nhớ của Kissinger từ Laird, ngày 21 tháng 2 năm 1969, Hồ sơ đặc biệt của Haig, Hồ sơ Việt Nam (tháng 1 đến tháng 3 năm 1969), Hộp 1007, Hồ sơ NSC, NPMP.

 

[169] Bản ghi nhớ cho Laird từ Kissinger, ngày 3 tháng 3 năm 1969, Hồ sơ đặc biệt Haig, Hồ sơ Việt Nam (tháng 1-tháng 3 năm 1969), Hộp 1007, Hồ sơ NSC, NPMP.

 

[170] Để thảo luận về điều mà nhà sử học Jeffrey Kimball gọi là trình tự thời gian không trung thực của Kissinger về sự phát triển của kế hoạch này trong hồi ký của ông, và nỗ lực cẩn thận để xây dựng lại trình tự thời gian chính xác, xem Kimball, Nixon's Vietnam War, trang 159-165. Kissinger ngụ ý rằng việc lập kế hoạch chỉ bắt đầu vào tháng 9 và tháng 10 (chứ không phải sớm nhất là vào tháng 4). Sự ủng hộ của ông đối với kế hoạch dường như lớn hơn những gì ông tiết lộ trong hồi ký của mình.

 

[171] Seymour Hersh, Cái giá của quyền lực: Kissinger trong Nhà Trắng Nixon (New York: Summit Books, 1983), tr. 120. Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 164.

 

[172] Cùng nguồn, trang 128-9. HR Haldeman, Nhật ký Haldeman: Bên trong Nhà Trắng Nixon (G. Putnams Sons, 1994), trang 69-70, 83.

 

[173] William Burr và Jeffrey Kimball, Cảnh báo hạt nhân bí mật của Nixon: Ngoại giao chiến tranh Việt Nam và bài kiểm tra mức độ sẵn sàng của Tham mưu trưởng liên quân, tháng 10 năm 1969, Lịch sử Chiến tranh Lạnh, 2/3 (tháng 1 năm 2003).

 

[174] Nhóm Tháng Chín, như một số người gọi nó, bao gồm Anthony Lake, Winston Lord, Laurence Lynn, Roger Morris, Peter Rodman, Helmut Sonnenfeldt, William Watts, Đại tá Alexander Haig, Đại tá William Lemnitzer, và Đại úy Rembrandt C. Robinson . Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, trang 163.

 

[175] Henry Kissinger, Những năm ở Nhà Trắng (Boston: Little, Brown, 1979), tr. 284.

 

[176] Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 163.

 

[177] Lập kế hoạch Dự phòng ở Việt Nam: Khái niệm Hoạt động, ngày 16 tháng 9 năm 1969. Tôi cảm ơn Jeffrey Kimball đã chia sẻ tài liệu này.

 

[178] Tad Szulc, Ảo tưởng về hòa bình: Chính sách đối ngoại trong những năm Nixon (New York: Viking Press, 1978), tr. 150. Theo các cuộc phỏng vấn của Szulcs, Kissinger tiếp tục nói: Nhóm này sẽ có nhiệm vụ xem xét khả năng tung ra một đòn quyết định, dã man chống lại Bắc Việt Nam về mặt quân sự. Bạn phải bắt đầu mà không có bất kỳ định kiến ​​nào cả. Bạn phải ngồi xuống và vạch ra xem đâu sẽ là một đòn quyết định và dã man. Bạn phải xem xét lựa chọn từ mọi góc độ, bạn phải xem xét từng chi tiết về cách nó sẽ được thực hiện về mặt quân sự, kịch bản chính trị sẽ như thế nào. Như trên, tr. 150.

 

[179] Như trên, tr. 151.

 

[180] Như trên, tr. 153.

 

[181] Như trên, tr. 152.

 

[182] Hersh, Giá quyền lực, tr. 98. Winston Lord nói với Jeffrey Kimball trong một cuộc phỏng vấn năm 1994 rằng ông không tin vào ý kiến ​​cho rằng vũ khí hạt nhân được xem xét. Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 163.

 

[183] ​​Hersh, Giá quyền lực, tr. 129.

 

[184] Để biết thông tin đầy đủ, xem Burr và Kimball, Cảnh báo hạt nhân bí mật của Nixon.

 

[185] Nixon, Hồi ký, trang 403-5. Nixon và Kissinger sau đó đều hối hận vì đã lùi bước, cho rằng lẽ ra họ nên bắt đầu các hoạt động ném bom tích cực vào miền Bắc Việt Nam sớm hơn nhiều, vào tháng 2 năm 1969. Kimball, Nixons Vietnam War, tr. 173.

 

[186] Morris, Sự vĩ đại không chắc chắn, trang 165-6. Morris là nhân viên của NSC đã từ chức năm 1970 sau vụ đánh bom bí mật vào Campuchia.

 

[187] Hersh, Giá quyền lực, tr. 128; Morris, Sự vĩ đại không chắc chắn, tr. 165; Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 164.

 

[188] Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 145.

 

[189] Ambrose, Nixon, tr. 301; Bundy, Một trang web rối rắm, tr. 80.

 

[190] Hersh, Giá quyền lực, tr. 129.

 

[191] Ellsberg, Bí mật, tr. 233.

 

[192] Hersh, Cái giá của quyền lực, tr. 129.

 

[193] Herkken, Cố vấn chiến tranh, tr. 17.

 

[194] White House Tapes, 25/04/1972, EOB Tape 332-25, NPMP.

 

[195] Nhật ký Haldeman. Trích dẫn từ White House Tapes, ngày 2 tháng 5 năm 1972, Cuộc trò chuyện tại Phòng Bầu dục, 717-20, NPMP.

 

[196] Băng Nhà Trắng, ngày 4 tháng 5 năm 1972, Băng EOB 334-44, NPMP.

 

[197] Băng ghi âm của Nhà Trắng, ngày 5 tháng 5 năm 1972.

 

[198] Bản ghi nhớ về hồ sơ của Tổng thống (Chỉ dành cho những đôi mắt bí mật), “Cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia,” ngày 8 tháng 5 năm 1972, NPMP, Hồ sơ NSC, Hộp 998, Haig Memcons (tháng 1-tháng 12 năm 1972), tr.10 .

 

[199] Alexander M. Haig, Jr. Vòng tròn bên trong: Nước Mỹ đã thay đổi thế giới như thế nào: Một cuốn hồi ký. New York: Warner Books, 1992), tr. 28.

 

[200] Như trên, tr. 554.

 

[201] Henry Kissinger, Ngoại giao (New York: Simon & Schuster, 1994), trang 607-8.

 

[202] Peter Hayes, Pacific Powderkeg: Những vấn đề nan giải hạt nhân của Mỹ ở Hàn Quốc (Lexington, MA: Lexington Books, 1991), p. 42.

 

[203] Robert S. McNamara, James G. Blight và Robert K. Brigham, Lập luận không có hồi kết (New York: Public Relations, 1999), p. 407.

 

[204] Henry Kissinger, Những năm ở Nhà Trắng (Boston: Little, Brown, 1979) trang 66-67.

 

VỀ CƠ BẢN BỊ TIÊU DIỆT

Về cơ bản bị tiêu diệt: Bối cảnh

Khám phá FOIA & Làm thế nào Nautilus có được câu chuyện

Dự án Công bố Toàn cầu: Danh sách Tài liệu

Tuyên bố của Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein về Nghiên cứu năm 1967 phân tích tính khả thi của việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong chiến tranh Việt Nam

Về cơ bản bị tiêu diệt: Thông cáo báo chí

Về cơ bản bị tiêu diệt: Phỏng vấn báo chí

Về cơ bản bị tiêu diệt: Tin tức truyền thông

Về cơ bản bị tiêu diệt: Phản ứng từ Việt Nam

Tóm tắt: Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á

Quân nổi dậy: Ngày ấy và bây giờ

Phỏng vấn Daniel Ellsberg

Vũ khí hạt nhân và chiến tranh Việt Nam

Vũ khí hạt nhân chiến thuật năm 1966

Hướng tới Đường mòn Hồ Chí Minh

Về cơ bản bị tiêu diệt: JASON là gì?

Bình luận của các tác giả (The JASONs) về vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á

JASON là gì? Tác giả Freeman Dyson

JASON là gì? Tác giả Robert Gomer

JASON là gì? Tác giả S. Courtenay Wright

JASON là gì? Tác giả Steven Weinberg

Các lập luận của JASON có còn hiệu lực không?

Tài khoản của người trong cuộc: Seymour Deitchman

Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á

Những trích dẫn chính từ vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á

Op-Ed: Một ý tưởng tồi ở Việt Nam, một ý tưởng thậm chí còn tệ hơn ngày nay

Op-Ed: Lập trường hợp chống lại tai họa

Viện Nautilus

2342 Shattuck Ave. #300, Berkeley, CA 94704 | Điện thoại: (510) 423-0372 | Email: nautilus@nautilus.org

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THÁNG 8/23

 

THÁNG 7/23

 

 

THÁNG 05-2023

 

Indian

South Korea

Vietnam

Indonesia

Brazil

Komorro

 

 

 

 

 

NATURAL RESOURCES

 

 

 

 

 

 

 

THÁNG 03-2023

 

Above The Law. Unherd. New Republic.Transparency. Fortinet. Tech Target. Justice Initiative. FreedomWatch. PreventGennocide. National Library Of Medicine

https://freenations.net/germany-in-crisis-faces-war-reparations-claims

 

https://www.thoughtco.com/totalitarianism-definition-and-examples-5083506

 

https://jacobin.com/2022/12/twitter-files-censorship-content-moderation-intelligence-agencies-surveillance

 

THÁNG 12-2022

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 11

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 10

 

THÁNG 9/2020

 

VĂN HÓA - LỊCH SỬ

 

TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative -

 

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 


 

 

MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu