Bốn mươi năm Sài G̣n sụp đổ: nhân chứng ngày kết thúc chiến tranh
Binh sĩ Hải quân Mỹ trên tàu USS Blue Ridge đẩy một trực thăng xuống biển để dọn chỗ cho những chuyến bay chở người di tản khác từ Sài G̣n tới.
Khi quân đội Bắc Việt đặt chân vào thủ đô ngày 30 tháng Tư năm 1975, nó đánh dấu cuộc bại trận thương đau nhất trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ. Bốn thập kỷ sau khi ông tường thuật lại những sự kiện cho tờ The Guardian, Martin Woollacott giờ đây phản ánh lại những ǵ về tương lai của hai quốc gia.
Một ngày sau khi Bắc Việt chiếm Sài G̣n, thành phố thức giấc bằng những bài ca chiến thắng. Vào đêm, những kỹ sư của đoàn quân chiến thắng đă treo lên những chiếc loa khổng lồ, khoảng năm giờ sáng, những bài hát giải phóng véo von, cứ mở đi mở lại liên hồi. B́nh minh rực sáng rọi xuống đường phố không người. B́nh thường, vào thời điểm này, giao thông đă bắt đầu hối hả. Thế nhưng, giờ đây không một ai biết phải làm ǵ. Chẳng lẽ đi làm, hay ra chợ mua đồ? Chẳng lẽ đi đổ xăng, hay laị có một cuộc chiến nữa bùng nổ? Đây không phải là Sài G̣n thường nhật, mà là quang cảnh của sự hoang mang đến kinh hoàng. Vai tṛ của Sài G̣n được thiếp lập lên như là thủ đô của một nước Viêt Nam không cộng sản. Vậy mà chỉ qua một đêm, tất cả đă biến mất. Những người lính đă biến mất, những tướng lănh, chính khách, công chức khoác những tấm mền đỡ lạnh trên vai, nhấp nhô, lênh đênh theo nhịp sóng của biển cả trên những bong tàu chiến của Hải quân Mỹ, ngoài biển Đông.
Suốt những năm tháng dài của cuộc xung đột, chiến tranh chưa hề đụng đến Sài G̣n ngoại trừ vài trái rocket, đôi vụ gài ḿn tại những tiệm ăn, thiết quân luật vào đêm, hay trận đánh vào tầng trệt của ṭa đại sứ Mỹ trong dịp Tết 1968. Sài G̣n rung chuyển, nhưng đă thoát được một thảm họa. Và sự thực, khi những bài ca giải phóng vang vọng hắt xuống đường, nó đă thoát hiểm. Có vài người biết Bắc Việt đă chuẩn bị để nghiền nát thành thành phố này bằng pháo binh hạng nặng mở đường, rồi giành lấy từng góc phố, kháng cự ư, sẽ bị giáng trả mạnh hơn. Nếu vị Tổng thống cuối cùng của Nam Việt Nam, tướng Dương Văn Minh không ban hành lệnh hạ vũ khí, có lẽ Sài G̣n đă trở thành một nghĩa địa hoang tàn. Người Việt nói giỡn rằng cộng sản đánh Sài G̣n mà đă “không làm vỡ dù chỉ một chiếc bóng đèn”. Điều này cũng không đúng. Tổn thất rất lớn ở cả hai phía, giao chiến chỉ dừng lại tại cửa ngơ Sài G̣n. Ở khu trung tâm, nỗi sợ sẽ xảy ra cảnh hôi của và vô chính phủ. Stewart Dalby, phóng viên tờ Financial Time, và tôi đang đi trên đường Tự Do, trục chính của Sài G̣n, một người đàn ông nh́n khá hung dữ, áo bỏ ngoài quần, chặn đường chúng tôi. Hắn chỉ vào thắt lưng, ám chỉ hắn có súng, rồi tước ngay chiếc máy chụp h́nh đắt tiền trên cổ Dalby. Những sự cố như vậy cũng đủ thuyết phục mọi người rằng cộng sản nắm quyền kiểm soát càng sớm càng tốt.
Ngày đầu tiên của thời đại mới, không có người Mỹ trong ṭa đại sứ h́nh ốc đảo nằm trên đại lộ Thống Nhất, chỉ c̣n lại một đống đồ phế thải của ngày di tản hỗn độn trước đó. Chẳng c̣n ai trong ṭa thị chính. Không một ai trong Nhà hát nơi Quốc hội dùng để hội họp. Không có tổng thống trong dinh. Nguyễn Văn Thiệu đă đi. Người kế nhiệm ông bàn giao lại cho Minh. Minh nói với những sỹ quan Bắc Việt đầu tiên bước vào dinh rằng ông đă sẵn sàng cho công việc bàn giao quyền lực. “Ông không có ǵ để bàn giao, khi ông tay trắng,” họ đáp lời rồi bước đi. Minh làm tổng thống hai ngày.
Quyền lực của Minh chỉ là hoang tưởng, và Sài G̣n cũng sống trong hoang tưởng những ngày sau đó. Tại vườn Bách Thảo nơi các công dân thường dẫn con tới thư giăn cuối tuần, bạn nghe nhiều tin đồn như thiệt. Người th́ bảo “Pháp sẽ trở lại với hai quân đoàn”. Người th́ nói “Mỹ sẽ ném bom trở lại.” Người khác phán “phải thành lập chính phủ liên hiệp.” Rồi cuối cùng dường như đến một kết luận chung có vẻ hợp lư “Chúng ta đều là người Việt Nam” được nói ra ở một cử chỉ nằm ở khoảng giữa của hy vọng và tuyệt vọng. Đó là lời an ủi cho nhiều người, nhưng không phải cho những người có địa vị, có mối quan hệ gắn bó với chính phủ, hay với Mỹ. Họ e sợ sẽ có một cuộc trả thù, hay ít nhất cũng bị đóng dấu đen trong lí lịch suốt đời. Dưới mắt chúng tôi, có vài người chẳng có lư do ǵ để lo âu, nhưng vẫn bị cuốn vào cơn băo táp của hoảng loạn. “Nỗi quá sợ hăi Việt Cộng đă làm cho Sài G̣n mất đi dáng vẻ lanh lợi khôn ngoan của nó,” một nhà báo đă từng viết. Nhưng họ muốn ra đi, và nhiều người đă ra đi, thoạt đầu bằng máy bay, và giây phút cuối cùng bằng trực thăng – khởi thủy của một cuộc tha hương vĩ đại gồm hàng triệu người Việt quyết định rời bỏ đất nước sau năm 1975.
Những sỹ quan Mỹ chỉ huy chiến dịch di tản đành phải đưa ra những quyết định đớn đau. Để tránh hoang mang làm hỏng tuyến pḥng thủ của Nam Việt Nam, họ đă giới hạn ở giai đoạn khởi đầu. Sau đó họ đưa ra những lời hứa khá chắc chắn cho những người vẫn c̣n giữ thái độ “nếu nó tới, chơi tới cùng” (v́ tư tưởng này đă giữ cho Nam Việt Nam sống sót ở mọi h́nh thức tồn tại) tất cả trong số họ sẽ được di tản vào phút cuối.
Đây là lời hứa mà người ta đă không thể giữ. “Tiếng kêu gào trong tuyệt vọng của họ qua làn sóng của đài phát thanh CIA đă ṿ xé trái tim tôi,” Frank Snepp, một nhân viên t́nh báo tại Sài G̣n, đă viết như vậy nhiều năm sau đó. Một ngày trước khi Sài G̣n sụp đổ, từ sân thượng của khách sạn Caravelle, tôi và những phóng viên khác nh́n ḍng người mỏi ṃn, đớn đau để được đưa đến sân thượng của ṭa nhà gần đó. Một thảm kịch câm âm thầm, khi những tiếng nổ của động cơ cứ xa dần rồi mất hẳn. Sự thực phũ phàng đă đến, chẳng c̣n một chiếc trực thăng Mỹ nào trở lại nữa, vĩnh viễn. Tại ṭa đại sứ Mỹ, nỗi kinh hoàng không thể nói lên lời. Đám đông tuyệt vọng không c̣n chỗ đứng van xin để được vào trong. Lính hải quân cho những ai có giấy phép, hoặc có gương mặt trắng trẻo, và đẩy ra những những người khác.
Ngày tiếp theo, xe tăng vào trước, ṇng pháo dài vươn ra giống như chiếc mũi của Pinocchio, nhằm thẳng trung tâm thành phố và dinh tổng thống. Có vài chiếc tăng bị lạc đường. Chúng tôi nh́n thấy một chiếc lùi lại, quay đầu, rồ máy lao đến cổng bệnh viện cũ của Pháp, hoàn toàn không phải là mục tiêu quân sự. Rồi khi vừa tới cổng dinh tổng thống, chiếc dẫn đường liều lĩnh lao qua cổng trong nỗi hân hoan nhưng làm James Fenton phải đứng tim, anh là nhà thơ kiêm làm báo người vô t́nh đă trở thành phóng viên cuối cùng của tờ Washington Post có mặt tại Sài G̣n. Khi lính mới xuất hiện, lính cũ bỏ đi, một cuộc phô diễn cay đắng, cuối cùng: pháo hiệu bắn lên: xanh, đỏ, trắng, cùng đội h́nh duyệt binh, trước lúc tan hàng.
Những người lính mới, chúng tôi đă nhanh chóng học được cách gọi họ là bo doi (“foot soldiers”) mặc quân phục đồng màu và đội nón cối đă lỗi thời. Trông họ khá thư giăn: cuộc chiến đă qua mà họ c̣n sống, và họ đă góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại. Vài ngày sau, có một cuộc duyệt binh, rồi phần lớn họ bị đưa ra khỏi Sài G̣n. Những người được ở lại th́ lịch sự, nhưng do dự. Họ ngộ nhận cho là những ai da trắng đều là Liên Xô. Có người dường như rất ngạc nhiên về sự thịnh vượng của Sài G̣n. Họ rất ngưỡng mộ đồng hồ đeo tay, đặc biệt loại có lịch. Họ gọi đó là đồng hồ có cửa sổ. Đồng hồ đeo tay chỉ phát cho sỹ quan cấp tá trở lên trong quân đội Bắc Việt. Nếu đi sóng đôi, họ nắm tay nhau, một h́nh ảnh cảm động lạ lùng. Nhưng họ dường như được huấn luyện khá nghiêm nghị. Khi có vài người kháng cự, nổ súng vào những người lính miền Bắc tại công viên giữa Nhà thờ Chính ṭa Sài G̣n và dinh tổng thống, các phóng viên chứng kiến cảnh họ phối hợp rất nhịp nhàng. Họ mới vừa đứng nghỉ, hút thuốc một phút trước đó, đă nhanh nhẹn nằm sấp xuống rồi bắn trả một cách điêu luyện, tung ra cú tạt sườn và khóa chặn nhóm tấn công. Cũng nên nhắc lại rằng vào thời điểm đó, thiên hạ thường nói về một đôi quân du kích, trang bị thô sơ đương đầu với lực lượng tinh nhuệ. Điều này đă qua lâu rồi. Đội quân miền Bắc kéo vào Sài G̣n với tất cả trang bị của một quân đội hiện đại, chỉ thiếu máy bay.
Việt Nam là một tay biết lèo lái chính trị quân sự và cả đạo đức rất khôn ngoan trong nhiều năm. Quá nhiều thứ của cuộc chiến chiếm giữ lương tâm của mỗi người. Đôi lúc tưởng như thế giới đă nhầm lẫn tất cả, và tất cả phải được sửa chữa lại tại nơi đây. Rất nhiều điều quan trọng phải được quyết định ở nơi đây: phe nào chiếm ưu thế trong cuộc giao tranh quốc tế giữa cộng sản và không cộng sản; các nước phương Tây sẽ tiếp tục thống trị các cựu thuộc địa hay không; các nước nhỏ có thể đứng lên chống lại những nước lớn không; du kích có thể đánh bại quân đội hiện đại không; một phong trào nổi tiếng – phong trào ḥa b́nh tại tâm điểm của quốc gia tham chiến – có thể làm thay đổi những chính sách của một cường quốc hay không. Những câu hỏi này, liệt kê đơn giản, nhưng rất khó t́m thấy câu trả lời hôm nay, v́ chúng xảy ra trong ngày Sài G̣n đột qụỵ. Sự kiện đơn giản rằng cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam là một nhầm lẫn và tội ác – bởi v́, nó đă được thực thi một cách quá sơ sài, được theo đuổi một cách quá ác độc, và bị bỏ rơi một cách quá nhẫn tâm .
Câu chuyện về sự sụp đổ của Nam Việt Nam là một chuỗi những dự báo thất bại đầy tai tiếng. Richard Nixon và Henry Kissinger, thừa biết rằng cuộc chiến vô phương chống đỡ về mặt chính trị, đă đồng ư rút quân, dưới những điều kiện của Hiệp định Paris 1973. Họ hiểu miền Bắc chắc chắn sẽ thắng, nhưng muốn, từ của Kissinger, “khoảng hợp lư” giữa ngày Mỹ ra đi và ngày miền Nam thất bại. Mặc dù đôi khi họ cũng nhảy múa với tư tưởng rằng miền Nam nếu được giúp đỡ cũng vẫn sống sót. Nghĩa là họ trông đợi miền Nam tự tiếp tục chiến đấu sau khi Mỹ rút quân, cốt yếu để cho Mỹ bớt phần xấu xí trước con mắt quốc tế. Âm mưu thâm độc này được phối hợp bởi những tướng lănh qua làm chính trị của Nixon, sự mở rộng không gian cuộc chiến qua lănh thổ Cambodia thổi bùng lên ngọn lửa phản chiến. Cú sốc giá dầu năm 1973 vô cùng tai hại và giá tột cùng đắt đỏ của chiến tranh gây ra sự lạm phát – và tất cả những điều này được phủ lên trên sự kiện Watergate bị phanh phui. Một Quốc hội vỡ mộng và nổi loạn đă từ chối ủng hộ cho cuộc chiến, áp đặt lệnh cắt, cắt hết mọi nguồn viện trợ quân sự cho Sài G̣n như đă từng hứa.
Không lay chuyển, nhưng với Nam Việt Nam, không thể giải thích, số đạn dùng cho mỗi khẩu súng phải được cho phép, số phi vụ oanh kích bị giới hạn, phụ tùng thay thế cứ giảm dần sau mỗi tháng. Vào cuối tháng Tám 1974, Trung tướng John E Murray, người chịu tránh nhiệm hậu cần cho quân đội miền Nam tác chiến đă viết thẳng ra rằng “không có một sự trợ giúp đúng đắn Quân lực Việt nam Cộng ḥa sẽ bại trận, có lẽ không phải ngay tuần sau hay tháng sau, mà những năm đang tới”. Như là một vấn đề kỹ thuật quân sự, cuộc chiến thực ra khá đơn giản. Miền Nam là một quốc gia dài và hẹp, bởi vị trí địa lư tự nhiên của nó thường xuyên bị hở sườn. Nó phải có hệ thống pḥng thủ chắc ở mọi địa điểm, không thể làm được điều này nếu không có phương tiện cơ động nhanh và hỏa lực mạnh do Mỹ viện trợ. Giờ đây, nguồn cung cấp đă khóa chặt.
Tổng thống Thiệu, người không bao giờ có nhiều tính chính đáng, giờ đây lại c̣n ít hơn. Nền kinh tế miền Nam chao đảo, ông mất sự ủng hộ ngay cả với nhà thờ Công giáo nơi thường giúp đỡ ông. Phật giáo ngày càng trở nên lạnh lùng. Những nguời ôn ḥa, trung tính được gọi là “Lực lượng thứ ba” cũng vậy. Nhưng nếu những người miền Nam trong t́nh trạng nguy ngập th́ người miền Bắc cũng có mỗi lo âu riêng của họ. Mặc dù bề ngoài đảng và chính phủ vẫn giữ trạng thái tự tin tuyệt đối vào chiến thắng và ngày thống nhất đến gần, nhưng trong bụng không chắc chắn. Họ cũng có những rắc rối về cung ứng và hậu cần bởi v́ Liên Xô và Trung Quốc cũng bớt viện trợ sau Hiệp định Paris. Giống như miền Nam, họ lo lắng về độ tin cậy và động cơ của những đồng minh. George J Veith viết trong Tháng Tư đen tối, lịch sử quân sự của ông trong năm cuối cùng của cuộc chiến, Hà Nội cảm thấy rằng nó chỉ có “một cửa sổ nhỏ của cơ hội để chiến thắng”.
Kế hoạch là một chiến dịch hai-năm có thể mang lại chiến thắng vào năm1976. Nhưng chiến dịch mở màn ở vùng cao nguyên trung phần đă thành công đến mức họ làm luôn trong năm 1975. Chỉ trong ṿng hơn hai tháng. Những lỗi lầm của Thiệu và một vài tướng lănh của ông đă đưa t́nh thế đến khốn cùng. Thế nhưng nguyên nhân thiết yếu của sự bại trận quá sớm này phải kể đến sự thiếu hụt nguồn cung ứng và vũ khí hạng nặng. Bắc Việt đang tiến gần đến Sài G̣n, ở cao nguyên trung phần, Huế, Đà Nẵng và nơi khác đang diễn ra những màn rùng rợn của hoảng loạn, hoang mang, vô trật tự, không tuân lệnh, và đảo ngũ, nhưng cũng rất khó cho những trận đánh hiểm hóc với hành động của chủ nghĩa anh hùng cảm tử. Nhưng Nam Việt Nam – “một con rối”, một quốc gia thực sự, hoặc tất cả những ǵ nó đă là – đă biến mất trong làn khói lửa chiến tranh. Thế giới nghẹn ngào.
Những phóng viên quyết định ở lại Sài G̣n phần lớn là người Pháp, Nhật, vài người Anh và một hai người Mỹ giả vờ là người Canada. Chúng tôi tường thuật về một cuộc chiến, không phải không có nguy hiểm, nhưng cảm thấy khá dễ dàng. Chúng tôi được đưa tới những máy bay và trực thăng năng động của Mỹ, cấp tiền, có nơi ăn chốn ở và được bảo vệ bởi Mỹ hoặc những người lính miền Nam Việt Nam. Bạn có thể ở tận cùng chiến tuyến nơi cực bắc, sát vùng được gọi là Khu phi quân sự một cách mỉa mai, vào buổi sáng, rồi trở laị Sài G̣n, tắm rửa ăn uống vào đầu buổi tối. Giờ đây bất th́nh ĺnh, chúng tôi trở nên bơ vơ chỉ trong khoảnh khắc. Bảo vệ mạng sống của chúng tôi là hệ thống không lực Mỹ, lính bảo vệ, những nhà phân tích, tùy viên quân sự sứ quán Úc giờ đây biến mất. Nhiều đường dây liên lạc với người Việt cũng đă mất. Những người trợ lư, lái xe, và phiên dịch (có vài người té ra là gián điệp cộng sản vẫn c̣n đó nhưng giờ đây họ đang trên tận chín tầng mây, một cách tự nhiên).
Bắc Việt Nam có vài sỹ quan nói tiếng Anh và Pháp giỏi. Họ giúp đỡ, nhưng rất hiếm khi. Có một dịp, ngay sau lúc tiếp quản thành phố, một đơn vị làm phim của quân đội Bắc Việt lao vào văn pḥng của CBS và ra lệnh rằng toàn bộ những thước phim quay trận đánh cuối cùng của cuộc chiến tại Cầu Mới, cửa ngơ thành phố, phải giao nộp ngay. Họ đẫm mồ hôi và rất nóng giận – dường như họ đă đến qúa trễ để quay trận đánh này. Bởi thế, họ muốn chiếm đoạt lại những ǵ mà cả đoàn phóng viên truyền h́nh Mỹ đă có được. Tôi chứng kiến cảnh đối đầu và phải kêu cứu đến viên sỹ quan cấp tá Bắc Việt mà chúng tôi đă từng gặp ông trước đó. Ông tới, giải tỏa được t́nh huống và ra lệnh cho những người đồng chí phải rời đi. Người chánh văn pḥng mừng quá, mời ông một ly nước. Ông nhă nhặn từ chối: “Để lần sau, chúng ta sẽ c̣n có nhiều dịp vui”, với nụ cười gượng. Không ngạc nhiên, chúng tôi đă không bao giờ có.
Bị bỏ lại với những thiết bị cũ kỹ rẻ tiền, chúng tôi thoạt tiên không thể gửi bài, bởi v́ bưu điện đă đóng cửa, những đường liên lạc điện thoại viễn liên đă cắt. Khi có thể, chúng tôi gởi bài viết về những ngày cuối cùng mà chúng tôi đă bị kẹt lại. Sau đó, chúng tôi có thể làm ǵ? Chúng tôi không thể làm những ǵ như đă làm trong quá khứ. Trong đó, chúng tôi viết những bài phê b́nh chính sách của Mỹ và chính phủ Nam Việt Nam. Giờ đây tất cả đă biến mất. Những bài phê b́nh của chúng tôi trở nên vô nghĩa.
Vài người chúng tôi đến thăm viếng vài địa điểm đă từng rất quan trọng rồi viết “trước đây và bây giờ”. Một nhóm chúng tôi lái xe dọc quốc lộ 13 tới An Lộc, một thị trấn ở bắc Sài G̣n, nơi diễn ra cuộc vây hăm cam go trong chiến dịch 1972. Chúng tôi băng qua một cảnh tượng rất lạ, nh́n giống như nhiều đại đội giầy quân sự xếp hàng ngay ngắn phủ mặt đường, tựa như chủ nhân của chúng bỗng biến lên thiên đàng. Quân phục của quân đội Nam Việt Nam nằm tung tóe dọc hai bên vệ đường. Có những cảnh tương tự ở nơi khác nữa. Lời giải thích là quân đội Bắc Việt đă ra lệnh đơn vị đầu hàng phải lột bỏ hết quân phục.
Sự châm biếm của những cảnh trông thấy là quá rơ ràng. An Lộc từng là một chiến thắng của Nam Việt, chiến đấu ngoan cường bằng lực lượng dù và biệt động, cùng với sức mạnh của không quân Mỹ, tất cả B-52 có mặt trong vùng đông nam Á được huy động để dội bom vào Bắc quân. Chúng tôi ở đây, trong quanh cảnh, đưa tin về quá khứ, bởi hiện tại quả là kinh khủng. Chúng tôi uống một ly nước lạnh gần một trạm quân sự đă bỏ hoang, và t́m xem nơi nào từng là văn pḥng của cố vấn Mỹ, nhưng không thấy, qua những căn hộ, bờ bụi ngoại ô rồi về lại Sài G̣n. Trên đường đi An Lộc, chúng tôi đi qua đại sứ quán Vương quốc Anh, tôi nhận ra người lính bảo vệ, đă lấy quốc kỳ trên nóc nhà xuống, căng ra làm mái che nắng. Nghẹt thở và ngạc nhiên bởi một một cơn tức giận bất thường, tôi bước ra khỏi xe, bước đến thẳng trước mặt họ và đề nghị treo lại lá cờ vào vị trí cũ. Nghĩ tôi là người Liên Xô hay Đông Đức và tưởng tôi cũng có chút quyền lực, họ gấp lá cờ lại.
“Tất cả đó là ǵ?” tôi tự hỏi. Những người lính kia không có ư sỉ nhục ai. Thực ra, nó cũng chỉ là mảnh vải. Nhưng sự thực, tất cả chúng tôi, ở một mức độ nào đó, vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc chiến xưa, vẫn c̣n thấm đẫm với tư tưởng quyền uy tây phương mà nó thường dẫn tới những cuộc xung khắc đầy kịch tính và dữ dội. Bởi vậy, thậm chí vài người trong chúng tôi đă từng ủng hộ cho cuộc chiến. Trước lúc thành phố này sụp đổ, Phillip Caputo, một nhà báo Mỹ người đă từng là một sỹ quan hải quân chiến đấu tại Việt Nam đă viết một cuốn sách về kinh nghiệm của ông, tự hỏi cái ǵ đă xảy ra, giống như một đạo quân lê dương của những hoàng đế La Mă. Ảnh hưởng phương tây trên thế giới, trong biểu tượng cuối cùng của nước Mỹ, đang đến hồi kết thúc chăng? Điều ǵ đó đă bị xé bỏ và điều ǵ khác – cái điều không phải “của chúng ta” – sẽ tới thay chỗ của nó. Người Việt, Bắc hay Nam, đang trải qua khoảng khắc đặc biệt trong lịch sử của họ, c̣n chúng tôi đang ngồi loanh quanh, trích dẫn ḷng ṿng Edward Gibbon.
South Vietnamese troops and their US advisers resting in the jungle near the town of Binh Gia, 40 miles east of Saigon, in January 1965. Photograph: Horst Faas/AP
South Vietnamese troops and their US advisers resting in the jungle near the town of Binh Gia, 40 miles east of Saigon, in January 1965. Photograph: Horst Faas/AP
Tất nhiên, chúng tôi đă cố gắng tường thuật lại những ǵ đang xảy ra ở Việt Nam mới. Có đôi thứ hiển hiện rất rơ ràng. Tại mọi khách sạn mà chúng tôi ở, tất cả nhân viên bị triệu tập tới “học tâp” duới nhiều dạng, nhiều kiểu khác nhau. Hoc tap, như nó được gọi, đă đụng chạm đến hết thảy mọi người. Cựu sỹ quan đă bị gọi, từng cấp, từng cấp một. Ít nhất, trong một khoảng ngắn, có một quốc gia riêng biệt của miền Nam không? Chính phủ cách mạng lâm thời đóng vai tṛ ǵ, hay nó chỉ là một dạng đặc biệt của luận điệu tuyên truyền trong chiến tranh? Không quá lâu, và rất nhỏ là câu trả lời. Thời gian của chúng tôi quá ngắn, và nhà cầm quyền mới quá mờ ám trong công việc của họ đến nỗi chúng tôi chỉ có những ư niệm lờ mờ về những ǵ đang xảy ra.
Những nhà báo chúng tôi không phải là những tù nhân, cũng không phải là điệp viên. Vậy mà chúng tôi không được tự quyết định ở laị hay phải ra khỏi Việt Nam. “Họ” quyết định điều này. Chúng tôi ca ngợi họ và những nguyên tắc của họ. Chúng tôi đă nghĩ ǵ về cuộc cách mạnh trong sạch của họ, nhưng thái độ sơ cứng, máy móc của họ đă làm chúng tôi hụt hẫng. Dường như đă loại ra mọi khả năng ḥa giải dân tộc, thậm chí một sự thương lượng hẹp. Phóng viên người Ư, Tiziano Terzani đă viết trong cuốn sách Giải Phóng! (Liberation!) của ông. Ông cảm thấy cả hai “một lời ca ngợi vĩ đại và một nỗi sợ tinh tế” rằng cuộc cách mạng này rất gần với “những ranh giới của vô nhân đạo”.
Một phần lớn của nhóm nhỏ phóng viên Anh tạm trú trong một villa rộng của nhà băng Anh. Nhà băng vẫn giữ người đại diện là một công dân Ư. Ông vui vẻ để chúng tôi mướn. Ông nghĩ rằng sự hiện diện của chúng tôi có thể ngăn cản được những cuộc sách nhiễu, cùng với một con chó lớn, bản tính rất tốt, thân mật bên người như bao nhiêu con chó khác. Vào một buổi tối, lính tuần tra miền Bắc tới, hỏi vài câu lịch sự về tại sao chúng tôi có mặt ở đây, nhưng mắt th́ nh́n chằm chằm vào con chó. Cuối cùng hắn xoa bụng bảo “thịt th́ ngon lắm”. “Quân khốn kiếp muốn ăn thịt con chó của chúng ta,” chúng tôi giận dữ nói với nhau sau khi hắn đi ra. Một thoáng sau đó, chúng tôi cùng với khoảng 100 phóng viên ở lại Sài G̣n, đă bị tống cổ ra khỏi Việt Nam một cách khá lịch sự, dồn hết vào chiếc máy bay chở khách Liên Xô bay thẳng qua Vientiane, Lào. Trước lúc ra đi, chúng tôi đă cố gắng thu xếp để bảo vệ con chó của chúng tôi, nhưng chúng tôi không mấy lạc quan.
Trở lại Washington, Gloria Emerson của tờ New York Times, có lẽ là một người phản chiến hăng hái nhất trong tất cả những phóng viên Mỹ, quay lại cảnh phấn khởi, tâng bốc ồn ào, hút cigar và tự chúc mừng chiến thắng trong chiến dịch Mayaguez. Tỷ lệ dân chúng ủng hộ Nhà Trắng tăng đáng kể. Mayaguez là một tàu chiến Mỹ, thủy thủ đoàn đă bị bắt tại Cambodia bởi Khmer Đỏ một vài ngày sau khi ngày Sài G̣n thất thủ. Mỹ gởi một lực lượng hải quân tới cứu. Nhưng thực ra, thủy thủ đoàn của tàu Mayaguez không bị đe dọa tính mạng. Chiến dịch có vẻ như nhăng nhố, chẳng cần thiết, nhưng lại như khiêu khích đối thủ về góc độ nhân đạo vào ngày 30 tháng Tư tại Việt Nam và Pnomh Penh. Trên thực tế, nó là một công việc ngu xuẩn. Mỹ đă tổn thất rất nhiều khi đánh Khmer Đỏ, trong khi Khmer Đỏ đang chuẩn bị chống lại ông chủ mới của Nam Việt Nam. T́nh báo của nó quá tồi tê, lăng phí vũ khí, và nhân mạng, nó đă che phủ đi tất cả những nhầm lẫn về cuộc chiến vừa kết thúc.
Sự kiện Mayaguez là chỉ dấu đầu tiên cho thấy bạn có thể lấy nước Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng bạn không thể lấy Việt Nam ra khỏi Mỹ. Từ đó, trong vài thập kỷ tiếp theo, Mỹ không bao giờ ngừng tham chiến. Rơ ràng nhất, Mỹ đă cô lập cả chính trị và kinh tế Việt Nam để trả đũa. Sau đó, nó đă trở nên cực đoan tàn bạo bằng cách bênh đỡ tàn quân Khmer Đỏ để chống lại Việt Nam.
Giờ đây hai nước thân thiện như Hồ Chí Minh đă từng hy vọng vào năm 1945. Khi ông thỉnh cầu Mỹ giúp đỡ để giành độc lập từ tay Pháp đă không được trả lời. Nhưng nếu như Mỹ không trừng phạt Việt Nam, tự thân cuộc chiến vẫn xảy ra theo ngả khác. Từ đó, mọi thứ Mỹ làm trên thế giới đă được đặt điều kiện, bởi nỗi sợ của nó về kết qủa theo quan điểm quân sự. Nỗi sợ về một Việt Nam nữa, một cuộc sa lầy nữa, một thất bại nữa. Ḷng khát vọng liên tục t́m kiếm những nơi chốn khác giống như Việt Nam để vào cuộc lần nữa, nhưng lần này thắng, một cách trọn vẹn và trong sạch. Mỹ đă từng t́m thấy chiến thắng bồi thường sau đó, gần đây nhất là ở Afghanistan và Iraq. Việt Nam, tựa như bóng ma Hamlet, luôn đeo bám. Chiến tranh th́ không bao giờ rời bỏ nước Mỹ, tại nền tảng căn bản nhất, bởi v́ nó đă trở thành một phép thử để người Mỹ nh́n nhận đất nước họ thế nào.
Những sỹ quan Mỹ trẻ người đă từng tham chiến tại Việt Nam trở về quyết định xây dựng lên một đạo quân mới. Nó phải là một quân nhân chuyên nghiệp và tự nguyện, và ít chịu áp lực chi phối của dư luận về thương vong. Nó phải là kỹ thuật để thay thế những đôi giầy trên mặt đất. Nhưng nếu phải đặt chân trên đất, đội quân mới vẫn có đủ kỹ xảo phản công mà nó đă thiếu tại Việt Nam. Cuối cùng nó cũng không tham chiến nếu không bảo đảm rằng mọi nguồn lực được cung cấp đầy đủ. Giới hạn nguồn lực, dưới mắt những người lính, là phản bội lại chiến thắng của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Dư luận Mỹ đều nhạy cảm về thương vong của t́nh nguyện viên giống như người làm quân dịch. Kỹ thuật mới đă phát sinh nhiều rắc rối như nó đă giải quyết. Những chiến lược phản công vẫn c̣n chưa hiệu qủa. Và một sự bảo đảm rằng việc sử dụng lực lượng không bị hạn chế, một cách đơn giản không xảy ra nữa.
Ít nhất có ba cuộc chiến Việt Nam khác đang tranh giành sự chú ư của người Mỹ, và trong giới nghiên cứu. Cuộc chiến thứ nhất, Mỹ đă có tất cả, nhưng bị thua. Nó đă vứt bỏ chiến thắng bởi thiếu quyết tâm, nền truyền thông tự do của đối lập và một quốc hội ngu xuẩn. Cuộc chiến thứ hai, nó đă thắng bởi v́ mục tiêu là ngăn Trung Quốc và Liên Xô tràn xuống đông nam Á, bảo vệ những quốc gia này không rơi vào qũy đạo cộng sản, nó đă thành công. Cuộc chiến thứ ba, sứ mạng đă được thực hiện sơ sài, khá hung hăng, chủ quan cho rằng dựng lên Nam Việt, tương đương như Nam Hàn khá dễ dàng, nên đă vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Cuộc chiến nào đă thực sự diễn ra? Chiến tranh “làm chúng ta khôn ngoan,” Tổng thống George HW Bush nói vào 1988, nhưng “một cách chắc chắn, quy định của giới hạn được đạt tới. Bài học cuối cùng là không có quốc gia vĩ đại nào có khả năng đập vỡ một kư ức.”
Đă một thời, cuộc chiến đă đụng đến gần như mỗi gia đ́nh trên nước Mỹ, coi nó như thứ buffy. Những buffies chỉ là những con voi đất, cao khoảng 2.5 feet, lưng của nó phẳng, dùng để đặt ly nước uống, hay chậu cây cảnh. Chúng nó đă sống trên khắp nước Mỹ như là một nhân chứng câm mà một thế hệ của những người trai tráng bước vào cuộc chiến tại Việt Nam. Được sản xuất tại Việt Nam với số lượng khổng lồ, rồi được gởi trở lại với tốc độ vài ngàn một ngày, tại điểm đỉnh của cuộc xung đột. Hugh Mulligan phóng viên của tờ the Associated Press đă viết vào 1983: “Họ đứng trang nghiêm ngớ ngẩn trên ṿng cổng West Point” và “bên hồ bơi ở sân sau của vùng ngoại ô.” Họ có thể mua nó với vài dollars và gởi nó về nhà c̣n rẻ hơn, cảm ơn Bưu điện Quân lực Mỹ đă miễn phí. Cái tên được viết tắt từ chữ đầu của “Bloody Useless Fucking Elephant” (Con voi khốn kiếp vô dụng khát máu). Nó được chế ra bởi một viên quân bưu khó chịu. Hắn thấy thùng hàng đang bị chiếm bởi ḷng thèm muốn những tặng vật này.
Phần lớn những buffies rất ḷe loẹt. Nhưng nguyên ủy, nó được làm tại Lái Thiêu, phía bắc Sài G̣n. Nó là những tác phẩm tuyệt đẹp được phối bằng màu xanh nước biển và xanh lá cây nhạt. Giờ đây, Linh Anh Moreau, người con gái của Ron Mareau, một phóng viên lỗi lạc của Newsweek tại Việt Nam, đă viết vào năm 2012 trên blogpost, Lái Thiêu xưa giờ đă mất rồi: “Phần lớn những nghệ nhân người Việt gốc Hoa đă chết hay bỏ đi, mang theo những bí quyết của nghề. Những trai trẻ phải học lấy những bí quyết này, th́ họ bị cuốn vào quân đội Nam Việt hay Việt Công, tự nguyện hoăc ép buộc. Bởi vậy câu chuyện về buffies, thoạt đầu thoáng nh́n thấy sáng sủa hơn, sự thực là thêm một câu chuyện nữa về tổn thất thương đau.
Gloria Emerson không thấy sáng sủa hơn. “Mỗi mùa đông đi bộ trên đường phố tại những thành phố khác nhau trên đất Mỹ,” bà viết trong cuốn sách về chiến tranh, Kẻ thắng và Người thua, “Tôi thường nh́n vào những người trai tráng mặc chiếc áo khoác quân đội, vài người c̣n gắn thêm ḍng chữ mà tôi đă biết rơ: Đại bàng tung móng, Tia sét Nhiệt đới. Từ lâu, tôi không thể chịu nổi những loại áo khoác này. Tôi luôn nghi rằng thiên hạ đă moi lên từ những tử sỹ người Mỹ ở Việt Nam, giặt sạch, là ủi, rồi đem bán kiếm lời.
Tội lỗi của những người tham chiến tương ứng với tội lỗi của những người không tham dự. Trong lời thú tội nổi tiếng, James Fallows đă viết về anh và người bạn sinh viên tại Harvard vờ ốm để tránh bị tuyển mộ. Khi những người thanh niên Harvard rời pḥng thi, họ thấy “những cậu trai đến từ Chelsea, những thanh niên có tóc đen dầy, thuộc dân lao động đến từ Boston… Họ bước qua từng hàng kiểm tra, như bao nhiêu những con ḅ mang đi làm thịt…..Trong khi, có lẽ cứ bốn trong năm người bạn của tôi từ Harvard đă được hoăn, ngược lại đă xảy ra với cậu trai của Chelsea. Chúng tôi trở lại Cambridge chiều đó… Cuộc nói chuyện đầy phấn chấn, nhưng có cái ǵ đó mà không một ai trong chúng tôi muốn nói tới. Chúng tôi hiểu ai sẽ bị giết bây giờ.”
Bách bộ trong vườn bách thảo lần nữa, ngay trước khi Sài G̣n qụy ngă, Peter Kann phóng viên của tờ Wall Street Journal và tôi đi bên một cậu bé khoảng tuổi 13. Em lôi ra từ trong túi một vật trông kỳ lạ. Đó là chiếc trực thăng quân sự Mỹ tư hon được làm ra rất tài t́nh từ những vật dụng bỏ đi, hộp nhựa đựng bút bi, mẩu kim loại từ vỏ lon bia. Em c̣n vài cái nữa trong túi. Bé trai bán hàng đầy thuyết phục khi em giải thích bằng tiếng Anh khá mạch lạc đă làm ra nó thế nào. Chúng tôi đă mua hai chiếc. Đặc biệt đối với tờ Wall Street Journal, đây là một thí dụ giáo khoa về tài năng kinh doanh, một loại tài năng không được ưa chuộng ở tân Việt Nam. Tôi cảm thấy mắt ḿnh nḥa đi khi nh́n em bé bỏ tiền vào túi, và tôi nghĩ Kann cũng vậy. Chúng tôi không có lư do ǵ để giả định rằng bé trai khia có một tương lai đen tối, nhưng Việt Nam từng chịu đựng cuộc chiến khủng khiếp, gần như chắc chắn rằng có một con đường gập ghềnh trước nó. Nói cách khác, Mỹ cũng vậy. Bao nhiêu thương đau, tang tóc đă thuộc về quá khứ, nhưng có một linh cảm, dù mọi chuyện đă kết thúc ở Sài G̣n, tương lai không thể khá hơn.
Phỏng dịch từ: Forty years on from the fall of Saigon: witnessing the end of the Vietnam war by Martin Woollacott; Last modified on Wednesday 22 April 2015, The Guardian
April 29, 2015
Trần Hồng Tâm
Forty years on from the fall of Saigon: witnessing the end of the Vietnam war
When North Vietnamese troops marched into the capital on 30 April 1975, it marked the most crushing defeat in US military history. Four decades after he reported on these events for the Guardian, Martin Woollacott reflects upon what it meant for the future of both nations
Evacuees are helped aboard an Air America helicopter perched on top of a building in Saigon.
Evacuees are helped aboard an Air America helicopter perched on top of a building in Saigon. Photograph: Hugh van Es/REUTERS
Martin Woollacott
Tuesday 21 April 2015 01.00 EDT Last modified on Thursday 11 August 2016 06.31 EDT
Share on LinkedIn Share on Google+
Shares
2,316
Comments
312
Save for later
The day after the North Vietnamese took Saigon, the city was woken by triumphal song. During the night the engineers of the victorious army had rigged up loudspeakers, and from about 5am the same tinny liberation melodies were incessantly played. It was 30 April 1975, and sharp early sunlight illuminated Saigon’s largely empty streets, at a time when the city’s frenetic traffic would normally have already begun to buzz. But hardly anybody knew what to do – whether to go to work or not, whether there would be anything to buy in the market, whether there would be petrol, or whether new fighting might break out. It was, of course, not just Saigon’s daily routine that had been utterly disrupted. Its established role as the capital of non-communist Vietnam had vanished overnight, its soldiers had disappeared, and many of its generals, politicians and civil servants were at that moment bobbing up and down on the decks of warships in the South China Sea, with US Navy blankets pulled round their shoulders.
The Guardian's Audio Long Reads Forty years on from the fall of Saigon: witnessing the end of the Vietnam war
When North Vietnamese troops marched into the capital on 30 April 1975, it marked the most crushing defeat in US military history. Four decades after he reported on these events for the Guardian, Martin Woollacott reflects upon what it meant for the future of both nations
Listen
Through all the years of conflict, war had not often touched Saigon, with the exceptions of the occasional rocket attack, some restaurant bombings and the dramatic but limited incursion into the city – indeed, into the grounds of the US embassy itself – during the Tet offensive in 1968. Saigon shuddered, but felt it had escaped the worst. And in fact, as the liberation music echoed down the streets, it had just escaped again. Although few knew it, the North Vietnamese had been prepared to batter the city with heavy artillery and to fight their way in, block by block, if the defence they met had been stronger. Had the last South Vietnamese president, General Duong Van Minh, not ordered the army to lay down its arms, Saigon would have fared very badly indeed. Vietnamese joked that the communists took Saigon “without breaking a light bulb”. That was not true either: casualties were heavy on both sides, but the fighting stopped just short of the city limits. In the centre, there was potentially more to fear from lawlessness and looters. Stewart Dalby of the Financial Times and I were walking along Tu Do, one of Saigon’s main streets, when a hard-looking man with his shirt out over his trousers stood in our way. He touched his waistband to indicate a gun, and then casually lifted Dalby’s expensive camera off his neck. Incidents like that were enough to convince most people that the sooner the communists took full control, the better.
'Did they survive?': children of the Vietnam war, 50 years on
Read more
There were, on that first day of the new era, no Americans in the fort-like embassy on Thong Nhat Boulevard, just the detritus of the previous day’s chaotic evacuation and the looting that followed. There was nobody in the ornate little town hall. There were no deputies in the old French opera house where the National Assembly used to meet. And there was no president in the presidential palace. Nguyen Van Thieu had left the country. His immediate successor lasted a week before handing over to Minh. Minh told the first North Vietnamese officers who entered the palace that he was ready to hand over power. “You cannot give up what you do not have,” they replied, and took him away. He had been president for just two days.
Minh’s power was indeed a fantasy, but Saigon had lived on fantasy for weeks. In the city’s botanical gardens, where citizens used to promenade at weekends with their children, you could hear a dozen rumours in as many steps. “The French are coming back in with two divisions,” said one. “The Americans will soon bomb,” said another. “There’s going to be a coalition government,” said a third. As the end approached, the most common sentiment seemed to be “We are all Vietnamese”, pronounced in a manner somewhere between hope and resignation. That was a comforting thought for many, but not for those of rank, or those with close connections to the government or the Americans. They feared vengeance or, at least, that they would be marked for ever by the disgrace of their former allegiance. Some, it seemed to us, had no real reason for such anxieties, but were just caught up in the madness of the moment. “Fear of the Vietcong had made Saigon lose its wits,” wrote one reporter. But they wanted to leave, and many did, on transport aircraft at first, and, at the last moment, on helicopters – the first of the huge diaspora of nearly a million Vietnamese who were to leave the country after 1975.
Advertisement
The US officers managing the evacuation had to make agonising choices. In order not to undermine what was left of the defence of South Vietnam, they had to limit the earlier departures, but they also had to make increasingly firm promises to those who remained that, “if it came to it” (for the idea that South Vietnam might survive in some form was still officially alive), they would all be got out at the last minute. This was a promise they could not keep. “Their cries of panic over CIA radios on the last day still tear at my conscience,” Frank Snepp, one of the agency’s team in Saigon, wrote many years later. The day before the fall, from the vantage point of the roof of the Caravelle, one of the city’s two smart hotels, I and other correspondents watched one queue waiting in increasing despair at a pickup point on the top of a nearby building. A slow, mute tragedy, as the beat of the rotors faded away, and the realisation gradually dawned that there were not going to be any more US helicopters – ever. At the US embassy, the desperation was anything but mute. Wailing crowds besieged the place, pleading for entry, as marines pulled in those who had the right credentials – a white face helped – and pushed out those who did not.
The next day, the tanks came in first, their long-barrelled guns sticking out like Pinocchio’s nose, heading for the centre of the city and the presidential palace. Since war is always a muddle, some got lost. We saw one backing up and turning, its gears grating, and then advancing on the old French hospital, hardly a military objective. But soon enough the tanks were at the palace gates and then through them, the lead tank bearing a jubilant but nervous James Fenton, the poet and journalist who had improbably become the last Washington Post correspondent in Saigon. As the new soldiers came in, the old soldiers faded away, sometimes with a final, bitter flourish. We saw one column deliberately firing off all its signal flares as it marched in formation – green, red, white, green again – before dispersing.
fall of saigon vietnam war Guardian front page 1 may 1975
Facebook Twitter Pinterest
The Guardian’s front page on 1 May 1975, after the fall of Saigon and the end of the Vietnam war. Click here for larger view of full story
The new soldiers, who we soon learned to call bo doi (“foot soldiers”), wore plain, slightly floppy green uniforms and old-fashioned pith helmets. They looked relieved: the war was over, they had not died, and they had played their part in a great victory. Some days later, there was a parade, after which many left Saigon. Those who stayed were polite, and almost hesitant. They assumed white foreigners were Russians. Some seemed wide-eyed at Saigon’s prosperity, or were fascinated by watches, issued in the North Vietnamese army only to those of the rank of major and above, particularly those showing the date. They called these “watches with windows.” If in pairs, they held hands, a curiously touching sight. But they appeared formidably well trained. When a few diehards opened fire on North Vietnamese troops near the park between the presidential palace and Saigon’s red‑brick cathedral, journalists saw an instantaneous and almost balletic rearrangement. Soldiers who had been lounging and smoking a minute before were suddenly prone and judiciously returning fire, as outflanking squads rapidly closed in on the attackers. It was a reminder that the time when the war had been about under-equipped guerrillas taking on big, conventional forces was long gone. The North Vietnamese rolled into Saigon with everything a modern army could want. They had ample armour and artillery – everything except air power. But by then the South Vietnamese had hardly any air power left either.
* * *
Vietnam had been a political, military, and moral cockpit for years. The war was so much at the centre of everybody’s consciousness that it sometimes seemed as if all that was wrong with the world and all that might be made right in it was here. So many important things would be decided here: which side would prevail in the international contest between communists and non-communists; whether western countries would continue to dominate the ex-colonial world; whether small countries could stand up to big ones; whether guerrillas could defeat modern armies. And also, whether a popular movement – a peace movement in the very heart of the war-making country itself – could turn around the policies of a great power. These questions, simple in outline, remain almost as hard to answer today as they were on the day Saigon fell. The plain fact that the American war in Vietnam was a mistake and a crime – because it was undertaken so lightly, pursued so brutally and abandoned so perfidiously – is about the only plain fact there is.
Finding Vietnam's war children – in pictures
View gallery
The story of the collapse of South Vietnam is notoriously a chronicle of a defeat foretold. Richard Nixon and Henry Kissinger, knowing the war was no longer politically sustainable, had agreed to withdraw US troops, as stipulated by the Paris Peace Agreement in 1973. They knew that meant the North would probably win, but wanted, in Kissinger’s words, a “decent interval” between their departure and the likely defeat of South Vietnam. Although it seems they occasionally entertained the idea that South Vietnam, given help, could perhaps survive, what this really meant was that they expected the South Vietnamese to fight on after the American soldiers slipped away, with the result that the US would not look too bad internationally. This insidious design was compounded by the general slippage in Nixon’s political position, with his expansion of the war into Cambodia attracting widespread opposition, the 1973 oil-price shock taking its toll and the huge costs of the war coming home in the shape of rising inflation – and all of this capped by the unfolding Watergate scandal. A disillusioned and mutinous Congress bolted, particularly on the war, imposing cut after cut on the military aid that Saigon had been promised.
Advertisement
Inexorably and, to the South Vietnamese, inexplicably, the number of shells their guns were allowed to fire, the number of missions their aircraft could fly and the spare parts available to keep equipment working diminished month by month. In late August 1974, Major General John E Murray, whose job it was to maintain the supplies the South Vietnamese army needed to function, wrote flatly that “without proper support the RVNAF (Republic of Vietnam Armed Forces) are going lose, maybe not next week, or next month, but after the year they are going to”. As a technical, military problem, the war really was quite simple. South Vietnam was a long, thin country that was, by its geographical nature, permanently outflanked. It had to defend itself at every point, and could not do so without the mobility and firepower that was provided by US aid. But the tap supplying that aid was now being turned off.
Sign up to the long read email
Read more
President Thieu, who never had much legitimacy, now had even less. The southern economy was falling apart, he had lost the support even of the Catholic parties that were normally with him, and the Buddhists were more and more estranged, as were the moderates and neutralists in the so called “Third Force”. But if the South Vietnamese were in a parlous state, the North Vietnamese had deep anxieties of their own. Although party and government maintained an outward show of absolute confidence that victory and reunification would come, inwardly they were not so sure. They, too, had equipment and ordnance problems, since the Russians and Chinese had also cut supplies after the Paris Peace Agreement. And, just like the South Vietnamese, they worried about the reliability and motives of their allies. As George J Veith wrote in Black April, his military history of the final years of the war, Hanoi felt that it had only “had a small window of opportunity to win”.
We watched a slow, mute tragedy, as the rotors faded and the realisation dawned that there would be no more helicopters
The plan was for a two-year campaign that would bring victory in 1976. But the opening moves in the central highlands were so successful that they went for broke in 1975. It was all over within two months. Mistakes of generalship by Thieu and some of his commanders made things worse, but the early defeats were essentially caused by the South’s lack of reserves and reduced firepower. The North Vietnamese then closed in on Saigon. In the central highlands, Hue, Danang and elsewhere, there were terrible scenes of panic and disorder, of disobedience and desertion, but also hard-fought battles and acts of heroism and sacrifice. But South Vietnam – “puppet entity”, real country, or whatever it was – had disappeared in a puff of battle smoke. The world gasped.
Advertisement
* * *
The reporters who had chosen to stay in Saigon were mainly French and Japanese, plus a few British and one or two Americans vaguely pretending to be Canadians. We had reported a war that, while not without its dangers, was in some ways an easy one for journalists. We were ferried around efficiently by US planes and helicopters, and fed, accommodated and protected by US and (to a lesser extent) South Vietnamese soldiers. You could be on the edge of a battle in the north, near the ironically named Demilitarised Zone, in the morning, and back in Saigon having a drink after a shower in the early evening. Now we suddenly found ourselves in limbo. Our life-support system of American pilots and protectors, analysts, Australian embassy military attaches and the like had vanished. Many Vietnamese contacts had left or gone to ground. Our fixers, assistants, drivers and translators had, too. (Some who turned out to have been communist agents did remain, but they had moved up in the world, naturally.)
The North Vietnamese had a few sophisticated English- and French-speaking officers who were sometimes helpful, but that was rare. On one such occasion, just after the fall of the city, a North Vietnamese army film unit burst into the offices of CBS and demanded that the bureau hand over its footage of the last real fight of the war, at Newport Bridge just outside the city. They were sweaty and angry – it seemed they had arrived too late at the bridge to get their own film, so they wanted to grab what the US TV crew had shot. I witnessed the confrontation and shot off to get a suave North Vietnamese colonel we had met earlier. He came, defused the situation and ordered his compatriots to leave. The relieved bureau chief offered him a drink. He gracefully refused, adding, with a slightly crooked smile: “Later on, we will have many happy times.”
Perhaps not surprisingly, we never did. We were left to our own meagre devices. We could not file our reports at first, because the post office was closed and all other telexes and phone lines were down. When we could, we sent reams of copy about the final days that we had been unable to get out at the time. After that, what could we do? We could not do what we had so often done in the past, which was to write critically about US policy and the South Vietnamese government and army. All that was gone, and our criticisms no longer mattered, if they ever had. Some of us tended instead to follow an odd routine, visiting places and buildings that had once been important and writing “then and now” pieces. A group of us drove along Route 13 toward An Loc, a town north of Saigon that had been under siege during the 1972 general offensive. We came across a bizarre sight as we drove down a side lane – what looked like a whole company’s worth of combat boots lined up neatly on the tarmac, as if their owners had been suddenly raised to heaven. South Vietnamese military tunics were scattered in the ditches on each side. There were similar scenes elsewhere. The explanation was that the North Vietnamese troops had ordered surrendering units to shed their gear.
The irony of this sort of sightseeing was obvious. An Loc had been a South Vietnamese victory, hard fought by airborne troopers and rangers, but clinched by US air power: almost every B-52 in south-east Asia was called in to strike the North Vietnamese attackers. We were, in a sense, reporting the past, because the present was too puzzling. We had an iced drink at a stall near an abandoned military camp and looked for where an American adviser’s office had been, but failed to find it and set off through the flat, scrubby countryside back to Saigon. On the way out to An Loc we had passed the British embassy, and I noticed that the squad of soldiers guarding it had taken down the union jack and were using it as an awning to shield themselves from the sun. Choked – and surprised – by a sudden rage, I got out of the car, marched over to them, and insisted they put it back on its staff. Taking me for a Russian or East German and imagining I had some kind of authority, they at least folded it up.
“What was that about?” I asked myself. The soldiers had meant no insult. It was just a piece of cloth, after all. But the truth was that we were all, to one degree or another, still mentally in the old war, and still imbued with a consciousness of western supremacy that events had just contradicted in a most emphatic and dramatic way. And this was so, even though few us had ever been strong supporters of the war. Before the fall of the city, Philip Caputo, an American journalist who had also been a marine officer in Vietnam and had written a brilliant book about his experiences, wondered aloud whether what was happening was akin to the legionnaires withdrawing from the outer reaches of the Roman empire. Was our western sway over the world, in its final American embodiment, coming to an end? Something had been torn down and something else – something not “ours” – would come in its place. The drawing of such parallels was commonplace – a kind of self-romanticisation that seems distasteful in retrospect. Vietnamese people, North and South, were at an extraordinary moment in their history, and we were sitting around misquoting Edward Gibbon.
South Vietnamese troops and their US advisers resting in the jungle near the town of Binh Gia, 40 miles east of Saigon, in January 1965.
Facebook Twitter Pinterest
South Vietnamese troops and their US advisers resting in the jungle near the town of Binh Gia, 40 miles east of Saigon, in January 1965. Photograph: Horst Faas/AP
We also tried, of course, to report what was happening in the new Vietnam. Some of it was under our noses, in the very hotels in which we were staying, as staff were summoned to various kinds of re-education meetings. Hoc tap, as it was called, would eventually touch almost everyone. Former officers were called in, grade by grade. Was there to be, at least for a while, a separate southern state? What role would be played by the provisional revolutionary government, which had been such a feature of wartime propaganda? Not for long, and very little, were the answers, but our time was so short and the new authorities so opaque in their workings that we had only slender notions of what was going on.
Advertisement
We had a sense that we – or rather the countries we represented – had been demoted, even if, with one part of our minds, we saw that as a long-deserved comeuppance. That feeling was reinforced by the fact that, while we journalists were not prisoners, we were not free agents either. We could not decide for ourselves whether we would stay in Vietnam or leave. “They” would decide that. We admired them and their discipline – what we thought was their revolutionary purity – but something about their unbending attitude was disconcerting. It seemed to rule out the possibility of a national reconciliation based on even limited compromise. The Italian journalist Tiziano Terzani put it best in his book Giai Phong! (Liberation!): he felt both “a great admiration and a subtle fear” that the revolution was close to “the borders of inhumanity”.
It was sometimes galling to be as excluded as we felt we were. Most of the small group of British correspondents holed up during the day in a spacious villa belonging to a British bank. The bank’s remaining representative, an Indian citizen, was happy to loan it to us because he thought our presence would prevent it being requisitioned. It came with a big, good-natured dog, who was very pleased to see people, as dogs often are. One evening a North Vietnamese patrol arrived, posing some polite questions about why we were there, but often looking pointedly at the dog. “Good to eat,” one of them finally said, rubbing his stomach. “The bastards want to eat our dog,” we said indignantly to one another after they left. A little while later, we British, together with most of the 100 or so journalists who had stayed, were politely thrown out of the country and put on a Russian Antonov passenger aircraft to Vientiane in Laos. Before we left, we tried to make arrangements to protect “our” dog, but we were not very optimistic about them.
* * *
Back in Washington, Gloria Emerson of the New York Times, perhaps the most passionately anti-war of all American correspondents, recorded the irrational elation, backslapping, cigar-lighting and self-congratulation over the Mayaguez operation at the White House, and the extraordinary increase in the government’s popularity it brought about. The Mayaguez was a US freight ship whose crew were detained off Cambodia by the Khmer Rouge a few days after the fall of Saigon. The Americans sent in marines to rescue the crew, who, it turned out, were probably not in any danger. The operation then somehow got ludicrously pumped up as a counterweight to the humiliation of 30 April in Vietnam and the earlier fall of Pnomh Penh. In reality it was a botched and stupid affair in which the Americans lost a lot of people while attacking Khmer Rouge forces who – in a foretaste of the future – were in fact preparing to defend what they saw as their territory against the new masters of South Vietnam. In its poor intelligence, wasteful firepower and bloody confusion, it encapsulated much that had been wrong about the war that had just ended.
The Mayaguez affair was the first indication that you could take the United States out of Vietnam, but you could not take Vietnam out of the United States. In the decades since, the US has never ceased to fight the war. It continued to fight it, in the most immediate sense, by vindictively isolating the new Vietnam economically and politically. This it later took to a monstrous extreme by effectively favouring the Khmer Rouge regime remnants who were resisting the new Vietnamese-imposed government in Pnomh Penh.
29 April 1975: US navy personnel aboard the USS Blue Ridge push a helicopter into the sea off the coast of Vietnam in order to make room for more evacuation flights from Saigon.
Facebook Twitter Pinterest
29 April 1975: US navy personnel aboard the USS Blue Ridge push a helicopter into the sea off the coast of Vietnam in order to make room for more evacuation flights from Saigon. Photograph: AP
The two countries are now almost as friendly as Ho Chi Minh had hoped they would be in 1945, when his appeals to the US for help in achieving independence from France went unheard. But if the US has finally stopped chastising Vietnam itself, the war still goes on in other ways. Everything the US has done in the world since then has been conditioned by its fear of the consequences of trying to reassert itself militarily – and by its compulsion to do so. The fear is of another Vietnam, another quagmire, another debacle. The compulsion, though, constantly seeks out other places where something like Vietnam can be taken on again, but this time won, cleanly and conclusively. The US has sought this compensatory victory again and again, most recently in Afghanistan and Iraq. Vietnam, like Hamlet’s ghost, refuses to go away. The war never went away in America, at the most fundamental level, because it became a test of how Americans saw their country.
Vietnam, like Hamlet’s ghost, refuses to go away. It became a test of how Americans saw their country
The young regular army officers who served in Vietnam returned home determined to create a new army. It would be a professional, all-volunteer force, and thus less subject to public pressure over casualties. It would have technology that could replace boots on the ground. But if there had to be boots on the ground, the new army would have skills in counter-insurgency of a kind it had lacked in Vietnam. Finally, it would not go to war without a guarantee that there would be no constraints on the full use of its resources – constraints that, in the view of many soldiers, had cheated the US army of victory in Vietnam. It was all in vain. The US public proved almost as sensitive to the deaths of volunteers as it had been to those of draftees. New technology created as many problems as it solved. Counter-insurgency strategies were still ineffective. And the guarantees that the use of force would not be constrained simply did not happen, because that is not how governments function.
Advertisement
At least three different Vietnam wars have competed for American attention, and for space on the heavily loaded shelves of books about the conflict. In one, the US had all but won, only to throw away its victory because of a lack of resolution, the liberal media’s opposition and congressional foolishness. In a second, it did win, because its aims of containing China and Russia and preventing a domino-fall of other south-east Asian countries into the communist sphere were actually achieved. In the third, the mission was undertaken in ignorance, quite aggressively, in the expectation that setting up a South Vietnamese equivalent of South Korea would be relatively easy, and then lurched out of control. Which war really happened? The war “cleaves us still,” President George HW Bush said in 1988, but “surely the statute of limitations has been reached. The final lesson is that no great nation can long afford to be sundered by a memory.”
* * *
For a homely reminder of how the war once touched nearly every American household, consider the buffy. Buffies are ceramic elephants about two-and-a-half feet high, with a flat top on which you can put a drink or a pot plant. They survive across the US as mute proof that a generation of young men went off to war in Vietnam. Made in Vietnam in vast numbers, they were being shipped back at the rate of several thousand a day at the height of the conflict. Hugh Mulligan of the Associated Press wrote in 1983: “They stand at ridiculous attention on the porches of West Point” and “alongside the backyard swimming pools of suburbia.” They could be bought for a few dollars and shipped home for less, thanks to the subsidised US Army Post Office. The name, derived from the acronym for “Bloody Useless Fucking Elephant”, was bestowed on them by a frustrated logistics officer who saw his scarce air cargo capacity being eaten up by the mania for these souvenirs.
Vietnam war: share your stories, photographs and memories
Read more
Most buffies were garish. But the originals, made in a place called Lai Thieu, north of Saigon, were beautiful pieces of temple art rendered in muted blues and greens. Now, as Linh Anh Moreau – the daughter of Ron Moreau, a distinguished correspondent for Newsweek in Vietnam – wrote in a 2012 blogpost, the old Lai Thieu is long gone: “Most of the old Sino-Vietnamese artisans had died or fled, and with them the secrets of their art. As for the few young men who had learned their skills, most had been drafted into the South Vietnamese army, or had joined the Vietcong, either by force or by choice.” So the tale of the buffies, at first sight a glimpse of the lighter side, is in fact one more narrative of loss and damage.
Gloria Emerson saw no lighter side. “Each winter walking the streets of different American cities,” she wrote in her book about the war, Winners and Losers, “I used to look at the younger men in surplus army jackets, some with the patches I knew so well: the Americal, the Screaming Eagle, Tropic Lightning. For a long time I could not bear those jackets, always suspecting they had been taken off the American corpses in Vietnam, sanitised, pressed, and sold as surplus.”
The guilt of some of those who went to war was matched by the guilt of some of those who did not. In a famous confessional piece, James Fallows wrote of how he and his fellow Harvard students faked ill-health to avoid the draft. As the Harvard men left the examination hall, they saw “the boys from Chelsea, thick, dark-haired young men, the white proles of Boston … They walked through the examination lines like so many cattle off to slaughter … While perhaps four out of five of my friends from Harvard were being deferred, just the opposite was happening to the Chelsea boys. We returned to Cambridge that afternoon … The talk was high-spirited, but there was something close to the surface that none of us wanted to mention. We knew now who would be killed.”
Advertisement
Walking in the botanical gardens again, just before the fall of Saigon, Peter Kann of the Wall Street Journal and I were accosted by a boy of about 13, who drew from a bag a wondrous thing. It was a small model of an American military helicopter made out of junk – the transparent barrels of ballpoint pens, bits of beercans and the like. He had several in the bag. They were so ingenious, and he was so winning as he explained, in pretty fair English, how he made them, that we bought two. For the Wall Street Journal especially, here was a textbook example of entrepreneurial talent – talent of the kind that might not be much favoured in the new Vietnam. I felt my eyes pricking as the boy stowed away his money, and I thought Kann was also affected. We had no reason to suppose the lad would have that bad a time in the future, but the thought was there that Vietnam, having endured a terrible war, almost certainly still had a rough ride before it – and so, in a different way, did the US. Much suffering and grief lay in the past, but there was a presentiment, even as things ended in Saigon, that the future held more of the same.
• Follow the Long Read on Twitter: @gdnlongread
This article was amended on 21 April to replace an incorrectly captioned photograph.
This article was amended on 22 April to correct a factual error. David Petraeus did not serve in Vietnam.
Chiến Tranh Tiền Tệ (Tài Phiệt Quyền)
Bebop. Cha cha cha. Boston. Tango. Rumba. Valse. Passodoble. Hoàng Thông1. Hoàng Thông02
Boston. Valse. Tango. Bebop. Cha Cha Cha. Passo Doble. Rhumba. Samba. Dance.
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
v White House v National Archives v
v Federal Register v Associated Press
v Reuter News v Real Clear Politics
v MediaMatters v C-SPAN v.
v Videos Library v Judicial Watch v
v New World Order v Illuminatti News
v New Max v CNSv Daily Storm v
v Observe v American Progress v
v The Guardian v Political Insider v
v Ramussen Report v Wikileaks v
v National Review - Public Broacast v
v Federation of Anerican Scientist v
v Propublica v Inter Investigate v
v ACLU Ten v CNBC v Fox News v
v CNN v FoxAtlanta v
v Indonesian News v Philippine News v
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển Bách Khoa VN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v
v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v
v Khoa HọcTV v Sai Gon Echo v
v Viễn Đông v Người Việt v Học Xá
v Việt Báo v Việt List v Xây Dựngv
v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu
v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv
v Việt Tribune v Saigon Times USA v
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v
vLao Động vThanh Niên vTiền Phong
vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới v Đỉnh Sóng
vChúng Ta v Eurasia v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ
v
Văn Học v
Điện Ảnh
v
Cám Ơn Anh
v
TPBVNCH
v1GĐ/1TPB
v
Bia Miệng