* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thuận
chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: Søren
Kierkegaard, Fyodor
Dostoevsky, Jean-Paul
Sartre, Friedrich
Nietzsche
Chủ
nghĩa hiện sinh hay Thuyết hiện sinh (tiếng Anh: Existentialism, tiếng
Pháp: L'existentialisme) là thuật ngữ dùng để nói về truy vấn triết học
của một nhóm các triết gia cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Những người
này, mặc dù khác nhau về học thuyết[1][2] nhưng
có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể cá nhân con
người - không chỉ đơn thuần là chủ thể tư duy, mà còn là con người cá
nhân hành động, cảm nhận, và sống.[3][4] Trong
khi giá trị được nhìn nhận phổ biến của tư tưởng hiện sinh là sự tự do,
tiêu chuẩn đạo đức hàng đầu của nó là sự đích thực (authenticity).
Trong góc nhìn của các nhà hiện sinh, xuất phát điểm của con người cá
nhân được đặc tả bởi cái được gọi là "thái độ hiện sinh" (the
existential attitude), hay một tình trạng mất định hướng, bối rối hoặc
kinh sợ khi đối diện với một thế giới có vẻ như vô nghĩa hay phi lý (absurd).[5][6] Nhiều
nhà hiện sinh cho rằng triết học hàn lâm hay triết học mang tính hệ
thống truyền thống, về hình thức cũng như về nội dung, là quá ư trừu
tượng và tách biệt với trải nghiệm cụ thể của con người.[7][8]
Søren Kierkegaard thường
được coi là triết gia hiện sinh đầu tiên[9][10][11],
mặc dù ông không sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa hiện sinh.[12] Ông
cho rằng mỗi con người cá nhân - chứ không phải xã hội hay tôn giáo -
chịu trách nhiệm tự mình mang đến ý nghĩa cho cuộc sống và sống nó một
cách say mê và chân thành, hay "đích thực" (authentically).[13][14]
Chủ
nghĩa hiện sinh trở nên phổ biến vào những năm sau Chiến
tranh thế giới thứ hai và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực khác bên cạnh triết học như thần học, kịch
nghệ, nghệ thuật, văn học và tâm lý học.[15]
·
2Các vấn đề liên quan đến định nghĩa và nền tảng
o
3.1Hiện hữu có trước bản chất (Existence precedes essence)
o
3.4Tính đích thực (authenticity)
o
3.5Người Khác và Cái Nhìn (the Other and the Look)
o
3.6Giận dữ và sợ hãi (angst and dread)
·
4Đối lập với chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy lý
·
6Nhầm lẫn với chủ nghĩa hư vô
·
7Lịch sử
o
7.1Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche
o
7.3Chủ nghĩa hiện sinh tại Nam Việt Nam
Thuật
ngữ Chủ nghĩa hiện sinh (tiếng Pháp: L'existentialisme) được đặt ra bởi
nhà triết học Công
giáo người Pháp Gabriel
Marcel vào giữa những năm 1940.[16][17][18] Lúc
đầu, khi Marcel sử dụng thuật ngữ này trong một hội thảo năm 1945, Jean-Paul
Sartre đã không công nhận nó.[19] Sartre
sau đó đã nghĩ lại và vào ngày 29 tháng 10 năm 1945, ông công khai sử
dụng thuật ngữ chủ nghĩa hiện sinh trong một bài giảng cho Club
Maintenant tại Paris.
Bài giảng sau đó đã được xuất bản với tên Thuyết hiện sinh là một thuyết
nhân bản (L'existentialisme
est un humanisme), một cuốn sách
ngắn đóng vài trò quan trọng trong việc phổ biến tư tưởng hiện sinh.[20] Marcel
sau đó đã từ chối chính tên gọi này để ủng hộ thuật ngữ Chủ nghĩa
Socrate mới (Neo-Socratic), để vinh danh bài tiểu luận On The Concept of
Irony của Kierkegaard.
Một
số học giả cho rằng thuật ngữ này chỉ nên được sử dụng để chỉ phong trào
văn hóa ở châu Âu trong những năm 1940 và 1950 liên quan đến tác phẩm
của các triết gia Jean-Paul
Sartre, Simone
de Beauvoir, Maurice
Merleau-Ponty và Albert
Camus.[9] Các
học giả khác mở rộng việc sử dụng thuật ngữ này tới thời Kierkegaard, và
những người khác mở rộng nó xa hơn tới tận thời của Socrates.[21] Tuy
nhiên, thuật ngữ này thường được sử dụng gắn liền với quan điểm triết
học của Jean-Paul Sartre.[9]
Thuật
ngữ chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) hay các nhà hiện sinh chủ nghĩa
(existentialist) thường được coi là những tiện ích mang tính lịch sử cho
đến khi chúng lần đầu tiên được sử dụng cho nhiều nhà triết học trong
nhận thức muộn màng, rất lâu sau khi họ qua đời. Trên thực tế, trong khi
chủ nghĩa hiện sinh thường được coi là bắt nguồn từ Kierkegaard, nhà
triết học hiện sinh nổi bật đầu tiên chấp nhận thuật ngữ này như một sự
tự mô tả là Jean-Paul
Sartre. Sartre đưa ra ý tưởng rằng
"điều mà tất cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh đều có chung đó là
học thuyết cơ bản hiện hữu có trước bản chất ", như học giả Frederick
Copleston giải thích.[22] Theo
nhà triết học Steven
Crowell, việc định nghĩa chủ nghĩa
hiện sinh là tương đối khó khăn và ông cho rằng nó nên được hiểu như là
một cách tiếp cận chung được sử dụng để bác bỏ những triết lý có hệ
thống hơn là một triết lý có hệ thống.[9] Chính
Sartre, trong một bài giảng được phát vào năm 1945, đã mô tả chủ nghĩa
hiện sinh là "nỗ lực rút ra tất cả các hậu quả từ một vị trí của chủ
nghĩa vô thần nhất quán".[23]
Mặc
dù nhiều người bên ngoài Scandinavia coi
thuật ngữ chủ nghĩa hiện sinh(existentialism) có nguồn gốc từ chính
Kierkegaard, nhiều khả năng Kierkegaard đã mượn lại thuật ngữ này (hoặc
ít nhất là thuật ngữ "hiện sinh"(existential) như một sự mô tả về triết
học của ông) từ nhà thơ và nhà phê bình văn học Na Uy Johan
Sebastian Cammermeyer Welhaven.[24] Khẳng
định này đến từ hai nguồn. Nhà triết học người Na Uy Erik Lundestad nói
đến nhà triết học người Đan Mạch Fredrik Christian Sibbern. Sibbern được
cho là đã có hai cuộc trò chuyện vào năm 1841, lần đầu tiên với Welhaven
và lần thứ hai với Kierkegaard. Chính trong cuộc trò chuyện đầu tiên,
người ta tin rằng Welhaven đã nghĩ ra "một từ mà anh ta nói đã tóm tắt
một suy nghĩ nhất định, có thái độ gần gũi và tích cực với cuộc sống,
một mối quan hệ mà anh ta mô tả là tồn tại".[25] Ý
tưởng này sau đó đã được Sibbern chuyển tải đến Kierkegaard.
Khẳng
định thứ hai đến từ nhà sử học người Na Uy Rune
Slagstad, người tuyên bố đã chứng
minh được rằng chính Kierkegaard đã nói rằng thuật ngữ "hiện sinh" được
Kierkegaard mượn từ nhà thơ Johan Sebastian Cammermeyer Welhaven. Ông
tin tưởng mạnh mẽ rằng chính Kierkegaard đã nói rằng "Người theo chủ
nghĩa Hegel không nghiên cứu triết học "hiện sinh"; tôi sử dụng một cụm
từ mà Welhaven đã nói vào một lần khi tôi nói chuyện với ông ta về triết
học".[26]
Xem
thêm: Existence
precedes essence
Sartre tuyên bố mệnh đề cốt lõi của chủ nghĩa hiện sinh là Hiện hữu có
trước bản chất. Điều này có nghĩa điều quan trọng nhất đáng để lưu tâm
đối với mỗi người đó là họ là các cá nhân - tức các thực thể hành động
độc lập và tự chịu trách nhiệm, các "nhân vị có ý thức" - (tức "hiện
hữu") hơn là những mác dán, vai trò, kiểu người được định trước khác
(tức "bản chất"). Cuộc sống thực tế của các cá nhân là những gì tạo nên
cái có thể gọi là "bản chất thực sự" của họ thay vì có một bản chất có
sẵn được quy kết một cách tùy tiện bởi người khác. Do đó, con người,
thông qua ý thức của chính mình, kiến tạo ra các giá trị của chính mình
và xác định ý nghĩa cho cuộc cuộc sống của mình.[27] Sartre
là người đưa ra mệnh đề này một cách rõ ràng, nhưng những quan niệm
tương tự cũng có thể được tìm thấy trong tư tưởng của các triết gia hiện
sinh khác như Heidegger và Kierkegaard:
"Hình thức
nhà tư tưởng chủ quan, hình thức giao tiếp của nhà tư tưởng, là phong
cách của anh ta. Hình thức của anh ta phải giống như những mặt đối lập
mà anh ta nắm giữ với nhau. Eins, zwei, drei có hệ thống là một hình
thức trừu tượng chắc chắn cũng sẽ gặp rắc rối bất cứ khi nào nó được áp
dụng cho sự cụ thể. Ở cùng mức độ với nhà tư tưởng chủ quan là cụ thể, ở
mức độ tương tự, hình thức của anh ta cũng phải được biện chứng một cách
cụ thể. Không phải là nhà thơ, không phải là nhà đạo đức, không phải là
nhà biện chứng, nên hình thức của anh ta cũng không phải là trực tiếp.
Hình thức của anh ta trước hết phải liên quan đến sự tồn tại, và về mặt
này anh ta phải có ý định của mình về mặt thi pháp, đạo đức, tính biện
chứng, tôn giáo. Tính cách phụ thuộc, bối cảnh, v.v., thuộc về tính cân
bằng của sản phẩm thẩm mỹ, bản thân chúng là bề rộng, nhà tư tưởng chủ
quan chỉ có một thiết lập sự tồn tại của mình và không liên quan gì đến
cục bộ và những thứ đại loại như vậy. Khung cảnh không phải là xứ sở
thần tiên của trí tưởng tượng, nơi thơ ca dẫn đến sự thưởng thức, cũng
không phải là bối cảnh được đặt ở Anh, và độ chính xác lịch sử không
phải là một mối quan tâm. Bối cảnh là nội tâm trong sự hiện hữu như một
con người; cụ thể là mối quan hệ của các thể loại tồn tại với nhau. Độ
chính xác lịch sử và thực tế lịch sử là bề rộng." Søren Kierkegaard
(Concluding Postscript, Hong pp. 357–58)
Một số
người giải thích mệnh đề quả quyết ở trên với nghĩa rằng mỗi người có
thể mong ước trở thành bất cứ điều gì. Tuy nhiên, triết gia theo chủ
nghĩa hiện sinh sẽ bảo rằng mong ước như vậy tạo nên một sự hiện hữu
không đích thực - điều mà Sartre sẽ gọi là "ngụy tín", hay đức tin xấu.
Thay vào đó, mệnh đề trên nên được sử dụng để nói rằng mọi người (1) chỉ
được định nghĩa trong chừng mực khi họ hành động và rằng (2) họ phải
chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Ví dụ, khi một ai đó hành động
tàn ác với người khác, thì với hành động đó, họ được định nghĩa là một
người độc ác. Hơn nữa, bằng hành động tàn ác này, họ tự chịu trách nhiệm
về định danh mới của họ (người độc ác). Chính hành động này là thứ mang
tội chứ không phải do gen của họ, hay do bản chất con người nói chung.
Như
Sartre đã nói trong bài giảng Thuyết
hiện sinh là một thuyết nhân bản:
"... con người trước hết tồn tại, đối diện với chính mình, khẳng định
mình trong thế giới - và định nghĩa bản thân mình sau đó". Ở góc độ tích
cực và với tác dụng chữa lành, điều này cũng ngụ ý rằng: Mỗi người có
thể lựa chọn hành động theo một cách khác, và trở thành một người tốt
thay vì một người độc ác.[28]
Định
nghĩa về chủ nghĩa hiện sinh của Sartre căn cứ trên cơ sở kiệt tác Tồn
tại và Thời gian của Heidegger.
Trong thư từ trao đổi với Jean Beaufret và sau đó được xuất bản với tên
là Thư từ về thuyết nhân bản (Letter on Humanism), Heidegger ngụ ý rằng
Sartre đã hiểu lầm mình vì ý định chủ quan của chính anh ta, và rằng ông
không có ý cho rằng hành động quan trọng hơn hiện hữu cho đến chừng nào
những hành động đó không phải ánh sự hiện hữu.[29] Heidegger
bình luận rằng "sự đảo ngược của một tuyên bố siêu hình vẫn là một tuyên
bố siêu hình", điều này có nghĩa ông nghĩ Sartre đã chỉ đơn giản đảo
ngược vai trò truyền thống của bản chất và hiện hữu mà không truy vấn về
các khái niệm này và lịch sử của chúng theo cách mà Heidegger tuyên bố
đã thực hiện.[30]
Xem
thêm: Absurdism
Sisyphus,
biểu tượng của sự phi lý của sự tồn tại, tranh của Franz
Stuck (1920)
Quan
niệm về sự phi lý ngụ ý rằng không có ý nghĩa nào khác trong thế giới
này ngoài ý nghĩa mà chúng ta mang đến cho nó. Sự vô nghĩa này cũng bao
gồm cả sự vô đạo đức hay "sự bất công" của thế giới. Quan niệm này đối
lập với quan điểm truyền thống của đạo Hồi và Kito giáo, trong đó khẳng
định mục đích của cuộc sống là để thực hiện các điều răn của Thiên Chúa.[31] Mục
đích đó là những gì mang lại ý nghĩa cho đời sống con người. Sống một
cuộc sống phi lý có nghĩa là từ chối việc kiếm tìm hoặc đeo đuổi một ý
nghĩa cụ thể nào đó cho sự tồn tại của con người vì chẳng có điều gì như
thế cả. Theo Albert Camus, thế giới này hay con người không phải phi lý
tự nó. Sự phi lý chỉ xuất hiện thông qua sự kết hợp của cả hai, khi mà
sự không tương thích giữa con người và thế giới mà họ sống trong tạo nên
sự phi lý của đời sống.[31] Đây
là một trong hai góc nhìn về sự phi lý trong văn học hiện sinh. Góc nhìn
thứ hai, được khởi tạo bởi Søren
Kierkegaard, cho rằng sự phi lý
được giới hạn cho những hành động và lựa chọn của tồn tại người (human
beings). Chúng được coi là phi lý vì chúng xuất phát từ tự do của con
người, trong khi đồng thời làm xói mòn nền tảng của chính chúng từ bên
ngoài .[32]
Quan
niệm về sự phi lý trong chủ nghĩa hiện sinh trái ngược với tuyên bố cho
rằng "những điều xấu không xảy ra với người tốt"; đối với thế giới, nói
một cách ẩn dụ, không có người tốt hay người xấu; điều gì xảy ra là xảy
ra, và nó cũng có thể xảy ra với một người "tốt" cũng như với một người
"xấu".[33] Bởi
sự phi lý của thế giới, tại bất cứ thời điểm nào, bất cứ điều gì cũng có
thể xảy đến với bất cứ ai, và một sự kiện bi thảm có thể đưa thẳng ai đó
đến đối đầu trực tiếp với Sự phi lý. Sự phi lý đã từng được đề cập đến
trong văn chương suốt chiều dài lịch sử. Nhiều tác phẩm văn học của Søren
Kierkegaard, Samuel
Beckett, Franz
Kafka, Fyodor
Dostoyevsky, Eugène
Ionesco, Miguel
de Unamuno, Luigi
Pirandello,[34][35][36][37] Jean-Paul
Sartre, Joseph
Heller và Albert
Camus mô tả về những con người phải
đương đầu với sự phi lý của thế giới.
Chính
từ mối liên hệ với nhận thức tàn khốc về sự vô nghĩa này mà Albert Camus
đã tuyên bố trong cuốn Thần thoại về Sisyphus: "Chỉ có một vấn đề triết
học thực sự nghiêm trọng, đó là tự sát". Mặc dù "toa thuốc" chống lại hệ
quả có hại của sự đối đầu này khác nhau, từ "bước nhảy" (stage) tôn giáo
của Kierkegaard đến sự khăng khăng kiên trì bất chấp phi lý của Camus,
mối quan tâm của đa số các nhà triết học hiện sinh là giúp ngăn mọi
người sống cuộc sống của họ theo cách khiến họ bị đặt trong sự nguy hiểm
thường trực của việc thấy mọi thứ có ý nghĩa đều tan vỡ. Khả thể của
việc thấy mọi thứ có ý nghĩa đều tan vỡ đặt ra sự đe dọa gây bởi chủ
nghĩa tịch tĩnh (quietism),
là thứ vốn đối lập với triết học hiện sinh. Có người nói rằng nguy cơ tự
sát biến tất cả con người thành các nhà hiện sinh. Người anh hùng thực
sự của chủ nghĩa phi lý sống cuộc sống của họ không cần ý nghĩa, đối
diện với sự tự sát mà không chịu khuất phục.[38]
Xem
thêm: Facticity
Tính
thực tế là một khái niệm được định nghĩa bởi Sartre trong Tồn
tại và hư vô là bản thân, nó phân
định cho con người các phương thức tồn tại và không tồn tại. Điều này có
thể dễ hiểu hơn khi xem xét tính thực tế liên quan đến chiều kích thời
gian trong quá khứ của chúng ta: quá khứ của một người là cái mà người
ta tự tạo ra theo nghĩa của nó. Tuy nhiên, để nói rằng một người chỉ là
quá khứ của người đó sẽ bỏ qua một phần quan trọng của thực tế (hiện tại
và tương lai), trong khi nói rằng quá khứ của một người chỉ là những gì
một người đã từng là, sẽ hoàn toàn tách rời quá khứ khỏi chính họ bây
giờ. Việc từ chối quá khứ cụ thể của chính mình tạo nên một lối sống
không trung thực, và điều tương tự cũng xảy ra với tất cả các loại thực
tế khác (có cơ thể con người - ví dụ, cơ thể con người không cho phép
một người chạy nhanh hơn tốc độ của âm thanh - bản sắc, giá trị v.v.).[39]
Tính thực
tế vừa là giới hạn vừa là điều kiện của tự do. Một hạn chế ở chỗ một
phần lớn tính thực tế của một người bao gồm những thứ mà người ta không
thể chọn (nơi sinh, v.v.), nhưng một điều kiện tự do theo nghĩa là giá
trị của một người rất có thể phụ thuộc vào nó. Tuy nhiên, mặc dù tính
thực tế của một người là "cố định, không thể thay đổi" (ví dụ như quá
khứ), nó không thể xác định một người: Giá trị được gán cho tính thực tế
của một người vẫn được người đó gán cho nó một cách tự do. Ví dụ, xem
xét hai người đàn ông, một trong số họ không có ký ức về quá khứ của
mình và người còn lại nhớ tất cả mọi thứ. Cả hai đã phạm nhiều tội ác,
nhưng người đàn ông đầu tiên, không biết gì về điều này, có một cuộc
sống khá bình thường trong khi người đàn ông thứ hai, cảm thấy bị mắc
kẹt trong quá khứ của chính mình, tiếp tục một cuộc đời tội ác, đổ lỗi
cho quá khứ của chính mình vì đã "nhốt" anh ta trong cuộc sống này.
Không có gì thực sự là căn bản về tội ác của anh ta, nhưng anh ta coi
quá khứ của anh ta là mang ý nghĩa này.
Tuy
nhiên, để không quan tâm đến tính thực tế của một người, trong quá trình
tự tái tạo liên tục, một người sẽ tự mình hướng tới tương lai, đó là tự
đặt mình vào sự chối bỏ chính mình, và do đó sẽ không chính xác. Nói
cách khác, nguồn gốc của phép chiếu của một người vẫn phải là tính thực
tế của một người, mặc dù trong chế độ không phải là nó (về cơ bản). Một
ví dụ về một người chỉ tập trung vào các dự án khả thi của một người mà
không phản ánh thực tế hiện tại của một người:[39] nếu
người ta liên tục nghĩ về những khả năng trong tương lai liên quan đến
giàu có (ví dụ như một chiếc xe tốt hơn, ngôi nhà lớn hơn, chất lượng
cuộc sống tốt hơn, v.v.) mà không cần xem xét thực tế rằng không có
phương tiện tài chính để làm như vậy. Trong ví dụ này, xem xét cả tính
thực tế và tính siêu việt, một chế độ xác thực của tồn tại sẽ xem xét
các dự án trong tương lai có thể cải thiện tài chính hiện tại của một
người (ví dụ: làm thêm giờ, hoặc đầu tư khoản tiền tiết kiệm) để đạt
được mức lương thực tế trong thực tế tương lai tăng một lượng vừa phải,
cuối cùng dẫn đến việc mua sắm một chiếc xe giá cả phải chăng.
Một khía
cạnh khác của tính thực tế là nó đòi hỏi sự giận dữ, theo cả nghĩa tự do
"tạo ra" sự giận dữ khi bị giới hạn bởi tính thực tế và theo nghĩa là
thiếu khả năng "thực tế" để một người chịu trách nhiệm về một điều gì đó
người ta đã làm, cũng tạo ra sự giận dữ.
Một
khía cạnh khác của tự do hiện sinh là người ta có thể thay đổi giá trị
của một người. Do đó, một người chịu trách nhiệm cho các giá trị của một
người, bất kể giá trị của xã hội là gì. Sự tập trung vào tự do trong chủ
nghĩa hiện sinh có liên quan đến giới hạn trách nhiệm của một người, do
kết quả của tự do của một người: mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm
là một sự phụ thuộc lẫn nhau, và làm rõ tự do cũng làm rõ việc ai là
người chịu trách nhiệm.[40][41]
Xem
thêm: Authenticity
Nhiều
người viết về hiện sinh đã được nhắc ở trên coi chủ đề về sự tồn tại
đích thực(authentic existence) là quan trọng. Sự tồn tại đích thực liên
quan đến ý tưởng rằng người ta phải "tạo ra chính mình" và sau đó sống
theo "cái mình" được tạo ra ấy. Ý nghĩa của tính đích thực(authenticity)
là trong hành động, người ta nên hành động như chính mình (oneself), chứ
không phải như "những hành động của chính họ" ("one's acts") hay "các
gen của chính họ" ("one's genes") hay bất kì bản chất (essence) nào khác
yêu cầu họ. Hành động đích thực là hành động phù hợp với tự do của mỗi
người. Vì điều kiện của tự do là tính thực tế (facticity), nó bao gồm
tính thực tế của mỗi người, nhưng không đến mức độ mà tính thực tế này,
có thể theo bất kỳ cách thức nào, quyết định lựa chọn siêu việt
(transcendental) của họ (theo nghĩa mà người ta sau đó có thể đổ lỗi
rằng chính nền tảng [tính thực tế] của họ đã đưa ra lựa chọn mà cá nhân
họ chọn [một cái gì đã được chọn, xuất phát từ sự siêu việt của họ]).
Vai trò của tính thực tế trong mối quan hệ với tính đích thực thể hiện ở
việc cho phép các giá trị thực sự của một người (one's actual values)
được thể hiện ra khi người ta đưa ra lựa chọn (thay vì, như Esthete của
Kierkegaard, "chọn" một cách ngẫu nhiên), và nhờ thế người ta chịu trách
nhiệm cho hành động này thay vì lựa chọn một trong hai hoặc không
(ither-or without )cho phép các lựa chọn có giá trị khác nhau.[42]
Trái
ngược với điều này, sự không đích thực(inauthentic) là sự từ chối sống
theo tự do của mỗi người. Điều này có thể ẩn dưới nhiều hình thức, từ
giả bộ rằng các lựa chọn đều là vô nghĩa hoặc ngẫu nhiên, thông qua việc
thuyết phục bản thân mình rằng một số dạng thức của tất định luận (determinism)
là đúng, đến một loại "bắt chước" khi mà một người làm theo cách mà "mỗi
người nên làm".
Việc
"mỗi người nên làm gì" thường được quyết định bởi hình ảnh mà người ta
có, về cách một người như chính mình (giả sử, một người quản lý ngân
hàng, người thuần hóa sư tử, gái mại dâm, v.v.) làm. Trong Tồn
tại và hư vô, Sartre nêu ra ví dụ
về một người bồi bàn mang đức tin xấu (bad
faith): anh ta chỉ mới đơn thuần
tham gia vào "sự trình diễn" về một bồi bàn điển hình, cho dù rất thuyết
phục.[43] Hình
ảnh này thường phù hợp với một số dạng chuẩn mực xã hội, nhưng điều này
không có nghĩa là tất cả hành động tuân theo các chuẩn mực xã hội đều là
không đích thực: Điều chính yếu là thái độ của mỗi người với sự tự do và
trách nhiệm của chính mình, và mức độ mà mỗi người hành động tương ứng
với sự tự do ấy.
Xem
thêm: Other
Người
Khác (khi được viết hoa), có thể được dịch là Kẻ Khác hoặc tha nhân, là
một khái niệm, mà nói một cách chính xác hơn, thuộc về hiện
tượng học và quan niệm của nó về
tính liên chủ thể (intersubjectivity).
Tuy nhiên, khái niệm này đã được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm
hiện sinh và các kết luận rút ra từ nó khác biệt đôi chút với các quan
niệm của hiện tượng học. Trải nghiệm của Người Khác là trải nghiệm của
một chủ thể tự do khác sống trong cùng một thế giới mà một người sống ở
trong. Ở dạng cơ bản nhất, chính trải nghiệm này của Người Khác tạo
thành tính liên chủ thể và tính khách quan. Nói rõ hơn, khi một người
trải nghiệm một người khác và Người Khác này trải nghiệm thế giới (cùng
một thế giới mà người kia trải nghiệm) - chỉ có thể "ở đó" - thế giới tự
nó được xây dựng lên như là khách quan, mà trong đó, có một cái gì "ở
đó" giống hệt nhau với cả hai chủ thể; một người trải nghiệm người khác
khi đang trải nghiệm cùng những thứ ấy. Trải nghiệm này về sự nhìn của
Người Khác là những gì được gọi là Cái Nhìn.[44]
Trong
khi trải nghiệm này, theo ý nghĩa hiện tượng học cơ bản của nó, xây dựng
nên thế giới như là khách quan và mỗi người như là chủ thể tính (subjectivity)
thực tồn khách quan (mỗi người trải nghiệm chính mình như được nhìn thấy
một cách cụ thể trong Cái Nhìn của Người Khác theo cùng cách thức mà một
người trải nghiệm một Người Khác được nhìn thấy bởi anh ta, như là chủ
thể tính), trong chủ nghĩa hiện sinh, nó cũng được coi như một loại giới
hạn của tự do. Điều này là do Cái Nhìn có xu hướng khách quan hóa những
gì nó nhìn thấy. Như vậy, khi một người trải nghiệm chính mình trong Cái
Nhìn, người ta không trải nghiệm chính mình như là không có gì (không có
cái gì), mà là một thứ gì đó. Ví dụ của Sartre về một người đàn ông nhìn
trộm ai đó qua lỗ khóa có thể giúp làm rõ điều này: lúc đầu, người đàn
ông này hoàn toàn bị cuốn vào tình huống anh ta gặp phải; anh ta ở trong
trạng thái tiền-phản tư khi mà toàn bộ ý thức của anh ta hướng vào những
gì đang diễn ra trong phòng. Đột nhiên, anh nghe thấy tiếng sàn nhà ọp
ẹp ở phía sau, và anh ta nhận ra chính mình cũng bị nhìn bởi Người Khác.
Anh ta do đó cảm thấy xấu hổ vì anh ta nhận ra anh ta như là anh ta sẽ
nhận ra ai đó khác cũng đang làm điều anh ta đang làm, như một Tom
nhìn trộm (Peeping Tom). Đối với
Sartre, trải nghiệm hiện tượng học về sự xấu hổ này kiến tạo một bằng
chứng cho sự tồn tại của những tâm trí khác và đánh bại vấn đề của
thuyết duy ngã (solipsism).
Để trạng thái xấu hổ có ý thức này được trải nghiệm, người ta phải nhận
thức được bản thân mình như là đối tượng của một cái nhìn khác, chứng
minh một cách tiên nghiệm, rằng những tâm trí khác tồn tại.[45] Cái
Nhìn lúc đó đồng cấu thành nên tính thực tế (facticity) của người đó.
Một đặc
điểm khác của Cái Nhìn là không có Người Khác nào thực sự cần phải ở đó:
Hoàn toàn có khả năng sàn nhà ọp ẹp không có gì khác ngoài sự chuyển
động do ngôi nhà cũ; Cái Nhìn không phải là một loại trải nghiệm thần
giao cách cảm thần bí về cách thức thực tế mà người kia nhìn thấy (cũng
có thể có ai đó ở đó thật, nhưng anh ta không nhận ra rằng người này ở
đó). Đó chỉ là sự phản tư của một người về cách mà người khác có thể
nhận ra về anh ta.
Xem
thêm: Angst
"Cảm
giác giận dữ mang tính hiện sinh"(existential angst), đôi khi được gọi
là sự sợ hãi, lo âu, hay đau khổ(anguish)
hiện sinh, là một thuật ngữ rất phổ biến với nhiều nhà tư tưởng hiện
sinh. Nó thường được coi là cảm giác tiêu cực phát sinh từ trải nghiệm
về sự tự do và trách nhiệm của con người. Ví dụ điển hình là trải nghiệm
có được khi người ta đứng trên một vách đá, nơi người ta không chỉ sợ
hãi rơi xuống mà còn sợ hãi khả năng tự khiến mình rơi xuống. Trong trải
nghiệm này, "không có gì cản trở tôi", người ta cảm nhận được việc thiếu
bất cứ thứ gì định trước khiến cho người ta tự rơi xuống hoặc đứng yên,
và người ta trải nghiệm sự tự do của chính mình. Giận dữ, theo nhà hiện
sinh hiện đại, Adam
Fong, là sự nhận ra một cách đột
ngột về sự vô nghĩa (lack of meaning), thường xảy ra khi một người hoàn
thành một nhiệm vụ mà ban đầu tưởng như có một ý nghĩa nội tại nào đó.[46]
Cũng có thể
xem xét khái niệm này trong mối quan hệ với quan điểm trước đó, xem sự
giận dữ ở trước sự "không gì cả"(nothing) như thế nào, và đây cũng chính
là điều phân biệt nó với sự sợ hãi, vốn có đối tượng gây ra sợ hãi.
Trong trường hợp của sự sợ hãi, một người có thể thực hiện các biện pháp
dứt khoát để loại bỏ đối tượng gây ra sợ hãi, trong trường hợp của sự
giận dữ, không có biện pháp "mang tính xây dựng" nào như thế là khả dĩ.
Việc sử dụng từ "không gì cả" trong hoàn cảnh này liên quan đến cả sự
bất an vốn có với hậu quả hành động của con người, và cả với thực tế
rằng, khi trải nghiệm tự do như là sự giận dữ, một người cũng nhận ra
anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn cho những hậu quả này. Không
có điều gì ở trong con người (chẳng hạn như về mặt di truyền) có thể
hành động thay cho họ - mà họ có thể đổ lỗi cho nó khi xảy ra điều gì đó
sai. Do đó, không phải sự lựa chọn nào cũng được coi là mang theo những
hậu quả đáng sợ có thể xảy ra (và, có thể khẳng định rằng, cuộc sống
loài người sẽ không thể chịu đựng nổi nếu mỗi sự lựa chọn đều gây ra sự
sợ hãi). Dẫu sao, điều này không thay đổi thực tế rằng tự do vẫn là hoàn
cảnh(condition) của mọi hành động.
Xem
thêm: Despair
Tuyệt
vọng, trong chủ nghĩa hiện sinh, thường được định nghĩa là sự mất hy
vọng.[47] Cụ
thể hơn, đó là sự mất hy vọng khi phản ứng trước sự sụp đổ của một hoặc
nhiều phẩm chất căn cốt, mang tính định danh của cá nhân, tạo nên bản
sắc cá nhân của một con người. Nếu một người định hình để trở thành một
ai đó cụ thể, chẳng hạn như một tài xế xe buýt hoặc một công dân chính
trực, và sau đó thấy rằng các phẩm chất căn cốt đó không đạt được, thông
thường họ sẽ rơi vào tình trạng tuyệt vọng. Ví dụ, một ca sĩ mất khả
năng ca hát có thể tuyệt vọng nếu anh ta không còn gì khác để dựa vào -
không còn gì khác để danh tính của anh ta có thể dựa vào. Anh ta thấy
mình không thể còn là cái mà đã tạo nên bản thân anh ta.
Điểm
phân biệt khái niệm về sự tuyệt vọng của chủ nghĩa hiện sinh với khái
niệm về sự tuyệt vọng thông thường đó là sự tuyệt vọng trong chủ nghĩa
hiện sinh diễn ra ngay cả khi nó không công khai. Chừng nào danh tính
của một người còn phụ thuộc vào những phẩm chất có thể sụp đổ, họ còn ở
trong trạng thái tuyệt vọng vĩnh viễn - và theo cách nói của Sartre,
không có bản chất nào có thể tìm thấy trong hiện thực thường nghiệm
thông thường (conventional reality) của con người mà có thể xây dựng nên
cảm giác về bản sắc cá nhân (individual's sense of identity), tuyệt vọng
là hoàn cảnh con người phổ quát (universal human condition). Như
Kierkegaard định nghĩa trong Either/Or:
"Hãy để mỗi người học những gì anh ta có thể; cả hai chúng ta đều có thể
học được rằng sự bất hạnh của một người không bao giờ nằm trong sự
thiếu kiểm soát của anh ta đối với các điều kiện bên ngoài, vì điều này
chỉ khiến anh ta hoàn toàn bất hạnh."[48]
Xem
thêm: Chủ
nghĩa thực chứng và Chủ
nghĩa duy lý
Những
người theo chủ nghĩa hiện sinh phản đối các định nghĩa rằng con người
chủ yếu là duy lý, và, do đó, chống lại chủ
nghĩa thực chứng và chủ
nghĩa duy
lý. Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định
rằng con người thực sự đưa ra quyết định dựa trên ý nghĩa chủ quan hơn
là tính duy lý thuần túy. Sự từ chối lý trí là nguồn gốc của ý nghĩa là
một chủ đề phổ biến của tư tưởng hiện sinh, cũng như tập trung vào cảm
giác lo
lắng và sợ hãi mà chúng ta cảm thấy
khi đối mặt với tự
do triệt để của chính mình và nhận
thức về cái chết. Kierkegaard ủng hộ sự duy lý như một phương tiện để
tương tác với thế giới khách quan (ví dụ, trong khoa học tự nhiên),
nhưng khi nói đến vấn đề tồn tại, lý trí là không đủ: "Lý trí của con
người có ranh giới".[49]
Giống như
Kierkegaard, Sartre đã nhìn thấy những vấn đề về tính duy lý, gọi đó là
một dạng "đức tin xấu", một nỗ lực của bản thân để áp đặt cấu trúc lên
một thế giới của hiện tượng huyền bí "Cái Khác" về cơ bản là phi lý và
ngẫu nhiên. Theo Sartre, sự hợp lý và các hình thức đức tin xấu khác cản
trở mọi người tìm thấy ý nghĩa trong tự do. Để cố gắng kìm nén cảm giác
lo lắng và sợ hãi, mọi người tự nhốt mình trong trải nghiệm hàng ngày,
Sartre khẳng định, từ đó từ bỏ tự do của mình và chấp nhận bị chiếm hữu
dưới hình thức này hay hình thức khác bởi "Cái Nhìn" của "Người khác"
(nghĩa là bị một người khác chiếm hữu, hoặc ít nhất là bị ý tưởng của
con người về người khác chiếm hữu).
Một
người hiện sinh đọc Kinh
thánh sẽ yêu cầu người đọc nhận ra
rằng anh ta là một chủ thể đang tồn tại, nghiên cứu các từ nhiều hơn là
một hồi ức về các sự kiện. Điều này trái ngược với việc nhìn vào một tập
hợp các "sự thật" ở bên ngoài và không liên quan đến người đọc, nhưng có
thể phát triển ý thức về thực tại/Thiên Chúa. Một người đọc như vậy
không bắt buộc phải tuân theo các điều răn như thể một tác nhân bên
ngoài đang ép buộc các điều răn này đối với họ, nhưng như thể họ ở bên
trong chính họ và hướng dẫn họ từ bên trong. Đây là nhiệm vụ mà
Kierkegaard đảm nhận khi hỏi: "Ai có nhiệm vụ khó khăn hơn: người giáo
viên giảng bài về những thứ cụ thể cách xa cuộc sống hàng ngày - hay
người học khi cố gắng sử dụng nó?" [50]
Mặc
dù chủ
nghĩa hư vô và chủ nghĩa hiện sinh
là những triết lý riêng biệt, chúng thường bị nhầm lẫn với nhau vì cả
hai đều bắt nguồn từ kinh nghiệm của con người về sự thống khổ và nhầm
lẫn xuất phát từ sự vô nghĩa rõ ràng của một thế giới mà con người bị
buộc phải tìm hoặc tạo ra ý nghĩa.[51] Một
nguyên nhân chính của sự nhầm lẫn là Friedrich
Nietzsche là một triết gia quan
trọng trong cả hai chủ nghĩa trên. Các nhà triết học hiện sinh thường
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thống khổ như biểu thị sự thiếu tuyệt
đối của bất kỳ nền tảng khách quan nào cho hành động, một động thái
thường được giảm xuống thành một đạo đức hoặc chủ nghĩa hư vô hiện sinh.
Tuy nhiên, một chủ đề phổ biến trong các tác phẩm của triết học hiện
sinh là kiên trì vượt qua những lần gặp gỡ với sự ngớ ngẩn, như đã thấy
trong The Myth of Sisyphus của Camus ("Người
ta phải tưởng tượng Sisyphus hạnh phúc"),[52] Các
nhà triết học hiện sinh gạt bỏ đạo đức hoặc ý nghĩa tự tạo của mình:
Kierkegaard lấy lại một loại đạo đức trong tôn giáo (mặc dù bản thân ông
không đồng ý rằng đó là đạo đức; tôn giáo đình chỉ tính đạo đức), và
những lời cuối cùng của Sartre trong Tồn
tại và hư vô là "Tất cả những câu
hỏi này, đưa chúng ta đến một phản ánh thuần túy và không phải là một
phụ kiện (hoặc phản ảnh không trong sạch), chỉ có thể tìm thấy câu trả
lời của chúng trên mặt phẳng đạo đức. Chúng tôi sẽ cống hiến cho họ một
công việc trong tương lai. " [43]
Chủ
nghĩa hiện sinh đã nổi lên như là một phong trào trong văn
học và triết
học thế kỷ 20, chịu ảnh hưởng của
một số nhà triết học thế kỷ 19 mà nổi bật nhất là Søren
Kierkegaard và Friedrich
Nietzsche, tuy rằng nó đã có những
người đi tiên phong từ các thế kỉ trước. Vào thế kỷ 20 chủ nghĩa hiện
sinh nổi lên là một phong trào triết học với sự đóng góp của Martin
Heidegger, Jean
Paul Sartre, Simone
de Beauvoir. Franz
Kafka, Albert
Camus và Fyodor
Dostoevsky cũng đã miêu tả các chủ
đề hiện sinh trong các tác phẩm văn học của mình.
Soren Kierkegaard và Friedrich
Nietzsche là hai nhà triết học được
xem là những người đặt nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh. Họ chú trọng
vào những sự trải nghiệm chủ quan của con người hơn những chân lý khách
quan của toán học và khoa
học, cái mà họ coi rằng quá xa cách
để hiểu được những trải nghiệm của con người. Giống như Pascal,
họ quan tâm đến cuộc đấu tranh thầm lặng của mỗi cá nhân với sự vô nghĩa
của cuộc sống và việc sử dụng sự giải trí để tránh khỏi sự buồn
chán(boredom).
Không như Pascal, Kierkegaard và Nietzsche còn xem xét vai trò của sự
lựa chọn tự
do - đặc biệt là về những giá trị
và niềm tin căn bản - và những lựa chọn đó thay đổi bản chất của người
lựa chọn thế nào. Hiệp
sĩ của niềm tin (Knight
of faith) của Kierkegaard và Siêu
nhân (Overman) của Nietzsche là
hình mẫu về những người tự mình định ra bản chất của sự tồn tại của
mình. Kierkegaard và Nietzsche hoàn toàn đối lập nhau trong vấn đề về sự
tồn tại của Thượng
đế và sau này chính hai ông đã mở
đường cho hai nhánh triết học hiện sinh khác nhau: hữu thần
(Kierkegaard) và vô thần (Nietzsche). Những cá nhân lý tưởng này tự tạo
ra những giá trị cho chính bản thân họ. Kierkegaard và Nietzsche cũng là
những tiền thân cho các phong trào triết học khác và tâm
lý học.
Sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, chủ
nghĩa hiện sinh trở thành một phong trào triết học và văn hóa nổi tiếng,
chủ yếu thông qua hai ngòi bút Pháp nổi tiếng: Jean
Paul Sartre và Albert
Camus. Họ viết những tiểu thuyết,
vở kịch bài báo cũng như những tác phẩm chuyên ngành. Trong những năm
này, tác phẩm tồn
tại và thời gian của Heigegger trở
nên nổi tiếng ngoài nước Đức.
Chủ
nghĩa hiện sinh đã từng bước trở thành một trào lưu của triết
học châu Âu lục địa trong những
thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Đến cuối Chiến
tranh thế giới thứ hai, nó trở
thành một phong trào được biết đến rộng rãi, đặc biệt qua danh tiếng và
các tác phẩm của Jean-Paul
Sartre cùng một số các tác giả khác
ở Paris sau giải phóng. Các tác phẩm của họ chú trọng vào các chủ đề như
"nỗi
sợ, sự
buồn chán, sự
lạc lõng trong xã hội (Social
alienation), sự phi lý, tự
do, cam kết (commitment), và hư
vô" như là nền tảng của sự hiện
sinh con người.[53] Walter
Kaufmann miêu tả chủ nghĩa hiện
sinh là "Sự từ chối gia nhập bất cứ trường phái tư tưởng nào, sự bác bỏ
rằng không có bất cứ niềm tin hay đặc biệt là hệ thống niềm tin nào là
thỏa đáng, và một sự thất vọng rõ rệt đối với triết học truyền thống vì
nó bề nổi, hàn lâm, và xa cách với cuộc sống."[54]
Tuy
rằng có một số xu hướng chung, giữa các nhà tư tưởng hiện sinh vẫn có
những sự khác biệt và bất đồng (nổi bật nhất là sự chia rẽ giữa các nhà
hiện sinh vô thần như Sartre và các nhà hiện sinh hữu thần như Tillich).[55]
Tại Nam
Việt Nam, sau năm 1963 cùng với sự cáo chung của thuyết nhân vị, chủ
nghĩa hiện sinh du nhập vào miền Nam và có ảnh hưởng đến tầng lớp trí
thức tiểu tư sản, ở cả hai hướng hoặc duy tâm hoặc duy vật, những người
"kẹt giữa hai làn đạn". Một mặt, không thể chối cãi rằng nó dẫn đến phản
ứng “nổi loạn”, “tận hưởng cuộc đời” của một bộ phận thanh niên không
tìm thấy đường đi trong chiến tranh. Mặt khác, nó gợi lên những suy tư,
trăn trở về thân phận con người, ý thức trách nhiệm trước tình cảnh đất
nước và chọn lựa thái độ ứng xử cũng như hành động nhập cuộc vì tha
nhân. Có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã đáp ứng nỗi ưu tư của con người
và khao khát tự khẳng định khuôn mặt tinh thần của mình trong hoàn cảnh
chiến tranh, đòi hỏi người trí thức không thể đứng “bên dòng lịch sử”.
Sau ngày "Đổi mới", triết học hiện sinh được du nhập trở lại Việt Nam và
hấp dẫn một bộ phận giới trung lưu, trong bối cảnh một nền kinh tế thị
trường gây phân hóa xã hội.
1.
^ John
Macquarrie, Existentialism, New York (1972), tr. 18-21.
2.
^ Oxford
Companion to Philosophy, ed. Ted Honderich, New York (1995), tr. 259.
3.
^ John
Macquarrie, Existentialism, New York (1972), tr. 14-15.
4.
^ D.E.
Cooper Existentialism: A Reconstruction (Basil Blackwell, 1999, page 8).
5.
^ Robert
C. Solomon, Existentialism (McGraw-Hill, 1974, tr. 1-2)
6.
^ D.E.
Cooper Existentialism: A Reconstruction (Basil Blackwell, 1999, tr. 8).
7.
^ Ernst
Breisach, Introduction to Modern Existentialism, New York (1962), tr. 5
8.
^ Walter
Kaufmann, Existentialism: From Dostoevesky to Sartre, New York (1956),
tr. 12
9.
^ a ă â b “Existentialism”. Stanford
Encyclopedia of Philosophy. Tháng 10 năm 2010.
10.
^ Marino,
Gordon. Basic Writings of Existentialism (Modern Library, 2004, p. ix,
3).
11.
^ McDonald,
William. “Søren
Kierkegaard”. Trong Edward N.
Zalta. Stanford
Encyclopedia of Philosophy (Summer
2009 Edition).
12.
^ However
he did title his 1846 book Concluding Unscientific Postscript to
Philosophical Fragments, (Subtitle) A Mimical-Pathetic-Dialectical
Compilation an Existential Contribution, and mentioned the term on pages
121–22, 191, 350–51, 387 ff of that book.
13.
^ Watts,
Michael. Kierkegaard (Oneworld, 2003, pp. 4–6).
14.
^ Lowrie,
Walter. Kierkegaard's attack upon "Christendom" (Princeton, 1969, pp.
37–40).
15.
^ Guignon
and Pereboom, Derk, Charles B. (2001). Existentialism:
basic writings. Hackett Publishing.
tr. xiii. ISBN 9780872205956.
16.
^ DE
Cooper Chủ nghĩa hiện sinh: Tái thiết (Basil Blackwell, 1990, trang 1)
17.
^ Thomas
R. Flynn, Chủ nghĩa hiện sinh: Một giới thiệu rất ngắn (Nhà xuất bản Đại
học Oxford), 2006, tr. 89
18.
^ Christine
Daigle, Nhà tư tưởng và Đạo đức Hiện sinh (báo chí của McGill-Queen,
2006, trang 5)
19.
^ Ann
Fulton, Apostles of Sartre: Chủ nghĩa hiện sinh ở Mỹ, năm 1919191919
(Evanston, IL: Nhà xuất bản Đại học Tây Bắc, 1999) 18 lỗi19.
20.
^ L'Existentialisme
est un Humanisme (Ấn bản Nagel, 1946); Tiếng Anh Jean-Paul Sartre, Chủ
nghĩa hiện sinh và Chủ nghĩa Nhân văn (Eyre Methuen, 1948)
21.
^ Crowell,
Steven. Đồng hành Cambridge với chủ nghĩa hiện sinh, Cambridge, 2011,
tr. 316.
22.
^ Copleston,
F.C. (2009). “Existentialism”. Philosophy 23 (84): 19–37. JSTOR 4544850. doi:10.1017/S0031819100065955.
23.
^ See James
Wood's introduction to Sartre,
Jean-Paul (2000). Nausea. London: Penguin
Classics. ISBN 978-0-141-18549-1. Quote
on p. vii.
24.
^ Tidsskrift
cho Norsk Psykologforening, Vol 45, nummer 10, 2008, bên 1298
Tiết1304, Welhaven
og psykologien: Del 2. Welhaven peker fremover (ở
Na Uy)
25.
^ Lundestad,
1998, tr. 169
26.
^ Slagstad,
2001, tr. 89
27.
^ (tiếng
Pháp) (Dictionary) "L'existencialisme" – see "l'identité de la personne"
28.
^ Baird,
Forrest E.; Walter Kaufmann (2008). From Plato to Derrida. Upper Saddle
River, New Jersey: Pearson Prentice Hall. ISBN 0-13-158591-6.
29.
^ Heidegger,
Martin (1993). Basic
Writings: From Being and Time (1927) to The Task of Thinking (1964).
Edited by David Farrell Krell . San Francisco, California: Harper San
Francisco. ISBN 0060637633. OCLC 26355951.
30.
^ Heidegger,
Martin (1993). Basic
Writings: From Being and Time (1927) to The Task of thinking (1964).
Edited by David Farrell Krell . San Francisco, California: Harper San
Francisco. tr. 243. ISBN 0060637633. OCLC 26355951.
31.
^ a ă Wartenberg,
Thomas (2008). Existentialism: A Beginner's Guide. Oxford: One World. ISBN 9781780740201.
32.
^ Michelman,
Stephen (2010). The A to Z of Existentialism. Lanham, Maryland: The
Scarecrow Press, Inc. tr. 27. ISBN 9780810875890.
33.
^ Stanford
Encyclopedia of Philosophy, Existentialism, 3.1
Anxiety, Nothingness, the Absurd
34.
^ Bassnett,
Susan; Lorch, Jennifer (18 tháng 3 năm 2014). Luigi
Pirandello in the Theatre.
Routledge. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
35.
^ Thompson,
Mel; Rodgers, Nigel (2010). Understanding
Existentialism: Teach Yourself.
Hodder & Stoughton.
36.
^ Caputi,
Anthony Francis (1988). Pirandello
and the Crisis of Modern Consciousness.
University of Illinois Press.
37.
^ Mariani,
Umberto (2010). Living
Masks: The Achievement of Pirandello.
University of Toronto Press. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
38.
^ E Keen
(1973). “Suicide
and Self-Deception”. Psychoanalytic
Review.
39.
^ a ă Bách
khoa toàn thư Stanford về triết học, chủ nghĩa hiện sinh, 2.1
Tính thực tế và siêu việt
40.
^ Từ điển
bách khoa Stanford về triết học, chủ nghĩa hiện sinh, 3.
Tự do và giá trị
41.
^ Từ điển
bách khoa Stanford về triết học, chủ nghĩa hiện sinh, 3.2
Tính lý tưởng của các giá trị
42.
^ Bách
khoa toàn thư Stanford về triết học, chủ nghĩa hiện sinh, 2.3
Tính xác thực
43.
^ a ă Jean-Paul
Sartre, Bản thể và hư vô, Kinh điển Routledge (2003).
44.
^ Từ điển
bách khoa Stanford về triết học, chủ nghĩa hiện sinh, 2.2
tha hóa
45.
^ Sartre,
Jean Paul (1992). “Chapter 1 part
3”. Being and Nothingness. New York: Washington Square Press. ISBN 978-0230006737. (trợ
giúp)
46.
^ Bách
khoa toàn thư Stanford về triết học, chủ nghĩa hiện sinh, 3.1
Lo âu, hư vô, vô lý
47.
^ “despair
- definition of despair by the Free Online Dictionary, Thesaurus and
Encyclopedia”. Tfd.com. Truy cập
ngày 8 tháng 3 năm 2010.
48.
^ Either/Or
Part II p. 188 Hong
49.
^ Tạp chí
và Giấy tờ của Søren Kierkegaard Tập 5, trang. 5
50.
^ Kierkegaard,
Soren. Tác phẩm của tình yêu. Harper & Row, Nhà xuất bản. New York, NY
1962. p. 62
51.
^ Alan
Pratt (23 tháng 4 năm 2001). “Nihilism”. Internet
Encyclopedia of Philosophy. Embry-Riddle
University. Truy cập ngày 18 tháng
11 năm 2018.
52.
^ Camus,
Albert. "Huyền thoại của Sisyphus". NYU.edu
53.
^ Steven
Crowell - mục từ tại Stanford
Encyclopedia of Philosophy ngày
2004-08-23
54.
^ Kaufmann,
Walter - Existentialism from Dostoevsky to Sartre, 1975, 12.
55.
^ Existentialism:
From Dostoevsky to Sartre. (Cleveland: The World Publishing Company,
1956, 11
CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia.
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *