* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG
Mấy ý kiến về hai nghiên cứu Gen Việt
Nam mới công bố
Hà Văn Thùy
Khám phá lịch sử hình
thành dân cư Đông Á là thách thức lớn nhất của sử học hiện đại. Do thiếu
phương tiện, thế kỷ XX đã thất bại, dẫn tới các cuốn sử phương Đông được
viết sai lầm. Sang thế kỷ XXI, nhờ di truyền phân tử vào cuộc, khoa học
khám phá rằng, người Hiện đại Homo sapiens xuất hiện đầu tiên ở châu Phi
195.000 năm trước và khoảng 60-70.000 năm trước di cư tới, làm nên dân
cư Đông Á. Đến nay đã xuất hiện hàng trăm nghiên cứu di truyền dân cư
Đông Á, tạo ra hiểu biết ngày càng phong phú, sâu sắc về bộ gen dân cư
khu vực. Tuy nhiên, trên vấn đề quan yếu là con đường di cư của người
tiền sử tới phương Đông, các học giả lại chia rẽ theo hai quan điểm. Một
cho rằng, người từ châu Phi theo ven bờ Ấn Độ Dương tới Đông Nam Á, được
gọi là con đường phương Nam. Phái còn lại, cũng gồm tác giả của những
trung tâm di truyền lớn như Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ và Viện Nhân học
tiến hóa Max Planck Đức, cho rằng con đường từ Trung Đông vào Trung Á
rồi sang Đông Á là con đường chính tạo nên dân cư ngoài châu Phi. Về
thời điểm và số lần con người rời châu Phi cũng được quan niệm khác
nhau: Trong khi Stephen Oppenheimer của Đại học Oxford cho rằng chỉ có
cuộc ra đi duy nhất thành công vào 85.000 năm trước thì Spencer Wells
của National Geographic lại nói, có cuộc di cư 60.000 năm trước theo con
đường phía Nam nhưng cuộc ra đi sau đó, vào 45000 năm trước, theo con
đường phía bắc, mới thực sự quan trọng, làm nên chủ thể của nhân loại
ngoài châu Phi. Sự không thống nhất như vậy đã dẫn tới những quan niệm
trái ngược nhau về quá trình hình thành dân cư Đông Á. Kết quả là cho
tới nay vẫn chưa có tiếng nói chung cuộc về vấn đề này. Có thể nói rằng,
dù ngày càng tích lũy nhiều dữ liệu di truyền nhưng vấn đề lịch sử hình
thành dân cư Đông Á vẫn dẫm chân tai chỗ.
Trung Quốc là cường
quốc di truyền học. Hơn 30 năm trước, họ đã chi một triệu USD cho nhóm
Y.J. Chu DH Texas thực hiện
Dự án Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic Relationship of
Populations in China) thu kết quả vang dội. Hiện nay DH Phúc Đán là địa
chỉ lớn của di truyền học, với những học giả tầm cỡ như Kim Lực (Li
Jin), Lý Huy (Hui Li), Chuan-Chao Wang, … tuy nhiên họ vẫn chưa thể
khẳng định ai là tổ tiên của người Trung Quốc!
Việt Nam là nước chậm
chân tới lạc lõng trong lĩnh vực này. Cho tới ngày 03 tháng 10 năm 2017,
mới có công bố đầu tiên là Dự án 1000 bộ gen người Việt Nam được công bố
trên tạp chí Scientific Reports, (1). Dự án có ý nghĩa lớn là xây dựng
bộ dữ liệu di truyền đầu tiên của người Việt Nam. Tuy nhiên vì theo quan
niệm hai dòng di cư tới Đông Á, Dự án đã sai lầm khi cho rằng, dân cư
Việt Nam được hình thành theo hai lớp: “Một bộ phận lớn nông dân Đông Á
tràn xuống, chồng lên số lượng nhỏ dân săn hái bản địa.”Kịch bản như vậy
dẫn tới hệ quả là, người Việt Nam là con cháu của người Hán. Lẽ đương
nhiên, về mặt di truyền học, người Việt Nam phải có độ đa dạng sinh học
thấp hơn người Trung Quốc. Trong khi, trên thực tế, hầu hết các khảo cứu
di truyền đều kết luận: “Người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất
trong dân cư châu Á.” (2) Khám phá này chứng tỏ rằng, dân cư Đông Á cùng
tổ tiên Mongoloid phương Nam và người Việt Nam gần tổ tiên nhất. Hay nói
cách khác: Việt Nam là nơi phát tích của dân cư châu Á! Thực tế này đã
hoàn toàn phủ định kết luận của Dự án 1000 bộ gen người Việt!
Công bố mới đây của
Viện Nghiên cứu tế bào gốc – công nghệ gen Vinmec (3) cho rằng: “người
Việt “nằm cạnh” một cách độc lập với người Hán ở phía Nam và cách xa
người Hán ở phía Bắc Trung Quốc.” Về công bố này, trước hết thấy rằng,
các tác giả đã hiểu sai thuật ngữ. Khi đọc văn bản tiếng Anh Chinese
people các tác giả hiểu là người Hán. Trong khi ở đây, Chinese people
văn bản Anh ngữ chỉ định là người Trung Quốc. Chỉ có người Trung Quốc
mới được chia thành phía Bắc, phía Nam còn người Hán là một chủng nên dù
ở miền Bắc hay miền Nam vẫn là người Hán. Người Trung quốc phương Bắc là
ai? Nhân khẩu học Trung Quốc xác nhận, đó là khoảng 100 triệu người
thuộc các sắc dân thiểu số Mongol, Turky, Ewenky, Tungusic, Altaic,
Eskimos… Cố nhiên,
người Việt Nam chủng South Mongoloid khác biệt với những người này. Còn
người Trung Quốc phương Nam cùng thuộc chủng Mongoloid phương Nam (South
Mongoloid) nên không thể “độc lập” với người Việt Nam. Không những thế,
cùng một dòng đơn bội O3-M122, O3-M119. Những khác biệt di truyền chỉ là
tiểu tiết! Rõ ràng, kết
luận của Vinmec không phản ánh đúng thực tế bộ gen của người Việt Nam.
Một kết luận khác
cũng cần được mổ xẻ: “Bên
cạnh đó, nghiên cứu đã giải mã một câu chuyện trong lịch sử: dù có nhiều
khu vực biên giới chung và mối quan hệ lâu đời nhưng hệ gen của người
Việt lại không có sự giao thoa nhiều hay chịu ảnh hưởng từ hệ gen người
Hán.”Đây là kết luận sai thực tế và phản khoa học.
Từ hơn 10 năm trước,
trong cuốn Hành trình tìm lại cội nguồn (4), bằng tri thức di truyền
học, cổ nhân chủng, khảo cổ, văn hóa và lịch sử, chúng tôi đã phát hiện:
dân cư Việt Nam được hình thành theo hai lớp. Khoảng 70.000 năm trước,
hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi di cư
đến Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ:
Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid đều thuộc loại hình
Australoid. 40.000 năm trước, khi khí hậu phía bắc tốt hơn, người từ
Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục và trở thành dân cư Trung Quốc. 7000
năm trước, tại Ngưỡng Thiều Nam Hoàng Hà, người Việt Australoid tiếp xúc
hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid ) sinh ra chủng
người Việt Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid
phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể lưu vực Hoàng Hà. Khoảng 2698
năm TCN, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ chiếm Nam Hoàng Hà, người
Việt di cư về phía nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền dân
cư Nam Dương Tử và Việt Nam sang chủng Mongoloid phương Nam. Khoảng 2000
năm TCN, toàn bộ dân cư Nam Dương Tử và Việt Nam mang mã di truyền
Mongoloid phương Nam. Nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại.
Như vậy là dân cư
Viêt Nam cũng như toàn Đông Á được hình thành theo hai lớp: ban đầu,
người Australoid từ Việt Nam đi lên, tạo thành dân cư Hoa lục. Sau đó,
người Mongoloid phương Nam từ Hoa lục trở về chuyển hóa di truyền dân cư
Việt Nam và Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi quan
trọng được đặt ra: phải chăng một số lượng lớn người từ Hoa lục tới,
thay thế người bản địa, làm nên dân cư Việt Nam? Di truyền học cho câu
trả lời dứt khoát: Không! Bởi lẽ nếu sự thay thế diễn ra thì người Việt
Nam hiện nay phải là con cháu của người Hán. Kết quả tất yếu: người Việt
Nam phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Hán. Nhưng các khảo cứu
cho thấy người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất châu Á, chứng tỏ
không hề có sự thay thế dân cư Việt Nam bằng người nông dân Trung Quốc.
Sự việc đã diễn ra theo luật chuyển hóa di truyền: một lượng nhỏ người
từ phương Bắc xuống chung sống hòa bình, đem gien Mongoloid chuyển hóa
dần dân cư bản địa sang chủng Mongoloid phương Nam. Di chỉ Mán Bạc Ninh
Bình với nghĩa địa có 30 di hài người Australoid và Mongoloid được chôn
chung, chứng nhận cho việc này. Do vậy, người Việt Nam hiện nay vẫn giữ
được độ đa dạng sinh học cao nhất châu Á. Hiện tượng trái ngược từng xảy
ra ở Nhật. 30.000 năm trước, người Việt cổ loại hình Australoid tới
Nhật, làm nên văn hóa Jomon. 400 năm TCN, do tác động của chiến tranh
thời Chiến Quốc, nhiều triệu người Dương Việt chủng Mongoloid phương Nam
tại duyên hải phía dông Trung Quốc tràn qua Triều Tiên sang Nhật, làm
nên văn hóa Yayoi. Người Yayoi hòa huyết với dân Jomon bản địa sinh ra
người Nhật hiện đại mã di truyền Mongoloid phương Nam. Do số người Yayoi
quá đông còn số người Jomon quá ít nên bộ gen người Yayoi lấn át, khiến
cho người Nhật hôm nay thuộc loại dân cư trẻ với độ đa dạng sinh học
thấp.(5)
Như vậy, sự thật dòng
giống, máu huyết và lịch sử cho thấy: người Việt và người Hán cùng một
chủng trong đó người Việt là tổ tiên của người Hán.
Đúng như lời PGS Đồng
Văn Quyền, phó Viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa
học Công nghệ VN trên báo Tuổi trẻ: “Con số 305 bộ gen chưa có ý nghĩa
nhiều về khoa học, chưa đủ để thu được những thông tin mong muốn.” Do
vậy, những kết luận nêu trên của nhóm nghiên cứu là thiếu cơ sở, gây ngộ
nhận đáng tiếc cho cộng đồng.
Sài Gòn, 19.7.2-19
Tài liệu tham khảo:
W. Ballinger et al:
Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from 153 independent samples
encompassing seven Asian populations were surveyed for sequence
variation. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of
mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese
suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians. (Southeast Asian
mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient
Mongoloid migration. Genetic 1992 N. 130 P.139-45).
Ngày 03 tháng 10 năm
2017, tạp chí Scientific Reports công bố nghiên cứu “CÁC CUỘC ĐIỀU TRA
ĐỊA LÝ VÀ BỘ GEN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHO THẤY SỰ BIẾN ĐỘNG NHÂN KHẨU HỌC
LỊCH SỬ PHỨC TẠP” (Phylogeographic and genome-wide investigations of
Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical
demographic
movements-https://www.nature.com/articles/s41598-017-12813-6) của chín
tác giả: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco,
M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H.
Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas.
Báo Tuổi trẻ
https://tuoitre.vn/cong-bo-nghien-cuu-bo-gen-nguoi-viet-bat-ngo-ve-nguon-goc-20190716215120206.htm
Hà Văn Thùy. Hành
trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, H. 2008
Hà Văn Thùy. Góp một
cách nhìn về lịch sử Nhật Bản.
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-trung-hoa-va-dong-bac-a/2271-ha-van-thuy-gop-mot-cach-nhin-ve-lich-su-nhat-ban.html
Để minh chứng cho
nhận định của mình, chúng tôi xin dịch và công bố một nghiên cứu của học
giả Trung Quốc, cho thấy rằng sự việc phức tạp hơn nhiều
Suy luận về lịch sử loài người ở
Đông Á từ nhiễm sắc thể Y
Chuan-Chao Wang, Hui
Li
https://investigativegenetics.biomedcentral.com/articles/10.1186/2041-2223-4-11
Tóm tắt
Đông Á chứa đựng sự
đa dạng di truyền, vật lý, văn hóa và ngôn ngữ đáng kể, nhưng các cấu
trúc chi tiết và mối liên hệ của các khía cạnh đó vẫn còn bí ẩn. Câu hỏi
này đã bắt đầu được giải quyết bằng sự tích lũy nhanh chóng các nghiên
cứu nhân học phân tử của các quần thể trong và xung quanh Đông Á, đặc
biệt là các nghiên cứu về nhiễm sắc thể Y. Bằng chứng nhiễm sắc thể Y
hiện tại cho thấy nhiều lần di cư sớm của người hiện đại từ Châu Phi qua
Đông Nam Á đến Đông Á. Sau những khu định cư ban đầu, những cuộc di cư
về phía bắc trong Thời đại Cổ sinh đã định hình cấu trúc di truyền ở
Đông Á. Sau đó, sự pha trộn gần đây giữa người nhập cư Trung Á và người
Đông Bắc Á đã mở rộng sự khác biệt di truyền giữa dân cư miền nam và
miền bắc Đông Á. Các tập quán văn hóa, như ngôn ngữ, nông nghiệp, quân
sự và uy tín xã hội, cũng có tác động đến các kiểu di truyền ở Đông Á.
Hơn nữa, ứng dụng phân tích nhiễm sắc thể Y trong các nghiên cứu phả hệ
gia đình mang đến những màn trình diễn thành công về tiện ích của di
truyền học trong nghiên cứu lịch sử cổ đại.
Giới thiệu
Đông Á là một tiểu
vùng của châu Á, với một cảnh quan rộng lớn và đa dạng. Khoảng 22% dân
số thế giới sống ở Đông Á và hơn 200 ngôn ngữ trong bảy gia đình ngôn
ngữ (Altaic, Austroasiatic, Austronesian, Daic, Hmong-Mien, Sino-Tạng và
Indo-European) được nói ở Đông Á. Khu vực này là một trong những nơi
quan trọng nhất của thế giới để nghiên cứu sự tiến hóa của con người, sự
đa dạng di truyền và mối liên hệ giữa di truyền và văn hóa của quần thể
người [1].
Trong vài năm qua,
các nhà nhân chủng học phân tử đã nỗ lực mô tả sự đa dạng di truyền của
quần thể Đông Á bằng cách phân tích ba loại vật liệu di truyền, đó là
DNA nhiễm sắc thể và nhiễm sắc thể X, DNA nhiễm sắc thể của người mẹ và
DNA ty thể (mtDNA). Autosome và nhiễm sắc thể X được di truyền từ cả bố
và mẹ luôn bị xáo trộn do tái tổ hợp. Phần không tái tổ hợp của nhiễm
sắc thể Y (NRY) được thừa hưởng nghiêm ngặt theo kiểu cha và do đó, là
vật liệu tốt nhất để theo dõi dòng dõi của quần thể với những lợi thế bổ
sung về quy mô dân số nhỏ, tỷ lệ đột biến thấp, marker vừa đủ và dân số
phân phối haplotype đặc thù [2, 3]. Cuộc tranh luận về một hoặc nhiều
nguồn gốc của con người hiện đại về mặt giải phẫu đã kéo dài trong nhiều
thập kỷ. Năm 1999, Su et al. đã sử dụng 19 dấu hiệu song song nhiễm sắc
thể Y có tính thông tin cao để đánh giá cấu trúc di truyền của dòng họ ở
Đông Á và cho rằng người hiện đại gốc Phi thay thế các vượn nhân hình
trước đây sống ở Đông Á [4]. Năm 2001, Ke et al. đã kiểm tra 12.127 cá
thể nam từ 163 quần thể sử dụng ba dấu hiệu song song nhiễm sắc thể Y
(YAP, M89 và M130). Họ phát hiện ra rằng tất cả các cá nhân mang đột
biến tại một trong ba địa điểm – YAP, M89 và M130 [5]. Ba đột biến này
(YAP +, M89T và M130T) đã kết hợp thành một đột biến khác – M168T, có
nguồn gốc ở Châu Phi vào khoảng 44 nghìn (khoảng tin cậy 95%: 35 đến 89
nghìn năm) năm trước [3, 5]. Mặc dù đã có những dòng gen có thể giữa
vượn nhân hình cổ xưa và người hiện đại [6, 7, 8], nhưng rõ ràng là phần
lớn người hiện đại tiến hóa gần đây ở Châu Phi; ít nhất các nhiễm sắc
thể Y của chúng ta đều đến từ Châu Phi. Câu hỏi tiếp theo là làm thế nào
những người hiện đại ban đầu đến Đông Á.
Khí hậu đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc di cư của con người, đặc biệt là trong
Thời kỳ băng hà cuối cùng. Thời kỳ băng hà cuối cùng đề cập đến thời kỳ
băng hà gần đây nhất từ khoảng 110 đến 10 nghìn năm trước, bao gồm các
thời kỳ Cổ sinh và Mesolithic của lịch sử loài người [9]. Trong thời kỳ
này, khi mực nước biển thấp hơn nhiều so với hiện tại, nhiều hòn đảo
ngày nay đã được nối vào các lục địa, cung cấp các con đường cho việc di
cư của con người hiện đại. Mức độ băng hà tối đa (Last Glacial Maximum,
LGM) là từ 26,5 đến 19 nghìn năm trước, khi các dải băng ở mức mở rộng
tối đa của chúng và bao phủ phần lớn châu Á, Bắc Âu và Bắc Mỹ [10, 11].
Hậu quả là không gian sống của con người có lẽ rất hạn chế ở phía bắc
châu Á. Các tảng băng bắt đầu rút đi 15 nghìn năm trước và nhiệt độ cũng
bắt đầu tăng lên. Thời kỳ này là thời kỳ hưng thịnh cho việc di cư của
con người hiện đại.
Ở đây, chúng tôi đã
tập trung vào lịch sử di cư của dân cư Đông Á đạt được bằng cách nghiên
cứu nhiễm sắc thể Y, và đã thảo luận về mô hình và sự tiến hóa vi mô
trong quá trình định cư ban đầu của con người và sau đó di cư và mở rộng
ở Đông Á. Điều đáng chú ý ngay từ đầu là hầu hết các ước tính thời gian
được đề cập trong tổng quan này đã đạt được bằng cách sử dụng lặp lại
song song ngắn nhiễm sắc thể Y (STR). Mặc dù cách tiếp cận này là đúng
về nguyên tắc, vẫn còn nhiều cuộc tranh luận đang diễn ra về cách tốt
nhất để sử dụng các chuỗi trong định tuổi haplogroup. Đặc biệt, có hai
tỷ lệ đột biến gen nhiễm sắc thể Y được sử dụng phổ biến, đó là tốc độ
tiến hóa [12, 13] và tỷ lệ phả hệ [14]. Việc lựa chọn tỷ lệ đột biến
trong định tuổi nhiễm sắc thể Y là điều gây tranh cãi, vì kết quả có thể
chênh lệch gần gấp ba lần. Mức độ cao của homoplasy và các thuộc tính
đột biến khác nhau giữa các locus cũng làm giảm phần lớn tính chính xác
của ước tính. Do đó, thời điểm chỉ có thể được dự định là một hướng dẫn
sơ bộ cho lứa tuổi haplogroup tương đối.
Con đường phía bắc hoặc con
đường phía nam
Một khi người ta
thường chấp nhận rằng con người hiện đại phát triển gần đây ở Châu Phi,
thời gian và con đường di cư đến Đông Á vẫn còn gây tranh cãi. Ba mô
hình khác nhau đã được nhấn mạnh bởi các nhà nghiên cứu khác nhau. Mô
hình đầu tiên cho rằng dân cư phía đông của Đông Á di cư vào phía nam và
trộn lẫn với tổ tiên người Úc đã định cư ở Đông Nam Á. Mô hình thứ hai
cho rằng dân số phía bắc của Đông Á phát triển từ những người định cư
phía nam. Tuy nhiên, một mô hình thứ ba cho rằng dân số phía bắc và nam
Đông Á đã phát triển độc lập kể từ cuối kỷ Pleistocene hơn 10.000 năm
trước [10, 15, 16].
Có bốn nhóm đơn bội
nhiễm sắc thể Y chiếm ưu thế ở Đông Á – O-M175, C-M130, D-M174 và N-M231
– chiếm khoảng 93% số nhiễm sắc thể Y Đông Á (Hình 1; được cung cấp
trong tập tin bổ sung1). Các nhóm haplog khác, như E-SRY4064, G-M201,
H-M69I-M170, J-P209, L-M20, Q-M242, R-M207 và T-M70, chiếm khoảng 7% nam
giới ở Đông Á [15].
a.png
Hình 1: Sự phân bố
địa lý của các nhóm đơn bội nhiễm sắc thể Y: C,D, N và O ở Đông Á.
Haplogroup O-M175 là
nhóm haplogroup lớn nhất ở Đông Á, bao gồm khoảng 75% người Hoa và hơn
một nửa dân số Nhật Bản, Do đó, có liên quan đến những người di cư thời
kỳ đồ đá mới (Hình 1). O-M175 đã tạo ra ba nhóm đơn bội cùng dòng –
O1a-M119, O2-M268 và O3-M122 – tổng cộng 60% nhiễm sắc thể Y trong dân
số Đông Á [17, 18]. Haplogroup O1a-M119 phổ biến dọc theo bờ biển phía
đông nam Trung Quốc, xảy ra với tần suất cao ở những người nói tiếng
Daic và thổ dân Đài Loan [19]. O2-M268 chiếm khoảng 5% người Hán [17].
O2a1-M95 là phân nhóm thường xuyên nhất của O2, là nhóm đơn bội lớn ở
Bán đảo Trung-Ấn, và cũng được tìm thấy ở nhiều quần thể nằm ở phía nam
Trung Quốc và miền đông Ấn Độ (như Munda) [19, 20]. Một phân nhóm khác
của O2, O2b-M176, thường gặp nhất ở người Hàn Quốc và Nhật Bản, và cũng
xảy ra ở tần số rất thấp trong người Việt và người Hán [21, 22]. O3-M122
là nhóm haplogroup phổ biến nhất ở Trung Quốc và phổ biến khắp Đông và
Đông Nam Á, bao gồm khoảng 50 đến 60% người Hán. O3a1c-002611,
O3a2c1-M134 và O3a2c1a-M117 là ba phân nhóm chính của O3, mỗi phần chiếm
12 đến 17% của người Hán. O3a2c1a-M117 cũng thể hiện tần số cao trong
quần thể Tibeto-Burman. Một phân nhóm khác, O3a2b-M7, đạt tần suất cao
nhất trong các quần thể nói tiếng H’mông và Môn-Khmer, nhưng chiếm ít
hơn 5% người Hán [17, 18].
Su et al. đã kiểm tra
19 Y-SNP (bao gồm M119, M95 và M122) và ba chuỗi nhiễm sắc thể Y trong
một bộ sưu tập lớn các mẫu dân số từ một khu vực rộng lớn ở châu Á. Phân
tích thành phần chính của nghiên cứu của họ cho thấy rằng tất cả các
quần thể phía bắc tụ lại với nhau và được bao gồm trong cụm dân cư phía
nam, và dân số miền nam đa dạng hơn nhiều so với dân số phía bắc. Họ kết
luận rằng các quần thể phía bắc có nguồn gốc từ các quần thể phía nam
sau khi người Palaeolithic ban đầu ở Đông Á. Họ cũng ước tính tuổi của
O3-M122 là từ 18 đến 60 nghìn năm sử dụng ba Y-STR theo mô hình đột biến
một bước với tỷ lệ đột biến là 0,18% mỗi locus cứ sau 20 năm, có thể
phản ánh tuổi của sự kiện tắc nghẽn dẫn đến sự định cư ban đầu của Đông
Á [4]. Năm 2005, Shi và cộng sự [18] đã trình bày một mẫu hệ thống và
sàng lọc di truyền của haplogroup O3-M122 ở hơn 2.000 cá nhân từ các
quần thể khác nhau ở Đông Á. Dữ liệu của họ cho thấy các nhóm đơn bội
O3-M122 ở miền Nam Đông Á đa dạng hơn so với các nhóm ở phía bắc Đông Á,
hỗ trợ nguồn gốc phía nam của O3-M122. Thời gian di cư sớm về phía bắc
của dòng dõi O3-M122 ở Đông Á được ước tính khoảng 25 đến 30 nghìn năm
trước bằng phương pháp bình phương trung bình (ASD) với tỷ lệ đột biến
tiến hóa Y-STR trung bình là 0,00069 mỗi locus trong 25 năm [25] 12,
13]. Gần đây, Cai et al. đã kiểm tra các nhóm haplogroup O3a2b-M7 và
O3a2c1a-M117 ở các quốc gia nói tiếng Mon-Khmer và tiếng Mông-Đông Nam
Á, và chỉ ra sự khuếch tán một chiều qua các nút cổ chai từ Đông Nam Á
vào Đông Á khoảng 19.000 năm trước -STR tỷ lệ đột biến tiến hóa là
0,00069 mỗi locus trong 25 năm) trong Thời gian Glacial tối đa [23]. Sự
suy giảm đa dạng Y-STR từ nam sang bắc cũng đã được quan sát thấy trong
haplogroup O3a1c-002611, cho thấy rằng haplogroup O3a1c cũng di chuyển
về phía bắc cùng với các dòng O3-M122 khác [24]. Do đó, tuyến đường phía
nam của sự di cư đầu tiên của con người ở Đông Á, lấy Y haplogroups O
lớn nhất, được hỗ trợ bởi hầu hết các bằng chứng (Hình 2C).
2.png
Hình 2
Sự di cư của nhiễm
sắc thể Y haplogroup C, D, N và O ở Đông Á. Các dòng đứt quãng đại diện
cho các tuyến di cư dự kiến.
Định cư sớm nhất ở
Đông Á
Tuổi của haplogroup O
ở Đông Á là không quá 30 nghìn năm khi ước tính từ số lượng đủ (> 7) của
các dấu hiệu STR. Do đó, haplogroup O không phải là nhiễm sắc thể Y sớm
nhất được con người hiện đại mang vào Đông Á. Haplogroup C-M130 có thể
là một trong những khu định cư sớm nhất ở Đông Á. Haplogroup C có tần
suất cao đến trung bình ở Viễn Đông và Châu Đại Dương, và tần số thấp
hơn ở Châu Âu và Châu Mỹ, nhưng không có ở Châu Phi (Hình 1). Một số
phân nhóm địa lý cụ thể của haplogroup C đã được xác định, đó là, C1-M8,
C2-M38, C3-M217, C4-M347, C5-M356 và C6-P55 [25]. Haplogroup C3-M217 là
phân nhóm phổ biến nhất và đạt tần số cao nhất trong số các quần thể của
Mông Cổ và Siberia. Haplogroup C1-M8 hoàn toàn bị hạn chế ở Nhật Bản và
Ryukyuans, xuất hiện với tần suất thấp khoảng 5% hoặc ít hơn. Haplogroup
C2-M38 được tìm thấy trong số các quần thể địa phương nhất định trên
Quần đảo Thái Bình Dương từ miền đông Indonesia đến Polynesia. Đặc biệt
là trong số các quần thể Polynesia, C2 đã trở thành nhóm đơn bội phương
thức do ảnh hưởng của người sáng lập nghiêm trọng và sự trôi dạt di
truyền [22, 26]. Haplogroup C4-M347 là nhóm haplogroup phổ biến nhất
trong số thổ dân Úc và không được tìm thấy bên ngoài lục địa Úc.
Haplogroup C5-M356 đã được phát hiện với tần suất thấp ở Ấn Độ và các
khu vực lân cận Pakistan và Nepal [27, 28]. C6-P55 bị giới hạn về mặt
địa lý ở vùng cao nguyên New Guinea (P55 đã được chuyển sang cô lập
trong cây nhiễm sắc thể Y mới nhất) [29]. Kiểu phân phối rộng rãi này
của C-M130 cho thấy C-M130 có thể đã phát sinh ở đâu đó ở lục địa châu Á
trước khi con người hiện đại đến Đông Nam Á.
Để đưa ra một bức
tranh rõ ràng về nguồn gốc và sự di cư của haplogroup C, Zhong et al. đã
sử dụng 12 Y-SNP và 8 Y-STR trong số 465 cá nhân haplogroup C từ 140 dân
cư Đông và Đông Nam Á. Một sự suy giảm chung từ nam sang bắc và đông
sang tây của đa dạng C3 Y-STR đã được ghi nhận với sự đa dạng cao nhất ở
Đông Nam Á, nơi hỗ trợ một tuyến mở rộng về phía bắc của haplogroup C3 ở
Trung Quốc khoảng 32 đến 42 nghìn năm trước sử dụng phương pháp ASD với
tỷ lệ đột biến tiến hóa Y-STR trung bình là 0,00069 mỗi locus trong 25
năm [25] (Hình 2A). Sự xuất hiện của haplogroup C ở Đông Nam Á và Úc
phải sớm hơn nhiều so với thời điểm đó vào khoảng 60 nghìn năm trước. Do
đó, các quần thể có haplogroup C phải định cư ở Đông Á sớm hơn khoảng 10
nghìn năm so với những người có haplogroup O.
3
Hình 3: Thân của cây
đơn bội nhiễm sắc thể Y và người minh họa bằng các nhóm đơn bội có liên
quan. Màu nền của cây tương ứng với các vùng địa lý được đánh dấu trên
bản đồ thế giới. Kích thước của các nút bên dưới cây tương ứng với tần
số của các nhóm đơn bội ở Đông Á.
Di sản của người châu
Á da đen Paleolithic
Lịch sử di chuyển của
haplogroup D-M174 là bí ẩn nhất. Đến bây giờ, chúng ta biết rất ít về
nguồn gốc và sự phân tán của nhóm haplogroup này. Nhóm haplogroup này
được lấy từ haplogroup DE-M1 (chèn YAP) của châu Phi và được kết hợp với
một phong cách vật lý châu Á đen lùn. Haplogroups E và D là anh em
haplogroup. Trong khi haplogroup E được những người da đen cao lớn mang
về phía tây tới châu Phi, haplogroup D có thể đã được những người da đen
lùn mang theo về phía đông đến Đông Á (Hình 3).
Haplogroup D-M174 có
tần số cao ở Andaman Negritos, dân cư phía bắc Tibeto-Burman và Ainu của
Nhật Bản, và cũng xuất hiện với tần số thấp ở dân cư Đông và Đông Nam Á
và Trung Á khác (Hình 1) [20, 22, 30 , 31]. Một dân số phía bắc
Tibeto-Burman, Baima-Dee, bao gồm gần 100% haplogroup D. Có ba phân nhóm
chính của haplogroup D, đó là, D1-M15, D2-M55 và D3-P99, và nhiều tiểu
phần chưa được phân loại nhóm đơn bội. Haplogroup D1-M15 phổ biến ở
người Tây Tạng, Tangut-Chiang và Lolo, và cũng được tìm thấy ở tần số
rất thấp trong cộng đồng dân cư Đông Á lục địa [32, 33]. Haplogroup
D2-M55 bị giới hạn trong các quần thể khác nhau của Quần đảo Nhật Bản.
Haplogroup D3-P99 được tìm thấy ở tần số cao trong số những người Tây
Tạng và một số dân tộc thiểu số Tibeto-Burman ở các tỉnh Tứ Xuyên và Vân
Nam cư trú gần với người Tây Tạng, như Pumi và Naxi [32]. Paragroup D *
bị giới hạn ở Quần đảo Andaman [31], đã bị cô lập ít nhất 20 nghìn năm.
Một số nhóm đơn bội nhỏ khác, cũng được bao gồm trong D *, có thể được
tìm thấy trên khắp Tây Tạng. Hầu hết các quần thể có haplogroup D có màu
da rất tối, bao gồm cả người Andaman, một số người Tibeto-Burman và
Mon-Khmer. Người Ainu có thể đã phát triển làn da nhợt nhạt để hấp thụ
nhiều tia cực tím hơn ở các vùng vĩ độ cao.
Đối với nguồn gốc của
haplogroup D, Chandrasekar et al. cho rằng CT-M168 đã tạo ra sự chèn YAP
và đột biến D-M174 ở Nam Á dựa trên những phát hiện của họ về việc chèn
YAP ở các bộ lạc phía đông bắc Ấn Độ và D-M174 ở đảo Andaman [34]. Trong
trường hợp đó, haplogroup E có chèn YAP cũng có thể có nguồn gốc châu Á.
Tuy nhiên, giả thuyết này hiếm khi được hỗ trợ bởi bất kỳ bằng chứng
nào. Nếu haplogroup D có nguồn gốc từ Châu Phi, thì điều bí ẩn nhất là
nó đã đi qua các quần thể có haplogroups CF đến Đông Á như thế nào.
Một bí ẩn khác là làm
thế nào haplogroup D đã di cư từ Tây Nam Á đến tận Nhật Bản. Nó có thể
đã đi qua lục địa Đông Á hoặc qua Sundaland (Hình 2B). Tuyến đường đại
lục dường như ngắn hơn tuyến đường Sundaland. Shi et al. đã chứng minh
rằng sự mở rộng về phía bắc của D-M174 sang phía tây Trung Quốc có thể
có trước sự di cư của các dòng dõi Đông Á lớn khác vào khoảng 60 nghìn
năm trước bằng cách sử dụng phương pháp ước tính thời gian ASD với tỷ lệ
đột biến trung bình Y-STR là 0,00069 mỗi quỹ tích mỗi 25 năm. Sau đó,
những người dân ở biên giới này có thể đã đi về phía đông qua một tuyến
đường phía bắc qua Hàn Quốc hoặc qua một tuyến đường phía nam qua Đài
Loan và một cây cầu đất Ryukyu đến Nhật Bản, nơi họ có thể đã gặp những
người định cư kiểu Úc trước đó. Di tích hiện tại D-M174 ở Đông Á có lẽ
đã bị tách ra khỏi miền đông Trung Quốc bởi sự di cư về phía bắc của
haplogroup O và sự mở rộng thời kỳ đồ đá mới của người Hán [32]. Tuy
nhiên, chưa bao giờ có bất kỳ bằng chứng nào từ di truyền học hoặc khảo
cổ học cho thấy haplogroup D2 hoặc Negritos đã di cư sang miền đông
Trung Quốc. Ngược lại, vẫn còn nhiều quần thể Negrito ở Sundaland từ
Malaya đến Philippines. Có thể là Negritos đã chiếm toàn bộ Sundaland
vào cuối thời đại Cổ sinh. Do đó, những quần thể này có thể di chuyển
trực tiếp từ Philippines đến Đài Loan và Ryukyu. Vấn đề duy nhất là
không có haplogroup D nào được tìm thấy ở Negritos ở Philippines. Dòng
dõi họ của họ có thể đã được thay thế bằng việc mở rộng các nhóm
haplogroup C2 và K từ Papua khoảng 18 nghìn năm trước bằng phương pháp
ước tính thời gian BATWING [35] hoặc một cuộc di cư gần đây của
haplogroup O từ lục địa Đông Á [36]. Tuy nhiên, do thiếu dữ liệu, lịch
sử của haplogroup D, như một di sản của Thời đại Cổ sinh ở Đông Á, vẫn
còn là một bí ẩn.
Di dân gần đây đến và
đi từ Tây Bắc
Haplogroup O có một
người anh em haplogroup, N-M231, đạt tần suất cao nhất ở miền bắc Âu Á,
đặc biệt là trong số hầu hết dân số Uralic, bao gồm người Finnic, Ugric,
Samoyede và Yukaghir, cũng như một số dân Altaic và Eskimo ở miền bắc
Siberia. Nó cũng xuất hiện với tần suất thấp ở Đông Á (Hình 1) [30, 37].
Phân tích chi tiết của haplogroup N cho thấy sự mở rộng gần đây hơn trên
tuyến phía bắc ngược chiều kim đồng hồ từ nội địa Đông Á hoặc miền nam
Siberia khoảng 12 đến 14 nghìn năm trước bằng cách sử dụng phương pháp
ước tính thời gian ASD với tốc độ đột biến tiến hóa trung bình của Y-STR
là 0,00069 mỗi locus cứ sau 25 năm, điều này giải thích tần suất cao của
haplogroup N ở đông bắc châu Âu [37]. Subclade N1a-M128 được tìm thấy
với tần suất thấp trong các quần thể ở miền bắc Trung Quốc, như Manchu,
Xibe, Evenks và Hàn Quốc, và cả một số dân tộc Turkic ở Trung Á.
Haplogroup N1b-P43 có tuổi đời khoảng sáu đến tám nghìn năm sử dụng
phương pháp ước tính thời gian ASD với tỷ lệ đột biến tiến hóa Y-STR
trung bình là 0,00069 mỗi locus trong 25 năm và có lẽ bắt nguồn từ
Siberia. N1b phổ biến ở Bắc Samoyden, và cũng xảy ra ở tần số thấp đến
trung bình trong số một số người Uralic và Altaic khác [38, 39]. N1c-Tat
nổi lên thường xuyên nhất có lẽ ở Trung Quốc khoảng 14 nghìn năm trước
(phương pháp ASD với tỷ lệ đột biến 0,00069 mỗi locus mỗi 25 năm) và sau
đó đã trải qua một loạt các hiệu ứng sáng lập hoặc tắc nghẽn mạnh ở
Siberia và mở rộng thứ cấp ở Siberia và mở rộng thứ cấp ở Siberia Đông
Âu [37]. Những nghiên cứu này bắt nguồn từ nguồn gốc của haplogroup N
đến Tây Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Do đó, đó là một cuộc tuần hành
dài đối với những người đầu tiên với haplogroup N để đi qua lục địa từ
Đông Nam Á đến Bắc Âu.
Sự di cư của
haplogroup N là một bằng chứng khác cho nguồn gốc phía nam của người
Đông Á. Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu phản đối nguồn gốc miền Nam
của người Đông Á. Karafet và cộng sự. đã kiểm tra 52 Y-SNP ở 1.383 cá
nhân thuộc 25 dân số từ Đông Á và Trung Á. Họ đã tìm thấy sự khác biệt
trung bình theo cặp giữa các nhóm haplogroup nhỏ hơn đáng kể ở phía nam
Đông Á và không có sự khác biệt di truyền giữa miền nam và bắc Đông Á
[30]. Xue và cộng sự. đã áp dụng phân tích khả năng đầy đủ của Bayes cho
45 dữ liệu Y-SNP và 16 dữ liệu Y-STR từ 988 người thuộc 27 dân số từ
Trung Quốc, Mông Cổ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Họ báo cáo rằng các Y-STR có
sự đa dạng cao hơn ở các dân tộc phía đông Đông Á so với các dân số phía
nam. Quần thể phía bắc mở rộng sớm hơn dân số miền nam [40]. Tuy nhiên,
Shi et al. chỉ ra rằng sự đa dạng lớn hơn giữa các nhóm đơn bội nhiễm
sắc thể Y quan sát được ở phía bắc Đông Á được Karafet et al.is tuyên bố
thực sự là một ấn tượng sai lầm do sự pha trộn dân số gần đây. Nghiên
cứu của Xue et al.has một nhược điểm tương tự. Sự đa dạng gen lớn được
quan sát thấy ở người Mông Cổ, người Duy Ngô Nhĩ và người Mãn Châu có lẽ
là do sự kết hợp rộng rãi gần đây của họ với các dân tộc Trung Á, Tây Âu
và Hán Trung Quốc. Hơn nữa, các quần thể phía nam được nghiên cứu bởi
Xue et al. là không đủ và hiệu ứng thắt cổ chai trong dân số gây ra bởi
sự cô lập địa lý trong thời gian dài có thể có tác động lớn đến ước tính
đa dạng gen [32].
Cuộc tranh luận sau
đó tập trung vào cách diễn giải các thành phần di truyền liên quan đến
Trung Á và Tây Âu ở Đông Á. Zhong et al. đã lấy mẫu 3,826 nam từ 117
quần thể và thực hiện kiểu gen có độ phân giải cao để giải quyết vấn đề
này. Trong nghiên cứu của Zhong và cộng sự, các nhóm haplogroup O-M175,
C-M130, D-M174 và N-M231 vẫn cho thấy sự đóng góp đáng kể của tuyến
đường phía Nam. Tuy nhiên, các nhóm haplogroup liên quan đến Trung Á và
Tây Âu, chẳng hạn như haplogroups R-M207 và Q-M242, xảy ra chủ yếu ở Tây
Bắc Đông Á và tần số của chúng giảm dần từ tây sang đông. Ngoài ra, sự
đa dạng Y-STR của các nhóm haplogroup R-M207 và Q-M242 cũng cho thấy sự
tồn tại của di chuyển tuyến phía bắc khoảng 18.000 năm trước (phương
pháp ASD với tỷ lệ đột biến 0,00069 mỗi locus trong 25 năm) từ Trung Á
đến Bắc Á và một hỗn hợp dân số gần đây dọc theo Con đường tơ lụa từ
khoảng 3.000 năm trước [16].
Ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc
ngôn ngữ cha
Các mô hình di truyền
trong xã hội loài người thường bị ảnh hưởng bởi các thực hành văn hóa
của họ, chẳng hạn như mô hình cư trú và chiến lược sinh hoạt. Nhiễm sắc
thể Y của dân số Đông Á đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ghi
nhận những ảnh hưởng đó; ví dụ, mối quan hệ giữa các quần thể patrilocal
nên có mối liên hệ mạnh mẽ hơn với nhiễm sắc thể Y so với mtDNA. Các
ngôn ngữ Đông Á cho thấy mối liên hệ chặt chẽ với các dòng họ của nhiễm
sắc thể Y [18, 23, 25, 41, 42] và toàn bộ bộ gen [43], nhưng không phải
là dòng dõi mẹ của mtDNA. Nhiễm sắc thể Y haplogroup O3-M134 được liên
kết với người nói tiếng Trung-Tây Tạng [18, 41]; O2-M95 được liên kết
với các loa Austro-Asiatic [42]. Hơn nữa, cấu trúc phát sinh gen trong
các họ ngôn ngữ cũng được hỗ trợ bởi nhiễm sắc thể Y nhưng không phải do
sự đa dạng về bộ gen; ví dụ, mối quan hệ ngôn ngữ giữa các ngôn ngữ
H’mong-Mien và Austro-Asiatic đã được chứng minh bằng dấu hiệu nhiễm sắc
thể Y O3-M7 [23] và giữa ngôn ngữ Tai-Kadai và Austronesian bởi O1-M119
[44].
Một chủ đề thú vị
khác là về sự mở rộng ngôn ngữ và các kiểu phân bố nhiễm sắc thể Y, đó
là, liệu các ngôn ngữ hiện đại có trải qua hiệu ứng sáng lập nối tiếp
trong quá trình mở rộng của chúng hay không. Atkinson báo cáo xu hướng
giảm đa dạng âm vị (chất lượng nguyên âm, âm và phụ âm) từ Châu Phi cho
thấy cuộc di cư của các ngôn ngữ hiện đại châu Phi [45]. Tuy nhiên, giả
thuyết này không được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà ngôn ngữ học. Wang
et al.argued rằng yêu cầu của Atkinson, chỉ được hỗ trợ khi sự đa dạng
về ngữ âm được chia thành ba hoặc năm cấp độ. Các phân tích sử dụng dữ
liệu thô mà không đơn giản hóa cho thấy sự suy giảm từ Trung Á thay vì
từ Châu Phi [46], mặc dù kết quả này có thể không phải là từ cuối cùng
về nguồn gốc và mở rộng ngôn ngữ [47]. Mô hình phân phối của sự đa dạng
âm vị có thể không phản ánh nguồn gốc ban đầu của người hiện đại, nhưng
có lẽ chỉ ra sự mở rộng thứ cấp của người hiện đại ở trung nam châu Á.
Sự mở rộng châu Á cũng được hỗ trợ bởi bằng chứng nhiễm sắc thể Y. Cây
phát sinh nhiễm sắc thể Y nhiễm sắc thể có gốc châu Phi, nhưng chỉ có
nhóm đơn bội A và B là loại thổ dân châu Phi, nghĩa là hai nhóm đơn bội
này có lẽ chưa bao giờ rời khỏi châu Phi. Tất cả các nhóm haplog khác,
tất cả trong CF và DE, bắt nguồn từ một loại cổ xưa với một điểm đánh
dấu M168 ở châu Phi khoảng 50 đến 70 nghìn năm trước. Chúng có thể đã mở
rộng từ Tây Á khoảng 30 đến 40 nghìn năm trước và sinh ra tất cả các
nhóm đơn bội từ C đến T [3]. Do đó, nhóm haplogroup có tần suất cao nhất
ở châu Phi, haplogroup E, có lẽ cũng đến từ sự mở rộng châu Á. Ở Châu
Phi, Haplogroup A chủ yếu ở các dân tộc Khoisan và Sahara, và haplogroup
B chủ yếu ở Pygmies và các quần thể khác quanh Congo. Dòng dõi của các
quần thể lớn ở Châu Phi, đôi khi được gọi là người Bantu hoặc người
Nigeria-Congo, sau đó có lẽ đã trở về từ Châu Á. Việc di chuyển ngược
của DE-M1 (chèn YAP) từ Châu Á sang Châu Phi đã được đề xuất bởi
Altheide và Hammer [48] và Hammer và cộng sự [49, 50]; tuy nhiên, điều
này đã được đặt câu hỏi bởi Underhill và cộng sự [51] và Underhill và
Roseman [52]. Tuy nhiên, tần số cao của haplogroup R1-M173 ở Cameroon
cũng hỗ trợ cho việc di chuyển ngược từ châu Á đến châu Phi cận Sahara
[53].
Sự kết hợp giữa các
ngôn ngữ và nhiễm sắc thể Y, nhưng không phải là mtDNA, có thể phản ánh
sự di cư lệch lạc giới tính do tính gia trưởng. Patrilocality đề cập đến
hệ thống xã hội trong đó một cặp vợ chồng sống cùng hoặc gần cha mẹ
chồng. Forster et al. cho rằng nó thường có thể là ngôn ngữ của người
cha chiếm ưu thế trong nhóm gia đình nếu cha mẹ có nền tảng ngôn ngữ
khác nhau [54]. Tuy nhiên, vì toàn bộ sự đa dạng về bộ gen cũng liên
quan đến các gia đình ngôn ngữ, cả dòng họ và dòng họ phải được giữ tốt
kể từ khi các gia đình ngôn ngữ xuất hiện. Do đó, việc mất liên kết giữa
mtDNA và ngôn ngữ có thể không được giải thích đơn giản bởi bản chất xã
hội của việc nhận nuôi phụ nữ. Có thể có quy mô dân số hiệu quả cao hơn
ở dân số cổ đại so với nam giới do các hoạt động săn bắn và chiến tranh
thường xuyên, và do đó, biến thể mtDNA ban đầu của một nhóm ngôn ngữ ít
bị ảnh hưởng bởi sự trôi dạt di truyền. Các cách giải thích khác cũng có
thể có thể, chẳng hạn như con đực ưu tiên (được thảo luận dưới đây), số
con cái, tỷ lệ đột biến khác nhau, v.v.
Các thực hành văn hóa
khác, như nông nghiệp, quân sự hoặc uy tín xã hội, cũng có thể có tác
động đến các kiểu di truyền. Sự lan truyền của văn hóa được giải thích
bằng hai kịch bản nhân khẩu học thay thế: mô hình khuếch tán demic, liên
quan đến sự di chuyển hàng loạt của người dân; và mô hình khuếch tán văn
hóa, trong đó đề cập đến sự chuyển động của các ý tưởng và thực tiễn hơn
là con người và liên quan đến trao đổi di truyền hạn chế giữa mọi người
[55]. Ví dụ, Wen và cộng sự. đã phân tích mô hình di truyền của nhiễm
sắc thể Y và biến thể mtDNA ở 28 quần thể người Hán. Theo dữ liệu của
họ, miền bắc và miền nam Hans có chung tần số nhiễm sắc thể Y nhiễm sắc
thể tương tự nhưng thể hiện sự khác biệt nhiều hơn trong dòng dõi mtDNA
của họ. Các phong trào đáng kể của những người nhập cư phía bắc chạy
trốn khỏi chiến tranh và nạn đói đã dẫn đến sự chuyển đổi trong cấu trúc
di truyền ở miền nam Trung Quốc. Họ kết luận rằng mô hình mở rộng nhân
khẩu học của người Hán và sự khuếch tán về phía nam của văn hóa Hán phù
hợp với mô hình khuếch tán ma quỷ, và nam giới đóng vai trò lớn hơn nữ
giới trong bản mở rộng này [41].
Nhiễm sắc thể Y của
những người nổi tiếng trong lịch sử
Mở rộng dân số cũng
có thể được liên kết với uy tín xã hội cụ thể, ví dụ, sự tăng cường sinh
sản như trong trường hợp Thành Cát Tư Hãn. Thành Cát Tư Hãn (1162 đến
1227) đã thành lập đế chế tiếp giáp lớn nhất trong lịch sử. Anh ta và
những người họ hàng yêu thương của mình có rất nhiều đứa con do địa vị
xã hội cao, dẫn đến sự gia tăng tần suất của dòng dõi Y của họ. Do đó,
nhiễm sắc thể Y của anh ta (C3 * xC3c, cụm sao) lan rộng từ Thái Bình
Dương đến Biển Caspi và chiếm khoảng 0,5% dân số nam giới thế giới ngày
nay [56]. Điều thú vị là, bộ lạc Kereys ở Kazakhstan đạt tần số cao nhất
(76,5%) trong số các nhiễm sắc thể Y cụm sao C3 * [57]. Không chắc rằng
cụm sao C3 * ở Kereys được quy cho Thành Cát Tư Hãn, nghi ngờ nguồn gốc
của C3 * trong gia đình Thành Cát Tư Hãn. Tuy nhiên, lựa chọn xã hội
đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng cụm sao C3 * này. Tương
tự, nhiễm sắc thể Y haplogroup C3c-M48 được đề xuất để truyền bá bởi nhà
Thanh (1644 đến 1912) quý tộc Mãn Châu, bao gồm khoảng 3,3% nam giới
được lấy mẫu từ Đông Á [58].
Tương tự như nghiên
cứu về dòng dõi Thành Cát Tư Hãn, nhiễm sắc thể Y có thể được sử dụng để
nghiên cứu những người nổi tiếng trong lịch sử. Hầu hết mọi người bây
giờ thừa hưởng họ của cha họ; và tương tự, hầu hết đàn ông cũng thừa
hưởng nhiễm sắc thể Y từ cha của họ. Do đó, những người đàn ông có cùng
họ được dự kiến sẽ có nhiễm sắc thể Y tương tự. Kết hợp với nghiên cứu
các bản ghi gốc, nghiên cứu nhiễm sắc thể Y có thể tiết lộ mối quan hệ
của các cá nhân trong lịch sử cổ đại [59]. Wang và cộng sự. thu thập một
số gia tộc hiện tại với đầy đủ hồ sơ từ 70 đến 100 thế hệ được cho là
hậu duệ của Hoàng đế nổi tiếng Trung Quốc Cao Cao hoặc Hầu tước Cao Can,
và xác nhận các hồ sơ bằng cách so sánh các nhiễm sắc thể Y. Kiểu hình
nhiễm sắc thể Y của con cháu của Hoàng đế Cao Cao (O2-M268) khác với
kiểu của Hầu tước Cao Can (O3-002611). Do đó, Cao Cao Lôi tuyên bố về tổ
tiên quý tộc từ Cao Cần, vốn đã bị nghi ngờ trong gần 1.800 năm, do đó,
không được hỗ trợ bởi bằng chứng di truyền [60]. DNA cổ được chiết xuất
từ một chiếc răng của ông chú Cao Cao, cũng ủng hộ kết luận rút ra từ
nhiễm sắc thể Y hiện tại rằng nhóm đơn bội của Hoàng đế Cao là O2 *
-M268. Hoàng đế Cao cha có lẽ được nhận nuôi từ chính ông nội của mình,
chứ không phải từ người ăn xin [61].
Việc ứng dụng di
truyền học vào các nghiên cứu về lịch sử cổ đại sẽ tiếp tục phát triển.
Ví dụ, trong phả hệ, sẽ rất hữu ích khi điều tra các liên kết di truyền
giữa các dòng họ có cùng họ để thiết lập các hồ sơ còn thiếu của thân
cây gia đình [62]. Các rễ sâu cũng có giá trị lớn để nghiên cứu sự tiến
hóa nhiễm sắc thể Y. Xue và cộng sự đã đưa ra nhiễm sắc thể Y của hai cá
thể cách nhau 13 thế hệ và ước tính tỷ lệ đột biến thay thế cơ sở nhiễm
sắc thể Y ở người là 3.0 × 10-8mutations / nucleotide / thế hệ [63]. Phả
hệ sâu hơn sẽ là vật liệu tốt hơn để ước tính chính xác hơn.
Kết luận
Nhiễm sắc thể Y đóng
một vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ lịch sử vướng mắc của dân
số loài người hiện đại ở Đông Á. Mặc dù nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải
quyết, một khuôn khổ rõ ràng về tiền sử đã thu được. Bốn nhóm nhiễm sắc
thể Y, C, D, O và N, chiếm hơn 90% số nhiễm sắc thể Y Đông Á, được đề
xuất có nguồn gốc Đông Nam Á, được thực hiện bởi ba đợt di cư. Sự phân
bố của các nhóm nhiễm sắc thể Y đặc trưng của Tây Âu Á E, G, H, I, J, L,
Q, R và T ở tây bắc Trung Quốc phản ánh các dòng gen gần đây từ phía tây
và di chuyển tuyến phía bắc có thể xảy ra. Một sự suy giảm từ tây sang
đông của các nhóm đơn bội phía tây này đã được quan sát rõ ràng.
Tuy nhiên, nghiên cứu
nhiễm sắc thể Y hiện tại ở Đông Á bị hạn chế ở hai khía cạnh quan trọng.
Giới hạn đầu tiên là độ phân giải kém đối với các nhánh nhiễm sắc thể Y
đặc trưng của Đông Á, chẳng hạn như haplogroup O-M175. Mặc dù có số
lượng lớn haplogroup O, nhưng có ít điểm đánh dấu được xác định trong
haplogroup O hơn ở haplogroups R và E. Ví dụ, ba điểm đánh dấu Y-SNP,
002611, M134 và M117, đại diện cho khoảng 260 triệu người ở Đông Á,
nhưng ở hạ lưu các dấu hiệu là đủ xa để tiết lộ cấu trúc di truyền thông
tin của các quần thể đó. Giới hạn thứ hai là ước tính không chính xác về
dòng dõi và thời gian phân kỳ dân số như đã đề cập ở đầu.
Sự ra đời của công
nghệ giải trình tự thế hệ tiếp theo đã giúp tạo ra toàn bộ nhiễm sắc thể
Y ở nhiều cá thể người và trong phả hệ rễ sâu. Chẳng hạn, Hiệp hội dự án
1000 bộ gen đã giải trình tự các nhiễm sắc thể Y ở độ sâu trung bình
1,83 ở 77 nam trong dự án có độ bao phủ thấp và 15,23 trong hai bộ ba
cha [64]. Giải trình tự sâu hơn nữa sẽ đưa ra một giải pháp cho cả độ
phân giải phát sinh nhiễm sắc thể Y và hiệu chuẩn chính xác của đồng hồ
phân tử trong các nghiên cứu tiến hóa.
Chia sẻ:
TwitterFacebook
Liên quan
Phải chăng Di Truyền
Học bất lực trước việc khám phá lịch sử cư dân Đông Á
In "Lịch sử Việt
Nam"
Góp một cách nhìn về
lịch sử Nhật Bản
In "Lịch sử phương
Đông"
Không có cái gọi là
"Từ Hán Việt"
In "Kho tàng văn hóa"
3 thoughts on “Mấy ý
kiến về hai nghiên cứu Gen Việt Nam mới công bố”
fthinh nói:
Tháng Bảy 23, 2019
lúc 12:45 sáng
Về mặt ngôn ngữ,
trước đến nay các học jả luôn gán ghép tiếng Việt vốn thuộc ngữ hệ Thái,
Tày & Môn, Kh’mer. Với những nghiên cứu mới này có thể thay đổi wan điểm
đó như thế này không? “tiếng Việt vốn là gốc chủ của các hệ ngôn ngữ
Thái, Tày & Môn, Kh’mer không. Đó vốn không fải là ý kiến của tôi, mà là
từ các nhà nghiên cứu thuộc Hùng Việt sử wán.
Phản hồi
Phong Lâu nói:
Tháng Bảy 23, 2019
lúc 7:44 sáng
Tôi có xem qua
“Inferring human history in East Asia from Y chromosomes” của Chuan-Chao
Wang và Hui Li.
Đoạn viết liên quan
đến Tào Tháo, có lẽ nên dịch là:
Wang và cộng sự đã
thu thập hồ sơ đầy đủ của một số gia tộc hiện nay với 70-100 thế hệ tự
xưng là hậu duệ của Vũ đế (*1) Tào Tháo hoặc Thừa tướng Tào Tham (*2),
và xác nhận các hồ sơ bằng cách so sánh các nhiễm sắc thể Y. Kiểu gen
đơn bội nhiễm sắc thể Y của con cháu Vũ đế Tào Tháo (O2-M268) khác với
kiểu của Thừa tướng Tào Tham (O3-002611). Vì vậy, tuyên bố của Tào Tháo
về tổ tiên dòng dõi quý tộc từ Tào Tham, vốn đã bị nghi ngờ trong 1.800
năm, không được hỗ trợ bởi chứng cứ di truyền học [60]. DNA cổ được
chiết xuất từ một chiếc răng của ông nội chú (thúc tổ phụ) Tào Tháo
(*3), cũng ủng hộ kết luận rút ra từ nhiễm sắc thể Y hiện tại rằng nhóm
đơn bội của Vũ đế Tháo là O2*-M268. Cha của Vũ đế Tháo rất có thể được
nhận nuôi từ chính người gia tộc của ông nội mình hơn là từ một người
xin con nuôi [61].
[*1, 2, 3 là các chú
thích kèm theo của Phong Lâu]
Nguyên văn:
Wang et al. collected
some present clans with full records of 70 to 100 generations claimed to
be descendants of the famous Chinese Emperor CaoCao or Marquis Cao Can,
and validated the records by comparing the Y chromosomes. The Y
chromosome haplotype of the descendants of Emperor CaoCao (O2-M268) is
different from that of the Marquis Cao Can (O3-002611). Therefore, Cao
Cao’s claim of aristocratic ancestry from Cao Can, which has been
doubted for almost 1,800 years is, therefore, not supported by genetic
evidence[60]. Ancient DNA extracted from a tooth of Cao Cao’s
grand-uncle also supported the conclusion drawn from the present Y
chromosomes that the haplogroup of Emperor Cao was O2*-M268. Emperor
Cao’s father was most probably adopted from his grandfather’s own clan
rather than from beggardom[61].
—————————
Chú thích:
*1/ Sinh thời, Tào
Tháo (Cao Cao/曹操)
chưa xưng đế; nếu dịch sang Anh ngữ thành “Emperor Cao Cao” là không ổn.
Tào Tháo được con trai truy tôn là Thái Tổ Vũ Hoàng đế (太祖武皇帝),
chuyển sang Anh ngữ, có thể là “Emperor Wu of Wei” hoặc “Emperor Wu”.
*2/ Nguyên trong văn
bản ghi là “Marquis Cao Can”, tôi cho rằng các tác giả Trung quốc chuyển
ngữ như vậy là chưa chẩn xác. Cao Can (Cao Shen/Tào Tham/曹參)
kế nhiệm Tiêu Hà, làm Thừa tướng triều Hán Huệ đế; chức Thừa tướng
chuyển sang Anh ngữ thì tương đương với “Chancellor of State”.
*3/ Chiếc răng của
Tào Đỉnh (Cao Ding/曹鼎)
tìm thấy ở mộ Nguyên Bảo Lăng số I (Yuanbaokeng (YBK) Tomb I), tỉnh An
Huy (tức thuộc huyện Tiều [Qiao] thời nhà Hán); chiếc răng này sau được
lưu giữ tại Viện Bảo tàng Hào Châu, tỉnh An Huy.
(Wang CC, Yan S, Yao
C, Huang XY, Ao X, Wang Z, Han S, Jin L, Li H: Ancient DNA of Emperor
CAO Cao’s granduncle matches those of his present descendants: a
commentary on present Y chromosomes reveal the ancestry of Emperor CAO
Cao of 1800 years ago. Journal Of Human Genetics. 2013,
https://doi.org/10.1038/jhg.2013.5)
Tào Đỉnh là em của
Tào Đằng; hoạn quan Tào Đằng là cha nuôi của Tào Tung; Tào Tung là cha
của Tào Tháo.
CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia.
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *