US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Đọc sách Việt Nam 1945-1995 của Lê Xuân Khoa
Mấy vấn đề cần trao đổi
Chu Sơn
Một người bạn thân thiết : anh TĐTL từ Mỹ về, đến thăm và cho tôi mượn cuốn sách có tựa đề : Việt Nam 1945-1995 (VN1945-1995), tác giả là Lê Xuân Khoa (LXK), sách do Tiên Rồng xuất bản năm 2004.
Ghi nhận sơ khởi của tôi khi lướt qua b́a bao : chắc là tác giả Lê Xuân Khoa viết về đại cương các mặt hoạt động của đất nước, xă hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Gọn hơn : Lịch sử Việt Nam 1945-1995.
Ở b́a 1, ngoài tên sách, tên tác giả, tên nhà xuất bản như đă ghi ở b́a bao, c̣n có thêm :Chiến tranh, Tị nạn và Bài học lịch sử, tập I.
Ghi nhận tiếp theo của tôi là : sách Việt Nam 1945-1995 là một bộ nhiều tập, đây là tập I. Tập này Lê Xuân Khoa viết về hai chủ đề chính : Chiến tranh và Tị nạn. Sau phần nghiên cứu, tác giả viết thêm phần Bài học lịch sử.
Lật vào b́a 2, ngoài phần giới thiệu tŕnh bày như ở b́a 1, nội dung cuốn sách được thu hẹp lại, chỉ c̣n : Tị nạn 1954 và Bài học Bốn Cuộc chiến (1945-1979).
Đến đây tôi tự hỏi :
– Tại sao ngay từ đầu Lê Xuân Khoa không đặt tên cho công tŕnh nghiên cứu của ông đại loại : Lịch sử tị nạn ở Việt Nam từ 1945 đến 1995, và Bài học Bốn cuộc chiến – để danh được chính và ngôn được thuận ?
Lại nữa, chưa có một nghiên cứu đầy đủ về các cuộc chiến tranh mà viết Bài học lịch sử, liệu có khách quan, chính xác và trung thực như tuyên bố của tác giả ở Lời Mở Đầu của cuốn sách (tập I) không ?
Tôi quyết định xếp sách vào tủ đợi trả lại cho anh bạn.
Một người quen khác, ông Trần Hân, nguyên là bí thư thành ủy Huế thời 1954-1955, người tử tù về từ Côn Đảo, trong một buổi tiếp xúc để t́m hiểu về phong trào Ḥa B́nh tại Huế sau hiệp định Genève, khi được hỏi về “ Người Quốc Gia ” cũng đề nghị tôi t́m đọcViệt Nam 1945-1995 của Lê Xuân Khoa. Ông Trần Hân nói : “ Tôi là người trong cuộc, đứng một bên chiến tuyến, lại là đối tượng trực tiếp của sách lược Tố cộng, Diệt cộng đẫm máu, khốc liệt của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, 20 năm sống dở, chết dở ở các địa ngục trần gian : Trại thẩm vấn, Thừa Phủ, Chín Hầm, Côn Đảo, sẽ không có một giải đáp thích hợp cho câu hỏi của anh. Lê Xuân Khoa là Người Quốc Gia trăm phần trăm, hơn nữa, ông là Người Quốc Gia khoa bảng, một nhà giáo chuyên nghiệp. Anh hăy xem ông ta nghĩ ǵ, viết ǵ về chiến tranh và đặc biệt về phe Quốc Gia, mà ông ta là một thành viên ”.
Thế là hai người thân quen với tôi có hai quan điểm dị biệt về các cuộc chiến tranh xảy ra trên đất nước trong nửa sau thế kỷ XX đều muốn tôi đọc cùng một cuốn sách. Dĩ nhiên cả hai đều muốn tôi chia sẻ cái nh́n của họ về lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Sự tự tín của họ khiến tôi ṭ ṃ, mặc dầu đă một lần dứt khoát không đọc, nhưng rồi lại thay đổi quyết định : thử làm tên mù sờ voi, xem Lê Xuân Khoa là ai, ông đă viết ǵ trong cuốn Việt Nam 1945 – 1995 ?
Mở sách Việt Nam 1945-1995 tập I, truy cập thông tin trên mạng (VIETBANG.COM) tôi có được một tiểu sử sau đây :
1/ Lê Xuân Khoa sinh trưởng ở miền Bắc (Hà Nội ?).
2/ Lê Xuân Khoa là một nhà giáo chuyên nghiệp và khoa bảng tại Việt Nam trước 1975 :
– 1950 dạy học ở Hà Nội.
– 1953 tốt nghiệp Văn khoa và Sư phạm.
– 1954 di cư vào Nam, dạy Trung học, viết sách giáo khoa cho Trung Tâm học liệu thuộc bộ Giáo dục (Việt Nam Cộng Ḥa).
– 1960 du học Pháp, ghi danh tiến sĩ ở Đại học Sorbonne, đến Ấn Độ nhiều lần để nghiên cứu về triết học.
– Trở lại Sài G̣n dạy Triết ở Đại học Văn Khoa, dạy Văn minh Việt Nam ở các đại học : Đà Lạt, Minh Đức, Vạn Hạnh.
– Trở thành viện phó Viện Đại Học Sài G̣n.
3/ Lê Xuân Khoa c̣n là người hoạt động chính trị trong một thời gian dài :
– 1975 di tản sang Mỹ. Là chủ tịch Tác vụ Đông Nam Á chuyên về Tị nạn. Được phụ tá ngoại trưởng Mỹ Funselth tuyên dương về những đóng góp tích cực trong công tác tị nạn và thỏa hiệp Mỹ – Việt về vấn đề định cư của tù nhân chính trị.
– 1993 được bộ Ngoại giao Mỹ mời tham gia phái đoàn dự hội nghị của Ủy hội về An ninh và Hợp tác châu Âu.
4/ Phần cuối cuộc đời, ông trở lại nghề dạy học và viết sách :
– 1997 là giáo sư thỉnh giảng và học giả ngoại trú tại trường Cao học Johns Hopkins ở Washington DC (Hoa Kỳ) về nghiên cứu Quan hệ Quốc tế và Chính sách Quốc tế .
– Sau đó, Lê Xuân Khoa dành hết thời gian cho nghiên cứu và viết sách. Việt Nam 1945-1995 là một trong những công tŕnh của ông.
*
Việt Nam 1945-1995, tập I, dày 568 trang, ngoài Mục lục, Lời cám ơn, Bảng chữ tắt, Lời Mở Đầu in ở đầu sách, Lời kết, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Danh mục in ở cuối sách, sách chia làm 3 phần 10 chương :
Phần I gồm 3 chương có tựa đề : Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn (tr 31 – 158).
Phần II gồm 3 chương có tựa đề : Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954 (tr 159 – 270)
Phần III gồm 4 chương có tựa đề : Nội Chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm ? (tr 271 – 484).
Ở Lời Cám ơn và lời Mở đầu, Lê Xuân Khoa cho biết là ông đă dành nhiều thiện chí, tâm huyết và công sức để chuẩn bị, nghiên cứu, hoàn thành công tŕnh. Những tư liệu, sự kiện, thông tin (ông chọn lựa : Chu Sơn), b́nh luận trong sách là chân thật, khách quan...
“ Có thể góp phần đáng kể cho những cuộc thảo luận về các quan hệ giữa cộng đồng người Việt ở hải ngoại và chính quyền trong nước ” (LXK sđd tr 24).
Ông c̣n nói thêm là tài liệu, thời gian để tiến hành nghiên cứu và thực hiện cuốn sách là không hạn chế. Ông được các thư viện, trung tâm tư liệu lớn ở Mỹ, ở Pháp, nhiều giáo sư tiến sĩ, học giả, giám đốc công ty, bạn bè giúp đỡ, tạo điều kiện.
Với nhân thân, hành trạng, tâm huyết, công sức và đặc biệt thiện chí, tấm ḷng vô tư của tác giả đối với lịch sử, hiện tại, tương lai của đất nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại như vậy là đáng trân trọng, khả tín (LXK sđd trang 24, 27). Điều đáng kinh ngạc là Lê Xuân Khoa không hề sử dụng nguồn tư liệu sống mênh mông là những « người Việt Nam Quốc Gia » đang ở chung quanh ông, và những « người Việt Nam Cộng Sản » cùng đại đa số quần chúng nhân dân đang ở trong nước với hằng hà sa số những tài liệu được làm nên từ họ (sách, báo, thơ, nhạc, họa).
Ở phần III, trang dẫn nhập (271), Lê Xuân Khoa viết :
“ … Bởi vậy, t́m hiểu nguyên nhân của Tị nạn 1975 cũng là t́m hiểu nguyên nhân đưa đến chiến tranh và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Ḥa ”.
Ở chương 6 (phần II) trang 239, Lê Xuân Khoa viết :
“ Căn cứ vào hai định nghĩa này (tác giả trích dẫn ở trang 239) dân di cư từ Bắc vào Nam 1954 chính là người tị nạn ”.
Từ luận điểm và nhận định đó, Lê Xuân Khoa từng bước dẫn dắt người đọc sách của ông đến kết luận : Tị nạn là tị nạn Cộng sản, do vậy nguyên nhân đưa đến chiến tranh chủ yếu cũng là Cộng sản, Cộng sản Quốc tế (Liên Xô, Trung Quốc) và Cộng sản Việt Nam. C̣n Trung Hoa Quốc Gia, Pháp, Mỹ… chỉ là Những Yếu Tố Bên Ngoài, nếu có là “ Nguyên nhân gốc ”, cũng chỉ là “ Nguyên nhân gốc ” loại hai.
Bởi, theo Lê Xuân Khoa :
“ Không cần tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp – để rồi dù chỉ có chiến thắng cũng phải trả một giá quá đắt – v́ chỉ trong ṿng mấy năm sau Thế chiến thứ II các xứ thuộc địa trên thế giới, trừ một số nước ở Nam Phi, đều được trả độc lập mà không cần có chiến tranh ” (LXK sđd trang 193).
Lư giải và kết luận như trên là sợi chỉ xanh ngoắt ngoéo, gấp găy để Lê Xuân Khoa xây đắp, chắp vá thành nền móng, khung sườn, tường mái và chất dính cho công tŕnh của ông. (Thuật ngữ “ sợi chỉ xanh ngoắt ngoéo, gấp găy ” dùng ở đây để đối xứng với thuật ngữ : “ Sợi chỉ đỏ xuyên suốt ” mà đảng Cộng Sản Việt Nam thường dùng đă quấy rối thính giác và đời sống của quần chúng Việt Nam suốt hàng chục năm liền từ sau 1975).
*
Lần theo sợi chỉ xanh ngoắt ngoéo, gấp găy :
Ở phần I : Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn, Lê Xuân Khoa không nói rơ là tị nạn 1954 hay tị nạn 1975. Chắc là ông muốn nói đến gốc rễ của hai cuộc tị nạn. Ông đă tŕnh bày theo thứ tự ưu tiên 1, 2, 3. Hai trong ba là Cộng sản. Cộng sản là “ nguyên nhân gốc ” thứ nhất – độc giả có thể hiểu là nguyên nhân đầu, nguyên nhân sâu xa. Cộng sản cũng là “ nguyên nhân gốc ” thứ ba – độc giả cũng có thể hiểu là nguyên nhân cuối cùng, nguyên nhân gần. Gom cả hai “ nguyên nhân gốc ” (1) và (3) lại thành nguyên nhân nội sinh, chủ yếu. “ Nguyên nhân gốc ” thứ hai tác giả gọi là : Những Yếu Tố Bên Ngoài – độc giả có thể hiểu là nguyên nhân thứ yếu. Từ tên gọi : Những Yếu Tố Bên Ngoài, đến thứ tự ưu tiên được sắp xếp (thứ hai), đến kết luận : “ không cần tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp ” …, Lê Xuân Khoa muốn độc giả hiểu thêm rằng : Nếu không có Cộng Sản th́ sẽ không có cuộc chiến tranh chống Pháp, không có hiệp định Genève, không có chia cắt đất nước, không có tị nạn 1954, không có chiến tranh chống Mỹ, và tất nhiên không có tị nạn 1975, không có chiến tranh với Trung Quốc ở biên giới phía Bắc và với Khơ Me Đỏ ở biên giới phía Nam (1979), không có suy sụp đất nước… không có lệ thuộc ngoại bang (Liên Xô, và đặc biệt Trung Quốc).
Mặc dù đặt tên cho phần II của cuốn sách là Chiến Tranh Chống Pháp và Tị Nạn 1954, nhưng Lê Xuân Khoa không nghiên cứu đầy đủ cuộc chiến tranh này, ông chỉ khai thác một số sự kiện có liên quan đến cuộc chiến tranh làm chất liệu cho nội dung ông cần đề cập là chia cắt đất nước và tị nạn 1954, với mục đích quy kết mọi trách nhiệm cho Cộng Sản. Không nghiên cứu đầy đủ chiến tranh, nhưng Bài học chiến tranh th́ ông tỏ ra nhiệt t́nh vượt mức. Không những ông dành cho hai phía người Việt : Quốc Gia – Cộng Sản những chỉ dẫn mà ông cho là sâu sắc, trung thực, ông c̣n dành cho Pháp lẫn Hoa Kỳ những hiểu biết cần thiết cho tương lai mà ông gọi là bài học lịch sử. Có điều đối với Liên Xô và Trung Quốc, ông không có bài học nào cho chúng cả.
Viết về hiệp định Genève, nhưng chủ yếu ông viết về những áp lực, phản bội của Liên Xô, Trung Quốc đối với Hồ Chí Minh và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Đặc biệt ông quá ngưỡng mộ về những thắng lợi của Pháp với biệt tài đàm phán của Mendès-France. Ông cho rằng nhờ hiệp định Genève nên Pháp đă rút khỏi Việt Nam trong thắng lợi mặc dầu đă thua trận ở Điện Biên Phủ.
Viết về Di tản và Tị nạn 1954, Lê Xuân Khoa không đồng t́nh với từ Di tản sau chiến tranh của Liên Hiệp Quốc, ông chứng minh với những chứng từ, tư liệu – phần đông những chứng từ, tư liệu này ông lấy từ những sách báo của các tác giả cánh hữu và các Thừa sai người ngoại quốc để cáo buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă vi phạm hiệp định Genève. Ông khẳng định việc ra đi của gần một triệu người từ Bắc vào Nam sau tháng 7-1954 là Tị nạn Cộng Sản.
Nội Chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm là chủ đề phần III của cuốn sách. Ở phần này Lê Xuân Khoa tŕnh bày nhận định của ông về bản chất cuộc chiến tại Việt Nam từ 1954 đến 1975. Chừng mực nào đó ông không đồng t́nh với tên gọi của các phe lâm chiến
– Mỹ th́ gọi là Chiến tranh Việt Nam (của Mỹ – Chu Sơn).
– Việt Nam Cộng Ḥa th́ gọi là chiến tranh chống Cộng Sản xâm lược.
– Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa th́ gọi là chiến tranh chống Mỹ xâm lược và Ngụy tay sai (Mỹ – Ngụy) tại miền Nam.
– Lê Xuân Khoa th́ gọi là Nội Chiến và Chiến Tranh Ủy Nhiệm. Ông không cho biết Liên Xô và Trung Quốc gọi cuộc chiến tranh này là ǵ, mặc dù, theo ông, hai nước này ủy nhiệm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đánh Mỹ và phe Tư bản v́ lợi ích của mỗi nước.
Cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975 kết thúc, theo Lê Xuân Khoa là Mỹ rút quân, Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa thắng nhưng với cái giá quá đắt…
Ông cũng không cho biết mục tiêu ủy nhiệm của hai nước Liên Xô, Trung Quốc là ǵ, có đạt được hay không khi ủy nhiệm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ?
Điều đặc biệt là Lê Xuân Khoa không nói ǵ đến công cuộc thống nhất đất nước và xây dựng Xă hội Chủ nghĩa sau 1975.
Cuối cùng, cũng như “ Chiến Tranh Chống Pháp ”, Lê Xuân Khoa đă chỉ cho các phe lâm chiến : Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Sản và Việt Nam Quốc Gia những sai lầm cơ bản, đồng thời ông cũng nhắn nhủ các bên những bài học cần ghi nhớ. Đối với Liên Xô và Trung Quốc, một bên ủy nhiệm, ông không chỉ dẫn cho chúng bài học nào.
Đặc biệt ở lời kết, Lê Xuân Khoa nhắn nhủ nhân dân Việt Nam và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam ba bài học cần ghi nhớ để hướng về tương lai :
– 1/ Trong quan hệ quốc tế chỉ có lợi ích quốc gia là quan trọng hơn cả.
– 2/ Không có một chủ nghĩa chính trị nào là chân lí tuyệt đối.
– 3/ Cần hiểu rơ ta, bạn và thù.
Đọc xong Việt Nam 1945-1995 tập I, phản ứng tự nhiên của tôi là xếp sách lại, đợi trả. Nói thật thà tôi quá thất vọng, bởi Lê Xuân Khoa, qua tác phẩm “ tâm huyết ”, “ công phu ” và “ khách quan ” của ông, đă thể hiện :
– Một khoảng cách quá lớn giữa những ǵ ông viết ở Lời Mở Đầu, ở các trang tóm lược đầu các phần, các chương, và những ǵ ông viết ở phần c̣n lại (nội dung) của cuốn sách.
– Cũng có một khoảng cách như vậy giữa hiện thực lịch sử và những ǵ Lê Xuân Khoa nắm bắt được để sử dụng cho mục đích của ông.
– Mới xem qua tôi có cảm tưởng cái ǵ Lê Xuân Khoa cũng biết, cũng giỏi, cũng làm thầy được cả. Nhưng đọc kỹ tôi thấy rằng cái biết, cái giỏi ấy chỉ là những thủ thuật ngoắt ngoéo, gấp găy… khiến người đọc sách của ông hoài ghi thiện chí và khả năng chuyên môn mà ông đă bày tỏ khắp các chương mục trong cuốn sách, đặc biệt ở Lời Mở Đầu.
Để có một trao đổi nghiêm túc, đầy đủ cùng tác giả Lê Xuân Khoa, tôi e rằng cần phải viết lại một cuốn sách. Tôi không đủ sức làm công việc khó khăn này. Do vậy mà tôi định xếp sách, đợi trả. Nhưng khi nhớ lại hai người thân quen (đă giới thiệu ở trên), tôi thử thảo luận cùng Lê Xuân Khoa mấy vấn đề nêu ra từ tác phẩm của ông trong khả năng hạn chế của người đọc sách b́nh thường.
Bài viết này tŕnh bày một góc nh́n trong một cuộc thảo luận rộng lớn cùng với nhiều góc nh́n khác nhằm : nói như Lê Xuân Khoa : “ Trả lại cho César cái ǵ của César ” và góp phần trả lại sự thật cho lịch sử Việt Nam cận hiện đại.
C̣n Bài Học Lịch Sử : không thể có được, một khi chưa có những hiểu biết, những nghiên cứu thấu đáo và đầy đủ về các cuộc chiến tranh.
Sau đây là mấy vấn đề cần thảo luận.
I/ Nguyên nhân gốc của “ Chiến Tranh Chống Pháp và Tị Nạn 1954 ” ?
II/ Có thể tránh được cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất không ?
III/ Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954) đă kết thúc như thế nào ?
IV/ Cuộc di cư từ miền Bắc của non một triệu người vào miền Nam (1954) là Di tản nội bộ hay Tị nạn Cộng Sản?
V/ Lê Xuân Khoa viết ǵ về phe Quốc Gia trong sách Việt Nam 1945-1995 tập I.
VI/ Nội chiến hay chiến tranh Ủy nhiệm.
VII/ Vấn đề ḥa giải ḥa hợp dân tộc.
*
Trước khi bước vào cuộc thảo luận, lâm thời tôi bày tỏ sự đồng t́nh với tác giả Lê Xuân Khoa là mỗi người trong chúng ta (đồng bào Việt Nam) nên vượt qua những xúc động nhất thời để nh́n nhận lịch sử trong “ tinh thần khách quan ” và “ ư thức trách nhiệm ” (Tôi thêm các ngoặc kép – Chu Sơn)
Nhưng đồng thời tôi cũng mong có sự đồng thuận của bất cứ người Việt Nam nào : Sử gia hay không sử gia, thầy giáo hay học tṛ, Quốc Gia hay Cộng Sản, Thiên chúa hay Phật giáo…, cai trị hay bị trị, ở trong hay ở ngoài nước, hay chỉ là Việt Nam không màu cờ sắc áo… nên xác định chỗ đứng của ḿnh để từ đó mà nh́n, mà suy nghĩ, mà nhận định các biến động lịch sử dân tộc. Như thế, măi cho đến thời điểm này (2010), mặc dù c̣n có những góc nh́n khác nhau, nhưng không ai có quyền rời bỏ chỗ đứng chung duy nhất là Việt Nam.
Theo tôi, lịch sử Việt Nam từ thượng cổ, nói cho cùng, măi cho đến thời điểm này, là lịch sử thành lập đất nước, xây dựng chính quyền, chống đuổi ngoại xâm và những nỗ lực của các nhà cầm quyền và cả dân tộc nhằm vượt thoát ra khỏi hậu quả của các cuộc chiến ấy nhằm xây dựng lại đất nước. Cũng có thể nói trong đa phần các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đều có các cuộc nội chiến lớn nhỏ khác nhau hàm chứa bên trong. Công cuộc ḥa giải – ḥa hợp cũng là những nỗ lực không ngừng để hợp nhất, phát triển dân tộc và xây dựng mới đất nước.
Ngoại trừ cuộc xâm lược của Trung Hoa ở triều đại nhà Tống vào Đại Việt năm 1076 và cuộc xâm lược của Nguyên Mông lần thứ nhất, tất cả các cuộc xâm lược khác từ Nguyên Mông lần thứ hai, Minh, Thanh, Pháp, Mỹ đều có bóng dáng đậm nhạt khác nhau của một bộ phận người Việt Nam trong hàng ngũ các đoàn quân viễn chinh, trong chính quyền Liên hiệp, phủ Toàn quyền, hay Ṭa Đại sứ…
Từ chỗ đứng Việt Nam và góc nh́n hạn chế của một công dân b́nh thường đang ở trong nước, một người đọc sách phổ thông (không phải là nhà nghiên cứu, sử gia…) tôi lần lượt thảo luận cùng Lê Xuân Khoa mấy vấn đề nêu trên.
I/ “ Nguyên nhân gốc ” (từ của Lê Xuân Khoa)của cuộc chiến tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954 ?
Trước khi đi vào nội dung chính của cuốn Việt Nam 1945-1995 tập I, Lê Xuân Khoa viết Lời Mở Đầu như tôi đă giới thiệu qua ở trên.
Trước khi đi vào nội dung từng phần (cuốn sách có 3 phần) Lê Xuân Khoa cũng viết một hai trang tôi gọi là dẫn nhập.
Ở Lời Mở Đầu và các trang dẫn nhập này tác giả giới thiệu nội dung chính của cuốn sách, của mỗi phần, đồng thời nêu ra những nhận định như là kết luận.
Mở đầu phần Một, Lê Xuân Khoa viết :
“ Lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX là lịch sử của một đất nước bị chia đôi và bốn cuộc chiến tranh trước và sau cuộc chia cắt ấy. Cuộc chiến thứ nhất là cuộc chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức mặt trận Việt Minh) lănh đạo (1945-1954). Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến giữa miền Bắc Cộng sản và miền Nam Quốc gia (1956-1975) với sự tham gia của hai khối đối đầu trong cuộc chiến tranh lạnh : Hoa kỳ chiến đấu sát cánh cùng với miền Nam, Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn cho miền Bắc. Hai cuộc chiến tiếp theo giữa Việt Nam và hai đồng minh Cộng Sản : Trung Quốc (tháng 2/1979) và Cambuchia (1979-1989) ” (LXK sđd trang 29).
Đọc qua đoạn này, tôi bị thu hút bởi mấy từ : Chia cắt (đất nước), chiến tranh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức Mặt Trận Việt Minh). Tôi đă lọt vào mục tiêu Lê Xuân Khoa muốn nhắm. Các từ chia cắt (đất nước) và chiến tranh có nội dung rất xấu, cực kỳ xấu. Nó đánh thẳng, đánh trúng vào khát vọng sâu thẳm chính đáng của đại đa số quần chúng nhân dân là Thống nhất, và Ḥa B́nh. Cả hai cái cực kỳ xấu ấy (chia cắt, chiến tranh), theo Lê Xuân Khoa, đều do Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức Mặt Trận Việt Minh) tạo tác nên, hay ít ra là người chịu trách nhiệm chính, là thủ phạm hàng đầu. Bởi Cộng Sản (Lê Xuân Khoa ngụy trang bằng nhóm từ vô thưởng vô phạt : Quốc Gia – Cộng Sản), là nguyên nhân gốc của chiến tranh, của chia cắt, của tị nạn, tan nát và đói nghèo. Sự can dự trực tiếp hay gián tiếp của Pháp, của các tướng lănh Trung Hoa Quốc Gia (từ của Lê Xuân Khoa), của Anh và của Mỹ đều là “ Những Yếu Tố Bên Ngoài ” (LXK sđd chương 1,2,3,4, phần I), có là “ nguyên nhân gốc ” cũng chỉ là hạng hai, đứng sau nguyên nhân gốc hạng nhất, đứng trước nguyên gốc hạng ba (đều là Cộng Sản).
Về mặt h́nh thức (tôi nói : về mặt h́nh thức), câu đầu trong đoạn trích dẫn trên chỉ đúng một nửa : chia cắt và chiến tranh.
Không hiểu v́ lí do ǵ Lê Xuân Khoa bỏ quên ba sự kiện quan trọng khác là : Pháp hùng hổ quay trở lại Đông Dương, Việt Nam thống nhất đất nước và xây dựng Xă hội Chủ nghĩa (nói theo từ ngữ Cộng Sản) hoặc áp đặt cái được gọi là “ Chủ nghĩa Xă hội ” (nói theo đa số đồng bào Việt Nam). Sự bỏ quên này v́ lí do ǵ ?
V́ bất cứ lí do nào, việc bỏ quên ba sự kiện khổng lồ này khiến người đọc sách b́nh thường như tôi nghi ngờ thiện chí, tính khách quan, ḷng trung thực và sự tôn trọng sự thật (từ của LXK) mà Lê Xuân Khoa đă hứa hẹn, cam kết ở Lời Mở Đầu.
Bỏ quên ba sự kiện khổng lồ này th́ làm sao có được một hiểu biết thấu đáo về “ bốn cuộc chiến tranh ” (từ của Lê Xuân Khoa) và t́nh cảnh đất nước, tâm t́nh của đại đa số nhân dân sống trong cái đất nước được gọi là Độc lập, Ḥa b́nh, Thống nhất ấy, làm sao hiểu được nguyên nhân đích thực của những “ thuyền nhân ” đă liều chết từ bỏ những giá trị ngàn đời : Đất nước và Dân tộc ?
Có khả năng Lê Xuân Khoa sẽ phản bác nhận định trên đây của tôi. Ông nói :
– “ Đấy chỉ là mấy câu tóm lược ”.
Thưa ông Lê Xuân Khoa, tôi đồng ư đó là mấy câu tóm lược. Mấy câu tóm lược là mấy câu đúc kết nội dung một đoạn, một chương, một phần, hay cả cuốn sách. Mấy câu này yêu cầu phải ngắn gọn nhưng không thể thiếu, không thể sai nội dung cần tóm lược, không thể gây hiểu lầm, ngộ nhận.
Ví dụ về tiểu sử tác giả Lê Xuân Khoa, có người viết :
“ Lê Xuân Khoa sinh ở Huế, làm chính trị thiên Cộng, dạy học ở Sài G̣n và ở Mỹ.”
Câu này chưa phải là tiểu sử tóm lược của ông.
Cũng như thế, khi Lê Xuân Khoa viết :
“ Lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX là lịch sử của đất nước bị chia đôi và bốn cuộc chiếc tranh trước và sau sự chia cắt ấy.”
Câu này chưa phải là câu tóm lược lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX.
Để không mang tội thất lễ với một đại sư lăo làng, tôi buộc phải trở lại “ định kiến ban đầu ” là : Lê Xuân Khoa đă sử dụng thủ pháp ngoắt ngoéo để “ cả vú lấp miệng em ”, và “ giả mù sa mưa bấc ”. Cái thủ pháp ngoắt ngoéo này Lê Xuân Khoa sử dụng rất nhiều lần trong cuốn sách của ông. Tôi đưa thêm một thí dụ khác : Mở đầu chương I với tựa đề : Quốc Gia và Cộng Sản, Lê Xuân Khoa viết :
“ Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đă được tiếp tục ngay sau khi Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam bằng ḥa ước Patenôtre năm 1884, gần nửa thế kỷ trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập. Phong trào Cần Vương dưới sự lănh đạo của vua Hàm Nghi từ 1885 vẫn hoạt động ngay cả khi nhà vua bị Pháp bắt được và đầy sang Algérie năm 1888. Hai cuộc khởi nghĩa khác do Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đ́nh Phùng chỉ huy bị dẹp tan trước cuối thế kỷ, nhưng cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám đă kéo dài được 30 năm cho đến khi ông bị giết 1913. Khi đă thiết lập được guồng máy thống trị vững vàng, chính quyền thực dân Pháp vẫn phải đương đầu với các phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lănh đạo của các sĩ phu kiệt xuất như Phan Bộ Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Thân Cường Để, Trần Cao Vân và Nguyễn Thượng Hiền. Một trong những phong trào này được cầm đầu bởi Hoàng đế Duy Tân, mười sáu tuổi, do chính người Pháp đưa lên ngôi từ năm lên 7 thay cho vua cha là Thành Thái bị Pháp đầy sang đảo Réunion v́ âm mưu chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt và cũng bị lưu đày ở đảo Réunion. Những tổ chức quốc gia chống Pháp sau đó đều xuất phát từ giới trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục Pháp, đáng kể nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD) ở miền Bắc, hai giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo ở miền Nam cùng với các nhóm chính trị và báo chí của một số trí thức du học ở Pháp về ”.(LXK sđdtr 31,32)
Viết đoạn văn trên, Lê Xuân Khoa muốn độc giả, đặc biệt đảng Cộng Sản, hiểu rằng :
Những lănh tụ kháng chiến chống Pháp và đồng chí, đồng bào của họ từ sau ḥa ước Patenôtre (1884) như Hàm Nghi, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Cường Để, Trần Cao Vân, Nguyễn Thượng Hiền, Thành Thái, Duy Tân… đều là người Quốc Gia cả. Và những tổ chức, nhân vật Quốc Gia sau đó (từ của Lê Xuân Khoa) như các trí thức Tây học, các đảng Quốc Dân Đảng, Đại Việt, các giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo… đều là hậu duệ, thế hệ sau tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông. Cứ theo phát kiến này của Lê Xuân Khoa th́ Hùng Vương, Bà Trưng, bà Triệu, Ngô quyền, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đều là người Quốc Gia hết. Chỉ có : “ Hồ Chí Minh là người Cộng Sản đầu tiên ” tuy có ḷng yêu nước, nhưng bị chỉ huy, điều động bởi Cộng sản Quốc tế (Comintern). Và theo Lê Xuân Khoa th́ Hồ Chí Minh xuất phát từ một truyền thống, cội nguồn khác, gắn kết với đất nước, dân tộc sâu nặng, nhưng là thủ phạm của tấn bi kịch xung đột Quốc Gia – Cộng Sản.
Ông viết :
“ Mầm mống xung đột giữa Quốc Gia và Cộng Sản bắt đầu từ khi Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa năm 1924 để hoạt động cho Comintern ” (LXK sđd tr35).
Để thực hiện mục tiêu của ḿnh, Lê Xuân Khoa đă :
–1/ Thả rông kư ức lịch sử : Câu đầu của đoạn văn trích dẫn trên xin được chép lại :
“ Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đă được tiếp tục ngay sau khi thực dân Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam bằng ḥa ước Patenôtre, gần nửa thế kỷ trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập ”
Thưa giáo sư, nhà sử học Lê Xuân Khoa : “…công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đă được tiếp tục ngay ” từ tháng 5 năm 1858, khi liên quân Pháp Tây Ban Nha tấn công vào Đà Nẵng, chứ không đợi đến 1884, khi Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam như nhận định của ông. Và như thế khoảng cách giữa hai sự kiện : thời điểm cuộc kháng chiến bắt đầu, hay nói như ông, “ cuộc kháng chiến tiếp tục ngay ” từ 1858 đến thời điểm thành lập đảng Cộng sản (1930) là 72 năm (1858-1930), đúng ba phần tư thế kỷ, chứ không phải là 46 năm (1884-1930), “ gần nửa thế kỷ ” như ông đă viết.
Như thế, do sự thả rông kư ức mà Lê Xuân Khoa đă rút ngắn thời gian kháng chiến của nhân dân Việt Nam đến 26 năm (72 – 46 = 26). Đề nghị ông giải thích sự suy giảm kư ức này. Phải chăng do thực tế sống ngoài lịch sử, đến khi ông bắt đầu làm nhà nghiên cứu, ông đă vơ được tài liệu nào vội sử dụng tài liệu đó ?
Hai mươi sáu năm lịch sử thiếu vắng trong kư ức của Lê Xuân Khoa là chặng đường vô cùng quan trọng trong quá tŕnh chống ngoại xâm của dân tộc. Không có chặng đường này, sẽ không có những chặng đường tiếp theo từ sau hiệp ước Patenôtre (1884), đến sau này.
Sự thả rông kư ức của một giáo sư kiêm sử gia như ông khiến người đọc sách, nhất là các thế hệ người Việt đời sau ở nước ngoài nếu không biết thêm một tài liệu, sách báo nào khác ngoài cuốn Việt Nam 1945-1995 tập I, sẽ có một khoảng trống rất lớn về các cuộc đề kháng, khởi nghĩa, chiến đấu của vua quan triều Nguyễn, của sĩ phu, nông dân ở Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ trong 26 năm tiếp liền sau khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng, đánh chiếm và thiết lập ách nô lệ lên các phần đất này của đất nước. Sự thả rông kư ức của giáo sư, nhà nghiên cứu Lê Xuân Khoa sẽ khiến các thế hệ người ngoại quốc gốc Việt đời sau có dịp quay trở về cội nguồn của ḿnh sẽ “ ṭ te ” khi thấy các tên đường : Bến Nghé, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đ́nh Chiểu, Phan Văn Trị, Cầu Giấy, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu…
Có khả năng Lê Xuân Khoa sẽ phản bác lại : ông chỉ viết lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1995, đoạn trích dẫn ở trên chỉ là mấy câu tóm lược.
Đành rằng đó là mấy câu tóm lược. Nhưng mấy câu tóm lược ấy nếu được viết lại như sau :
“ Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đă được bắt đầu ngay sau khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công vào Đà Nẵng (1858) mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam, gần ba phần tư thế kỷ trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập ”.
Câu này có dài hơn câu của Lê Xuân Khoa tôi đă trích dẫn một chút, nhưng nó đầy đủ hơn, chính xác hơn mà không làm thay đổi mục tiêu Lê Xuân Khoa muốn truyền đạt.
– 2 / Lê Xuân Khoa đă làm một việc vô ích : Chủ đích của Lê Xuân Khoa khi viết câu tôi trích dẫn trên là để phục hồi kư ức lịch sử cho người Cộng Sản trong trường hợp kư ức của họ suy thoái. Trường hợp thứ hai nếu kư ức của người Cộng Sản chưa có vấn đề, Lê Xuân Khoa muốn cảnh báo họ : “ Các người tuy c̣n nhớ lịch sử nhưng v́ năo trạng Cộng sản nên cố t́nh làm ngơ ”.
Thưa giáo sư Lê Xuân Khoa, cả hai trường hợp trên đều không phải là sự thật. Tôi xin trưng bằng chứng :
– Trong bộ Đại Cương Lịch Sử Việt Nam Toàn Tập mà ông đă sử dụng, các sử gia của chế độ : Trương Hữu Quưnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hăn đă viết khá đầy đủ, tường tận về tất cả các cuộc kháng chiến, các phong trào yêu nước từ 1858 đến 1945 : Từ đề kháng của triều đ́nh Huế, khởi nghĩa và kháng chiến của các sĩ phu, nông dân, và nhân dân Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, từ Cần Vương, Văn Thân, Nghĩa Hội, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Tây Du (Tây Du chỉ khuynh hướng t́m hiểu, học tập nền văn hóa, chính trị tại Pháp của Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh…) đến các vận động báo chí, kinh tế, xă hội, các đảng Tân Việt, Cộng Sản, Quốc Dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Báy… (Đại Cương Lịch Sử Việt Nam Toàn tập mục III chương 1,2,3,5, mục V, VI, VII chương 10…)
Thực tế này chứng tỏ kư ức lịch sử Việt Nam cận hiện đại của người Cộng Sản chưa suy thoái.
– Đảng Cộng Sản Việt Nam đă vận dụng các kư ức lịch sử một cách tối đa vào công cuộc vận động yêu nước trước và sau cách mạng tháng 8 – 1945 : Mặt trận Việt Minh được thành lập (năm 1941) đáp ứng nhu cầu đánh Tây đuổi Nhật (Nhật vào Đông Dương năm 1940). Mặt trận này tập hợp chung quanh đảng Cộng Sản nhiều thành phần quần chúng khác nhau không phân biệt ư thức hệ, giai cấp, tôn giáo…
Cách mạng tháng Tám xảy ra, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ra đời có sự tham dự và đóng góp công sức của nhiều thành phần quần chúng. Riêng kư ức thô thiển của một người b́nh thường như tôi cũng nhớ được các tên tuổi sau đây: nhà Nho, nhà Duy Tân Huỳnh Thúc Kháng, vua Bảo Đại, Ngự tiền Phạm Khắc Ḥe, luật sư Phan Anh, bộ trưởng Bùi Bằng Đoàn, khâm sai Phan Kế Toại, các luật sư Vũ Đ́nh Ḥe, Vũ Trọng Khánh, các nhân sĩ trí thức Thiên Chúa giáo Ngô Tử Hạ, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Đ́nh Huỳnh, các trí thức Tạ Quang Bửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Đ́nh Nam và rất nhiều những người ưu tú yêu nước khác tôi không nhớ hoặc không biết hết. Những vị này được sắp xếp, bố trí vào các vị trí chức vụ nhất nh́ trong các tổ chức quần chúng, các cơ quan chuyên môn, các cấp chính quyền của Việt Minh và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. V́ nhiều lí do khác nhau, một số nhỏ trong họ đă bỏ cuộc giữa đường : trở lại với Tây như Bảo Đại, hoặc về thành trùm chăn, có người sau này cộng tác với Ngô Đ́nh Diệm (như Trần Chánh Thành). Đa số trong họ thất vọng trước thực tế xung đột ư thức hệ (Cộng sản – Tư sản, Độc tài – Dân chủ …) ngày càng khốc liệt, từng bước bị tước đoạt quyền lực, bị đẩy ra ŕa nhưng vẫn bấm bụng ở lại với kháng chiến v́ mục tiêu, v́ lí tưởng độc lập của dân tộc, bấm bụng chịu đựng sự khinh miệt, bạc đăi và phản bội của những người Cộng Sản đă cùng nằm gai nếm mật. Họ – những người kháng chiến không Cộng Sản ấy – thà chịu thua kẻ nội thù, không thà làm tay sai cho bọn cướp nước. Thực tế lịch sử này chứng tỏ những cảnh báo của Lê Xuân Khoa là thừa. Bởi ông đă không nghiên cứu thấu đáo nguyên nhân sâu xa (mà ông gọi là nguyên nhân gốc) xảy ra sự xung đột mà ông gọi là Quốc Gia và Cộng sản. Thử hỏi sự xung đột ấy xảy ra trước, đồng thời, hay sau cuộc xâm lược và đô hộ của thực dân đế quốc ? Nếu sự xung đột ấy xảy ra trước thời điểm thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam th́ cũng có thể là một trong những nguyên nhân đưa đến chiến tranh Việt – Pháp. Tôi nói có thể. Tôi hoàn toàn không khẳng định. Đằng này sự xung đột ấy chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối của cuộc xâm lược Pháp th́ không thể là “ nguyên nhân gốc ” của chiến tranh chống Pháp và Tị nạn Cộng Sản được. Vả lại, nếu Cộng Sản là “ nguyên nhân gốc ” của chiến tranh chống Pháp th́ :
– Làm thế nào để giải thích sự xung đột xảy ra giữa các đảng phái phe nhóm Quốc Gia như ông đă nhận xét có tính cáo buộc trong chương 1, phần I (Quốc Gia và Cộng Sản)
– Làm sao để giải thích sự thật lịch sử khi anh em Ngô Đ́nh Diệm lật đổ Bảo Đại, triệt tiêu hết các đảng phái, các thế lực chính trị và cá nhân quốc gia khác để độc chiếm quyền lực?
– Làm thế nào mà hiểu biết thấu đáo trong ṿng ba năm sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ (1963-1966) ở miền Nam đă xẩy ra hơn mười cuộc đảo chánh và bốn lần thay đổi chính phủ ?
– Làm thế nào để biện minh cho người Quốc Gia số 1 Nguyễn Văn Thiệu hất cẳng người Quốc Gia số 2 Nguyễn Cao Kỳ và phe cánh ra khỏi cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam Cộng Ḥa màn II ?
– Làm thế nào để giải thích t́nh trạng xung đột trong cộng đồng người Việt đang cư trú tại Mỹ ?
Phải chăng Cộng Sản cũng là “ nguyên nhân gốc ” số 1 dẫn đến t́nh trạng người Quốc Gia xâu xé loại trừ lẫn nhau như Lê Xuân Khoa đă nghiên cứu để kết luận rằng Cộng Sản là “ nguyên nhân gốc ” dẫn đến Chiến tranh chống Pháp và Tị nạn 1954 ?
Đến thời điểm này (2010) mà người Việt Nam chúng ta c̣n đặt lại vấn đề đâu là nguyên nhân của cuộc chiến tranh Việt – Pháp, Pháp – Việt th́ rơ ràng là chúng ta đă đứng ngoài lịch sử dân tộc, hoặc tim óc của chúng ta không b́nh thường. Tuy nhiên, bởi Lê Xuân Khoa đă đặt vấn đề bằng một khẳng định rằng Cộng Sản là hai trong ba “ nguyên ngân gốc ” của cuộc chiến tranh ấy, do vậy tôi buộc phải cùng ông giải mă lại vấn đề.
Như nhiều người trong chúng ta đă biết : Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, thực dân Pháp hùng hổ tái chiếm Đông Dương – trong đó có Việt Nam – để tiếp tục hành xử vai tṛ là chủ nhân ông mà chúng đă khẳng định hoàn toàn từ hiệp ước Patenôtre (1884). Hành động này của thực dân Pháp đặt nhân dân Việt Nam trước những lựa chọn :
– Hoặc là cúi đầu nhận chịu thân phận nô lệ, làm thân trâu ngựa cho kẻ cướp nước, động thái này một thiểu số trong cộng đồng dân tộc đă chọn lựa.
– Hoặc là tiếp tục cuộc kháng chiến dở dang mà các thế hệ Việt Nam đời trước đă khởi sự ngay từ khi Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng – bắt đầu cuộc xâm lược thực dân của chúng. Đa số trong nhân dân đă chọn cách hành xử thứ hai : kháng chiến, cương quyết, đồng ḷng đánh đuổi xâm lược để giành lại độc lập tự do cho đất nước, dù phải hi sinh, dù phải trả giá đắt.
Cuộc chiến đă xảy ra do không giải quyết được vấn đề (mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và nhân dân Việt Nam) trong thương lượng ḥa b́nh, mặc dầu về phía Việt Nam dưới sự lănh đạo của Việt Minh, đặc biệt là Hồ Chí Minh, đă nỗ lực hết sức để loại trừ chiến tranh. Chính Lê Xuân Khoa đă viết khá đầy đủ trong chương 2, phần I, và chương 5 phần II (sđd tr 75 – 121, tr 192 – 235) sự thật lịch sử này.
Như thế nguyên nhân của cuộc chiến tranh, đầu tiên và cuối cùng, gốc và rễ đều phát xuất từ thực dân, đế quốc. Không hề có chuyện cộng đồng bị xâm lược mâu thuẫn chống đối lẫn nhau trong quá tŕnh chống đuổi ngoại xâm là nguyên nhân gốc của chiến tranh Việt – Pháp, Pháp – Việt.
* Trần Trọng Kim, một sử gia hữu khuynh, nhưng trong Việt Nam Sử Lược đă nhận định chính xác khi ông lên án ư đồ và biện pháp xâm lược của quân Minh vào nước ta bắt đầu từ 1405. Đối với ông t́nh trạng xung đột giữa nhà Trần suy thoái và hành động thoán đoạt bạo tàn của Hồ Quí Ly chỉ là cái cớ (Trần Trọng Kim : Việt Nam Sử Lược tr 194-199).
Như thế, theo Trần Trọng Kim, nguyên nhân các cuộc chiến tranh giữa quân Minh và nhà Hồ, giữa quân Minh và cuộc kháng chiến Lê Lợi là ư đồ và hành động xâm lược của nhà Minh Trung Quốc chứ không hề là nhà Hồ, dù Hồ Quí Ly là người chịu trách nhiệm chính trong những thủ đoạn tiêu diệt nhà Trần trước đó.
* Trong thế chiến thứ II, sau khi Phát Xít Đức xua quân tấn công tràn ngập nước Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng (tháng 9-1940). Pétain thành lập chính phủ thân Đức. De Gaulle kêu gọi dân chúng khởi nghĩa với sự đồng t́nh tham dự của đảng Cộng Sản và đại bộ phận dân chúng Pháp. Trong quá tŕnh cùng với Đồng Minh chiến đấu chống xâm lược Đức, phe de Gaulle đương nhiên đánh cả hai : xâm lược Đức và bọn tay sai đầu hàng. Nhân dân Pháp và các nhà viết sử của họ vào thời điểm đó và măi măi về sau nhận định thế nào về cuộc chiến tranh Pháp – Đức ? Họ gọi quân Đức là Yếu Tố Bên Ngoài hay là bọn Phát Xít xâm lược ? Và “ Nguyên nhân gốc ” của cuộc chiến tranh đó là Phát Xít Đức xâm lược hay là sự xung đột giữa Pétain – de Gaulle (Đầu hàng – Kháng chiến) như nhận định của Lê Xuân Khoa : Quốc Gia và Cộng sản trong chiến tranh Việt – Pháp ?
Trường hợp học giả Lê Xuân Khoa chưa vừa ḷng với hai ví dụ phản biện trên, tôi xin đưa một giả định từ một hiện thực trước mắt làm ví dụ thứ ba :
* Quần đảo Hoàng Sa, một phần của Biển Đông và một số đảo thuộc quần đảo Trường sa là lănh thổ của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974 đến nay. Nhân dân ở trong và ngoài nước căm giận hành động xâm lăng trắng trợn của bọn bành trướng. Ngoài những hội thảo, tuyên ngôn, tuyên cáo, sách báo, những cuộc tụ tập, biểu t́nh bỏ túi bày tỏ t́nh tự dân tộc của một số bộ phận, cá nhân người Việt trong và ngoài nước, chưa có một cuộc vận động, một phong trào quần chúng, một phản ứng chính trị, quân sự lớn mạnh nào nhằm phản đối và đánh đuổi quân xâm lược. Bởi chính quyền Cộng Sản trong nước – như cáo buộc của các nhóm, các cá nhân bất đồng chính kiến – là tay sai, lệ thuộc, hoặc hèn hạ cúi đầu trước sách lược thâm độc và hành động ngang ngược của bọn bành trướng Trung Quốc.
Giả định rằng vào môt thời điểm nào đó thích hợp, một Mặt Trận Giải Phóng Hải Đảo được thành lập và lănh đạo do một người có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, có tài thao lược và đặc biệt đă học được Bài học lịch sử từ Bốn cuộc chiến tranh đă xảy ra vào nửa sau thế kỷ XX, như Lê Xuân Khoa chẳng hạn, tất nhiên Mặt Trận Giải Phóng Hải Đảo do Lê Xuân Khoa lănh đạo được đông đảo quần chúng khắp nơi đồng t́nh ủng hộ, tham gia…ngoại trừ nhà nước Cộng Sản đương quyền. Chiến tranh xảy ra giữa một bên là quân xâm lược Trung Quốc và bọn Việt gian Cộng sản tay sai đầu hàng, và một bên là nhân dân Việt Nam yêu nước dưới sự lănh đạo của Mặt Trận do Lê Xuân Khoa điều khiển. Đề nghị sử gia, nhà lănh đạo kháng chiến (giả định) Lê Xuân Khoa trả lời :
– “ Nguyên nhân gốc ” cuộc chiến tranh giả định trên là ǵ ?
– Quân Trung Quốc là xâm lược hay chỉ là “ Yếu tố bên ngoài ” ?
– Chính quyền Cộng Sản là công cụ, tay sai của xâm lược hay chỉ là một trong hai phía Việt Nam (Công Sản và Quốc Gia) như nhận định của Lê Xuân Khoa về Quốc Gia và Cộng Sản trong các cuộc xung đột và chiến tranh từ 1925 trở về sau ?
Câu hỏi tiếp theo :
– Sau những nỗ lực vô cùng to lớn, những hi sinh mất mát, đổ vỡ nặng nề… cuối cùng xâm lược Trung Quốc và bọn tay sai Cộng Sản, (ngụy quân, ngụy quyền) bị đánh bại : Hải Đảo được giải phóng và chính quyền tay sai trên đất liền bị lật đổ. Mấy triệu người Việt Nam cùng với quan thầy của chúng là Trung Quốc xâm lược “ tháo chạy tán loạn ” (nhóm từ này mượn của Frank Snepp). Ông Lê Xuân Khoa gọi cuộc tháo chạy này là ǵ ? Là “ Tị nạn Quốc gia ” như ông đă nhận định về cuộc “ Tị nạn Cộng sản ” sau khi cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc – hay cuốn cờ theo giặc ? Có thể Lê Xuân Khoa bảo rằng giả định trên của Chu Sơn là không thích hợp. Bây giờ ông không c̣n là người Việt Nam về mặt pháp lí, nên ông không đủ danh nghĩa để phất cao ngọn cờ. Vả lại cho dù ông có c̣n là người Việt Nam, ông cũng không chọn con đường đánh nhau với Trung Quốc để rồi “ dù có chiến thắng, cũng phải trả cái giá quá đắt ”, bởi trước sau ǵ “ Trung Quốc cũng sẽ trả lại Hoàng Sa và các đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa cho Việt Nam thôi.”
Cuộc thảo luận về “ Nguyên nhân gốc ” của chiến tranh chống Pháp (1945 – 1954) có thể tạm thời kết thúc ở đây.
II/ Có tránh được cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất không?
Mở đầu chương 5 (phần II Bài Học Chín Năm) Lê Xuân Khoa viết :
“ Cuộc chiến 1945 – 1954 đă làm thương vong cho 172.708 người về phía Pháp. Trong đó có 31.716 binh sĩ thuộc ba nước Đông Dương. Số thương vong về phía quân đội Cộng Sản không được biết rơ, nhưng được phỏng định ít nhất là một triệu. Số dân thiệt mạng trong cuộc chiến vào khoảng 250.000 người. Phí tổn về phía Pháp tính đến 1950 chiếm từ 40% đến 45% ngân sách quốc pḥng và trên 10% ngân sách quốc gia.
Trong những năm cuối cùng viện trợ Mỹ gánh chịu đến 75% chi phí. Về phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa phí tổn không rơ là bao nhiêu, nhưng sự thiệt hại về tài sản của nhân dân và về những nguồn lợi kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh và cả những năm sau chiến tranh cộng với sự thiệt hại về nhân mạng đă cho thấy cái giá của chiến tranh là quá đắt. Cái giá ấy sẽ không đắt nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến độc lập, tự do, và hạnh phúc thực sự cho dân tộc. Nhưng cái giá ấy là quá đắt v́ chỉ trong ṿng mấy năm sau thế chiến thứ II các xứ thuộc địa, trừ một số nước ở Nam Phi đều được trả lại độc lập mà không cần phải có chiến tranh ” (LXK sđd tr 192-193).
Qua đoạn trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa đưa ra hai giả định :
–- Một là “ Cái giá chiến thắng ” là không đắt “ nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến độc lập, tự do và hạnh phúc thật sự cho dân tộc ”.
–- Hai là “ Cái giá chiến thắng ” là “ quá đắt v́ chỉ trong ṿng mấy năm sau thế chiến thứ II, các xứ thuộc địa trên thế giới trừ một số nước ở Nam Phi đều được trả độc lập mà không cần phải có chiến tranh ”.
Thật ra không có hai giả định về hai khả năng : Có chiến tranh hay không có chiến tranh, mà theo Lê Xuân Khoa chỉ có một khẳng định làm chức năng cáo buộc. Cáo buộc ai ? Cáo buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă sai lầm làm nên cuộc chiến chống Pháp và phải chịu trách nhiệm về “ cái giá quá đắt ” mà đất nước và dân tộc phải gánh chịu.
Nhóm từ “ không cần phải có chiến tranh ” có nghĩa đương nhiên là tránh được cuộc chiến tranh ấy. Đây là một mệnh đề khẳng định. Lê Xuân Khoa đă dùng mệnh đề khẳng định này để làm kết luận cho một giả thiết thiếu căn cứ và không có thực.
Lê Xuân Khoa đă đưa sự kiện : “ Anh, Hà Lan và những đế quốc đă sớm từ bỏ các thuộc địa ở châu Á và ngay cả đế quốc thực dân ngoan cố nhất là Pháp cũng đă trả tự do cho hai xứ bảo hộ là Tunisie năm 1954, Ma rốc 1956 và các xứ thuộc địa ở Nam Phi năm 1958, Algérie năm 1962 ” làm bằng chứng để khẳng định rằng “ Việt Nam nhất định sẽ được trả độc lập chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II ”.
Lối lập luận và nhận định có tính cách cáo buộc này không thỏa đáng về phương pháp lí luận sơ đẳng và đồng thời không phản ảnh đúng đắn hiện thực lịch sử.
Trường hợp Anh chẳng hạn : Anh từ bỏ Ấn Độ (1947) là sự thật. Nhưng Anh không từ bỏ Nam Phi là một sự thật khác. Hai sự thật này chứng tỏ Lê Xuân Khoa lí luận sai. Anh từ bỏ Ấn Độ không là tiền đề để Anh từ bỏ Nam Phi, càng không phải là một tất nhiên để Pháp “ trả lại độc lập cho Đông Dương trong đó có Việt Nam chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II ” như LXK khẳng định.
Lại nữa, nếu Anh từ sau thế chiến thứ II kết thúc đă có ư định từ bỏ Ấn Độ th́ căn cớ ǵ khi được Đồng Minh phân nhiệm đưa quân vào Đông Dương giải giới quân Nhật đầu hàng lại tiếp tay một cách tích cực cho hành động tội ác của đế quốc Pháp là tái chiếm Đông Dương ? Khi viết đoạn văn này, Lê Xuân Khoa đă quên rằng chính ông đă viết một câu ngắn gọn ở trang 107 :
“ Anh quốc không ưa (kế hoạch của Roosevelt về một tổ chức quốc tế bảo trợ cho các dân tộc Đông Dương môt thời gian nhất định trước khi họ có đầy đủ khả năng tự quản lí đất nước trong độc lập) v́ sợ đế quốc của họ tan vỡ ”
Ở trang 81, Lê Xuân Khoa cũng đă viết :
“ Biết rằng Tổng Thống Hoa Kỳ F.D Roosevelt không muốn cho Pháp trở lại Đông Dương, de Gaudle đă vận động với Anh và được thủ tướng Churchill đồng ư giúp đỡ.”
Như thế, hành động tiếp tay cho Pháp tái chiếm Đông Dương là một cấu kết nhằm bảo lưu thuộc địa đă được Anh trù tính trước khi thế chiến thứ hai kết thúc. Và việc Anh trả lại độc lập cho Ấn Độ năm 1947 phải chăng sau khi đă rút được bài học kinh nghiệm bị sa lầy của đồng minh Pháp tại Đông Dương ? C̣n một lí do nữa để Anh rút khỏi Ấn Độ là tùy thuộc vào phong trào bài Anh ở thuộc địa này cũng như cá tính của dân tộc Anh.
Từ bỏ Ấn Độ mà bám chặt Nam Phi phát xuất từ những tính toán thiệt – hơn, lợi – hại của một đế quốc thực dân chứ không hề là một hành động có sự thôi thúc nào khác.
Trở lại với Pháp là đối tượng chính của vấn đề đang bàn : Theo Lê Xuân Khoa trong đoạn trích dẫn trên :
“ Sau thế chiến thứ II thế nào Pháp cũng theo gương Anh và Hà Lan…, trả lại độc lập cho Việt Nam thôi ”.
Nếu xác quyết của Lê Xuân Khoa là sự thật th́ hà cớ ǵ Pháp phải hùng hổ đưa hàng trăm ngàn quân, tiêu tốn từ 40 % đến 45 % ngân sách quốc pḥng, đến 10 % ngân sách quốc gia (trước 1950), nợ nần Mỹ đến 75 % chi phí chiến tranh cho 5 năm c̣n lại (từ 1950 đến tháng 7 – 1954), để rồi phải đầu hàng nhục nhă ở Điện Biên Phủ sau khi bị loại khỏi chiến trường đến 172.708 binh sĩ (bị thương vong) và đặc biệt trở thành đối tượng cho Lê Xuân Khoa phê b́nh là sai lầm, lạc hậu, tham lam, ngoan cố, lỗi thời, không thật thà…(LXK sđd: Bài Học Chín Năm…tr 193 – 196).
Giả định rằng : “ Chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II kết thúc thế nào Pháp cũng trả lại độc lập cho Việt Nam thôi ” như Lê Xuân Khoa đă xác quyết – th́ Lê Xuân Khoa có cơ hội nào để phê phán Pháp bằng những thuộc từ nặng nề như trên.
Và đây là câu hỏi quyết định : Có một lí do nào chính đáng để Pháp không trả độc lập cho Việt Nam vào thời điểm mấy năm sau thế chiến thứ II kết thúc ? Tại Việt Minh hiếu chiến ư ? Việt Minh là Cộng Sản ư ? Hay là Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc ?
Cả ba lí do vừa nêu không có lí do nào là sự thật cả.
Chính Lê Xuân Khoa trong toàn bộ tác phẩm của ḿnh, không có ḍng nào chứng tỏ Hồ Chí Minh hiếu chiến cả, mà trái lại, theo Lê Xuân Khoa, Hồ Chí Minh là người thực tế, mềm mỏng, uyển chuyển và đă nỗ lực hết sức để mưu cầu giải quyết quyền lợi của hai nước, hai dân tộc Việt – Pháp trong ḥa b́nh. (LXK sđd, Bài Học Chín Năm tr 211-234).
Lê Xuân Khoa cũng cáo buộc rằng là Pháp quay trở lại Đông Dương là để tái chiếm thuộc địa, và như thế chống Cộng chỉ là chiêu bài.
C̣n việc Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc chỉ bắt đầu từ năm 1950 gần 5 năm sau nổ ra chiến tranh Việt Pháp. Một câu hỏi nên đặt ra ở đây là : Liệu Pháp với sự hậu thuẫn cấu kết của đồng minh (Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc) không quay trở lại thống trị Đông Dương th́ Hồ Chí Minh có cầu viện Trung Quốc (để đánh Pháp) không ? Chắc chắn là không rồi.
Việc Pháp từ bỏ các thuộc địa châu Phi, theo những thông tin của Lê Xuân Khoa, chỉ diễn ra sau khi quân Pháp đă thất thủ ở Điện Biên Phủ. Điều này không bảo chứng cho một hành động tương tự của thực dân Pháp chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II kết thúc, mà trái lại do kinh nghiệm tệ hại từ Đông Dương mà sau Genève Pháp đă bất đắc dĩ từ bỏ các thuộc địa ở châu Phi. Cuộc rút lui hậm hực này không có sự đồng thuận giữa chính quốc và thực dân thuộc địa, đă suưt gây nội chiến.
Mỹ là cường quốc giàu mạnh hàng đầu sau thế chiến thứ II có tác động quyết định đến mưu đồ tái chiếm Đông Dương của Pháp. Trong trường hợp Pháp có ư định từ bỏ Đông Dương “ chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II ”, như Lê Xuân Khoa đă khẳng định, tất nhiên Mỹ không thể không biết. Đă biết tại sao Mỹ không có kế hoạch cụ thể thay thế Pháp trong vai tṛ ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản ở Viễn đông như sách lược của Truman, mà đợi đến khi Pháp bị sa lầy, dẫn đến bại trận ở Điện Biên Phủ, Mỹ mới áp lực để Pháp chuyển giao quyền lực nhằm thực hiện cuộc thánh chiến với sách lược pḥng thủ từ xa và học thuyết Đô mi nô ?
Qua bốn câu mười ḍng trích ở trên, Lê Xuân Khoa đă không đưa ra những lư giải thuyết phục và những bằng chứng lịch sử cụ thể để chứng minh cho những kết luận nhằm cáo buộc Việt Minh (Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa) “ đă sai lầm tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp lẽ ra có thể tránh được, và do vậy phải chịu trách nhiệm về cái giá quá đắt cho dù đă đánh thắng Pháp trên chiến trường ”.
Điều kỳ lạ là sau khi viết bốn câu mười ḍng như thế, Lê Xuân Khoa lại viết nhiều chục trang để cáo buộc “ Pháp đă sai lầm gây ra cuộc chiến tranh ”, đồng thời biện hộ cho Hồ Chí Minh về những nỗ lực tối đa để mưu cầu giải quyết cuộc xung đột Pháp – Việt bằng giải pháp ḥa b́nh, bảo đảm các quyền lợi chính đáng và lâu dài của hai đất nước và thiết lập mối quan hệ thân thiện giữa hai dân tộc.
Về những sai lầm, tội lỗi của Pháp, Lê Xuân Khoa viết :
1/ “ Chỉ có Pháp là đế quốc duy nhất vẫn tiếp tục mưu toan duy tŕ quyền lực ở Đông Dương, làm hại chính nghĩa Quốc Gia ở Việt Nam và phải chuốc lấy thảm bại ở Điện Biên Phủ ” (LXK sđd trang 78)
2/ “ Cho đến ngày de Gaulle từ chức vào tháng giêng năm 1946, ông vẫn không thay đổi đầu óc thực dân lỗi thời đối với Việt Nam. Ông không chấp nhận điều đ́nh với Việt Minh cho đến khi người Pháp phục hồi uy quyền ở Việt Nam ” (LXK sđd tr 81).
3/ “ Sau de Gaulle phải nói đến Thierry d’Argenlieu, người thay thế Decoux ở Đông Dương… D’Argenlieu vẫn tin tưởng có thể bắt ép Việt Nam bằng sức mạnh quân sự. Ông nhắc nhở Sainteny tuyệt đối không dùng từ ngữ “độc lập” khi điều đ́nh với Hồ Chí Minh, và ngay cả sau khi hiệp định Sơ Bộ 6 tháng Ba chỉ cho Việt Nam qui chế một nước Việt Nam “tự do”, d’Argenlieu vẫn không muốn thi hành hiệp định này ” (LXK sđd tr 83).
4/ “ Pháp đă sai lầm gây nên chiến tranh và đă bỏ lỡ những cơ hội ḥa b́nh ” (LXK sđd tr87).
“ Chính sách tham lam và thiếu thành thật của giới lănh đạo Pháp không phải chỉ áp dụng đối với Việt Minh mà đối với Bảo Đại và các đảng phái Quốc Gia. Tệ hơn nữa chính phủ Pháp đă lừa dối cả những đồng minh thân cận nhất của họ như chính phủ Nam Kỳ tự trị đến nỗi thủ tướng Nguyễn Văn Thinh phải tự tử…” (sđd tr 91, 92)
5/ “ Mặc dầu đă thất bại về quân sự, chính phủ Pháp lúc đó vẫn c̣n mù quáng với tham vọng đế quốc của ḿnh ” (LXK sđd tr102).
6/ “ Sai lầm của Pháp là đầu óc thực dân lỗi thời của những nhà lănh đạo chính trị và quân sự trước xu thế chung của toàn cầu ” (LXK sđd tr194).
7/ “ Đầu óc thực dân ngoan cố và thiển cận không những chỉ thấy ở những chính trị gia bảo thủ… ngay cả những lănh tụ tả phái như Marius Moutet hay Maurice Thorez cũng vẫn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên những lư tưởng xă hội hay cộng sản ” (LXK sđd tr194).
8/ “ V́ chủ quan khinh địch nên Pháp đă bỏ lỡ nhiều cơ hội trước và sau khi chiến tranh bùng nổ, để có sự kư kết với Hồ Chí Minh hoặc thi hành những hiệp ước đă kư, theo đó Pháp vẫn được hưởng nhiều quyền lợi, chẳng hạn như Hiệp định Sơ Bộ 6-3-1946, tạm ước Hồ – Moutet 14-9-1946 ” (LXK sđd tr 195)
9/ “ Lỗi lầm quan trọng nhất của Pháp là thái độ đối với những người Việt Nam chân chính yêu nước, không theo Pháp, đă chống Pháp nhưng sẵn sàng liên kết với Pháp trong mục tiêu chống Cộng sản và có thể trở thành một đồng minh lâu dài của Pháp nếu Việt Nam được trả độc lập thực sự ”…
“ Người Pháp đă không thành thực với cả những người Việt Nam Quốc Gia, ngay cả những người có khuynh hướng thân Pháp, v́ mục đích chính là bảo vệ quyền lợi của Pháp tại Đông Dương ” (LXK sđd tr 195).
Xin tạm dừng trích dẫn dài ḍng nhưng chưa phải là tất cả những ǵ Lê Xuân Khoa phê phán, cáo buộc Pháp đă gây ra cuộc chiến mà ông gọi là chiến tranh Việt – Pháp hay chiến tranh chống Pháp.
Ngoài bốn câu mười ḍng đă trích dẫn và b́nh luận như trên, trong bốn muơi trang tôi vừa đề cập và cả trong những trang khác có liên quan đến việc đang bàn (trang 193 – trang 208), Lê Xuân Khoa đă cho độc giả thấy Việt Minh và Hồ Chí Minh chẳng có con đường nào khác là chiến tranh cả.
Đầu hàng hay chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền cho Việt Nam ? Theo Lê Xuân Khoa, Việt Minh, Hồ Chí Minh đă không đầu hàng, đă bất đắc dĩ chấp nhận “ cuộc chiến tranh do Pháp đă sai lầm gây nên ”.
Qua ng̣i bút của Lê Xuân Khoa, Hồ Chí Minh được mô tả là một con người thực tế, uyển chuyển, chịu đựng trong đường lối, sách lược cũng như trong tất cả những biện pháp, hành động điều đ́nh với Pháp nhằm giải quyết vấn đề Đông Dương – Việt Nam trong ḥa b́nh.
Cũng theo Lê Xuân Khoa các đ̣i hỏi và thái độ của Việt Minh không cao giá, không cứng rắn quyết liệt như các đ̣i hỏi và thái độ của người Quốc Gia trong các cuộc điều đ́nh với Pháp, Hồ Chí Minh thường bị các phần tử Quốc Gia cáo buộc nhu nhược, đầu hàng, bán nước… qua hiệp ước Sơ Bộ 6-3 và Tạm ước 14-9-1946.
Lê Xuân Khoa viết :
“ Ngay cả sau khi cuộc chiến toàn quốc mới bùng nổ, và liên tiếp ba tháng sau đó, Hồ Chí Minh đă tám lần gởi thư cho chính phủ, quốc hội và Tổng Thống Pháp yêu cầu lập lại ngay nền ḥa b́nh để tránh cho hai nước chúng ta khỏi hao người tốn của và để xây dựng sự cộng tác và tinh thần thân thiện giữa hai dân tộc ”. (LXK sđd tr 193).
Trong Bài Học Chín Năm (chương 5) phần dành riêng cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Lê Xuân Khoa không có một lời phàn nàn nào về lập trường và thái độ của Hồ Chí Minh và Việt Minh với Pháp. Ông chỉ một mặt phê phán nghiêm khắc đường lối của Việt Minh khi cầu viện Trung Quốc và Liên Xô (để đánh Pháp – Chu Sơn) từ năm 1950. Mặt khác ông lại làm luật sư biện hộ cho đường lối này.
Lê Xuân Khoa viết :
“ Dù sao chăng nữa trong t́nh thế khó khăn của Việt Nam năm 1950, giả thử Hồ Chí Minh vẫn c̣n giữ mối lo ngại ngàn đời của dân tộc đối với đường lối bá quyền của Trung Quốc, ông cũng chẳng có một cách chọn lựa nào khác nếu muốn tiếp tục cuộc chiến chống Pháp ” (LXK sđd tr 212).
Viết câu này chẳng phải Lê Xuân Khoa đă nói giùm cho Hồ Chí Minh – Việt Minh rằng chẳng có con đường nào khác ngoài chiến tranh đó sao ?
Phải chăng cùng một lúc có hai tác giả cùng tên Lê Xuân Khoa có lập trường mâu thuẫn trong cùng một vấn đề và cùng được tŕnh bày trong cùng một chương, một phần của một công tŕnh nghiên cứu.
– Một Lê Xuân Khoa viết bốn câu mười ḍng ở trang 192, 193, để quy kết nặng nề :
“ Hồ Chí Minh đă sai lầm trong việc chọn con đường chiến tranh trong t́nh thế chiến tranh không phải là con đường duy nhất để rồi dù có chiến thắng… dân tộc Việt Nam phải trả một giá quá đắt…”
– Và một Lê Xuân Khoa thứ hai đă viết bốn mươi trang ở chương 2 và 5 để quy kết Pháp đă sai lầm, ngoan cố gây nên cuộc chiến, và đồng thời biện hộ cho Hồ Chí Minh là chẳng có con đường nào khác…
Phải chăng có một Lê Xuân Khoa Quốc Gia chống Cộng bằng mọi giá, mọi cách, bất chấp phương pháp suy luận sơ đẳng và những sự thật lịch sử phổ biến.
Và một Lê Xuân Khoa đứng giữa, tuy đă nhận biết sai lầm của Pháp nhưng bản thân ông đă không có một chọn lựa, dấn thân thích đáng trước t́nh cảnh đất nước bị xâm lược?
Là một người Mỹ gốc Việt, tuổi tác đă bước vào buổi xế chiều, chắc là Lê Xuân Khoa cảm thấy vương vấn t́nh tự đất nước quê làng, cũng như những đồng bào cùng cảnh ngộ : sự xung đột, giằng xé Xâm Lược – Kháng Chiến, Quốc Gia – Cộng Sản âm ỉ nơi một Lê Xuân Khoa vẫn chưa có cơ may ḥa giải.
Trách nhiệm này thuộc về ai ?
– Về phía “ Pháp đă sai lầm gây nên cuộc chiến ” ?
– Về phía Việt Minh Cộng Sản đă chọn ư thức hệ vô sản như là một giải pháp duy nhất để giải đáp hai câu hỏi lớn và cấp bách là độc lập cho đất nước và hạnh phúc cho nhân dân ?
– Hay về phía cá nhân Lê Xuân Khoa đă không nhận biết thật chính xác và hành động thật sự đúng đắn trong vị trí và nghĩa vụ của một thất phu hữu trách khi “ quốc gia lâm nguy ” ?
Có lẽ thuộc về tất cả, kẻ ít người nhiều, kẻ chính người phụ, kẻ trước mắt người lâu dài. Nhưng nguyên nhân gốc (từ của LXK) của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vẫn thuộc về xâm lược Pháp.
Tuy nhiên, hơn bất cứ ai, một thất phu hữu trách, nên tự kiểm điểm rằng ḿnh đă đứng ở đâu, đă làm ǵ trước t́nh h́nh quốc gia lâm nguy ?, đặc biệt y (kẻ thất phu hữu trách), muốn chứng tỏ rằng là người tiếp cận với chữ nghĩa thánh hiền ? Trong trường hợp y (kẻ thất phu) đứng ngoài hay đứng cùng phe với thực dân xâm lược – kẻ mà theo Lê Xuân Khoa, đă ngoan cố, lỡ lầm gây ra cuộc chiến – th́ cái giá của cuộc chiến tranh quá đắt c̣n ǵ để bàn thảo nữa?
III/ Cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1945- 1954) đă kết thúc như thế nào ?
Như ở trên tôi đă nhận xét : mặc dù đặt tên cho phần II của cuốn sách là Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954, và đặt tên cho chương 4 (chương đầu của phần II) là Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam, nhưng Lê Xuân Khoa đă không nghiên cứu đầy đủ về cuộc chiến và hội nghị Genève, ông chỉ khai thác một cách tùy tiện một số sự kiện có liên quan đến Hội nghị để thu hút độc giả vào những mục tiêu ông muốn nhắm.
Mục tiêu Lê Xuân Khoa muốn nhắm là ǵ ?
Chưa cần tiếp cận nội dung, độc giả dễ dàng nhận biết ư đồ của Lê Xuân Khoa khi nh́n qua tiêu đề phần II và chương 4 :
– Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954.
– Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam.
Tị nạn và chia cắt là hai cái đích mà Lê Xuân Khoa muốn nhắm :
Tị nạn là tị nạn Cộng Sản. Chia cắt là tội của Cộng Sản. Bởi Cộng Sản là “ nguyên nhân gốc ” hàng đầu, và cũng là “ nguyên nhân gốc ” cuối cùng.
Mở đầu chương II Lê Xuân Khoa viết :
“ Cuộc chiến tranh Việt – Pháp, sau gần chín năm tàn phá điêu linh với khoảng một triệu người chết và bị thương đă được các cường quốc kết thúc ở Hội nghị Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 bằng việc chia cắt Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc. Thật ra Hiệp định Genève chỉ thỏa măn được yêu cầu cấp thiết của Pháp là vấn đề ngưng bắn trong khi không có khả năng đảm bảo một nền ḥa b́nh lâu dài, v́ Quốc Gia Việt Nam (được đổi tên là Việt Nam Cộng Ḥa kể từ ngày 23 tháng 10 năm 1955) không chịu công nhận hội nghị này.” (LXK sđd tr 163).
“ Nhưng như đă thấy kết quả Hội Nghị Genève chỉ là những thỏa hiệp về ngưng bắn ở ba nước Đông Dương đúng với sự mong muốn của Pháp ”. (LXK sđd tr 190).
Hai đoạn trích dẫn trên : đoạn thứ nhất mở đầu phần nhập đề, đoạn thứ hai lấy từ phần kết luận của cùng chương 4 Lê Xuân Khoa viết về Hiệp định Genève. Mà Hiệp định Genève, theo Lê Xuân Khoa, “ chỉ là những thỏa hiệp ngưng bắn ở ba nước Đông Dương đúng với sự mong muốn của Pháp.”
Khi một cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược mà qua đàm phán đă kết thúc theo sự mong muốn của nước đi xâm lược (trong trường hợp này là Pháp), như Lê Xuân Khoa đă nhận định, th́ tất nhiên nước đi xâm lược đă đạt được những mục đích cơ bản đề ra lúc ban đầu. Và nước bị xâm lược (trong trường hợp này là Việt Nam) chẳng gặt hái được ǵ ngoài chết chóc thương tật, đất nước bị tàn phá, chia cắt, dân tộc bị chia ĺa, quốc gia bị nợ nần lệ thuộc.
Do tác giả Lê Xuân Khoa nhận định như vậy nên tôi đề nghị ông cùng độc giả quay trở lại những ǵ ông đă viết về t́nh cảnh của Việt Nam vào thời điểm 1945, mục tiêu của hai bên Pháp – Việt trước khi nổ ra chiến tranh, và những nét chính diễn biến cuộc chiến tranh cho đến khi kết thúc hội nghị Genève.
Ở chương II (Những Yếu Tố Bên Ngoài), các trang 75, 77, 78, 79 và nhiều nơi khác trong Việt Nam 1945-1995 tập I, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng vào thời điểm 1945, đối với Pháp th́ Đông Dương thuộc Pháp (Indochine française) là một liên bang gồm 5 xứ : Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Cam Bốt.
Cái Đông Dương thuộc Pháp này, theo tôi (Chu Sơn) : thực dân Pháp đă bắt đầu xâm lược từ 1858, thiết lập sự đô hộ toàn phần từ 1884 (Ḥa ước Patenôtre), bị Nhật chia quyền cai trị năm 1941 và đảo chánh tháng 3-1945, Nhật đầu hàng ngày 14 tháng 8-1945. Chiến tranh thế giới II kết thúc, quân Pháp hăm hở tái chiếm Đông Dương nhằm đặt nó trở lại trong khối Liên Hiệp Pháp. Cuộc tái chiếm Đông Dương của Pháp được hai nước Anh và Trung Hoa (hai nước được Đồng minh giao trách nhiệm giải giới quân Nhật đầu hàng ở hai đầu vĩ tuyến 16) tiếp tay tạo điều kiện, đặc biệt được Hoa Kỳ đồng thuận (giai đoạn 1945- 1950), và chung lưng gánh vác (1950-1954, Mỹ chịu 75 % kinh phí, cung cấp vũ khí, hỗ trợ ngoại giao và đe dọa trực tiếp tham chiến).
Trong khi đó Việt Minh – Cộng Sản đă chuẩn bị từ trước, lợi dụng khoảng trống quyền lực (Nhật đầu hàng – quân Đồng Minh chưa vào) làm Cách mạng tháng Tám, h́nh thành nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, tuyên bố độc lập, kêu gọi Mỹ và thế giới ủng hộ, khẩn khoản đề nghị Pháp thương lượng ḥa b́nh hai bên cùng có lợi (Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp, các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp được tôn trọng, bảo đảm…). Nỗ lực tối đa của Việt Minh – Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, đặc biệt là Hồ Chí Minh, bị thất bại. Bởi Pháp đă muốn quay trở lại Đông Dương bằng bạo lực quân sự.
Cuộc chiến tranh Việt – Pháp nổ ra tại Nam Bộ ngày 23 tháng 9, ở Bắc Bộ ngày 20 tháng 12-1946. Việt Minh – Cộng Sản đă không bị tiêu diệt trong một thời gian ngắn như tính toán của các tướng lănh Pháp, mà vẫn tồn tại và lớn mạnh. Pháp nhận ra ḿnh đă bị sa lầy nên mưu đồ giải pháp Bảo Đại để thành đạt mục tiêu bằng hai giải pháp kết hợp : quân sự và chính trị, trong bối cảnh thế giới bắt đầu thời kỳ chiến tranh lạnh giữa hai phe Tư Bản – Cộng Sản. Bên cạnh Pháp c̣n có Mỹ, Anh, Trung Hoa Quốc Gia và nhiều quốc gia khác cùng quỹ đạo.
Từ 1945 đến cuối năm 1949 Việt Minh (VNDCCH) đánh Pháp một ḿnh. Từ năm 1950 sau lưng Việt Minh (VNDCCH) có Trung Quốc, Liên Xô và các nước thuộc phe xă hội chủ nghĩa.
Chiến tranh phát triển đến đỉnh điểm là cuộc đụng đầu quyết định tại Điện Biên Phủ. Tứ cường Anh, Nga, Pháp, Mỹ quyết định tổ chức hội nghị Genève để đ́nh chỉ chiến sự hầu tránh cuộc chiến tranh mở rộng trên b́nh diện thế giới. Trận Điện Biên Phủ kết thúc. Pháp đại bại. Việt Minh đại thắng.
Hội nghị Genève họp ngày 8-5, kết thúc ngày 20-7-1954 trên danh nghĩa gồm 9 nước tham dự : Anh, Nga (đồng chủ tịch), Pháp, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (hai nước trực tiếp tham chiến), Mỹ, Trung Quốc và ba phái đoàn : Quốc Gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Cam Bốt, nhưng quyền lực nằm trong tay ngũ cường : Anh, Nga, Mỹ, Pháp, Trung Quốc. Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là nước trực tiếp tham chiến và đánh thắng Pháp tại Điện Biên Phủ tiếng tăm vang dội, nhưng tiếng nói tại bàn hội nghị không tương xứng với tiếng súng trên chiến trường. Ba phái đoàn trong khối Liên hiệp Pháp (Quốc Gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Cam Bốt) không được phát biểu chính thức, tiếng nói của họ không được lắng nghe.
Thực tế hội nghị Genève diễn ra bởi hai bên.
– Bên này gồm Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Liên Xô và Trung Quốc.
– Bên kia gồm Pháp, Anh và Mỹ.
Do Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Pháp trực tiếp đánh nhau nên sau diễn văn khai mạc của hai trưởng đoàn đồng chủ tịch Hội nghị : Anh, Liên Xô (Eden và Molotov), Phạm Văn Đồng và Georges Bidault kẻ trước người sau tŕnh bày lập trường đàm phán và các điều kiện của ḿnh.
Lập trường và điều kiện của hai bên xa cách nhau rất lớn, nhưng cuối cùng Hội nghị đă được dàn xếp sau hơn hai tháng đấu tranh căng thẳng và gay cấn. Hội nghị diễn ra giữa chừng, Pháp thay đổi chính phủ và trưởng đoàn đàm phán. Pierre Mendès France thay Joseph Laniel làm thủ tướng kiêm ngoại trưởng, thay Georges Bidault làm trưởng đoàn đàm phán với tuyên bố sẽ kết thúc Hội nghị trong 30 ngày, điều chỉnh lập trường từ không điều đ́nh với Việt Minh đến chấp nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa làm đối tác đàm phán với những điều kiện gần với tuyên bố chung của Mỹ – Anh làm tại Hoa Thịnh Đốn bởi Eisenhower và Churchill (ngày 29-6-1954). Tuyên bố chung Mỹ – Anh rất gần với kết quả hội nghị Genève.
Lê Xuân Khoa mô tả thủ đoạn của Pháp tại hội nghị Genève như sau :
“ Trước t́nh h́nh nguy ngập về quân sự tại Điện Biên Phủ, các nhà lănh đạo Pháp đều chỉ mong muốn đạt được một thỏa hiệp đ́nh chiến với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa trong khi vẫn tiếp tục duy tŕ Quốc Gia Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp. Để đạt được mục đích ấy, ngoại trưởng Georges Bidault và thủ tướng Joseph Laniel đều không bỏ lỡ một cơ hội nào có thể hù dọa đối phương về khả năng Hoa Kỳ sẽ can thiệp quân sự vào Việt Nam nếu hội nghị Genève thất bại. Ngay cả khi chính phủ Laniel sụp đổ v́ không thuyết phục được chính quyền Eisenhower công bố ư định tham gia cuộc chiến ở Đông Dương, thủ tướng Mendès France vẫn không quên nhắc nhở Liên Xô và Trung Quốc về hiểm họa quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương với sự tham gia không thể tránh được của Hoa Kỳ ” (LXK sđd tr 164).
Để phối hợp với thủ đoạn đàm phán của Pháp, Hoa Kỳ chỉ cử thứ trưởng ngoại giao Walter Bedell Smith làm trưởng đoàn tham gia hội nghị, sau đó lại thay Walter B. Smith bằng Alexis Johnson, một nhân vật thấp hơn để chứng tỏ thái độ lấp lửng tiêu cực của ḿnh đối với Hội nghị. Bom nguyên tử và kế hoạch hành quân Vautour (Kền kền) cũng được Hoa Kỳ sử dụng làm áp lực trong suốt thời gian trước và sau khi hội nghị khai diễn.
Trong khi đó Liên Xô và Trung Quốc có những vấn đề quốc nội vô cùng nghiêm trọng cần giải quyết và những tham vọng mới trong công cuộc bang giao quốc tế cần thực hiện, nên chuyển đổi sách lược từ đối đầu sang chung sống ḥa b́nh với phương Tây (phe Tư Bản) hầu tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.
Ngoài ra Pháp đă tận dụng vị trí, vai tṛ của ḿnh tại châu Âu, trong Cộng đồng pḥng thủ châu Âu (thuộc khối NATO) mà Mỹ đang ráo riết vận động thành lập, và là một trong năm thành viên của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cùng những quyền lợi bảo lưu tại châu Á để điều đ́nh với Liên Xô, Trung Quốc trong quá tŕnh diễn ra Hội nghị Genève. Như thế ngoài các hội đàm tay ba Liên Xô – Trung Quốc – Việt Nam và Mỹ – Anh – Pháp trước khi hội nghị Genève khai mạc, bên ngoài hội trường Genève, c̣n có những đàm phán, mặc cả, thuyết phục (Lê Xuân Khoa gọi là đi đêm) tay đôi giữa Pháp – Mỹ, Anh – Mỹ, Pháp – Anh, Pháp – Liên xô, Pháp – Trung Quốc, Việt Nam – Liên Xô, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Pháp để điều chỉnh lập trường và cắt giảm các điều kiện nhằm kết thúc Hội nghị theo “ sự mong muốn của Pháp và sự nhục nhă thua thiệt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do bị Liên Xô, Trung Quốc áp đặt và phản bội ” (LXK sđd các tr:165, 166, 167, 168…)
Lê Xuân Khoa đặc biệt ngưỡng mộ tài năng đàm phán và thuyết phục của Mendès France. Ông dành nhiều trang trong chương 4 (Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam) để mô tả các thủ pháp mà Mendès France đă sử dụng trong quá tŕnh đàm phán. Lê Xuân Khoa so sánh các điều kiện Mendès France và Phạm Văn Đồng đưa ra để kết luận Mendès France đă thắng và Phạm Văn Đồng đă “ cúi đầu cam chịu ” (từ của Lê Xuân Khoa) kư kết một hiệp định trong thua thiệt và nhục nhă.
Lê Xuân Khoa cố t́nh làm cho người đọc sách của ông quên rằng : Phạm Văn Đồng không chỉ thương lượng với những điều kiện do Mendès France đưa ra, mà trước đó, Phạm Văn Đồng c̣n đă đấu tranh với lập trường và những điều kiện cứng rắn của Pháp do Georges Bidault tuyên bố trong phiên họp mở màn hội nghị, qua đó : Pháp không chịu thương lượng trực tiếp với Việt Minh – mà chỉ thương lượng với Trung Quốc về một nước Việt Nam trung lập, chia hai với chính phủ Quốc Gia do Bảo Đại cầm đầu trực thuộc chính quyền Liên Hiệp Pháp ở phía Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do Hồ Chí Minh cầm đầu ở phía Bắc, và đặc biệt, sau lưng Pháp c̣n có đế quốc Mỹ, một siêu cường hàng đầu thế giới không bị sứt mẻ ǵ sau hai cuộc đại chiến, đang hăm hở nhảy vào Đông Dương.
Để mô tả diễn biến của hội nghị Genève theo chủ đích của ḿnh, Lê Xuân Khoa đă đặc biệt nhấn mạnh đến quyền lực và sự phản bội của Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, trong khi cố t́nh giảm nhẹ các áp lực của Mỹ đối với cả Pháp lẫn Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa về một nguy cơ chiến tranh kéo dài, mở rộng với kế hoạch hành quân Vautuor, bom nguyên tử và những khả năng khác.
Theo tôi con át chủ bài thực sự tại Hội nghị Genève là Hoa Kỳ, Mendès France chỉ căn cứ vào lập trường và những điều kiện do Hoa Kỳ đưa ra (thể hiện qua thông cáo chung được kư bởi Eisenhower và Churchill ngày 29 tháng 6 tại Hoa Thịnh Đốn) để điều đ́nh với đối phương nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thua thiệt sau chín năm tiến hành cuộc tái chiếm chẳng những bất thành mà c̣n bị sa lầy và đại bại (tại Điện Biên Phủ), chứ không hề có việc hội nghị đă diễn ra và kết thúc như mong muốn của Pháp, như Lê Xuân Khoa nhận định.
Thông cáo chung Anh – Mỹ gồm 7 điều, Lê Xuân Khoa đă chép lại như sau :
1/ Bảo tồn sự toàn vẹn và độc lập của Lào và Cam Bốt bằng việc bảo đảm sự rút quân của các lực lượng Việt Minh ra khỏi hai nước này.
2/ Bảo tồn ít nhất phân nửa phía nam của Việt Nam, nếu có thể được, một vùng đồng bằng (nhóm từ “ một vùng đồng bằng ”, Lê Xuân Khoa cố t́nh rút gọn từ nguyên văn : “ một cứ điểm trên vùng đồng bằng Bắc bộ ” – Chu Sơn), trong khi lằn phân ranh không được vượt quá phía nam Đồng Hới (phía bắc vĩ tuyến 17).
3/ Không áp đặt lên Cam Bốt hay Lào, hay ở phần lănh thổ được bảo tồn của Việt Nam những điều kiện hạn chế khả năng duy tŕ chế độ chính trị ổn định không cộng sản, nhất là quyền của họ đủ lực lượng bảo vệ an ninh quốc nội, được nhập cảng vũ khí và có thể yêu cầu sự giúp đỡ của các cố vấn nước ngoài.
4/ Không gồm có một điều khoản chính trị nào có thể đưa đến việc mất cho Cộng sản những vùng đất bảo tồn.
5/ Không loại bỏ khả năng thực hiện sau này việc thống nhất Việt Nam bằng những phương cách ḥa b́nh.
6/ Cho phép những người muốn dời chỗ ở từ một vùng này sang một vùng khác ở Việt Nam được di chuyển trong những điều kiện ḥa b́nh và nhân đạo.
7/ Dự liệu một hệ thống kiểm soát quốc tế hữu hiệu.
Đọc kỹ thông báo chung Anh – Mỹ từ cách sử dụng từ : “ Bảo tồn ” (ở điều 1, điều 2) “ không áp đặt ”, “ không gồm có ”, “ không loại bỏ ”, “ cho phép ” (ở điều các 3, 4, 5, 6) ở đầu các câu, đến nội dung của mỗi điều khoản, chúng ta thấy đây là thông điệp chỉ dẫn cho Mendès France trong các cuộc đàm phán với đối phương. Chúng ta thấy dấu ấn thông điệp này trong các văn kiện Hiệp định Genève đặc biệt Tuyên bố chung của 9 nước tham gia hội nghị không có chữ kư, tuyên bố riêng của Mỹ ngày 21-07-1954 và hành động của Mỹ về sau.
Chúng ta thấy việc chia cắt Việt Nam làm hai nằm ở điều 2 của bản thông cáo Anh – Mỹ. Chúng ta thấy việc bảo tồn các vùng đất c̣n lại (Lào – Cam Bốt, Nam Việt Nam) để không rơi vào tay Cộng Sản nằm ở điều 1, điều 3. Chúng ta thấy việc Mỹ và Quốc Gia Việt Nam không kư vào Tuyên bố cuối cùng của 9 nước kết thúc hội nghị Genève nằm ở điều 4 (không có một điều khoản chính trị nào có thể đưa đến việc mất cho Cộng sản những vùng đất được bảo tồn), để rồi Thông báo cuối cùng (của hội nghị) không có chữ kư (của nước nào).
Như thế việc chia cắt Việt Nam làm đôi không hề là tội lỗi riêng của Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa như Lê Xuân Khoa đă cố t́nh nhấn mạnh qua những b́nh luận trích dẫn nhằm phục vụ cho chủ đích ban đầu của ông, mà là xu hướng chung của các cường quốc (mà Mỹ là nước hùng mạnh hàng đầu) trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế như đă xảy ra ở “ hai nước Đức ” và hai miền Nam – Bắc Triều Tiên.
Không hiểu tại sao viết về hội nghị Genève mà không có một văn kiện chính thức nào như Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự tại Việt Nam, Bản Tuyên bố cuối cùng không có chữ kư của 9 nước tham dự Hội nghị cũng chẳng thấy Lê Xuân Khoa ghi chép lại nguyên văn làm bằng chứng cho những nhận định của ḿnh. Đọc kỹ các văn bản ấy tôi không thấy một từ, một câu nào nói rằng Hội nghị Genève đă “ chia cắt Việt Nam làm đôi ” với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc như Lê Xuân Khoa đă khẳng định cả. Thậm chí trong bản Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự tại Việt Nam, tất cả các câu có nhóm từ “ vĩ tuyến 17 ” đều đi liền với các thuộc từ “ vĩ tuyến quân sự tạm thời ”. Trong Tuyên Bố Chung c̣n nói rơ hơn : “ Trong tất cả mọi trường hợp vĩ tuyến 17 không được xem là ranh giới chính trị hay lănh thổ ”. Vậy th́ vấn đề chia cắt Việt Nam làm đôi, vấn đề vĩ tuyến 17 là “ ranh giới chính trị, ranh giới lănh thổ ” nằm ở đâu trong thực tế Việt Nam và Đông Dương trước và sau hội nghị Genève ?
Chẳng hiểu v́ vô t́nh hay cố ư Lê Xuân Khoa đă không xâu chuỗi các động thái, các công đoạn của sách lược Hoa Kỳ từ sau thế chiến II thành một hệ thống chiến lược của nước này đối với Việt Nam, Đông Dương, Đông Nam Á và châu Á, để từ đó phanh phui ra ư đồ đích thực của Mỹ tại hội nghị Genève. Theo tôi, tại hội nghị Genève Mỹ đă lựa chọn một thái độ, một thủ đoạn ngoại giao mà Lê Xuân Khoa cho là sai lầm (LXK sđd tr 196- 208) để từ đó dành cho Hoa kỳ “ những bài học ” “ có vẻ đúng ” với một thái độ “ xem ra chân thành ”. Thực tế là Lê Xuân Khoa đă không chịu tiếp cận chủ nghĩa chống cộng thánh chiến và học thuyết Đô mi nô (pḥng thủ từ xa – Chu Sơn) mà Hoa Kỳ đă h́nh thành và vận dụng từ sau thế chiến II kết thúc. Từ việc Hoa Kỳ giao quyền cho Anh và Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch đưa quân vào Đông Dương để giải giới quân Nhật, ủng hộ Pháp tái chiếm thuộc địa, đến việc vận động các quốc gia cùng quỹ đạo công nhận ngoại giao chính phủ Quốc Gia Bảo Đại, đến việc thành lập các nhóm cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG), để qua đó tiến hành các chương tŕnh, các kế hoạch viện trợ và cố vấn các vấn đề chiến lược bên cạnh bộ chỉ huy tối cao của Pháp tại Đông Dương, thúc đẩy Pháp nhanh chóng “ Việt Nam hóa chiến tranh ”, khuyến dụ chính phủ Quốc Gia, các phe nhóm chống Cộng bản địa tích cực hơn, chủ động hơn trong việc tiếp nhận quyền lực từ ông chủ Pháp, đặc biệt qua đó tuyển mộ nhân viên CIA và “ t́m chọn ngựa ” cho cuộc dấn thân chẳng đặng đừng khi thời cơ đến. Thời cơ đó là Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ và Hội nghị Genève nhóm họp.
Tại hội nghị Genève, một mặt Hoa Kỳ không muốn trực tiếp thương lượng ḥa b́nh với hai nước Cộng sản đầu sỏ là Liên Xô và Trung Quốc mà Hoa Kỳ cho là nguồn gốc của cái ác không cứu chữa được, và một mặt, Hoa Kỳ không muốn bỏ mặc Pháp một ḿnh đương đầu ngoại giao trong thế yếu với đối phương để rồi do t́nh thế bức bách tại chiến trường mà nhượng bộ, gây bất lợi tối đa cho Thế giới Tự do mà Hoa Kỳ nghiễm nhiên là quốc gia đứng đầu (đế quốc Pháp đă lạc hậu, lỗi thời, bất lực). Do vậy mà Hoa Kỳ không từ bỏ bất cứ một cơ hội nào để sắm sửa vai tṛ “ thần chiến tranh ” nhằm hù dọa đối phương (bom nguyên tử, kế hoạch hành quân Vautour, cử trưởng đoàn tham gia Hội nghị không cân xứng với các phái đoàn khác và dọa rút lui, phá bỏ hội nghị…). Song song các thủ đoạn ngoại giao đó, Hoa Kỳ tích cực vận động để h́nh thành Liên Minh pḥng thủ Đông Nam Á (SEATO), đồng thời cùng với giáo hội La Mă, giáo hội Pháp vận động chính phủ Pháp áp lực để Bảo Đại nhận Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng chính phủ Quốc Gia thay Bửu Lộc.
Bảo Đại, nhân vật được thực dân Pháp chuẩn bị để thực hiện các giải pháp trong thời b́nh (từ 1933 – 1945) cũng như trong thời chiến (từ 1948 – 1954), trước sự chuyển giao quyền lực giữa hai ông chủ, đă thực thà thốt lên :
“ Chúng ta (Quốc Gia Việt Nam – Chu Sơn) không c̣n trông cậy vào Pháp được nữa. Tại Genève người Mỹ là đồng minh duy nhất của chúng ta. Trước biến chuyển của t́nh h́nh họ muốn thiết lập một hệ thống pḥng thủ mới trong vùng Đông Nam Á. Họ có thể giúp chúng ta tiếp tục chiến đấu với Cộng sản ” (LXK sđd tr 187).
Như thế, tại hội nghị Genève, người Quốc Gia không c̣n trông cậy vào Pháp được nữa, bởi v́ Pháp bị bắt buộc rút lui khỏi Đông Dương, từ bỏ mục tiêu mà họ muốn tái chiếm từ sau thế chiến II. Trước t́nh thế đó, người Quốc Gia quay về phía Mỹ.
Bởi v́ người Mỹ muốn “ bảo tồn những vùng đất c̣n lại ” (Nam Việt Nam, Lào và Cam Bốt) và biến chúng thành tiền đồn của thế giới Tự Do nhằm ngăn chận chủ nghĩa Cộng sản tràn xuống Đông Nam Á.
Chính Lê Xuân Khoa đă viết mấy ḍng ở trang 197 như sau :
“ Chỉ v́ tin tưởng ở giải pháp quân sự trong công cuộc ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản ở Đông Dương, khi Điện Biên Phủ bị lâm nguy, Hoa Kỳ cố gắng thành lập một liên minh quân sự để cứu Pháp. Khi những nỗ lực này bị thất bại, Hoa Kỳ chuẩn bị thay thế cho vai tṛ của Pháp bằng một kế hoạch hậu Genève : Xây dựng một chế độ dân chủ ở miền Nam Việt Nam để đương đầu với chính thể Cộng Sản ở miền Bắc ”.
Chỉ hơn một tháng rưỡi sau khi Hội nghị Genève kết thúc, Liên Minh pḥng thủ Đông Nam Á ra đời (8-9-1954), khóa chặt ṿng đai phong tỏa Trung Quốc và Bắc Việt từ Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Dương, Phillipin, Mă Lai, Singapo, Nam Việt Nam, Cam Bốt, Lào, Thái Lan. Vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới chính trị “ chia cắt Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc ”, như Lê Xuân Khoa nhận định là như thế.
Có điều “ tại Genève người Mỹ đă không chọn Bảo Đại làm đồng minh ” như ông đă xác tín, bởi sau lưng ông vua sành sỏi ăn chơi đàng điếm này chỉ là một nhóm nhỏ của một triều đ́nh An Nam lệ thuộc, phong kiến, mục nát, lỗi thời, một bon trộm cướp du thủ du thực B́nh Xuyên và một bộ phận các giáo phái đă từng cộng tác với Pháp và Nhật.
Trong thời gian diễn ra hội nghị Genève, người Mỹ đă đưa một nhân vật khác thay Bảo Đại làm người đứng đầu chính phủ Quốc Gia (sau này là Việt Nam Cộng Ḥa) là Ngô Đ́nh Diệm, bởi sau lưng ông quan nhiều tham vọng đạo ḍng này c̣n có hàng triệu tín đồ Công giáo được lănh đạo bởi giáo hội Thừa sai Pháp và giáo hội La Mă, những đại diện cho một Thượng đế toàn năng và không sai lầm, đă khẳng định công cuộc chống Cộng là một tín điều để cùng nhau tiến hành cuộc thánh chiến.
Như thế, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, sau trận Điện Biên Phủ, cả hai phe (Pháp – Việt, Tư bản – Cộng sản) đều muốn dừng lại v́ cùng e ngại t́nh thế sẽ trở nên nguy hiểm nếu chiến tranh tiếp tục sẽ phát triển theo chiều hướng rộng lớn, nguy hiểm hơn (thế giới đại chiến).
Phe Thế giới Tự do muốn “ bảo tồn ” những vùng đất có thể được (để tổ chức lại thế trận) hầu tránh một thất bại sau cùng.
Phe Cộng Sản đành chấp nhận những thắng lợi nửa chừng để khỏi phải đụng đầu trực tiếp với Mỹ.
Do cả hai bên cùng muốn dừng lại nên chiến sự tạm thời đ́nh chỉ (qua các văn kiện Hiệp định kư kết giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa), ḥa b́nh tạm thời được lập lại với một giải pháp chính trị nửa vời, giá trị pháp lư không được bảo đảm thể hiện qua bản tuyên bố chung của 9 nước tham gia hội nghị không có chữ kư. Theo đó, tôi xin tóm lược :
1/ Pháp cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lănh thổ của ba nước Việt Nam – Lào – Cam Bốt. Pháp và Viêt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa thỏa thuận đ́nh chiến.
2/ Vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới quân sự tạm thời và khu phi quân sự được thiết lập ở hai bên vĩ tuyến 17 (ḍng sông Bến Hải) nhằm ngăn chận các cuộc xung đột có thể xảy ra trong quá tŕnh hai bên thi hành hiệp định đ́nh chiến. Trong mọi trường hợp vĩ tuyến 17 không được xem là ranh giới chính trị, lănh thổ.
3/ Quân đội hai bên tập kết về hai vùng do hiệp định quy định : Quân đội và chính quyền khối Liên hiệp Pháp (gồm quân Pháp và quân Quốc Gia Việt Nam) rút về miền nam Việt Nam, quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa rút về miền bắc Việt Nam trong ṿng 300 ngày. Trong thời gian ấy hai bên trao trả tù binh, chuyển giao các cơ sở hạ tầng. Hai bên không được trả thù những người đă tham gia bên này bên kia trong thời gian xẩy ra chiến tranh.
4/ Hai bên Việt Nam, Lào, Cam Bốt cam kết không tham gia bất cứ một liên minh quân sự nào. Cấm không được đưa vào hai miền Việt Nam, hai nước Lào và Cam Bốt các vũ khí và nhân viên quân sự.
5/ Nhân dân các nước được bảo đảm các quyền tự do, tự do đi lại từ vùng này qua vùng khác, tự do chọn chỗ cư trú lâu dài.
6/ Hai nước Lào, Cam Bốt tổ chức tổng tuyển cử trong ṿng một năm để bầu ra chính quyền mới đại diện cho các khuynh hướng chính trị theo thể chế trung lập. Hai miền Việt Nam hiệp thương một năm sau (1955) để cùng nhau tổ chức tổng tuyển cử bầu ra chính quyền thống nhất vào hai năm sau (1956).
7/ Pháp sẽ triệt thoái hoàn toàn ra khỏi các khu vực đóng quân và tạm thời quản lí hành chính thông qua thảo luận (điều kiện và thời hạn) với các chính quyền sở tại (Quốc Gia Việt Nam và Vương quốc Lào).
8/ Một ủy ban kiểm soát quốc tế được thành lập có vai tṛ và nhiệm vụ giám sát quá tŕnh thực thi Hiệp định đ́nh chiến và Tuyên bố cuối cùng.
Hội nghị Genève kết thúc với kết quả như thế. Các nước, các lực lượng liên quan nh́n nhận và phản ứng thế nào ?
– Đối với Pháp : Mục tiêu tái chiếm Đông Dương là đưa năm xứ của thuộc địa này trở về với sự thống trị của Pháp như trước khi bị Nhật chia quyền và đảo chính (3-1945).
Nay cùng đối phương kư kết Hiệp định đ́nh chiến để rút quân, tạm thời bảo lưu quân đội tại miền Nam, tại hai căn cứ trên lănh thổ Lào và sẽ triệt thoái hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam và Lào trong ṿng hai năm với sự thương lượng cùng chính quyền sở tại (Quốc Gia Việt Nam và Vương quốc Lào) để ấn định thời gian và các quyền lợi sau khi rút quân.
Như thế sau hiệp định Genève Pháp c̣n lại những ǵ tại Việt Nam và Đông Dương mà Lê Xuân Khoa hết lời ca ngợi tài năng và bản lĩnh của Mendès France như thế ?
Về vĩ tuyến 17 cho dù là “ ranh giới chính trị của hai nước Việt Nam ” và là nhượng bộ bất đắc dĩ của phái đoàn Phạm Văn Đồng do áp lực của Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Xuân Khoa đă nhận định và nhấn mạnh, th́ cuối cùng cũng chỉ là những thắng lợi của Mỹ, kẻ bảo trợ mới cho Quốc Gia Việt Nam, chứ có phải của Pháp nữa đâu ?
– Đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa : Khi tiến hành cuộc chiến tranh chẳng đặng đừng với mục tiêu là giành lại độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lănh thổ cho một nước Việt Nam thống nhất. Tuy đánh thắng Pháp tại Điện Biên Phủ nhưng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa không c̣n được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ để tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh đến thắng lợi cuối cùng, đành phải chấp nhận đ́nh chiến với một nửa đất nước giành lại được. C̣n một nửa đất nước (miền Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa phải đương đầu với Mỹ và Quốc Gia Việt Nam để thống nhất đất nước trong ḥa b́nh theo tinh thần của hiệp định Genève, hay tiến hành một cuộc chiến tranh khác với Mỹ và Việt Nam Quốc Gia để thống nhất đất nước.
– Đối với Mỹ : Năm 1945, Mỹ chấp thuận cho Anh và Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch đưa quân vào Đông Dương giải giới quân Nhật đầu hàng, ủng hộ Pháp tái chiếm thuộc địa nhằm tiêu diệt Cộng sản Việt Nam và ngăn chận Cộng sản Trung Quốc từ biên giới Việt – Trung. Đến thời điểm 1954, mục tiêu đó bất thành, theo quan điểm của Mỹ : Pháp đă áp dụng một thứ chủ nghĩa thực dân hẹp ḥi, lỗi thời. Mỹ muốn thay thế Pháp “ bảo tồn ” những phần lănh thổ c̣n lại gồm Nam Việt Nam, Lào và Cam Bốt, biến nó thành tiền đồn của thế giới Tự do. Tuyên bố riêng của Mỹ ngày 21-7 tại Genève nhằm khẳng định ḿnh không bị ràng buộc bởi hiệp định Genève, đồng thời ngăn đe phe Cộng Sản phá bỏ hiệp định Genève, “ đe dọa ḥa b́nh và an ninh thế giới ”. Diễn đạt một cách cụ thể là : Không để Cộng Sản miền Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa) thống nhất đất nước bằng phương thức tổng tuyển cử theo quy định bởi Tuyên bố chung của 9 nước tham gia Hội nghị không có chữ kư. Tổng thống và ngoại trưởng Mỹ bấy giờ là Eisenhower và John Foster Dulles nhận định rằng nếu tổng tuyển cử Hồ Chí Minh sẽ thắng với tỷ lệ 80 %. Trong trường hợp Cộng Sản miền Bắc tiến hành thống nhất bằng bạo lực quân sự, Mỹ sẽ trừng trị bằng bạo lực quân sự. Để thực hiện chủ trương của ḿnh, Mỹ tích cực hỗ trợ mọi mặt cho Ngô Đ́nh Diệm xây dựng ở miền Nam một chế độ Cộng Ḥa Thiên Chúa giáo như Mỹ đă làm tại Phillipin, một mặt Mỹ tổ chức Liên Minh pḥng thủ Đông Nam Á để bảo vệ miền Nam Việt Nam, Cam Bốt và Lào, khóa chặt ṿng vây bao quanh Trung Quốc và Bắc Việt từ Đông bắc Á xuống Đông nam Á, và vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới lănh thổ của Mỹ ở Viễn Đông.
–- Đối với Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Ḥa : Cả hai đều chống lại Hội nghị Genève và Hiệp định Genève, chống lại “ sự cấu kết giữa thực dân Pháp và Cộng Sản Bắc Việt tay sai Nga – Hoa chia đôi đất nước ”, chống lại sự thống nhất đất nước theo phương thức hội nghị Genève qui định qua Tuyên bố chung. Quốc Gia Việt Nam ra tuyên bố riêng để bày tỏ quan điểm lập trường. Nói như thế nhưng làm th́ :
– Cho đến khi Hội nghị Genève kết thúc, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam vẫn ngồi tại bàn đàm phán bên cạnh phái đoàn Pháp mặc dù tiếng nói không được lắng nghe và đặc biệt trước đó 6 tuần Quốc Gia Việt Nam đă được Pháp “ trao trả độc lập hoàn toàn ” qua hiệp ước Laniel – Bửu Lộc (4-6-1954).
– Trong khi đó tại Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam không tổ chức kháng chiến để bảo vệ đất nước trước thực tế Thực dân và Cộng sản cấu kết chia cắt ?
– Quốc Gia Việt Nam vẫn ở trong khối Liên hiệp Pháp triệt thoái khỏi miền Bắc theo các điều khoản Hiệp định Genève, kêu gọi tổ chức di cư, tổ chức định cư và xây dựng chính quyền Việt Nam Cộng ḥa theo kế hoạch viện trợ trực tiếp và toàn diện của Mỹ, từ chối nói chuyện với miền Bắc để thống nhất đất nước theo tinh thần Hiệp định Genève.
Giả định rằng Quốc Gia Việt Nam là một thực thể độc lập có khả năng bảo vệ quan điểm của ḿnh trên vùng lănh thổ được hội nghị Genève phân chia (từ vĩ tuyến 17 trở vào) để “ không bảo đảm một nền ḥa b́nh lâu dài ” như Lê Xuân Khoa đă viết, th́ theo tôi : Việt Nam Cộng Ḥa, hậu thân của Quốc Gia Việt Nam, là “ nước ” được hưởng lợi nhiều nhất tại hội nghi Genève, và hiệp định Genève là cơ hội tốt nhất để “ người Quốc Gia ” thực hiện lư tưởng (tự do dân chủ), ḷng yêu nước và t́nh tự dân tộc của ḿnh.
Luận chứng là : Cuộc chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt, Quốc Gia Việt Nam vốn là một giải pháp (LXK sđd trang 79) của thực dân Pháp nhằm bổ sung, tăng cường sức mạnh để “ tiêu diệt Việt Minh Cộng Sản ”, bỗng dưng trở thành chủ nhân ông của một nửa đất nước – một Miền Nam mưa thuận gió ḥa, đất đai ph́ nhiêu, tài nguyên rừng biển phong phú với Sài G̣n ḥn ngọc Viễn Đông, và đặc biệt có quyền hạn ngang hàng với Việt Minh Cộng Sản trong các vấn đề quan trọng của đất nước.
Như thế không là may mắn, là cơ hội ngàn năm một thuở cho Việt Nam Quốc Gia sao ?
Thế nhưng không hiểu tại sao từ Quốc gia Việt Nam với Bảo Đại, đến Việt Nam Cộng Ḥa của Ngô Đ́nh Diệm, và đến cả Lê Xuân Khoa, đều cực lực phản đối tất cả những nguyên nhân đưa đến thắng lợi, may mắn và cơ hội ấy với lập luận đầy mâu thuẫn và đạo đức giả rằng : chia cắt đất nước là tội ác do Thực – Cộng âm mưu, cấu kết và thực hiện, chứ Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Ḥa không dính líu ǵ cả, 20 tháng 7 là ngày quốc hận. Xin hỏi giáo sư Lê Xuân Khoa : Nếu không “ chia cắt ” th́ lấy đâu để Việt Nam Quốc Gia và Việt Nam Cộng Ḥa có được một nửa đất nước, một miền Nam như thế ? Trước khi “ chia cắt ”, xin hỏi giáo sư Lê Xuân Khoa, có một Việt Nam độc lập thống nhất và toàn vẹn lănh thổ không ? Hay Việt Nam chỉ là ba trong năm xứ Đông Dương thuộc Pháp ?
Giả định rằng :
“ Hội nghị Genève… chia cắt Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc ” như Lê Xuân Khoa kết luận, theo tôi vẫn tốt hơn :
“ Một Việt Nam với ba xứ Nam Kỳ thuộc địa, Bắc Kỳ, Trung CHUỳ bảo hộ nằm trong Đông Dương thuộc Pháp ”.
Không phải chỉ có thế, mà chắc chắn cả tác giả Lê Xuân Khoa và tôi đều không tin vấn đề đơn giản đến thô thiển như vậy.
Tôi hiểu rằng khi viết những ḍng, những câu đơn giản như thế, khi sử dụng những từ mang nhiều tính chất kích động như thế, Lê Xuân Khoa vẫn bảo lưu trong ông một cán bộ tuyên truyền cấp cơ sở của Việt Nam Cộng Ḥa. Tuy nhiên không đơn giản Lê Xuân Khoa chỉ là một cán bộ tuyên truyền của Việt Nam Cộng Ḥa, ông c̣n là một nhà giáo, một người muốn làm nghiên cứu khoa học, ông đă tỏ ra thành thật và chừng mực nào đó đă tiếp cận vấn đề khi dành cho Hoa kỳ những bài học. Ông đă viết ở trang 205 trong cuốn sách của ḿnh như sau :
“ Quyết định của Hoa Kỳ khi ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương để ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á được chứng minh là sai lầm…”
Ở trang 207 ông viết tiếp :
“ Quyết định thứ hai rơ ràng sai lầm của Hoa kỳ là bất hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc tại hội nghị Genève 1954. Mặc dù vừa thua nặng ở Điện Biên Phủ và đang lâm vào t́nh trạng tuyệt vọng về quân sự, Pháp vẫn dựa vào uy thế của Mỹ để mặc cả khiến cả hai đại cường Cộng Sản đều ch́u chuộng và bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp định không xứng đáng với những điều kiện của phe chiến thắng. Hoa Kỳ quá lo ngại về hiểm họa bành trướng của Cộng Sản mà không nhận ra rằng quyền lợi của Liên Xô lúc đó không phải ở Viễn Đông c̣n Trung Quốc th́ đang thay đổi chính sách đối ngoại, muốn ḥa hoăn với khối tư bản để đáp ứng các nhu cầu quốc nội sau những hao tổn quá lớn cho hai cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam…” (xem chương Bốn, chương Năm)
“ Ngoài ra cả hai đại cường Cộng Sản đều không muốn có một Việt Nam mạnh nhưng độc lập. Nếu Hoa Kỳ chính thức tham gia hội nghị Genève và có một cuộc thương thuyết riêng rẽ với Nga Sô và Trung Quốc th́ có thể đạt được một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị có khả năng ổn định lâu dài hơn, khác với bản hiệp định đ́nh chiến giữa Pháp và Việt Minh ” (xem chương Bốn, chương năm).
Như thế, theo Lê Xuân Khoa qua phần trích dẫn này, cái gốc của chiến tranh Đông Dương là : Pháp đă sai lầm ngoan cố tái chiếm thuộc địa, và Hoa Kỳ cũng đă sai lầm khi ủng hộ cuộc tái chiếm đó. Và việc hội nghị Genève, cũng theo Lê Xuân Khoa, không đưa đến một giải pháp chính trị bền vững và Ḥa b́nh không được bảo đảm là do Hoa Kỳ đă không thương thuyết riêng với Nga Sô và Trung Quốc, trong khi hai nước Cộng Sản đầu sỏ này v́ những lư do riêng rất chính đáng muốn ḥa hoăn với phương Tây, đặc biệt đối với Mỹ. Lê Xuân Khoa đă viết nguyên văn như thế này, tôi xin chép lại :
“…quyền lợi của Liên xô không phải ở Viễn Đông…”
“…c̣n Trung Quốc th́ đang thay đổi chính sách đối ngoại, muốn ḥa hoăn với khối tư bản để đáp ứng nhu cầu quốc nội sau những hao tổn quá lớn cho cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam.”
Như thế theo Lê Xuân Khoa, nếu Hoa Kỳ trực tiếp thương lượng riêng với Liên Xô và Trung Quốc th́ :
“ Có thể đạt được một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị có khả năng ổn định lâu dài…”
Tạm thời tôi không tranh luận với Lê Xuân Khoa rằng là : “ Liệu nếu Hoa Kỳ thương lượng riêng với Liên Xô và Trung Quốc tại Genève th́ có thể đạt được một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị ổn định lâu dài…” hay không ?
Tôi nghĩ rằng Lê Xuân Khoa đă không hiểu hết, hoặc không muốn hiểu ư đồ của Mỹ theo như sách lược của họ về Viễn Đông vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt – Pháp mới nêu ra giả định đó.
Theo tôi một khi Mỹ muốn ngăn chận Trung Quốc và Cộng Sản Bắc Việt ở vĩ tuyến 17 th́ đương nhiên vấn đề chính trị ở Đông Dương và Việt Nam không thể ổn định lâu dài, cũng như trước đó năm 1945, khi Hoa Kỳ ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương th́ lẽ đương nhiên chiến tranh Việt – Pháp không thể tránh được.
Có điều những nhận định của Lê Xuân Khoa qua hai đoạn trích dẫn trên chứng tỏ ông đă bước đầu mường tượng ra vai tṛ chủ đạo của Mỹ tại Việt Nam, Đông Dương và Đông Nam Á từ sau hội nghị Genève. Cũng như những bài học lịch sử Lê Xuân Khoa dành cho Pháp, những bài học lịch sử ông dành cho Hoa Kỳ tuy chưa là những thành tựu khoa học nhưng là những gợi ư tích cực để độc giả truy nguyên bản chất đích thực của các cuộc chiến tranh tại Việt Nam và Đông Dương từ sau thế chiến II đến 1975, khi Hoa Kỳ rút bỏ hoàn toàn khỏi Việt Nam và Đông Dương.
Cách lư giải của Lê Xuân Khoa qua hai đoạn trích dẫn trên cũng là những gợi ư để người đọc sách của ông lật ngược vấn đề với những chữ NẾU như ông viết : “ Nếu Hoa Kỳ…”
Tôi xin bắt chước Lê Xuân Khoa mà đặt vấn đề với những chữ Nếu trước những biến cố quan trọng ngược ḍng thời gian trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại :
1/ Vấn đề được đặt ra với chữ Nếu thứ nhất :
“ Nếu Hoa kỳ không chủ động hất cẳng Pháp, không hăm hở nhảy vào Việt Nam (và Đông Dương) để “ bảo tồn những vùng lănh thổ c̣n lại ” (như thông cáo chung Anh – Mỹ ngày 29- 6-1954) th́ liệu cuộc chiến tranh “ của Mỹ ở Việt Nam ” có xảy ra không ? ”
Câu trả lời chắc chắn là không.
Trong trường hợp đó, cuộc nội chiến Nam – Bắc có xảy ra không?
Câu trả lời là không với hai khả năng, và có với một khả năng :
+ Là không với điều kiện chính quyền miền Nam chấp nhận thua trong cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước được dự trù bởi hiệp định Genève.
+ Là không khi chính quyền miền Nam bày tỏ một đường hướng chính trị ḥa hoăn mà qua đó chính quyền miền Bắc hy vọng có thể thống nhất đất nước bằng ḥa b́nh.
+ Là có khi chính quyền miền Nam bắt khước một cách dứt khoát và quyết liệt các đề nghị hiệp thương thống nhất đất nước của miền Bắc. Khi đó cuộc nội chiến sẽ xảy ra và kết thúc nhanh chóng mà không tàn phá khốc liệt, dữ dội như cuộc chiến tranh với Mỹ. Và miền Bắc sẽ không lệ thuộc trầm trọng vào Liên Xô, Trung Quốc và phải trả giá quá đắt như Lê Xuân Khoa đă cáo buộc.
2/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ hai :
“ Nếu Pháp không “ngoan cố tái chiếm Đông Dương” và “Hoa Kỳ không sai lầm khi ủng hộ cuộc tái chiếm đó” th́ “cuộc chiến tranh chống Pháp” có xảy ra không ? Và Việt Minh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa có cầu viện Liên Xô, Trung Quốc để rồi đất nước dân tộc Việt Nam phải gánh chịu các tổn thất nặng nề như Lê Xuân Khoa đă cáo buộc không ”.
Câu trả lời chắc chắn là không.
3/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ ba :
“ Nếu năm 1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha không tấn công vào Đà Nẵng mở màn cuộc xâm lược và thiết lập công cuộc đô hộ toàn phần lên đất nước Việt Nam năm 1884 th́ liệu nhân dân Việt Nam có tiến hành các cuộc chiến tranh v́ độc lập tự do từ đó đến 1954 – Hội nghị Genève không ? ”
Lại thêm một câu trả lời phủ định.
4/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ tư :
“ Nếu từ đầu thế kỷ 17 không có sự việc ba mũi giáp công (các thương đoàn, các giáo đoàn và các hạm đội) của các nước Tây phương (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…, và cuối cùng là Pháp) vào Việt Nam th́ có xẩy ra các cuộc đụng độ dẫn đến chiến tranh suốt bốn thế kỷ mà đỉnh cao là hai cuộc chiến tranh Đông Dương từ 1945 – 1975 không ? ”
Lại thêm một chữ không cho câu trả lời.
5/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ năm :
“ Nếu cuộc xâm nhập của các nước phương Tây vào Việt Nam từ thế kỷ 17 chỉ với những thương đoàn, những giáo đoàn mà không có những hạm đội đi kèm th́ liệu có xảy ra các cuộc chiến tranh không ? ”
Cũng vẫn là câu trả lời với chữ không.
6/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ sáu :
“ Nếu sự xâm nhập của phương Tây vào Việt Nam với những thương đoàn, những hạm đội, những giáo đoàn (không phải là giáo hội thừa sai) tiến hành một phương thức truyền đạo giống như những đệ tử đầu tiên của giáo chủ Jésus đi vào La Mă (ḥa b́nh và chịu đựng) th́ liệu chiến tranh có xảy ra không ? Câu trả lời là có, nhưng chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng hơn và mức độ tàn phá cả con người và của cải vật chất, tài nguyên sẽ giảm nhẹ rất nhiều. Khi ấy chiến tranh sẽ không mang màu sắc “thánh – nội chiến”, khi ấy khối đoàn kết dân tộc không bị phá vỡ. Khi ấy lực lượng kháng chiến sẽ được tăng cường và lực lượng xâm lược sẽ mất đi một hậu thuẫn to lớn là đa số những giáo dân công giáo, và hội nghị Genève sẽ không kết thúc với việc Mỹ thay thế Pháp kéo theo một Ngô Đ́nh Diệm thay thế Bảo Đại, để rồi nói như Lê Xuân Khoa : “ Không bảo đảm một nền ḥa b́nh lâu dài ”
Nhưng lịch sử không diễn ra theo những giả định của người đời sau. Và những chữ Nếu ở trước các câu hỏi của người đặt lại vấn đề rốt cùng chỉ là những tiếc nuối khôn nguôi, những tiếng thở dài phẫn nộ, những lời cảnh báo khẩn thiết trước bọn cầm quyền mù điếc nắm quyền sinh sát ở các phía đối nghịch của một thế giới thường trực biến động và ngày một xấu hơn.
Những giả định lịch sử rốt cùng cũng chỉ để mua vui một vài trống canh cho những kẻ trầm tư, những người tự giằng xé mất ngủ với điều kiện người đặt vấn đề sáng suốt, lương thiện và chân thành.
Trở lại cùng với Lê Xuân Khoa và đoạn văn trích dẫn trên với cái cốt lơi mà lẽ ra ông nên xem là mấu chốt khi viết về hội nghị Genève, đằng này ông lại giấu nó trong tiểu mục “ Bài Học Lịch Sử ” dành cho Hoa Kỳ.
Tôi xin chép lại một câu trong đó :
“ Mặc dầu thua nặng ở Điện Biên Phủ và đang lâm vào t́nh trạng tuyệt vọng về quân sự, Pháp vẫn dựa vào Mỹ để mặc cả khiến cả hai đại cường Cộng sản đều chiều chuộng và bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp định không tương xứng với những điều kiện của phe chiến thắng ”.
Th́ ra “ tài năng và bản lănh đàm phán ” của Mendès France mà Lê Xuân Khoa vô cùng ngưỡng mộ và hết lời ca ngợi nằm ở con bài tẩy Hoa Kỳ và sự “chiều chuộng” mà Môlôtôp và Chu Ân Lai dành cho Pháp, đồng thời bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một thỏa hiệp không xứng đáng với những điều kiện của phe chiến thắng” thực chất là để tránh một cuộc đụng đầu phiêu lưu với Mỹ – cường quốc duy nhất có bom nguyên tử (vào thời điểm đó – 1954) và giàu mạnh nhất thế giới chứ không phải tài năng của Mendès France và uy thế của nước Pháp.
Và vấn đề sẽ được lật ngược :
Nếu không lo ngại về một cuộc đụng đầu với Mỹ, “hai đại cường Cộng sản sẽ không bắt ép Việt Minh”…, và phái đoàn Phạm Văn Đồng sẽ không lâm vào t́nh thế mà Lê Xuân Khoa mô tả một cách sảng khoái rằng là :
“Đảng Cộng sản đă cúi đầu nhục nhă” (LXK sđd).
Như thế cái “nguyên nhân gốc (từ của Lê Xuân Khoa) để Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp ước không tương xứng với những điều kiện của phe chiến thắng” xuất phát từ siêu cường Mỹ chứ không phải từ Liên Xô và Trung Quốc như Lê Xuân Khoa đă nhiều lần nhấn mạnh trong chương 4 (Hội nghị Genève và hai nước Việt Nam). Có lẽ giáo sư Lê Xuân Khoa không phản bác nhận thức chung của đa số rằng là kẻ cho vay nặng lăi là bất nhân thất đức, nhưng bọn đầu cơ trục lợi th́ gian ác bội phần và người ở trong t́nh thế phải đi vay nặng lăi để làm công việc chính đáng (mà ông gọi là chính nghĩa) là nạn nhân chứ không phải là tội đồ.
Tôi tạm thời chấm dứt phần trao đổi với tác giả Lê Xuân Khoa về đề tài “Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam” mà không thấy cần phải giải thích ai là kẻ đầu cơ, ai là kẻ cho vay nặng lăi, ai là nạn nhân của một bối cảnh lịch sử mà câu tục ngữ Việt Nam có thể là một ẩn dụ khái quát mang tính chất tượng trưng:
Dùi cui đánh đục
Dùi đục đánh săng.
Đương nhiên nếu không có tay thợ mộc mù quáng th́ dùi cui không thể đánh đục, và dùi đục không thế đánh săng.
Tay thợ mộc mù quáng ở đây tôi muốn nói tới sự khủng hoảng của nhân loại trên b́nh diện toàn cầu bắt đầu từ những tiến bộ trong ngành hàng hải ở châu Âu dẫn tới những chuyến đi “Ấn Độ” của Christophe Colomb (1492), của Vasco de Gama (1497)…,và sắc chỉ của giáo hoàng Alexandre VI giao quyền tuyệt đối chiếm đất (buôn bán, khai thác tài nguyên) và truyền bá Thiên Chúa giáo cho hai vương triều Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trên hai nửa bán cầu dọc theo kimh tuyến từ Bắc cực xuống Nam cực cách đảo Axores một trăm dặm. (Linh Mục Trần Tam Tỉnh – Thập Giá và Lưỡi gươm). Do vậy xin ông Lê Xuân Khoa yên chí là tôi không đổ hết mọi tội lỗi và sự căm giận lên đầu bọn cầm quyền Mỹ – v́ nó mà nhân dân Việt Nam phải chấp nhận cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ II (với Mỹ) để giành lại sự độc lập, toàn vẹn lănh thổ và thống nhất đất nước, cho dù có muốn hay không muốn ư thức hệ Cộng Sản.
IV/ Cuộc di cư từ miền Bắc của non triệu người vào miền Nam (1954) là Di tản nội địa hay Tị nạn Cộng sản
Sở dĩ tôi dùng từ di cư là do hai từ Di tản nội địa và Tị nạn Cộng sản đối lập theo quan điểm của Lê Xuân Khoa, theo tôi, không phản ảnh đầy đủ thực tế lịch sử. Trong số 950.000 người vào Nam năm 1954 (LXK sđd tr258), theo tôi, vừa có Di tản nội địa, vừa có Tị nạn Cộng sản, nhưng chủ yếu là di tản nội địa.
Chương 6 với chủ đề Di Tản và Định Cư Tị Nạn 1954, Lê Xuân Khoa dành 25 trang để chứng minh rằng : từ “ Di tản nội địa ” của Liên Hiệp Quốc dùng trong trường hợp này là sai.
Ông đưa ra hai lư do để biện chính cho quan điểm của ḿnh :
Một là : “ Sự ngược đăi của chính quyền Việt Minh ”. Hai là “ miền Nam là một nước riêng biệt theo hiệp định Genève ” (LXK sđd tr 239-240).
Về lí do thứ nhất ông khẳng định : Tất cả
“ dân di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 là người tị nạn v́ họ có ít nhất là một lí do vững chắc để lo sợ bị ngược đăi (trong nhiều trường hợp đă bị ngược đăi) ” (LXK sđd tr 239).
Lê Xuân Khoa cho rằng, nếu :
“ nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa… khoan thi hành chính sách cải cách ruộng đất cùng phong trào chỉnh huấn nhằm thanh lọc hàng ngũ cán bộ trí thức th́ số người ra đi đáng lẽ không nhiều ” (LXK sđd tr 122).
Như thế chủ yếu những người tị nạn 1954 theo Lê Xuân Khoa là những cá nhân hay những gia đ́nh từng là nạn nhân của các cuộc Cải cách, Cải tạo trên miền Bắc trước – sau 1954. Tôi đồng ư với Lê Xuân Khoa rằng là trong số những người có kinh nghiệm xương máu với chế độ Cộng sản do các cuộc cải cách cải tạo nếu có hoàn cảnh thuận tiện và nhận được nhiều hứa hẹn th́ có một số người sẵn sàng chạy trốn chế độ, từ bỏ mồ mả tổ tiên, nơi chôn nhau cắt rốn để t́m nơi cư trú lâu dài tốt đẹp hơn. Những người đó, theo tôi, không cần Liên Hiệp Quốc định nghĩa thế nào, tôi cũng cùng Lê Xuân Khoa khẳng định họ là Tị Nạn Cộng sản đích danh.
Nhưng có phải những người Tị Nạn Cộng sản đích danh là toàn bộ 950.000 người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 không ? Hay những người Tị Nạn Cộng sản đích danh chỉ là một phần nhỏ trong số đó.
Nếu tất cả đều là Tị Nạn Cộng sản th́ những cá nhân, gia đ́nh, những cộng đồng đă cộng tác với thực dân Pháp và chế độ phụ thuộc (gia đ́nh công chức, quân đội, mật vụ t́nh báo viên, và cả địa chủ, thương nhân đă từng cộng tác với Pháp, gọi chung là Người Quốc Gia) đi vào Nam theo kế hoạch nào ?
Và việc các chính phủ Mỹ, Pháp và Quốc Gia Việt Nam, tổ chức rầm rộ cuộc di cư phải chăng chỉ để cứu vớt những người Tị Nạn Cộng sản như Lê Xuân Khoa khẳng định, hay c̣n v́ một lư do nào khác ?
Chẳng hạn Pháp với tâm thức của kẻ thua cuộc có phá hết, vét sạch những ǵ, kể cả con người, sẽ làm lợi cho kẻ thù thắng trận trên phần lănh thổ mà ḿnh bị buộc phải triệt thoái không ?
Và Pháp có tập hợp những người đă từng cộng tác nhằm làm tăng thêm lực lượng quần chúng sẽ ủng hộ tại Miền Nam qua cuộc tổ chức di cư để bảo vệ quyền lợi của họ không ?
Tiếp đến : Mỹ có quy tụ thêm những binh lính của Đức Chúa Trời cho cuộc Thánh chiến chống Cộng Sản và “ bảo vệ Miền Nam – tiền đồn của thế giới Tự do ” mà họ đang ráo riết chuẩn bị không ?
Và đặc biệt chính quyền của ông Thủ tướng người Công giáo Ngô Đ́nh Diệm lấy ai làm hậu thuẫn cho ḿnh khi phe cánh của ông đang hăm hở chuẩn bị đương đầu với tất cả các thế lực thù địch tại miền Nam bao gồm bọn tay sai trung thành của Pháp, phe cánh Bảo Đại, các đảng phái, các giáo phái, Việt Minh Cộng sản và Phật giáo với quần chúng hậu thuẩn lên tới 90 %?
Tín đồ Công giáo trên miền Bắc trước 1954 vào khoảng 1.400.000 người, chiếm tỷ lệ khoảng 8 đến 10 % dân số (khoảng 14 – 16 triệu) mà số người di cư theo Chúa – Mẹ lên đến hai phần ba trong tổng số 950.000. Như thế, 90 % người ngoại đạo chỉ đóng góp cho cuộc tị nạn rầm rộ của Lê Xuân Khoa có một phần ba. (Vào khoảng 2 % dân số của miền Bắc). Ông Lê Xuân Khoa không suy nghĩ ǵ về thực trạng này sao ?
Lê Xuân Khoa đă sử dụng khá nhiều những sách báo xuất phát từ các tác giả và chính phủ có liên hệ trực tiếp đến cuộc di cư và đặc biệt của giới Thiên Chúa giáo làm tài liệu nghiên cứu.
Nhưng Lê Xuân Khoa đă không nghiên cứu nguồn tư liệu sống là chính bản thân những người di cư trong đó có Lê Xuân Khoa.
Nếu tác giả Lê Xuân Khoa muốn truy t́m sự thật lịch sử theo nguồn tài liệu có giá trị khoa học hàng đầu này, hẳn nhiên không thể không biết được các nội dung tuyên truyền của Mỹ, của Pháp, của giáo hội Công giáo, của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm nhằm :
– Gây hoang mang lo sợ trong đông đảo quần chúng rằng : nhiều đoàn quân Tàu đang tràn xuống miền Bắc sẽ cướp của, giết người, hiếp dâm phụ nữ, hoặc Mỹ sẽ thả bom nguyên tử để tiêu diệt hết bọn Cộng Sản vô thần.
– Hủy hoại niềm tin của người dân vào chính quyền và các lănh tụ Việt Minh Cộng Sản qua những thông tin được phát tán do những nhân vật mạo xưng này nọ hoặc qua cửa miệng những “ Đấng tiên tri ” (thầy bói).
– Kích thích các niềm tin Công giáo qua việc tổ chức Đức Mẹ xuất hiện ở nơi này nơi nọ để ra lệnh cho giáo dân đi miền Nam cùng Đức mẹ, cùng Chúa, bởi hai Ngài đă vào Nam.
Một linh mục Công giáo, ông Trần Tam Tỉnh, t́m thấy những sự thật lich sử này sau khi đọc The Pentagon Papers và khẳng định rằng chiến dịch tâm lí chiến trên được dàn dựng và thực hiện bởi một sĩ quan t́nh báo Mỹ (CIA) tên là Edward Lansdale, ông này đă có mặt tại miền Bắc từ đầu năm 1954, là nhà hoạch định các kế hoạch di tản cho non một triệu người từ miền Bắc (Trần Tam Tỉnh – Thập giá và lưỡi gươm. Nxb Trẻ 1988). Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Khoa cũng đă cho thấy có sử dụng The Pentagon Papers, sao ông không cho độc giả biết những thông tin như thế ?
Và lí do thứ hai (của Tị Nạn Cộng sản) Lê Xuân Khoa đă khẳng định :
“…nước Việt Nam đă bị chia làm hai vùng lănh thổ có đường biên cấm vượt qua được quyết định bởi một hội nghị quốc tế. Thực tế có hai nước Việt Nam với hai chính quyền và hai chính thể chống đối nhau ” (LXK sđd tr 240).
Vấn đề “ hai nước Việt Nam ” tôi đă thảo luận với Lê Xuân Khoa ở phần trên. Ở đây tôi nhắc lại : không có “ một Hội nghị quốc tế nào đă chia nước Việt Nam làm đôi với đường ranh giới không được vượt qua ” cả. Mà chỉ có : Một Hội nghị Genève tạm thời chia đất nước làm hai vùng đóng quân và quản lí hành chánh trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử vào hai năm sau (1956) để bầu ra chính quyền duy nhất cho một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, toàn vẹn lănh thổ và thống nhất. Vĩ tuyến 17 trong mọi trường hợp không được xem là ranh giới lănh thổ hay chính trị (Tuyên bố chung của 9 nước tham gia hội nghị Genève không có chữ kư). Do các nhà lănh đạo cao cấp của Mỹ lúc bấy giờ (Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng John F. Dulles) nhận định rằng nếu tổng tuyển cử th́ 80 % dân số Việt Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh, nên dùng sức mạnh vô địch của ḿnh phủ định cuộc tổng tuyển cử đó nhằm “ bảo tồn những vùng đất c̣n lại ” (miền Nam) làm tiền đồn cho thế giới Tự do (The Pentagon Papers).
Như thế, cái lí do thứ hai (người dân di tản vượt qua biên giới quốc gia) Lê Xuân Khoa đưa ra để biện chứng cho quan điểm “ Tị nạn Cộng sản ” không đứng vững, và vấn đề “ tị nạn ” có thể xếp lại mà chẳng cần phải xem xét những tài liệu ông đă gạn lọc để làm bằng cớ cho những nhận định của ḿnh có chính xác và hợp lư hay không. Bởi tôi đă quá mệt mỏi khi phải đọc quá nhiều những nhận định trái ngược nhau về một vấn đề hay một sự kiện phổ biến trong cuốn sách của Lê Xuân Khoa. Ví dụ :
– Về kết quả của Hội nghị Genève, ở Chương 3 (chính sách cải cách ruộng đất), trang 122 ông viết :
“ Mặc dù theo hiệp định Genève 1954, việc chia đôi đất nước chỉ là tạm thời và một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 để cho nhân dân hai miền bỏ phiếu về vấn đề thống nhất đất nước ”.
Ở Chương 6 (Di tản và Định cư Tị nạn 1954) trang 240 ông lại viết :
“…nước Việt Nam đă bị chia làm hai vùng lănh thổ có đường biên giới cấm vượt qua, được quy định bởi một hội nghị quốc tế. Thực tế có hai nước Việt Nam với hai chính quyền và hai chính thể chống đối nhau”.
– Về Tuyên bố Cuối cùng (Lê Xuân Khoa dùng từ Tuyên cáo) của hội nghị Genève.
Ở phần chú thích trang 122 chương 3 (chính sách cải cách ruộng đất) Lê Xuân Khoa viết :
“… với chữ kư của Anh, Nga (đồng chủ tịch), Pháp, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa, Cam Bốt, Lào. Hai nước tham dự là Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam không kư vào bản tuyên ngôn này ”
Ở trang 187 Lê Xuân Khoa viết :
“ Hội nghị Genève kết thúc, ngoài những bản thỏa hiệp đ́nh chiến…. c̣n có bản tuyên cáo của Hội nghị không có kư tên và không có sự đồng ư của Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam”…
Ở trang 237 LXK viết :
“ Điều kiện này được nhắc lại một lần nữa trong bản tuyên cáo chung của những nước đă kư tên trên bản thỏa hiệp Genève đă nhấn mạnh rằng những điều thỏa thuận “phải được triệt để thi hành” ”.
Tôi không phản đối bất cứ ai chống Cộng, nhưng chống Cộng “ v́ cái bụng ” như thực dân Pháp đă làm, chống Cộng v́ những giáo điều Trung cổ và cũng v́ cái bụng như các giáo hội Công giáo đă làm, chống Cộng v́ chiến lược pḥng thủ từ xa (học thuyết Domino) kết hợp với chủ nghĩa thánh chiến như Hoa kỳ đă thực hiện, chống Cộng để độc tài gia đ́nh trị và Thiên Chúa Giáo toàn trị như anh em Ngô Đ́nh Diệm đă làm th́ tôi từ khước. Đến đầu thiên niên kỷ thứ ba, sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai gần bốn mươi năm mà Lê Xuân Khoa c̣n sử dụng Hội nghị – Hiệp định Genève và cuộc “ Di tản và Định cư Tị nạn ” 1954 “ để tái hiện lịch sử ” và để, “ ḥa hợp ḥa giải dân tộc ” như thế th́ rơ ràng chính danh ông là người thừa kế các thế lực chống Cộng đă chứng tỏ lỗi thời và thất bại ấy, mặc dầu ông tự cho ḿnh khách quan, trung thực.
Việc tái hiện lịch sử tôi sẽ tiếp tục thảo luận cùng giáo sư Lê Xuân Khoa trong chủ đề “ Nội chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm ”.
V/ Lê Xuân Khoa đă viết ǵ về phe Quốc Gia trong sách VIỆT NAM 1945-1995 ?
Từ nhận định : Quốc Gia và Cộng Sản là “ nguyên nhân gốc ” thứ nhất và thứ ba của cuộc chiến tranh và tị nạn 1945 – 1995, Lê Xuân Khoa đă chia sự h́nh thành của phe Quốc Gia làm hai thời đoạn :
– Thời đoạn thứ nhất từ “ ngày lập quốc ” đến cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt và cũng bị đi lưu đày ở đảo Réunion (LXK sđd tr31 – 32).
– Thời đoạn thứ hai là sau khi vua Duy Tân bị lưu đày cho đến thập niên đầu thiên niên kỷ thứ ba, khi Lê Xuân Khoa ngồi viết sách và đặt vấn đề ḥa giải Quốc Gia – Cộng Sản.
Ông đă lên danh sách phe Quốc Gia thời đoạn thứ hai như sau :
“ Những tổ chức Quốc Gia chống Pháp sau đó đều xuất phát từ giới trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục Pháp, đáng kể nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) ở miền Bắc và hai giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo ở miền Nam cùng các nhóm chính trị và báo chí của một số trí thức du học ở Pháp về ” (LXK sđd tr32).
Độc giả có thể t́m thấy dấu tích của phe Quốc Gia trong tất cả các chương của cuốn sách (Việt Nam 1954 – 1995) nhưng tập trung nhất ở các chương 1 (Quốc Gia – Cộng Sản), chương 5 (Bài học Chín Năm), chương 7 (Sự Sụp đổ của Việt Nam Cộng Ḥa), chương 10 (Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia).
Mặc dù chủ đề nghiên cứu của chương 1 là Quốc Gia và Cộng Sản trong thời đoạn lịch sử từ 1925 đến 1945, nhưng thật khó để người đọc sách nắm bắt đầy đủ chân dung đích thực của phe Quốc Gia.
Ở chương này, tác giả chỉ tập trung vào một đảng cách mạng là Việt Nam Quốc Dân Đảng và một chính phủ được thành lập bởi một ư đồ nào đó của Phát xít Nhật (chính phủ Trần Trọng Kim), Lê Xuân Khoa không đề cập ǵ đến “ hai giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo cùng các nhóm chính trị của một số trí thức du học ở Pháp về ” như đă giới thiệu trong đoạn trích dẫn trên.
Lại nữa : Viết về Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lê Xuân Khoa cũng chỉ viết kèm theo phần “ nghiên cứu về thủ phạm chính của cuộc xung đột Quốc – Cộng là sự h́nh thành và phát triển của đảng Cộng Sản Việt Nam theo sự chỉ đạo của Comintern và tài năng, mưu lược, thủ đoạn của Hồ Chí Minh ”. Lê Xuân Khoa đă mở đầu phần “ nghiên cứu ” về Việt Nam Quốc Dân Đảng như sau :
“ Trong thời gian này, VNQDĐ từ bên Việt Nam có tiếp xúc với VNTNCM tính phối hợp hoạt động nhưng không thành v́ đường lối cách mạng không hợp nhau. VNQDĐ áp dụng Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) nhưng không chấp nhận chủ trương đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lê ” (sđd tr33).
“ Trong lúc đó VNQDĐ đang chuẩn bị khởi nghĩa Yên Báy…Thực hư ra sao, cuộc khởi nghĩa Yên Báy (10 – 15 tháng 2 năm 1930) đằng nào cũng thất bại v́ lực lượng cách mạng c̣n yếu và tổ chức c̣n có quá nhiều khuyết điểm lớn. Đảng trưởng Nguyến Thái Học cùng mười hai đồng chí bị Pháp bắt được, kết án tử h́nh và đem lên máy chém ngày 17 tháng 6 năm 1930. Sau khi khởi nghĩa thất bại VNQDĐ vẫn c̣n cố gắng hoạt động dưới sự lănh đạo của Lê Hữu Cảnh, Nguyễn thị Giang (tự tử ngay sau khi người yêu là Nguyễn Thái Học bị hành h́nh), Hoàng Đ́nh Gị, Vũ Tiến Lữ, Vũ Vạt nhưng lần lược kẻ bị bắt giam, người bị giết, đến năm 1932 th́ hầu hết các lănh tụ c̣n lại đều phải trốn sang Trung Hoa ” (LXK sđd tr 34, 35).
Hai đoạn trích dẫn trên là toàn bộ những ǵ Lê Xuân Khoa viết về Việt Nam Quốc Dân Đảng từ cuộc khởi nghĩa Yên Báy thất bại trở về khởi thủy.
Theo tôi, viết về một đảng cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, dù là tóm lược cũng không nên đơn giản đến như thế. Hơn thế nữa, trong trường hợp Lê Xuân Khoa muốn giới thiệu VNQDĐ như là một lực lượng nền tảng khởi đầu h́nh thành phe Quốc Gia thời đoạn “ từ sau cuộc khởi nghĩa năm 1916 thất bại, vua Duy Tân bị Pháp bắt và lưu đày…” đến khi kết thúc “ cuộc nội chiến Quốc – Cộng ” th́ chẳng những ông đă mô tả tầm vóc của nó không đầy đủ và đánh giá không xứng đáng vị trí và sự tác động của nó trong thời đoạn lịch sử dân tộc chống đuổi thực dân Pháp, và ở mức độ nào đó ông đă vô t́nh làm giảm khí thế của phe Quốc Gia mà ông muốn chứng minh là lực lượng chính đối đầu với phe Cộng Sản trong các cuộc chiến tranh Đông Dương 1945 – 1975.
Theo tôi, để viết một cách nghiêm túc về một đảng cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, cho dù là một tóm lược, nhất thiết nhà nghiên cứu phải cung cấp cho người đọc các thông tin tối thiểu sau đây :
– Thứ nhất là t́nh h́nh các mặt tại Việt Nam, Đông Dương, Á châu và quốc tế làm bối cảnh cho sự ra đời của hai đảng cách mạng là Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng.
– Thứ hai là sự h́nh thành, phát triển của Việt Nam Quốc Dân Đảng từ khởi đầu đến cuộc khởi nghĩa Yên Báy gồm tiểu sử các lănh tụ, tư tưởng chủ đạo, điều lệ, cương lĩnh, đường lối, các thành phần xă hội tham gia, các tổ chức quần chúng hậu thuẫn, các địa bàn hoạt động, các thành tích đảng đă làm được trước khi phát động cuộc khởi nghĩa (Yên Báy). Cuộc khởi nghĩa đă diễn ra như thế nào, ở đâu, thực dân Pháp đă đối phó, đàn áp như thế nào. Khởi nghĩa đă kết thúc ra sao ? Tác động của cuộc khởi nghĩa Yên Báy với các phong trào yêu nước chống xâm lược Pháp ra sao ?
– Thứ ba t́nh h́nh nội bộ Quốc Dân Đảng sau khởi nghĩa Yên Báy thất bại ?
Lê Xuân Khoa đă không làm được như thế. Ông chỉ viết qua loa, phiến diện để rồi cuối cùng ông dành nhiều công sức hơn cho những nhận định về Việt Nam Quốc Đảng thời kỳ suy tàn không thể đứng vững một ḿnh, phải chịu lưu vong, dựa vào Quốc Dân Đảng Trung Hoa và các tướng lănh trong quân đội Tưởng Giới Thạch, và sau cùng phối hợp một cách bất đắc dĩ cùng các phe nhóm Quốc Gia khác ở quốc nội trong cuộc đương đầu trường kỳ với đảng Cộng Sản.
Sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lê Xuân Khoa giới thiệu chính phủ Trần Trọng Kim như là một cơ cấu chính quyền Quốc Gia của một nước Việt Nam độc lập và thống nhất, cho dù chưa đầy đủ và toàn vẹn, cho dù chính phủ ấy được thành lập bởi Phát xít Nhật Bản (Lê Xuân Khoa không nói rơ ư đồ và mưu lược của Nhật Bản là ǵ ?), và hai nhân vật chóp bu của chính phủ này là Bảo Đại và Trần Trọng Kim đă hoàn toàn bất ngờ trước đề nghị của đại sứ (Nhật – Chu Sơn) Marc Masayuki Yokohama. Theo Lê Xuân Khoa cả hai ông (Bảo Đại và Trần Trọng Kim) đều muốn nhân cơ hội này để chứng tỏ với Nhật là người Việt Nam có đủ khả năng và tư cách quản lí một đất nước độc lập và thống nhất.
Lê Xuân Khoa phản đối nhận định của Việt Minh và nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ bù nh́n, và nền độc lập do người Nhật trao cho là bánh vẽ. Lê Xuân Khoa quên rằng (chương 1 – Việt Nam 1945 – 1995) chính ông đă nhận định về Nhật như sau :
“ Rơ ràng là đế quốc Nhật thời đó đă chỉ muốn sử dụng các lực lượng chống Pháp làm phương tiện nhất thời để đem quân vào chiếm đóng Đông Dương và sẵn sàng bỏ rơi tất cả khi đă đạt được mục tiêu ” (LXK sđd tr39).
Đương nhiên “ thời đó ” (từ 1940) đế quốc Nhật muốn như thế và hành xử như thế với các “ lực lượng chống Pháp ”. C̣n “ thời này” (năm 1945), khi bỏ công của ra để thành lập chính phủ Trần Trọng Kim th́ đế quốc Nhật muốn sử dụng chính phủ này vào công việc ǵ, có chân thành trao trả độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lănh thổ cho Việt Nam không ? Người đọc sách chẳng thấy tác giả Lê Xuân Khoa trả lời những câu hỏi này.
Do vậy, “ sáu thành tích ” mà chính phủ Trần Trọng Kim thành đạt được trong một thời gian ngắn trước một t́nh thế khó khăn như Lê Xuân Khoa đă ghi nhận, theo tôi c̣n phải xem xét lại.
Lê Xuân Khoa cho rằng công đầu của chính phủ Trần Trọng Kim là :
“ lấy lại được miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành việc thống nhất đất nước ” (LXK sđd tr59).
Nếu công của chính phủ Trần Trọng Kim to lớn như thế, nhà nghiên cứu Lê Xuân Khoa đồng thời là công dân Việt Nam đă bỏ quên một ghi nhận quan trọng là cám ơn quân đội Thiên Hoàng đă có thiện chí và hành động cụ thể “ trao trả độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lănh thổ cho dân tộc Việt Nam ”.
Và như thế câu hỏi : Mục đích của Nhật khi thành lập chính phủ Trần Trọng Kim đă được trả lời. Và như thế mục đích của quân đội Thiên Hoàng khi nhảy vào Đông Dương (1940) đă được biện chính. Và như thế “ đế quốc Nhật bản ” mà Lê Xuân Khoa đă quy kết là phản bội, là tráo trở, lật lọng …, đă trở thành ân nhân của các người Việt Nam Quốc Gia yêu nước và của cả dân tộc Việt Nam trong khối Đại Đông Á ?
Người đọc sách không t́m thấy một công tŕnh nghiên cứu nào mô tả sự thật lịch sử Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945 (Nhật vào Đông Dương) như thế. Ngay cả Lê Xuân Khoa cũng không có ghi nhận nào như thế.
Do vậy kết luận của Lê Xuân Khoa cho rằng :
“ chính phủ Trần Trọng Kim đă có công thu hồi Nam bộ và ba thành phố lớn là Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng, hoàn thành việc thống nhất đất nước ”
là có vấn đề.
Theo Lê Xuân Khoa :
“ Ngày 3 tháng Bảy, chính phủ Kim thu hồi được ba thành phố nhượng địa, nhưng cuộc điều đ́nh về Nam bộ không có kết quả ”
“ Ngày 1 tháng Tám, thủ tướng Kim phải đích thân từ kinh đô Huế ra Hà Nội gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi Yuitsu, không những yêu cầu trả ngay phần c̣n lại của lănh thổ mà c̣n đ̣i luôn các công sở thuộc về phủ toàn quyền Pháp khi trước. Tất cả những đ̣i hỏi này đều được Tsuchihashi Yuitsu chấp thuận, và hai bên ấn định ngày trao trả Nam bộ là 8 tháng Tám ” (LXK sđd tr 54).
Tác giả Lê Xuân Khoa và người đọc sách của ông biết rằng ngày 14 tháng 8 Nhật đầu hàng Đồng Minh, vậy th́ việc “ trao trả ”, “ thu hồi ” giữa hai nhân vật Tsuchihashi Yuitsu – Trần Trọng Kim (ngày 8 tháng Tám) chỉ là động thái của hai phía mua – bán vịt trời. Nhật c̣n ǵ để mà không trả. Và chính phủ Trần Trọng Kim có ǵ để mà nhận ? Bởi v́ số phận của Đông Dương trong đó có Việt Nam đă được quyết định từ tháng Bảy năm 1945 tại Hội nghị Potsdam. Sự thật lịch sử này tác giả Lê Xuân Khoa cũng đă biết (LXK sđd – chương 2 – Những Yếu Tố Bên Ngoài, trang 75). Nhưng không hiểu v́ sao Lê Xuân Khoa lại cưỡng từ đoạt lí đến như thế. Trong khi đó, chỉ trước hai câu trích dẫn trên một dấu chấm (.) Lê Xuân Khoa đă viết :
“ Mặc dù đă hứa hẹn cho Việt Nam độc lập, Nhật vẫn giữ lại ba thành phố Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng là nhượng địa dành cho Pháp và toàn thể Nam bộ là thuộc địa của Pháp ”.
Đương nhiên việc Nhật “ trả ” sớm hay muộn các vùng lănh thổ là hoàn toàn tùy thuộc vào t́nh h́nh quốc tế lúc bấy giờ.
Giả định rằng thế chiến II kết thúc với sự thua trận của Đồng Minh th́ liệu có chuyện Tsuchihashi Yuitsu “ trao trả ”… và Trần Trọng Kim “ thâu nhận ” không ?
Phải chăng chính phủ Trần Trọng Kim sau này (sau 7-4-1945) cũng như các lực lượng (Việt Nam Quốc Gia) chống Pháp trước đó cũng bị đế quốc Nhật sử dụng làm phương tiện và sẵn sàng bỏ rơi tất cả khi đă đạt được mục tiêu (nguyên văn của Lê Xuân Khoa) ? Có khác chăng : các lực lượng Quốc Gia chống Pháp thời đó được Nhật sử dụng “ nhất thời ”, c̣n chính phủ Trần Trọng Kim th́ sẽ được Nhật sử dụng lâu dài ? Tất cả đều tùy thuộc vào mưu đồ của đế quốc Nhật. Phải không ? Một khi các chính phủ được thành lập và tồn tại theo ư đồ của đế quốc xâm lược mà nếu có ai đó phê phán là bù nh́n, là tay sai th́ có ǵ là không phải ? Và nền độc lập mà đế quốc đó hứa hẹn cho bất cứ chính phủ nào chúng tạo dựng ra chẳng phải là bánh vẽ sao ?Tác giả Lê Xuân Khoa cũng đă làm thêm một việc không đáng dài ḍng là nâng giá cho chính phủ Trần Trọng Kim qua việc chính phủ này đă
“ từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ ” “ khi được quân Nhật cho biết họ có trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay ”(LXK sđd tr 56).
Lê Xuân Khoa cho rằng hành động này là đúng đắn và thực tế v́ quân Nhật không c̣n sức mạnh và quyền lực ǵ sau khi đă đầu hàng và chờ quân Đồng Minh đến, trong khi đó khí thế nhân dân như vũ băo, cao trào cách mạng do Việt Minh chuẩn bị từ trước được Đồng minh tiếp trợ và đang rầm rộ tiến lên.
Theo tôi, việc Nhật hứa hẹn bảo vệ chính phủ Trần Trọng Kim cũng như trước đó Nhật đă “ trao trả ba thành phố Hà nội, Hải pḥng, Đà nẵng và Nam kỳ ”, tất cả đều là “ bán vịt trời ”. C̣n việc Bảo Đại và Trần Trọng Kim quyết định giải tán chính phủ, trao quyền cho Việt Minh là chẳng đặng đừng. Bảo Đại và Trần Trọng Kim không thể đương đầu với cả dân tộc và Đồng Minh (mà họ nhận định rằng đă đứng sau lưng Việt Minh) .
Vả lại, Bảo Đại và Trần Trọng Kim không những bị áp lực từ bối cảnh lớn, mà c̣n bị sức ép từ bên trong. Nhiều bộ trưởng và nhân vật cấp cao của chính phủ này được Việt Minh “ sử dụng ” lại như Lê Xuân Khoa đă xác nhận, chẳng những chỉ v́ chính sách đoàn kết mà c̣n v́ họ đă liên lạc với Việt Minh từ trước. Chính phủ Trần Trọng Kim “ không phạm bất cứ sai lầm nào…, không thực hiện tinh thần phe nhóm…, theo nhận định của Lê Xuân Khoa, cũng v́ lí do này, một phần. Việt Minh một mặt tố cáo chính phủ Trần Trọng Kim này nọ v́ họ đứng về phía Đồng Minh chống Nhật, họ không thể tuyên truyền cho một chính phủ do Nhật tạo dựng ra, một mặt không trả thù và “ c̣n sử dụng nhiều bộ trưởng ” của chính phủ này v́ họ (các bộ trưởng) đă ít nhiều quan hệ với Việt Minh từ trước.
Thiết nghĩ, không nên nâng giá chính phủ Trần Trọng Kim như Lê Xuân Khoa đă làm một cách dài ḍng, thiếu chính xác, mà nên giới thiệu đầy đủ thành phần chính phủ ở trung ương và các đại diện ở địa phương, đặc biệt ở Bắc kỳ, và nên có một tiểu sử tóm lược của Trần Trọng Kim để qua đó người đọc sách có thể nắm bắt được lập trường chinh trị của ông, và cũng rất nên nghiên cứu đầy đủ đường lối giáo dục và các chương tŕnh giáo khoa mà chính phủ này đă đề ra, đă soạn thảo và đă thực hành bước đầu dưới sự chủ tŕ của Bộ trưởng Hoàng Xuân Hăn. Theo tôi, chắc chắn đây là công lao thật sự mà chính Trần Trọng Kim đă đóng góp từ nền tảng đến lâu dài cho nền giáo dục và văn hóa Việt Nam. Hành động tích cực của chính phủ Trần Trọng Kim đáng được ghi nhận là ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
Tôi chia sẻ với Lê Xuân Khoa khi ông nhận định rằng chính phủ Trần Trọng Kim tập trung những trí thức khoa bảng, những nhà khoa học có tinh thần dân tộc (Lê Xuân Khoa dùng thuộc từ yêu nước), muốn đóng góp công sức của ḿnh để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, từ tinh thần dân tộc đến việc dấn thân vào con đường yêu nước trong t́nh thế lúc bấy giờ là cả một chặng đường dài, đ̣i hỏi các công dân có ḷng căm thù giặc cao độ và khí phách đủ để sẵn sàng chấp nhận những hiểm nguy, gian khó, những hy sinh mất mát của bản thân và gia đ́nh khi đối đầu với xâm lược, đồng thời trong tư cách là những nhà lănh đạo, phải biết nh́n xa, trông rộng, biết vận động quốc tế, và đặc biệt biết được sức mạnh của nhân dân, biết vận động, tổ chức họ thành lực lượng cứu nước. Những đức tính, khả năng này cả Bảo Đại, Trần Trọng Kim và một số các nhân vật chủ chốt của chính phủ (Kim) không có. Do vậy, trong thời gian ngắn ngủi (4 tháng) chấp chánh dưới sự bảo trợ của Phát xít Nhật (Lê Xuân Khoa cho rằng chính phủ Kim trung lập với Nhật), họ không chủ động phạm những sai trái to lớn, nhưng cũng không tránh khỏi những yếu kém lầm lạc : Trở thành chỗ dựa chính trị cho sự hiện diện của phát xít Nhật trên bán đảo Đông Dương.
Lê Xuân Khoa đă gộp chung các yếu kém, sai lầm của Việt Nam Quốc Dân Đảng và chính phủ Trần Trọng Kim thành những yếu kém sai lầm chung của “ Việt Nam Quốc Gia ” thời đoạn 1925-1945 như sau :
“ Do sự suy yếu của Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa thất bại Yên Báy và t́nh trạng chia rẽ giữa các lănh tụ lưu vong của đảng này tại Trung Hoa, đảng Cộng Sản Việt Nam là đoàn thể chính trị cách mạng có tổ chức qui củ và mạnh mẽ nhất dưới sự lănh đạo và giúp đỡ của Comintern ” (LXK sđd tr35).
Lê Xuân Khoa dẫn chứng :
“ Tháng mười năm đó (1942 – Chu Sơn) tổng đốc Quảng Tây là tướng Phát Khuê triệu tập ở Liễu Châu một hội nghị của các tổ chức Quốc Gia Việt Nam lưu vong để thành lập một liên minh chống Pháp và Nhật. Kết quả là sự ra đời của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH) dưới sự lănh đạo của một ban thường trực gồm những đảng viên kỳ cựu của Việt Nam Quốc Dân Đảng như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh.”
“…Nhưng v́ sự hiềm khích giữa các phe nhóm và đầu óc vị kỷ của những người lănh đạo, VNCMDMH trở nên bất lực và mất uy tín rất nhanh ” (LXK sđd tr41).
“… Trong khi đó về phía các đảng Quốc Gia không thấy có hoạt động chuẩn bị nào đáng kể, nhà cầm quyền Việt Nam lúc đó là chính phủ Trần Trọng Kim mới hoạt động được mấy tháng và phải đương đầu với quá nhiều khó khăn nội bộ, đă không thể kiểm soát được t́nh h́nh sau khi Nhật mau chóng đầu hàng Đồng Minh. Các đảng phái Quốc Gia cũng không có kế hoạch ǵ ngoại trừ hội họp và bất đồng ư kiến với nhau về vấn đề nên hay không nên cướp chính quyền hoặc tổ chức vội vă những cuộc biểu t́nh chống Pháp kêu gọi toàn dân đoàn kết như tổ chức Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, hay nhóm Phụng sự Quốc Gia ” (LXK sđd tr 47, 48).
“…hầu hết các lănh tụ chính trị và trí thức ở trong nước (phe Quốc Gia – Chu Sơn) đều muốn dựa vào thế lực của Nhật để loại trừ Pháp ra khỏi Đông Dương ” (LXK sđd tr 49).
“ Trên đường tới Hà Nội, họ (Quân Tàu Tưởng – Chu Sơn) tước khí giới của dân quân Việt Minh ở những địa phương mà họ đi qua và giao quyền kiểm soát những nơi này cho các đảng Quốc Gia Việt Nam lúc đó chia làm hai phe : Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh), Đại Việt (Nguyễn Tường Tam) theo Lư Hán, và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần) theo Tiêu Văn ” (LXK sđd tr 61).
“ Bởi vậy khi theo đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa trở về nước năm 1945, hai đảng Quốc Gia này đă tin tưởng có thể giành được chính quyền và cương quyết không chịu hợp tác với Việt Minh. Tuy nhiên do những nhược điểm về tổ chức và lănh đạo và cũng do áp lực của các tướng lănh Trung Hoa, cả hai đảng rốt cuộc vẫn phải chấp nhận tham gia vào chính phủ Liên Hiệp và quốc hội của Việt Minh. Trong cuộc tranh chấp quyền hành với Việt Minh, các đảng phái Quốc Gia hiểu biết rất rơ khả năng và kế hoạch nguy hiểm của đối thủ nhưng không có điều kiện và phương tiện để đối phó ” (LXK sđd tr 71, 72).
“ Ngoài ra. Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội là những đoàn thể cách mạng lưu vong ở Trung Hoa đă lâu và không có cơ sở hoạt động trong nước, do đó không có hậu thuẫn của nhân dân. Riêng việc đi theo quân Tàu về để giành lấy chính quyền đă là một bất lợi về chính trị rất lớn cho hai đảng này… ”
“ Tổ chức chính trị đáng kể nhất hoạt động ở trong nước lúc bấy giờ là đảng Đại Việt lại chia làm hai ba nhóm không có thực lực để tiếp tay cho hai đảng Quốc Gia từ hải ngoại. Tất cả những đảng phái này mặc dù hợp tác với nhau để đối phó với đảng Cộng Sản vẫn có những tị hiềm giữa cá nhân các lănh tụ, v́ vậy không có được một bộ máy chỉ đạo nhất trí và có kỷ luật như Mặt trận Việt Minh. Chính v́ sự chia rẽ giữa các lănh tụ mà Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đă gần như tan ră khi c̣n ở Liễu Châu, Trung Quốc, để cho Hồ Chí Minh có cơ hội được Trương Phát Khuê giao cho tổ chức lại Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và có cơ hội củng cố lực lượng Việt Minh ở trong nước ” (LXK Sđd tr72).
“ …Tuy nhiên chính cái đặc tính tự do và đa nguyên (nhưng thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không Cộng Sản đă khiến các lănh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có khả năng đối phó với đảng Cộng Sản về cơ sở lí thuyết và phương pháp hành động. Các lănh tụ của hai đảng ṇng cốt hồi đó là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đều ở Trung Hoa quá lâu, khả năng và tầm nh́n chính trị rất giới hạn và lệ thuộc vào Trung Quốc, nên khi cơ hội đến tay th́ chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của đám tướng lănh tham nhũng Tiêu Văn và Lư Hán ”.
“ Một thí dụ điển h́nh là Nguyễn Hải Thần, người được Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ cho về nước để lănh đạo một nước Việt Nam không Cộng Sản. Mọi người Việt Nam yêu nước năm 1945 đều thất vọng đối với nhà cách mạng lăo thành này qua h́nh ảnh một ông già không nói rành tiếng Việt và bị đồn là hút thuốc phiện ” (LXK sđd trang 73).
Trên đại thể, những nhận định của Lê Xuân Khoa về “ Việt Nam Quốc Gia ” đến thời điểm 1945 qua những trích dẫn trên là một nỗ lực đúng đắn. Nhưng một câu trong các đoạn trích dẫn đó làm tôi nhớ lại một câu khác có ư nghĩa hoàn toàn trái ngược mà ông đă viết ở trang tóm lược mở đầu phần Một (Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn). Tôi xin ghi chép lại cả hai câu mà theo tôi là trái ngược đó : (tôi đánh dấu câu 1 và câu 2).
Câu 1 :
“…Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức mặt trận Việt Minh) lănh đạo ” (LXK sđd tr29).
Câu 2 :
“ Tuy nhiên chính cái đặc tính tự do và đa nguyên (nhưng thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không Cộng Sản đă khiến các lănh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có khả năng đối phó với đảng Cộng Sản về cơ sở lí thuyết và phương pháp hành động ” (LXK sđd tr 73).
Như thế, ở câu 1, Lê Xuân Khoa cho người đọc thấy có một Quốc Gia Việt Nam tồn tại như một lực lượng đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức Mặt Trận Việt Minh). Ở câu 2 Lê Xuân Khoa cho người đọc thấy không có một Việt Nam Quốc Gia “ kết hợp thành một lực lượng có đủ khả năng đối phó với đảng Cộng Sản về cơ sở lí thuyết và phương pháp hành động ”.
Chỉ có một chủ thể “ Việt Nam Quốc Gia ” hay (Quốc Gia Việt Nam), mà khi này, Lê Xuân Khoa bảo là có, khi kia, Lê Xuân Khoa bảo là không có.
Lê Xuân Khoa có thể phản bác lại : khi này và khi kia là hai thời điểm. Khi này là từ 1945 trở về trước, c̣n khi kia là từ 1945 trở về sau. Khi này là xung đột Quốc Gia – Cộng Sản. Khi kia là Quốc Gia Viêt Nam đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức Mặt Trận Việt Minh).
Vậy th́ thưa giáo sư Lê Xuân Khoa cái gọi là Quốc Gia Việt Nam, nó xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp từ bao giờ, do ai chủ trương thành lập, nuôi dưỡng, nó phát triển và tồn tại ra sao ?
Lê Xuân Khoa trả lời :
“ Chỉ vài tháng sau khi “trả lời cho bạo lực”, đầu năm 1947 Pháp nhận thấy không thể hoàn tất quyết định quân sự một cách nhanh chóng được ” (LXK sđd tr 88). Pháp thay đổi d’Argenlieu bằng Emile Bollaert làm Cao ủy Đông Dương và “ bắt đầu nghĩ tới giải pháp Bảo Đại ”, làm ngơ trước những kêu gọi khẩn thiết của Hồ Chí Minh : thương thảo ḥa b́nh ” (LXK sđd tr88).Th́ ra, do không thể tái chiếm Đông Dương bằng bạo lực quân sự, thực dân Pháp nghĩ tới giải pháp Bảo Đại. Từ giải pháp Bảo Đại, thực dân Pháp đă đẻ ra cái gọi là Quốc Gia Việt Nam để hoàn tất cuộc tái chiếm thuộc địa.
Trước 1945, v́ mục đích chống Pháp và xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, người Việt Nam Quốc Gia sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy đă theo Tàu Tưởng (Việt Nam Quốc Dân Đảng), đến lúc thế chiến II nổ ra, theo Nhật (đảng Đại Việt, các giáo phái và chính phủ Trần Trọng Kim, Ngô Đ́nh Diệm), để rồi, sau 1945 theo Pháp chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (tức Mặt trận Việt Minh). Lê Xuân Khoa đă viết về lịch sử Quốc Gia Việt Nam theo một tiến tŕnh như thế. Và giai đoạn hai của tiến tŕnh đó có thể tóm lược như sau :
Bảo Đại sau khi thoái vị, nhận làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, cư trú và làm việc tại Hà Nội. Đến tháng Ba 1946, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, ông cầm đầu một phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đi Trùng Khánh thăm ngoại giao chính phủ Tưởng Giới Thạch. Xong nhiệm vụ, phái đoàn về nước, không hiểu v́ lí do ǵ Bảo Đại ở lại, bắt đầu thời kỳ lưu vong tại Hồng Kông và trở thành nhân vật chính của một giải pháp được nghĩ tới bởi Cao ủy Pháp tại Đông Dương gọi là giải pháp Bảo Đại.
Lê Xuân Khoa viết tiếp :
“ Bollaert phái Coussean từ ṭa lănh sự Pháp ở Hồng Kông tới thăm ḍ ư kiến Bảo Đại vào đầu tháng Sáu ” (1947 – Chu Sơn) (LXK sđdtr 89).
Đến thời điểm này,
“ Hồ Chí Minh c̣n tiếp tục vớt vát cơ hội ngưng chiến cho đến cuối năm 1948, nhất là sau khi Bảo Đại nhận (với Pháp – Chu Sơn) làm Quốc trưởng, thành lập chính phủ Nguyễn Văn Xuân, chứng kiến việc kư kết thỏa ước Bollaert – Xuân tại vịnh Hạ Long ngày 5 tháng Sáu 1948 và sau đó kí thỏa ước Vincent Auriol – Bảo Đại… ngày 8 tháng Ba 1949 ”. (LXK sđd tr 91).
Ngày 24 tháng Tư năm 1949 Bảo Đại về nước, ngày 1 tháng 7 năm 1949 chính thức trở thành Quốc trưởng đứng đầu Quốc Gia Việt Nam cho đến khi bị Ngô Đ́nh Diệm truất phế (26.10. 1955). Lê Xuân Khoa b́nh luận về Quốc Gia Việt Nam như sau :
“ Quốc Gia Việt Nam trong hơn bảy năm dưới quyền lănh đạo của Bảo Đại (5-6-1948 – 26-10-1955) đă thay đổi chính phủ đến mười lần (ba lần với Trần Văn Hữu, hai lần với Nguyễn Văn Tâm). Thành tích của các chính phủ trong thời gian bảy năm này chỉ là một chuỗi những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị, tôn giáo phức tạp, không có hậu thuẫn của nhân dân do đó không có trọng lượng để đ̣i Pháp tôn trọng lời hứa và thực hiện những điều cam kết, phần lớn những người chủ chốt lại là những người thân Pháp, không phải là những người quyết tâm đấu tranh cho độc lập và tự do của dân tộc ” (LXK sđd tr 210).
Như thế là Quốc Gia Việt Nam và Quốc trưởng Bảo Đại chấm dứt vai tṛ khi chiến tranh Pháp – Việt kết thúc với Hiệp đinh Genève mà theo Lê Xuân Khoa là được kư kết giữa Pháp và Việt Minh (VNDCCH), không bảo đảm một nền ḥa b́nh lâu dài, để rồi :
“ Cuộc chiến tranh Quốc – Cộng lập tức được chuẩn bị theo chiều hướng là miền Bắc quyết thống nhất dưới quyền kiểm soát của đảng Cộng Sản và miền Nam quyết tâm bảo vệ lănh thổ chống lại mọi hoạt động xâm lược của miền Bắc. Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa trong khi Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Ḥa và trực tiếp tham chiến từ 1965 sau những cuộc khủng hoảng lănh đạo liên tiếp ở miền Nam ” (LXK sđd tr 272).
Qua đoạn trích dẫn này, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy t́nh h́nh Việt Nam nói chung, và miền Nam nói riêng từ sau Hiệp định Genève đến 1965. Đó là thời kỳ xảy ra nội chiến lồng trong khung cảnh chiến tranh ủy nhiệm. Nhận định của Lê Xuân Khoa qua hai câu trên đúng sai thế nào sẽ thảo luận sau. Lâm thời chúng ta chấp nhận nhận định của ông rằng là có một cuộc nội chiến giữa hai phe Quốc Gia và Cộng Sản “ lập tức ” bắt đầu từ sau Genève. Nhưng độc giả của Lê Xuân Khoa rất khó để nhận biết chân dung của phe Quốc Gia là một trong hai phe của cuộc nội chiến đó. Lê Xuân Khoa bắt độc giả theo dơi “ Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Ḥa ” trước (Chương7), tiếp theo là những chỉ dẫn lịch sử ông dành cho Hoa Kỳ (chương 8), cho Việt Nam Cộng Sản (chương 9), cuối cùng mới là vóc dáng lờ mờ của phe Quốc Gia và các chính quyền của phe đó từ Ngô Đ́nh Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu trong chương cuối của cuốn sách với tựa đề “ Những sai lầm của Việt Nam Quốc Gia ”. Đây là một tiến tŕnh lịch sử bất thường.
Thông thường trước khi cuộc đấu vơ đài bắt đầu, người xem được ban tổ chức giới thiệu tên tuổi và thành tích thi đấu của các đấu sĩ.
Nhà tường thuật Lê Xuân Khoa đă không làm như vậy trong cuộc đấu vơ đài Quốc – Cộng lần thứ hai.
Ông đă làm ngược lại. Ông “ tường tŕnh ” cuộc đấu và b́nh luận trước, khi vơ đài kết thúc, ông mới giới thiệu các đấu sĩ Việt Nam Quốc Gia.
Không hiểu v́ lí do ǵ trước khi giới thiệu Ngô Đ́nh Diệm, lănh tụ Quốc Gia, người khai sinh ra nền Đệ nhất Cộng Ḥa, Lê Xuân Khoa viết 11 trang rưỡi (410 – 421) về những yếu kém, khuyết tật của Việt Nam Quốc Gia từ Quốc trưởng Bảo Đại trở về trước. Tại sao Lê Xuân Khoa không đưa 11 trang rưỡi này “ về phía Quốc Gia ” trong Bài Học Chín Năm ở chương 5 để độc giả có những hiểu biết đầy đủ và tập trung hơn về những yếu kém, khuyết điểm của Bảo Đại và “ mười chính phủ do ông lănh đạo ”, cùng những đảng phái, phe nhóm Quốc Gia trước đó ?
Phải chăng ông muốn làm nổi bật tài năng, công lao, đức độ của Ngô Đ́nh Diệm, người thừa hưởng gia tài rách nát do những đồng nghiệp Quốc Gia tiền nhiệm để lại ? Thủ pháp này trong sáng tác văn học nghệ thuật gọi là “ vẽ mây nẩy trăng ”.
Tôi nghĩ rằng Lê Xuân Khoa dùng nó trong nghiên cứu lịch sử e rằng không thích hợp.
Sau 11 trang rưỡi kiểm điểm những phe nhóm và nhân vật “ Việt Nam Quốc Gia ” tiền nhiệm, Lê Xuân Khoa viết về chế độ và người kế nhiệm như sau :
“ Thời Đệ nhất Cộng Ḥa, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă có công lấy lại được nền độc lập thật sự cho miền Nam Việt Nam, dẹp tan được các cuộc nổi loạn của B́nh Xuyên và đem lại t́nh trạng ổn định chính trị và xă hội cho dân chúng. Ông đă tạo dựng được cơ sở cho một chế độ dân chủ với triển vọng làm cho vùng lănh thổ phía nam vĩ tuyến 17 trở nên phồn thịnh và tự do. So với chế độ cộng sản ở miền Bắc, chế độ dân chủ ở miền Nam có triển vọng trở thành tương tự như t́nh trạng giữa Tây Đức và Đông Đức hay Nam Hàn và Bắc Hàn ” (LXK sđd trang 410 – 411).
Đây là một nhận định chung cuộc. Cũng như các chương phần trước, Lê Xuân Khoa đă sử dụng thủ pháp mà tôi gọi là ngoắt ngoéo : Viết mấy ḍng nhận định như là kết luận trước khi viết nhiều trang giải tŕnh có nội dung trái ngược.
Về Ngô Đ́nh Diệm, Lê Xuân Khoa vừa viết tiểu sử vừa viết b́nh luận một cách tùy tiện nên rất khó tóm lược.
Theo Lê Xuân Khoa th́ :
“ Ngô Đ́nh Diệm (1901-1963) là nhân vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những nhược điểm lớn trong vai tṛ một nhà lănh đạo chính trị. Ông là con thứ tư trong một gia đ́nh chín anh chị em mà bốn người đă bị giết v́ lư do chính trị. Thân phụ là Ngô Đ́nh Khả làm thượng thư bộ Lễ trong triều đ́nh Thành Thái, nhà vua Việt Nam bị Pháp lưu đày sang đảo Réunion năm 1916 cùng hoàng tử kế vị là vua Duy Tân v́ cả hai đều mưu đồ chống Pháp ” (LXK sđd tr422).
“ Ngô Đ́nh Diệm học rất giỏi, làm luận văn tiếng Pháp ở trường Quốc Học được chấm hạng nh́… Sau khi đậu thành chung, ông về nhà học thêm tiếng La tinh và chữ Nho, hai năm sau 18 tuổi, được mời vào dạy trường Quốc Tử Giám.
Năm 20 tuổi thi và được nhận vào trường Hậu bổ tức là trường đào tạo quan chức. Ba năm sau ông đậu thủ khoa trong số hai mươi người tốt nghiệp (23 tuổi – Chu Sơn), đi tập sự trong hai năm th́ được cử làm tri huyện Hải Lăng (25 tuổi – Chu Sơn).
Năm 1929, mới 28 tuổi, ông được bổ làm tuần phủ Phan Thiết. Ông Diệm làm quan nổi tiếng thanh liêm, cương trực, được nhiều người kính phục.
Năm 1932 khi Bảo Đại về nước… chính thức cầm quyền dưới chế độ Bảo hộ của Pháp, Ngô Đ́nh Diệm được bổ làm thượng thư. Chỉ ba tháng sau ông từ chức v́…”
Sau khi từ chức thượng thư, ông lui về sống cuộc đời ẩn dật nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ các hoạt động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để từ bên Nhật. Trong thời gian này ông liên lạc với các chính trị gia nước ngoài trong lập trường thân Nhật. Bị Pháp lùng bắt, trốn vào nhà người Nhật là viên chức ṭa lănh sự Nhật tại Huế… Nhật đưa ông vào Sài G̣n.
Tháng 3 – 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Bảo Đại và Trần Trọng Kim được Nhật ủng hộ thành lập chính phủ. Cường Để, và Ngô Đ́nh Diệm bị bỏ quên.
Nhật đầu hàng (14-8-1945). Ngô Đ́nh Diệm bị Việt Minh bắt. Hồ Chí Minh mời hợp tác, từ chối, được thả.
Năm 1949, sau khi hiệp định Elysée kư kết, Ngô Đ́nh Diệm từ chối hợp tác với Bảo Đại. Cùng anh là giám mục Ngô Đ́nh Thục và em là Ngô Đ́nh Nhu thành lập đảng Xă Hội Thiên Chúa Giáo bắt đầu t́m kiếm sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Năm 1950 cùng giám mục Ngô Đ́nh Thục sang Nhật bắt liên lạc với Douglas MacArthur. Bị từ chối. Bắt liên lạc với Wesley Fishel, một điệp viên Mỹ đang dạy học ở Nhật, Fishel giới thiệu đi Mỹ. T́m gặp, nhờ Eisenhower hỗ trợ, không thành công. Giám mục Ngô Đ́nh Thục t́m gặp Hồng y Spellman. Spellman nhận giúp đỡ. Năm 1951, Ngô Đ́nh Diệm cùng Ngô Đ́nh Thục đi Roma, Pháp, Bỉ, sau đó Ngô Đ́nh Diệm trở lại Mỹ. Qua giới thiệu của hồng y Spellman, Ngô Đ́nh Diệm gặp các nhân vật trong chính phủ và quốc hội Mỹ. Được dân biểu Walter H Judd, các thượng nghị sĩ Mike Mansfieid và John F. Kennedy nhiệt t́nh ủng hộ. Trong các thời đoạn ở Mỹ, ông ngụ tại chủng viện Maryknoll ở Ossinming, New York, sau dời sang Lakewood New Jersey.
Tháng 5 năm 1953, Ngô Đ́nh Diệm sang Bỉ, được linh mục chống cộng Raymond de Jaegher nhận làm cố vấn. Tại Bỉ ông ngụ ở nhà ḍng Raymond de Jaegher.
Cho đến khi “hiệp ước Laniel – Bửu Lộc được kư kết ngày 4 tháng 6 năm 1954 công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập” ông Diệm mới thấy có điều kiện thuận lợi. Ngày 16 tháng Sáu, ông nhận lời Bảo Đại đứng ra thành lập chính phủ. Ngày 7 tháng Bảy, Ngô Đ́nh Diệm chính thức cầm quyền ” (Tóm lược các trang từ 420 – 426, LXK sách đă dẫn).
Như thế là suốt năm năm (1950-1954) với sự đưa đường chỉ lối của bào huynh là giám mục Ngô Đ́nh Thục và Hồng y Spellman, Ngô Đ́nh Diệm đă được Mỹ, Pháp và nhà thờ Thiên Chúa giáo chấp nhận làm thủ lĩnh canh giữ miền Nam Việt Nam là tiền đồn của Thế giới Tự do và nền văn minh Ki Tô giáo. (Sau khi quyết định nhả cho Cộng Sản một nửa Việt Nam phía Bắc – từ vĩ tuyến 17).
Trong thời gian diễn ra Hội Nghị Genève, với sự thỏa thuận, sắp xếp giữa Mỹ và Pháp :
“ Ngô Đ́nh Diệm nhận lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ với điều kiện trao toàn quyền chính trị và quân sự. Ngày 7 tháng Bảy (song thất) Ngô Đ́nh Diệm chính thức cầm quyền với nội các 18 người ” (LXK sđd tr 426).
Mười tám người trong chính phủ Quốc Gia do Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng đa phần là người của Diệm. Nhưng phe Quốc Gia trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp qua Mỹ vốn là “ những phe nhóm chính trị và tôn giáo phức tạp ” (như Lê Xuân Khoa nhận định trong Bài Học Chín Năm) cần phải sắp xếp lại. Phe nào nhóm nào thân Pháp th́ sẽ đi với Pháp, phe nào nhóm nào thân Mỹ th́ sẽ đi với Mỹ. Cuộc bàn giao Pháp – Mỹ giữa những người Quốc Gia thời kỳ đầu Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng không thể không khó khăn và phức tạp (cái khó khăn phức tạp trong nội bộ những người Quốc Gia và Thế giới Tự do với nhau), bởi tương quan lực lượng trong các phe nhóm (Quốc Gia) lúc đầu c̣n nghiêng về phía Pháp : binh lính, viên chức do Pháp trực tiếp đào tạo, trả lương và chỉ huy, đặc biệt, Nam Kỳ vốn là thuộc địa – quyền lợi và tay chân của Pháp c̣n nhiều, lại là địa bàn của các giáo phái mà Pháp đă lũng đoạn từ lâu (B́nh Xuyên, Cao Đài, Ḥa Hảo), cho nên đă xảy ra các cuộc tranh chấp giữa phe Ngô Đ́nh Diệm – Thiên Chúa Giáo – Cần Lao và phe B́nh Xuyên cùng các giáo phái, đảng phái Quốc Gia khác. Trong tư cách là ông chủ mới của miền Nam và của thế giới Tự Do, Hoa Kỳ đă đóng vai tṛ quyết định trong các cuộc tranh chấp này. Lê Xuân Khoa đă viết ở trang 427 như sau :
“ Do sự mua chuộc các giáo phái của Hoa Kỳ, chưa đầy hai tháng sau ngày thành lập chính phủ, ông Diệm đă phải cải tổ chính phủ với sự tham gia của một số đại diện của Cao Đài và Ḥa Hảo ”.
Đến trang 428 ông viết tiếp :
“ Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại mặc dù chính Đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay thế Ngô Đ́nh Diệm ”.
Chẳng phải Hoa Kỳ chỉ muốn thay ngựa trong những ngày tháng đầu, mà trong suốt chín năm Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng chính phủ Quốc Gia rồi Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa (là hoàn toàn độc lập, như nhận định của Lê Xuân Khoa), Mỹ đă muốn thay thế, lật đổ ông quá nhiều lần, cho đến khi chịu không được con ngựa bất kham th́ giết bỏ ông bằng cuộc đảo chánh 1.11.1963.
Sau đây là những bằng chứng Lê Xuân Khoa đă nêu (bằng trích dẫn hay viết) :
1/ “ Ngay trước khi Ngô Đ́nh Diệm dẹp được các phe nhóm nổi loạn, Tổng thống Eisenhower và ngoại trưởng Dulles đă đồng ư với đại sứ J.Lawton Collins là cần phải thay thế chính phủ Diệm ” (LXK sđd tr319).
2/ “ T́nh trạng bất ổn tiếp tục v́ Pháp không ngừng vận động Hoa kỳ thay thế Diệm ” (LXK sđd tr 428).
3/ “ Ngày 1 tháng Tư Collins đề nghị với Washington cho tiến hành kế hoạch thay thế Diệm ” (LXK sđd tr429)
4/ “ Ngày 20 tháng Tư Collins trở về Washington để thuyết phục thay thế Diệm bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ ” (LXK sđd tr. 429).
5/ “ Sau khi gặp Collins ngày 27 tháng 4, Dulles đồng ư gửi điện cho sứ quán Mỹ ở Sài G̣n tiến hành kế hoạch thay thế Diệm ” (LXK sđd tr 429).
6/ “ Dulles chỉ thị cho sứ quán ở Sài G̣n hủy bỏ công điện thay thế Diệm ” (LXK sđd tr 430).
7/ “ Thật ra, chúng ta (Mỹ - Chu Sơn) từ lâu nay đă nói với người Pháp là chúng ta sẵn sàng xem xét việc thay thế Diệm nếu họ có thể kiếm được người. Họ vẫn chưa làm được việc ấy… ” (LXK sđd trang 430).
8/ “ Chiều hôm qua, chúng tôi ở bộ ngoại giao đă gởi đi một loạt công điện phức tạp phác thảo những phương cách thay thế Diệm và chính phủ của ông. Tuy nhiên, v́ những biến chuyển và vụ bùng nổ tối hôm qua, chúng tôi đă chỉ thị cho nhân viên sứ quán ở Sài G̣n hoăn thi hành kế hoạch thay Diệm ” (LXK sđd tr 431).
9/ “ V́ thế chúng ta đang chờ xem kết quả trước khi tính đến việc quyết định ông Quát hay ông Đỗ sẽ là người thay thế ” (LXK sđd tr.431).
10/ “ Một số tác giả cho rằng Hoa Kỳ vội vă bỏ ư định thay thế Ngô Đ́nh Diệm v́ thấy ông đánh thắng được B́nh Xuyên ” (LXK sđd tr.430).
11/ “…hai giới hạn chính yếu đă đem lại một t́nh trạng khiến tướng Collins phải kết luận là chúng ta cần phải thay thế Diệm ” (LXK sđd tr430).
12/ “ Đại sứ Durbrow báo cáo t́nh trạng bi quan và cho rằng cần phải thay đổi lănh đạo trong tương lai ” (LXK sđd tr.439).
13/ “ Tuy nhiên, tín hiệu đó lại càng khiến cho Mỹ mau chóng lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ” (LXK sdd trang 452).
14/ Người hài ḷng nhất về cuộc đảo chánh “ vẫn là Đại sứ Cabot Lodge. Ông là người chủ trương thay thế Diệm từ trước khi sang Việt Nam làm đại sứ ” (LXK sđd tr456).
15/ “ Tṛ chơi đă bắt đầu. Chúng ta (Mỹ - Chu Sơn) bị đẩy vào một tiến tŕnh không thể trở lui là lật đổ chính phủ Diệm ” (LXK sđd tr.456).
16/ “…và cú đảo chánh đă không thể nào xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta ” (LXK sđd tr457).
17/ “ Theo McCone, Giám đốc CIA hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh trong các phiên họp là không thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu đày, nhưng thật khó mà tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép (các tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa – Chu Sơn) làm đảo chánh th́ có thể sẽ phải có giết chóc ” (LXK sđd tr.455).
Thay thế Diệm, lật đổ Diệm, đảo chánh Diệm, lưu đày Diệm và cuối cùng giết Diệm là những toan tính và hành động của Hoa Kỳ (cùng với Pháp trong thời kỳ đầu – sau Genève) trước t́nh h́nh miền Nam mà họ làm chủ sau khi tiếp nhận bàn giao từ phía Pháp. Lê Xuân Khoa đă theo dơi các chuyển biến liên quan đến vận mệnh của Ngô Đ́nh Diệm khá đầy đủ qua những tài liệu ông có được. Những tài liệu này chứng tỏ Ngô Đ́nh Diệm nghĩ ǵ, làm ǵ cũng không được ở ngoài những toan tính, sách lược, chiến lược của Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam và miền Nam. Vậy th́ Lê Xuân Khoa đă căn cứ vào đâu để kết luận :
“ Ngô Đ́nh Diệm đă có công…, có công…, có công …” như mấy câu ông viết ở cuối trang 410 và đầu trang 411 mà tôi đă trích dẫn trên.
Một đằng Lê Xuân Khoa kết luận :
“ Ngô Đ́nh Diệm đă có công lấy lại độc lập hoàn toàn cho miền Nam “từ tay người Pháp” ”.
Một đằng Lê Xuân Khoa chứng minh Hoa Kỳ đă “ áp lực với Bảo Đại và Pháp để bảo đảm sự tồn tại của chính phủ Diệm trong giai đoạn đầu ” (trích dẫn số 2 ở trên – LXK sđd tr.428), và bàn thảo với Pháp về việc t́m người thay Diệm thời kỳ sau (trích dẫn số 8 ở trên – LXK sđd tr430).
Thậm chí, trước đó Lê Xuân Khoa đă xác quyết rằng Pháp đă trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam từ hiệp ước 4-6 kư kết giữa Laniel và Bửu Lộc.
Nhưng ở cuối trang 274 và đầu trang 275 Lê Xuân Khoa lại viết nguyên văn như sau :
“ Việc Quốc Gia Việt Nam giành được chủ quyền từ tay người Pháp là sự kiện riêng biệt không bị ràng buộc bởi bản thỏa hiệp giữa Pháp và Việt Minh ” (tr274).
“ Tuy nhiên Quốc Gia Việt Nam không bị ràng buộc bởi điều kiện này v́ Pháp đă công nhận Quốc Gia Việt Nam hoàn toàn độc lập trong hiệp ước Laniel – Bửu Lộc kư tại Paris ngày 4 tháng Sáu năm 1954 ” (tr 275).
Cùng một thực thể là Quốc Gia Việt Nam mà :
– Khi th́ Lê Xuân Khoa khẳng định;: Pháp đă trả …, và Bửu Lộc (thủ tướng của Bảo Đại) đă nhận…. (Nếu sự thật là như thế th́ việc : “ lấy lại độc lập hoàn toàn cho miền Nam ” là công của Bảo Đại chứ đâu phải là công của Ngô Đ́nh Diệm ?)
– Khi th́ Lê Xuân Khoa kết luận : Ngô Đ́nh Diệm đă có công lấy lại…
– Khi th́ Lê Xuân Khoa chứng minh : Hoa Kỳ đă áp lực trong tất cả các biến cố của miền Nam từ 1954 trở về sau, đặc biệt là thân phận của Ngô Đ́nh Diệm.
Chỉ một thực thể (Miền Nam) mà có đến ba Lê Xuân Khoa cùng một lúc đưa ra ba nhận định khác nhau, th́ làm sao có được một giáo sư học giả khách quan và chân thật, để cho : “cái ǵ của César th́ trả lại cho César” như ông đă tự xưng và tự hứa khi viết Lời Mở Đầu ? (LXK sđd trang 7).
Có phải Ngô Đ́nh Diệm đă có công to lớn “ trong việc dẹp tan được B́nh Xuyên và đem lại t́nh trạng ổn định chính trị và xă hội cho dân chúng ”, như nhận định của Lê Xuân Khoa không ?
Tôi không thấy quân sử Việt Nam Cộng Ḥa đánh giá sự cố B́nh Xuyên là một chiến công to lớn. Có lẽ sử gia Việt Nam Cộng Ḥa cho rằng đây chỉ là một cuộc lục đục nội bộ giữa những người Quốc Gia với nhau, trong khi nhiệm vụ chính của Việt Nam Cộng Ḥa là chống Cộng và xây dựng miền Nam thành một quốc gia riêng biệt.
Theo tôi, việc “ Ngô Đ́nh Diệm dẹp tan được B́nh Xuyên ” chỉ là kết quả trắc nghiệm của ông chủ Mỹ, giống như cuộc thử việc của một ứng viên dự tuyển trước ban giám đốc doanh nghiệp.
Chính Lê Xuân Khoa đă cho biết : ngoài Ngô Đ́nh Diệm, Mỹ c̣n có những ứng viên dự bị như Phan Quang Đán, Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ (LXK sđdtr 424 và tr 429). Và cũng chính Lê Xuân Khoa đă viết nguyên văn ở trang 428, như đă trích dẫn ở trên, xin trích dẫn lại :
“ Chính phủ Diệm chỉ tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại mặc dù chính đặc sứ J.Lawton Collins muốn thay thế Diệm ” (LXK sđd trang 428).
Do vậy, việc Ngô Đ́nh Diệm thắng… trong bối cảnh và điều kiện ông chủ mới Hoa Kỳ đang “tiếp quản” miền Nam từ tay đồng minh Pháp, và việc B́nh Xuyên thua… trong t́nh thế ông chủ cũ Pháp bị bắt buộc (bởi hiệp định Genève và áp lực của Hoa Kỳ) phải “thoái quản”, th́ chẳng lấy ǵ làm vinh quang hay nhục nhă cho lắm.
Ngoài việc “dẹp tan B́nh Xuyên,” theo Lê Xuân Khoa, Mỹ và Ngô Đ́nh Diệm cùng nhau giải quyết dứt điểm vấn đề Cao Đài, Ḥa Hảo : Ngô Đ́nh Diệm th́ tấn công quân sự (với sự bày mưu tính kế của CIA và vũ khí Mỹ), và Mỹ th́ tấn công bằng đồng dollar và các áp lực chính trị với Pháp và đám tay sai hết thời của Pháp (LXKsđd các trang 427- 431)
Sau khi giải quyết xong vấn đề giáo phái, theo Lê Xuân Khoa, Mỹ cử Reinhardt làm đại sứ thay thế Collins, Pháp rút tướng Ely về, đưa Jacquot lên thay (LXK sđd tr.432). Lê Xuân Khoa không b́nh luận ǵ về sự thay đổi nhân sự này của Mỹ và Pháp. Tại sao vậy ??? Ông chỉ cho biết hai sự kiện quan trọng :
– Một là : Ngô Đ́nh Diệm đă bác bỏ lời yêu cầu của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng về vấn đề hiệp thương - tổng tuyển cử.
– Hai là : Ngô Đ́nh Diệm đẩy mạnh công cuộc chống Bảo Đại bằng cuộc trưng cầu dân ư “ để cho dân chúng miền Nam chọn lựa theo Bảo Đại hay Ngô Đ́nh Diệm ” (nguyên văn). Kết quả là Bảo Đại thua, Ngô Đ́nh Diệm thắng và trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa ngày 26 tháng 10 năm 1956.
B́nh luận về cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Đ́nh Diệm, Lê Xuân Khoa đúc kết bằng hai câu sau :
“ Ngô Đ́nh Diệm là nhân vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những khuyết nhược điểm lớn trong vai tṛ của một lănh đạo chính trị ” (LXK sđ dtr 422).
“ Mặc dù nổi tiếng là người có lư tưởng, liêm khiết và can đảm, Ngô Đ́nh Diệm đă phạm nhiều sai lầm trong hơn tám năm cầm quyền ở miền Nam ” (LXK sđd tr 432).
Về mặt tích cực của Ngô Đ́nh Diệm, Lê Xuân Khoa mở rộng tối đa bằng một câu khác ở trang 434 :
“ Ông cương quyết đ̣i lại nền độc lập cho Quốc Gia và thành thật mong muốn đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh, hơn hẳn chế độ Cộng sản ở miền Bắc.”
Về việc “ Ông cương quyết đ̣i lại nền độc lập cho Quốc Gia ” thực hư như thế nào, tôi đă bàn ở trên.
C̣n việc ông có “ thành thật mong muốn đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh ” hay không th́ phải soát xét lại những chủ trương, sách lược và những hành động cụ thể của Ngô Đ́nh Diệm trong suốt những năm ông cầm quyền.
Đến phần tŕnh bày “ những khuyết nhược điểm lớn ”, “ những sai lầm ” của Ngô Đ́nh Diệm, Lê Xuân Khoa viết :
“ Tuy nhiên, khi Ngô Đ́nh Diệm làm chủ được t́nh h́nh chính trị và quân sự ở miền Nam th́ ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đ́nh trị ” (LXK sđd tr.434).
Chỉ câu này thôi, Lê Xuân Khoa đă hoàn toàn mâu thuẫn với nhận định tổng quát về người đứng đầu Việt Nam Cộng Ḥa ông vừa nêu trên. Bởi một khi Ngô Đ́nh Diệm bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đ́nh trị th́ dù muốn thế nào ông cũng không thể đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh được.
Theo Lê Xuân Khoa, Ngô Đ́nh Diệm đă kết hợp quan niệm trị nước : “ dân chi phụ mẫu ” (cha mẹ của dân) của đạo Khổng và sứ mệnh thiêng liêng “ được Chúa trao cho ” để hành xử vai tṛ của một Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa. Ông đă viết :
“ Trên nền tảng tinh thần đó, ông không chấp nhận những quan điểm khác biệt, và không tha thứ ai làm trái ư ông. Ngày 15-1-1956 (đúng 01 năm, 21 ngày sau khi Ngô Đ́nh Diệm về nước, 7-7- 1956 -- Chu Sơn) ông giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông trong việc lật đổ Bảo Đại nhưng cũng là những lănh tụ chính trị độc lập như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và Nhị Lang ” (LXK sđd tr334).
Như thế, theo Lê Xuân Khoa, không chỉ có B́nh Xuyên, Cao Đài, Ḥa Hảo, Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Bảo Đại phong kiến và tay sai thực dân Pháp, không chỉ những cá nhân, phe nhóm quốc gia khác bất đồng chính kiến, không chỉ Cộng Sản Việt Minh kháng chiến mới bị ông Ngô Đ́nh Diệm loại trừ. Ngô Đ́nh Diệm c̣n loại trừ những chính khách trung lập, và cuối cùng loại trừ đến cả những người đă từng ủng hộ và có công đưa ông lên làm Tổng Thống. Bởi những người đó không răm rắp vâng lời, tuân phục ông.
Lê Xuân Khoa tuần tự cung cấp cho độc giả những thông tin về công cuộc độc tài gia đ́nh trị của Ngô Đ́nh Diệm như sau :
“ Ngày 23 tháng Mười, một cuộc Trưng cầu Dân ư được tổ chức để dân chúng miền Nam lựa chọn theo Bảo Đại hay Ngô Đ́nh Diệm. Khi đó Bảo Đại đă trở lại thân Pháp và đang ủng hộ B́nh Xuyên, do đó chắc chắn là ông phải thất bại v́ đă mất hết tín nhiệm trong dân chúng. Tuy nhiên ban tổ chức trưng cầu dân ư đă sắp xếp cho việc thắng cử của Ngô Đ́nh Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98,2 phần trăm phiếu trong khi Bảo Đại chỉ được 1,1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sài G̣n – Chợ Lớn có 450.000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605.025 ” (LXK sđd tr.432).
“ Ngày 4 tháng Ba, 1956, quốc hội lập hiến được bầu gồm 123 dân biểu mà hầu hết là người của chính phủ hay thân chính phủ ” (LXK sđd tr 434).
“ Ngày 26 tháng 10 năm 1956 hiến pháp được ban hành bao gồm đầy đủ mọi quyền tự do căn bản của dân chúng như bất cứ một nước dân chủ nào của phương Tây, nhưng thực tế có nhiều hạn chế và vi phạm ” (LXK sđd tr.435).
“ Ngày 29 tháng Năm, 1958, ban hành luật Bảo Vệ Gia Đ́nh ”..
“ Tháng sáu, 1962, luật Bảo vệ Luân Lư được ban hành.”
. (LXK sđd trang 435)
Lê Xuân Khoa không chỉ rơ luật này do ai ban hành (Quốc hội hay Tổng thống ?). Ông chỉ nói đó là hai đạo luật khắt khe và đều do bà Ngô Đ́nh Nhu soạn thảo.
Về Luật Gia Đ́nh, theo nhận xét của linh mục Trần Tam Tỉnh : gần giống các điều khoản trong giáo luật (LM Trần Tam Tỉnh –Thập Giá và Lưỡi Gươm).
“ Ngày 16 tháng 5 (năm?) Tổng thống ban hành sắc lệnh 10/62 hạn chế tự do cá nhân, quy định mọi cuộc hội họp, dù là sum họp gia đ́nh cũng phải có giấy phép của cảnh sát địa phương ” (LXK sđd tr435).
“ Tháng Giêng 1956, Tổng thống kư sắc lệnh 6/56 cho phép cơ quan an ninh bắt giữ bất cứ người nào có hành động phương hại đến an ninh quốc gia ” (LXK sđd tr 435).
“ Tháng Năm 1959 có đạo luật 10/59 thiết lập ṭa án quân sự lưu động để gia tăng hiệu lực ngăn chặn những hoạt động khủng bố của Cộng Sản ” (Đặt Cộng Sản ra ngoài ṿng pháp luật – Chu Sơn) (LXK sđd tr436).
“ Tháng Năm 1962 Tổng thống ra sắc lệnh 11/62 thiết lập Ṭa án Quân sự Mặt trận tại ba vùng chiến thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người bị kết tội không được phép kháng cáo. Tất cả các văn kiện pháp lư này đều có lư do chung là ngăn ngừa, trừng trị những hành động phá hoại của Cộng sản. Nhưng thực tế cũng nhắm vào những thành phần đối lập không Cộng sản ” (LXK sđd trang 436)
“ Đối với các đảng phái Quốc Gia có khả năng trở thành đối thủ trong cuộc tranh giành quyền lực th́ những cuộc thanh trừng đă được chính quyền Ngô Đ́nh Diệm thực hiện từ đầu năm 1955, trước khi dẹp yên loạn quân B́nh Xuyên và các nhóm tôn giáo đối lập. Ở miền Trung, tháng Ba (1955 – Chu Sơn) Ngô Đ́nh Cẩn đă dẹp xong các mật khu của Đại Việt ở Ba Ḷng (Quảng Trị) và Phú Yên. Các hệ phái Quốc Dân Đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Kutum và nhiều tỉnh khác đều bị tiêu diệt trong thời gian này ”. (LXK sđd tr437).
“ Từ những cơ sở bí mật, các phong trào đấu tranh chính trị được phát động, đặc biệt là phong trào Ḥa b́nh Sài g̣n – Chợ lớn và phong trào đ̣i lập lại quan hệ b́nh thường Nam – Bắc. Từ giữa năm 1955, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm phát động chiến dịch “tố cộng” mănh liệt trên toàn miền Nam, để loại trừ mọi hoạt động Cộng sản hay thân cộng. Miền Bắc ghi nhận con số cán bộ bị bắt hay bị giết rất cao ”.
“ Chỉ trong bốn năm (1955 – 1958) 9/10 cán bộ đảng viên ở miền Nam đă bị tổn thất. Riêng Nam bộ, chỉ c̣n khoảng 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng liên khu V có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch bắt giết hại, 12 huyện không c̣n cơ sở đảng. Ở Quảng Trị chỉ c̣n 176 trên 8400 đảng viên trước đó ” (LXK sđd tr278)
“ Trong những ngày đầu của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, các chiến dịch tố cộng, diệt cộng đă truy lùng và trừng phạt không những cán bộ Cộng sản nằm vùng mà cả những người đi theo Việt Minh chống Pháp mặc dù họ không phải là đảng viên Cộng sản. Cuối năm 1958 có tin 1.000 người bị giết ở trại tập trung Phú Lợi. Tác giả Bùi Tín nhắc lại những biện pháp hăi hùng đối với những nạn nhân của chiến dịch tố công :
… Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, với sắc lệnh 10/59 đưa máy chém khắp các vùng để trừng trị các lực lượng Cộng sản đang ẩn náu trong dân,
... ở đồng bằng sông Cửu Long, khu 5, bắt vợ con của những người “Cộng sản” (thật ra phần lớn chưa hoặc không Cộng sản, chỉ là những người kháng chiến chống thực dân Pháp) từ bỏ những người chồng đă đi tập kết, những người kháng chiến cũ, gia đ́nh họ bị quản thúc, kiểm soát gắt gao… ” (LXK sđd tr437).
“ Khi thành lập chính phủ cũng như trong những lần cải tổ nội các, Ngô Đ́nh Diệm đều không muốn có sự tham dự của Phan Huy Quát, một lănh tụ Đại Việt được Hoa Kỳ tin cậy ”
“ Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến tháng ba năm 1956, ứng cử viên đối lập Phan Quang Đán đắc cử nhưng không được công nhận v́ “gian lận”. “ Năm 1959 ông Đán ra tranh cử lần nữa, trúng cử với đa số phiếu, nhưng vẫn bị loại v́ “phạm luật bầu cử” ” (LXK sđd tr437).
“ Ngoài chính sách độc tài gia đ́nh trị, chính phủ Diệm c̣n phạm nhiều sai lầm trong việc hoạch định và thi hành các chương tŕnh tranh thủ nhân dân chống cộng ” (LXK sđd tr444).
“ Trước hết là cải cách điền địa (1956). Tiếp đến là chương tŕnh thiết lập các Khu Trù Mật (1959), cuối cùng là chương tŕnh Ấp Chiến Lược ” (LXK sđd tr 444-448).
Theo Lê Xuân Khoa các chính sách và chương tŕnh ấy về chủ trương là đúng, là ôn ḥa, là tốt đẹp nhưng kết quả lại không có lợi cho nông dân, gây nhiều phiền nhiễu, khó khăn cho đời sống của người dân ở nông thôn, Việt Cộng lợi dụng để phản tuyên truyền, làm suy giảm khả năng chiến đấu, bảo vệ dân chúng của quân đội ở những vùng do chính phủ kiểm soát.
Với đường lối, sách lược của chính quyền độc tài gia đ́nh trị như vậy nên đă dẫn tới những toan tính, những phản ứng của Mỹ, của các chính khách, của hầu hết tướng lĩnh trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa và các thành phần, bộ phận quần chúng nhân dân ngoài Công giáo, để rồi cuối cùng kết thúc bằng cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm.
Theo tŕnh tự thời gian, Lê Xuân Khoa đă liệt kê một số sự kiện như sau :
– Về phía Mỹ : Từ khi Ngô Đ́nh Diệm bắt đầu cầm quyền đến khi bị đảo chính, Hoa Kỳ đă chuyển dịch từ thái độ thăm ḍ, hoài nghi đến tin tưởng, phong ông như người hùng, lănh tụ tầm cỡ của châu Á và Thế giới. Chẳng bao lâu sau lại lo lắng, khuyên can, hù dọa ông, rất nhiều lần toan tính thay thế ông, cuối cùng th́ thất vọng, phẫn nộ và dứt khoát loại trừ ông.
– Về phía người Việt Nam Quốc Gia, theo Lê Xuân Khoa (tôi tóm thuật – Chu Sơn) :
“ Ngày 15-3-1958, Nghiêm Xuân Thiện, cựu Tổng trấn Bắc phần, trên tờ tuần báo Thời Luận do ông làm chủ nhiệm đă đăng bức thư ngỏ : Gửi Dân Biểu của tôi. Bức thư có nội dung cảnh báo những sai phạm của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, đề nghị thay đổi.
Thời Luận và chủ nhiệm bị đưa ra ṭa. Báo bị đóng cửa v́ tội phỉ báng chính quyền. Nghiêm Xuân Thiện bị phạt mười tháng tù giam ” (LXK sđd trang 437- 438).
“ Ngày 26 tháng Tư năm 1960, mười tám nhân vật danh tiếng họp báo ở khách sạn Caravelle, công bố Bản Tuyên Cáo gởi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Bản Tuyên Cáo tố giác những “vụ bắt bớ, giam cầm và xử án phi pháp…, kêu gọi chính phủ Diệm khẩn trương thay đổi chính sách, ban hành các quyền tự do dân chủ…Bản Tuyên Cáo không được chính phủ Diệm quan tâm ” (LXK sđd trang 438).
“ Ngày 11-11-1960 Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu cuộc đảo chính nhằm cảnh cáo Diệm. Cuộc đảo chính có sự ủng hộ của một số chính trị gia chống Diệm như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu. Mỹ bày tỏ thái độ trung lập và khuyến khích hai bên thương lượng. Diệm hứa thay đổi chính phủ nhưng lật lọng. Nguyễn Chánh Thi, Vương văn Đông và đồng sự bỏ trốn ” (LXK sđd tr439).
“ Ngày 27-2- 1962 hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái máy bay từ Biên Ḥa về Sài G̣n tấn công dinh Độc Lập, Diệm – Nhu thoát chết ” (LXK sđd tr440).
“ Từ tháng Tư trở đi, một chuỗi biến cố giữa chính quyền và Phật giáo dẫn đến cuộc đảo chính ngày 1 tháng Mười Một ” (1963 – Chu Sơn) (LXK sđd các trang 449, 450, 452, 453, 454, 455, 456, 457) :
“ Ngày 6-5 phủ Tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên các chùa ”.
“ Ngày 8-5 Thượng tọa Trí Quang thuyết pháp, sau đó khoảng 3.000 Phật tử xuống đường biểu t́nh… Phó tỉnh trưởng Đặng Sĩ cho lệnh cảnh sát và quân đội giải tán đám biểu t́nh khiến 8 người chết và 15 người bị thương ” (LXK sđd trang449).
“ Ngày 11-6 Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài G̣n ” (LXK sđd trang 450).
“ Ngày 7-7 nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính uống thuốc độc tự tử để phản đối chính phủ đưa ông ra ṭa án Quân sự Mặt trận để xét xử cùng với những người liên quan đến vụ đảo chính hụt gần ba năm trước (11-11-1960) ” (LXK sđd tr450).
“ Trần Kim Tuyến (giám đốc sở nghiên cứu chính trị phủ Tổng thống, cơ quan mật vụ được CIA tài trợ để kiểm soát các phần tử chống đối chính phủ) âm mưu đảo chính. Cùng chủ mưu trong vụ này là Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Tổng thanh tra Ấp Chiến Lược… ” (LXK sđd tr.450)
“ Đêm 21-8 Ngô Đ́nh Nhu điều động lực lượng đặc biệt tấn công chùa Xá Lợi bắt đi hàng trăm tăng ni, trong đó có hai nhà lănh đạo giáo hội Phật giáo là Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết và Thượng tọa Thích Tâm Châu ” (LXK sđd tr 451).
“ Khi biết là quan hệ với Washington có thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm muốn thương lượng với Hà Nội qua trung gian của một số nhà ngoại giao và nhà báo Úc Wilfred Burchett… Điều kiện của Hà Nội đưa ra là sẽ bàn thảo mọi vấn đề nếu không có Mỹ. Qua đó ông Nhu cũng muốn gởi một tín hiệu cảnh báo Hoa Kỳ rằng hậu quả của việc ngưng ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm sẽ là một chính phủ Trung lập đ̣i Mỹ rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, tín hiệu đó lại càng khiến cho Mỹ muốn mau chóng lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Kết quả là cả hai ông Nhu Diệm đă bị hạ sát trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11” (LXK sđd tr 452).
Lê Xuân Khoa kết thúc “ Những khuyết nhược điểm lớn ”, “ những sai lầm ” của Ngô Đ́nh Diệm, và b́nh luận về ḷng yêu nước, về cái chết không đáng của ông ta như sau :
“ Mặc dù sai lầm v́ chính sách độc tài và tinh thần gia đ́nh trị, ông Diệm không phạm những tội ác đối với dân tộc và đất nước để có thể bị giết chết một cách tàn nhẫn sau khi đă gọi cho những người cầm đầu đảo chính đến bắt ḿnh. Không ai có thể phủ nhận ông là người nhiệt thành yêu nước và ngay cả khi chủ tịch Hồ Chí Minh kẻ thù chính trị của ông, cũng đă bày tỏ thái độ kính trọng ḷng yêu nước và tinh thần can đảm của ông ” (LXK sđd tr 453).
Tôi không đồng ư với Lê Xuân Khoa những nhận định này. Cũng như trước đó tôi đă không đồng ư với ông rằng : “ Ngô Đ́nh Diệm nổi tiếng là người có lư tưởng, liêm khiết và can đảm ”.
Tôi tŕnh bày suy nghĩ của tôi về mấy vấn đề sau :
– 1/ Ngô Đ́nh Diệm có phải “ là người yêu nước, có lư tưởng, liêm khiết và can đảm ” không ?
Như Lê Xuân Khoa đă nhận định và tôi đă trích dẫn ở trên : “ Khi Ngô Đ́nh Diệm đă làm chủ được t́nh h́nh chính trị và quân sự ở miền Nam (cuối năm 1955) th́ ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đ́nh trị ”.
Tôi nghĩ t́nh h́nh này cũng gần giống như sau năm 1975, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ vừa kết thúc, đảng Cộng Sản liền áp đặt nhân dân và đất nước dưới ách độc tài đảng trị.
Khi một gia đ́nh hay một đảng gom hết mọi quyền lực, tài nguyên đất nước và vận mệnh dân tộc vào tay ḿnh, đặt ách thống trị lên tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân th́ gia đ́nh đó, đảng đó chẳng có lư tưởng, liêm sỉ và can đảm ǵ cả. Suy nghĩ của tôi là như thế.
Lê Xuân Khoa có thể phản bác lại: Nhưng dù sao nền độc tài gia đ́nh trị của Ngô Đ́nh Diệm cũng dễ thở hơn độc tài Cộng Sản. Tôi đồng ư với Lê Xuân Khoa như thế. Nhưng giả định rằng : nếu không có Mỹ ở trên đầu và Cộng Sản ở bên hông th́ liệu nền độc tài gia đ́nh trị của Ngô Đ́nh Diệm có c̣n dễ thở nữa không ? Chính Lê Xuân Khoa đă cung cấp cho tôi bằng chứng để tôi khẳng định quan điểm của ḿnh. Lê Xuân Khoa cho rằng : “ Ngô Đ́nh Diệm đă kết hợp quan niệm trị nước “ dân chi phụ mẫu ” của đạo Khổng và sứ mệnh thiêng liêng được Chúa trao cho để hành xử vai tṛ của một Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa ”. Lê Xuân Khoa để ra 34 trang để kiểm điểm những “ khuyết nhược điểm lớn và những sai lầm ” của Ngô Đinh Diệm mà tôi đă tóm lược ở trên.
Sau đây tôi căn cứ vào nhận định tổng quát và những dẫn chứng cụ thể ấy của Lê Xuân Khoa, cùng những thông tin tôi nắm bắt được bằng trải nghiệm cá nhân và bằng những tài liệu khác để có những nhận định của chính ḿnh : Khi người đứng đầu một nước mà quan niệm như thế về chính trị th́ chắc chắn chế độ Cộng Ḥa mà ông ta rêu rao chỉ là bánh vẽ, và cái mà ông ta thực hiện chắc chắn sẽ là chế độ độc tài phong kiến lỗi thời giả danh Nho giáo kết hợp với tính chất của một nhà nước Thiên Chúa Giáo thời Trung cổ ở châu Âu, và về mặt bạo lực gian ác, tráo trở, chắc chắn chẳng khác ǵ một nhà nước Cộng Sản trong hiện tại.
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm tố cáo Cộng Sản là độc tài đảng trị th́ ông thực hiện độc tài gia đ́nh – Cần Lao – Thiên Chúa giáo trị. (LXK sđd – chương 10, Hoàng Linh Đỗ Mậu : Việt Nam máu lửa quê hương tôi).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm tố cáo Thực – Cộng cấu kết chia hai đất nước th́ ông chủ trương miền Nam là một quốc gia riêng biệt. (Hoàng Linh Đỗ Mậu : Việt Nam máu lửa quê hương tôi).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm tố cáo miền Bắc là công cụ của chủ nghĩa quốc tế, tay sai Nga – Tàu, th́ ông tiêu diệt các phe phái quốc gia khác để gia đ́nh ḿnh độc quyền nhận sự bảo trợ của Mỹ nhằm biến miền Nam thành một quốc gia Thiên Chúa giáo, một tiền đồn của “Thế giới Tự do”. (Linh mục Trần Tam Tỉnh : Thập giá và Lưỡi gươm).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm hô hào đả đảo thực dân cũ (Pháp), th́ ông đă chạy vạy để được nhận làm đồng minh, công cụ và tù nhân của thực dân mới Hoa Kỳ (LM Trần Tam Tỉnh sđd).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm tố cáo đảng Cộng Sản miền Bắc xâm lược miền Nam th́ ông hô hào Bắc tiến.
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm tố cáo đảng Cộng Sản đă làm nên tội ác “Cải Cách Ruộng Đất” th́ ông tiến hành các chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng giết chóc và tù đày gần trăm ngàn cán bộ kháng chiến là đảng viên hay không đảng viên (cựu kháng chiến chống Pháp) cùng gia đ́nh của họ, kể cả gia đ́nh của những người đi tập kết. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd, Lê Xuân Khoa sđd)
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm từ chối không nói chuyện với miền Bắc về vấn đề tổng tuyển cử v́ lí do “nhân dân miền Bắc không được tự do bầu cử trong chế độ độc tài Cộng Sản”, th́ ông lên ngôi Tổng thống bằng cuộc trưng cầu dân ư độc diễn và tự gian lận với chính ḿnh. (LXK sđd chương10).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm tố cáo Cộng Sản vô thần th́ ông thực hiện sách lược tự do tín ngưỡng nhưng chỉ với Thiên Chúa Giáo mà gia đ́nh ông là đại diện. (Linh Mục Trần Tam Tỉnh sđd).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm hô hào Bài Phong th́ ông thiết lập một nhà nước chẳng khác nào một triều đ́nh phong kiến. Ông bắt nhân dân miền Nam suy tôn ông từng ngày trong các cuộc hội họp, trong các rạp chiếu bóng, và trong các trường học. Ông để cho Ngô Đ́nh Cẩn trở thành lănh chúa miền Trung. Ông tôn Ngô Đinh Nhu làm cố vấn tối cao phụ trách các vấn đề chính trị an ninh và t́nh báo. Ông nuông chiều Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đ́nh Nhu), để em dâu ông mặc sức hoành hành trong vai tṛ đệ nhất phu nhân, khuynh loát quốc hội, chính phủ, với tay tới bất cứ lănh vực nào sinh lợi ở miền Nam (miền Trung đă chia cho Ngô Đ́nh Cẩn). Ông giao “phần hồn” của nhân dân miền Nam cho Ngô Đ́nh Thục để ông Tổng Giám mục này hành xử như một Thái Thượng Hoàng đứng đầu một trung tâm quyền lực trần gian khác bên cạnh phủ Tổng thống ở Sài G̣n và dinh lănh chúa miền Trung. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).
Trong khi Ngô Đ́nh Diệm rêu rao về một Việt Nam Cộng Ḥa độc lập, tự do, dân chủ th́ ông cai trị bằng những sắc luật, bằng bộ máy cảnh sát mật vụ dày đặc với máy chém và hệ thống nhà tù, khu trù mật, ấp chiến lược trên khắp miền Nam. Ông lấy giáo hội giáo dân Thiên Chúa giáo làm hậu thuẫn. Ông biến các bộ phận quần chúng nhân dân khác thành đối tượng chuyên chế của chỉ gia đ́nh ông. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd, LM Trần Tam Tỉnh sđd).
Nói và làm như thế, nên sau chín năm cầm quyền dưới sự bảo trợ ngày càng khập khiễng của đồng minh Hoa Kỳ, Ngô Đ́nh Diệm đă trở thành :
– Một “ lănh tụ yêu nước, anh minh ”, đồng thời là ân nhân của dưới 10 % dân chúng là tín đồ đạo Thiên Chúa – nạn nhân của tham vọng biến miền Nam thành một nước Công giáo toàn ṭng. Một tiền đồn của thế giới Tự Do (Linh Mục Trần Tam Tỉnh sđd).
– Một ông chủ, một đồng chí phản trắc, vong ân bội nghĩa của các chính khách, tướng lĩnh, những người đă từng công kênh, ủng hộ và có công đưa lên làm người đứng đầu phe Quốc Gia sau khi truất phế Bảo Đại phong kiến. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).
– Một ông vua phong kiến trá h́nh, một kẻ hai mặt, tàn ác, dối trá, lật lọng đối với hơn 90 % dân chúng c̣n lại – trong đó có một bộ phận không nhỏ những người đă lầm tưởng ông là ngọn cờ sáng giá của lư tưởng Cộng Ḥa có khả năng đưa đất nước thoát khỏi tàn tích thực dân phong kiến và hiểm họa Cộng Sản. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).
– Một công cụ ruỗng mục cần phải dẹp bỏ đối với Mỹ – ông chủ mới của miền Nam. Lư do là Ngô Đ́nh Diệm và những người trong gia đ́nh ông đă làm phá sản, ung thối ư đồ sách lược chống Cộng của Mỹ tại Việt Nam và Đông Nam Á lại c̣n làm động tác giả : giao tiếp với miền Bắc để thương lượng về t́nh h́nh đất nước. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).
Mỹ muốn giết bỏ ông. Các tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa muốn trừ diệt ông. 90 % dân chúng miền Nam muốn thoát khỏi chế độ độc tài gia đ́nh trị. Dưới 10 % dân chúng là tín đồ Thiên Chúa giáo được lănh đạo bởi giáo hội Công giáo Việt Nam thoát thai và chịu sự điều hướng từ các giáo hội Thiên Chúa giáo Quốc tế không cứu được anh em nhà ông. Cuộc đảo chánh 1.11.1963 đă diễn ra trong bối cảnh như thế.
Các từ yêu nước, lư tưởng, liêm khiết và can đảm mà Lê Xuân Khoa và một bộ phận người Việt Nam (dưới 10 % là tín đồ Thiên chúa giáo) dành cho Ngô Đ́nh Diệm hoàn toàn không chính xác đối với tất cả những người miền Nam c̣n lại, 90 % người miền Nam này muốn giết bỏ hoặc muốn thoát khỏi sự cai trị độc tài của gia đ́nh ông. Giá trị lịch sử thông thường là tương đối. Trong trường hợp này nó gần như tuyệt đối. Nó đạt tỉ lệ 90/100. Ông Lê Xuân Khoa không nên lấy lời nhắn gửi ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh qua Ranchundur Goburdhun (Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến) để bảo chứng cho ḷng yêu nước của Ngô Đ́nh Diệm (LXK sđd tr453). Bởi chủ tịch Hồ Chí Minh chắc chắn không nói như thế khi kêu gọi thanh niên và nhân dân cả nước đứng lên chống Mỹ, lật Diệm. Chống Pháp, chống Mỹ để đem lại quyền lực cho nhân dân, đem lại ḥa b́nh, thống nhất cho đất nước và đoàn kết ḥa hợp dân tộc, ấm no hạnh phúc cho mọi người mới là yêu nước. Nhưng làm quan “thanh liêm” mà mau lên chức trong chế độ thuộc địa (trong ṿng tám năm mà từ tri huyện được thăng đến thượng thư, trong khi những người khác phải mất đến hai ba mươi năm), từ chức thượng thư v́ không đươc ông chủ Pháp ban cho nhiều quyền lực, đến khi chạy vạy để được ông chủ Mỹ ban cho nhiều quyền lực th́ độc tài gia đ́nh – Thiên Chúa giáo trị… th́ chẳng yêu nước và lư tưởng ǵ cả, mà chỉ yêu bản thân, gia đ́nh và tôn giáo ḿnh.
Cũng như đảng Cộng Sản ngày nay, đất nước và nhân dân đối với gia đ́nh họ Ngô chỉ là phương tiện, là chiêu bài. Lừa gạt nhân dân (nói là Cộng ḥa, mà làm th́ gia đ́nh và Thiên chúa giáo trị), phản bội người đă giúp đở ủng hộ ḿnh, dùa (lùa) hết của cải của thiên hạ cho anh em nhà ḿnh mà liêm khiết sao ? Bầu cử độc diễn và gian lận mà liêm sỉ và can đảm sao ?
Tâm địa của gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm trước năm 1963 hoàn toàn giống tâm địa đảng Cộng sản từ 1975 đến tận ngày nay.
– 2/ Ngô Đ́nh Diệm có phạm những tội ác đối với dân tộc không ?
Lê Xuân Khoa đă dành gần 40 trang trong cuốn sách của ông để viết về chính sách Cải Cách Ruộng Đất trên miền Bắc từ cuối năm 1953 đến giữa năm 1956. Theo ông, đây là tội ác to lớn mà đảng Cộng Sản đă phạm phải đối với dân tộc Việt Nam. Tôi chia sẻ với Lê Xuân Khoa trong một số nhận định của ông về vấn đề này. Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu tại sao Lê Xuân Khoa chẳng viết (tôi không dùng từ nghiên cứu) một đoạn tương tự về công cuộc Tố Cộng – Diệt Cộng đẫm máu trong suốt 5 năm đầu Ngô Đ́nh Diệm thực hiện Gia Đ́nh Trị (từ của Lê Xuân Khoa) tại miền Nam. Tôi cũng không hiểu trong những năm đó ông ở đâu mà không biết Ngô Đ́nh Diệm đưa máy chém đi khắp miền Nam để cũng “ giết lầm hơn bỏ sót ”, và giết đến người kháng chiến không Cộng sản hoặc các thành phần quần chúng khác không thần phục, đút lót cho Ngô triều qua chiêu bài tố Cộng diệt Cộng. Không nghiên cứu tội ác tố Cộng – diệt Cộng của nhà Ngô th́ không hiểu hết cuộc chiến tranh mà ông gọi là Nội Chiến hay Ủy Nhiệm.
Lê Xuân Khoa chỉ căn cứ vào một vài tài liệu của các tác giả miền Bắc hoặc có gốc gác miền Bắc (như Bùi Tín) để nói qua về công cuộc tố Cộng – diệt Cộng của Ngô Đ́nh Diệm tại miền Nam rằng là có khoảng 80.000 trên 100.000 cán bộ Cộng Sản, hoặc kháng chiến không Công Sản bị sát hại, tù đày. Lê Xuân Khoa trích dẫn những tài liệu này để chứng tỏ ḿnh khách quan trung thực.
Theo tôi, tội ác Cải Cách Ruộng Đất của Công Sản là rất lớn, nhưng không lớn hơn tội ác tố Cộng – diệt Cộng của chế độ Ngô D́nh Diệm. Không có cải cách ruộng đất, không có tố Cộng – diệt Cộng, lịch sử Việt Nam sẽ đi theo một chiều hướng khác.
Sau Genève, đảng Cộng Sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tồn tại như là một đảng chính trị duy nhất và một nhà nước chính danh của đa số nhân dân miền Bắc và của một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân ở miền Nam hướng về. Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc, do những khó khăn nội bộ, bày tỏ lập trường ḥa hoăn với Tây phương, đặc biệt với Mỹ. Việt Nam – Đông Dương không phải là mối quan tâm cấp thiết của họ. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do kinh nghiệm bị thúc ép bởi hai nước Cộng Sản đàn anh phải kư hiệp định Genève với kết quả không tương xứng với những thắng lợi trên chiến trường, và nhất là do những khó khăn to lớn trong việc tiếp quản miền Bắc (giải quyết, khắc phục hậu quả chiến tranh, thanh toán những rắc rối do t́nh báo Pháp và Mỹ gài lại, ổn định xă hội và phát triển cuộc sống của nhân dân theo định hướng xă hội chủ nghĩa), nên một mặt tiếp tục công cuộc Cải Cách Ruộng Đất bị bỏ dở ở miền Bắc, Cải tạo công thương nghiệp, trấn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm, và một mặt chủ động đề ra sách lược hữu khuynh rất sai lầm là đấu tranh ḥa b́nh ở miền Nam nhằm thống nhất đất nước với 100.000 cán bộ đảng viên gài lại. Miền Bắc đă không nhờ vả Trung Quốc, Liên Xô trong thời đoạn này.
Trong khi đó t́nh h́nh ở miền Nam không kém phần phức tạp : Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại (vốn là một giải pháp, một công cụ của Thực dân Pháp) chuyển đổi thành Việt Nam Cộng Ḥa của Ngô Đ́nh Diệm với quyền lực rộng răi và chủ động hơn trong sự bảo trợ mạnh mẽ và quyết liệt của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ – quốc gia đứng đầu tổ chức Liên pḥng Đông Nam Á mới thành lập – cương quyết ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản từ vĩ tuyến 17, muốn biến miền Nam thành tiền đồn của thế giới Tự Do, đă tích cực dàn dựng ra một nhà nước Cộng Ḥa với một Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Ngô Đ́nh Diệm dựa vào thế lực của Mỹ hăm hở xây dựng miền Nam thành một quốc gia riêng biệt với quyền lực tuyệt đối thuộc về gia đ́nh họ Ngô, đảng Cần Lao và Thiên Chúa giáo. Sau khi thanh toán hết các thế lực, các thành phần Quốc Gia tranh chấp và bất đồng chính kiến (phe Bảo Đại, B́nh Xuyên, và hai giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, các đảng Đại Việt, Quốc Dân Đảng), Ngô Đ́nh Diệm đă thẳng tay tiêu diệt Cộng Sản nằm vùng với các chiến dịch tố Cộng – diệt Cộng đẫm máu, dứt khoát khước từ hiệp thương – tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo đề nghị của miền Bắc. 100.000 cán bộ đảng viên bị chính quyền Diệm giết chết, tra trấn, tù đày, đầu hàng và vô hiệu hóa đến 80%. Một số trong 20% c̣n lại vượt tuyến ra Bắc đă báo cáo với lănh đạo đảng Cộng Sản về “một miền Nam bị Mỹ – Diệm thống trị với chế độ độc tài phát xít và âm mưu chia cắt đất nước vĩnh viễn”. Những cán bộ miền Nam vượt tuyến này (hai người trong nhóm đó là Lê Duẩn, mấy năm sau là người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam, tác giả chính của nghị quyết 15, và Phạm Hùng, Bí thư Trung ương cục Miền Nam, lănh đạo MTGP miền Nam) cùng với những cán bộ đảng viên tập kết từ 1954 đă khẩn khoản yêu cầu Đảng của họ nhanh chóng có kế hoạch Giải phóng miền Nam để Nam – Bắc sum họp một nhà.
Trước t́nh h́nh đó, sau khi đ́nh chỉ và sửa sai sách lược Cải cách ruộng đất đảng Cộng Sản đă đề ra sách lược mới : Giải phóng miền Nam bằng một giải pháp phối hợp đấu tranh chính trị và bạo lực cách mạng theo sự chỉ dẫn của nghi quyết 15. Để thực hiện sách lược theo nghị quyết đó, đảng Cộng sản Việt Nam trước khi thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tháng 12.1960) đă đi cầu viện Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu (xem : Đại cương Lịch Sử Việt Nam – Trương Như Quưnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hăn, Thư vào Nam – Lê Duẩn).
Chiến tranh Việt – Mỹ, Nam – Bắc đă xảy ra trong bối cảnh như thế.
Giả định rằng Mỹ và Ngô Đ́nh Diệm sau khi tiếp quản miền Nam từ tay Pháp và Bảo Đại mà bày tỏ một sách lược ḥa hoăn với miền Bắc, không thi đua bạo lực kiểu “Máu kêu trả máu – Đầu kêu trả đầu”, không thi đua tẩy năo bằng Duy linh – Nhân vị – Cần lao, mà thi đua ḥa b́nh, mà tiến công bằng thực hành dân chủ và chế độ Cộng ḥa chân thực, chứ không giả hiệu như đă thực hiện, th́ vấn đề Nam – Bắc Việt Nam sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác, có khả năng gần như Tây – Đông Đức, hay ít ra như Nam – Bắc Triều Tiên. Tôi nghĩ rằng thủ tuc, biện pháp, công sức, kinh phí để đưa 80.000 cán bộ nằm vùng bắt được qua bên kia vĩ tuyến 17 (qua trung gian của Ủy hội Quốc tế kiểm soát đ́nh chiến) sau khi đối xử với họ tử tế sẽ dễ dàng và rẻ hơn, có kết quả tích cực hơn so với việc xây nhà tù, trung tâm cải huấn, tổ chức hệ thống quản lư, tra tấn, nuôi ăn hàng trăm ngàn tù nhân, hay mua máy chém, tổ chức pháp trường và các biện pháp trấn áp tẩy năo.
80.000 người “nhập cảnh” đặc biệt ấy trong những chừng mực khác nhau sẽ là sứ giả của một Việt Nam Cộng Ḥa ḥa hoăn về vấn đề thông nhất, không quá độc tài phát xít như những ǵ mà những người vượt thoát khỏi các nhà tù miền Nam sẽ mô tả như là những địa ngục trần gian. 80.000 sứ giả ấy sẽ là “vấn đề” đối với chế độ và xă hội miền Bắc xét theo nhiều góc độ, trong trường hợp nào cũng có lợi cho dân tộc, đất nước về lâu dài.
Theo tôi, việc Ngô Đ́nh Diệm chống lại khát vọng thống nhất đất nước và không xây dựng chế độ Cộng Ḥa chân thật là một tội ác. Tội ác này bao trùm các tội ác mà Ngô Đ́nh Diệm đă thực hiện tại Việt Nam từ 1954 đến 1963 với những hậu quả tai hại lâu dài của nó.
Cùng với chế độ Thực dân – Đế quốc, các chế độ độc tài : độc tài gia đ́nh trị, tôn giáo trị, quân phiệt trị hay đảng trị là nguồn gốc của mọi tội ác ở Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX. Sau gần một trăm năm chịu đựng sự giày xéo, áp bức, bóc lột của Thực dân xâm lược, chứng kiến sự bất lực, đầu hàng, ruỗng mục của chế độ Quân chủ Phong kiến nhà Nguyễn, sau 10 năm (1945 – 1954), bước đầu trải nghiệm những sách lược, hành động độc tài Cộng Sản, nhân dân Việt Nam hướng ước mơ của ḿnh về nền Cộng Ḥa mà họ nghĩ rằng có khả năng giải đáp những khát vọng chính đáng và cấp thiết của dân tộc: Áo cơm, học hành, y tế, Dân chủ, Tự do, Công bằng, Bác ái… Hồ Chí Minh thấy được khát vọng đó của dân tộc khi đặt tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ngay sau Cách mạng tháng Tám. Ngô Đ́nh Diệm cũng đă thấy được khát vọng đó khi đề ra khẩu hiệu: bài Phong – đả Thực – diệt Cộng, và đặt tên “nước miền Nam” là Việt Nam Cộng Ḥa. Nhưng cả hai ông đều đă : Treo đầu heo – Bán thịt chó.
Hoàn toàn có khả năng con người nửa Cộng ḥa, nửa Cộng sản ảo mộng Hồ Chí Minh bị trói bởi các học tṛ – đồng chí Cộng sản kiên định chủ nghĩa Mác – Lê, tư tưởng Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng với năo trạng sứ đồ Thiên Chúa giáo trung cổ và tâm lư quan lại Nam triều thuộc địa th́ Ngô Đ́nh Diệm hoàn toàn chủ động khi khẳng định ḿnh là “cha mẹ của dân,” “được Thượng đế trao cho sứ mệnh đưa dân chúng miền Nam Việt Nam trở lại nước Chúa”. Ông quan “cha mẹ của dân” và “vị sứ giả của Thượng đế” th́ hoàn toàn xa lạ với những khái niệm của tư tưởng Cộng Ḥa (bao gồm những công dân b́nh đẳng, tự do, có quyền và trách nhiệm ngang nhau một cách tương đối...). Cũng như đảng Cộng sản sau 1975, chế độ Gia đ́nh – Cần Lao – Thiên Chúa giáo toàn trị của Ngô Đ́nh Diệm đă hủy hoại niềm tin và khát vọng Cộng Ḥa của cả dân tộc. Tội ác của Ngô Triều lúc bấy giờ không thua kém tội ác của đảng Cộng Sản sau này xét về mặt tính chất, nhưng xét về mặt tầm vóc th́ không to lớn bằng. Cả hai chế độ độc tài, về mặt cơ chế, loại trừ lẫn nhau, nhưng đều chống lại các quyền lợi tối cao và thiêng liêng của dân tộc, tổ quốc.
Hữu thần ←→ Vô thần, Duy linh ←→ Duy vật, Công giáo ←→ Cộng sản, Tư hữu (cho một thiểu số) ←→ Công hữu… là những cặp đối lập theo ngữ nghĩa của ngôn từ nhưng thực chất là hai mặt của một vận động lịch sử. Cuộc vận động lịch sử ấy dẫn đến một kết quả cuối cùng : Một thiểu số cầm quyền (gia đ́nh trị hay đảng trị) đối lập sinh tử với đại đa số quần chúng nhân dân.
Giả định rằng sau 1954, với sự bảo trợ của Mỹ, Ngô Đ́nh Diệm thực tâm xây dựng nền tảng cho chế độ Cộng Ḥa (thay v́ thiết lập chế độ độc tài gia đ́nh – Cần lao – Thiên Chúa giáo trị như ông đă làm), chính phủ do ông đứng đầu sẽ cải tổ và mở rộng theo hướng đa nguyên – dân chủ như mong ước và khát vọng của nhân dân miền Nam cũng như nhân dân cả nước (và cũng theo những khuyến cáo của Mỹ) th́ nội t́nh các đô thị miền Nam sẽ không có Tuyên ngôn của nhóm Caravelle tháng Tư – 1960, sẽ không có sự phẫn nộ của dân chúng và báo chí, sẽ không có hai cuộc đảo chánh của các sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng ḥa (do Nguyễn Chánh Thi và Vương văn Đông cầm đầu ngày 11-11-1960, và do Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc thực hiện ngày 27- 2-1962), và tất nhiên, sẽ không có phong trào Phật giáo để rồi dẫn đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963. Về phía miền Bắc sẽ không khẩn trương thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sẽ không có phong trào đô thị trong sách lược Hai chân – Ba mũi của nghị quyết 15. Và tất nhiên sẽ không có việc Mỹ tháo chạy tán loạn và Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ như mọi người đều thấy.
Nhưng vận động lịch sử đă không diễn ra theo giả định viễn mơ ấy. Những người “Quốc Gia” sau cái chết của anh em Nhu – Diệm và sự sụp đổ của nền Cộng Ḥa giả hiệu lần thứ nhất đă nhốn nháo quy tụ, đấu đá và tranh giành quyền lực chung quanh ông chủ Mỹ, để rồi cuối cùng sản sinh ra chế độ độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu. Chế độ Cộng Ḥa giả hiệu lần thứ hai cũng với hậu thuẫn của giáo hội Thiên Chúa giáo làm b́nh phong cho sự nổi giận sấm sét của thần chiến tranh Hoa Kỳ. Độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu tiếp nối độc tài gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm cùng với “cuộc chiến tranh của Mỹ” đă thủ tiêu giấc mơ Cộng Ḥa của cả dân tộc, đă củng cố lập trường kháng chiến dưới sự lănh đạo của những người Cộng Sản, đă đẩy đại bộ phận quần chúng nhân dân (không được tập tành đấu tranh dân chủ trong chế độ Cộng Ḥa chân chính, và mất hết sức lực sau hai cuộc chiến tranh Việt – Pháp, Việt – Mỹ) vào ṿng độc tài Cộng sản.
Lê Xuân Khoa đă dành 10 trang để viết về giai đoạn chuyển tiếp từ độc tài gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm qua độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu (từ trang 458 đến trang 468). Ông mô tả t́nh h́nh miền Nam trong 20 tháng đầu của giai đoạn chuyển tiếp như sau :
“ Như vậy, chỉ trong ṿng 20 tháng, miền Nam đă trải qua hơn mười biến cố chính trị trong đó có năm thể chế không có hiến pháp (từ HĐQNCM đến UBLĐQG), sáu chính phủ (tướng Khánh hai lần làm thủ tướng), ba lần tướng lănh loại trừ nhau (Khánh loại trừ Minh – Khiêm, các tướng trẻ loại trừ Khánh ) và hai cuộc đảo chánh bất thành. Giữa những lần thay đổi ấy là những cuộc biểu t́nh của các tín đồ Phật giáo, Công giáo sinh viên ở nhiều nơi trong nước, tạo nên một t́nh thế hỗn loạn gần như vô chính phủ ” (LXK sđd tr461).
Mặc dù 20 tháng sau khi Diệm đổ, miền Nam lâm vào t́nh trạng gần như vô chính phủ, như Lê Xuân Khoa đă nhận định, nhưng vẫn tồn tại được, bởi v́ ông chủ đích thực miền Nam đến thời điểm đó vẫn là Mỹ. Sử gia Lê Xuân Khoa đă không làm rơ thực tế này.
Theo tôi, cũng như 14 tháng (7-7-1954 – 23-10-1955) sau Genève là thời kỳ thử việc của Ngô Đ́nh Diệm. 20 tháng sau khi Diệm đổ là thời kỳ thử việc của các tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa : Các tướng già chậm chạp (Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính…) c̣n vướng mắc ít nhiều tinh thần thuộc địa, văn hóa Pháp và t́nh tự dân tộc, không thích hợp với giai đoạn Mỹ hóa chiến tranh nên bị loại bỏ dưới hinh thức bị cử đi làm đại sứ, hay bị bắt buộc về hưu. “ Các sĩ quan trẻ được người Mỹ mệnh danh “Young Turks” có nghĩa tương tự như “ hảo hán tuổi trẻ ” (LXK sđd tr459) trở thành “ ứng viên thử việc trước các tướng lănh Mỹ và đại sứ Hoa Kỳ ” (LXK sđd trang 464).
Lê Xuân Khoa đă mô tả cuộc mắng mỏ của ông chủ Mỹ với những người thử việc Việt Nam Cộng Ḥa như sau :
“ Ngày 21-12-1964, Taylor (đại sứ Mỹ tại Sài G̣n – Chu Sơn) yêu cầu Nguyễn Khánh và nhóm tướng trẻ đến gặp ông ở ṭa Đại sứ. Chỉ có bốn tướng đến dự là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Lê Nguyên Khánh.. Taylor nói :
– “ Các ông có hiểu tiếng Anh không ? Sau khi nhóm (thử việc – Chu Sơn) Việt Nam cho biết là họ hiểu, Taylor nói tiếp : “Trong bữa ăn ở nhà tướng Westmoreland, tôi đă nói rơ cho các ông biết rằng người Mỹ chúng tôi đă phí lời. Có lẽ tiếng Pháp của tôi không được rành v́ rơ ràng là các ông đă không hiểu. Tôi đă nói rơ là tất cả những kế hoạch quân sự mà tôi biết các ông muốn thi hành đều tùy thuộc vào sự ổn định của chính quyền. Bây giờ th́ các ông đă làm nát bét hết. Chúng tôi không thể cưu mang các ông măi nếu như các ông cứ làm những chuyện như thế này. Ai là người nói thay cho cả nhóm ? Các ông có người phát ngôn không ? ” (sđd tr 326). LXK trích dịch từ The Pentagon Papers – 379).
Kết quả các cuộc thử việc đó là : Nguyễn Khánh múa may mấy tháng, tiếp theo Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ được chọn, trở thành Tổng thống và phó Tổng thống, Cao Văn Viên trở thành Bộ trưởng bộ Quốc pḥng kiêm Tổng tham mưu trưởng, Quốc hội lập hiến được thành lập với 118 đại biểu với ba phần tư là tín đồ Công giáo. Hiến pháp của đệ nhị Cộng ḥa được công bố ngày 1 tháng 4 năm 1967, nhưng bởi t́nh trạng bất ổn do
“ cuộc tranh chấp giữ hai tướng Thiệu – Kỳ gay go đến độ hàng ngũ quân đội có nguy cơ bị đổ vỡ – đó là lư do khiến đại sứ Lodge chưa muốn tiến hành xây dựng một thể chế dân chủ ở Việt Nam.” (LXK sđd tr464).
Đất nước không có chủ quyền và Mỹ muốn làm chủ cuộc chiến tranh nên đă đổ quân mà chẳng cần hỏi ai. Cuộc tranh giành quyền lực vẫn tiếp diễn sau khi hai ông Thiệu – Kỳ đă là Tổng thống và phó Tổng thống của nền đệ nhị Cộng Ḥa, nên người Mỹ đă giúp Thiệu loại trừ Kỳ (một ông tướng ba hoa và xốc nổi – Chu Sơn) h́nh thành nền tảng cho chế độ độc tài quân phiệt và tái đắc cử nhiệm kỳ Tổng thống lần thứ hai (1971) cũng với một cuộc bầu cử độc diễn. (Lê Xuân Khoa làm lơ cuộc bầu cử độc diễn này – Chu Sơn).
Lê Xuân Khoa chia thời gian cầm quyền của Nguyễn Văn Thiệu làm hai thời kỳ trước và sau Hiệp định Paris được kư kết (tháng 1-1973).
Thời kỳ trước hiệp định Paris, ông viết :
“ Từ năm 1967 đến 1973, do cách cư xử khôn khéo và thận trọng, ông Thiệu không phải đương đầu với các đảng phái đối lập (ngoại trừ cuộc tranh chấp ngấm ngầm và dai dẳng với nhóm ông Kỳ). Trong thời gian này ông cũng không có chính sách độc đoán đến độ dân chúng bất măn và nổi lên chống đối. Ông lập được một số thành tích đáng kể về cải cách nông thôn nhưng cũng t́m cách củng cố quyền hành gây nên nạn bè phái và tham nhũng trầm trọng. Ông thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ hóa” chiến tranh, cho đến khi bị Nixon – Kissinger bắt ép chấp nhận hiệp định Paris 1973 mới kịch liệt chống đối nhưng rốt cuộc vẫn phải nhượng bộ ” (LXK sđd tr470).
Viết b́nh luận như thế này là để cho có, chẳng có nội dung ǵ. Theo tôi, các đảng phái đối lập đă bị tiêu diệt trong thời kỳ Ngô Đ́nh Diệm thực hiện chính sách độc tài gia đ́nh trị. Một số lănh tụ c̣n sót lại không có quần chúng, sau thời gian dài nằm yên hoặc lưu vong nước ngoài, nhân Diệm đổ đă vùng dậy hay quay trở về nương thế lực của các tướng lănh mà tái xuất hiện trên chính trường rồi cũng bị đào thải luôn theo sự tranh chấp quyền lực giữa các tướng, và với nhau, trước ông chủ Mỹ. Hai thế lực có quần chúng là Phật giáo và Thiên Chúa giáo có khả năng có tác động đến chính trường, th́ một (Phật giáo) đă bị Thiệu – Kỳ với sự giúp đỡ của Mỹ đánh phá tan tành trong mùa hè 1966. Thế lực thứ hai là Thiên Chúa giáo th́ được Mỹ chọn làm lực lượng hậu thuẫn cho Nguyễn Văn Thiệu để “ ông thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ hóa” chiến tranh ” (nguyên văn của Lê Xuân Khoa). Do vậy, dù Thiệu có độc đoán chuyên quyền hay tham ô nhũng lạm th́ vào thời điểm đó dân chúng cũng không c̣n đủ sức để bày tỏ sự bất măn và nổi dậy chống đối. Theo tôi, đây là giai đoạn củng cố quyền lực theo hướng quân phiệt hóa và tái Cần Lao – Thiên Chúa giáo hóa của Nguyễn văn Thiệu (xem Việt Nam máu lửa quê hương tôi – Hoàng Linh – Đỗ Mậu, Thập Giá và Lưỡi Gươm – LM Trần Tam Tỉnh). Về phía dân chúng th́ đây cũng là thời kỳ gây dựng, tập họp lại lực lượng để chống Thiệu vào một thời cơ thích hợp. (Thời cơ đó là Hiệp định Paris).
Về “ một số thành tích đáng kể ông (Nguyễn Văn Thiệu) lập được ở nông thôn ”, theo Lê Xuân Khoa, có hai : một là cải cách hành chánh ở các làng xă, hai là thực hiện sách lược Người Cày Có Ruộng.
Về cải cách hành chánh, ông viết :
“ Đó là việc tổ chức lại các hội đồng kỳ mục trong các làng xă mà các đại diện đều thực sự do dân chọn lựa qua bầu cử ” (LXK sđd trg 474-475).
Theo tôi, có hai điểm sai trong câu nhận định này :
– Thứ nhất là các Hội đồng kỳ mục chỉ xuất hiện tại các làng xă từ trước và trong thời kỳ thuộc địa vào một thời gian nào đó thôi. Sau Genève, Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền ở miền Nam, tổ chức hành chánh ở cơ sở được gọi là Hội đồng Hương chính hay Hội đồng xă. Đứng đầu Hội đồng Hương chính là Chủ tịch, (có nơi gọi là Xă trưởng hay là Đại diện xă). Giúp việc cho Chủ tịch là Phó Chủ tịch và thư kư, ngoài ra c̣n có các ủy viên phụ trách các tiểu ban: cảnh sát, y tế, giáo dục, hộ tịch, tài chánh, thuế vụ, canh nông…, xă nhỏ th́ có 2, xă lớn th́ có đến 8 – 9. Nhân sự trong các Hội đồng hương chính hầu hết là tín đồ Thiên Chúa giáo hay đảng viên đảng Cần Lao.
Do đó, không có việc Nguyễn Văn Thiệu tổ chức lại các “Hội đồng kỳ mục”, như Lê Xuân Khoa khẳng định, mà chỉ có việc Nguyễn văn Thiệu tổ chức lại các Hội đồng Hương chính đă có từ thời Ngô Đ́nh Diệm theo sách lược quân phiệt hóa và (tiếp tục) Thiên Chúa giáo hóa triệt để hơn theo mô h́nh bốn cấp từ trung ương, đến tỉnh, huyện và cuối cùng là xă với ṇng cốt là đảng Dân Chủ (tái sinh từ đảng Cần Lao) và Thiên Chúa giáo.
– Thứ hai : Việc Nguyễn Văn Thiệu tổ chức lại chính quyền ở các làng xă có theo tinh thần dân chủ không ? Theo tôi và cũng theo những thông tin của Lê Xuân Khoa qua đoạn trích dẫn trên là không. Một khi Nguyễn Văn Thiệu thực hành chính quyền quân phiệt th́ làm sao có dân chủ được. Về mặt lư luận Lê Xuân Khoa đă sai. Về mặt thực hành Lê Xuân Khoa c̣n sai nữa :
Cũng như việc bầu bán chính quyền cơ sở của Cộng sản từ năm 1975 đến tận ngày nay : Các công dân không được tự do ứng cử, các cử tri cũng không được tự do bầu cử. Các ứng viên do đảng ủy địa phương chỉ định và lănh đạo đảng cấp trên thông qua. Các cử tri bị bắt buộc đi bầu và bỏ phiếu cho 9 trên 10 (hay một tỷ lệ tương tự như thế) các “chỉ định viên” được ghi trên danh sách.
Thời Nguyễn Văn Thiệu việc bầu cử các Hội đồng Hương chính hay các Hội đồng đại diện cũng như thế. Đảng Dân Chủ (do Thiệu thành lập) chọn người ứng cử, cử tri chỉ có quyền bầu cho những người được đảng Dân Chủ giới thiệu. Thậm chí Chủ tịch (Xă trưởng hay Đại diện xă) Hội đồng Hương chính hay Hội đồng Đại diện là một thiếu úy hoặc chuẩn úy từ quân đội biệt phái về, hay một tín đồ Thiên Chúa giáo tại một địa phương khác được cử đến. Sau biến cố Mậu Thân tôi là sĩ quan quân đội Cộng Ḥa, làm huấn luyện viên tại Trung tâm huấn luyện Phù Lương, nên biết rơ t́nh h́nh chính trị tại Thừa Thiên – Huế, đặc biệt t́nh h́nh bầu cử các Hội đồng tỉnh, thị xă, và các xă tại đây. Cụ thể, ở An Ḥa, một xă vùng ven phía tây cổ thành Huế, một Thiếu úy làm Chủ tịch. Ở Vỹ Dạ (xă Hương Lưu), nơi chỉ có vài ba gia đ́nh mới theo Thiên Chúa giáo v́ danh lợi lại có một ông đeo Thánh giá từ nơi khác tới làm Đại diện. Ở Mỹ Lợi, quê tôi, cũng diễn ra t́nh trạng tương tự. Do vậy mà “ các đội dân vệ và cảnh sát ”, như Lê Xuân Khoa cho biết, “ đă được chính quyền giúp đỡ tổ chức và huấn luyện. Đến tháng chín đă đạt chỉ tiêu 2 triệu đoàn viên Nhân dân Tư vệ cho năm 1969 và con số gia tăng mau chóng tới mức 3 triệu vào cuối năm ” (nguyên văn Lê Xuân Khoa, sđd tr 475). Tổ chức Nhân dân Tự vệ thời Nguyễn Văn Thiệu cũng giống như tổ chức Dân pḥng của chế độ Cộng Sản thời nay. Có khác chăng là các Nhân Dân Tự Vệ thời Nguyễn Văn Thiệu đều được trang bị súng cá nhân và lựu đạn. Các đội Dân Pḥng trong chế độ Cộng Sản chỉ được phát dùi cui, ma trắc khi hành sự.
Chẳng biết dân số trong các làng xă do Thiệu kiểm soát vào thời điểm 1969 là bao nhiêu mà đă có đến ba triệu Nhân Dân Tự Vệ tiếp tay cho lực lượng cảnh sát, công an, mật vụ, nghĩa quân, địa phương quân dày đặc để “ giữ ǵn an ninh trật tự ” ? Có khoảng 10.000.000 kể cả nam phụ lăo ấu chăng ? Như thế, cứ khoảng 10 người dân th́ có (?) cảnh sát hay công an mật vụ và 3 Nhân Dân Tự Vệ chăm sóc !
Về chính sách Người Cày Có Ruộng của Nguyễn Văn Thiệu được Lê Xuân Khoa đánh giá là chương tŕnh “ cách mạng ” nhất trong các chương tŕnh của ông Tổng thống Đệ nhị Cộng Ḥa. Chương tŕnh cách mạng của ông Thiệu, theo Lê Xuân Khoa, gồm ba điểm :
“ 1/ Địa chủ không được bắt tá điền trả địa tô thuộc những năm trước đó.
2/ Nông dân được Việt Cộng cấp ruộng trước đây sẽ không phải đóng thuế trong một thời gian.
3/ Những nông dân này sẽ được quyền giữ ruộng đất do Việt Cộng cấp và được cấp bằng khoán để chính thức trở thành tiểu điền chủ. Theo đó mức sở hữu của mỗi điền chủ được giới hạn tối đa là mười lăm ha, diện tích quá mức sẽ bị truất hữu để phát không cho dân nghèo…
Các địa chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thường. Sau ba năm thi hành luật Người Cày Có Ruộng, chỉ tiêu cấp phát một triệu ha đă được vượt qua với hơn 850.000 tá điền trở thành tiểu điền chủ ” (LXK sđd tr 475).
Tuy nhiên, cũng theo Lê Xuân Khoa, số ruộng của địa chủ bị truất hữu (được bồi thường), và các tá điền trở thành tiểu điền chủ từ lâu đă ở trong vùng có “ chiến tranh giải phóng ”. Do vậy không có sự chống đối từ các địa chủ và cũng không có sự hưởng ứng chống Cộng từ các nông dân nghèo trở thành chủ ruộng. Nguyễn Văn Thiệu đă thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất của ông trên giấy. Lê Xuân Khoa đă tán thưởng cuộc cách mạng này, v́ sau 1975, những “ Người Cày Có Ruộng ” được Nguyễn văn Thiệu tấn phong đă tỏ ra vô cùng bất măn trước chính sách tập thể hóa ruộng đất và thu mua lương thực của nhà nước Xă hội Chủ nghĩa (LXKsđ dtr476). Th́ ra công cuộc chống Cộng của Nguyễn Văn Thiệu sâu sắc đến độ khi ông đă trốn chạy ra khỏi nước mà vẫn c̣n tác dụng gây khó khăn cho chế độ mới. Đáng tiếc là Nguyễn Văn Thiệu không c̣n là Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa để tặng thưởng cho sử gia Lê Xuân Khoa một bằng khen.
Thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền sau Hiệp định Paris :
Theo Lê Xuân Khoa : Nguyễn Văn Thiệu “ thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ từ giai đoạn Mỹ hóa chiến tranh ” (từ 1965 – Chu Sơn) cho đến khi bị Nixon – Kissinger ép buộc phải chấp nhận hiệp định Paris 1973.
Trong quá tŕnh “ thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ…” Nguyễn Văn Thiệu đă :
“ Chỉ nhờ thời cơ (Lê Xuân Khoa không nói nhờ Mỹ – Chu Sơn) mà trở thành nhà lănh đạo, và đă dùng sự khôn khéo để xây dựng quyền hành để rồi trở thành độc tài ”…,
“ Củng cố quyền lực bằng một hệ thống quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện pháp quân phiệt tất nhiên đưa tới t́nh trạng tham nhũng và bất công xă hội trầm trọng, làm mất ḷng tin của dân chúng và làm suy yếu khả năng phát triển đất nước. Đây là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọng ” (LXK sđd tr 471-472).
Cũng theo Lê Xuân Khoa, do bị Mỹ ép buộc phải ngồi vào bàn hội nghị và kư kết hiệp định Paris, nên Nguyễn Văn Thiệu đă không thực tâm thi hành, đă bỏ lỡ thời cơ
“ Thăm ḍ và thảo luận thẳng thắng với MTGPMN về vấn đề ḥa giải và khả năng hợp tác giữa hai bên miền Nam, về thời gian chuyển tiếp và những điều kiện thống nhất với miền Bắc ”. “ Nhưng thay v́ hành động với tinh thần trách nhiệm, ông Thiệu vẫn duy tŕ hệ thống quyền lực và tham nhũng, bắt giam những người đối lập, khiến cho phong trào chống đối càng ngày càng lan rộng và quyết liệt ” (LXK sđd tr 473).
Do sách lược và hành động sai lầm của Nguyễn Văn Thiệu như vậy nên dân chúng miền Nam đồng loạt nổi lên chống đối. Lê Xuân Khoa đă liệt kê các phong trào, tổ chức và phe phái chống Thiệu từ sau hiệp định Paris như sau :
– Phong trào Chống Tham Nhũng do Linh mục Trần Hữu Thanh lănh đạo.
– Ủy Ban Phối hợp Hành động đ̣i băi bỏ đạo luật 007 của các kư giả.
– Lực lượng Luật sư Tranh đấu của Luật sư đoàn.
– Trận Tuyến Nhân dân Cách mạng Tranh thủ Ḥa b́nh.,
– Ủy ban bảo vệ Quyền lợi Công nhân của Linh mục Phan Khắc Từ,
– Mặt trận Nhân dân Cứu đói của Đại đức Thích Hiển Pháp và Linh mục Phan Khắc Từ.
– Phật giáo Ấn Quang huy động các Phật tử đ̣i chấm dứt chiến tranh.
– Phật giáo Việt Nam Quốc Tự kêu gọi Tổng thống Thiệu từ chức.
– Các Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần là những tiếng nói mạnh mẽ chống chính quyền.
– Sinh viên – học sinh băi khóa đấu tranh…
– Hội đồng Liên Tôn 11 giáo phái (đấu tranh cũng như ôn ḥa) kể cả Lục Ḥa Tăng, một tổ chức phi chính trị…
Các tổ chức, lực lượng, phong trào quần chúng Lê Xuân Khoa nêu trên không đầy đủ và cũng không chính xác các tên gọi và mục tiêu, nhưng cũng đă chứng tỏ một thực tế rằng là : ngoại trừ những phần tử trong hệ thống quân phiệt, tất cả nhân dân miền Nam bất kể ở trong hay ở ngoài chính quyền, Cộng Sản hay không Cộng Sản, Phật giáo hay Công giáo, lao động hay trí thức, sinh viên học sinh hay nông dân… đều đồng loạt chống Thiệu. (LXK sđ dtr 473 – 574).
Do vậy, dù đă “ thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hóa chiến tranh ”, như Lê Xuân Khoa đă nhận định, Nguyễn Văn Thiệu không c̣n thích hợp với chiến lược “ Việt Nam hóa ” và cuộc chuẩn bị rút lui ê chề của Hoa Kỳ mà Lê Xuân Khoa gọi là “ giải kết ” và “ đoạn tuyệt ” với Việt Nam Cộng Ḥa. Theo Lê Xuân Khoa th́ :
Nguyễn Văn Thiệu “ đă bị Đại sứ Mỹ Graham Martin thúc dục từ chức, ông chỉ từ chức trước khi miền Nam sụp đổ có chín ngày.”… Và “ ông Thiệu chỉ có thể tự cứu ḿnh bằng cách ra khỏi nước khi bộ đội miền Bắc lăm le tiến vào Sài G̣n bằng mọi ngả ” (LXK sđd tr479).
Thay v́ nói Nguyễn Văn Thiệu là công cụ, là bù nh́n là tay sai của Mỹ trong chiến tranh cũng như trong kư kết ḥa b́nh với Cộng Sản miền Bắc, đến giờ phút cuối cùng bị Mỹ ép buộc phải từ chức, bị áp tải lên tận máy bay trốn chạy ra nước ngoài, th́ Lê Xuân Khoa đă biết lựa lời mà nói “ cho vừa ḷng nhau ” : “ ông thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hóa chiến tranh ” và “ ông Thiệu chỉ có thể tự cứu ḿnh bằng cách ra khỏi nước ”.
Để độc giả đời sau hiểu biết một cách cụ thể cuộc hành tŕnh “ ra khỏi nước ” của Nguyễn Văn Thiệu như thế nào, tôi mượn lời của Lư Quí Chung – một dân biểu tả khuynh thời đệ nhị Cộng ḥa :
“ Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng, phải gọi là một cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau :
“ Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông ta đă nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin giao cho tướng Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.
“…Từ tổng tham mưu, chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm ra sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu : “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của ṭa đại sứ, hơn nữa anh ta c̣n là một tài xế đẳng cấp”. Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi đầu xuống như thế sẽ an toàn cho Tổng thống. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi thăm bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời : “ Họ đang shopping ở London mua đồ cổ…” (Lư Quí Chung – Hồi Kư Không Tên – nxb Trẻ 2004).
Có lẽ Lư Quí Chung đă chưa chính xác lắm khi dùng từ “trốn chạy”. Theo tôi, nếu ghép thêm từ “áp tải” th́ chuyến “ra khỏi nước” đặc biệt chiều hôm 25 tháng Tư năm 1975 của Thiệu mới đầy đủ ư nghĩa và hoàn toàn chính xác.
VI – Nội chiến hay Chiến tranh Uỷ nhiệm
Đầu đề là một câu hỏi, nhưng ở trang dẫn nhập của phần này (Phần Ba), Lê Xuân Khoa đă khẳng định :
“ Thực tế th́ đây là một cuộc nội chiến giữa hai phe người Việt Nam đeo đuổi những lư tưởng khác nhau, đồng thời cũng là một cuộc chiến tranh uỷ nhiệm trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, với sự tham gia trực tiếp của Hoa Kỳ ” (LXK sđd tr 271).
Người học sử Việt Nam không xa lạ với hai từ nội chiến. Các cuộc chiến tranh giữa Trịnh – Mạc, Trịnh – Nguyễn từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII là nội chiến. Đến cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Tây Sơn với Nguyễn Phú Xuân (vào nửa sau thứ kỷ XVII), các sử gia bắt đầu ngập ngừng. Nhiều người chê trách Nguyễn Ánh đă cơng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mả tổ khi ông này cầu viện quân Xiêm và nhờ Bá Đa Lộc đi cầu viện Pháp quốc. Quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện bị Quang Trung đánh tan tành. Cuộc cầu viện phương Tây dang dở, v́ vấn đề nội bộ, Pháp không thực hiện hiệp ước đă kư với Bá Đa Lộc. Sự cộng tác quá nhiệt t́nh của Bá Đa Lộc và giáo hội Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ đă giúp Nguyễn Ánh vượt qua nhiều giai đoạn khó khăn và có tác động quyết định trong những trận quyết chiến cuối cùng giúp Nguyễn Ánh đánh bại được Tây Sơn trên đà suy yếu v́ lục đục nội bộ, v́ đánh giá thấp vai tṛ – vị trí miền Nam (của anh em Tây Sơn), và đặc biệt v́ cái chết đột ngột của Quang Trung. Nhưng khi Nguyễn Ánh lên ngôi (Gia Long), hoàn tất công cuộc thống nhất đất nước do Quang Trung để lại, xây dựng vương triều nhà Nguyễn trong độc lập và tự chủ, th́ cái tội cơng…, rước voi… được xem xét lại. Bởi các yếu tố cầu cứu ngoại bang của Nguyễn Ánh đă dừng lại tại những vùng đă xẩy ra chiến sự. Gia Long đă không mang nó về kinh đô Huế khi ông bắt đầu xây dựng lại đất nước trong hoà b́nh.
Chúng ta trở lại vấn đề đang bàn.
Theo Lê Xuân Khoa, bên này cuộc nội chiến là Việt Nam Cộng Hoà với hai thời kỳ tổng thống là Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Và bên này của cuộc uỷ nhiệm là Hoa Kỳ.
Mà :
– Ngô Đ́nh Diệm, người đứng đầu Việt Nam Cộng Hoà, th́ : (tôi trích dẫn lại lời Lê Xuân Khoa)
“ Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại được nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại dù chính đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay Diệm ” (LXK sđd tr428).
Cũng theo Lê Xuân Khoa, trong suốt 9 năm chính phủ Diệm “ tồn tại ”, đồng minh “ uỷ nhiệm ” là Hoa Kỳ đă rất nhiều lần toan tính thay thế, lật đổ ông, và cuối cùng :
“…và cú đảo chính đă không thể xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta ” (…Hoa Kỳ - Chu Sơn) (LXK sđd tr457).
“ Theo McCone, giám đốc CIA hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh trong các phiên họp là không thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu đày, nhưng thật khó mà tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép (các tướng lănh VNCH – Chu Sơn) làm đảo chánh th́ có thể sẽ phải có giết chóc ” (LXK sđd tr455).
Và :
– Nguyễn Văn Thiệu, người đứng đầu Việt Nam Cộng Hoà giai đoạn hai, là một trong nhóm các tướng mà người Mỹ gọi môt cách khinh bỉ là “ hảo hán trẻ ” (LXK dịch từ nguyên văn Young Turks), được Mỹ tuyển chọn làm Tổng thống của nền Cộng hoà lần thứ hai :
“ Ông thích ứng được với vai tṛ chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ Hoá”chiến tranh, cho đến khi bị Nixon – Kissinger ép buộc chấp nhận hiệp định Paris 1973 ” (LXK sdd trg 470).
“ Ông khéo thích ứng với chính sách của Hoa Kỳ và tin tưởng vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho đến khi bị đại sứ Graham Martin thúc dục từ chức ” (LXK sđd tr 476).
“ Ông…chỉ có thể tự cứu lấy ḿnh bằng cách ra khỏi nước khi Hoa Kỳ đă dứt khoát đoạn tuyệt với VNCH…” (LXK sđd tr 479).
Câu thứ ba của đoạn trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa muốn cho độc giả biết rằng nếu Nguyễn Văn Thiệu không tự cứu lấy ḿnh bằng cách tuân lệnh Hoa Kỳ mà kư hiệp định Paris, mà từ chức và trốn chạy ra nước ngoài, chắc chắn ông sẽ bị “ thảm sát ” như trường hợp người đồng nghiệp tiền nhiệm Ngô Đ́nh Diệm năm 1963.
Chỉ với những trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng sinh mệnh và sự nghiệp của hai nhân vật đứng đầu hai thời kỳ Cộng Hoà tại miền Nam là Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn nằm trong tay Hoa Kỳ. Cả hai trường hợp (Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu), Hoa Kỳ đă ứng xử không như một đồng minh, mà như một ông chủ sẵn sàng giết bỏ các nô lệ của ḿnh, hay như một bố già Mafia bắn bỏ một thủ lĩnh đàn em cứng đầu.
Trong khi hai nhân vật đó đối với nhân dân miền Nam th́, cũng theo Lê Xuân Khoa :
“…khi Ngô Đ́nh Diệm làm chủ được t́nh h́nh chính trị và quân sự ở miền Nam (23-10-1955 – Ngô Đ́nh Diệm trở thành tổng thống qua cuộc trưng cầu dân ư độc diễn và tự gian lận – Chu Sơn) th́ ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đ́nh trị ” (LXK sđd tr434)
“…ông không chấp nhận những những quan điểm khác biệt và không tha thứ (bất cứ – Chu Sơn) ai làm trái ư ông. Ngày 15-1-1956 ông giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông…” (LXK sđd tr434)
Nguyễn Văn Thiệu “…chỉ nhờ thời cơ (Lê Xuân Khoa không nói nhờ Mỹ – Chu Sơn) mà trở thành nhà lănh đạo, và đă dùng sự khôn khéo để xây dựng được quyền hành để rồi trở thành độc tài ” (LXK sđd tr471).
Nguyễn Văn Thiệu “ củng cố quyền lực bằng một hệ thống quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện pháp quân phiệt tất nhiên sẽ đưa đến t́nh trạng tham nhũng và bất công xă hội trầm trọng, làm mất ḷng tin của dân chúng và làm suy yếu khả năng phát triển đất nước ” (LXK sđd tr 471-472).
Thưa giáo sư Lê Xuân Khoa : Khi mà sinh mệnh và sự nghiệp của hai nhà lănh đạo Việt Nam Cộng Hoà tuyệt đối nằm trong tay người Mỹ, khi mà Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu xây dựng chế độ độc tài gia đ́nh trị và độc tài quân phiệt th́ họ lấy quyền đâu, sức đâu để tiến hành cuộc nội chiến ? Bởi v́, theo những trích dẫn trên, quyền lực đích thực lúc bấy giờ tại miền Nam nằm trong tay người Mỹ, và dân chúng th́ chắc chắn không để cho người cai trị độc tài và hủ bại đưa ḿnh đến chỗ chết. Dân chúng phải nổi dậy thôi :
– Năm 1963, khi mà sự tuyệt vọng và phẫn nộ lên đến đỉnh điểm, qua phong trào Phật giáo, nhân dân các đô thị miền Nam đă nổi dậy làm hậu thuẫn cho cuộc đảo chính của các tướng lănh Việt Nam Cộng Hoà với sự “ cho phép của Hoa Kỳ ” (nguyên văn của LXK). Chế độ độc tài gia đ́nh trị bị lật đổ. Anh em Diệm – Nhu – Cẩn bị “ thảm sát ” (từ của LXK).
– Từ sau hiệp định Paris được công bố, nhân dân các đô thị miền Nam (kể cả một phần của giáo hội Công giáo) rầm rộ nổi dậy tạo điều kiện thuận lợi cho thời kỳ kết thúc chiến tranh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khi Hoa Kỳ – nói theo ngôn ngữ nhẹ nhàng gượng gạo của Lê Xuân Khoa – giải kết và đoạn tuyệt với Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Văn Thiệu bị Mỹ bắt buộc phải từ chức và trốn chạy ra khỏi nước dưới sự áp tải của CIA. Mười ngày sau khi Thiệu từ chức, sáu ngày sau khi Thiệu “ ra khỏi nước ” (từ của LXK), Dương Văn Minh – tổng thống mới nhậm chức được hai ngày – vừa thay mặt cho Mỹ, vừa thay mặt cho Việt Nam Cộng Hoà, vừa là người đứng đầu của lực lượng chính trị Thứ Ba tuyên bố đầu hàng trước họng súng của quân Giải Phóng mà ông tưởng là những người anh em.
Mỹ cút – Ngụy nhào, hay Mỹ rút – Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ cũng thế thôi. Bởi v́ nếu không thua, Mỹ đă không rút. Trong trường hợp Mỹ rút mà Ngụy không nhào, th́ Ngụy không c̣n là Ngụy nữa, mà là Việt Nam Cộng Hoà, một trong hai phe chính danh của cuộc nội chiến.
Về mặt chứng lí, những trang tôi vừa dẫn luận trên là đầy đủ để có thể chấm dứt cuộc thảo luận về vấn đề bản chất của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975).
Sự thật lịch sử là như thế, c̣n vấn đề ngôn từ, thiết nghĩ cũng nên thanh lư với Lê Xuân Khoa để làm sáng tỏ thêm :
Uỷ nhiệm có nghĩa là giao phó, là uỷ thác một trách nhiệm :
– Gia Long khi ra xây dựng kinh đô Huế, uỷ nhiệm Lê Văn Duyệt xử lư mọi vấn đề ở miền Nam.
– Sau Genève, từ Pháp, Bảo Đại (trên h́nh danh) uỷ nhiệm Ngô Đ́nh Diệm về nước thành lập và điều hành chính phủ Quốc Gia.
– Kennedy uỷ nhiệm Cabot Lodge đi Việt Nam giải quyết vấn đề Ngô Đ́nh Diệm khi ông này tỏ ra ngoan cố trong việc thực hiện dân chủ và b́nh đẳng tôn giáo nhân cuộc đấu tranh của Phật giáo, và…
Cả ba trường hợp người uỷ nhiệm vắng mặt và người được uỷ nhiệm có toàn quyền thực thi nhiệm vụ.
T́nh h́nh chính trị và quân sự ở miền Nam từ 1954 đến 1975 không diễn ra như thế. Ông chủ Mỹ luôn luôn có mặt, theo dơi sát sao và trực tiếp điều hành mọi sách lược, chương tŕnh, kế hoạch hành động xây dựng miền Nam thành tiền đồn chống Cộng và chủ động tiến hành cuộc chiến tranh. Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu chỉ là kẻ thừa hành. Ngô Đ́nh Diệm bị giết là do ông muốn thoát khỏi sự điều hành trực tiếp của ông chủ Mỹ. Nguyễn Văn Thiệu “ tự cứu lấy ḿnh ” khi răm rắp tuân theo các mệnh lệnh, chỉ thị của Hoa Kỳ nên đă thoát thân.
Lê Xuân Khoa đă sai trong nhận định lịch sử, Lê Xuân Khoa c̣n không chính xác khi sử dụng ngôn từ. Nhưng chắc chắn Lê Xuân Khoa vẫn chưa buông bỏ vấn đề. Ông nói : C̣n sự thật lịch sử ở bên kia – miền Bắc ? Chẳng phải đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không nhận uỷ nhiệm từ Liên Xô và Trung Quốc sao ?
Sau đây là những ǵ Lê Xuân Khoa viết về Liên Xô và Trung Quốc trong quan hệ với miền Bắc từ sau Genève cho đến khi kết thúc chiến tranh Việt – Mỹ, mà ông gọi là Nội chiến và Uỷ nhiệm.
“…Do đó, trong những năm đầu sau Genève, Trung Quốc không muốn cho giới lănh đạo miền Bắc tấn công miền Nam để thống nhất đất nước…” (LXK sđd tr276).
“…Đông Dương không có ưu tiên về an ninh hay quyền lợi của Cộng Sản Quốc tế, trong khi Liên Xô đang cần ngăn chặn những nỗ lực của Hoa Kỳ thành lập Cộng Đồng Pḥng Thủ Châu Âu… Ngoài ra, Liên Xô không muốn đ̣i hỏi tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam… Trước viễn tưởng đó, Liên Xô từ bỏ ảnh hưởng ở Việt Nam xa xôi…” (LXK sđd tr 276, 277).
“ Về mặt quốc tế, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vẫn được Trung Quốc nhiệt t́nh ủng hộ từ thời chiến tranh chống Pháp, nay(1960 – Chu Sơn) v́ mối mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc từ 1956 mà cả hai bên đều phải tăng gia chi viện cho Hà Nội để giữ được uy tín và ảnh hưởng với các nước Cộng Sản trên thế giới…” (LXK sđd tr.279).
“…Hà Nội lúc này (1966 – Chu Sơn) chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh nên đă bác bỏ đề nghị của Johnson đ̣i Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam và thừa nhận một chính quyền Trung lập như được hoạch định bởi M.T.G. P. M. N.” (LXK sđd tr287).
“…Bắc Kinh nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết…”… “ Bắc Kinh thường xuyên nhắc nhở các lănh tụ Hà Nội chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Theo một tài liệu bắt được của Bắc Việt năm 1967“Trung Quốc quyết tâm giúp chúng ta chiến đấu đến đời con đời cháu của chúng ta”. ” (LXK sđd tr.288).
“…Kosygin đang ở Hà Nội (1965 – Chu Sơn) thảo luận vấn đề viện trợ quân sự đồng thời khuyến cáo các giới lănh đạo Hà Nội chấp nhận giải pháp hoà b́nh ”
“…Karnow cho rằng Hà Nội vẫn chống lại khuynh hướng chủ hoà của Kosygin đă sắp xếp vụ tấn công Pleiku để buộc Hoa Kỳ phải trả đũa và đẩy Liên Xô vào thế chẳng đặng đừng ” (LXK sđd tr 290).
“... Hoa Kỳ nghĩ đến việc trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Ngày 19 (tháng 4-1975 – Chu Sơn) Ford (tổng thống Mỹ – Chu Sơn) thông báo cho Brezhnev ư định nhờ lănh tụ đảng Cộng Sản Liên Xô can thiệp để ngưng chiến tại Việt Nam và để thảo luận về một sự thay đổi t́nh h́nh chính trị ở Sài G̣n ” (LXK sđd tr 311).
Với những ǵ trích dẫn trên đây, kể cả nhiều lần Lê Xuân Khoa khẳng định rằng là Liên Xô, Trung Quốc v́ những mục đích khác nhau đă “ phản bội ” đồng minh, bắt ép đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kư hiệp định Genève với những điều kiện thua thiệt, không tương xứng với những thắng lợi trên chiến trường. Và cũng v́ những mục tiêu khác nhau, hai nước Cộng Sản đàn anh này đều muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài hoặc vĩnh viễn (xem LXK sđd chương 4).
Và mặc dầu Trung Quốc, Liên Xô đều muốn hoà hoăn, chung sống hoà b́nh với phương Tây, và lại mâu thuẫn xung đột lẫn nhau từ 1956, nhưng :
“ Cả hai đều phải gia tăng chi viện cho Hà Nội để được giữ uy tín và ảnh hưởng với các nước Cộng Sản khác trên thế giới ” (LXK sđd tr 279).
Như thế là từ 1959, Liên Xô,Trung Quốc đều bị đảng Cộng sản Việt Nam đặt để trong t́nh thế chẳng đặng đừng : “ phải gia tăng chi viện ”. Sự thể là sau gần 5 năm theo đuổi sách lược đấu tranh hoà b́nh để thống nhất đất nước theo tinh thần của hiệp định Genève bất thành với những tổn thất to lớn, đảng Cộng Sản và các nhà lănh đạo ở Hà Nội quyết tâm thống nhất đất nước bằng giải pháp kết hợp chính trị – quân sự qua nghị quyết XV. Đảng Cộng sản Việt Nam đi cầu viện Liên Xô, Trung Quốc. Để rồi, theo yêu cầu của Hà Nội, “…cả hai nước phải tăng gia chi viện cho Việt Nam đánh Mỹ ”.
Đều phải tăng gia chi viện, nhưng cả hai nước Liên Xô và Trung Quốc đă không thống nhất trong sách lược và cách thức chi viện cho Hà Nội, cho nên các nhà lănh đạo miền Bắc được độc lập và tự chủ trong quá tŕnh tiến hành chiến tranh với Hoa Kỳ.
– Liên Xô th́ vừa chi viện vừa khuyến cáo Hà Nội nên tiến hành đàm phán với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh. Thậm chí, khi quân miền Bắc vào gần sát Sài G̣n, theo sự nhờ vả của Hoa Kỳ, Liên Xô c̣n can thiệp để có một giải pháp chính trị ǵ đó trên phần lănh thổ c̣n lại.
– Trung Quốc th́ vừa chi viện vừa áp lực để Hà Nội không thương lượng ǵ cả với Hoa Kỳ, và “ giúp chúng ta đánh Mỹ đến đời con đời cháu ” – nhưng đánh nhỏ, đánh cầm chừng, đánh mà không dứt điểm.
Thưa học giả Lê Xuân Khoa, nếu quan hệ giữa miền Bắc và các nước Liên Xô, Trung Quốc từ sau Genève đến năm 1975 như những ǵ ông đă viết và tôi đă tóm lược, đă làm rơ ở trên là chính xác, th́ hoàn toàn không có chuyện uỷ nhiệm và nhận uỷ nhiệm từ các phía liên hệ.
Theo đó, Liên Xô phải từ bỏ mục tiêu dài hạn của ḿnh là không muốn Việt Nam thống nhất, không muốn đối đầu với Hoa Kỳ tại “ vùng đất xa xôi Đông Nam Á ”, đă phải chi viện cho Việt Nam, và luôn bị đồng minh Bắc Việt đẩy vào t́nh thế “ chẳng đặng đừng ”, đă giúp đỡ Bắc Việt tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng là “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào ”, hoàn thành thống nhất đất nước.
Và Trung Quốc, như những ǵ Lê Xuân Khoa đă viết, vào các thời kỳ khác nhau đă chủ trương ba không (không muốn Việt Nam thống nhất, không muốn Việt Nam đánh lớn, không muốn Việt Nam thương lượng hoà b́nh với Mỹ, và một quyết (“ giúp chúng ta đánh Mỹ đến đời con đời cháu ”), vẫn “ phải chi viện cho miền Bắc ”, vẫn phải để cho Hà Nội chủ động tiến hành chiến tranh và đơn phương đấu tranh hoà b́nh với Hoa Kỳ, đơn phương kết thúc cuộc chiến tranh như sách lược chính trị và quân sự do đảng Cộng Sản Việt Nam vạch ra từ 1959.
Lê Xuân Khoa để ra 40 trang (273- 313) để mô tả cuộc chiến tranh mà ông gọi là Nội chiến và Chiến tranh Uỷ nhiệm tại Việt Nam 1954 – 1975 với tựa đề “Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà”.
Nhưng độc giả chỉ thấy hai từ Nội chiến và Uỷ nhiệm xuất hiện một cách lạc lơng trong tựa đề của phần Ba và mấy ḍng đầu của trang dẫn nhập. Các từ Trung Quốc, Liên Xô, Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa xuất hiện nhiều hơn ở những trang đầu của chương 7. Về mặt thời gian, từ 1967 trở về sau (đến 1975), theo những ǵ Lê Xuân Khoa viết ở chương này, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai thực chất là cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trên chiến trường cũng như trên bàn hội nghị (Paris).
Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Văn Thiệu, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và những người đại diện của nó được Lê Xuân Khoa nhắc đến nhiều lần trong vai tṛ công cụ và lực lượng phụ thuộc. Liên Xô và các nhà lănh đạo của nước này được Lê Xuân Khoa đề cập nhiều lần trong vai tṛ chủ thể chi viện và trung gian điều đ́nh. C̣n Trung Quốc th́ hoàn toàn vắng mặt từ trước trận Mậu Thân (1968) cho đến khi kết thúc chiến tranh. Khi người ta vắng mặt th́ không thể bị cáo buộc này nọ. Uỷ nhiệm chiến tranh lại càng không. Lê Xuân Khoa không thể không biết đạo lư này. C̣n Bắc Việt, kẻ nhận chi viện, không thể không gặp khó khăn, chịu áp lực, nhận khuyến cáo này nọ trước hai nước Cộng sản đàn anh đồng thời là chủ nợ đang chuyển dần từ đồng chí qua đế quốc bành trướng, nhưng họ đă vượt qua một cách khôn khéo và vô cùng bản lănh, để rồi cuối cùng họ đă thành đạt gần hết các mục tiêu đề ra.
Thực tế lịch sử là như thế, c̣n về lí luận th́ Trung Quốc không thể uỷ nhiệm cho đảng Cộng Sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cái mục tiêu do chính đảng Cộng Sản Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đề ra. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975) Trung Quốc chỉ là nước “ phải chi viện ” (nguyên văn của LXK), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là nước nhận chi viện và đă chủ động thực hiện các mục tiêu của ḿnh : “ đánh cho Mỹ cút – đánh cho Ngụy nhào ”, hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước. Mục tiêu này hoàn toàn là của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, mâu thuẫn với ư đồ và quyền lợi lâu dài của Trung Quốc mà Lê Xuân Khoa đă nhiều lần cáo buộc. Tôi xin tóm lược lại :
– Trung Quốc cùng với Liên Xô, Anh, Pháp chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia riêng biệt với ư đồ duy tŕ cuộc chia cắt lâu dài hoặc vĩnh viễn ; cả hai đều chủ trương chung sống hoà b́nh với phương Tây (xem chương 4).
– Trung Quốc “ không muốn cho giới lănh đạo miền Bắc tấn công miền Nam ” (xem chương 7 trang 276).
– Trung Quốc “ nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết ” (chương 7 trang 288).
Trong khi đó đảng Cộng Sản (Việt Nam) chủ động đề ra sách lược (nghị quyết 15) giải phóng miền Nam, chủ động đương đầu với Mỹ trong chiến tranh cũng như trong thương lượng hoà b́nh (hội đàm Paris) và hoàn thành công cuộc đấu tranh v́ độc lập và thống nhất đất nước (xem Lê Xuân Khoa sđd từ trang 290 – đến hết chương 7 – Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà). Chính Lê Xuân Khoa đă viết ở trang 305 như sau :
“ Khác với hội nghị Genève có tính cách quốc tế, hội nghị Paris 1973 chỉ là những cuộc hội đàm song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà…”
Chiến tranh cũng giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mỹ. Đàm phán hoà b́nh cũng giữa Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Thực tế lịch sử này, một lần nữa chứng tỏ kết luận của Lê Xuân Khoa về tính chất của cuộc đụng độ mà ông gọi là Nội Chiến và Uỷ Nhiệm là không chính xác.
Cũng như các phần, các chương trước, Lê Xuân Khoa đă lắt léo sử dụng thủ pháp quen thuộc : kết luận một đường (trước khi) chứng minh một nẻo. Có điều phần chứng minh ông đă thực hiện rất cẩu thả, vụng về. Tôi đơn cử hai ví dụ :
(1) Ở trang 284, Lê Xuân Khoa viết như sau :
“ Tổng số lực lượng thống nhất quân Giải phóng miền Nam (thường được gọi là Việt cộng) vào năm 1961 là 25.000, chỉ một năm sau đă lên đến 123.000 ”.
“ Về phần Việt Nam Cộng Hoà, quân số tăng từ 15.000 năm 1960 lên 250.000 năm 1964. Lực lượng của Mỹ cũng gia tăng từ 500 cố vấn năm 1960 lên tới 23.000 năm 1964 ”.
(2) Ở trang 294, Lê Xuân Khoa viết:
“…đầu năm 1968 tướng Vơ Nguyên Giáp quay trở lại mặt trận Khe Sanh với quân số từ 20.000 đến 30.000 để lôi cuốn thêm lực lượng Hoa Kỳ vào ṿng chiến ”.
Cả hai thông tin : về quân số Việt Nam Cộng Hoà năm 1960 (15.000) và về tướng Vơ Nguyên Giáp chỉ huy trận Mậu Thân, chứng tỏ :
– Ông không có một nghiên cứu đứng đắn về sự h́nh thành và phát triển của quân đội Việt Nam Cộng Hoà, theo ông là một bên của cuộc nội chiến và là quân đội của một bên nhận uỷ nhiệm (chính quyền Việt Nam Cộng Hoà).
– Ông cũng đă không có một nghiên cứu đứng đắn tối thiểu về giới lănh đạo quân sự và chính trị của miền Bắc – bên kia của cuộc nội chiến và nhận uỷ nhiệm.
Về quân số Việt Nam Cộng Hoà năm 1960
Theo tôi quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào thời điểm 1960 có vào khoảng 10 lần hơn con số 15.000 Lê Xuân Khoa đưa ra. Đó là không kể quân số trong các quân binh chủng Hải quân, Không quân đang h́nh thành – phát triển. Ngoài ra c̣n có các lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân ở các tỉnh, quận huyện, làng xă. Chắc Lê Xuân Khoa sẽ mỉm cười mỉa mai khi một cá nhân thiếu bảo chứng học thuật như tôi lại tranh căi với ông, một nhà nghiên cứu, về “ những con số lịch sử ”. Vậy th́ xin mời ông kiểm chứng qua những tài liệu trích dẫn sau đây :
“ Ngày 26 tháng 10 năm 1955, khi cử hành lễ đăng quang của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và cũng là ngày khai sinh nền Đệ Nhất Cộng Hoà, quân đội Quốc Gia Việt Nam đổi tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Lúc đó quân số hiện diện là 167.000 người ” (Quân sử Việt Nam Cộng Hoà, theo qlvnch.blogspot.com).
“… từ năm 1955, riêng bộ binh, quân đội Việt Nam Cộng Hoà đă có 10 sư đoàn gồm 4 sư đoàn dă chiến và 6 sư đoàn khinh chiến. Các binh chủng Hải quân, Không quân cũng bắt đầu thành lập từ năm này, với tàu chiến, máy bay, huấn luyện và các trang thiết bị do quân đội Hoa Kỳ đảm trách và cung cấp. Đến năm 1960 các binh chủng như Lực lượng Đặc biệt, Thuỷ quân Lục chiến, Biệt động quân, Nhảy dù đă trưởng thành ở cấp lữ đoàn, liên đoàn, và đang tiến tới thành lập sư đoàn ” (theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Tôi không hiểu v́ sao Lê Xuân Khoa đưa ra con số 15.000 quân Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1960 ?
Nếu năm 1960 Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân th́ lấy sức đâu năm 1954-1955 đương cự với quân của các giáo phái, đánh tan quân B́nh Xuyên, san bằng các chiến khu của Quốc Dân Đảng, Đại Việt, và đặc biệt giành độc lập từ tay người Pháp như Lê Xuân Khoa đă viết ?
Nếu năm 1960 Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân th́ chắc chắn năm 1954-1955 số quân Việt Nam Cộng Hoà c̣n ít hơn, và như thế miền Bắc đă băi bỏ chủ trương đấu tranh hoà b́nh, v́ vào thời điểm đó họ đă để lại miền Nam hàng trăm ngàn cán bộ (quân sự – chính trị) với nhiều vũ khí và nhiều t́nh báo viên mai phục trong quân đội và chính quyền miền Nam.
Nếu năm 1960, Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân th́ rơ ràng người Mỹ đă ăn không ngồi rồi gần sáu năm sau khi thành lập SEATO, và
“ mật kư với Pháp nghị định thư ghi nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là lực lượng Cộng sản gây hấn, chống lại những ư niệm và quyền lợi của nhân dân tự do ở các quốc gia liên kết, Pháp và Hoa Kỳ, và hứa ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm trong việc thành lập và duy tŕ một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia ” (LXK sđd tr276).
Một chính phủ mạnh không thể không có một quân đội mạnh, phải không, thưa giáo sư, học giả Lê Xuân Khoa ? Vào thời điểm 1960 một chính phủ mạnh không thể có một số quân là 15.000, cho dù chính phủ đó được lănh đạo bởi “ Ngô Tổng thống anh minh ” – người mà năm năm trước, ngày 9 tháng 8 (1955) đă dứt khoát bác bỏ lời kêu gọi thương lượng hoà b́nh để thống nhất đất nước của thủ tướng miền Bắc Phạm Văn Đồng. Khước từ hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, có nghĩa là Ngô Đ́nh Diệm gián tiếp thách đố với miền Bắc về mặt quân sự.
Về “ Tướng Vơ Nguyên Giáp và chiến dịch TCK/ TKN tết Mậu Thân ”
Theo tôi, sự kiện tết Mậu Thân, Vơ Nguyên Giáp không tham gia làm kế hoạch, cũng không có vai tṛ quyết định trong việc chỉ đạo chiến trường cho đến hết đợt I. Bằng nhiều nguồn thông tin khác nhau, từ sau biến cố 1975, tôi biết được rằng bộ tứ lănh đạo tối cao thời chống Pháp : Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, từ sau hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản (1959), đă từng bước bị tước quyền, trở thành những nhà lănh đạo thứ yếu ở tuyến hai, nhường quyền thống soái cho bộ tam Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng ở trung ương, và bộ tam Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng ở chiến trường miền Nam. Do vậy, không có chuyện “ tướng Giáp quay trở lại mặt trận Khe Sanh…” như Lê Xuân Khoa đă viết.
Lê Xuân Khoa có thể kiểm tra các thông tin và nhận định của tôi bằng các tài liệu trích dẫn sau đây :
“ Kế hoạch Mậu Thân có nguồn gốc từ những kế hoạch ban đầu chúng ta h́nh thành mà một số nhà nghiên cứu gọi là Kế Hoạch X. Kế hoạch này được khởi phát vào lúc mà cuộc chiến tranh ở miền Nam đang tiến dần đến sự thay đổi chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ tiến hành ở miền Nam đang sa lầy, thất bại ” (theo PGS/TS Đại tá Hồ Khang – Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Wikipedia trích).
“ Tháng 7 và tháng 8 – 1967 cục tác chiến bộ tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Bộ chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương ”.
“ Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng gợi ư cho “ Tổ kế hoạch ” do cục trưởng cục tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác với cách đánh “ truyền thống ” mà lâu nay quân Giải phóng đă làm, th́ mới giành thắng lợi quyết định. Trong khi “ Tổ kế hoạch ” c̣n đang suy nghĩ t́m cách đánh mới, th́ Tổng bí thư Lê Duẩn khi trao đổi với quân uỷ Trung ương về kế hoạch tác chiến năm 1968 đă đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố, thị xă. Ư kiến của Lê Duẩn được Quân uỷ Trung ương và Tổng tham mưu trưởng tán thành và trở thành ư định quyết tâm chiến lược năm 1968…” (Sự kiện Tết Mậu Thân. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt)
“ Thực ra hai ông Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp đă bày tỏ quan điểm chống lại kế hoạch đó ” (Ư kiến của nhà nghiên cứu độc lập Merle Pribbenow, nguyên là chuyên viên ngôn ngữ của cơ quan T́nh báo Trung ương Mỹ CIA làm việc tại Sài G̣n trước đây, tŕnh bày tại cuộc hội thảo do Trung tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức – phóng viên Việt Long ghi – Đài RFA phát ngày 16 – 3 – 2008)
“ Quan niệm về một cuộc tổng công kích nổi dậy thực ra bắt nguồn từ những năm giữa thập niên 1960. Và kế hoach đó sau cùng là sản phẩm chung của tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp cao cấp nhất của tướng Giáp, và tổng bí thư Lê Duẩn, đối thủ lâu năm của vị tướng được cả quân dân miền Bắc ngưỡng mộ và thường gọi là anh Văn ” (Phát biểu của sử gia Villard tại cuộc hội thảo do Trung tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức, phóng viên Việt Long ghi, đài RFA phát ngày 10 – 3 – 2008)
Viết về một cuộc chiến tranh mà chưa nắm rơ sự h́nh thành và phát triển lực chính trị và quân sự của bên này, đồng thời lơ mơ về giới lănh đạo chính trị – quân sự của bên kia mà c̣n đưa ra những “ Bài học lịch sử ” tràng giang đại hải cho các bên tham chiến, c̣n lớn tiếng hô hào hoà hợp, hoà giải dân tộc th́ quả là việc làm hoang tưởng, hoặc phản ảnh một ư đồ chính trị khó lường. Tôi nghiêng về khả năng thứ hai.
Chi tiết 15.000 quân của Việt Nam Cộng Hoà năm 1960 do Lê Xuân Khoa đưa ra là một sai trật nhỏ trong rất nhiều sai trật ông đă mắc phải trong quá tŕnh mô tả sự h́nh thành phát triển phe Quốc Gia nói chung, và miền Nam như là “ một quốc gia riêng biệt ” từ sau hiệp định Genève mà “ Hoa Kỳ và Pháp đă “mật kư Nghị định thư ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm trong việc thành lập và duy tŕ một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia ” (LXK sđd tr276).
Theo tôi một chính phủ mạnh không chỉ có một quân đội mạnh mà cần phải có một lực lượng chính trị mạnh được hậu thuẫn bởi một bộ phận quần chúng nhất định nhằm đánh bại các cuộc tấn công của miền Bắc về cả hai phương diện chính trị và quân sự. Như thế là cái sứ mệnh mà Thế giới Tự do giao phó cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm nằm trong “mật kư của Hoa Kỳ và Pháp” là “chống cộng” và “quốc gia”.
Cho dù Lê Xuân Khoa có nói ǵ đi nữa, hoặc là ông cố ư không nói rất nhiều điều, th́ “chống cộng” và “quốc gia” theo “mật kư giữa Hoa Kỳ và Pháp” vào tháng 9.1954 đă trở thành ư thức hệ, là học thuyết chính trị của hai thời kỳ Cộng hoà tại miền Nam từ Ngô Đ́nh Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Không làm sáng tỏ vấn đề này sẽ không hiểu hết bản chất của cuộc chiến mà Lê Xuân Khoa khẳng định là “Nội chiến và Uỷ nhiệm”.
Nhưng tại sao phải chống cộng ? Các Giám mục, linh mục thừa sai (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp) và cả giáo hội La Mă cũng như giới lănh đạo Pháp và Hoa Kỳ đă trả lời cho một bộ phận người Việt Nam : V́ Cộng sản chủ trương thực hiện tam vô (vô thần, vô sản và vô tổ quốc) bằng độc tài đảng trị. Do vậy mà Pháp, Hoa Kỳ, các Giám mục, linh mục và các nhà hoạt động chính trị Công giáo sau Genève đă hối hả đưa gần một triệu người (đa phần là Công giáo) từ miền Bắc vào miền Nam “Tị Nạn”, làm hậu thuẫn cho chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Do vậy mà : Từ sau Hội nghị Genève (tháng 7-1954) với sự viện trợ hùng hậu, sự bày mưu tính kế của Mỹ và một số Việt Minh chiêu hồi :
– Ngô Đ́nh Diệm đă tổ chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia để đối đầu với Mặt Trận Việt Minh.
– Ngô Đ́nh Nhu thành lập đảng Cần Lao với học thuyết duy Cần Lao – Nhân vị – Duy linh để đối đầu với đảng Lao Động (Cộng sản) chủ trương chiến tranh nhân dân, đấu tranh giai cấp với liên minh công-nông theo ư thức hệ Cộng sản (chủ nghĩa Mac – Lê nin) duy vật và vô thần. Ngô Đ́nh Nhu tổ chức đoàn thanh niên Cộng Hoà, Trần Lệ Xuân thành lập Hội phụ nữ Liên đới là những tổ chức ṿng ngoài của đảng Cần Lao.
– Ngô Đ́nh Thục xây dựng Trung tâm Nhân Vị ở Vĩnh Long (một loại trường đảng cao cấp) nhằm cải tạo tư tưởng cho các nhân vật chủ chốt chế độ Ngô Đ́nh Diệm với sự giảng dạy của các Linh mục. Trung tâm Nhân Vị của Ngô Đ́nh Thục đả phá chủ nghĩa Cộng sản duy vật – vô thần, chửi bới, mạ lị các tôn giáo khác mà họ gộp chung lại là “ bọn tà ma ngoại đạo, phật thần ma quỷ ”. Đặc biệt, Trung tâm Nhân Vị rao giảng truyền bá Thiên Chúa giáo. Cuộc đấu tranh ư thức hệ này không chỉ bắt đầu từ khi “ Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa năm 1924 để hoạt động cho Comintern ”, như Lê Xuân Khoa đă cáo buộc, mà từ sau cách mạng Nga năm 1917, giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă đă đề xuất sách lược chống Cộng trên b́nh diện toàn cầu. Theo tôi, chủ nghĩa chống Cộng chỉ là sản phẩm của một giai đoạn, nó là một mắt trong một sợi xích dài của nền văn minh Ky Tô Giáo trong quá tŕnh bung ra khỏi châu Âu đi chinh phục những vùng đất mới.
Tại Việt Nam, trước khi tiến hành chủ nghĩa chống cộng, các giáo hội Thiên Chúa giáo (từ Thừa sai đến La Mă) đă tiến hành chủ nghĩa chống Nho – Phật kéo dài hơn ba trăm rưởi năm (từ đầu thế kỷ XVII đến 1975).
Không phải ngẫu nhiên các thượng thư đứng đầu triều đ́nh Huế từ sau cuộc khởi nghĩa Cần Vương đều là người Thiên Chúa Giáo (Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đ́nh Khả…) cũng không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu hai thời Cộng Hoà tại miền Nam (tiền đồn của Thế giới Tự do) từ sau Genève đều là người Thiên Chúa giáo (Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu). Cũng không phải ngẫu nhiên mà một tín đồ đạo ḍng Thiên Chúa Giáo trở thành Hoàng hậu Nam Phương của triều đ́nh An Nam Nho – Phật và thờ cúng tổ tiên ông bà.
Khi chế độ gia đ́nh trị bị lật đổ, ba anh em Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn bị giết chết, Mỹ phải mất hai năm loay hoay để t́m con ngựa mới cho cuộc Thánh chiến. Chẳng phải Nguyễn văn Thiệu đă không chỉ là kẻ “ thích ứng được với Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hoá chiến tranh ” như Lê Xuân Khoa đă nhận định, mà, sau lưng con ngựa Nguyễn Văn Thiệu c̣n có cả một tàu ngựa : Giáo hội Công giáo và đảng Cần lao tái sinh dưới tên gọi mới là đảng Dân chủ. Nhiều tác giả cho rằng chế độ Thiệu là chế độ Diệm không có Diệm trong thực tế này.
Yếu tố Thiên Chúa giáo (Công giáo) xuyên suốt từ thời ḱ thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm và hoàn tất công cuộc xâm lược Việt Nam, qua cuộc chiến tranh Việt – Pháp, đến hai thời kỳ Cộng hoà giả danh tại miền Nam, nó làm linh hồn cho hai chế độ độc tài từ gia đ́nh trị qua quân phiệt trị đều là công cụ của ông chủ Mỹ. Miền Nam – cái tiền đồn của Thế giới Tự do – chỉ có được dưới 10 % dân chúng là người Công giáo ủng hộ. Lại nữa, trong số dưới 10 % dân chúng là người Công giáo ấy, ngày càng phát triển một bộ phận giáo dân, tu sĩ khát khao hội nhập với đồng bào – tổ quốc ḿnh, thà đi với người Cộng sản c̣n hơn ở lại với Mỹ. Khi nhận ra thực tế này, người Mỹ đă muốn nhanh chóng thoát khỏi vũng lầy của cuộc chiến tranh lầm lạc, chẳng những đă phải chấp nhận gần hết các điều kiện của đối phương tại hội đàm Paris, mà c̣n vận động cả thế giới, bất kể Tư bản hay Cộng sản, bất kể bạn hay thù, bất kể đồng minh hay công cụ – để ḱm hăm cuộc tiến công dứt điểm (phá bỏ hiệp định Paris) của miền Bắc, nhằm t́m kiếm một giải pháp chính trị trên phần lănh thổ c̣n lại (Sài G̣n và các tỉnh Nam bộ) : thành lập chính phủ liên hợp ba thành phần để “ có thêm th́ giờ cho Hoa Kỳ giải quyết được mọi việc trước khi rút hết người và vật liệu cần thiết ra khỏi Việt Nam ” (LXK sđd tr 311…). Nỗ lực khiêm tốn này của Mỹ cũng không thành, bởi Liên Xô và cả Trung Quốc, theo sự nhờ vả và trao đổi quyền lợi của Mỹ, chắc đă đề nghị, khuyến cáo thế này thế nọ với miền Bắc, cũng chẳng giúp được Mỹ thoát khỏi “ cuộc tháo chạy tán loạn ”. Cuộc tháo chạy tán loạn là tên một bản dịch (của Ngô Dư) cuốn sách có tựa đề The Decent Interval của tác giả Frank Snepp – một chuyên gia phân tích t́nh h́nh của CIA, người đă lái xe, cùng với tướng Timmes, đưa Nguyễn Văn Thiệu lên phi trường Tân Sơn Nhất vào chiều tối 25-4-1975 để ngài Tổng thống nền đệ nhị Cộng hoà “ra khỏi nước” theo lệnh và sự sắp xếp của đại sứ Hoa Kỳ Martin.
Khi làm ngơ để các tướng lănh Việt Nam Cộng Hoà “ thảm sát ” anh em Ngô Đ́nh Diệm, khi đổ quân mà chẳng cần hỏi ư kiến của “ nước chủ nhà ”, khi cùng đối phương kư Hiệp định Paris, khi bắt Thiệu phải từ chức, khi âm thầm và gấp rút áp tải Nguyễn Văn Thiệu “ ra khỏi nước,” người Mỹ đă thể hiện đầy đủ vai tṛ ông chủ đích thực của miền Nam, và cuộc chiến tranh hai mươi năm (1954-1975) với bao nhiêu tội ác và đau khổ đích thực là cuộc chiến tranh của Mỹ.
Người Mỹ biết ḿnh nói dối khi nào, và với ai. Khi nào không cần và không thể nói dối nữa, người Mỹ đă tỏ ra thẳng thắn và trung thực một cách thô bạo trong lời nói cũng như trong việc làm. Mà, chỉ nói thật không thôi, thông thường đă làm mất ḷng những ai bị lừa dối. Huống hồ ǵ đến hành động thô bạo của ông chủ Mỹ (giết chết anh em Ngô Đ́nh Diệm, áp lực, sai khiến, áp tải Nguyễn Văn Thiệu). Lê Xuân Khoa gắn bó với người Mỹ lâu dài, dĩ nhiên ông không thể không nhận biết đạo lí này.
VII/ Vấn đề hoà giải hoà hợp dân tộc
Như thế là, Lê Xuân Khoa, một học giả không thể hoà giải với chính ḿnh trong những vấn đề “ Xâm lược – Dân tộc ”, “ Quốc Gia – Cộng Sản ”, “ Nội chiến – Uỷ nhiệm ”, của thế kỷ trước, lại khẩn thiết kêu gọi hai phía Việt Nam đang ở hai bên bán cầu hoà giải, hoà hợp để xây dựng đất nước “ dân chủ ”, “ phú cường ” và tạo lập “ cơ hội b́nh đẳng cho tất cả mọi người dân ” vào mấy năm đầu của thiên kỉ thứ ba (LXK sđd tr492). Lời kêu gọi xem ra chân thành, những mục tiêu cũng xem ra to lớn và cao đẹp, chẳng khác biệt bao nhiêu với lời kêu gọi thỉnh thoảng được phát ra do một thủ đoạn chính trị xảo quyệt nào đó bởi guồng máy cai trị Cộng sản. Nhận xét như thế, tôi không có ư định đồng hoá Lê Xuân Khoa với “ chính quyền trong nước ”.
Theo tôi, Lê Xuân Khoa thuộc về một chính quyền khác, một cỗ máy khác, cỗ máy mà ông đă đặt tên là “ Việt Nam Quốc Gia ”, được người Pháp rèn giũa một số cơ phận để phục vụ trong chế độ thuộc địa, để rồi người Mỹ tuyển chọn, mài giũa lại, rèn đúc thêm một số cơ phận mới, lắp ráp, đổ xăng nhớt, vận hành nhằm mục đích canh giữ tiền đồn của Thế giới Tự do. Cái cỗ máy “ Việt Nam Quốc Gia ” đó khi mới bắt đầu lắp ráp (sau Genève), theo sự đánh giá của tổng thống Mỹ Eisenhower và ngoại trưởng Mỹ Dulles, có khoảng 20 % dân chúng miền Nam ủng hộ. (Dulles cho rằng nếu Tổng tuyển cử vào năm 1956 – Hồ Chí Minh sẽ thắng. Eisenhower đánh giá cụ thể hơn, nếu bầu cử theo hiệp định Genève, 80 % cử tri Việt Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh).
Cái cỗ máy “ Việt Nam Quốc Gia ” đó đến thời điểm kư kết hiệp định Paris, hai phái đoàn đàm phán : Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khẳng định một cách đại khái rằng nó là đầu tàu của một trong ba thành phần chính trị tại miền Nam. Theo tôi (qua những phân tích trên) nó đại diện cho dưới 10 % nhân dân miền Nam là đồng bào Công giáo đă từng hậu thuẫn cho hai chế độ độc tài gia đ́nh trị và quân phiệt trị đang bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi, để rồi hoàn toàn sụp đổ vào ngày 1 tháng Năm năm 1975.
Vậy th́, thưa giáo sư Lê Xuân Khoa, đến thời điểm ông viết sách Việt Nam 1945-1995, những người vẫn kiên định ḿnh là “ Việt Nam Quốc Gia ” chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số 3 triệu (con số Lê Xuân Khoa cung cấp) đồng bào ở hải ngoại ? Theo tôi biết, đa phần trong số 3 triệu đồng bào ở hải ngoại ấy, cũng như đa số trong 8 – 9 chục triệu đồng bào ở trong nước này, không đặt vấn đề hoà giải với chế độ độc tài đảng trị và thần phục Trung Quốc. Người ta kêu gọi, người ta đấu tranh, người ta hy vọng vượt qua chế độ độc tài toàn trị và lệ thuộc nhằm đưa đất nước tiến tới một xă hội dân sự, nhân quyền, tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng là nền tảng của một đất nước tự chủ, một xă hội văn minh và phát triển bền vững. Người ta thừa kinh nghiệm máu xương và mồ hôi, nước mắt để khẳng định rằng không thể hoà giải, hoà hợp với các chế độ độc tài, cho dù là độc tài gia đ́nh trị, quân phiệt trị, hay đảng trị. Bởi các chế độ độc tài “ không tha thứ cho (bất cứ) ai bất đồng chính kiến ” (nhóm từ Lê Xuân Khoa mô tả chế độ Ngô Đ́nh Diệm) và không chia sẻ cho ai bất cứ lợi quyền nào, hơn thế nữa, c̣n bất chấp lợi quyền và những giá trị thiêng liêng của tổ quốc.
Nguyên lư và vận động thực tế của hoà giải, hoà hợp là cùng chân thành kiểm điểm quá khứ, tương nhượng, phân chia lại quyền lợi, trách nhiệm và cùng nh́n về tương lai của đất nước bằng những hành động chung trong hoà b́nh và tôn trọng lẫn nhau. Các chế độ độc tài và các cá nhân thuộc về nó không hề biết tự kiểm điểm, chẳng biết lắng nghe, tương nhượng, chẳng hề muốn phân chia các quyền lợi cho bất cứ ai, chẳng nhắm đến quyền lợi chung của tổ quốc, của dân tộc trong hiện tại cũng như trong tương lai. Vậy th́ đặt vấn đề hoà giải với “ chính quyền trong nước ” như chủ trương của Lê Xuân Khoa là một việc làm khó lí giải được, và vô cùng nguy hiểm đối với đại đa số nhân dân là đối tượng chuyên chính ngày càng siết chặt của “ chính quyền trong nước.”
Khi người “ Việt Nam Quốc Gia ” quay trở lại hoà giải, hoà hợp với người “ Việt Nam Cộng sản ” th́ chắc chắn công cuộc đấu tranh của nhân dân để vượt thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị và lệ thuộc vốn đă khó khăn, lại càng khó khăn, gian khổ, hiểm nguy và lâu dài hơn.
Giả định rằng Lê Xuân Khoa đă vượt thoát được ra ngoài cái tâm lư của cộng đồng “ Việt Nam Quốc Gia ” đang nỗ lực bảo lưu ở hải ngoại, hẳn nhiên ông không khỏi băn khoăn, xao xuyến trước t́nh cảnh bế tắc, rớt xuống tận đáy tối tăm của đất nước, sao ông không hoà giải hoà hợp với đồng bào trong nước, để cùng đấu tranh với đảng Cộng sản nhằm thực hiện các mục tiêu do chính ông đề ra là “ xây dựng đất nước dân chủ, phú cường ” và tạo “ cơ hội b́nh đẳng cho tất cả mọi người dân ”.
*
Mấy vấn đề cần thảo luận thêm thay cho phần tạm kết :
Bảy vấn đề nêu ra từ Việt Nam 1945-1995 tôi đă thảo luận cùng tác giả Lê Xuân Khoa qua những trang trên đây e là không tránh khỏi những khiếm khuyết trên cả hai phương diện : ư tứ và cách thức giải tŕnh. Và cũng e rằng c̣n không ít vấn đề tôi chưa nêu ra hết hoặc phát sinh từ phần phản biện của tôi. Rất mong tác giả Lê Xuân Khoa và độc giả tiếp tục trao đổi nhằm làm sáng tỏ hơn nữa sự thật của một khúc đoạn lịch sử Dân tộc – khúc đoạn mà đến nay vẫn chưa có một đồng thuận đầy đủ trong những nh́n nhận tổng thể cũng như khía cạnh. Riêng tôi, cũng c̣n mấy vấn đề cần tiếp tục làm rơ :
I/ Vấn đề “ Mỹ hoá ” chiến tranh
Ở cuối chương 10, trang 483, Lê Xuân Khoa viết :
“ Sai lầm to lớn của Hoa Kỳ trong chính sách “Mỹ hoá” chiến tranh và thái độ vô trách nhiệm của các tướng lănh cầm quyền ở miền Nam là những nguyên nhân chính đưa đến sự thất bại của Mỹ và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà ”.
Qua đoạn trích dẫn này, tôi thấy Lê Xuân Khoa c̣n nhập nhằng trong cách sử dụng ngôn từ. Ở trang 28 (Lời Mở Đầu), ông viết : “ Tất cả những lời dẫn chứng hay ư kiến không phải của tác giả đều được để trong ngoặc kép và được ghi rơ xuất xứ trong phần chú thích ”. Chữ Mỹ hoá trong câu trích dẫn trên Lê Xuân Khoa để trong ngoặc kép nhưng không thấy ghi rơ xuất xứ. Do vậy người đọc sách không hiểu hai từ Mỹ hoá là của tác giả hay là của ai, và nội dung chính xác của nó là ǵ ? Phải chăng ông muốn cho độc giả hiểu rằng chính ông cũng chưa vừa ư khi sử dụng hai từ Mỹ hoá để mô tả việc Hoa Kỳ chủ động tiến hành cuộc chiến tranh của họ tại Việt Nam ? Hay là đến khi kết thúc công tŕnh nghiên cứu, Lê Xuân Khoa thấy ḿnh đă xích gần với các sử gia của “ chính quyền trong nước ” trong nhận định chung cuộc về vai tṛ (xâm lược) của Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai ? Một câu hỏi nữa cần tác giả Lê Xuân Khoa giải đáp :
– Thái độ “ vô trách nhiệm ” của các tướng lănh cầm quyền ở miền Nam là ǵ và với ai ? Với Mỹ ? Với “ Việt Nam Quốc Gia ” ? Với nhân dân miền Nam ? Với nhân dân và đất nước Việt Nam ?
Theo tôi “ sai lầm to lớn ” của Mỹ là triết lư pḥng thủ từ xa và hành động chiến lược có nguồn gốc từ học thuyết Đô mi nô bắt đầu từ việc coi Đông Dương là chiến lợi phẩm cửa các nước đồng minh phương Tây, ủng hộ, cộng tác với thực dân Pháp trong công cuộc tái chiếm Đông Dương từ 1945, chủ động thay thế Pháp trong việc “ Bảo tồn những vùng đất c̣n lại ” (miền Nam Việt Nam, Lào, Cam Bốt) từ 1954, phá bỏ hiệp định Genève, sử dụng một thiểu số người Việt Nam làm trợ thủ trong việc biến miền Nam thành tiền đồn của Thế Giới Tự Do, một quốc gia riêng biệt. Theo đó Hoa Kỳ thiết trí cuộc đối đầu giữa hai phe Quốc gia – Quốc tế, Tư bản – Cộng sản trên đất nước Việt Nam.
V́ mục tiêu chống Cộng, vô h́nh trung, Mỹ bất chấp khát vọng độc lập, thống nhất, hoà b́nh và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Do vậy, chống Cộng cũng có nghĩa là chống dân tộc Việt Nam. T́nh trạng này diễn tả chính xác câu châm ngôn : Giận con rận – đốt cái áo. “ Sai lầm to lớn ” hay tội ác của Mỹ nằm ở câu nhận định này.
Việc Hoa Kỳ “ Mỹ hoá ” chiến tranh vào thời điểm 1965 là hành động chẳng đặng đừng trên con đường chiến lược đă sai.
Theo thiết kế ban đầu của Mỹ :
– Bên này chiến tuyến là Mỹ, Liên minh pḥng thủ Đông Nam Á, cộng với một thiểu số người Việt Nam mà các tín đồ Thiên Chúa là ṇng cốt và gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm là đại diện (Lê Xuân Khoa gọi là Việt Nam Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hoà – Miền Nam).
– Bên kia chiến tuyến là đảng Cộng sản (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, cùng với đa số nhân dân Miền Bắc và một bộ phận không nhỏ quần chúng miền Nam (Lê Xuân Khoa gộp chung lại là Việt Nam Cộng sản – Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà – Miền Bắc).
Thiết trí một cuộc đối đầu như thế, chính quyền Mỹ tin rằng :
– Sức mạnh quân sự vô địch, tiền bạc dồi dào của Mỹ sẽ thắng súng đạn và tiền bạc vốn nghèo nàn lạc hậu của miền Bắc và phe Xă hội Chủ nghĩa.
– Chế độ Cộng hoà, tự do, dân chủ do Mỹ dàn dựng, bảo trợ, và nền văn minh Ky Tô giáo Miền Nam sẽ thắng chế độ độc tài, vô sản, vô thần của Cộng sản Miền Băc.
– Do sự hơn hẳn về cả hai phương diện vật chất và tinh thần của Mỹ như thế, nhân dân miền Nam từng bước sẽ ngả về phía Mỹ và Việt Nam Quốc Gia. Cộng Sản mai phục ở miền Nam nhất định phải bị tiêu diệt, (và đă bị tiêu diệt gần hết qua các chiến dịch tố Cộng – diệt Cộng). Việt Nam Cộng Hoà sẽ giàu mạnh và trường tồn làm tiền đề thay đổi tương quan lực lượng quần chúng trên miền Bắc. Trong trường hợp miền Bắc xâm lăng miền Nam, nhất định sẽ bị quân lực Việt Nam Cộng Hoà do Mỹ huấn luyện, trang bị, viện trợ và cố vấn đánh bại.
Nhưng thực tế lịch sử đă không diễn ra như những tính toán của Mỹ.
Thực tế lịch sử là Mỹ đă thất bại trong việc biến miền Nam thành tiền đồn của Thế giới Tự do. Sau 9 năm sắm sửa vai tṛ chủ nhân ông của miền Nam với những người “ Việt Nam Quốc Gia ” được tuyển chọn, rèn cặp và tận t́nh bảo trợ, Hoa Kỳ đă không gầy dựng nổi một chế độ Cộng hoà tự do, dân chủ được đại bộ phận nhân dân miền Nam tin tưởng và ủng hộ như dự kiến ban đầu, mà Mỹ đă chỉ giúp được cho một Ngô Đ́nh Diệm h́nh thành chế độ độc tài Gia đ́nh – Cần lao – Thiên chúa giáo trị với khoảng trên dưới 10 % dân số hậu thuẫn.
Chế độ độc tài Gia đ́nh – Cần lao – Thiên chúa giáo trị Ngô Đ́nh Diệm đến thời điểm 1963 không chỉ gây thù kết oán với đại bộ phận nhân dân miền Nam, mà c̣n muốn giành quyền tự quyết trước ông chủ Mỹ chẳng khác mấy so với thực dân Pháp trước đây. Bị xúc phạm và đứng trước nguy cơ thất bại, ông chủ Mỹ – vị Thiên sứ của những giá trị tự do, dân chủ và tinh hoa của nền văn minh Ky Tô giáo thế kỷ XX, đă hành xử như một bố già Mafia. Anh em Ngô Đ́nh Diệm bị thanh toán như những thủ lĩnh Mafia đàn em cứng đầu rắp tâm phản trắc. Nền Đệ nhất Cộng hoà bị lật đổ qua cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963. Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà người Mỹ đă tổn hao rất nhiều công sức, của cải để huấn luyện, trang bị, trả lương (gián tiếp qua viện trợ cho Ngô Đ́nh Diệm) và được chỉ huy bởi các tướng lănh có gốc gác từ chế độ thực dân và văn hoá thuộc địa Pháp sau các trận thất bại ở Ấp Bắc, An Lăo, B́nh Giả, Phù Mỹ,…, chỉ đủ sức để lật đổ nhà Ngô, chứ không đủ sức đương đầu trước các cuộc tấn công hai chân (chính trị – quân sự) ba mũi (chính trị – quân sự – binh vận) trên cả ba vùng chiến lược (thành thị – nông thôn – rừng núi) của Cộng sản. Tiền đồn của Thế giới Tự do đứng bên bờ vực thẳm. Hoa Kỳ đă “ Mỹ hoá ” chiến tranh trước t́nh thế đó.
Để công cuộc “ Mỹ hoá ” chiến tranh được tiến hành suôn sẻ, Hoa Kỳ cần một chính quyền bản địa mạnh làm công cụ trấn áp các phong trào đấu tranh dân chủ, đ̣i quyền dân tộc tự quyết (cụ thể là phong trào đấu tranh của Phật giáo và Sinh viên – Học sinh), và bảo đảm trật tự trị an trong các đô thị, tiến hành các chương tŕnh b́nh định ở nông thôn. Các tướng già bị loại. Các tướng trẻ Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu… lần lượt được tuyển chọn và thử thách. Cuối cùng chế độ độc tài quân phiệt do Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu được chuẩn nhận, củng cố và thuê bao, v́ “ ông thích ứng được với Hoa Kỳ trong thời Mỹ hoá chiến tranh ” (như nhận định của Lê Xuân Khoa). Từ sau tháng 3-1965, Hoa Kỳ trực tiếp đương đầu với Cộng quân trên các chiến trường miền Nam và tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc (bắt đầu từ giữa năm 1964).
– Không quân, hải quân, lực lượng đặc biệt của Hoa Kỳ đánh phá các kho tàng, căn cứ quân sự, các khu vực kinh tế, các cầu đường, nhà ga, bến cảng, sân bay và các phương tiện giao thông đê điều nhằm ngăn chặn các nguồn tiếp trợ từ phe Xă hội chủ nghĩa cho miền Bắc và huỷ diệt, ngăn chặn các nguồn nhân lực, vật lực từ miền Bắc tiếp tế cho miền Nam.
– Đường ṃn Hồ Chí Minh, con đường chiến lược huyết mạch Cộng sản dùng để chuyển vận người, hàng hoá vào Nam, và cả con đường vận chuyển trên biển, sẽ bị cắt đứt bởi một liên quân phối hợp : không quân, hải quân, thuỷ quân lục chiến, biệt kích, thám báo và hàng rào điện tử.
– Bộ binh, Thuỷ quân lục chiến, các quân binh chủng hỗ trợ (hải quân ven bờ, không quân, pháo binh, thiết giáp) của Mỹ, Việt Nam Cộng Hoà, và của các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á phụ trách các chiến trường miền Nam.
Như thế là : nguồn tiếp tế sẽ bị huỷ diệt, đường tiếp tế sẽ bị cắt đứt, hai ba trăm ngàn quân Cộng sản (gồm chính quy và du kích) có mặt tại miền Nam đi chân trần, được trang bị những vũ khí cá nhân, thiếu thốn, đói khổ trăm bề, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt bởi quân Mỹ, quân Đồng minh và quân Việt Nam Cộng Hoà (vào thời điểm cao trào (1967-1968) lên tới gần một triệu hai, bao gồm gần 600.000 quân Mỹ và Đồng Minh, trên 550.000 quân Việt Nam Cộng Hoà) thiện chiến, được trang bị đầy đủ các khí tài hiện đại có sức tàn phá, huỷ diệt khủng khiếp, được phục vụ dư thừa các nhu cầu của đơn vị và cá nhân.
Theo tính toán của Mỹ : Chiến lược chiến tranh nhân dân của Cộng quân chắc chắn sẽ bị phá sản trong một thời gian ngắn (tuyên bố của Westmoreland là trong ṿng 18 tháng) trước chiến lược huỷ diệt môi trường sống bằng thuốc khai quang, bằng sách lược tát nước bắt cá (kéo dân ra khỏi các vùng Cộng quân làm chủ để tự do bắn phá), bằng các cuộc hành quân lùng và diệt do quân Mỹ và quân Đồng minh phụ trách ở phía trước, và các chương tŕnh b́nh định do quân Việt Nam Cộng Hoà phụ trách ở phía sau.
Tuy nhiên, thực tế chiến trường lại diễn ra theo một t́nh thế khác. Sự hơn hẳn trong tương quan lực lượng của Hoa Kỳ và Đồng Minh và trợ thủ chỉ gây khó khăn trở ngại và thiệt hại to lớn cho đối phương chứ không thể tiêu diệt được đối phương như dự liệu. Miền Bắc vẫn chi viện được cho miền Nam, Mặt trận Giải phóng vẫn làm chủ được những vùng rừng núi, nông thôn rộng lớn, vẫn liên lạc được với một bộ phận không nhỏ quần chúng đô thị và các vùng nông thôn “ tạm chiếm ”. Và Cộng quân hoàn toàn có khả năng tồn tại lâu dài, tiếp tục gây tổn thất cho quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng Hoà và Đồng minh. Công cuộc “ Mỹ hoá ” chiến tranh đứng trước t́nh trạng bị sa lầy trong lúc nội t́nh nước Mỹ chia rẽ nghiêm trọng. Phe chủ chiến lục đục, phe chủ hoà phát triển mạnh trong quần chúng và quốc hội. Trước bối cảnh đó Cộng quân phát động chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968).
II/ Về chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân.
Từ 1963, phong trào Phật giáo phát triển như là một lực lượng quần chúng có khả năng gây xáo trộn lớn trong các đô thị miền Nam. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt trận Giải Phóng nương theo phong trào Phật giáo tổ chức, phát động phong trào đô thị của ḿnh. Các nhà lănh đạo chiến tranh ở Hà Nội nghĩ nhiều hơn đến một cuộc tổng tấn công, tổng khởi nghĩa nhắm vào đại bản doanh của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Đây là cuộc chiến tranh cách mạng có tính cách quyết liệt trước t́nh thế “ Ngụy quân – Ngụy quyền rệu ră ” và “ Mỹ xâm lược ” trong quá tŕnh chuyển đổi từ chiến tranh đặc biệt qua chiến tranh cục bộ (Mỹ hoá). Trong những Thư vào Nam viết từ các năm 1961 đến 1975 (nxb Quân Đội Nhân Dân – 2005), Lê Duẩn, người lănh đạo tối cao của đảng Cộng sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tập trung luận giải và chỉ đạo cho các thuộc cấp ở miền Nam các vấn đề chiến lược và chiến thuật theo học thuyết của ông : Thực hiện chiến lược Hai chân (chính trị – quân sự), Ba mũi giáp công (chính trị, quân sự và binh vận) nhằm đánh sụp Ngụy quân, lật đổ Ngụy quyền, buộc Mỹ chấp nhận thua trong chiến tranh đặc biệt, điều đ́nh rút lui. Hoặc làm rệu ră ư chí xâm lược trong chiến tranh cục bộ, buộc Mỹ t́m kiếm phương cách thương lượng hoà b́nh, từ bỏ cuộc chiến tranh không thể thắng.
Sau ba năm đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của Mỹ trên miền Bắc và chiến lược huỷ diệt môi trường, các cuộc hành quân t́m diệt, b́nh định của Mỹ và Đồng minh với những tổn thất to lớn tại miền Nam, các nhà lănh đạo chiến tranh tại Hà Nội nhận ra rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ – Ngụy để thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xă hội chẳng biết bao giờ mới kết thúc được ! Trước t́nh thế khó khăn đó, kế hoạch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân h́nh thành. Theo đó, lực lượng kháng chiến miền Nam phải ra sức củng cố các căn cứ ở miền núi, mở rộng vùng kiểm soát ở đồng bằng – nông thôn làm bàn đạp tấn công bất ngờ và đồng loạt vào các đô thị miền Nam – nơi trú đóng của các cơ quan đầu năo của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà – không chỉ bằng lực lượng quân sự mà bằng ba mũi giáp công : Chính trị, quân sự và binh vận. Về quân sự th́ quân Giải Phóng từ trên núi xuống. Về chính trị th́ quân chúng nhân dân tại chỗ được cán bộ nằm vùng tổ chức, giáo dục, huấn luyện đưa vào cuộc đấu tranh khuynh đảo. Binh vận là vận động quân nhân trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà tổ chức binh biến, đào ngũ, phản chiến, tham gia phong trào quần chúng. Cả ba lực lượng : quân sự, chính trị, binh vận phối hợp với nhau nhằm đánh sập, hoặc vô hiệu hoá quân đội Quốc Gia, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, xây dựng chính quyền mới liên hiệp và trung lập. Đây là bước chuyển tiếp dẫn đến thống nhất đất nước và xây dựng Xă hội Chủ nghĩa.
Chiến dịch tết Mậu Thân nhằm hai mục đích, vào hai đối tượng:
– Một là làm lung lay ư chí của các nhà làm chiến tranh Mỹ.
– Hai là thức tỉnh Lương tri của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới.
Lí luận là : Khi mà ư chí của phe chủ chiến Mỹ lung lay, khi mà quần chúng và quốc hội Mỹ nhận ra rằng cuộc chiến do chính phủ của họ chủ trương và đeo đuổi là phi nghĩa (chống lại dân tộc Việt Nam dưới chiêu bài chống Cộng), gây tổn hại đến đời sống nhiều mặt của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ, th́ Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh đang sa lầy là tất yếu. Đây là mục tiêu lớn nhất cũng có thể là duy nhất trong cuộc Tổng tấn công tết Mậu Thân. Bởi nó nằm ngoài mưu lược của các nhà làm chiến tranh chuyên nghiệp. Trong Thư vào Nam, nhiều lần Lê Duẩn nhắc đến cụm từ “ đánh quân sự mà tác động chính trị ”. Chính trị ở đây là t́nh trạng khủng hoảng trong chính trường, tâm lư xă hội Mỹ và dư luận thế giới.
Chủ trương, sách lược, chiến lược là như thế, và thực tế cuộc Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân cũng đă kết thúc gần như thế. Tuy nhiên nó không trùng khớp với kế hoạch “ công khai và giả mật ” (giả mật : tài liệu "mật" giả hiệu, tung ra để đánh lừa đối phương – chú thích của Diễn Đàn) của các nhà lănh đạo tối cao của đảng Cộng sản. Hầu hết các địa phương từ Bến Hải đến Cà Mâu đều đồng loạt vang dội tiếng súng của quân Cộng Sản. Tiếng súng làm át cả tiếng pháo Tết gây nên sự náo động, hoảng sợ và tâm lí mâu thuẫn trong quần chúng, gây choáng váng cho Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng đó là tiếng đạn pháo từ ngoài bắn vào, hoặc từ các đội biệt động, đặc công, du kích gài sẵn bên trong. Quân Cộng sản đă không phối hợp được hai chân (chính trị và quân sự), ba mũi (chính trị, quân sự, binh vận) đều khắp trong các thành phố, tỉnh lị, ngoại trừ Huế. Do vậy, quân Cộng Hoà dù rối loạn nhưng chưa bị đánh bại, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà dù hoang mang nhưng chưa bị lật đổ, chủ yếu v́ Mỹ chưa chịu rút lui.
Tại Sài G̣n (mục tiêu tấn công quan trọng nhất trong ba mục tiêu hàng đầu : Sài G̣n – Đà Nẵng – Huế), cuộc Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa đă không thực hiện được theo mô h́nh ba mủi giáp công v́ bộ binh (lực lượng ṇng cốt của tấn công) không vào kịp, hoặc đă bị ngăn chặn ở một số khu vực ven đô. Cán bộ nội thành đă không thể phát động quần chúng tại các địa phương thành một cuộc nổi dậy (tổng khởi nghĩa). Công tác binh vận chẳng có dấu hiệu nào đáng kể. Do vậy sự cố Mậu Thân tại Sài G̣n chủ yếu do các đội biệt động, đặc công và du kích thực hiện. Toà Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, bộ Tổng tham mưu, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ Tư lệnh Hải Quân là 6 trong 9 mục tiêu (theo kế hoạch) đă bị quân Giải Phóng tấn công nhưng không có mục tiêu nào dứt điểm. Chỉ trong ngày đầu, hay vài ba ngày sau các chiến binh đă liều chết để thực hiện nhiệm vụ của ḿnh, hơn 90 % bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống bởi lực lượng bố pḥng và chi viện.
Ở Huế (một trong ba trọng điểm) đă có sự phối hợp khít khao, nhuần nhuyễn giữa lực lượng tấn công (bộ binh và các binh chủng đặc biệt) từ ngoài vào và lực lượng nổi dậy (khởi nghĩa) đă được chuẩn bị kỹ lưỡng từ bên trong, nhưng công tác binh vận không thực hiện được. Do vậy mặc dù đă không chiếm được hai căn cứ quân sự Mang Cá (bản doanh của sư đoàn Một Việt Nam Cộng Hoà) và Phú Bài, quân Giải Phóng đă đánh chiếm và làm chủ được gần như toàn bộ các khu vực dân cư trong ṿng 24 tiếng đông hồ. 11 giờ trưa ngày 1-2-1968 (Mồng Một Tết) cờ của Mặt Trận Giải Phóng đă tung bay trên đỉnh Phu Văn Lâu. Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đă bị vô hiệu hoá. Chính quyền “ nhân dân ” từ phường xă, quận huyện, thành phố, tỉnh được thành lập. Do việc Cộng sản triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới “ trên đầu ngọn súng ”, tiếp theo là viêc quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng Hoà phản công tái chiếm, truy quét tàn quân Cộng sản và lập lại chính quyền củ, nên vấn đề “ thảm sát ” Mậu Thân Huế đă xảy ra.
Đà Nẵng, mục tiêu quan trọng thứ hai trong chiến dịch Mậu Thân, mặc dù đă diễn ra trước một ngày theo kế hoạch do bởi ngộ nhận ngày tính theo lịch Bắc – lịch Nam), cũng như các địa phương khác thuộc khu 5 và Tây Nguyên (Hội An, Tam Ḱ, Quảng Ngăi, Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang, Kon Tum, Plây Cu, Ban Mê Thuộc) chỉ diễn ra những trận pháo kích lớn hay đột nhập nhỏ vào bộ tư lệnh quân đoàn I, sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn (Non Nước). Cuộc tổng tấn công – tổng khởi nghĩa ở khu vực này không gây được tiếng vang lớn.
Trong lúc chiến cuộc ở những nơi khác trên toàn miền Nam sau ngày thứ ba đă lắng xuống, th́ tại Huế quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà bắt đầu cuộc phản công tái chiếm. Bom ào ạt trút xuống từ trời, pháo hạm bắn vào như mưa từ biển, Bộ binh, Thuỷ quân lục chiến, Kỵ binh bay, Nhảy dù, Biệt động quân, Hắc báo, Địa phương quân, Cảnh sát… vây áp từ ba phía đông-nam, đông-bắc và tây-bắc. Cuộc phản công huỷ diệt của ba bốn chục ngàn tay súng Mỹ – Việt Nam Cộng Hoà, và cuộc chiến đấu cố thủ – liều chết của non chục ngàn tay súng Việt Cộng đă diễn ra trên từng thước đất, từng căn nhà, từng góc phố. Khu vực “ chiếm giữ và ở lại ” ngày một thu hẹp, số thương vong ngày một gia tăng. Ngày 22 quân Cộng sản mặc dù không được lệnh của Hà Nội đă tự động rút dần ra. Ngày 26 các chiến binh giữ cờ trên Phu Văn Lâu mới bị tiêu diệt. Trên những nẻo đường rút lui, các cánh quân Cộng sản kể cả những cán bộ nội thành đă bị lộ, những thanh niên vừa được quân sự hoá mấy ngày, thương binh và những tù binh của họ bị truy kích tơi bời bởi đại liên bắn từ trực thăng, pháo từ hạm đội, và bị băm nát bởi hàng loạt bom rải thảm từ máy bay B52.
Song song với cuộc phản công truy quét, lùng diệt và b́nh định, quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà ra sức xây dựng các tuyến pḥng thủ kiên cố và dày đặc chung quanh các thành phố, thị xă, tiểu khu, chi khu, căn cứ, kho tàng, các trục giao thông… để đề pḥng các cuộc tấn công, đột nhập khác của quân Cộng Sản. Cuộc phản công tuyên truyền tâm lư chiến về vụ “ tắm máu ” tại Huế và t́nh trạng “ thảm bại ” của Cộng Sản trên toàn miền Nam cũng được Mỹ và Viêt Nam Cộng Hoà ra sức đẩy mạnh. Trong bối cảnh đó, các nhà lănh đạo chiến tranh của Hà Nội ra lệnh tiến hành “ Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa ” đợt hai (tháng 5), rồi đợt ba (tháng 8).
Không c̣n yếu tố bất ngờ, không có lực lượng nổi dậy từ bên trong để phối hợp, chẳng có mũi nhọn binh vận nào để “ giáp công ”, chiến dịch Mậu Thân đợt 2 rồi đợt 3 chỉ thuần túy quân sự.
Ngoại trừ khu vực Trị Thiên đă kiệt sức, các đơn vị quân Giải Phóng (từ khu 5 trở vào) được lệnh vượt qua các tuyến pḥng thủ dày đặc mới được xây dựng của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà, tiếp tục các cuộc tấn công liều chết vào Sài G̣n và các mục tiêu “ nhạy cảm ” khác để tiếp tục gây tiếng vang, phát huy thắng lợi các cuộc tấn công liều chết và tử thủ đợt 1. Công cuộc phản công huỷ diệt của quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà lại tiếp diễn, đẩy quân Giải Phóng vào t́nh trạng khốn đốn đến hai ba năm. Nhiều cán bộ, cơ sở nội thành bi giết, bị bắt hoặc bị lộ, các khu vực nông thôn giải phóng bị thu hẹp. Nhiều mật khu mất an toàn. Nhiều đơn vị lớn của quân Giải Phóng phải chạy qua trú đóng bên kia biên giới Lào và Cam Bốt để xây dựng lại lực lượng.
Chiến dịch Tổng tấn công – Tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân đối với Cộng Sản là một tổn thất to lớn trên cả hai phương diện chính trị và quân sự trong đấu trường nội địa, nhưng là một thắng lợi quyết định trong ḷng nước Mỹ. Nó là các cuộc tấn công liều chết (cũng có thể nói là các cuộc tự sát tập thể hay thí quân) chỉ với mục đích gây xúc động mạnh trong tâm lư quần chúng Hoa Kỳ và lương tâm nhân loại. Nó lay động tận gốc rễ ư chí chiến tranh của phe chủ chiến Mỹ ; nó bày tỏ ḷng yêu nước sâu nặng, sức chiến đấu bền bỉ, gan dạ và sự hy sinh vô bờ bến của quân dân miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng, đồng thời nó thể hiện quyết tâm, khả năng vận động, lănh đạo, chỉ đạo chiến tranh của đảng Cộng sản. Nó đẩy quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà vào thế bị động chiến lược và tiếp tục sa lầy. Nó buộc Hoa Kỳ phải xuống thang để t́m giải pháp khác : Đấu tranh hoà b́nh (tại hội nghị Paris, và…) và Việt Nam hoá chiến tranh.
*
Trở lại với Lê Xuân Khoa trong mấy trang (292 – 300) ông viết về Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa (TCK – TKN) Tết Mậu Thân. Đây là những trang Lê Xuân Khoa viết gần gũi với sự thật lịch sử hơn hết, tuy vậy vẫn c̣n có những gút mắc cần phải được tháo gỡ.
Lê Xuân Khoa cho rằng các nhà chiến lược của Đảng Lao Động chủ trương tiến hành “ một trận đánh như trận Điện Biên Phủ để chấm dứt chiến tranh ” (nguyên văn). Nhưng v́ chủ quan : đánh giá quá cao sức mạnh của ḿnh, đánh giá thấp sức mạnh của đối phương, làm kế hoạch không hợp lí và chủ trương “ tắm máu ” nên đă thất bại to lớn cả hai phương diện quân sự lẫn chính trị. “ Tuy nhiên, trận Tết Mậu Thân đă đem lại cho Hà Nội một thắng lợi to lớn ở Hoa Kỳ ” (nguyên văn).
Theo tôi, chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân không phải là môt trận đánh như trận Điện Biên Phủ, và mục tiêu chưa phải chấm dứt chiến tranh, mà để buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán để rút lui. Đối với Cộng sản là một tổn thất to lớn chứ không phải là một thất bại to lớn. Không thể thất bại to lớn cho bên này lại không thể đưa đến một thắng lợi dù nhỏ cho bên kia. Lập luận như thế e là không ổn. Tôi sẽ lần lược thảo luận với Lê Xuân Khoa mấy điểm sau đây :
1/ Ở trang 293 Lê Xuân Khoa viết :
“… V́ vậy bộ chính trị ở Hà Nội thấy cần phải sớm chấm dứt cuộc chiến tranh bằng một trận đánh quyết định như trận Điện Biên Phủ 1954 ”.
Theo tôi chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân không như là trận Điện Biên Phủ xét trên nhiều khía cạnh. Bất cứ khía cạnh nào cũng không thể so sánh chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân với trận Điện Biên Phủ được :
– Điện Biên Phủ là một trận đánh quy ước – thuần túy quân sự. TCK – TKN Tết Mậu Thân là một chiến dịch gồm nhiều trận đánh phối hợp ba yếu tố (ba mũi) chính trị, quân sự và binh vận – gọi là Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa ; nhưng thực tế là những trận đánh liều chết của bên yếu có chính nghĩa chống lại bên mạnh hơn (rất nhiều lần), nhưng phi nghĩa.
– Điện Biên Phủ là một trận thách đấu tại một cứ điểm trên địa bàn rừng núi, là một điểm hẹn xét về mặt thời gian lẫn không gian, hoàn toàn không có yếu tố bất ngờ.
– Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân là một cuộc phát động nhiều trận đánh đồng loạt chủ yếu nhắm vào các đô thị, cả thời gian, không gian và qui mô đều có tính chất bất ngờ, hoàn toàn chủ động từ phía tấn công, và hoàn toàn bị động từ phía bị tấn công.
– Điện Biên Phủ đối với Việt Minh là đánh bại quyết tâm cao nhất của Pháp làm bàn đạp đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. TCK – TKN Tết Mậu Thân đối với các chiến lược gia Cộng sản nhằm lung lay ư chí của chính phủ Mỹ, thức tỉnh lương tri của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán để rút lui.
Trong chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân, Khe Sanh được các nhà chiến lược của miền Bắc bố trí thành một Điện Biên Phủ giả để thu hút quân Mỹ. Chính phủ Mỹ đă hy vọng và tập chú vào Khe Sanh ở mức cao đến độ, theo Lê Xuân Khoa, Tổng thông Johnson đă cho thiết lập tại Pḥng T́nh H́nh (Situation Room) trong toà Bạch Ốc để tiện theo dơi trận đánh. Westmoreland đă điều đến đó những đại đơn vị thiện chiến gồm nhiều quân – binh chủng với khí tài hùng hậu và hiện đại để đánh nát đại quân chính quy của Cộng Sản, buộc Bắc Việt phải chịu thua, cúi đầu chấp nhận những điều kiện đàm phán của Mỹ và chấm dứt cuộc xâm lược miền Nam. Nhưng chiến tranh đă không diễn ra ở Khe Sanh theo sự chuẩn bị của các nhà lănh đạo chiến tranh Mỹ, mà diễn ra tại ba trọng điểm là Sài G̣n, Huế, Đà Nẵng và hàng trăm mục tiêu khác khắp miền Nam. Căn cứ vào những tin tức t́nh báo giả, Hoa Kỳ đă điều phối và bố trí quân theo chiến lược do đối phương áp đặt. Chưa đánh mà quân Mỹ đă thua. Chính quyền, Quốc hội, nhân dân Hoa Kỳ và cả thế giới bàng hoàng khi Cộng quân mở màn chiến dịch tết Mậu Thân : Toà Đại sứ – lănh thổ của Mỹ tại Sài G̣n bị tấn công. Dinh Tổng thống và các cơ quan đầu năo của Việt Nam Cộng Hoà tại Sài G̣n, Đà Nẵng, Huế và các tỉnh thành khác bị tấn công. Đặc biệt là Huế, Cộng quân đă đánh chiếm thành phố, đă triệt hạ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, đă treo cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu, đă thành lập chính quyền mới… Qua báo chí, truyền h́nh và các phương tiện truyền thông khác, Quốc hội và nhân dân Hoa Kỳ thấy rằng chẳng c̣n nơi nào trên toàn miền Nam được yên ổn. Nơi nào Cộng quân cũng có thể đột nhập – cho dù đột nhập để bị huỷ diệt.
Công cuộc phản công huỷ diệt tái chiếm sau đó là phản ứng của những anh khổng lồ trước những chiến binh tí hon liều chết. Không khó khăn lắm để những anh khổng lồ bóp nát các chiến binh tí hon liều chết để tái chiếm, v́ tương quan lực lượng quá chênh lệch, cho dù các chiến binh tí hon đă chiến đấu dũng cảm như trế nào.
Tấn công liều chết. Cố thủ liều chết. Nhưng vẫn tiếp tục tấn công. Vẫn tiếp tục cố thủ. Vẫn tiếp tục liều chết. Đợt 1. Đợt 2. Đợt 3. Đánh quân sự để tác động chính trị. Chính trị ở đây là chính trị trong ḷng đất nước, xă hội Mỹ và dư luận thế giới. Sức mạnh của những anh khổng lồ khủng khiếp thật, nhưng giới hạn v́ tổ quốc của chúng ở xa, lư do chúng tham dự vào cuộc chiến mơ hồ thậm chí phi nghĩa. Những chiến binh tí hon ốm yếu nhưng chiến đấu gan dạ bền bỉ và liều chết v́ tổ quốc và Chủ Nghĩa Xă Hội, nên lớp này ngă xuống, đă có lớp khác tiến lên. V́ đây là chiến tranh nhân dân do đảng Cộng sản lănh đạo. Các nhà lănh đạo tối cao của đảng Cộng Sản chấp nhận những tổn thất to lớn ở trong nước để đánh đổi thắng lợi lớn hơn tại Hoa Kỳ.
Lê Xuân Khoa đă không thấy đầy đủ sự thật này, nên ông đă viết :
“ Chiến dịch TCK – TKN là một thất bại to lớn của đảng Lao Động và Mặt Trận Giải Phóng về cả quân sự lẫn chính trị đối nội, trái với niềm tin toàn thắng của các chiến lược gia Cộng sản. Tổng công kích th́ bị đẩy lùi, Tổng khởi nghĩa th́ nhân dân không nổi dậy để theo “cách mạng” ” (LXK sđd trang 297).
“ Khác với những trận đánh trước, kế hoạch Tổng công kích Tết Mậu Thân có mục đích chiếm – và – giữ chứ không phải đánh – và – chạy, v́ vậy không có những chỉ thị cho những trường hợp cần phải rút lui. Yếu tố chủ quan này là nguyên nhân chính gây nên sự thất bại của toàn thể chiến dịch ” (LXK sđd trang 298).
Có lẽ Lê Xuân Khoa đă vội vàng đưa ra nhận định này. Những người làm chiến lược chủ trương TCK – TKN Tết Mậu Thân trong những chừng mực khác nhau đều am hiểu vấn đề quân sự và đều nếm trải sức mạnh quân sự Mỹ sau mấy năm “ Mỹ hoá ”. Đặc biệt đa số trong họ đều đă tham gia trận Điện Biên Phủ. Chẳng lẽ họ không biết một kiến thức sơ đẳng khi làm kế hoạch tấn công là không thể thiếu kế hoạch rút lui ? Chẳng lẽ họ đă quên ở Điện Biên Phủ quân số của Việt Minh (bên tấn công) gấp hơn 3,5 lần so với quân số của Pháp (bên pḥng thủ). Trong khi đó Việt Minh c̣n có gần 300.000 dân công chuyển vận các nhu yếu phẩm cho chiến binh. Về phía Pháp việc tiếp tế cho chiến trường gặp khó khăn v́ cả đường bộ lẫn đường hàng không đều bị ngăn trở bởi du kích và lực lượng pḥng không của Việt Minh. Như thế mà Việt Minh phải chật vật lắm và phải hi sinh rất nhiều mới đạt được thắng lợi.
Đằng này, trong chiến dịch TCK –TKN Tết Mậu Thân, quân số của bên tấn công (quân Giải phóng – Việt Cộng) chỉ vào khoảng # 1/4 quân số của bên bị tấn công (Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà). Các yếu tố cần yếu khác để tiến hành tấn công th́ mức độ chênh lệch càng to lớn hơn, có thể chỉ bằng một phần mười, một phần trăm, một phần ngàn các phương tiện phản công của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Yếu tố bất ngờ và yếu tố nhân dân (giả định có thật để vận động nổi dậy) có thể là những yếu tố mạnh nhưng chưa phải là yếu tố quyết định, bởi v́ một khi Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà phản công th́ t́nh thế tức th́ đảo ngược. (Mà Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà không thể không phản công). Nhân dân ở giữa hai lằn đạn hoặc ở phía bị phản công th́ chỉ có chết. Chẳng lẽ “ các chiến lược gia Cộng sản ” đều mắc bệnh hoang tưởng hết nên mới làm kế hoạch chiếm – và – giữ “ với niềm tin toàn thắng ” để rồi trở thành “ nguyên nhân chính gây nên sự thất bại của toàn thể chiến dịch ”, như Lê Xuân Khoa nhận định ?
Theo tôi th́ “ các chiến lược gia Cộng sản ” (nhóm từ của Lê Xuân Khoa) không quan niệm chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân là trận cuối cùng, “ chiếm và giữ ”, như các “ kế hoạch công khai và giả mật ” (tôi tạm dùng nhóm từ này) mà họ cố t́nh hư trương. Lê Xuân Khoa đă căn cứ vào các kế hoạch “ công khai và giả mật ” này và những sách báo có chọn lọc của phương Tây, cùng những nhận định của các sử quan viết sách giáo khoa của miền Bắc làm cơ sở cho những nhận định của ông. Theo tôi ngoài các “ kế hoạchcông khai và giả mật ”, “ các nhà làm chiến lược chủ trương TCK – TKN của đảng Cộng Sản ” (trong đảng c̣n có những người không chủ trương TCK – TKN, như Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp chẳng hạn), c̣n có kế hoạch tuyệt mật chỉ có trong đầu các lănh tụ tối cao, hoặc trong các văn kiện nội bộ tối cao. Đó là kế hoạch tấn công liều chết (thí quân, hay tự sát tập thể) tôi đă tŕnh bày ở trên. C̣n “ các kế hoạch công khai hay giả mật ” chỉ nhằm động viên (hay huyễn dụ) chiến sĩ và quần chúng để đẩy họ vào các trận tấn công liều chết v́ mục tiêu chính trị, hoặc để tuyên truyền, hoặc để lừa đối phương, hoặc để biện chính cho một chủ trương, một kế hoạch quá táo bạo và nhẫn tâm.
Tôi có mấy bằng chứng để giải tŕnh luận điểm này :
– 1.1/ Trong thư đề 18 tháng 1 năm 1968, Lê Duẩn gởi cho Trung ương cục và Quân uỷ miền Nam có đoạn :
…“ Về đợt hoạt động trong dịp Tết sắp tới, Trung ương dự đoán t́nh h́nh phát triển theo ba khả năng :
– Thứ nhất ta thắng lợi ở “ trọng điểm ” (Sài G̣n – Đà Nẵng và Huế – Chu Sơn), ở nhiều thành phố và vùng nông thôn quan trọng.
– Thứ hai ta thành công ở một số thành phố và vùng nông thôn, nhưng không thắng lợi ở “ trọng điểm ”.
– Thứ ba ta chỉ giành được thắng lợi ở mức như các đợt hoạt động hằng năm trước đây, chỉ khác là lần này hoạt động được mở rộng trong quy mô toàn miền Nam ” (Lê Duẩn – Thư vào Nam trang 184).
Lê Duẩn là chiến lược gia tối cao chủ trương TCK – TKN Tết Mậu Thân. Qua đoạn thư chỉ đạo trên, chúng ta không thấy ông thể hiện “ niềm tin toàn thắng ” “ về đợt hoạt động trong dịp Tết sắp tới ”.
– 1.2/ Trong hồi kư Huế Xuân 1968, Lê Minh, chỉ huy trưởng mặt trận Trị Thiên trong chiến dịch Mậu Thân, kể rằng ông được lệnh chuẩn bị, tổ chức, chỉ huy mặt trận Trị Thiên. Quân của ông đă đánh chiếm Huế, triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền cách mạng. Đến khi Mỹ – Ngụy phản kích, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, chiến sĩ hi sinh nhiều, Ban chỉ huy điện xin Trung ương chuyển quân ra vùng nông thôn, không được trả lời. T́nh thế khốn quẫn : Bị phản công dữ dội, thiếu quân, thiếu vũ khí, lương thực, thuốc men, điện xin tiếp viện, báo sẽ có, nhưng chờ không thấy có. Đến khi không chịu đựng được nữa, ngày 22-2, tự động ra lệnh rút lui.
Sau đây là một đoạn trong hồi kí của Lê Minh :
“…Tôi nêu vấn đề : Bàn tấn công không thôi th́ được rồi. Bây giờ tấn công xong rồi ở lại luôn. Nhưng nếu không ở được th́ sao ? Lênin có nói về đường lối quân sự của giai cấp vô sản : “Khi nói đến tấn công hoàn chỉnh th́ phải tính đường rút lui”. Mác nói : “Vũ trang là bà đỡ của chính quyền mới”. Tôi đưa mấy câu đó ra bàn. Chung quy vẫn c̣n lại một bóng mờ trong vấn đề tấn công là chuyện rút lui. (Sau này, anh Chưởng cho biết Trung ương có dự kiến cả khả năng không giữ được mà phải rút ra. Nhưng cả anh Quang (bí thư khu uỷ Trị Thiên bấy giờ – Chu Sơn) và anh Chưởng (phó bí thư khu uỷ, chính uỷ mặt trận Trị Thiên trong chiến dịch Tết Mậu Thân. Chu Sơn) đều không thông báo với khu uỷ, chỉ cho tôi biết một chút thôi, và bảo đừng bàn chuyện rút lui ” (Huế xuân 68, Lê Minh, trang 46-47) .
Như thế là chuyện rút lui có trong kế hoạch tấn công của “ các chiến lược gia Cộng sản ” chứ không phải “ các chiến lược gia Cộng sản ” v́ hoang tưởng mà có “ niềm tin toàn thắng nên không có kế hoạch rút lui ”, để rồi : “ chiến dịch TCK – TKN là một thất bại to lớn của đảng Lao Động và Mặt Trận Giải Phóng cả về quân sự lẫn chính trị ”, như Lê Xuân Khoa nhận định. Có điều kế hoạch rút lui đó phổ biến đến đâu, lúc nào. Đến như Lê Minh – Chỉ huy trưởng chiến trường Trị Thiên cũng chỉ biết tí chút thôi qua một người đồng sự (Thiếu tướng Lê Chưởng, được các lănh tụ tối cao tin hơn), và chỉ biết về sau. Lê Minh, sau chiến dịch Mậu Thân thắng lợi, bị điều ra Hà Nội ngồi chơi xơi nước, xem như một h́nh thức kỉ luật.
– 1.3/ Sau TCK –TKN đợt 1, chắc chắn “ các chiến lược gia Cộng sản ” không thể không nhận ra rằng : Ngoại trừ ở Huế, đă không làm được cuộc TCK – TKN ở Sài G̣n, Đà Nẵng và các địa phương khác. V́ nói như Lê Xuân Khoa, “ Tổng công kích th́ bị đẩy lui mà Tổng khởi nghĩa th́ nhân dân không nổi dậy theo “cách mạng”. Tuy vậy “các chiến lược gia Cộng sản” vẫn ra lệnh TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 trong điều kiện không c̣n yếu tố bất ngờ, và TCK th́ chắc chắn không chỉ bị đẩy lui (như Lê Xuân Khoa nhận định) mà c̣n bị phản kích huỷ diệt, c̣n TKN th́ hoàn toàn không có khả năng. Vậy th́ các sử quan Hà Nội và cả tác giả Lê Xuân Khoa giải thích thế nào về TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 ? Họ có “ niềm tin toàn thắng ” không ? Họ có kế hoạch chiếm – và – giữ không ? Hay là đánh liều chết !
Phải chăng, cũng như các cuộc tấn công liều chết tại Toà Đại sứ Mỹ và các mục tiêu khác tại Sài G̣n trong đợt 1, cũng như cuộc tử thủ 25 ngày đêm tại Huế, TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 ở Sài G̣n chỉ là những cuộc hành quân thuần túy quân sự – tấn công liều chết, hay thí quân chỉ với mục đích gây tiếng vang và thể hiện ư chí của kháng chiến Việt Nam (do đảng Cộng Sản lănh đạo) nhằm làm lung lay hơn nữa chủ trương chiến tranh của chính giới Mỹ, nhằm thức tỉnh lương tri dân chúng Hoa Kỳ và thế giới. Thực chất của TCK – TKN đối với các nhà lănh đạo chiến tranh ở Hà Nội là một khổ nhục kế. TCK – TKN - “ chiếm-và-giữ ” chỉ là những huyễn dụ để thúc đẩy các con chốt thí liều chết lao ḿnh vào cái khổ nhục kế ấy.
2/ Ở trang 292 – 293, Lê Xuân Khoa viết :
“ Trước khi nói về hoà đàm Paris (1968-1973), cũng cần phải nói đến chiến dịch Tết Mậu Thân. Đây là nguyên do chính khiến Tổng thống Johnson quyết định rút lui khỏi chính trường, và trước khi ra đi, muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường thương thuyết. Trận Tổng công kích Tết Mậu Thân cũng đánh dấu một khúc ngoặt quyết định trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đem lại những điều kiện thuận lợi bất ngờ cho Bắc Việt ”.
Nếu bỏ hai chữ bất ngờ tôi mạo muội làm đậm ở trên, chúng ta thấy nhận định chung cuộc của Lê Xuân Khoa về chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân trùng khớp với một đoạn trong thư của Lê Duẩn viết cho Trung ương cục và Quân uỷ miền Nam 12 ngày trước khi chiến dịch bắt đầu :
“ Thực chất yêu cầu trước mắt đặt ra cho đợt hoạt động này là : đối với địch, giáng cho chúng những đ̣n tấn công sấm sét làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ư chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh ” (Lê Duẩn – Thư vào Nam tr 185).
Theo tôi “ những điều kiện thuận lợi ” (từ của Lê Xuân Khoa) đă không “ bất ngờ ” (từ của Lê Xuân Khoa) “ đối với Bắc Việt ” (từ của Lê Xuân Khoa). Độc giả đời sau cần biết thêm rằng ngoài “ ba mũi giáp công ” (hay các cuộc tấn công liều chết đồng loạt, liên tục, có khả năng không bao giờ dứt) ở quốc nội, chiến dịch TCK – TKN Mậu Thân c̣n có một mũi giáp công thứ tư do các Hội người Việt yêu nước ở hải ngoại thực hiện : Đó là những đóng góp to lớn của những sinh viên, giáo sư, nhà khoa học, nhà hoạt động tôn giáo, văn hoá vào phong trào phản chiến, phong trào hoà b́nh trong ḷng nước Mỹ, châu Âu và các nơi khác trên thế giới. Do vậy : “ Những điều kiện thuận lợi ” cũng không bất ngờ với những chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận thầm lặng này.
3/ Về sự kiện “ Tắm máu ở Huế ” : ở trang 296 Lê Xuân Khoa viết:
“ Đáng nói hơn hết là những nạn nhân dân sự bị giết gồm công chức, trí thức, lănh tụ tôn giáo, chính trị và “các phần tử phản động”, tổng số t́m thấy trong số các mồ chôn tập thể 2810 người, không kể hàng ngàn người khác mất tích. Theo Douglas Pikes, một chuyên gia về Việt Nam, số nạn nhân có thể lên tới 5700 người, một số giáo sư hợp tác với đại học Huế cũng bị tàn sát trong trận này ”.
Là người Mỹ gốc Việt, lại là người muốn “ hoà giải, hoà hợp với chính quyền trong nước ”, trước và sau khi viết Việt Nam 1945-1995, chắc Lê Xuân Khoa đă về thăm lại quê cũ nhiều lần, sao ông không nghĩ đến việc t́m hiểu vấn đề tại chỗ với những người trong cuộc và những nhân chứng đang c̣n sống cùng những tư liệu liên quan, mà ông lại viết về “ vụ tắm máu ” của Cộng sản qua những tài liệu Mỹ, đặc biệt qua Douglas Pike, một chuyên gia thân thiết của các cơ quan Thông tin Hoa Kỳ ?
Theo tôi, mấy ngàn nạn nhân tại Huế trong Mậu Thân không chỉ t́m thấy trong các mồ chôn tập thể. Những mồ chôn tập thể cũng không phải do một ḿnh phía Cộng sản tạo tác. Và thứ tự ưu tiên bị sát hại nếu là do Cộng sản cũng không bắt đầu bằng “ công chức, trí thức, lănh tụ tôn giáo, chính trị ”, cuối cùng mới là “ các phần tử phản động ”.
Do không nghiên cứu trực tiếp, nên mấy ḍng trên của Lê Xuân Khoa có nhiều dấu vết từ những tài liệu tuyên truyền của phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà phổ biến rộng răi lúc bấy giờ.
Tết Mậu Thân 1968 tôi bị mắc kẹt tại Huế trong tư cách là một sinh viên sĩ quan trừ bị (Thủ Đức) đi phép. Tôi trở lại quân trường sau khi quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà hoàn tất cuộc tái chiếm thành phố Huế. Tôi đă viết về vụ “ tắm máu Mậu Thân ” trong cuốn sách tự xuất bản năm 2011 : Nước – Lửa và Sóng (bài Câu chuyện trên núi Truồi mà Diễn Đàn đă trích đăng tại đây). Sau đây là phần tóm lược :
Theo tôi, dân Huế bị sát hại trong Mậu Thân cả thảy 4 đợt :
– Đợt thứ nhất do Công Sản tạo tác bắt đầu từ việc đánh chiếm thành phố, lật đổ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới. Mà chính quyền bao giờ cũng ở trên đầu ngọn súng. Năm 1954, Ngô Đ́nh Diệm muốn ổn định chính quyền cũng đă tiêu diệt các đảng phái và các giáo phái, phát động rầm rộ các chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng. Việc Ngô Đ́nh Diệm tố Cộng, diệt Cộng và việc Ngô Đ́nh Cẩn khẳng định vai tṛ lănh chúa miền Trung đă gây nợ máu với rất nhiều gia đ́nh kháng chiến hay không kháng chiến (nhà giàu), không phân biệt Cộng Sản hay không Cộng Sản. Kinh nghiệm máu xương của người dân Thừa Thiên Huế c̣n kinh qua cuộc đàn áp Phật giáo từ năm 1963 đến năm 1966. Năm 1968 khi những người Mặt trận từ trên núi xuống, từ trong tù ra, với súng trong tay, họ sẽ làm ǵ trong nhiệm vụ triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới ? Chắc chắn họ không phân biệt được hay cố t́nh không phân biệt giữa việc “ đền nợ nước và trả thù nhà ”. Đây là đợt tắm máu thứ nhất.
– Đợt tắm máu thứ hai xảy ra khi quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà phản công tái chiếm : Việt Cộng ở trong dân, “ quân đội Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ phải chiến đấu rất khó khăn để giành lại từng căn nhà, từng góc phố ” (Lê Xuân Khoa sđd tr 296). “ Với các biện pháp lùng – diệt và được sử dụng hỏa lực thật mạnh một cách bừa băi, nhiều khi chỉ để pḥng ngừa… thường gây thương vong cho nhiều thường dân vô tội ”. “ Qui tắc chiến đấu ” của quân đội Mỹ trong chiến tranh chống du kích đă giết hại nhiều thường dân hơn bộ đội Cộng sản. Nguy hại hơn nữa là mệnh lệnh có tính cách buông thả : “ Hăy giết Việt Cộng ”. (Lê Xuân Khoa sđd tr 334). Về phía quân Việt Nam Cộng Hoà th́ trong họ, hay sau lưng họ, không ít những người có thân nhân vừa mới bị Cộng Sản sát hại, với vũ khí trong tay, họ đă buông thả sự trả thù. Việc tái lập chính quyền cũ cũng diễn ra trên đầu ngọn súng.
– Đợt tắm máu thứ ba xảy ra trên đường Cộng quân rút lui với thương binh, thanh niên đi theo và tù binh của họ. Quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà truy đuổi, trực thăng bắn đại liên xối xả, máy bay oanh kích, đặc biệt B52 rải thảm. Một số mồ chôn tập thể được h́nh thành trong đợt này.
– Đợt tắm máu thứ tư là tuyên truyền của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà trong và sau khi chiến dịch Mậu Thân kết thúc.
Theo tôi, dù dân Huế bị sát hại vào đợt nào th́ phía Cộng Sản cũng là người chịu trách nhiệm chính trước những cái chết không đáng.
Phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà chỉ thừa cơ hội để tương kế tựu kế, thực hiện sách lược “ gậy ông đập lưng ông ” mà bất cứ địch thủ nào cũng làm trong những trường hợp tương tự.
III/ Về ḷng yêu nước và tinh thần chiến đấu của các bộ phận người Việt Nam :
Ở trang 321, Lê Xuân Khoa viết :
“ Nhiều nhà lănh đạo chính trị và quân sự của Hoa Kỳ thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu văn t́nh trạng nguy ngập ở miền Nam. Điều đó đúng một phần nhưng không phải người Quốc Gia không yêu nước bằng người Cộng Sản cho nên quân miền Nam không chiến đấu dũng cảm bằng quân dân miền Bắc. Trên toàn lănh thổ Việt Nam chỉ có một dân tộc, không thể bảo rằng người Việt miền Nam không can đảm bằng người Việt miền Bắc ” (LXK sđd tr 321).
Qua đoạn trích dẫn này, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng : Người Việt Nam ai cũng yêu nước cả, ai cũng chiến đấu kiên cường và dũng cảm cả, bất kể là Việt Nam Quốc Gia hay Việt Nam Cộng Sản, bất kể người Việt ở miền Nam hay người Việt ở miền Bắc.
Lê Xuân Khoa sử dụng nhận định này để bác bỏ nhận định mà ông cho là sai của “ các nhà lănh đạo chính trị và quân sự của Hoa Kỳ ” : “ thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng Sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu văn t́nh trạng nguy ngập ở miền Nam ”. Việc Hoa Kỳ đúng sai thế nào trong quyết định “ Mỹ hoá ” tôi đă bàn ở trên. Ở đây tôi chỉ thảo luận với Lê Xuân Khoa về ḷng yêu nước và tinh thần chiến đấu của người Việt Nam trong thời đoạn lịch sử từ sau hiệp định Genève.
Theo tôi, nhận định trên của Lê Xuân Khoa là câu nói đầu môi chót lưỡi, là lời hiệu triệu của các nhà lănh đạo chính trị với mục đích huyễn dụ người nghe, hoặc là lời ngụy biện của những kẻ hèn nhát, vô trách nhiệm muốn tỏ ta cũng yêu nước như bất cứ ai. Nhà nghiên cứu không nên nói chung chung mơ hồ như vậy. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là chứng minh “ người Việt miền Nam ” – “ người Việt miền Bắc ”, “ người Việt Quốc Gia ” – “ người Việt Cộng Sản ” đă thực hiện ḷng yêu nước như thế nào ? Nếu ḷng yêu nước mà không thể hiện bằng hành động cụ thể, hoặc thể hiện bằng hành động trái ngược (có hại cho nước), không đúng chỗ (đứng trong hàng quân của chính quyền Liên hiệp Pháp như chính phủ Quốc gia của Bảo Đại, hay đứng dưới quyền lực của ông chủ Mỹ) th́ chỉ là lời nói suông với mục đích huyễn hoặc chính ḿnh và lừa dối kẻ khác (nói một đường làm một nẻo). Cũng như thế : “ chính quyền trong nước ” ngày nay (vốn là “ người Việt miền Bắc ”, “ người Việt Cộng Sản, vốn là một bộ phận của dân tộc ”) có c̣n là người Việt yêu nước và chiến đấu dũng cảm nữa không ? Hay đă trở thành những kẻ hèn nhát hại dân hại nước, thậm chí c̣n buôn dân bán nước ?
Sở dĩ Lê Xuân Khoa đưa ra những lời nhận định chung chung và có tính áp đặt như vậy (người Việt Nam ai cũng yêu nước và chiến đấu dũng cảm cả) v́ ông cứ khư khư những định kiến mà không có một nỗ lực thích đáng nào để nắm bắt những chuyển biến và sự phát triển các thành phần chính trị cũng như tâm tư nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân trên cả hai miền Nam – Bắc từ sau 1954.
Các định kiến đó là : hễ cứ miền Bắc là Cộng Sản, và miền Nam là Quốc Gia (cũng như định kiến của đa số người Việt hải ngoại hiện nay là hễ bất cứ ai ở trong nước cũng đều là Cộng Sản cả). Và chỉ có người Quốc Gia và người Cộng Sản mới yêu nước và chiến đấu dũng cảm.
Tôi muốn phá vỡ định kiến đó bằng một phản biện : Từ sau 1954 nhiều người cư trú trên miền Bắc nhưng không phải là “ Việt Nam Cộng Sản ”. Đa phần nhân dân cư trú tại miền Nam, cũng không phải là “ Việt Nam Quốc Gia ”. Trong một hoàn cảnh đặc biệt, những người không Quốc gia, cũng không Cộng sản đó đă chứng tỏ ḷng yêu nước của ḿnh theo một cách riêng : tham chiến với thái độ bất đắc dĩ khi bị bắt buộc phải vào lính, hoặc trốn lính, đào ngũ, hoặc đứng ngoài. Bởi v́, theo họ : đi với Mỹ là phản quốc, theo Cộng sản là đi vào con đường mà họ cho là sai lầm, tội ác.
Sự thể này manh nha từ một thực tế là sau hiệp định Genève, miền Bắc được cai trị bởi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành lập sau cách mạng tháng Tám và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội dẫn đến thắng lợi nửa chừng là giành lại được một nửa đất nước (từ vĩ tuyến 17 trở lên). Đây là một nhà nước nhân dân chính danh, nhưng đă tự làm ô nhục bằng cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu bạo tàn. Trong ḷng xă hội miền Bắc và chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do những người Việt Nam Cộng sản lănh đạo c̣n có một thiểu số người Việt Nam Quốc Gia không theo kịp cuộc di cư vào Nam, và một bộ phận người Việt Nam khác (ngày càng gia tăng) kêu đ̣i tự do dân chủ – là nạn nhân của tất cả các cuộc cải cách, cải tạo, chỉnh huấn (cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo văn hoá văn nghệ) và thực trạng hủ bại của guồng máy quan liêu độc tài toàn trị ngày một củng cố và phát triển. Những người Việt Nam phi xă hội chủ nghĩa này không đủ sức để h́nh thành nên một lực lượng quần chúng hợp nhất, một thành phần chính trị riêng biệt. Dù muốn dù không, đa số trong họ đều bị cuốn hút, hay bị vô hiệu hoá trước những biện pháp chuyên chính tàn bạo và đê tiện của đảng Cộng sản. Điều đáng chú ư là : V́ mục tiêu thống nhất đất nước là nhu cầu chính đáng và bức thiết của cả dân tộc, những người Việt Nam phi xă hội chủ nghĩa này buộc phải chấp nhận sự lănh đạo của đảng Cộng Sản, đă hội nhập cùng đại đa số nhân dân miền Bắc, đă đóng góp công sức, xương máu và của cải vật chất cho công cuộc kháng chiến chống “ Mỹ – Ngụy, giải phóng miền Nam ”. Bản thân họ, hoặc con em cháu chắt họ đă t́nh nguyện tham gia quân đội miền Bắc, cũng đă chiến đấu dũng cảm bên cạnh những đồng đội có gốc gác công nông mà “ các nhà lănh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đă “ khen ” so với tinh thần và hiệu quả chiến đấu “ đáng chê ” của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà…”, khiến Lê Xuân Khoa chẳng mấy bằng ḷng.
Tại miền Nam t́nh h́nh phức tạp theo một chiều hướng khác : Từ sau khi Mỹ thay thế Pháp trong vai tṛ là đồng minh hay là ông chủ của các chính quyền độc tài gia đ́nh – Thiên chúa giáo trị Ngô Đ́nh Diệm, hay quân phiệt trị Nguyễn văn Thiệu dưới danh xưng là Việt Nam Cộng Hoà, quần chúng nhân dân chia làm ba bộ phận với ba khuynh hướng chính trị khác nhau :
– Một bộ phận nương tựa vào quyền lực Mỹ, hy vọng vào những giá trị tự do dân chủ Mỹ và nền văn minh Ki tô giáo, chủ trương chống Cộng như một giáo điều, phá bỏ hiệp định Genève, ra sức xây dựng miền Nam thành một quốc gia riêng biệt và độc tôn Thiên Chúa giáo. Bộ phận này là thiểu số, vào khoảng hai đến ba mươi phần trăm dân số toàn miền Nam, (Theo nhận định của Tổng thống Mỹ – Eisenhower : Nếu bầu cử theo tinh thần của hiệp định Geneve, 80 % dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh). Lê Xuân Khoa gọi bộ phận quần chúng này là Việt Nam Quốc Gia. Càng về sau, do sự phát triển của t́nh h́nh : Mỹ ngày càng lộ rơ vai tṛ đế quốc, các chế độ Việt Nam Cộng Hoà kế tiếp nhau càng lộ rơ tính chât lệ thuộc và độc tài, một số người thuộc thành phần chính trị này chuyển dần qua hai thành phần sau. Do vậy, tỷ lệ này càng giảm xuống, có thể đến mức dưới 10 % vào thời điểm 1975.
– Bộ phận thứ hai đông đảo hơn, không có thống kê cụ thể, nhưng đông hơn rất nhiều số quần chúng ủng hộ phe Quốc gia. Khuynh hướng chính trị là chống Mỹ–Ngụy, chủ trương thống nhất đất nước, hướng về miền Bắc với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, về đảng Cộng sản và chủ nghĩa Xă hội. Họ tham gia Mặt trận Giải phóng, đặt ḿnh dưới sự lănh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản.
– Bộ phận thứ ba đa phần là đồng bào theo đạo Phật và những người ngoài Công giáo, đă tham gia kháng chiến chống Pháp, đă có kinh nghiệm độc tài – vô thần của đảng Cộng sản, khuynh hướng chính trị là trung lập (không Mỹ, cũng không Cộng sản). Tầng lớp trên (của bộ phận quần chúng này) ước mơ về một nhà nước theo thể chế Xă hội chủ nghĩa phi Cộng sản, hay Xă hội chủ nghĩa Phật giáo, chủ trương đấu tranh dân chủ, hoà b́nh, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, hoà giải và hoà hợp dân tộc. Năm 1963, Phật tử và đồng bào thuộc thành chính trị thứ hai, thứ ba hưởng ứng cuộc đấu tranh đ̣i tự do tín ngưỡng và b́nh đẳng tôn giáo do giáo hội Phật giáo miền Trung phát động. Chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (miền Nam) thành lập, chủ trương cuộc đấu tranh kêu đ̣i dân chủ, hoà b́nh và quyền dân tộc tự quyết. Phong trào bị Mỹ và Thiệu – Kỳ đàn áp đến tan ră vào giữa năm 1966. Năm 1973, Phật tử và quần chúng thuộc thành chính trị thứ hai, thứ ba tham gia các phong trào đấu tranh đ̣i thi hành Hiệp định Paris. Năm 1974, tham gia Lực lượng Hoà giải – Hoà hợp Dân tộc do Phật giáo Ấn Quang tổ chức. Tháng Tư 1975 hậu thuẫn cho tướng Dương Văn Minh thành lập chính phủ chuyển tiếp từ Việt Nam Cộng Hoà qua chính quyền Cách mạng. (xem : Phong trào Phật giáo miền Trung - Huế – từ Chấn Hưng đến Dấn Thân – Chu Sơn)
(Sự phân chia ba bộ phận quần chúng, ba khuynh hướng chính trị như thế là tượng trưng, các con số phần trăm ấy chỉ là tương đối. Thực tế là trong rất nhiều gia đ́nh, đặc biệt những gia đ́nh thuộc tầng lớp trên, đều có người ở bên này, có người đứng bên kia…)
Về phía quần chúng : bộ phận thứ hai, thứ ba cộng lại là đa số tuyệt đối (80 %, càng về sau càng gia tăng), nhưng v́ cư trú tại miền Nam – là lănh thổ tạm thời chịu sự quản lư của chính quyền Liên Hiệp Pháp theo hiệp định Genève. Về sau, dù muốn, dù không, tất cả đều phải là “ công dân hợp pháp ” của “ nước Việt Nam Cộng Hoà ”, đều phải chịu sự cai trị của những người mà Lê Xuân Khoa gọi là Việt Nam Quốc Gia được ông chủ Mỹ chọn lựa. V́ nhu cầu sinh sống, nếu không làm ăn riêng lẻ (nông nghiệp, thương mại, thợ thủ công …) th́ làm thuê cho các cơ sở kinh tế tư nhân, hoặc là công chức trong các ngành nghề do chính quyền quản lí. Đặc biệt, thanh niên đến tuổi quân dịch hay tuổi động viên đều phải trở thành binh lính hay sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, đều phải vác súng Mỹ đi đánh nhau với người ruột thịt ở phía bên kia chiến tuyến ; đều nghe tiếng bom Mỹ vang động từ miền Bắc, từ rừng núi hay nông thôn ; đều thấy tác hại khủng khiếp của chất độc hoá học và bom napalm lên con người, cỏ cây, làng mạc, đất đai ; đều thấy lính Mỹ vênh váo, hoành hành ngang ngược khắp các tỉnh thành miền Nam ; đều chứng kiến xă hội băng hoại trước sự chi tiêu xả láng của nửa triệu quân nhân Mỹ sau những cuộc hành quân diệt Cộng. Lê Xuân Khoa đă không nhận ra được sự thật này nên ông đă phản đối “ các nhà lănh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng sản miền Bắc…”
Thử hỏi, khi một chính quyền, một quân đội quá phụ thuộc vào nước ngoài (Lê Xuân Khoa bảo là v́ Mỹ bỏ rơi nên Việt Nam Cộng Hoà mới thua) lại được chỉ huy bởi các tướng lănh “ chỉ quan tâm đến việc tranh chấp quyền hành và bảo vệ quyền lợi phe nhóm ”, mà bảo quân đội đó chiến đấu dũng cảm, liều chết như các chiến binh Cộng sản miền Bắc sao ?
Theo tôi, các nhà chính trị và quân sự của Mỹ đă đúng khi so sánh tinh thần và hiệu quả tác chiến của quân đội hai phía Việt Nam như trên. Họ cũng không sai khi bảo rằng những người đang chống lại họ là yêu nước, và những người cộng tác với họ là không yêu nước. Các nhà cai trị thực dân đế quốc thường không trọng, hoặc khinh những người bản địa cộng tác với ḿnh, nhưng ghét và trọng những ai chống lại ḿnh. Đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, nếu bảo rằng đa số những quân nhân bị ép buộc phải sung vào quân lực Việt Nam Cộng Hoà đều không yêu nước là sai. Thực tế, đa phần những quân nhân Việt Nam Cộng Hoà bất đắc dĩ này đă yêu nước trong hoàn cảnh đặc biệt của họ. Họ không thể nào “ chiến đấu dũng cảm ” trong cuộc chiến tranh do người Mỹ áp đặt (Lê Xuân Khoa gọi là chủ động). Họ không thể bắn vào người anh em ruột thịt đang chiến đấu v́ mục tiêu thống nhất đất nước mà họ khao khát, cho dù họ không đồng t́nh hay thậm chí dị ứng ư thức hệ Xă hội chủ nghĩa và chế độ Cộng sản độc tài miền Bắc. Giữa họ và người anh em bất đồng chính kiến ở bên kia chiến tuyến có một khát vọng chung là độc lập, hoà b́nh và thống nhất tổ quốc. Giữa họ và người Mỹ đế quốc không có điểm chung nào cả.
Trong chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân, v́ dị ứng với Cộng sản các thứ, nên các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà bất đắc dĩ này đă không nghe theo lời khuyến dụ của các cán bộ binh vận làm binh biến. Do vậy nên kế hoạch TCK – TKN Tết Mậu Thân đă không thành đạt như ư muốn của các nhà lănh đạo tối cao của đảng Cộng Sản.
Trong cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1975, các chiến binh miền Bắc đă tiến nhanh, thắng nhanh chủ yếu v́ đa số trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà đă không cầm súng đánh trả, đă chuẩn bị các thứ trong điều kiện có thể để chờ đoàn quân Giải phóng vào tiếp quản. Bởi v́ Hoà b́nh, Thống nhất đất nước, Hoà giải, Hoà hợp dân tộc cũng là khát vọng sâu thẳm và mạnh mẽ của họ. Đây là một chọn lựa có ư thức, chứng tỏ ḷng yêu nước và tinh thần trách nhiệm của họ trong một t́nh thế đặc biệt. Khi một quân đội mà đa số chủ trương không đánh, hoặc đánh bất đắc dĩ, đánh cầm chừng, lấy lệ…, th́ thiểu số c̣n lại có “ yêu nước ” đến đâu, và “ chiến đấu dũng cảm ” như thế thế nào, cũng không tránh khỏi thất bại. Đó là chưa nói đến những người Việt Nam Quốc Gia hèn nhát, tham nhũng. Như thế, việc đánh giá về sự thất bại của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, và sự thắng lợi của quân đội miền Bắc cần phải được các sử gia xem xét lại. Điều vô cùng đáng tiếc là : Để chứng tỏ ḿnh đang làm nên “ chiến công hiển hách ”, đoàn quân Giải phóng với xe pháo rầm rập, súng ống tua tủa đă bắt buộc những người anh em (chính phủ Dương Văn Minh) đang chờ đón ḿnh với hai bàn tay không và tấm ḷng rộng mở – phải dong tay, tuyên bố đầu hàng như những kẻ thù đang bắn giết nhau giữa trận mạc.
Trở lại với Lê Xuân Khoa và những ḍng tiếc nuối về cuộc chiến tranh mà theo ông “ Hoa Kỳ đă chủ động và sai lầm ”, đă “ bỏ lỡ nhiều cơ hội hoà b́nh ”, đă “ từ bỏ trách nhiệm…”, để rồi cuối cùng “ bị mang tiếng bại trận ” (LXK sđd chương 8 – Sai lầm của Hoa Kỳ). Ở trang 360 Lê Xuân Khoa viết :
“ Chỉ v́ ḷng chán ghét cuộc chiến tranh do chính ḿnh chủ động, chán ghét những người lănh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính ḿnh chọn lựa, và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người Việt Nam Quốc Gia, Hoa Kỳ đă từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân miền Nam Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-bu-chia và Lào. Sau ba mươi năm liên lụy với hai cuộc chiến tranh ở một vùng đất xa xôi và bỏ lỡ nhiều cơ hội hoà b́nh, Hoa Kỳ không những bị mang tiếng bại trận mà c̣n phải mất hơn hai mươi năm nữa để t́m cách giải quyết cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương ”.
Đây là mấy ḍng Lê Xuân Khoa tiếp cận sự thật lịch sử hơn hết, và đồng thời ông cũng thể hiện tâm cảm của ḿnh (một người Việt Quốc Gia). Điều đáng buồn là sự thật lịch sử và tâm cảm của ông đă không khế hợp được với nhau.
Nửa câu đầu trong đoạn trích dẫn trên, xin được chép lại :
“ Chỉ v́ chán ghét một cuộc chiến tranh do chính ḿnh chủ động, chán ghét những người lănh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính ḿnh lựa chọn…,”
Với nửa câu này thôi, Lê Xuân Khoa đă mô tả gần như chính xác một bên của cuộc chiến tranh mà ông đă áp đặt tên gọi, và đă không chứng minh được là “ Nội chiến và Uỷ nhiệm ”.
Khi chủ thể tạo tác mà chán ghét cái công tŕnh “ do chính ḿnh chủ động ”, và đồng thời chán ghét cái công cụ (những người lănh đạo Việt Nam – nguyên văn của Lê Xuân Khoa) do “ chính ḿnh chọn lựa ” đến thế th́ xin hỏi tác giả Lê Xuân Khoa : Cái dân tộc phải chịu đựng sự tàn phá ghê gớm từ cuộc chiến tranh đó sẽ chán ghét đế mức độ nào cho xứng với tội ác do chúng gây nên ? Và sự việc mà đảng Cộng Sản đă tuyên truyền chống Mỹ Ngụy, giải phóng miền Nam có ǵ là sai trái, là bịa đặt ?
Với nửa câu này thôi, Lê Xuân Khoa đă mô tả Mỹ như một ông chủ độc đoán, một đế quốc xâm lược chính danh.
Đến nửa câu sau :
“…và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người Việt Nam Quốc Gia, Hoa Kỳ đă từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-bu-chia và Lào…”
Lê Xuân Khoa đă chê trách Hoa Kỳ như một đồng minh sai lầm, và phản bội. Một đồng minh sai lầm có thể sữa chữa, tha thứ. Nhưng khi một đồng minh phản bội, thi không c̣n là đồng minh nữa, mà trở nên kẻ thù.
Người đọc sách và là người Việt Nam b́nh thường như chúng tôi hiểu vấn đề không đến nỗi rối rắm, phức tạp như thế :
Khi người Mỹ “ chủ động ” tiến hành cuộc chiến tranh của họ trên một đất nước xa xôi lạ lẫm như Việt Nam, và “ chính họ chọn lựa ” những người trợ thủ bản xứ (Trợ thủ là lời nói cho dễ nghe. Nói khó nghe là tay sai, là công cụ. Lê Xuân Khoa gọi là “ những người lănh đạo Việt Nam ”) như Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, th́ chắc chắn họ (người Mỹ) không thể xem các nhân vật ấy và thuộc cấp (của hai ông) là người Việt Nam yêu nước được. Bởi người yêu nước (của bất cứ quốc gia nào) không cộng tác với bất cứ ngoại bang nào để tiến hành cuộc chiến tranh của chúng trên đất nước ḿnh. Vả lại, khi người Mỹ chọn lựa người bản xứ làm trợ thủ phục vụ cho lợi ích của họ, th́ cái mà Lê Xuân Khoa gọi là trách nhiệm hay cam kết ǵ đó “ đối với nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Cam-bu-chia và Lào ” chẳng qua chỉ là lời huyễn dụ vào một thời điểm cần thiết. Đến khi thấy những trợ thủ ấy “ thiếu khả năng ”, hoặc v́ lư do nào đó gây khó khăn trở ngại cho công cuộc của họ th́ chắc chắn sẽ bị loại trừ. Cứ xem người Mỹ đối xử với anh em Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu như thế nào th́ đủ rơ.
Câu thứ hai của đoạn trích dẫn trên hàm chứa hai ư chính : Một là Hoa Kỳ mang tiếng bại trận. Hai là Hoa Kỳ phải mất hai mươi năm để giải quyết vấn đề tị nạn. Tôi nói qua ư thứ hai trước : Theo tôi vấn đề người Việt Nam chạy ra nước ngoài trong và sau sự kiện “30-4-1975” gồm hai thành phần : một là những người di tản trong kế hoạch của Mỹ, hai là những người trốn chạy ra nước ngoài do các chính sách “ cải tạo chế độ cũ ” và các cuộc cải tạo xă hội chủ nghĩa của “ chính quyền trong nước ”. Về thành phần di tản theo kế hoạch, nếu có đủ thời gian, Mỹ có thể đưa ra khỏi Việt Nam đa số những người “ Việt Nam Quốc Gia ” đă cộng tác với Mỹ trong “ cuộc chiến tranh do chính ḿnh chủ động ”. Về thành phần tị nạn bao gồm các đối tượng cải tạo (cải tạo chế độ cũ, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo văn hoá văn nghệ, cải tạo nông nghiệp), nói chung là nạn nhân của chế độ Cộng Sản về cả hai phương diện chính trị và kinh tế. Nếu không bị ngăn trở, có cơ hội và điều kiện, một nửa dân miền Nam sẽ vượt biên, trốn chạy khỏi đất nước, làm người tị nạn tại bất cứ quốc gia và vùng lănh thổ nào, thậm chí phải chết để thoát khỏi chế độ độc tài đảng trị.
Nhưng cái Lê Xuân Khoa gọi là “ vấn đề tị nạn ” theo tôi thực chất phát xuất từ vấn đề di tản những đồng sự và con cháu “ những người lănh đạo Việt Nam thiếu khả năng ” “ do chính ḿnh chọn lựa ” để tiến hành “ cuộc chiến tranh do chính ḿnh chủ động ”. Bởi v́ xét cho cùng, nếu không có cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ chủ động, th́ sẽ không có “ cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương ”. Phải chăng Lê Xuân Khoa đă sử dụng khả năng lí luận mèo lại hoàn mèo để diễn đạt tính chất cuộc “ chiến ba mươi năm ” mà Hoa Kỳ đă “ chủ động ” và “ liên lụy ” ?
Nếu sử học là môn học của sự bất nhất và mập mờ th́ Lê Xuân Khoa đích thực là một bậc thầy của môn học bất nhất và mập mờ ấy.
Lê Xuân Khoa cho rằng Hoa Kỳ “ bị mang tiếng bại trận ” chứ thực tế Hoa Kỳ đă không bại trận như nhận định của nhiều người. Trước đoạn trích dẫn trên đúng 18 ḍng, Lê Xuân Khoa viết :
“ Điều đáng tiếc là phong trào phản chiến lên cao và v́ những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với Việt Nam, Hoa Kỳ không những đă không khai thác được sự thất bại quân sự và chính trị của Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam sau trận Tết Mậu Thân, mà c̣n giúp cho đối phương tạo được ưu thế trên bàn hội nghị ” (LXK sđd tr 359).
Về kết quả của chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân cho cả hai phía (Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) tôi đă thảo luận ở trên. Ở đây tôi chỉ thắc mắc là Lê Xuân Khoa đă không cho độc giả biết mục tiêu của phong trào phản chiến tại Mỹ là ǵ, v́ sao nó “ lên cao ” và nội dung cụ thể của “ những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với Việt Nam ” là ǵ ? Không như thế th́ làm sao độc giả có thể chia sẻ với Lê Xuân Khoa điều làm cho ông “ đáng tiếc ” ? Theo ông : nếu phong trào phản chiến không lên cao, “ những mâu thuẫn giữa chính quyền và quốc hội ” không trầm trọng, th́ Hoa Kỳ có thể khai thác được sự thất bại quân sự và chính trị của đối phương “ để giành ưu thế trên bàn hội nghị ”. Như thế Hiệp định Paris 1973 sẽ là một thành tựu có lợi cho Hoa Kỳ, ít ra “ phải có điều khoản duy tŕ một lực lượng quân Mỹ tối thiểu để bảo đảm việc thi hành thỏa ước ”. Và như thế Việt Nam Cộng Hoà sẽ không bị bỏ rơi, “ chương tŕnh Việt Nam hoá ” chiến tranh sẽ “ được Hoa Kỳ thực hiện đúng mức ”, và “ Việt Nam Cộng Hoà có thể tránh khỏi t́nh trạng sụp đổ mau chóng và thê thảm ”, cho dù “ không bảo đảm cho việc Nguyễn Văn Thiệu chiến thắng được Cộng Sản ” (LXK sđd tr 359-360).
Theo tôi, đến thời điểm này (sau chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân) mà đặt vấn đề Nguyễn Văn Thiệu có chiến thắng được Cộng Sản hay không là điều nhảm nhí. Có lẽ Lê Xuân Khoa cũng không nghĩ khác. Nhưng ông lại tỏ ra rất nghiêm túc khi nêu ư kiến là : Việt Nam Cộng Hoà không đáng bị bỏ rơi, chương tŕnh Việt Nam hoá chiến tranh đáng ra nên được Hoa Kỳ thực hiện đúng mức, để “ Việt Nam Cộng Hoà có thể tránh được t́nh trạng suy sụp mau chóng và thê thảm ”. Lê Xuân Khoa đă tách riêng Nguyễn Văn Thiệu và những người Việt Nam Quốc Gia làm hai thực thể riêng biệt. Có lẽ, theo ông : Nguyễn Văn Thiệu là người lănh đạo thiếu khả năng đă được Hoa Kỳ chọn lựa và đang bị Hoa Kỳ chán ghét. C̣n những người Việt Nam Quốc Gia là những người yêu nước chân chính, Hoa Kỳ không nên đánh giá sai lầm rồi đánh đồng sự đối xử.
Chắc chắn là phong trào phản chiến, Quốc hội và cả chính phủ Mỹ đă không nghĩ như thế. Khi một Thống tướng như Westmoreland mà c̣n bị cách chức, một Tổng thống như Johnson mà phải từ bỏ sự nghiệp chính trị của ḿnh (quyết định không ra ứng cử tổng thống), và Hoa Kỳ phải bắt đầu những cuộc đàm phán với Việt cộng để t́m đường rút ra khỏi băi lầy, th́ sá ǵ tâm cảm của những người Việt Nam Quốc Gia mà Lê Xuân Khoa là đại diện. Bởi v́ đối với Mỹ : Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và Việt Nam Quốc Gia chỉ là một. Tất cả đều là công cụ. Công cụ để chủ động dấn thân vào. Và cũng là công cụ khi bị ép buộc phải rút ra.
Khi chấp nhận thua Việt Nam qua việc kư kết hiệp định Paris, phe chủ chiến Mỹ đă chấp nhận thua nhân dân và Quốc hội Hoa Kỳ trước phong trào phản chiến. Do vậy, vấn đề ai thắng ai trong cuộc chiến tranh Đông Dương của Mỹ cần xem xét lại. Bởi trong quá tŕnh chủ động xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc Việt Nam, Lào và Cam Bốt ở những mức độ khác nhau của 6 đời tổng thống từ Roosevelt, qua Truman, qua Eisenhower, qua Kennedy, qua Johnson, đến Nixon, các chính phủ Mỹ vô h́nh trung đă đẩy đất nước vào t́nh trạng khủng hoảng toàn diện, đă thách thúc Lương tri của dân chúng Hoa Kỳ và thế giới. Cái lương tri ấy thể hiện một cách đầy đủ qua lời tuyên đọc nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson năm 1776 nhân lễ độc lập. Cái lương tri ấy được thể hiện bài bản hơn qua tuyên ngôn nhân – dân quyền của cách mạng Pháp 1789. Cái lương tri ấy đă được chủ tịch Hồ Chí Minh trích đọc trong tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 :
“ Tất cả mọi người đều sinh ra b́nh đẳng, Tạo hoá đă ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc ”.
Cái Lương tri ấy nằm sâu trong tâm thức của nhân dân Hoa Kỳ và loài người tiến bộ. Cái Lương tri ấy từng bước thức tỉnh theo các thời đoạn của cuộc chiến tranh phi nghĩa do chính phủ Mỹ chủ động. Cái Lương tri ấy đă bàng hoàng xao xuyến và giao động trước những cuộc tự thiêu của ngài Thích Quảng Đức và các vị Tăng, Ni trong phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật tử kêu đ̣i tự do và b́nh đẳng tôn giáo năm 1963. Cái lương trí ấy được đánh động đến đỉnh điểm qua những trận tấn công liều chết của những chiến binh tí hon Việt Nam chống trả quyết liệt trước tên xâm lược khổng lồ là đế quốc Mỹ trong chiến dịch Tết Mậu Thân. Chính cái Lương tri ấy đă kéo các chiến binh Mỹ thoát khỏi vũng lầy Việt Nam, đưa họ trở về với đất nước và nhân dân Hoa Kỳ
Điều đáng kinh ngạc là cái Lương tri ấy rất gần gũi với lương tri Việt Nam được đúc kết bằng máu xương của cả dân tộc qua hàng ngàn năm chống đuổi xâm lược với tuyên ngôn độc lập đầu tiên được nhân dân tuyên đọc từ gần ngàn năm trước :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Cho dù chính phủ Mỹ toan tính như thế nào, ngoan cố, hậm hực, thù oán, lươn lẹo ra sao trước t́nh thế phải rút lui chẳng mấy danh dự, xét về ngữ nghĩa và xu thế phát triển các tương quan lực lượng : “Việt Nam hoá chiến tranh” cuối cùng có nghĩa là trao lại quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam. Mà nhân dân Việt Nam, chẳng c̣n con đường nào khác ngoài con đường độc lập, hoà b́nh, thống nhất đất nước, hoà giải – hoà hợp và dân chủ.
Ở bên kia bán cầu, cuộc đấu tranh Dân chủ và Hoà b́nh kết thúc. Phe chủ chiến Mỹ đă lùi bước. Phe chủ hoà, nhân dân và Lương tri Hoa Kỳ đă ḱm hăm được con ngựa bất kham do chính ḿnh bầu chọn là bộ máy chiến tranh hung hăng, lạm quyền và dối trá.
Ở bên này bán cầu, cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược lụi tàn. Đế quốc Mỹ đă thua. Nhân dân và đảng Cộng sản Việt Nam đă thắng. Cuộc vận động Dân chủ và cuộc chiến tranh vệ quốc ở hai bên bán cầu có liên hệ hữu cơ.
Điều vô cùng đáng tiếc là tiếp liền theo cuộc chiến tranh Nhân dân để làm nên những chiến thắng ấy, đảng Cộng sản đă đánh mất Lương tri khi lùa đẩy nhân dân bất kể thành phần chính trị (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) vào cái chuồng Xă Hội Chủ Nghĩa. Hành động như thế, đảng Cộng sản tự biến ḿnh thành kẻ phản bội tồi tệ nhất trong số những kẻ phản bội suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Vấn đề vô cùng bức thiết hiện nay là : nhân dân Việt Nam – người chủ cái Lương tri được un đúc và thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử dựng xây, bảo vệ, và phát triển – phải hành xử như thế nào để đẩy lùi t́nh trạng bị cai trị bởi một đảng không c̣n có lương tri, hầu nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi t́nh trạng suy sụp, tối tăm, lệ thuộc ngoại nhân (chủ yếu là Trung Quốc) nhục nhă như hiện tại. Nhân dân Việt Nam học được bài học ǵ từ cuộc chiến tranh vệ quốc vừa hào hùng – vừa bi đát kéo dài hơn thế kỉ ??? Nhân dân Việt Nam học bài học ǵ từ cuộc đấu tranh dân chủ, nhân đạo và hoà b́nh của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới, mà nếu không có nó, Mỹ sẽ khó mà thoát khỏi băi lầy Đông Dương, và Việt Nam c̣n lâu mới thấy được thống nhất và hoà b́nh ???
Chu Sơn
PHỤ TRƯƠNG
Bảo Đại được giáo dục, đào tạo và phục vụ như thế nào ?
Ở trang 200 (chương 5 – Bài học chín năm), Lê Xuân Khoa viết :
“ Như vậy, thật rơ ràng là bất công nếu cứ nhất định chụp cho Bảo Đại cái mũ “bù nh́n” hay tay sai của Pháp. Bảo Đại không phải là một nhà cách mạng v́ ông chỉ được đào tạo trong những điều kiện vương giả. Công bằng mà nói, Bảo Đại là một ông hoàng có ḷng yêu nước, tốt bụng, không giết hại ai, nhưng cũng là một ông hoàng ham chơi và nhu nhược ”
Dường như Lê Xuân Khoa đă lí luận không chặt chẽ và chính xác khi biện minh cho Bảo Đại qua những ḍng trên.
Trong lịch sử Việt Nam không chỉ có Bảo Đại mới “ được đào tạo và phục vụ trong những điều kiện vương giả ”. Và không phải tất cả những ông hoàng “ được đào tạo và phục vụ trong những điều kiện vương giả ” đều có một kết quả tất yếu là “ ham chơi và nhu nhược ” như Bảo Đại để rồi “ không trở thành nhà cách mạng ” như quan điểm của Lê Xuân Khoa. Nếu tất yếu lịch sử là như thế th́ triều Lư không có được Lư Thánh Tông…, triều Trần không có được Trần Nhân Tông…, triều Nguyễn không có được Gia Long, Minh Mệnh. Và đặc biệt, nếu tất yếu lịch sử là như thế th́ triều Nguyễn thời kỳ suy tàn không có được những vị vua yêu nước như Hàm Nghi, Duy Tân và cả Thành Thái.
Tất cả mọi ông hoàng đều được “ đào tạo và phục vụ trong những điều kiện vương giả ”. Đây là sự thật phổ biến. Nhưng tùy theo khí thế của từng thời đại và bối cảnh lịch sử cụ thể của nó mà từng ông hoàng một được tiếp nhận những nội dung và phương pháp giáo dục đào tạo khác nhau, được phục vụ trong những điều kiện vương giả khác nhau. Và cũng tùy theo bản chất của từng ông hoàng (yêu nước ít – nhiều, có – không, ham chơi hay cần cù, nhu nhược hay khí phách…) mà những cuộc “ đào tạo và phục vụ ” ấy có kết quả khác nhau.
Để phần viết thêm này ngắn gọn, tôi xin được phép không làm một so sánh những khác nhau trong công cuộc “ đào tạo và phục vụ ” … các ông hoàng qua các thời kỳ. Ở đây tôi chỉ tóm lược về “ công cuộc đào tạo và phục vụ ” …mà triều đ́nh Khải Định và thực dân Pháp đă dành cho hoàng tử Vĩnh Thụy, người sau này được đặt lên ngôi vua hiệu là Bảo Đại.
Vĩnh Thụy sinh năm 1913, cha là Khải Định, ông nội là Đồng Khánh – hai ông vua nổi tiếng tay sai và bù nh́n. Trước đó sáu năm và sau đó bốn năm, Hàm Nghi, Thành Thái rồi Duy Tân bị thực dân Pháp lưu đày v́ “ tội yêu nước ”. Đây là thời kỳ nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương chuyển dần sách lược từ b́nh định, khai thác thuộc địa ban đầu, qua thời kỳ ổn định, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác thực dân sâu rộng và khai hoá.
Đây là thời kỳ tại châu Á và trên thế giới bùng nổ những sự kiện to lớn tác động đến chính quốc và Đông Dương. (Nhật Bản nhờ duy tân nhanh chóng trở thành đế quốc tư bản tranh giành lợi quyền với các cường quốc phương Tây, xâm lược Triều Tiên, Trung Quốc, đánh bại Nga nhiều trận, nổi tiếng nhất là trận Lữ Thuận (1905), tham vọng bá quyền làm chủ châu Á với sách lược Đại Đông Á. Tại Trung Quốc, sau khi phong trào Duy Tân do Quang Tự, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và các đồng chí lănh đạo thất bại, phong trào Cộng hoà của Tôn Dật Tiên tiến hành cuộc cách mạng Tân Hợi thành công, lật đổ được Thanh triều (1911), nhân dân Trung quốc đương đầu với các cuộc xâm lược của Nhật và t́nh trạng đất nước tan hoang. Thế giới đại chiến lần thứ nhất xảy ra và kết thúc (1914 – 1919). Tại Nga, cuộc cách mạng do đảng Cộng Sản lănh đạo thành công, lật đổ được chế độ Sa hoàng (1917), xây dựng chính quyền Xô Viết, chủ trương cách mạng thế giới.
Tại Pháp phong trào đấu tranh dân chủ và nhân quyền phát triển mạnh mẽ, đảng Xă Hội rồi đảng Cộng Sản thành lập, tham dự vào chính trường, tác động mạnh mẽ và sâu rộng vào xă hội Pháp và các xứ thuộc địa.
Tại Đông Dương phong trào đấu tranh độc lập cũng có những bước chuyển biến mới. Bên cạnh khuynh hướng bạo động, khuynh hướng bất bạo động và đấu tranh chính trị, văn hoá, kinh tế, xă hội phát triển. Các phong trào chống thuế, Duy Tân, Đông Du, Đông kinh Nghĩa Thục phát động rầm rộ trước khi cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ vua Duy Tân do Thái Phiên và Trần cao Vân lănh đạo thất bại. Các nhà ái quốc bắt đầu nh́n ra thế giới văn minh, du nhập các sách báo, tài liệu cách mạng nước ngoài, xuất dương du học, liên lạc với các phong trào dân tộc và cách mạng châu Á và thế giới. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc chuyển dần sự lănh đạo từ tay các lănh tụ cựu học qua tay các trí thức tân học trẻ trung và đầy nhiệt huyết. Hai đảng cách mạng ra đời : Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng. Giới Phật tử bắt đầu chấn hưng Phật giáo để đưa đạo vào đời.
Trong bối cảnh đó, bên cạnh các sách lược về an ninh, kinh tế, tài chánh, hành chánh, chính phủ Pháp và nhà cầm quyền Đông Dương c̣n chủ trương một sách lược văn hoá chính trị lâu dài mệnh danh là khai hoá.
Khai hoá theo tư tưởng và sách lược của thực dân đế quốc Pháp là mở ra, lấy đi những ǵ đă tích lũy hàng ngàn năm (tinh hoa Việt – Nho, Việt – Phật) thành sức mạnh đề kháng dân tộc (Việt Nam). Thay vào đó là những học thuật, tư tưởng và t́nh tự mới rút tỉa từ kho tàng văn hoa, lich sử Pháp và phương Tây để từng bước biến người bản xứ thành người Pháp da vàng, và Đông Dương trong đó có Việt Nam trở thành lănh thổ ở Viễn Đông của nước mẹ Đại Pháp.
Để thực hiện và chủ trương và sách lược đó, năm 1917 chính phủ Pháp cử A. Sarraut sang làm Toàn quyền Đông Dương. A. Sarraut là một chính khách có học vấn uyên bác và đồng thời là một nhà thực dân mềm dẻo. Về chính trị Sarraut chủ trương Việt – Pháp đề huề. Về văn hoá, giáo dục, Sarraut buộc Nam triều băi bỏ hệ thồng giáo dục và các kỳ thi Hán – Nho, thúc đẩy nhà cầm quyền thuộc địa tiếp tục công cuộc cải cách giáo dục, mở rộng và phát triển hệ thống các trường tiểu học, trung học Pháp – Việt, các trường sơ, trung cấp hành chánh, sư phạm, y tế, kỹ thuật, canh nông và một số các trường Cao đẳng, Đại học (y dược, nông lâm, luật, mỹ thuật, sư phạm…) để qua đó đào tạo những công nhân lành nghề, thư lại, quan chức và các nhà chuyên môn hầu đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế, dịch vụ đang phát triển và guồng máy chính quyền thuộc địa cũng như Nam triều cần được mở rộng và đổi mới.
Trong đường hướng phát triển như thế, chính phủ Pháp, Toàn quyền Đông Dương, toà Khâm sứ Huế và bản thân Khải Định đều thấy rằng Vương triều cổ lỗ, lạc hậu An Nam cần được cải đổi, sơn phết lại, và người đứng đầu (Hoàng đế) của vương triều ấy (Bảo Đại) cần được đào tạo bài bản, kỹ lưỡng, công phu, biến ông ta thành biểu tượng sáng giá nhằm lôi kéo thật nhiều các tầng lớp nhân dân Việt Nam, đặc biệt tầng lớp trên, về phía chính quyền thuộc địa và nước mẹ Đại Pháp, đồng thời làm suy yếu và triệt tiêu các tổ chức, các mưu đồ “ phá rối trật tự trị an của bọn gian dân loạn đảng ”. Kinh nghiệm ba ông vua nổi loạn (Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân được sĩ phu và nhân dân ủng hộ), và hai ông vua bù nh́n cổ lỗ (Đồng Khánh, Khải Định) không được đông đảo quần chúng kính trọng và hậu thuẫn, nhà cầm quyền Pháp ở toà Khâm Huế, ở phủ Toàn quyền và ở chính quốc thấy rằng kinh phí để đào tạo và phục vụ một ông vua bù nh́n c̣n rẻ và nhẹ nhàng hơn rất nhiều kinh phí và công sức dành cho việc đánh dẹp, trấn áp và b́nh định.
Qua hơn nửa thế kỷ xâm chiếm và đô hộ Việt Nam, lần đầu tiên thực dân Pháp có được, nắm được một hoàng thái tử (Vĩnh Thụy) để tự do nhào nặn (đào tào) thành một hoàng đế (Bảo Đại) theo kế hoạch của ḿnh. Đây là một cơ hội ngàn vàng. Hơn nữa vị hoàng thái tử con tin này lại có những phẩm chất rất phù hợp với vai tṛ mà chính phủ Pháp và nhà cầm quyền thuộc địa sẽ dành cho ông. Vĩnh Thụy (Bảo Đại) khỏe mạnh, to cao, đẹp trai, dáng vẻ đường bệ, thông minh nhưng ham chơi, đặc biệt là nhu nhược và rất ít tham vọng quyền lực.
Vị hoàng đế (bù nh́n) tương lai này đối với dân chúng sẽ là một nhân vật tân tiến (như Tây), hào hoa phong nhă, một ông hoàng tốt bụng, không giết ai (như Lê Xuân Khoa nhận định) đồng thời là một đấng thiên tử thiêng liêng thần thánh, để quy phục càng nhiều càng tốt những thư lại, thị dân và thượng lưu trí thức Tây học ngày càng phát triển, và đám thần dân theo chủ nghĩa tôn quân c̣n tồn đọng (Một khi phía bên này đông hơn, mạnh hơn tất nhiên phía bên kia sẽ bớt đi, ít hơn, yếu hơn. Đó là nguyên lí đơn giản mà các nhà làm chiến tranh không thể không biết).
Đối với toà Khâm Huế, Toàn quyền Đông Dương và chính phủ Pháp, Bảo Đại sẽ là người cộng tác đắc lực nhằm thực hiện các sách lược an ninh chính trị, khai thác kinh tế và khai hoá con người nhằm mục đích tối hậu là Pháp hoá Đông Dương.
Đối với thế giới và cánh tả trong chính trường, xă hội Pháp, một Bảo Đại như thế và một triều đ́nh An Nam sẽ được cải đổi, tô vẽ lại theo mô h́nh và cách thức hoạt động do Toà khâm sứ và phủ Toàn quyền sáng chế ra sẽ là thành tựu của sứ mệnh khai hoá mà thực dân Pháp muốn tŕnh diễn và biện chính cho sách lược khai thác triệt để và toàn diện của họ (nhằm phục vụ các nhu cầu trước mắt và quyền lợi lâu dài của các phe phái thống trị tại chính quốc cũng như Đông Dương).
Để làm ra một ông vua như thế, Khải Định và các cấp thẩm quyền Pháp đă phải thực hiện một kế hoạch đào tạo hoàn chỉnh, công phu và tốn kém :
Năm 1922 Khải Định đưa Bảo Đại qua Tây để nhờ mẫu quốc nuôi dạy. Đây là cuộc đầu tư mang tính cách con tin nh́n từ hai phía đối tác. Chính phủ Pháp đă chỉ định, và Khải Định đă nhờ ông Charles đứng ra trông coi, chăm sóc, kèm cặp, hướng dẫn Vĩnh Thụy – Bảo Đại trong suốt thời gian vị Hoàng đế tương lai này lưu trú tại Paris. (Ông Charles là cựu khâm sứ Huế, là “ bạn thân ” của Khải Định, nay đă nghỉ hưu).
Ngoại trừ mấy tháng cuối năm 1925 được đưa về Việt Nam để đặt lên ngai vàng (tháng 1-1926) khi vua cha băng hà, mười năm đào tạo ở Pháp Vĩnh Thụy – Bảo Đại đă được :
– Trang bị một kiến thức phổ thông đầy đủ và những kỹ năng đại cương về chính trị và quản trị hành chánh tại các trường tiểu, trung và đại học chọn lọc.
– Trang bị một triết lư, kỹ năng, phong cách làm vua theo những tiêu chí do nhà nước thuộc địa đề ra (ông Charles là người phụ trách chính, cử nhân Lê Như Lâm phụ đạo),
– Làm quen và thực hành các môn thể dục, thể thao, các tṛ vui chơi giải trí và nhất là “ được phục vụ những điều kiện vương giả ” tại các trung tâm dành riêng cho các ông hoàng và con cháu các đại gia tư sản,
– Bảo vệ an ninh chặt chẽ hầu tránh những giao tiếp nguy hiểm với các phần tử “ xúi giặc ” đang hoạt động ráo riết tại Paris. Kinh nghiệm vua Duy Tân do Toà khâm sứ đă quản lư không chặt, đă để nhiều khe hở cho các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân lẻn vào vận động ông vua trẻ “ làm loạn ”. (Trong thời gian Vĩnh Thụy – Bảo Đại lưu trú tại Pháp, những phần tử dân tộc chủ nghĩa với sự hỗ trợ của cánh tả trong chính trường và xă hội Pháp hoạt động tích cực, nổi tiếng là nhóm “ Ngũ Long ” : Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Phan Châu Trinh đă viết thư “ Thất điều ” gởi tới Khải Định và công bố rộng răi trong dư luận nhằm tố cáo những tội lỗi khi ông vua bù nh́n này mới đặt chân lên đất Pháp).
Kết thúc mười năm học tập, đào tạo, Bảo Đại có được những kiến thức phổ thông của một người Pháp trung b́nh, một ông nửa Tây con – nửa Hoàng đế được trang bị một thứ “ triết lư cai trị Á đông ” mà ông Charles đă sáng tác riêng cho học tṛ cưng của ḿnh (Bảo Đại) :
“ Hoàng đế không cần phải có mặt để cho dân chúng biết là họ đang được cai trị. Lâu lâu – thường là rất hiếm – nhà vua mới cần xuất hiện công khai nhân những dịp tiếp kiến để chứng tỏ ḿnh c̣n tại vị… Ông Hoàng là nhịp cầu giữa trời và thần dân của ông… Trước hết ông phải tạo ở nơi ông sự an b́nh và hài hoà nếu ông muốn đem lại thái b́nh và hoà hợp trong dân chúng. Bởi thế ông cần phải giữ yên lặng để vừa có thể nghe được tiếng nói của dân nhiều hơn, vừa nắm bắt được các biến chuyển một cách thuận lợi hơn…” (LXK sđd tr 201-202).
Lê Xuân Khoa cho rằng Bảo Đại đă giải thích một cách ngụy biện “ quan niệm trị nước của một vị Hoàng đế ở Á Đông ” (LXK sđd tr 201). Thật ra chẳng hề có một quan niệm trị nước Á Đông nào có nội dung như trích đoạn ở trên cả. Nếu ở Á Đông mà các vị Hoàng tử được trang bị một thứ triết lư cai trị như thế th́ lấy đâu có một Trung Hoa, một Nhật Bản… và gần nhất là một Việt Nam với những triều đại Lư, Trần, Lê, Nguyễn… Đương nhiên, từ thời độc lập (trong một ngàn năm trở lại), trải qua các triều đại Lư,Trần, Lê, Nguyễn, ngoại trừ các vua quỷ, vua cơng rắn, vua bù nh́n, vua tay sai không nói làm ǵ, các vị vua sáng danh của đất nước, trong những chừng mực khác nhau đều đă vận dụng Khổng – Mạnh một cách chân thành (nhưng không sáng tạo), chứ không ngụy biện bằng thứ triết lư bịa đặt Á Đông như đoạn trích dẫn trên. Không khó để nhận biết thủ đoạn của bọn cầm quyền thuộc địa và bảo hộ khi, một mặt băi bỏ việc học hành thi cử theo hệ thống Hán – Nho mà triều đ́nh An Nam c̣n bảo lưu để cắt đứt nguồn mạch sức mạnh đề kháng dân tộc, một mặt nâng giá cho vua bù nh́n Khải Định bằng những chiến dịch tuyên truyền ồn ào (như phát hành đồng tiền Khải Định, tổ chức cho Khải Định tuần du Bắc Hà…) với những từ ngữ sáo rỗng đầy tính chất phỉnh nịnh mị dân để tạo dựng vai tṛ của ông ta trong công cuộc khai thác và đồng hoá. Vua như Khải Định mà bọn thực dân nắm thực quyền ở Toà khâm, ở phủ Toàn quyền và bọn quan lại lơ láo ở triều đ́nh An Nam luôn miệng tung hô Hoàng thượng, Hoàng đế, Thiên tử thiêng liêng và thần thánh.
Chính xác là : Công cuộc giáo hoá Vĩnh Thụy – Bảo Đại mười năm tại Pháp là để sắm sửa một Khải Định mới nhưng văn minh hơn, Tây hơn.
Khi mà Toà Khâm Huế, phủ Toàn quyền Đông Dương và bộ Thuộc địa giành hết mọi việc từ quốc pḥng, an ninh, ngoại giao, kinh tế, tài chánh, tư pháp, và cả văn hoá giáo dục th́ Hoàng đế chẳng c̣n việc ǵ để làm, nên “ không cần phải có mặt ”… trên đất nước và xuất hiện nhiều trước dân chúng. Do vậy mà Bảo Đại thường xuyên có mặt tại các nơi vui chơi, hưởng thụ như Côte d’Azur, Đà Lạt… Hoàng đế chỉ cần xuất hiện – “ lâu lâu thôi, rất hiếm ” – tại một nơi nào đó, nói năng ǵ đó mà nhà nước bảo hộ thấy cần và sắp đặt “ để cho dân chúng biết họ đang được cai trị ”. Hoàng đế là một nhân vật trung gian giữa trời và người, nên Hoàng đế không cần giằng xé (v́ thấy ḿnh không có việc ǵ để làm trong tư cách là vua một nước), cũng không nên phẫn nộ (v́ thấy dân nước bị lệ thuộc) nên “ Trước hết ông phải tạo nơi ông sự an b́nh và hài hoà nếu ông muốn đem lại thái b́nh và hoà hợp trong dân chúng ”. Và “ bởi thế, ông cần phải giữ yên lặng, để có thể vừa nghe được tiếng nói của dân nhiều hơn vừa nắm bắt được các biến chuyển thuận lợi hơn ” cho cá nhân ḿnh và bồ đoàn thê tử. Nếu không làm như những lời giáo huấn ấy mà “ dại dột làm loạn ” như Hàm Nghi, như Duy Tân, thậm chí “ nói năng càn dở và hành động điên loạn ” như Thành Thái th́ chỉ có rước họa vào thân : lưu đày.
Đoạn trích dẫn trên là những lời ru đồng thời là những răn đe mà chuyên viên huấn luyện Charles và sư phó Lê Như Lâm đă rót vào tai Vĩnh Thụy – Bảo Đại trong suốt 10 năm thực hiện nhiệm vụ bộ thuộc địa và Khải Định giao phó. Bảo Đại đă học thuộc những bài giảng của hai ông thầy và sau này đă “ trả bài ” mỗi khi bị chỉ trích từ phía dư luận – Lê Xuân Khoa đă đúng khi cho rằng Bảo Đại đă ngụy biện, nhưng Lê Xuân Khoa đă không làm rơ xuất xứ của những lời lẽ ngụy biện quái gở đó. Không làm rơ xuất xứ của những lời lẽ ngụy biện quái gở đó th́ độc giả đời sau khó mà hiểu hết thủ đoạn dùng người Việt trị người Việt của thực dân, đế quốc.
Kết quả công cuộc giáo huấn là như thế, c̣n việc “ phục vụ những nhu cầu vương giả ” cho Bảo Đại th́ như thế nào ? Theo Daniel Grandclement : 16 tuổi, Bảo Đại Đă sở hữu nhiều kiểu ô tô, đă lái xe, săn bắn thiện nghệ. Trước khi kết thúc thời kỳ đào tạo, Bảo Đại đă lái máy bay thành thạo, là người sáng lập câu lạc bộ du thuyền y-át, say mê tốc độ, cờ bạc, đàn bà, săn bắn, quần vợt, đàn đúm bạn bè.
Lúc thịnh thời (trong quá tŕnh thực hiện giải pháp Bảo Đại) Bảo Đại sở hữu 6 hoặc 7 chiếc máy bay (một chiếc DC3, một chiếc Viscount 700, một chiếc Sea Otter, thêm một chiếc DC3 và một chiếc Tiger Moth, một B24, một B29), hai du thuyền y-át và trên 10 ô tô (một chiếc Mercedes lớn, bốn chiếc Limousine Mỹ lớn, một chiếc Citroën, những chiếc Ferrari hay Bentley). Tất cả những ô tô, máy bay, du thuyền đó đều là những sản phẩm đặc biệt mà các công ty chuyên ngành đă sản xuất để dành riêng cho các vua chúa, hoàng tử, các trùm tư bản và hầu hết là quà tặng hay mua từ tiền bạc của chính phủ Pháp. Ngoài các động sản trên, Bảo Đại c̣n sở hữu các bất động sản như lâu đài Thorenc, dinh 1, dinh 2 ở Đà Lạt, lầu ông Hoàng ở Phan Thiết, nhà nghỉ mát ở Nha Trang, Bạch Mă và hàng chục vi–la ở nhiều thành phố khác tại Pháp cũng như tại Việt Nam.
Thưa giáo sư Lê Xuân Khoa, khi thực dân Pháp bỏ nhiều công của để giáo dục, đào tạo một ông hoàng ham chơi, nhu nhươc, phục vụ ông ta những điều kiện hưởng thụ vương giả như thế, xin hỏi giáo sư : Họ muốn biến Bảo Đại thành một ông hoàng yêu nước, hay một ông vua bù nh́n ? Lại nữa : Bảo Đại không hề từ chối bất cứ sự cung phụng nào, và đặc biệt, do ham chơi và nhu nhược, đă cộng tác với thực dân Pháp trong vai tṛ và nhiệm vụ được giao (cho dù tự nguyện hay bất đắc dĩ) th́ ông ta là vị vua yêu nước, hay là công cụ của bọn xâm lược?
Thư của tác giả Lê Xuân Khoa
Tất nhiên là cuốn sách của tôi, cũng như sách của bất cứ tác giả nào, cũng có những điểm bất toàn và những điểm cần được thảo luận. Tuy nhiên, tôi thấy không cần phải trả lời loạt bài này v́ mấy lư do chính sau đây :
1. Cuộc tranh căi sẽ kéo dài không biết đến bao giờ v́ tôi giữ vững quan điểm của tôi về nhũng vấn đề chính, như nội chiến và chiến tranh ủy nhiệm. Trong 10 năm qua, tôi đă nhận được nhiêu ư kiến của thân hữu và độc giả khắp nơi, trong và ngoài nước, hầu hết đều đồng ư với quan điểm của tôi. Có một số hiệu đính và nhận xét hữu ích mà tôi trân trọng ghi nhận và sẽ sửa đổi và bổ sung khi sách được tái bản lần sau.
2. Cuộc tranh căi về chiến tranh Việt Nam, dù có đáng được tiếp tục, cần được gác qua một bên trước nhiều vấn đề cấp bách liên quan đến sự tồn vong của đất nước. Quan trọng nhất là làm thế nào để đối phó với hiểm họa Trung Quốc và thay thế chế độ độc tài toàn trị. Chu Sơn có thể đă nhận ra những lỗi lầm tai hại của lănh đạo cộng sản, nhưng những nỗ lực của ông biện minh cho "chính nghĩa" cộng sản trong cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước" vào lúc này trở nên lạc lơng, vô duyên trong khi hiện tượng "tự diễn biến" hay "tự giác" đang lan rộng trong hàng ngũ đảng viên các cấp. Không phải là ngẫu nhiên khi cuốn sách của tôi có nhiều độc giả trong nước t́m đọc khiến trang blog AnhBaSàm đă xin phép tôi cho đăng dần từng chương để cho độc giả đọc không mất tiền từ đầu năm 2013. Tạp chí lịch sử Xưa và Nay của anh Dương Trung Quốc cũng đă trích đăng những trang tôi viết về chính phủ Trần Trọng Kim, chắc chắn là Ban Văn hóa Tư tưởng (và ông Chu Sơn) bực ḿnh không ít.
3. Sau bài Việt Nam: Cơ hội cuối cùng và những Đột phá cần thiết (tháng Sáu 2014), tôi đă thông báo trên các diễn đàn thân hữu là tôi sẽ không viết ǵ thêm về t́nh h́nh Việt Nam. Tôi cũng đă từ bỏ mọi hoạt động tinh nguyện bên ngoài, trừ một dự án NGO mà tôi cũng đă thật sự chấm dứt vai tṛ cố vấn cuối tuần qua. Ngoài vấn đề tuổi tác và sức khỏe, tôi c̣n phải lo hết công việc gia đ́nh v́ nhà tôi phải ngồi xe lăn không làm ǵ được. Thêm vào đó là tôi phải cố hoàn tất cuốn sách về lịch sử tị nạn và cộng đồng đă bỏ dở quá lâu. "Giă từ vũ khí" (mượn tên cuốn Farewell to Arms của Hemingway) bây giờ là đúng lúc, nếu không muốn nói là đă trễ.
Dù không trả lời ông Chu Sơn, tôi thấy cần phải đính chính một sai lầm quan trọng của tác giả này trong mục số VII: "Vấn đề ḥa giải ḥa hợp dân tộc". Sai lầm này có thể do ông Chu Sơn hiểu lầm hay cố ư xuyên tạc quan niệm của tôi về vấn đề này.
Chu Sơn viết : "Vậy th́ đặt vấn đề ḥa giải với 'chính quyền trong nước' như chủ trương của Lê Xuân Khoa là một việc làm, khó lí giải được, và vô cùng nguy hiểm đối vơi đại đa số nhân dân là đối tượng chuyên chính ngày càng siết chặt của 'chính quyền trong nước'". Nếu Chu Sơn đă đọc những bài tôi viết về ḥa giải dân tộc th́ ông đă phải thấy rơ là tôi đáp lại lời kêu gọi của các lănh đạo "chính quyền trong nước" với điều kiện là họ phải nh́n nhận những chính sách sai lầm trong quá khứ và phải thực thi dân chủ, nhân quyền. Để minh xác quan điểm của tôi về "vấn đề ḥa giải ḥa hợp dân tộc", không ǵ bằng cách đăng lại bài viết ngắn gọn của tôi trên tờ Diễn Đàn của anh để trả lời bài Chúng ta cần ḥa hợp, không cần ḥa giải của ông Bát Thạch Kiều ngày 3 tháng 5 năm 2013. Nguyên văn bài của tôi (đăng ngày 7.5.2013, chú thích của Diễn Đàn) như sau :
Hoà Hợp Và Hoà Giải
Lê Xuân Khoa
Trong bài, "Chúng ta cần hoà hợp, không cần hoà giải" của ông Bát Thạch Kiều (Diễn Đàn, 3.5.2013), tác giả nêu lên hai điểm then chốt :
1. Đại đa số người Việt hiện nay dù ở đâu cũng không c̣n chịu trách nhiệm ǵ về cuộc chiến đă qua, thế th́ c̣n cần ǵ nói đến hoà giải.
2. Đất nước đang cần hoà hợp hơn bao giờ hết để mọi người đồng ḷng phát triển kinh tế và giữ ǵn lănh thổ, (nhưng) không thể có hoà hợp nếu không có dân chủ.
Tôi chia sẻ ưu tư của tác giả nhưng có ư kiến khác như sau:
1.
Đúng là đại đa số người Việt hiện nay không chịu trách nhiệm ǵ về cuộc chiến đă qua nhưng họ đang phải chịu nhiều hậu quả tai hại, trực tiếp hay gián tiếp, do phe chiến thắng gây ra cho đất nước và dân tộc. Phe thắng trận, cụ thể là giới lănh đạo và hậu duệ của họ, qua bộ máy cai trị độc tài và tham nhũng, đang áp dụng chính sách nô lệ hoá toàn dân và kết tội những người yêu nước là kẻ thù.
Thế hệ người Việt sau 1975, dù không có trách nhiệm về cuộc chiến, vẫn có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của tổ quốc và quyền tự do, hạnh phúc của người dân. Thế hệ trẻ ở hải ngoại lại không thể quên những đau khổ, nhục nhằn mà gia đ́nh họ phải chịu sau ngày thống nhất, hay những thảm họa trên đường vượt thoát t́m tự do mà ít nhiều ǵ họ cũng là nạn nhân. Nhớ đến quá khứ đau thương ấy không phải để nuôi dưỡng thù hận mà chính v́ cần có "sự công chính của lịch sử" để đem lại sự hoà hợp dân tộc, nhờ vậy Việt Nam mới có thể trở thành một quốc gia giàu, mạnh và dân chủ.
Tuy nhiên, mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi chính quyền thật tâm nh́n nhận những sai lầm đă qua và hoà giải với những người yêu nước bất đồng chính kiến và những nạn nhân của chính sách bất công, tham nhũng. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, chính quyền cũng phải "hoá giải hận thù" bằng lới nói và hành động hoà giải cụ thể, thay v́ chỉ kêu gọi "hoà hợp một chiều" có tính cách chiêu hồi và khai thác "khúc ruột ngàn dặm." Chỉ riêng chuyện "hoà giải với những người đă nằm xuống" qua việc cho phép hội Vietnamese American Foundation (VAF) tu sửa Nghĩa trang quân đội miền nam ở Biên Hoà và cải táng hài cốt những người đă chết trong các trại tù cải tạo, đă phải mất 38 năm sau thống nhất mới thấy có kết quả sơ khởi (ở đây phải ghi nhận công lao của cố thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă mạnh mẽ can thiệp với chính quyền trung ương và địa phương mấy năm trước.)
Bởi vậy, không thể đặt vấn đề hoà hợp mà không đề cập đến vấn đề hoà giải: hoà giải giữa chính quyền với trí thức và nhân dân trong nước, giữa chính quyền và cộng đồng hải ngoại. Chính quyền phải đi bước trước, và kết quả của hoà giải là "win-win" chứ không phải "zero sum". Nói cách khác, hoà giải phải có trước hoà hợp v́ hoà hợp là kết quả đương nhiên của hoà giải.
2.
Vấn đề hoà hợp dân tộc không nhất thiết phải đặt ra v́ người Việt Nam trong và ngoài nước không chống nhau. Chỉ có chính quyền là gây chia rẽ, mâu thuẫn trong các thành phần dân tộc. Các thành phần dân tộc phải ư thức rơ được điều ấy và t́m cách liên kết với nhau th́ mới tạo được sức mạnh đối thoại hay đối kháng với chính quyền. Chỉ khi đó, chính quyền độc tài mới có thể thật ḷng nói chuyện hoà giải và thực hiện tiến tŕnh dân chủ hoá. Mẫu h́nh Myanmar sẽ có thể được dùng làm cơ sở thảo luận và áp dụng thích hợp ở Việt Nam.
Nếu chẳng may, chính quyền chọn quyết định dùng bạo lực để đàn áp nhân dân th́ đó chính là hành động tự sát.
Lê Xuân Khoa
Tôi chia sẻ ưu tư của tác giả nhưng có ư kiến khác như sau:
1.
Đúng là đại đa số người Việt hiện nay không chịu trách nhiệm ǵ về cuộc chiến đă qua nhưng họ đang phải chịu nhiều hậu quả tai hại, trực tiếp hay gián tiếp, do phe chiến thắng gây ra cho đất nước và dân tộc. Phe thắng trận, cụ thể là giới lănh đạo và hậu duệ của họ, qua bộ máy cai trị độc tài và tham nhũng, đang áp dụng chính sách nô lệ hoá toàn dân và kết tội những người yêu nước là kẻ thù.
Thế hệ người Việt sau 1975, dù không có trách nhiệm về cuộc chiến, vẫn có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của tổ quốc và quyền tự do, hạnh phúc của người dân. Thế hệ trẻ ở hải ngoại lại không thể quên những đau khổ, nhục nhằn mà gia đ́nh họ phải chịu sau ngày thống nhất, hay những thảm họa trên đường vượt thoát t́m tự do mà ít nhiều ǵ họ cũng là nạn nhân. Nhớ đến quá khứ đau thương ấy không phải để nuôi dưỡng thù hận mà chính v́ cần có "sự công chính của lịch sử" để đem lại sự hoà hợp dân tộc, nhờ vậy Việt Nam mới có thể trở thành một quốc gia giàu, mạnh và dân chủ.
Tuy nhiên, mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi chính quyền thật tâm nh́n nhận những sai lầm đă qua và hoà giải với những người yêu nước bất đồng chính kiến và những nạn nhân của chính sách bất công, tham nhũng. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, chính quyền cũng phải "hoá giải hận thù" bằng lới nói và hành động hoà giải cụ thể, thay v́ chỉ kêu gọi "hoà hợp một chiều" có tính cách chiêu hồi và khai thác "khúc ruột ngàn dặm." Chỉ riêng chuyện "hoà giải với những người đă nằm xuống" qua việc cho phép hội Vietnamese American Foundation (VAF) tu sửa Nghĩa trang quân đội miền nam ở Biên Hoà và cải táng hài cốt những người đă chết trong các trại tù cải tạo, đă phải mất 38 năm sau thống nhất mới thấy có kết quả sơ khởi (ở đây phải ghi nhận công lao của cố thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă mạnh mẽ can thiệp với chính quyền trung ương và địa phương mấy năm trước.)
Bởi vậy, không thể đặt vấn đề hoà hợp mà không đề cập đến vấn đề hoà giải: hoà giải giữa chính quyền với trí thức và nhân dân trong nước, giữa chính quyền và cộng đồng hải ngoại. Chính quyền phải đi bước trước, và kết quả của hoà giải là "win-win" chứ không phải "zero sum". Nói cách khác, hoà giải phải có trước hoà hợp v́ hoà hợp là kết quả đương nhiên của hoà giải.
2.
Vấn đề hoà hợp dân tộc không nhất thiết phải đặt ra v́ người Việt Nam trong và ngoài nước không chống nhau. Chỉ có chính quyền là gây chia rẽ, mâu thuẫn trong các thành phần dân tộc. Các thành phần dân tộc phải ư thức rơ được điều ấy và t́m cách liên kết với nhau th́ mới tạo được sức mạnh đối thoại hay đối kháng với chính quyền. Chỉ khi đó, chính quyền độc tài mới có thể thật ḷng nói chuyện hoà giải và thực hiện tiến tŕnh dân chủ hoá. Mẫu h́nh Myanmar sẽ có thể được dùng làm cơ sở thảo luận và áp dụng thích hợp ở Việt Nam.
Nếu chẳng may, chính quyền chọn quyết định dùng bạo lực để đàn áp nhân dân th́ đó chính là hành động tự sát.
Lê Xuân Khoa
11.11.2014.
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/