US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT
Phạm Huấn
Ngày 9 tháng 3, 1975.
Đó là một ngày Chúa Nhật. Sau bốn ngày tại mặt trận
B́nh Định, măi tối mịt hôm trước chúng tôi mới về tới Nha Trang. Và chúng tôi
vừa chết hụt khi chiếc trực thăng hầu như mất thăng bằng trong những cơn lốc
xoáy, lúc bay ngang qua Vũng Rô gần Tuy Ḥa.
Khi chuông điện thoại reo lên, nh́n đồng hồ mới 8
giờ sáng, mắt tôi cay xè và thật khó chịu. Giọng nói quen thuộc của Tân, một Sĩ
quan Tùy viên khác ở Nha Trang, và cũng là em vợ Tướng Phú vang lên từ đầu giây
bên kia:
- Ông Tướng mời anh vào bay gấp!
Ngừng lại một giây, Tân nói tiếp:
- Nhưng ông ấy mới chuẩn bị ăn sáng. Chừng 15 phút
nữa anh ra thẳng phi trường, tôi lái xe về cho. Ông Tướng bay C-47, tầu bay đậu
ở khu VIP bên dân sự!
Và
Tân cúp máy.
Tôi linh cảm thấy một chuyện ǵ quan trọng sắp sửa
xảy ra. T́nh h́nh quân sự tại chiến trương Cao nguyên sau khi Phước Long mất
thật nghiêm trọng. Các quốc lộ huyết mạch 19, 21 nối liền Cao nguyên và Duyên
hải đă bị cắt nhiều đoạn. Tỉnh Quảng Đức đang bị đe dọa nặng. Tại mặt trận B́nh
Định, các đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh gần như quần thảo hàng ngày với Sư đoàn
3 Sao Vàng của Công Sản Bắc Việt. Mặt trận Nam Pleiku, Bộ Tư lệnh Hành quân của
Sư đoàn 23 Bộ binh bị pháo liên miên.
Nghe tiếng sóng biển, nh́n qua cửa sổ của chiếc
trailer, tôi thấy chân trời xa tít, và nắng lên thật đẹp. Tôi bước ra ngoài.
Trước khi lái xe ra phi trường, tôi đă để ra giây phút nh́n cái trailer nằm sát
biển Nha Trang, v́ tự nhiên linh cảm rằng sẽ chẳng bao giờ trở lại đây nữa. Cái
trailer, hay đúng hơn là nơi nghỉ mát của một viên cố vấn Mỹ trước kia, ông
Tướng Tư lệnh phó đặc trách b́nh định phát triển, ông Tỉnh trưởng Khánh Ḥa đều
muốn nhận làm của riêng ḿnh. Nhưng Tướng Phú đă cho tôi "mượn" dùng làm nơi tạm
trú mỗi lần ghé Nha Trang.
8 giờ 40 sáng, chiếc C-47 từ băi đậu VIP phía dân
sự phi trường Nha Trang tiến ra phi đạo. Đây là chiếc máy bay chỉ huy của Đại
tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hoài. Mỗi năm cứ
mùa mưa đến, ông cho biệt phái chiếc Dakota 2 động cơ này lên cho Tư lệnh Quân
đoàn II sử dụng. Bởi v́ chiến trương Quân khu II gồm 2 mặt trận cao nguyên và
duyên hải; thời tiết luôn xấu và sương mù. Những khi khẩn cấp nếu sử dụng trực
thăng hoặc phi cơ nhỏ trên những chặng đường dài Pleiku, Phan Thiết, B́nh Định
phải bay rất lâu và nguy hiểm.
Lúc phi cơ sắp sửa cất cánh, Tướng Phú nói với tôi:
- Hôm nay ḿnh lên Ban Mê Thuột. Quận Đức Lập,
Quảng Đức hiện đang bị pháo rất nặng, có thể bị mất ...
Và ông hỏi Hóa, Sĩ quan Tùy viên, về cái lệnh mời
Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hiện là Tư lệnh mặt trận
nam Pleiku, và Đại tá Ngh́n, Tỉnh trưởng Quảng Đức và Ban Mê Thuột họp sáng nay.
Nh́n vẻ mặt đăm chiêu, nghiêm trọng của Tướng Phú,
tôi biết rằng Ban Mê Thuột sẽ vô cùng nguy ngập, nếu Đức Lập và Quảng Đức mất.
Tháng trước trong một buổi họp với Tư lệnh mặt trận
nam Pleiku, sau khi xếp đặt ưu tiên cho từng mặt trận, Tướng Phú đă ra lệnh cho
Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh về Ban Mê Thuột chỉ huy, và
tăng cường thêm cho Ban Mê Thuột một đơn vị pháo binh 155 ly.
9 giờ 45 phút Tướng Phú tới phi trường Phụng Dực.
Sau những cái bắt tay vội vă, ông cùng với Chuẩn
tướng Lê Trung Tường và Đại tá Nguyễn Công Luật, Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột về Bộ
Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.
Khi đoàn xe đi ngang qua dinh Tỉnh trưởng, thấy một
số sĩ quan mặc đồ trắng đánh tennis, Tướng Phú tỏ vẻ khó chịu, và ngay lập tức
ra lệnh cấm trại 100%. Tới Bộ Tư lệnh Sư đoàn, ông hối hả bước vào Trung tâm
Hành quân.
T́nh h́nh Đức Lập vô cùng nguy ngập. Các đồn phụ đă
bị "bứt". Chi khu bị pháo từ 6 giờ sáng, và quân chính qui Cộng sản Bắc Việt
đánh "trận địa chiến", và đánh ban ngày. Tiểu đoàn Địa phương quân đóng tại Núi
Lửa cách Đức Lập 9 cây số bị địch tràn ngập sau một trận đánh đẫm máu. Thiếu tá
Tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác bị Việt cộng sát hại.
Tương Phú bốc máy liên hợp và liên lạc thẳng với
Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng quận Đức Lập. Ông được báo cáo Trung tá
Quận trưởng đă bị thương, hiện ở ngoài chỉ huy và điều khiển nhưng khẩu đại bác
105 ly bắn trực xạ vào Cộng quân.
Đúng 10 giờ 30 phút sáng, quận Đức Lập biến thành
biển lửa. Từ 12 giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày 9 tháng 3, 1975, Tướng Phú họp với
Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, các Tiểu khu trưởng Ban Mê Thuột và Quảng Đức để
duyệt xét t́nh h́nh các mặt trận.
Sau khi chấp nhận những đề nghị của các giới chức
liên hệ và cho những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh cho Đại tá Ngh́n, Tỉnh
trưởng Quảng Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột, để cho có sự thống nhất chỉ
huy, Tương Phú bổ nhiệm Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 làm Tư lệnh chiến
trường Ban Mê Thuột.
Các Tư lệnh mặt trận phải ra lệnh đôn đốc các đơn
vị chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng liên tiếp; tổ chức những cuộc
hành quân xa ngoài thị xă và vị trí pḥng thủ.
Kho xăng, kho đạn phải được phân tán, đề pḥng đặc
công Cộng sản Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân luật mỗi nơi được ủy nhiệm cho
các Tư lệnh mặt trận toàn quyền định đoạt.
Hai quyết định quan trọng khác của Tướng Phú:
1. Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột tùy theo t́nh
h́nh, nếu cần cho phá hủy cầu 14 trên đường Quảng Dưc-Ban Mê Thuọt để làm chậm
sức tiến của chiến xa địch.
2. Tư lệnh mặt trân Kontum tăng phái một Liên đoàn
Biệt động quân cho mặt trận Ban Mê Thuột. Và Liên đoàn Biệt động quân này phải
được đổ xuống Buôn Hô ngay chiều nay.
Sự có mặt của Tướng Phú tại Ban Mê Thuột ngày hôm
nay, 9 tháng 3, 1975 với những quyết định có tính cách quan trọng và cấp bách
ông vừa ban hành là cái "bén nhậy" của một tướng mặt trận, một vị Tư lệnh có
kinh nghiệm chiến trường.
Ông làm việc liên miên ngay từ khi tới Bộ Tư lệnh
Sư đoàn 23 Bộ binh. Khi quyết định tăng phái cho Ban Mê Thuột một Liên đoàn Biệt
đông quân, vừa cầm dĩa cơm trên tay, vừa gọi máy ra lệnh cho Tư lệnh mặt trận
Kontum cho các Tiểu đoàn Chiến đấu của Liên đoàn Biệt động quân được tăng phái,
chuẩn bị di chuyển trong 2 giờ sắp tới.
Sau đó, ông cũng đích thân liên lạc với Tướng Sang,
Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân ở Pleiku, để vận dụng tất cả trực thăng cho cuộc đổ
quân được hoàn tất thật nhanh. V́ thế, đợt đổ quân đầu tiên của Liên đoàn 2 Biệt
động quân xuống Buôn Hô đă được thực hiện ngay chiều ngày 9 tháng 3, 1975.
6 giờ chiều ngày 9 tháng 3, 1975 rời Ban Mê Thuột,
Tương Phú ra lệnh bay thẳng lên Pleiku, thay v́ trở lại Nha Trang nghỉ dưỡng
sức. Và ngay buổi tối, ông vào làm việc, ở luông trong chiếc "bunker", chiếc hầm
nổi chống pháo kích của Tư lệnh Quân đoàn c̣n đang làm dở dang, sát với Trung
tâm Hành quân. Lệnh cấm trại 100% được ban hành.
Từ lúc trở lại Pleiku, Tướng Phú có vẻ bồn chồn lo
nghĩ. Ông hút thuốc lá liên miên. 9 giờ tối, khi được báo cáo Liên đoàn 21 Biệt
động quân tăng cường cho mặt trận Ban Mê Thuột đă được trực thăng bốc từ bắc
Kontum thả xuống Buôn Hô, Tướng Phú thở phào nhẹ nhơm, và nói một ḿnh:
- May ra th́ ... c̣n kịp!
Rồi quay sang phía tôi:
- Này, "ông nhà báo", ḿnh làm một tẩy mạt chược,
khánh thành chiếc "bunker" mới!
Tiếp đó, ông ra lệnh cho Thiếu tá Hóa, Sĩ quan Tùy
viên:
- Hóa! Chú mày điện thoại mời Đại tá Tham mưu
trưởng và gọi Vinh. Bảo tụi nhỏ kiếm cái bàn vuông, bàn "dă chiến" cũng được.
Hóa có vẻ ngần ngại:
- Hôm nay Thiếu tướng bay từ sáng sớm, và giờ khuya
rồi, tôi sợ Thiếu tướng mệt.
- Ồ! ăn thua ǵ, hôm nay tôi muốn thức khuya, chú
mày đừng làm ta xui xẻo!
Hóa không nói thêm nữa, lẳng lặng gọi điện thoại
mời Đại tá Lư và Thiếu tá Vinh, Chánh Văn pḥng Tư lệnh Quân đoàn. Hóa là Sĩ
quan Tùy viên của Tướng Phú từ hồi c̣n ở Sư đoàn 1; người miền Trung, ít nói,
tính lầm ĺ và rất chịu khó làm việc.
Tướng Phú là người sống b́nh dị, khắc khổ, không
uống rượu, ăn chơi. Cái thú duy nhất của ông là hút thuốc lá và thỉnh thoảnh
đưỢc xoa vài tẩy mạt chược, "ăn thua" tượng trưng. Đây là môn "thể thao" vừa
giải trí, vừa đấu trí! Canh mạt chược đêm 9 tháng 3, 1975 kéo dài khoảng hai giờ
đồng hồ.
Và đó cũng là lần cuối cùng Tướng Phú được hưởng
cái thú tiêu khiển này. Ông bị thua, thua cả ... 3 người!
Gần 1 giờ sáng, Tướng Phú gọi ra lệnh cho Đại tá
Phạm Duy Tất, Tư lệnh mặt trận bắc Kontum:
- Anh nhớ theo dơi "thằng con" anh mới rời Kontum
anh chiều nay. Bắt nó phải "bung" ra hoạt động ngay. Ngày mai tôi sẽ ra lệnh Đại
tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 mang bộ chỉ huy hành quân lên đó ...
- ...
- Tôi nghe nói "thằng cha Dậu" là con gà chết. Nếu
anh thấy hắn ta chỉ huy không được th́ nên thay thế ngay. Đừng che chở, kẻo hỏng
việc hết!
- Tôi xin tuân lệnh Thiếu tướng!
Đại tá Phạm Duy Tất, Tư lệnh mặt trận bắc Kontum và
cũng là chỉ huy trưởng Lực lương Biệt động quân, Quân khu II. Trung tá Dậu, Liên
đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động quân vừa được thả xuống Buôn Hô, đông bắc Ban
Mê Thuột, và mới nắm quyền chỉ huy Liên đoàn Biệt động quân hơn 1 tháng nay!
30 ngày trước khi Cộng
quân tấn công Ban Mê Thuột, khi chưa bị rối loạn, chưa ban hành quyết định rút
Cao nguyên, bỏ Huế; Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă đi khắp 4 Vùng Chiến thuật để
ăn tất niên ngoài tiền tuyến với binh sĩ. Tại mặt trận bắc Kontum, vùng biên
giới Lào-Việt, Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Chiến trường Cao nguyên, hướng dẫn
Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa tới thăm một đơn vị Biệt động quân trên tuyến đầu.
"Người Lính Kèn" của Trường Vơ Bị Đà Lạt
10 giờ 30 phút sáng ngày 9 tháng
3, 1975, quận Đức Lập tỉnh Quảng Đức biến thành biển lửa. Trước đó, hai viên đại
bác 82 ly không giật của Bắc quân bắn trúng đài chỉ huy chi khu.
Đài chỉ huy sập. Người Sĩ quan An ninh tử trận tại
chỗ. Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng bị thương, nhúng đầu vào lu nước,
thoát ra ngoài. Ông Quận trưởng đích thân chỉ huy và điều khiển hai khẩu đại bác
105 ly, bắn trực xạ, ngăn chận những đợt xung phong biển người của quân Cộng sản
Bắc Việt.
Bốn ngày trước, 5 tháng 3, 1975 một cuộc phục kích
tại phía đông Buôn Dak Gang cách bắc Đức Lập 10 cây số. Lực lượng chi khu đă bắt
được một tù binh thuộc Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt, và tài liệu tiết lộ Bắc
quân sẽ đại tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột, mở đầu chiến dịch Tây Nguyên
1975. Nhưng nguồn tin này, cũng như nguồn tin t́nh báo tương tự của tiểu khu Ban
Mê Thuột, khi khai thác một sĩ quan tù binh Cộng sản Bắc Việt trong toán tiền
thám của Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ tại Bắc Ban Mê Thuột (tù binh Bắc Việt bị bắt
ngày 7 tháng 3, 1975), đă không được Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn
II "xếp hạng" là những nguồn tin quan trọng.
Hôm nay Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt nhất định san
bằng quận Đức Lập để tiến quân về Ban Mê Thuột. Các công sự pḥng thủ trên mặt
đất sập hết, nhưng Quận trưởng Nguyễn Cao Vực và các chiến hữu của ḿnh vẫn cầm
cự chiến đấu dai dẳng ở các giao thông hào.
Nguyễn Cao Vực, người "pháo thủ" của các chiến trường Chiến khu D 1960, Bu Prang
1968, Kontum 1972, cũng lính là "anh lính kèn người Thượng" với cái tên "Cai
Son" của sinh viên sĩ quan khóa 13 trường Vơ Bị Đà Lạt. Hạ sĩ Son, anh lính kèn
là người đă mang đến cho các sinh viên sĩ quan những giây phút vui buồn đáng nhớ
mỗi ngày. Từ điệu kèn báo thức, tập hợp đi ăn, cũng như mặc đồ trận, đeo ba lô
buổi tối tŕnh diện dă chiến khi bị phạt ... Nguyễn Cao Vực là người có sắc diện
như một cái cột nhà cháy, nên được bạn bè đặt cho cái tên là "Cai Son". Và anh
rất thích cái tên đó.
Tôi có khá nhiều kỷ niệm với Vực, v́ cùng một trung
đội trong hai năm học tại trường. Đầu năm 1960, khi tôi hướng dẫn Dickey Chapel
- người nữ Phóng viên kỳ tài của thế giới, đă từng nhảy dù theo một lực lượng Mỹ
xuống Okinawa trong trận Thế chiến II - đi hành quân tại chiến khu D, với một
đơn vị nổi danh của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa thời đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư
đoàn 5 Bộ binh, th́ Vực là Pháo đội trưởng Pháo đội 105 ly, tăng cường cho đơn
vị này.
Thiếu tá Nguyễn Văn Tư, Trung đoàn trưởng đă giới
thiệu với chúng tôi hai quân nhân thiện chiến và "ch́" nhất của Trung đoàn. Đó
là Trung úy Bác sĩ Lê Đ́nh Kỳ và Pháo đội trưởng Nguyễn Cao Vực. Bác sĩ Kỳ là
ngươi không thích hành nghề chuyên môn mà chỉ thích truyện trận mạc. C̣n Vực
được mệnh danh là một Pháo đội trưởng ĺ lợm, thiện xạ, bắn đâu trúng đó.
Một tuần lễ đi hành quân với Trung đoàn 8 Bộ binh
trong Chiên khu D, Dickey Chapel và tôi thương ăn và ngủ chung với Bộ Chỉ huy
của Trung đoàn, gồm Thiếu tá Tư, Bác sĩ Kỳ, Trung úy Vực, và Hiền. Hiền là Sĩ
quan Hành quân của Trung đoàn và cũng tốt nghiệp khóa 13 Vơ bị Đà Lạt.
Trong sáu người chúng tôi, lần lượt Đại úy Hiền,
Đại tá Tư đều tử trận. Họ đă hy sinh tại vùng đất và đơn vị mà họ đă chiến đấu,
phục vụ nhiều năm. Dickey Chapel, người mà tôi kính trọng như một người chị
trong nghề phóng viên chiến tranh, cũng vĩnh viễn ở lại Việt Nam trên "dăy phố
buồn thiu" ngoài chiến trương miền Trung.
Hôm nay đến lượt Nguyễn Cao Vực. Anh là một Quận
trưởng bất đắc dĩ. Anh đă bị thả xuống Đức Lập, và trở thành Quận trưởng dù muốn
hay không, giữa năm Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Và có thể đây là trận chót trong đời binh nghiệp
người pháo thủ tài ba của Sư đoàn 5 Bộ binh, của chiến trường Cao nguyên, đă lại
có dịp thi thố cái khả năng chuyên môn của ḿnh. Hai khẩu đại bác 105 ly bắn
trực xạ vào các đơn vị tiền phong Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt chắc chắn đă có
một sự đánh đổi cân xứng trước khi và các chiến hữu của ḿnh vùi ngập trong biển
lửa.
Tôi tự hỏi, nếu Vực không thoát được trong trận
này, c̣n lại Bác sĩ Lê Đ́nh Kỳ và tôi, ai sẽ là người sống sót sau cùng, sau 20
năm chiến tranh dài của một đời người?
Ngày 10 tháng 3, 1975
Những trận mưa pháo vào Ban Mê Thuột từ 2 giờ đến 4
giờ sáng rạng ngày 10 tháng 3, 1975 đă gây kinh hoàng cho mấy chục ngàn quân
cũng như dân, hiện đang có mặt tại thị xă này.
Sau đó là những chiến xa đủ loại, băng rừng, nghiền
nát các ngả đường, để các lực lượng của những Sư đoàn 320, 316 Cộng sản Bắc Việt
ào ạt tiến vào.
Nhưng, những người kinh hoàng và đau đớn nhất là
hai cấp chỉ huy có trách nhiệm pḥng thủ Ban Mê Thuột: Đại tá Vũ Thế Quang và
Đại tá Vũ Công Luật!
Đại tá Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ban
Mê Thuột là một Sĩ quan Thiết giáp kỳ cựu của Quân lực Viêtn Nam Công Ḥa. Lữ
đoàn trưởng Lữ đoàn I Thiết kỵ trong cuộc hành quân sang Lào 1971, người mà báo
chí Việt Nam và ngoại quốc gọi là "Patton Việt Nam". Patton là danh tướng Thiết
giáp của Mỹ trong Thế Chiến II. Đại tá Luật đă từng chỉ huy một Lực lượng Thiết
giáp quan trọng và tối tân nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, với những Thiết
đoàn M48, M41 chiến xa trong cuộc tiến quân này.
Đêm nay Bắc quân đánh trận địa chiến vơi chiến xa
nặng, với chiến thuật biển người, th́ trong tay ông vỏn vẹn có được hai Chi đội
Thiết vận xa M113 và những xe bọc sắt tuần tiễu của Địa phương quân. Một thứ "đồ
chơi con nít" nếu so sánh với loại Thiết giáp tối tân T54 của Nga Sô mà Cộng sản
Bắc Việt hiện đang sử dụng!
Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh
và Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột khi nghe những tiếng đạn bay xé không gian, nổ
tại phi trường L19, trước tiểu khu, bộ Tư lệnh Sư đoàn, đă thấy ngay cái giá mà
lực lương pḥng thủ phải trả. Bởi v́ những khẩu đại bác 122 ly, 130 ly của Bắc
quân đă kéo sát tới thị xă!
Những tiếng đại pháo của địch nổ tại Ban Mê Thuột
cũng đă làm cho các tướng lănh nắm vận mạng Đất Nước bừng tỉnh. Họ tạm quên đi
những hận thù, những tranh giành quyền hạn, phe phái. Tất cả đều hướng về mặt
trận này!
Lệnh của Đại tướng Cao Văn Viên từ Bộ Tổng Tham Mưu
Quân lực Viêt Nam Cộng Ḥa được truyền đi lúc 7 giờ sáng. Của Tướng Trần Thiện
Khiêm, Thủ tướng Chính phủ gọi từ Đà Lạt lúc 8 giờ 40 phút. Của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu gọi từ Dinh Độc Lập lúc 10 giờ 10 phút, và 19 giờ tối.
Trận đánh quyết định giữa hai miền Nam-Bắc đă xảy
ra. Nhưng lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch, như trứng chọi với đá nếu so
sánh cả về quân số, vũ khí, chiến cụ. Địch đă ở thế thượng phong ngay từ lúc
đầu!
Tuy nhiên, trong ngày đầu tinh thần chiến đấu của
các dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh, sự gan dạ của những phi công anh hùng A37,
của những chiến sĩ Địa phương quân tiểu khu Darlac, đă làm cho Bắc quân kinh
ngạc, nể v́. Những tin tức phấn khởi bay đi khắp nước ngay khi "những cánh đại
bàng" xuất hiện trên vùng trời Ban Mê Thuột.
Phi tuần phản lực A37 đầu tiên đă bắn cháy hai
chiến xa, và hai cỗ đại bác pḥng không của Cộng sản Bắc Việt ngay trong thị xă
lúc 11 giờ 30 phút. Hai chiến xa khác cũng do không quân đánh bom trúng tại 2
cây số tây bắc Ban Mê Thuột. Lực lương Địa phương quân Darlac đă tạo một bất ngờ
lúc 11 giờ trưa khi bắn cháy một T54 trước bộ Chỉ huy Tiểu khu ngay trên đường
Thống Nhất!
Trận "thử sức" của các trung đoàn tiền phong quân
chính quy thuộc Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ và những "dũng sĩ" Trung đoàn 53 Bộ
binh trên pḥng tuyến quanh phi trường Phụng Dực xảy ra lúc 14 giờ.
Mở đầu là những trận mưa pháo, cầy nát sân bay.
Từng đoàn chiến xa của Bắc quân gầm thét, di chuyển theo đội h́nh từ khắp ngả
tiến vào.
Nhưng tinh thần các chiến sĩ ta không hề nao núng.
Đây cũng không phải là "trận thư hùng" đầu tiên của các đơn vị tinh nhuệ của ta
và địch.
Bởi v́ trước khi rút về pḥng thủ phi trường Phung
Dực, Trung đoàn 53 tăng phái cho mặt trận Quảng Đức đă đụng độ với các trung
đoàn chủ lực của Sư đoàn F10 rất nhiều lần trong những tháng trước, và mấy ngày
mới đây với Sư đoàn 320 của Cộng sản Bắc Việt tại Đông Bắc Ban Mê Thuột.
Sau gần 2 giờ quần thảo, Trung đoàn 53 Bộ binh đă
đẩy lui 3 đợt xung phong biển người của địch. 15 giờ 30, Bắc quân chém vè, để
lại trên 200 xác và 50 vũ khí đủ loại, 4 chiến xa Cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy.
Báo cáo chiến thắng về Trung tâm Hành quân Quân
đoàn II bằng hệ thống điện thoại viễn liên từ phi trường Phụng Dực, "người lính
số 1" của Trung đoàn 53 Bộ binh, một trong những anh hùng của mặt trận Ban Mê
Thuột, Trung tá Vơ Ân, Trung đoàn trưởng nói với Tướng Phú:
- Tŕnh "Mặt Trời", những "đứa con" của tôi sứt mẻ
chút ít, nhưng tinh thần rất cao.Trận đánh vừa kết thúc. Hơn 200 xác Việt cộng
c̣n để nguyên ngoài chiến trường. Vũ khí tịch thu tôi đă cho kéo về pḥng danh
dự của phi cảng để "triển lảm"! Trong đó có cả 3 đại bác pḥng không và 4 hỏa
tiễn SA7 c̣n mới nguyên.
Tướng Phú vui mưng lộ trên nét mặt. Ông khen ngợi
và ra lệnh cho Ân bằng một giọng hết sức thân mật:
- "Chú mày" giỏi lắm! Chuyển lời khen của tôi đến
anh em. Ráng lên! Sau trận này mỗi người lên một cấp. Nhưng không được khinh
thường địch quân! Phải chuẩn bị và đề pḥng tối đa ngay! Rơ chưa?
- Tŕnh "Mặt Trời", tôi nhận rơ!
Tướng Phú cúp máy. Trung tá Vơ Ân trở ra chiến hào
pḥng thủ cùng với các chiến hữu của ḿnh.
Tuy nhiên chiến thắng trên đây chỉ là một may mắn
đặc biệt, một chiến thắng sau cùng của Trung đoàn 5e Bộ binh trong trận đánh
quyết định giữa hai miên Nam-Bắc năm 1975.
Ngày 10 tháng 3, 1975 là một ngày cực kỳ sôi động
trên chiến trương Cao nguyên. Trong lịch sử 30 năm chiến tranh Việt Nam kể từ
hồi c̣n quân đội Pháp, chưa bao giờ có những trận đánh đồng loạt, dồn dập như
vậy.
Ngoài mặt trận chính Ban Mê Thuột, Cộng quân tấn
công khắp nơi. Các trận bắc Kontum, nam Pleiku, bắc B́nh Định, Quảng Đức và trên
2 quốc lộ 19, 21 đều bị áp lực nặng nề.
Tiểu khu Ban Mê Thuột bị mất liên lạc lúc 12 giờ
trưa. Những đoàn xe chở quân của Bắc Việt vẫn tiếp tục tiến về Ban Mê Thuột.
Lệnh phá cầu 14 trên quốc lộ nối liền Quảng Dức-Ban Mê Thuột được ban hành.
Những trận pháo kích, đụng độ nặng nề quanh Căn cứ 93 phía nam Pleiku kéo dài
suốt ngày.
15 giờ 15 phú, phi trường Cù Hanh, Pleiku bị pháo.
Một trực thăng và một dăy nhà bị cháy, một Dakota bị hư hại.
18 giờ 20 phút, Cộng quân pháo trúng Bộ Tư lệnh
Quân đoàn, khu câu lạc bộ sĩ quan và Bộ Chỉ huy Không trợ II. Thị xă Pleiku
thiết quân luật 9 giờ tối.
Tại mặt trận B́nh Định, Trung đoàn 42 và 47 giao
tranh suốt ngày với các đơn vị Cộng sản Bắc Việt và hạ 200 tên tại thung lũng
Vĩnh Thạnh. Sư đoàn 22 Bộ binh hiện đă trực diện với Sư đoàn 3 Sao Vàng, các
trung đoàn biệt lập của Bắc Việt tại Quân khu 5.
Một tin chấn động khác, 17 chiến xa Cộng sản Bắc
Việt xuất hiện gần Phù Cát, B́nh Định lúc 5 giờ 30 chiều.
Tổng kết tại mặt trận Ban Mê Thuột trong ngày đầu
cùng với chiến thắng của Trung đoàn 53 Bộ binh, thêm 100 Cộng quân khác bị hạ
trước tiểu khu, trước khi tiểu khu Darlac bị mất liên lạc, và trước dinh Tỉnh
trưởng, gần sát với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 12 chiến xa Cộng sản Bắc Việt
bị bắn cháy, trong số đó có 11 cái do Không quân đánh bom trúng.
Những lệnh cuối cùng trong ngày Tướng Phú chỉ thị
cho Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh mặt trận nam Pleiku và Tỉnh trưởng không được
lùi khỏi Căn cứ 93 trên tuyến pḥng thủ Bộ Tư lệnh Quân đoàn và thị xă này. Liên
Đoàn 21 Biệt động quân đă từ Buôn Hô di chuyển về gần tới Ban Mê Thuột bằng mọi
giá phải tái chiếm bộ chỉ huy tiểu khu và kho đạn Ban Mê Thuột.
19 giờ tối, Tổng Thống Thiệu từ Saigon gọi lên chỉ
thị cho Tư lệnh Quân đoàn II giải quyết chiến trường Ban Mê Thuột mau lẹ (?)
Giây Phút Cuối Cùng của Tư Lệnh Mặt Trận Ban Mê
Thuột
Ngày 11 tháng 3, 1975.
Trận đánh đẫm máu thư 2 giữa Trung đoàn 53 Bộ binh
và một lực lương quân chính qui Cộng sản Bắc Việt đă được tăng cường đông hơn
gấp 10 lần, xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn
316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc Việt tại mặt trận phi trường Phụng Dực trên
chiến trường Cao nguyên.
Sư đoàn 316 tổng trừ bị Cộng sản Bắc Việt vừa di
chuyển từ miền Bắc vào, và mới tới trận địa hồi đêm. Những báo cáo tiên khởi
trong 2 giờ đầu cho biết Trung đoàn 53 Bộ binh bị thiệt hại quá nặng.
7 giờ 45 phút sáng, đích thân Tư lệng mặt trận Ban
Mê Thuọt, Đại tá Vũ Thế Quang gọi lên Trung tâm Hành quân Quân đoàn II cho biết
t́nh h́nh vô cùng nguy ngập. 10 chiến xa Cộng sản Bắc Việt đang bắn trực xạ vào
Bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Người sử dụng máy siêu tần số lúc đó là Trung tá
Không quân Nguyễn Văn Giang, Giám đốc Không trợ II. Bằng những ngụy thoại, ông
cho biết đoàn phản lực cơ cất cánh từ Nha Trang đang trên đường, và sắp tới vùng
trời Ban Mê Thuột.
7 giờ 55 phút, hai chiếc phản lực cơ A37 lao xuống
mục tiêu, những chiến xa Cộng sản Bắc Việt, và đánh vô cùng chính xác. Nhưng chỉ
mấy phút sau, bỗng nghe Đại tá Quang hét lên trong máy truyền tin:
- Ơ!... "nó" đánh trúng tôi!!!
8 giờ. Đó là giờ phút của "định mệnh". Hai trái bom
đă thả trúng hầm Chỉ huy và Truyền tin của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột. Và
Trung tâm Hành quân Quân đoàn II mất liên lạc với Ban Mê Thuột từ lúc đó.
Nghe câu nói sau cùng của Quang, tự nhiên tôi thấy
đau ḷng và đưa mắt nh́n Giang. Quang, Giang và tôi đều là bạn.
Quang với biệt danh "Quang dù", là người lính của
chiến trường và thành phố trong 2 thập niên 1955-1975. Trước năm 1960 khi chiến
tranh c̣n ở cấp tiểu đoàn, một số sĩ quan trong các binh chủng Không quân, Nhảy
Dù rất nổi tiếng trong cả hai lănh vực: ăn chơi và đánh giặc. Tên tuổi họ trở
thành những nhân vật trong tiểu thuyết, các phóng sự với những biệt danh riêng.
Chẳng hạn như: Cương "khểnh", Hợi "voi", Quang "dù", Hùng "sùi", Giang "nám" ...
Thơi gian ở Nhảy Dù, Quang là một Tiểu đoàn trưởng
trung b́nh, nhưng là người có một "nghệ thuật sống" siêu đẳng. Anh luôn luôn tự
chế và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Cuối năm 1963, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đang
được tái huấn luyện tại Trung tâm Vạn Kiếp, mới được tạm thơi giữ chức vụ Tiểu
đoàn trưởng, anh đă liều lĩnh mang tiểu đoàn về Saigon tham gia đảo chánh. Nhưng
công trạng của anh chỉ được biết đến khi Tướng Nguyễn Cao Kỳ được bổ nhiệm làm
Tư lệnh Không quân.
Rồi sau đó, khi trở thành Thủ tướng, ông Kỳ đă đề
cử Quang chỉ huy Liên đoàn An ninh Danh dự. Đường hoạn lộ chim bay từ đó!
Nhưng phải nói anh là người đàng hoàng, trung trực.
Khi ông Kỳ bị ông Thiệu hất cẳng, cho "ngồi chơi sơi nước", một bất ngờ, anh
được ông Thiệu cho đi làm Thị trưởng Cam Ranh. Anh vào Tân Sơn Nhất hỏi ư kiến
ông Kỳ. Không may cho anh, trong một canh mạt chược dở dang, ông Kỳ rất thờ ơ
lạnh lùng. V́ vậy, anh thất vọng bỏ đi. Từ đó, anh trở lại cương vị của một
người quân nhân "nhà nghề". Tuy nhiên, bạn bè vẫn nghi ngờ và chế diễu anh là
một "petit ... Lên Nguyên Khang" (!) Mỗi khi có chiến thắng Việt Cộng, tay phải
cầm khẩu AK47 tặng Trung tướng Thiệu, tay trái trao khẩu CKC cho Thiếu tướng Kỳ.
Cũng như Trung tướng Khang, luôn luôn đu giây giữa "cánh phải và cánh trái" dinh
Độc Lập với câu nói đầu môi: "ông Kỳ là bạn, ông Thiệu là thày, tôi chỉ biết
phục vụ cho quyền lợi của Tổ quốc và Quân đội"!!!
Sau khi rời chức vụ Thị trưởng Cam Ranh vơi thâm
niên cấp bậc, Quang được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh.
Chiều ngày 9 tháng 3, 1975 , Tướng Phú rất khó khăn
và cân nhắc măi mới chọn lựa anh làm Tư lệnh chiến trường Ban Mê Thuột, v́ Đại
tá Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac chức vụ nhỏ hơn, nhưng trận mạc
và cấp bậc thâm niên hơn.
Tôi nhớ khi rời phi trường Phụng Dực, Tương Phú bắt
tay Quang và nói:
- Cố gắng và ráng cẩn thận nghe Quang! Đừng để lỡ
dịp lên tướng kỳ này. Ḿnh ... Nhảy Dù mà !
Quang đứng nghiêm chào Tướng Phú:
- Thiếu Tướng yên tâm, tôi sẽ làm tất cả những ǵ
có thể làm được. Và tôi sẽ chết tại đây trước khi Ban Mê Thuột mất!
Sau khi Trung tâm Hành quân, hầm Chỉ huy và Truyền
tin của Tư lệnh Chiến trường bị sập, mọi người đều lo lắng cho số phận Ban Mê
Thuọt.
Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn được lệnh thành
lập bộ Chỉ huy Hành quân trên không để chỉ huy mặt trận Ban Mê Thuột. Cả hai
chiếc C47 và U17 của Tư lệnh Quân đoàn đều được sử dụng. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23
Hành quân nhẹ cũng được thành lập gấp rút ở Buôn Hô.
11 giờ 50 phút, sau gần 4 giờ chờ đợi, Trung tâm
Hành quân Quân đoàn II ghi nhận mất liên lạc hoàn toàn với Tư lệnh chiến trường
Ban Mê Thuột và Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tiểu khu Darlac.
15 giơ 30, Đại tướng Cao Văn Viên gọi cho Tướng Phú
gay gắt ra lệnh "bốc" Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 từ mặt trận
nam Pleiku thả xuống Ban Mê Thuột chỉ huy.
17 giờ và 23 giờ đêm, những lệnh của Tổng Thống
Thiệu và Thủ tướng Chính phủ Trần Thiện Khiêm:
- Linh động trong mọi trường hợp. Cẩn thận không
nên dồn hết quân trong mặt trận này.
- Tư lệnh Quân đoàn toàn quyền quyết định, có thể
bỏ Ban Mê Thuột. Tránh sa lầy, v́ có thể c̣n hai, ba mặt trận lớn nữa tại Quân
khu II.
- Tường tŕnh chính xác các sư đoàn Cộng sản Bắc
Việt hiện tham chiến trên trận địa Ban Mê Thuột.
- Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột coi như đă mất tích.
Chấp thuận thả một Tỉnh trưởng khác xuống chỉ huy nơi có dân và quân tập trung
nhiều. Lập ṭa Hành chánh và bộ Chỉ huy tiểu khu Ban Mê Thuột lưu động.
Giây phút cuối cùng của Tư lệnh chiến trường Ban Mê
Thuột sau này được ghi nhận với những dữ kiện đặc biệt. Buổi sáng khi 2 trái bom
500 cân Anh của Không quân đánh sập một đầu hầm Trung tâm Hành quân của Bộ Tư
lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, một số sĩ quan trong bộ tham mưu đă thoát lên được.
Trên một thiết vận xa M113, Đại tá Vũ Thế Quang sử dụng máy truyền tin liên lạc
với chiếc máy bay chỉ huy, cho lệnh các phản lực cơ trút bom xuống bộ Tư lệnh Sư
đoàn hiện đang bị địch quân tràn ngập. Và cho biết sẽ rút về phía Trung đoàn 53
Bộ binh tại phi trường Phụng Dực để tiếp tục chỉ huy.
Đại tá Nguyễn Công Luật cùng với Phó Tỉnh trương
Hành chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi theo một hướng khác. Nhưng chỉ một thời gian ngắn
sau, chiếc thiết vận xa chỉ huy bị bắn cháy, Đại tá Quanh thoát chết trong gang
tấc. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong thành phố cùng với những
đoàn xe tăng của chúng.
Cũng thời gian này, trên Quốc lộ 14, khoảng đường
tư Đức Lập về Ban Mê Thuột, bộ Chỉ huy Hành quân nhẹ của Trung đoàn 53 Bộ binh
cùng với một tiểu đoàn, được lệnh rút từ vùng hành quân phía đông bắc quận Đức
Lập về tiếp cứu Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng phục kích chận đánh. Trung tá
Trung đoàn Phó Trung đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị địch
bắt. Cánh quân này coi như bị tan ră trước khi tới được trận địa Ban Mê Thuột.
Đến xế trưa ngày 11 tháng 3, bên cạnh Đại tá Quang
chỉ c̣n có người Thiếu úy, Sĩ quan Tùy viên và một người lính. Không thể đi tới
được phi trường Phụng Dực và cũng không c̣n phương tiện truyền tin để liên lạc,
ba người đă ẩn tránh trong một vườn cà phê mấy tiếng đồng hồ, đợi đêm tối nhắm
hướng nam đi về phía Quảng Đức.
2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, đi được khoảng 6 cây số
đưỜng rừng ngay khi vưa tới sát một làng Thương, th́ bị Việt cộng nổ súng, xông
ra vây bắt. Thấy Đại tá Quang vẫn c̣n mang cấp bậc trên cổ áo và xưng danh là Tư
lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chúng đă trói lại, lột giầy và liệng xuống hố.
Chừng một giờ sau, chúng được lệnh dẫn Đại tá Quang đi suốt đêm. Tới chiều hôm
sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho đi giầy vào và chở đi bằng xe Molotova
sang Cam Bốt để khai thác. Vùng rừng núi này, chắc chắn là nơi đặt bản doanh bộ
Tư lệnh chiến trường Tây nguyên 1975 của 2 Tướng Cộng sản Bắc Việt Văn Tiến Dũng
và Hoàng Minh Thảo.
Trong suốt thời gian bị điều tra, Đại tá Quang bị
Việt cộng khủng bố tinh thần, cùm giữ hai chân trong hai thân cây lớn được khoét
lỗ sẵn. Đó có thể cũng là kết quả đưa đến những lời cung khai của Tư lệnh Phó Sư
đoàn 23 Bộ binh, như Văn Tiến Dũng đă viết trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân.
Nhưng với cuộc tấn chiếm Ban Mê Thuột bằng một lực
lượng chính qui Cộng sản Bắc Việt đông hơn gấp 10 lần, có chiến xa, pháo binh
yểm trợ, do chính Văn Tiến Dũng, Tổng Tư lệnh quân đội Bắc Việt trực tiếp chỉ
huy, việc giữ được Ban Mê Thuột 48 giờ đă là một sự kiện hết sức đặc biệt. V́ Bộ
Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh không có hệ thống pḥng thủ để chiến đấu. Lực lượng
chính yếu là Trung đoàn 53 Bộ binh th́ trấn đóng tại phi trường Phụng Dực, cách
Ban Mê Thuột 5 cây số. Trong thị xă, ngoài các đơn vị Địa phương quân, chỉ có
những thành phần quân nhân lo về tiếp liệu, pḥng giữ hậu cứ của các Trung đoàn
Bộ binh, hậu cứ các đơn vị Thiết giáp, Pháo binh, Truyền tin, Quân cụ, Công
binh.
Một Huyền Thoại trong Chiến Tranh Việt Nam
4 giờ sáng ngày 10 tháng 3, 1975.
Sau những trận mưa pháo suốt 2 tiếng đồng hồ, Cộng
quân với chiến xa và biển người, tấn chiếm Ban Mê Thuột. Và với một lực lượng
đông gấp 10 lần, địch đă làm chủ t́nh h́nh ngay từ phút đầu.
Sự chống trả mảnh liệt của những đơn vị pḥng vệ
thị xă cùng với sự yểm trợ hữu hiệu gan dạ của các phi công anh hùng, đă chặn
bớt được sức tiến của quân thù.
Nhưng ngày hôm sau, khi Cộng sản Bắc Việt tung thêm
Sư đoàn tổng trừ bị 316 mới ở miền Bắc vào, th́ lực lương hai bên giữa ta và
địch quá ư chênh lệch, cả về quân số, chiến xa lẫn vũ khí nặng!
12 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975 tiểu khu Ban Mê
Thuột mất!
8 giờ sáng hôm sau 11 tháng 3, 1975, 10 chiến xa
T54 của Cộng sản Bắc Việt bắn trực xạ vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Vị Tư
lệnh chiến trường chấp nhận rủi ro, nguy hiểm, yêu cầu Không quân đánh bom thẳng
vào những xe tăng địch. Những phản lực cơ A37 lao xuống. Ba chiếc T54 bốc cháy,
nhưng rồi 2 trái bom khác rơi trúng sập một đầu hầm của Trung tâm Hành quân Sư
đoàn 23 Bộ binh. Hệ thống truyền tin giữa Ban Mê Thuột-Pleiku bị hư hại hoàn
toàn, mất liên lạc với Tư lệnh Chiến trương và Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột từ đó.
8 giờ sáng ngày 11 tháng 3, 1975, giờ phút của định
mệnh, và cũng là khởi đầu ngày thứ hai trong trận đánh quyết định giữa hai miền
Nam-Bắc 1975. Chiến trường Ban Mê Thuột coi như kết thúc với sự tràn ngập của
Bắc quân.
Nhưng tại phi trường Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột
khoảng 8 cây số về phía đông, một trung đoàn (-) của Sư đoàn 23, với 2 Tiểu đoàn
của Trung đoàn 53 Bộ binh, một Chi đoàn Thiết vận xa M113, một Pháo đội đại bác
105 ly vẫn tiếp tục chiến đấu thêm một tuần lễ nữa. Chiến đấu dũng mănh, dai
dẳng, phi thường cho đến những người lính cuối cùng và những viên đạn cuối cùng
được bắn đi!
Đó là một huyền thoại trong một cuộc chiến đấu
chống Cộng thần thánh nhất của quân dân miền Nam Việt Nam. Đó cũng là biểu tượng
tinh thần gang thép, sắt đá của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Trận thử sức ḍ dẫm của 2 trung đoàn Cộng sản Bắc
Việt và các lực lượng pḥng thủ mặt trận phi trường Phụng Dực đầu tiên xảy ra
lúc 14 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975, với kết quả địch bỏ lại chiến trường trên
200 xác chết!
Nhưng chưa đầy một ngày sau, 5 giờ sáng 11 tháng 3,
1975 khi những chiến xa T54 Bắc Việt nghiền nát những đường phố Ban Mê Thuột,
tiến thẳng vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cũng là lúc địch quân rửa hận cho
đồng bọn chúng tại mặt trận phi trường Phụng Dực.
Sư đoàn 316 tổng trừ bị của Cộng sản Bắc Việt lần
đầu tiên được sử dụng trên Chiến trường Cao nguyên và miền Nam Việt Nam. Từ xa
lộ đất Hồ Chí Minh, sư đoàn này bất chấp mọi thiệt hại, di chuyển ngày đêm để
tới trận địa đêm 10 tháng 3, 1975. Và ngay sáng hôm sau, dốc toàn lực lượng tấn
công Trung đoàn 53 Bộ binh.
45 phút khởi đầu là những cơn mưa đạn đại bác khiến
chiến sĩ ta ch́m ngập trong giao thông hào. Sau đó, Bắc quân với những tên lính
trẻ xuất trận lần đầu, hung hăng, ḥ hét ... xung phong. Từng lớp, từng lớp gục
xuống, nhưng chúng vẫn hô, vẫn tiến.
Trận thư hùng thứ hai ngày 11 tháng 3, 1975 này kéo
dài 2 giờ 40 phút. Gần 200 người anh hùng của chiến trường miền núi vĩnh viễn
buông súng, ở lại Cao nguyên Việt Nam!
Nhưng những người c̣n lại vẫn tiếp tục chiến đấu.
Chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương, không tăm gội, 24 giờ
trên 24 giờ ngoài chiến hào pḥng thủ!
Quá nửa lực lượng bị thiệt hại từ khi ở mặt trận
Quảng Đức rút về. Trung đoàn 53 Bộ binh hiện c̣n hơn một tiểu đoàn với khoảng
500 tay súng. Và họ đă chiến đấu đơn độc sang ngày thứ ba 12 tháng 3, ngày thứ
tư 13 tháng 3, ngày thứ năm 14 tháng 3, ngày thứ sáu 15 tháng 3, ngày thứ bảy 16
tháng 3. Và hôm nay, ngày thứ tám 17 thang 3, 1975!
Thật anh hùng! Thật vĩ đại! Thật phi thường! Không
c̣n từ ngữ nào khác hơn để ca ngợi, vinh danh họ. Và đó cũng là một huyền thoại
độc đáo nhất của chiến tranh Viêt Nam trong trận đánh sau cùng trên Chiến trường
Cao nguyên!
Bay trên đầu những người anh hùng của mặt trận phi
trường Phụng Dực trưa ngày 12 tháng 3, 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh
Chiến trường Cao nguyên đă nói chuyện với 2 người quân nhân lớn nhất và nhỏ nhất
của Trung đoàn 53 Bộ binh.
"Người anh hùng Vơ Ân", Trung tá Trung đoàn trưởng:
- Tŕnh Mặt Trời, lực lượng địch quá mạnh. (Mặt
Trời là danh hiệu ngày hôm nay của Tướng Phú, Tư lệnh Quân đoàn II).
- Chú mày chịu nổi không? Tinh thần anh em ra sao?
- Bị sứt mẻ kha khá ngày hôm qua, nhưng chưa sao.
Mặt Trời yên tâm!
- Chú mày muốn ǵ đặc biệt không?
- Dạ không! Nhưng sao Mặt Trời không bay trực thăng
hôm nay?
- Tại qua muốn ở chơi với chú mày và những anh em
khác lâu lâu một chút. Mà tại sao chú mày hỏi như vậy?
- Tại v́ tôi muốn Mặt Trời đáp xuống coi kho vũ khí
Việt cộng ở pḥng danh dự phi cảng cho anh em lên tinh thần.
Tướng Phú cười:
- Ư kiến hay đấy! Thôi ... để lần sau vậy!
- ...
"Người anh hùng Nguyễn Văn Bảy", Binh nh́ xạ thủ
súng cối 81 ly:
- Em tên ǵ? Bao nhiêu tuổi?
- Dạ ... Binh nh́ Nguyễn Văn Bảy, 18 tuổi!
- Em thấy Việt cộng chết nhiều không?
- Nhiều, nhiều lắm ... Thiếu tướng!
- Em muốn xin Thiếu tướng ǵ nào?
- xin thuốc hút và ... lựu đạn.
- Ǵ nữa?
- Thôi!
- Thiếu tướng thăng cấp cho em lên Binh nhất! Chịu
không?
- ...
Một giọng cười khúc khích trong máy:
- Ông Thầy! Ông Tướng tặng tôi cái "cánh gà" chiên
bơ!
- Không được ... tao phản đối!
- ...
Cái "cánh gà", chữ V, là h́nh dáng của chiếc lon
Binh Nhất. Ông Thầy là tiếng gọi thân mật vị Trung tá Trung đoàn trưởng mà người
"Binh Nhất vừa được tân thăng" Nguyễn Văn Bảy thường hay sử dụng.
Mẫu đối thoại trên cho thấy t́nh chiến hữu, anh em
của những người lính Trung đoàn 53 Bộ binh. Đó cũng là một cách để chứng minh,
tại sao trong những ngày cuối cùng họ vẫn sống chết bên nhau? Họ đă chia nhau
từng viên đạn, từng dúm gạo sấy, từng hớp nước, từng hơi thuốc ...
Theo thời gian, 7 ngày đêm chiến đấu dài hơn 7 năm
tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Đă ba ngày rồi, từ khi lệnh triệt thoái cao
nguyên được ban hành, Trung đoàn 53 không c̣n nhận được bất cứ một tiếp tế, liên
lạc nào với Quân đoàn. Họ đă phải sử dụng cả súng đạn tịch thu được của quân thù
trong trận đánh đầu tiên, để bắn lại chúng!
Nhưng hôm nay, ngày 17 tháng 3, 1975 là ngày dài
nhất trong cuộc đời lính chiến của họ!
7 giờ 40 phút sáng, khi rừng núi cao nguyên vẫn c̣n
ngủ yên với những lớp sương mù phủ kín, hàng trăm hàng ngàn viện đại bác Bắc
quân nă vào những chiến hào của Trung đoàn 53 Bộ binh. Cỏ cây rạp xuống. Những
cột đất đỏ từng cụm, từng khóm tung cao!
Trận địa pháo kéo dài một tiếng đồng hồ. Tiếp theo
sau là tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Tiếng ḥ reo "sóng vỡ" của biển người. Và rồi
tiếng gầm thét của hàng đoàn chiến xa T54 trên khắp ngả tiến vào, cầy nát phi
đạo phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột!
Hôm nay là ngày đầu của cuộc rút quân của Quân đoàn
II. Sư đoàn 316 Cộng sản Bắc Việt quyết khai tử Trung đoàn 53 Bộ binh, quyết nhổ
đi "cái gai" cuối cùng của mặt trận Ban Mê Thuột, của Chiến trường Cao nguyên để
tiến về duyên hải.
8 giờ 30 sáng, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham
mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, vị Tướng lớn nhất của Quân đội gọi yêu
cầu được tường tŕnh đặc biệt về mặt trận phi trường Phụng Dực và các chiến sĩ
Trung đoàn 53 Bộ binh.
Đây cũng là một vinh dự, một hănh diện cuối cùng
dành cho những dũng sĩ tại mặt trận này! Nhưng Đại tướng Viên chỉ được báo cáo
qua nguồn tin không chính xác (!) của bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 hành quân ở Phước
An: Trung đoàn 53 Bộ binh đang bị đánh rất nặng, Bắc quân đă tràn ngập vị trí
pḥng thủ!
Đạn hết, lương thực hết, không c̣n cấp chỉ huy,
không c̣n được yểm trợ, không c̣n máy móc liên lạc để ... kêu cứu. Những chiến
sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh gục ngă từng người, từng tổ, từng ... tiểu đội ...
trong những chiến hào ...
11 giờ 30 sáng, tiếng súng im bặt. Bắc quân cắm
ngọn cờ đỏ trên đài kiểm soát của phi trường Phụng Dực, và thu dọn chiến trường.
Không có tù binh, không có cả những người lính bị
thương. Những dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh không c̣n chiến đấu nữa. Họ đă tan
ra, đă nát ra ... từng mảnh vụn, và lẫn trong đất đỏ của miền cao nguyên hùng
vĩ!
Ngày 17 tháng 3, 1975 Trung đoàn 53 Bộ binh bị Bắc
quân xóa tên. Đó cũng là một ngày đau buồn! Lần đầu tiên trong 21 năm chiến đấu
chống cộng, giữ nước, bộ Tư lệnh Quân đoàn II triệt thoái khỏi cao nguyên!
Nhưng không, đó vẫn chưa phải là những ḍng chữ
cuối cùng viết về các dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh! Bởi v́ ... vẫn c̣n những
anh hùng của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa mang phù hiệu của Trung đoàn 53 ... trên
vai áo.
Hai ngày sau, khi Bắc quân tràn ngập phi trường
Phụng Dực, Ban Mê Thuột, một nhóm 16 quân nhân của đơn vị này đă về được Phước
An và tiếp tục chiến đấu tại mặt trận Quốc lộ 21.
Một tuần lễ sau nữa, ngày 24 tháng 3, 1975 ba người
anh hùng khác, sau 7 ngày 7 đêm, đi trên mấy chục cây số đường rừng núi, sống
với cỏ cây thiên nhiên, từ Ban Mê Thuột đă lên tới buôn Thượng Dam Rong, Đà Lạt!
Họ là những quân nhân bất tử của Trung đoàn 53 Bộ
binh! Họ thật vĩ đại, thật phi thường! Và đó cũng là một huyền thoại của chiến
tranh Việt Nam trong trận chiến Nam-Bắc sau cùng 1975.
Liên tỉnh lộ 7 Pleiku-Phú Bổn-Phú Yên
Ngày thứ nhất 17 tháng 3, 1975.
Ngày đầu tiên của cuộc rút quân. Trời mây mù, ảm
đạm. Trong 21 năm chiến đấu chống Cộng giữ nước của quân dân miền Nam, kể từ sau
Hiệp định Genève, đây là một ngày đau buồn nhất xảy ra trên Chiến trường Cao
nguyên Việt Nam.
Thành phố Pleime nằm trên một ngọn đồi cao, nơi đặt
bản doanh của bộ Tư lệnh Quân đoàn II hôm nay không c̣n vẻ uy nghiêm, hùng vĩ
nữa. Cây cột cờ mà mấy ngày trước địch pháo gần trúng, đứng trơ trọi như một
thân cây trụi lá. Không c̣n lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu, không c̣n lá cờ tướng
với những ngôi sao trắng được kéo lên, như mỗi ngày trước đây!
Con đường từ bộ Tư lệnh Quân đoàn về Pleiku kéo dài
mấy cây số, và từ những ngả đường khác đổ xô về, người và xe cộ nối đuôi, dồn,
lấn, kẹt cứng.
Tin Quân đoàn "di tản" đă không c̣n là một tin "tối
mật" như các giới chức quân sự mong muốn. Từ hai ngày nay, mọi người dân Pleiku,
mọi gia đ́nh quân nhân, và chắc chắn cả ... địch nữa, đều biết. Hỗn loan, cướp
bóc, bắn phá xảy ra nhiều nơi, trong và ngoài thị xă.
8 giờ 40 phút, cắt đứt mọi liên lạc bằng điện thoại
với bộ Tư lệnh Quân đoàn II ở Pleiku. Đoàn xe di chuyển, khoảng 4000 quân xa đủ
loại và những xe dân sự.
9 giờ 15 phút, Tướng Lê Văn Thân, Phụ tá Quân khu
II và Trưởng pḥng 3 Quân đoàn bay trên C47, bộ Chỉ huy Hành quân trên không, để
quan sát đoàn xe. Thêm một máy bay bay quan sát được lệnh liên lạc thường trực
với Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc rút quân.
Danh hiệu của các cấp chỉ huy trong cuộc triệt
thoái Quân đoàn II ngày 17 tháng 3, 1975:
Tư lệnh Quân đoàn - Hiệp T́nh
Tướng Phạm Duy Tất - Trường An
Tướng Trần Văn Cẩm - Phi Bảo
Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân đoàn - Công
Danh
Đoàn xe - Công B́nh
Trực thăng - Nam Hiền
9 giờ 30, Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng pḥng 3 bộ
Tổng tham mưu gọi ra ghi nhận một lần nữa những rối loạn và t́nh h́nh xảy ra
thật sự tại Pleiku ngày 16 tháng 3, 1975 để tŕnh thượng cấp.
Theo báo cáo của Đại tá Lư gọi thẳng về Saigon,
t́nh h́nh Pleiku ngày 16 tháng 3, 1975 cực kỳ hỗn loạn. Phi trường Cù Hanh, dân
chúng, binh sĩ và gia đ́nh tràn vào. Lực lượng an ninh không giữ được trật tự.
Cướp của, hăm hiếp đă xảy ra.
Một báo cáo khác của Đại tá Hoàng Thọ Nhu, Tỉnh
trưởng Pleiku gọi về Nha Trang tŕnh với Tướng Phú th́, t́nh h́nh có rối loạn
nhưng không ở mức độ trầm trọng. Bởi v́ nếu "cực kỳ hỗn loạn" th́ Tướng Tất và
bộ Tư lệnh Quân đoàn đă không sắp xếp và tổ chức được đội h́nh của đoàn xe, hơn
4000 cái di chuyển ngày hôm nay. "Tiếng nói" của Đại tá Nhu coi như là tiếng nói
chính thức, đại diện cho Tướng Tất, người thay Tướng Phú chỉ huy cuộc rút quân!
Tướng Phú giận lắm, nhưng chỉ tŕnh bày với Tướng
Thọ, v́ Đại tá Lư mất b́nh tĩnh nên báo cáo không đúng sự thật!!!
Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân đoàn II là
một sĩ quan rất giỏi về tham mưu và tổ chức. Nhưng vụ Tướng Phú gắn sao cho Đại
tá Tất làm ông bất măn và chán nản. Với sự thông minh và khôn ngoan, ông nh́n
thấy trước sự thất bại của Quân đoàn kỳ này trong cuộc rút quân. Do đó, viếc
Tướng Phú hứa hẹn cho ông lên Tướng chỉ là một lời hứa viển vông, không bao giờ
thành sự thật.
Cũng v́ vậy, ngay khi Tướng Phú rời Pleiku, ông đă
bất chấp mọi lệnh của Tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn, và
Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc rút quân.
Tướng Phú được thông báo về sự việc này, nên khi
nghe Đại tá Lư báo cáo thẳng về Saigon những rối loạn, cướp bóc, hăm hiếp xảy ra
tại Pleiku đêm 16 tháng 3, 1975 lại cho rằng Đại tá Lư bất măn, nên phá hoại. Sự
thật những điêu Đại tá Lư tŕnh cho Tướng Thọ đều đúng! Ghi nhận sự kiện này ra
đây để nói lên sự đổ vỡ tồi tệ của hệ thống chỉ huy Quân đoàn II. V́ sự đố kỵ,
bất măn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm
nhất, đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi cao nguyên.
10 giờ phi trường Cù Hanh chính thức đóng cửa.
10 giờ 15 phút, liên lạc lần cuối cùng giữa Tư lệnh
Quân đoàn II và Tướng Cẩm tại Pleiku bằng STS-106. Xác nhận về việc ra lệnh cho
Tỉnh trưởng Pleiku pḥng thủ tỉnh này. Nghi ngờ hệ thống truyền tin bị địch phá.
10 giờ 45 phút, Đại tá Trần Cửu Thiên bay đi Phú
Bổn cùng với các chuyên viên truyền tin, thiết lập hệ thống liên lạc để tường
tŕnh t́nh h́nh đoàn xe từng giơ về Nha Trang, Saigon.
10 giờ 50 phút, Tổng Thống Thiệu gọi ra lệnh giải
tỏa gấp rút mặt trận Khánh Dương và Quốc lộ 21 bằng mọi giá. Chấp thuận cho Đại
tá Nguyễn Văn Đức làm Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.
Chặng đầu của cuộc rút quân Pleiku-Phú Bổn sáng
ngày 17 tháng 3,1975 diễn ra tốt đẹp. Hệ thống liên lạc siêu tần số từ Nha Trang
và đoàn quân triệt thoái bị gián đoạn trong 2 giờ đầu. Nhưng sau đó, từ 12 giờ
20 phút, mọi liên lạc và báo cáo đều rơ ràng.
13 giờ, đoàn xe về gần tới Phú Bổn. Một số xe bị ứ
đọng. Nhừng lệnh cần thiết được ban hành. Các Tướng Cẩm và Tất đích thân chỉ
huy, điều động. Các đơn vị vào vị trí pḥng thủ.
Liên đoàn 6 Công binh Chiến đấu và những đơn vị
Biệt động quân tiếp tục mở và dọn đường cho chặng kế tiếp. Lữ đoàn II Thiết giáp
và các Liên đoàn Biệt động quân khác đi sau cùng bảo vệ đoàn quân và chiến cụ,
đề pḥng bị địch đánh tập hậu.
13 giờ 40 phút, Tướng Thọ, Trưởng pḥng 3 Tổng Tham
mưu gọi ra từ Saigon cho biết, Tổng Thống, Hội đồng Nội các, và các Tướng lănh
khen ngợi Tư lệnh và bộ Tư lệnh Quân đoàn II về cuộc rút quân.
Nhưng đấy chỉ là chặng đầu trên Liên tỉnh lộ 7. Con
đường chôn vùi hàng nhiều ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội. Chôn vùi tên tuổi
tất cả các Tướng lănh đạo Đất Nước trong những năm sau cùng. Và cũng chính là
con đương đưa đến sự sụp đổ mau chóng của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, để rồi
miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng sản sau đó.
18 giờ 15 phút, Đại tá Tham Mưu trưởng báo cáo về
t́nh h́nh Phú Bổn. Đă tổ chức, phân loại xe quân đội và dân sự. Ra lệnh các đơn
vị không được tự ư tách rời đoàn xe đi riêng.
Một sự việc xảy ra vào buổi tối. Lính Thương nổi
loạn, đốt nhà, ăn cướp, nhưng chỉ là một nhóm nhỏ. Tỉnh trưởng Phú Bổn đă giải
quyết và chận đứng.
Mặt trận Phước An
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, các Lực lương Thiết giáp,
Không quân, Pháo binh và Chủ lực quân đă rút khỏi Kontum, Pleiku. Trong 2 ngày
nữa, nếu đoàn xe không về tới Phú Bổn như dự định, th́ mặt trận Phước An sẽ vô
cùng nguy ngập. Bởi v́ địch chỉ cần sử dụng một phần lực lượng tại trận địa Ban
Mê Thuột hiện nay, với chiến xa và trọng pháo yểm trợ, sẽ dứt Phước An dễ dàng.
Và sau đó là Khánh Dương.
Kiểm điểm lại quân số của sư đoàn và những đơn vị
tăng cường hiện đang ở mặt trận Phước An, Đại tá Đức, tân Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ
binh vô cùng lo ngại.
Lực lương chính yếu của sư đoàn là Trung đoàn 45 Bộ
binh. Đơn vị với tinh thần cao độ, đă t́nh nguyện nhảy xuống Phước An trong đoàn
quân tăng viện ngày 12 và 13 tháng 3, th́ hôm nay đă tan hàng, trở thành dân sự
già nửa quân số.
Buổi sáng, trong đợt di dân mới từ Ban Mê Thuột,
khoảng 5000 người đă băng rừng đi về phía Phước An và nam Khánh Dương. Một số
lớn là vợ con anh em binh sĩ Trung đoàn 45. Do đó, họ tự động bỏ súng, "chạy
loạn" với gia đ́nh.
Trung đoàn 45 c̣n lại đúng 200. Trung đoàn 44 với
một Tiểu đoàn Chiến đấu và một Đại đội Trinh sát chưa sứt mẻ, khoảng 300.
Liên đoàn 21 Biệt động quân, 110 người. Bộ Tư lệnh
Sư đoàn tại Chu Cúc, 42. Hậu trạm tại Khánh Dương, 6.
Khoảng 700 tay súng, không chiến xa và có 4 khẩu
đại bác 105 ly. Đó là thực lực của mặt trận lớn nhất hiện nay tại Quân khu II.
Một trận đánh lớn nếu xảy ra, chắc chắn lực lượng này phải đương đầu với Sư đoàn
F10 Cộng sản Bắc Việt từ Ban Mê Thuột kéo về, với quân số 7, 8 ngàn và có chiến
xa, đại pháo yểm trợ !
"Người lính già" của chiến trường với 25 năm quân
ngũ, Tư lệnh phó Biệt khu 44 của Tướng Phú năm 1969, chờ đợi giây phút này từ
lâu. Và hôm nay ... đă đến. Tổng Thống Thiệu, Đại tướng Viên cùng chấp thuận
việc bổ nhiệm ông là Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh!
Đại tá Đức khẽ mỉm cười, và tiến lại phía các chiến
hữu của ḿnh đang pḥng thủ để quan sát.
17 giờ, phi cơ quan sát phát hiện khoảng 10 chiến
xa địch gần Chu Cúc, xin đánh bom tối đa.
5 phi tuần khu trục từ Phan Rang lên. Điều động trễ
15 phút. Phi tuần 1 lên tới vùng mục tiêu lúc 17 giờ 40 phút. Trời mù, không
nh́n rơ, các khu trục cơ phải quay về. Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh vẫn tiếp tục
xin Không quân đánh tiếp.
Thêm 2 xe tăng Cộng sản Bắc Việt di chuyển ở phía
bắc cây số 62, mặt trận Khánh Dương. Và tin t́nh báo mới nhất thâu thập được qua
một tù binh Bắc Việt bắt được ngày 16 tháng 3, 1975, hai Trung đoàn 64 và 48
Cộng sản Bắc Việt đă di chuyển tới tây bắc Khánh Dương khoảng 20 cây số. Lực
lương Sư đoàn 23 Bộ binh sẽ cùng phối hợp với 2 Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 22 Bộ
binh tăng cường tổ chức tuyến pḥng thủ, chận đứng cuộc tiến quân xuống Khánh
Dương, Dục Mỹ của địch.
Nhưng cũng chỉ là trứng chọi đá! Quả thật trong
trận này, lực lượng Việt cộng và quân ta quá chênh lệch!
Một sự việc cuối cùng và đặc biệt xảy ra hôm nay mà
tôi ghi nhận, đó là yêu cầu của 2 Tỉnh trưởng Kontum và Pleiku xin máy bay chở
bạc về Tổng Ngân Khố, Saigon.
Bộ Tư lệnh Quân đoàn lúc đầu chấp thuận, nhưng sau
lại hủy bỏ. V́ phi trường Cù Hanh, Pleiku đă đóng cửa từ lúc 10 giờ sáng. Và, số
bạc khổng lồ của 2 tỉnh liền được ... đốt đi!
Đây cũng là một sự việc cực kỳ khó hiểu. Tại sao
các Tỉnh trưởng Kontum, Pleiku được "ủy quyền" ở lại pḥng thủ 2 thị xă này, lại
xin máy bay chở bạc, và sau đó "đốt" đi hàng trăm triệu bạc, ngay cùng ngày Quân
đoàn vừa di tản khỏi Pleiku?
Tôi quá mệt mỏi nên đă không t́m hiểu "lệnh đốt
bạc" từ đâu tới. Từ Saigon hay từ bộ Tư lệnh Quân đoàn II?
Bebop. Cha cha cha. Boston. Tango. Rumba. Valse. Passodoble. Hoàng Thông1. Hoàng Thông02
Boston. Valse. Tango. Bebop. Cha Cha Cha. Passo Doble. Rhumba. Samba. Dance.
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/