US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Tưởng niệm Cụ Trần Văn Hương
nhân sĩ suốt đời giữ tiết tháo
Hứa Hoành
"Tôi xin phép
từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu ǵ tôi cũng đă là
người lănh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ v́
thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn c̣n bị giam cầm trong các trại
cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lư ǵ, tôi là người trách
nhiệm, lại được trả quyền công dân trước..."
(Lời cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trả lời một cán bộ CS, khi họ đến
nhà định làm lễ, quay phim "trả quyền công dân cho ông").
Hàng năm, cứ đến ngày oan trái 30 - 4, tôi lại bâng khuâng nhớ đến các
anh hùng liệt sĩ đă bỏ ḿnh v́ nước. Làm tướng giữ
thành, thành mất, tuẫn tiết theo thành, ngày xưa có Tổng đốc Hoàng Diệu
(1828 - 1882), Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873)... Ngày nay có
Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Thiếu tá quận
trưởng Bồng Sơn Hoàng Lê Cương (1972) và hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh
khác, đătự sát để giữ tṛn khí tiết, không để lọt vào tay kẻ thù làm
nhục. Họ nêu những gương hy sinh cao quư, tiết liệt, lịch sử ghi nhớ
muôn đời.
Hai mươi năm chiến tranh, một cuộc chiến tranh vệ quốc sáng ngời chính
nghĩa quân dân miền Nam đă hy sinh hàng triệu người, chỉ v́ muốn bảo vệ
một lư tưởng "Độc lập, tự dỏ và không muốn đất nước rơi vào tay CS.
Nhưng cuối cùng phải thất bại trong nỗi uất hận, nghẹn ngào.
Năm nay, nhân ngày tang tóc đau thương của toàn thể dân tộc Việt Nam,
chúng tôi muốn nhắc lại với thế hệ mới lớn lên, về những cái chết oai
hùng. Trong phạm vi bài nầy, chúng tôi kể lại những ngày sau cùng của
một chính khách thanh liêm, cương trực, suốt đời giữ được tiết tháo và
ḷng yêu nước: người đó là cụ Trần Văn Hương, hai lần làm đô trưởng
Sàig̣n, hai lần làm thủ tướng và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng
Thống Việt Nam Cộng Ḥa chỉ được 3 ngày.
Cụ Hương mất đi không một lời cáo
phó. Cụ mất, nhưng gương hi sinh và thái độ sống của người quân tử mà cụ
nêu gương không bao giờ mất. Tuy là người đồng
hương, v́ nhà tôi ở chỉ cách nhà người chị ruột của cụ Trần Văn Hương
chừng 300 mét, trên đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Đức Khổng Tử
và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau, thuộc hàng con
cháu, nên tôi không được quen biết với cụ. Tháng
Hai năm 1975, tôi là thành viên của một phái đoàn vận động thành lập
Viện Đại học Long Hồ cho 3 tỉnh Vĩnh Long Kiến Phong và Vĩnh B́nh, có
đến tư thất của cụ ở đường Phan Thanh Giản Sàig̣n, để yết kiến và xin cụ
giúp đợ Tháng 3 năm 1975, cụ với tư cách là Phó Tổng Thống, có đến tại
hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến lễ
chấp nhận thành lập Viện Đại Học Long Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia
Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh kư trước mặt cụ. Mặc dầu rất nhiều lần giữ những
địa vị cao trong chính trường miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một
người có đời sống giản dị, mẫu mực, thanh liêm không bất cứ một ai có
thể mua chuộc được. Khi thôi việc, cụ Hương sống cuộc đời chật vật nhưng
vẫn giữ được tư cách.
Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu, nay thuộc quận Châu
Thành Vĩnh Long, trong một gia đ́nh nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy
sinh của gia đ́nh, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường
Cao đẳng Sư Phạm... Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ
về dạy tại trường Le Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà
ông đătheo học mấy năm trước. Thời gian từ năm 1943 - 1945, ông Hương là
giáo sư dạy môn văn chương và luân lư tại trường nầy. Sau đó ông Hương
được đổi lên làm Đốc học tỉnh Tây Ninh.
Năm 1945, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền khắp 3 kỳ, nhóm Việt Minh
mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ
tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với Việt Minh được mấy
tháng, thấy họ không thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương
từ chức. Tuy vậy cụ vẫn c̣n đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ
mặt thật của Việt Minh là CS, t́m cách khủng bố, ám sát thủ tiêu những
người yêu nước có tinh thần quốc gia, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán
thuốc tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim Quan) ở
góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành bây giờ.
Theo tài liệu của t́nh báo Mỹ, ông Hương có hai người con: Trần Văn Dinh
và Trần Văn Doi (Giỏỉ). Hồi c̣n theo học trường "College de Can Thơ"
kháng chiến nổi lên, Doi bỏ học theo kháng chiến. Khi phái đoàn Hồ Chí
Minh qua Pháp cùng một lúc với hội nghị Fontainebleau trở về tới Vũng
Tàu, ông Doi theo xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha con không bao giờ gặp
nhau nữa. Ông Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc Viện Hối Đoái dưới thời
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cho biết "Ông Trần Văn
Dinh (không phải Dơi) ở
tại Sàig̣n, bên cạnh ông Hương như một người cố vấn."
Năm 1964, ông Hương làm Thủ tướng chính phủ, t́nh báo Mỹ có đem lại một
hồ sơ cho biết cụ có người con theo CS. Cụ Hương thẳng thắn nh́n nhận và
cho biết từ đó cho đến nay, cụ không c̣n liên lạc ǵ với người con đó
hết. Khi cụ tham chính, th́ ngụi con lớn là Trần Văn Dinh ở kế cận đóng
vai người cố vấn thân tín.
Tháng 7 - 1967, ông cùng với ông Mai Thọ Truyền, ra ứng cử chức Tổng
Thống chỉ được 10% số phiếu, về hạng tư. Tháng 5 - 1968, ông được Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng Nguyễn Văn
Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng Thống 1971 - 75, ông Trần Văn Hương làm phó
tổng thống, và khi ông Thiệu từ chức tổng thống giữa lúc t́nh thế đất
nước lâm nguy,ông Hương được đôn lên làm tổng thống dùng theo hiếp pháp.
Các chi tiết về cuộc đời của cụ Trần Văn Hương trong những ngày tháng
cuối cùng, được bà Phan Cẩm Anh cùng chồng là bác sĩ, người có dịp gần
gũi với cụ Hương kể lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần lớn trong
bài ấy: "Hương trà năm cũ" trong bài viết để đồng bào, đồng hương có dịp
biết thêm về nhiều chi tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ c̣n sốt
lại. Kính xin anh chị Phan Cẩm Anh thể nhận nơi đây ḷng biết ơn của tác
giả.
"... Nhiều năm trước, khi tôi học trung học, một buổi tối sau khi dùng
cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ "cây tùng" để thăm Mai Hương, một người bạn
cùng "khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây giờ vừa lập gia đ́nh với đại úy
Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần Văn Hương. Ba chị em đứng tṛ chuyện
dưới táng cây của phủ phó tổng thống. Th́nh ĺnh, cụ Hương từ trong nhà
bước ra, nh́n về phía chúng tôi, gật đầu, rồi đưa tay ra hiệu bảo Mai
Hương theo cụ vào trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với chị
tôi:
- Ông cụ vừa mới la.
- La về chuyện ǵ vậy?
- Ông cụ nói: "Sao không mời bạn bè vào pḥng khách nói chuyện đàng
hoàng mà để bạn đứng dưới gốc cây. Ông cụ nói tiếp: "Tiếp bạn đến chơi
như vậy là không trọng bạn chút nào hết."
Đó lần đầu tiên tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật lại những lời cụ
trách, ḷng tôi tự nhiên nhen nhúm một cảm t́nh đầy quư trọng. Sau đó,
tôi có dịp trở lại phủ phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp vào nhà
bảo sanh. V́ lẽ phu quân Mai Hương bận công vụ, nên Mai Hương cho tài xế
đến nhờ tôi và em gái tôi giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những
lần đó, tôi chẳng có dịp nào giáp mặt cụ Hương.
Thời gian trôi qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng.
Ngay buổi sáng sớm ngày đầu mất nước, tại ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất
trong ngơ hẻm ngăn đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong biệt thự
này đă đau đớn đem đặt giữa nhà hai xác người cùng nhau t́m cái chết. Họ
vừa chia nhau ống thuốc ngủ đêm qua. Đó là đại úy Phan Hữu Chương và vợ
là cựu trung úy Trần Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn vài lời trăng trối
"xin nhờ ḷng tha thứ của cụ Hương và gia đ́nh v́ không thể sống khi đất
nước rơi vào tay kẻ thù." Đôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con trai
c̣n thơ dại, nhờ ông bà nội (em rể cụ Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi
biệt thự bao phủ một bầu không khí ảm đạm và im ĺm đó, nơi một căn
pḥng khác trên lầu, cụ Hương đóng cửa, im lặng, trầm ḿnh trong nỗi đau
khổ của một người đătừng lănh đạo đất nước, bây giờ đành tâm chứng kiến
giờ phút suy vong, cảnh nhà tang chế. Nỗi đau khổ của cụ ở mức độ nào,
chẳng ai trong nhà được cụ hé môi thổ lộ.
Nhưng ư định cùng chồng đi t́m cái chết của Mai Hương, không được toại
nguyện bởi lẽ một người cháu đem Mai Hương đi cấp cứu. Sự sống của Mai
Hương đăđược các bác sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc. Nhờ đó Mai
Hương trở thành một chiếc cầu để tôi có cơ hội biết thêm chút ít về cụ
Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng của cụ.
Nhiều lần Mai Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự trên để thăm các con
của Mai Hương, hiện đang sống nương nhờ vào ông bà nội. Tôi đăchứng kiến
cảnh sống đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn của gia
đ́nh cụ Hương. Cụ Hương luôn luôn sống lặng lẽ một ḿnh trong căn pḥng
nhỏ ở trên lầu.Căn pḥng bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được
coi là sang trọng. Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật c̣n lại là hai
chiếc ghế bành, một cái tủ đựng quần áo đă cũ, một chiếc bàn con trên đó
cụ để một tượng Phật Di Lạc. Căn pḥng có một cửa ăn thông ra sân
thượng. Hầu cận, săn sóc cụ là người em rể của cụ mà tôi gọi theo như
Mai Hương là Dượng. Phía dưới lầu là các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo
bức tường phía trong của khuôn viên biệt thự, có lẽ trước kia là nhà
kho, bây giờ trở thành nơi tá túc qua ngày cho các thân nhân gồm các em
và cháu của cụ, v́ phải gặp cảnh khó khăn dưới quê, t́m về Sàig̣n nương
náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng thống Thiệu đă cấp từ thời trước.
Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, tổng thống Thiệu
đă chỉ thị phải sửa chửa, chỉnh trang lại đàng
hoàng, nhưng cụ từ chối viện lẽ cụ già rồi, không làm việc ǵ ích nước
lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn công qũy. Do đó, đến khi CS
vào, ngôi biệt thự trên chẳng phải là mồi ngon cho cán bộ của họ tranh
nhau giành giật chiếm đoạt như các ngôi biệt thự xinh xắn khác. Tường
biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ vở bung lên, màu vôi trải
qua nhiều năm tháng vàng ố không được trùng tu, sơn quét. H́nh ảnh cụ
lúc nầy như một con chim đại bàng sa cơ, găy cánh mà vẫn cố giương đôi
cánh mang thương tích của ḿnh để bảo bọc chim non. Tôi được nghe kể lại
cứ mỗi lần người nhà bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm bạc, lâu
lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho cụ để bổ dưỡng, cụ
hỏi xem mọi người trong nhà có được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu người
nhà thường trả lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn hiểu sự thật của chữ
"có" nên thường cụ để dành lại thức ăn ngon trên mâm, hầu đem xuống nhà
cho con cháu.
Có những lần tôi theo Mai Hương đến thăm ông bà nội các con Mai Hương,
lúc trở về, ra tới cánh cổng, tôi quay đầu nh́n lên sân thượng thấy cụ
Hương, ngồi yên lặng trên đó. Ḿnh cụ để trần, mái tóc bạc trắng, đôi
mắt nh́n thẳng về phía trước không hề di động... Tôi thấy cụ Hương ngồi
trên sân thượng như vậy nhiều lần, và những lần như vậy, trên đường đạp
xe về nhà, h́nh ảnh già nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn quẩn măi
trong đầu óc tôi.
Một hôm, có lẽ cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa một củ sâm Đài Loan
và nói với tôi:
- Bà nội sắp nhỏ biểu chị đem củ sâm nầy đi bán. Đó là củ sâm người ta
tặng cho ông cụ từ lúc ông cụ sang Đài Loan, c̣n cất giữ măi đến bây
giờ. Ông nói chắc không dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền đong gạo
cho sắp nhỏ.
Mai Hương mở gói giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn vẹn bằng hai phần ba bàn
tay, nằm giữa mấy lớp giấy gói đăcũ. Nh́n qua, ai cũng biết củ sâm được
gói kỹ lưỡng, và bị lăng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu lắm rồi, nay
mới được nhớ lại. Tôi nh́n củ sâm nghẹn ngào. Một nhà giáo thanh bạch,
một người lănh đạo quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân
làm tài sản. Cụ đâu có nén vàng nào có thể đem bán lấy tiền đong gạo cho
đàn cháu, hay giúp đỡ người thân đang tá túc trong nhà, những người đă
ít nhiều liên lụy v́ các hoạt động chính trị của cụ.
Khoảng hơn một tuần sau, ông nội các cháu, tức em rể cụ Hương, ghé lại
nhà Mai Hương và tôi (lúc này Mai Hương và tôi sống chung với nhau trong
một căn nhà nhỏ ở quận Tân B́nh) kể cho chúng tôi biết là ông vừa làm
theo ư cụ Hương: đem mấy bộ đồ veste c̣n tốt của cụ ra chợ trời bán. Để
an ủi người nhà bớt đau ḷng, cụ Hương b́nh thản giải thích:
- Từ đây cũng đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán đi chớ để làm chi!
Số tiền bán áo trên, chẳng ở trong túi được bao lâu, v́ ngay sau đó bà
Út đi chợ mua đồ ăn cho sắp nhỏ. Gia đ́nh cụ Hương đă
chịu chung số phận đau khổ và bi đát tột cùng từ tinh thần đến
vật chất khi miền Nam rơi vào tay CS. Có một sự kiện làm tôi chảy nước
mắt mỗi khi nhớ đến, ḷng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương: Trước khi
chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội (bịp) đầu tiên, cụ Hương
được họ thông báo sẽ có một buổi lễ để chính phủ trả quyền công dân cho
cụ. Sau đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên
truyền, khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc "chính
sách khoan hồng, rộng lượng" của nhà nước đối với những "thành phần" như
cụ, cụ dơng dạc nói:
- Tôi xin phép từ chối. Tôi không
nhận cái quyền công dân này. Dù ǵ tôi cũng là người lănh đạo miền Nam,
trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ v́ thừa lịnh của chúng tôi mà
giờ đây vẫn c̣n bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền
công dân trước. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân này,
sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đă được nhận.
Đại diện của chính quyền CS không ngờ sự thể xảy ra như vậy. Tức giận,
họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu h́nh. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh
quản thúc tại gia 3 năm. Cụ Hương nói với người nhà:
- Bọn nó cũng chẳng cần phải quản
thúc tao. Tao già và đau yếu như vầy, có khi nào bước chân ra khỏi nhà
đâu mà cần phải quản thúc!
Vào năm 80
tuổi, mỗi lần theo Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các cháu, tôi
ít thấy cụ Hương ra ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức
khỏe của cụ sa sút nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi:
- Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không muốn vô nhà thương
khám bịnh hay chữa trị ǵ cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi. Dượng
muốn nhờ Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà khám
bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không th́ Dượng chẳng yên tâm.
Nghe ông Dượng nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu, cụ Hương bị mệt xỉu
phải đưa vô nhà thương cấp cứu. Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đ̣i người nhà
phải đưa cụ về ngay. Cụ một mực
từ chối, không chịu để điều trị trong bịnh viện đă thuộc về tay chính
quyền CS.
Mặc dầu có quen biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay đến nhà tôi, lúc ấy
c̣n là một người bạn, v́ trong hoàn cảnh không biết tương lai ra sao,
nên chúng tôi chưa nghĩ đến việc lập gia đ́nh. Tôi nhận lời Dượng, hứa
t́m một bác sĩ của "chế độ ḿnh" để nhờ khám bịnh cho cụ. Khi nghe tôi
tŕnh bày, nhà tôi chẳng chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần đầu
tiên nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nh́n mặt v́ mắt cụ
đă mờ;. Cụ Hương hỏi nhà tôi:
- Con đến đây thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm khó dễ con không?
Nhà tôi trả lời:
- Thưa cụ, cháu chỉ làm bổn phận và công việc của người thầy thuốc, cháu
không ngạị
Cụ xúc động, ghé người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu nhà tôi. Nhà tôi
tiếp:
- Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh nghiệm và kiến thức
hăy c̣n ít, chữa bịnh cho cụ, nếu có điều ǵ không biết, cháu sẽ về đọc
sách lại.
Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà tôi như để trấn an.
Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm bịnh cụ. Dường như
việc trị bịnh đối với cụ chẳng có ǵ quan trọng, cụ không quan tâm lắm,
mặc dầu cụ luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những lời dặn
của bác sĩ. Điều làm cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ
nói chuyện. Do đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi
khám bịnh. Cụ nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và
bạn bè ở Pháp gởi về tặng cụ. Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa
cho người em rể cụ đem ra chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đ́nh
con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm
động như sau:
- Con biết không, chú có thằng em đến thăm (cụ xưng chú với nhà tôi, khi
biết thân phụ nhà tôi lớn hơn cụ vài tuổi) nó đem đến một hộp sữa ḅ c̣n
tặng chú 5 đồng (lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng tiền mới).
Chú thương nó có t́nh, nhưng nghĩ nó phải đạp xích lô cực khổ để sinh
sống, nên chú không nỡ lấy. Nhưng nếu chú không nhận th́ "sợ nỏ buồn tội
nghiệp", nên chú chỉ nhận có 5 đồng, c̣n hộp sữa th́ bảo nó đem về cho
gia đ́nh (lúc ấy sữa rất khó mua). Người mà cụ kể là "thằng em" một cách
thân mật chính là thuộc hạ cũ của cụ.
Cụ Hương c̣n tâm sự với nhà tôi những chuyện lúc cụ c̣n trẻ. Có một thời
gian cụ cùng với một người con trai (Trần Văn Doi) theo hoạt động cho
Việt Minh chống Pháp. Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của Việt Minh, cụ
dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên lạc với người con trai từ lúc
ấy. Người con trai nầy đă ở lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS.
Sau khi Sàig̣n bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một bác sĩ VC. Có
lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng nầy cũng nhằm mục đích theo dơi cụ.
Cụ Hương cũng có một người con khác đang sinh sống tại California. Anh
có một đứa con bị bịnh Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm
1975. Đă nhiều lần anh muốn bảo lănh cụ ra nước
ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi:
- Trước kia đại sứ Martin năn nỉ,
yêu cầu chú đi, chú đă từ chối. Bây giờ đời nào
chú lại xin chính quyền CS để được đi.
Những lần đi thăm bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự nhiều hơn về những vụ
buồn trong cuộc đời tham chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những
người mà cụ đặc biệt quư mến như bác sĩ Bạch Đ́nh Minh. Cụ ngậm ngùi kể:
- Bác sĩ Minh là một người mà chú rất quư trọng. Hồi trước chú thấy bác
sĩ Minh đi khám bịnh mà không có đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác
sĩ Minh một cái, nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả lại chú.
Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội hết ḷng tận tụy và giàu
tinh thần trách nhiệm, chú đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng
"Bảo quốc huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận
viện lẽ ông đang làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho
những người xả thân chiến đấu, hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần
khác cụ hỏi nhà tôi:
- Con có biết bác sĩ Trần Lữ Y không?
Nhà tôi thưa:
- Bác sĩ Trần Lữ Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y khoa.
Cụ Hương tâm sự:
- Hồi trước bác sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho chú, họ đề nghị đưa chú
sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng Trần Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi
bác sĩ Trần Lữ Y bằng "thằng", v́ chú thương nó như con chú vậy. Khi máy
bay ghé Manille, suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ
Trần Lữ Y phải ra phố kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có
người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua đời bên Pháp v́ bịnh ung thư, có đúng như
vậy không?
Nói tới đây, cụ im lặng hồi lâu như nén sự xúc động. Mấy tuần sau, nhà
tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y vẫn c̣n khỏe mạnh ở bên Pháp và có pḥng
mạch tư, gần với pḥng mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội vàng
ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật về bác sĩ Trần Lữ Ỵ.
Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói ǵ. Hai gịng nước
mắt từ từ lăn trên má cụ.
Mặc dầu sức khỏe cụ Hương lúc đó đă sa sút nhiều,
đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ
có gắn một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái chuông nhỏ để khi
cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán phục cụ có trí nhớ đặc
biệt. Cụ có thể nhớ nguyên văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ
giấc của sự kiện đă xảy ra. Cụ không quên từng chi
tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với nhà tôi rằng:
- Chú nghĩ người làm chính trị
phải có giáo dục và đạo đức. Khi tham chính tất nhiên chú chấp nhận có
phe đối lập, nhưng dầu khác lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn trọng họ.
Có một dân biểu trẻ tên là (xin giấu tên), trong một buổi họp quốc hội,
đă đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú nói những lời vô lễ (xin không ghi
lại câu vô lễ nầy)... V́ dân biểu nầy đáng con chú. Chú buồn và tiếc cho
người làm dân biểu mà không biết đến chữ "lễ", không tỏ ra có tư cách
của người học thức, chớ không buồn về lập trường đối lập của họ.
Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng "sớm muộn ǵ con
cũng phải ra đi". Chuyện ra đi không biết khi nào mới thành công, nhưng
không bao giờ con bỏ ư định đó. Chẳng phải v́ miếng cơm manh áo, hay sự
cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng v́ cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe
dọa, thiếu an toàn, ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt v́ bất cứ một lư
do viển vông nào. Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà
không nói ǵ. Măi một lúc sau, cụ thở dài chép miệng:
- Có lẽ chú làm không đúng khi ra lịnh ngăn người ta ra khỏi nước trong
những ngày hỗn loạn.
Lúc nhà tôi từ giă cụ ra về, cụ ôm hôn nhà tôi và
nói:
- Chú gặp con muộn quá!
Vào tháng 4 - 1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt biên lần thứ 13.
Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng
cụ giấu kín t́nh cảm để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó, tôi
cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đ́nh do anh chị tôi bảo
lănh. Một ngày trước khi đi, tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản,
đứng một ḿnh bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa thoát
khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối, và một nỗi buồn khi biết rằng ḿnh sẽ
mất bao nhiêu gắn bó thân thuộc khi ĺa khỏi nơi đây.
Cụ Hương vẫn là
h́nh ảnh làm cho ḷng tôi se thắt, là một cánh sen nổi trên ḍng nước
đang giao động của tâm hồn tôi.
Dưới đây là hai mẩu chuyện được nhắc lại như một giai thoại. Hồi tháng 4
năm 1954, khi có sự vụ lịnh của thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm bổ nhiệm cụ
Hương làm đô trưởng Sàig̣n - Chợlớn, th́ cụ đi làm việc hàng ngày bằng
chiếc xe đạp Alcyon. Khi vô ṭa đô chính nhận việc, người lính gác cổng
chận lại và không cho cụ vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Đô Trưởng" họ cũng
không tin. Cụ phải tŕnh sự vụ lịnh mới được bổ nhiệm, người lính mới
hoảng hồn, định chắp tay lạy cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn
xe đạp vô làm việc. Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh (1964), hàng
tháng chính phủ trả phủ cấp thêm 10.000 đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả
lại công quỹ, v́ cụ nói "không có chuyện ǵ cần phải xài."
Nhắc lại về thái độ của cụ Trần Văn Hương trong những ngày đen tối của
đất nước chúng tôi thấy có hai sự kiện đáng ghi nhớ:
Cuốn hồi kư "Saigon et moi" của cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông
Mérillon kể lại: "Măi tới tối 18 - 4 - 1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới
cho ông (Mérillon) hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN." Đại sứ Martin nói:
- Từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai tṛ tái lập ḥa b́nh cho VN.
Mérillon chuyển lời nói nầy cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Hương
nói:
- Ông Đại sứ à! Tui đâu có ngán
Việt Cộng. Nó muốn đánh, tui đánh tới cùng. Tui không muốn lưu vong xứ
người. Nếu trời hại nước tui, tui xin thề ở lại và mất theo nước này.
Đến ngày mất nước, đại sứ Martin c̣n đến gặp cụ Hương và nói:
- Ngài đi với tôi sang Mỹ Chánh
phủ Mỹ sẽ nuôi dưỡng Ngài suốt đời, tôi nhân danh chánh phủ Hoa Kỳ đến
mời Tổng Thống ra khỏi nước với bất cứ phương tiện nào mà ngài muốn.
Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với
cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống măn phần.
Cụ Trần Văn Hương mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp):
- Thưa ngài đại sứ, tôi biết t́nh
trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đă đến nỗi như
vậy, Mỹ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại Sứ đến mời tôi ly
hương, tôi rất cảm ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đăsuy nghĩ kỹ và quyết định
dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào được Saigon, th́
bao nhiêu đau khổ, nhục nhă sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là
người lănh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi t́nh nguyện ở lại chia xẻ một
phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước.
Cám ơn ông Đại Sứ đă đến thăm tôi.
Tới đây, tôi lại nhớ đến liêm sỉ
và tiết tháo của một người lănh đạo Cam Bốt, một nước láng giềng mà dân
ta thường hay có thái độ coi thường. Đó là ông hoàng Sirik Matak, Phó
Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4 định mệnh ấy (1975) khi quân Khmer đỏ
sắp tràn ngập Phnom Penh, Đại Sứ Mỹ tại đây là John Gunther Dean đến mời
hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông Sirik Matak từ chối và trả
lời bằng thư sau:
"Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher Ami)
Tôi rất thành thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề nghị giúp đỡ của Ngài
đưa chúng tôi đến nơi tự do, nhưng tôi không thể ra đi một cách hèn nhát
như thế.
Về phần Ngài và quốc gia to lớn của Ngài, tôi không bao giờ ngờ rằng
Ngài sẽ bỏ rơi một dân tộc đăchọn tự dọ. Quư Ngài đă từ chối bảo vệ
chúng tôi, chúng tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho Ngài
và quốc gia của Ngài t́m được hạnh phúc dưới bầu trời của quư ngài.
Nếu tôi chết ở đây trong nước tôi mà tôi yêu, th́ thôi mặc, bởi v́ tất
cả chúng ta đă được sanh ra để rồi một ngày nào đó
th́ chết. Tôi chỉ có làm một lỗi lầm là đa ? nơi Ngài và tin nơi những
người Hoa Kỳ
Xin Ngài và bạn thân, nhận nơi đây những cảm t́nh trung thực và thân ái
của tôi.
Sirik Matak,
Theo lời người dịch, thư này sau mấy năm, có lần được đọc trong một
phiên họp Quốc hội Hoa Kỳ, và được lưu giữ trong văn khố Quốc Hộị (Trích
bài biết của BS Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3 năm 1998).
Hứa Hoành
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/portal.html