Ngô Đ́nh Nhu
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
(Tùng Phong dịch)
4
Phần II
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI VỪA TR̀NH BÀY
(tiếp theo)
Cơ thức Tây phương hoá
Như đă tŕnh bày trên đây, nguồn gốc của một cuộc Tây phương hoá tự ư, trước tiên hết, là ư chí muốn thâu thập kỹ thuật tổ chức quân đội và kỹ thuật vơ trang quân đội. Thường thường th́ các nhà lănh đạo, chủ trương thâu thập các kỹ thuật trên, đều có ư định muốn ngừng lại sau giai đoạn đó. Nhưng mà như thế là phủ nhận một định luật xă hội không làm sao tránh được: khi hai nền văn minh gặp nhau, liền tháo chốt cho một gịng sự kiện tuần tự diễn tiến theo một cơ thức nhất định. Và với tất cả nỗ lực và phương tiện có thể vận dụng được, th́ ngay ở giai đoạn này, các nhà lănh đạo, đă bắt đầu công cuộc Tây phương hoá cũng không c̣n có thể ngưng lại được nữa. Công cuộc Tây phương hoá sẽ thực hiện với họ hay là không có họ. Theo một cơ thức nhất định, sau lĩnh vực quân sự, làn sóng Tây phương hoá sẽ làm tràn đến lĩnh vực cơ cấu chính trị. Ít khi mà lĩnh vực cơ cấu chính trị được Tây phương hoá một cách êm ái, trừ ra khi nào chính các nhà lănh đạo đă ư thức được rơ rệt vấn đề tự ư Tây phương hoá, như ở nước Nhật. Thường thường th́ sau nhiều cuộc chánh biến, các cơ cấu chính trị của chế độ cũ, nhường chỗ cho những cơ cấu chính trị theo kiểu Tây phương. Ví dụ chế độ quân chủ chuyên chế nhường chỗ cho một chế độ quân chủ lập hiến theo kiểu Anh hay một chế độ cộng hoà theo kiểu Pháp, hoặc một chế độ Tổng Thống chế theo kiểu Mỹ. Bới v́ lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực chi phối tất cả đời sống của quốc gia, cho nên sức kháng cự lại làn sóng Tây phương hoá thường mạnh nhất ở lĩnh vực này, và công cuộc Tây phương hoá cũng đẫm máu nhiều nhất ở lĩnh vực này.
Nhưng sau đó, từ lĩnh vực cơ cấu chính trị sang lĩnh vực giáo dục và sản xuất kinh tế th́ công việc lại trở nên dễ dàng và như không c̣n gặp trở lực nữa. Bắt đầu từ đây, công cuộc Tây phương hoá lại bước sang một giai đoạn mới. Từ trước chủ trương Tây phương hoá chưa hoàn toàn thắng lợi và phải nhiều cam go lắm mới lọt vào được nội thành của xă hội bị tấn công. Nhưng từ đây, chủ trương đă chiếm được thành rồi, sang giai đoạn mới, công cuộc Tây phương hoá toàn diện sẽ không gặp những trở lực do chủ trương thủ cựu dựng lên nữa. Sự thành tựu hay không của công cuộc Tây phương hoá, từ lúc này, chỉ c̣n tuỳ thuộc ở quan niệm một công cuộc Tây phương hoá đến mức hay không đến mức của người lănh đạo.
Tây phương hoá sâu và rộng, hay là thất bại và sụp đổ
Giai đoạn mới này lại c̣n có một đặc điểm khác. Từ trước tới đây chủ trương Tây phương hoá chỉ liên quan đến số người lănh đạo. Chủ trương Tây phương hoá cũng họ mà chống đối cũng họ. Nhưng từ đây trở đi, vân đề Tây phương hoá, đă ngă ngũ ở trong giới của họ, mới bắt đầu lan ra đại chúng. Và cuối cùng th́ sự thành công hay thất bại của công cuộc Tây phương hoá lại ở chỗ sự Tây phương hoá có thật sự lan rộng và ăn sâu đến đại chúng không? Nếu sự Tây phương hoá có lan rộng và ăn sâu đến đại chúng th́, trong một thời giai ngắn hay dài, tuỳ theo những biện pháp áp dụng để thực hiện công cuộc Tây phương hoá, sự Tây phương hoá sẽ ăn rễ ở quần chúng. Và ngược lại những sinh lực phát sinh từ quần chúng đă bắt đầu Tây phương hoá, lại hợp thành một hậu thuẫn vừa củng cố vừa thúc đẩy công cuộc Tây phương hoá.
Trái lại, nếu sự Tây phương hoá không lan rộng và ăn sâu đến đại chúng th́, trong một thời gian ngắn, quần chúng sẽ ly khai với nhóm người lănh đạo, và xă hội sẽ rơi vào một t́nh trạng phân ly rất là nguy hiểm cho sự tiến bộ của cộng đồng. Một bên, một thiểu số Tây phương hoá, một bên, khối đại đa số vẫn sống theo các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sự cách biệt sẽ rất trầm trọng giữa hai bên, và công việc lănh đạo không thể thi hành được, giữa hai khối người không sử dụng cùng một lối suy tưởng và không cùng tôn trọng những giá trị tiêu chuẩn chung. Trong trường hợp đó, sự nắm chính quyền của nhóm người, đă ly khai với đại chúng, là một hiện trạng bất thường chỉ duy tŕ được bằng những biện pháp cảnh sát cứng rắn. T́nh thế đă chín muồi cho một cuộc cách mạng. Cách mạng sẽ bùng nổ, khi nào khối quần chúng được một lănh tụ quy tụ bằng uy tín cá nhân, hay được một đảng phái quy tụ bằng một đường lối, hay nữa, khi nào có một cuộc ngoại xâm. Xem thế chúng ta nhận thấy rơ tất cả các nguy hại nếu công cuộc Tây phương hoá thất bại trong giai đoạn này và đồng thời cũng ư thức tính cách thiết yếu của một sự thành công.
Tây phương hoá nửa chừng
Bây giờ chúng ta trở lại các giai đoạn tiến triển của công cuộc Tây phương hoá. Những công cuộc Tây phương hoá, phân nửa thất bại, của các quốc gia ở Cận Đông giúp cho chúng ta một bản kê khai, khá đầy đủ, về sự tiến triển của công cuộc Tây phương hoá trong từng giai đoạn. Nhờ đó chúng ta được biết chắc chắn các sự kiện dưới đây.
Từ lúc chủ trương Tây phương hoá đă lọt vào thành nội cơ cấu chính trị của một quốc gia rồi, th́ từ đó sự lan tràn sang lĩnh vực giáo dục và kinh tế không gặp khó khăn nữa. Từ hai lĩnh vực này, công cuộc Tây phương hoá mới bắt đầu ăn sâu và lan rộng vào đại chúng. Ở nhiều quốc gia Cận Đông ư chí Tây phương hoá đến mức này là măn hạn, v́ sự kém khả năng huy động quần chúng của chính quyền Trung ương.
Trong trường hợp đó, công cuộc Tây phương hoá sẽ bắt đầu thất bại và sẽ mang đến những hậu quả không tốt, như chúng ta đă thấy trên kia. Cũng nhờ ở những sự thất bại, nhận thấy ở trên, mà chúng ta được biết rằng trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia, th́ lĩnh vực đời sống thông thường, mà ngày nay chúng ta quen gọi là lĩnh vực xă hội và lĩnh vực văn hoá, là hai lĩnh vực có sức kháng cự nhiều nhất đối với sự Tây phương hoá, sau lĩnh vực tín ngưỡng mà chúng ta sẽ bàn đến, một cách riêng biệt, sau này.
Sở dĩ như vậy, là v́ hai lư do. Trước hết sự Tây phương hoá càng đi sâu vào những lĩnh vực liên quan đến số đông người, sức kháng cự càng mạnh, bắt nguồn ở sức thụ động của quần chúng. Lư do thứ hai là, sức kháng cự càng mạnh khi đụng đến các lĩnh vực liên quan đến những di sản tinh thần của dân tộc. Nếu hai lư do trên lại có cơ hội gặp nhau ở một lĩnh vực th́ sức kháng cự lại c̣n mănh liệt hơn nữa: Ví dụ như lĩnh vực tín ngưỡng và tôn giáo.
Cho đến ngày nay, chưa có một cuộc Tây phương hoá nào, kể cả hai cuộc Tây phương hoá thành công nhất của Nga Xô và của Nhật, đă vượt qua được lĩnh vực tôn giáo. Sự kiện này giải thích v́ sao mà thế giới hiện nay, mặc dầu ở dưới sự chi phối hoàn toàn của kỹ thuật Tây phương, vẫn chia ra làm nhiều khu vực văn hoá và tôn giáo rơ rệt.
Một ví dụ lịch sử
Nếu có người nghĩ rằng, có lẽ thời gian chưa đủ dài, để cho các công cuộc Tây phương hoá nói trên, hoàn toàn xâm nhập vào các lĩnh vực tôn giáo, th́ chúng ta có thể lấy trường hợp của đế quốc Hy Lạp La Mă khi xưa đối với các quốc gia ở trong khu vực ảnh hưởng của ḿnh, để thêm một bằng cớ rằng công cuộc Tây phương hoá ngày nay không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo.
Xưa kia, các nước nằm trong đế quốc La Mă, hoàn toàn La Mă hoá trên mọi lĩnh vực, trừ ra lĩnh vực tôn giáo, mặc dù sự thống trị của đế quốc La Mă đă kéo dài gần một ngàn năm. Hơn thế nữa, sau đó, chính một tôn giáo Đông phương, Gia Tô giáo, đă thống trị ngược lại hết đế quốc La Mă Hy Lạp lúc bấy giờ. Nhưng đó là một vấn đề thuộc về một địa hạt lớn lao mà chúng ta không thể đề cập ở đây được. Nay chỉ cần ghi nhớ thêm một điểm: Công cuộc Tây phương hoá không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo. Sau này chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Trên lĩnh vực văn hoá, t́nh trạng có hơi khác. Văn hoá dân tộc bắt nguồn từ di sản tinh thần thừa hưởng của dĩ văng gồm, một mặt, các sáng tác văn hoá khẩu truyền hay thư loại, một mặt, đặc thức suy tưởng của dân tộc mà di sản đó đă hun đúc trong nhiều thế hệ. Nay, mở cửa tiếp văn minh Tây phương có nghĩa là thâu nhận thêm nhiều sáng tác văn hoá. Nhưng sự thâu nhận, dù có lên đến một mức độ quan trọng nào cũng không phủ nhận được di sản tinh thần của dĩ văng. Do đó, đặc thức suy tưởng cổ truyền của dân tộc, nếu có bị ảnh hưởng ít nhiều, vẫn giữ nguyên bản chất. Như vậy ta nên chia lĩnh vực văn hoá làm hai phần: phần thứ nhất là phần văn hoá hấp thụ, và phần thứ hai là phần văn hoá sáng tạo. Phần hấp thụ sẽ thu nhận văn hoá Tây phương và chịu Tây phương hoá. Nhưng phần sáng tạo chắc chắn sẽ giữ đặc tính của dân tộc v́ chịu ảnh hưởng đặc thức suy tưởng cổ truyền.
Như vậy chúng ta có thể tin rằng công cuộc Tây phương hoá sẽ không làm mất tính chất dân tộc, nếu chúng ta, sau khi chế ngự được các kỹ thuật của Tây phương, lên đến mức độ sáng tạo với những phương tiện kỹ thuật đó. Những sự kiện dưới đây có thể xem như là những bằng cớ để xác nhận điều quả quyết trên đây.
Các dân tộc ở Âu châu đều sống trong một nền văn minh kỹ thuật chung. Chẳng những tất cả các phương tiện kỹ thuật về sản xuất, về vận chuyển, về thông tin, vân vân..., đều như nhau, mà cho đến những chi tiết trong đời sống hằng ngày cũng giống nhau, mặc cùng một thứ quần áo, ăn cùng một thức ăn. Nhưng tất cả các sáng tác trong mỗi ngành của mỗi dân tộc đều khác. Ví dụ âm nhạc của một người Đức, không bao giờ giống âm nhạc của một người Anh. Nghĩa là, mặc dù sống trong một không khí văn minh kỹ thuật duy nhất, nhưng các di sản tinh thần của mỗi dân tộc vẫn cứ bộc lộ trong các sáng tạo của dân tộc đó.
Sau hơn bốn mươi năm của một công cuộc Tây phương hoá triệt để, thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống, các sáng tạo văn hoá của Nga Xô vẫn mang đặc tính dân tộc người Nga. Sau hơn một trăm năm Tây phương hoá toàn diện, các sáng tạo văn hoá của Nhật vẫn mang đặc tính dân tộc Nhật.
Có lẽ tới đây chúng ta không cần kéo dài cuộc biện luận nữa. Chúng ta có thể quả quyết rằng một công cuộc Tây phương hoá toàn diện không làm mất bản chất dân tộc, miễn là chúng ta phải vượt lên được đến mức sáng tạo. Dưới mức này, cố nhiên là dân tộc tính không bộc lộ được, và trong không khí ồ ạt của văn minh kỹ thuật Tây phương, dân tộc tính có vẻ như bị mất. Nay, nếu chúng ta phán đoán theo vẻ bên ngoài ấy th́ chúng ta sẽ rụt rè như các cụ, xưa kia, sợ mất quốc hồn quốc tuư và công cuộc Tây phương hoá của chúng ta sẽ thất bại và mang đến tất cả các hậu quả tai hại, mà chúng ta biết.
Ảnh hưởng tương phối giữa tôn giáo và sự kiện Tây phương hoá
Trước khi sang vấn đề Tây phương hoá đến mức độ đủ cao, chúng ta trở lại một chút về vấn đề tôn giáo và công cuộc Tây phương hoá. Công cuộc Tây phương hoá không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo và tín ngưỡng. Vấn đề này đă được đề cập đến nhân khi bàn đến giới hạn ảnh hưởng của công cuộc Tây phương hoá. Tuy nhiên tự nó vấn đề tôn giáo không quan hệ đối với một công cuộc Tây phương hoá.
Trước đây xă hội Tây phương xây dựng trên căn bản tinh thần của đạo giáo Gia Tô. Nhưng sau đó nhiều sự mâu thuẫn nội bộ về giáo lư đă làm nguồn gốc cho những cuộc chiến tranh tôn giáo tàn khốc làm suy giảm tín ngưỡng của đại chúng. Và kế đó, sau khi thoát khỏi sự g̣ bó tư tưởng của giáo hội La Mă, khoa học Tây phương mới phát triển được đến mức độ ngày nay và trang bị xă hội Tây phương với những phát minh hùng mạnh. Sự giảm tin tưởng vào một tôn giáo, đă có một thời chủ trương những tư tưởng chật hẹp về vũ trụ, đă làm lung lay đến tận nền tảng cơ sở tôn giáo của xă hội Tây phương. Nhưng vừa đúng lúc khi văn minh Tây phương chứng kiến sự suy giảm của đức tin vào sức mạnh tín ngưỡng mà Gia Tô giáo đă hun đúc trong nhiều thế kỷ, th́ văn minh Tây phương lại được khoa học tạo cho ḿnh một đức tin vào sức mạnh kỹ thuật, mà tính cách hữu hiệu trong công cuộc chinh phục thế giới c̣n hơn bội phần sức mạnh tín ngưỡng đă mất.
Gần đây, sau khi khoa học đă tỏ ra không đủ khả năng để giải quyết một ḿnh các vấn đề căn bản của nhân loại, th́ tinh thần tôn giáo lại phục hưng. Nhưng cho đến ngày nay, sự phục hưng tinh thần tôn giáo trong xă hội Tây phương chưa lên đến một mức độ đủ cao để cho sự thâu thập văn minh Tây phương, mặc nhiên, bắt buộc sự thâu thập tôn giáo Tây phương.
Do đó, trong thời kỳ hiện nay, có thể gọi là thời kỳ hậu tôn giáo của văn minh Tây phương, vấn đề tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc Tây phương hoá. Nhưng vấn đề tôn giáo lại có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng cho công cuộc phát triển dân tộc như chúng ta sẽ thấy sau này.
Công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao
Mấy trăm năm kinh nghiệm của Nga và gần một thế kỷ kinh nghiệm của Nhật chỉ cho chúng ta thấy hai điều:
Trước hết là, một khi, để chống lại với sự tấn công của văn minh Tây phương, chúng ta đă lao ḿnh vào công cuộc Tây phương hoá, và, nếu công cuộc Tây phương hoá của chúng ta không đạt đến một mức độ đủ cao th́, sự đe doạ nói trên vẫn c̣n măi, và mục đích của cuộc Tây phương hoá sẽ không đạt được. Bởi v́, như chúng ta đă thấy trong trường hợp của hai nước kể trên đây, và nhất là trong thời kỳ đầu của trường hợp Nga, nếu chúng ta không Tây phương hoá đến mức độ đủ cao th́ lúc nào chúng ta cũng chạy theo đuôi kỹ thuật Tây phương và do đó sự đe doạ không chấm dứt được.
Điều thứ hai lại do điều thứ nhất mà ra. Muốn không chạy theo đuôi kỹ thuật Tây phương nữa th́ chúng ta phải chế ngự cho được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Lúc bấy giờ, như Nga Xô ngày nay, chúng ta sẽ có đủ khả năng để góp phần vào công cuộc sáng tạo kỹ thuật chung của nhân loại. Thực hiện được sự góp phần này đương nhiên chúng ta sẽ tự cung cấp hai thắng lợi: thứ nhất chúng ta sẽ trở thành ngang hàng với các nước trên thê giới trên phương diện đóng góp vào văn minh nhân loại, và thứ hai là sự ngang hàng đó, cũng như kỹ thuật đă tiến bộ của chúng ta, sẽ bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi sự uy hiếp của các nước lớn, mối đe doạ truyền kiếp cho chúng ta đến ngày nay. Có một quan niệm sai lầm cho rằng công cuộc Tây phương hoá của một nước lên đến mức độ đủ cao khi nào nước đó có thể tự túc về các sản phẩm kỹ thuật và khoa học của Tây phương. Quan niệm đó sai lầm ở chỗ nó phản lại bản chất bao quát và nhân loại của khoa học. Và một khoa học cô lập là một khoa học không tiến bộ nữa. Nhưng vấn đề này lại thuộc một địa hạt rộng lớn khác.
Trở lại vấn đề Tây phương hoá đến mức độ đủ cao, các đoạn trên này cho chúng ta thấy rằng Tây phương hoá đến mức độ đủ cao, có nghĩa là Tây phương hoá đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho đến khi nào chúng ta chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, th́ chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ đủ cao. Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại c̣n cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, th́ chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương hoá.
V́ vậy cho nên, khi nào chúng ta c̣n thấy tự măn sau khi đă hấp thụ được kỹ thuật và khoa học của Tây phương, th́ công cuộc Tây phương hoá đă bắt đầu thất bại. Trong thực tế bao giờ mà các chuyên viên của chúng ta gởi đi du học ngoại quốc c̣n lấy làm tự măn sau khi vừa hấp thụ xong các kỹ thuật và khoa học của ngành ḿnh, th́ công cuộc Tây phương hoá của chúng ta c̣n ở vào một mức độ thấp và lúc nào cũng bị sự thất bại đe doạ. Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi đă hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành ḿnh, lại ư thức rơ rệt rằng, chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và c̣n cần phải nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của ḿnh, th́ lúc bấy giờ cuộc Tây phương hoá của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công.
Sự kiện trên đây giải thích cho chúng ta hiểu v́ sao, trong thời kỳ Pháp thuộc khối người mới vừa Tây phương hoá được đến một mức độ rất thấp, chiếm được vài cái bằng cao cấp, đă lấy làm tự măn, và từ đó sự tiến bộ đă ngừng hẳn. Sự kiện này chứng minh một cách rơ ràng rằng công cuộc Tây phương hoá của chúng ta ở thời kỳ Pháp thuộc, không được hướng dẫn, không có lănh đạo cho nên những người “theo mới” không biết đi đến mức nào là đúng. Chưa chi đă lấy làm tự măn th́ làm sao c̣n có ư chí để thực hiện một công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao, đ̣i hỏi nhiều nỗ lực và nhiều hy sinh.
Một công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao là một điều thiết yếu cho sự phát triển dân tộc, nhưng làm thế nào cho công cuộc Tây phương hoá đạt đến mức độ ấy?
Sau khi đă phân tích như trên kia rồi th́ chúng ta không c̣n lọt vào sự lầm lẫn thông thường cho rằng hấp thụ kỹ thuật và khoa học là đă đạt đến mức độ đủ cao. Và chúng ta biết rằng muốn đạt đến mức độ đó th́ phải chế ngự cho được khả năng sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Nghĩa là phải học cho được cái bí quyết của người Tây phương đă giúp cho họ đẻ ra khoa học và kỹ thuật.
Đặc tính của văn minh Tây phương
Sau khi hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, th́ mọi người đều công nhận khoa học và kỹ thuật Tây phương có những đặc tính sau đây: suy luận chính xác, tổ chức ngăn nắp và minh bạch. Và phần đông đều nghĩ rằng chính tinh thần khoa học Tây phương đă tạo những đặc tính ấy. Đó là một sự lầm lẫn thông thường rất tai hại và nếu đă nghĩ như vậy th́ không làm sao t́m được bí quyết đă giúp cho Tây phương sáng tạo khoa học và kỹ thuật.
Sự thật là những đặc tính: chính xác về lư trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức là đặc tính của nền văn minh Tây phương. Và chính nhờ có những đặc tính này, mà nền văn minh Tây phương đă sáng tạo ra khoa học. Khoa học mang những đặc tính ấy như là những đặc tính bẩm sinh, chớ không phải khoa học tạo ra các đặc tính ấy. V́ vậy cho nên sự hấp thụ khoa học và kỹ thuật của Tây phương không, không đủ tạo cho người hấp thụ khả năng sáng tạo khoa học, tiêu chuẩn của một công cuộc Tây phương hoá thành công đến mức độ đủ cao.
Trước khi khoa học phát minh và phát triển như ngày nay, tập quán của người Tây phương đă chính xác trong suy luận và ngăn nắp minh bạch trong tổ chức. Trái lại lối suy luận, ví dụ của người ở xă hội Đông Á là lối suy luận trực giác, h́nh ảnh, và do đó, mơ hồ. Nhưng chính người Tây phương đă thừa hưởng những đặc tính đó của văn minh Hy Lạp và La Mă. Chính xác về lư trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức đă nằm sẵn trong lối kiến trúc câu văn của Hy Lạp cũng như của La Mă.
Sau khi đế quốc La Mă phía Tây, đóng đô ở Roma đă sụp đổ, xă hội Tây phương trải qua một thời đại đen tối v́ hai lư do. Trước hết sự xâm chiếm của các bộ lạc man rợ đă cắt đứt xă hội Tây phương với nguồn gốc Hy Lạp, La Mă. Lư do thứ hai là, v́ sự tồn tại của xă hội Gia Tô giáo Tây phương, giáo hội La Mă, trong một thời kỳ vô cùng hỗn độn đă bắt buộc áp dụng một chủ trương đóng khung tư tưởng đến cực độ. V́ đó mà, nếu giáo hội với tư cách là người thụ thác của văn minh Hy Lạp La Mă khi xưa đă cứu vớt được tập quán ngăn nắp và minh bạch trong đời sống, đă không bảo vệ được, đặc tính chính xác về lư trí của văn minh Hy Lạp và La Mă.
Sau đó, nhờ t́nh h́nh tương đối ổn định, sự nối lại với nguồn gốc văn minh Hy Lạp La Mă đă thực hiện được và xă hội Tây phương bước vào thời kỳ thường gọi là Phục Hưng, phục hưng tinh thần văn minh Hy Lạp và La Mă, đồng thời cởi bỏ được sự đóng khung tư tưởng của giáo hội. Và từ đó lần lần với sự củng cố chính trị của các quốc gia trong xă hội Tây phương, khoa học mới phát minh và nảy nở.
Sở dĩ các sự kiện lịch sử trên đây được nhắc lại là để chứng minh rằng bí quyết đă giúp cho người Tây phương sáng tạo được khoa học và kỹ thuật là ba đức tính ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lư trí. Họ đă dùng những đức tính ấy như những khí cụ giải phẫu sắc bén để t́m hiểu vũ trụ và tạo hoá. Nếu không có những khí cụ thám cứu đó, sự t́m hiểu vũ trụ và tạo hoá không thực hiện được. Và nếu sự t́m hiểu vũ trụ và tạo hoá không thực hiện được th́ khoa học không phát minh và nảy nở được. Tưởng nên nhắc lại một lần nữa rằng người Tây phương không phải chỉ ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lư trí riêng trong lĩnh vực khoa học mà thôi. Họ đă ngăn nắp, minh bạch tổ chức và chính xác về lư trí trong câu văn, lời nói, hành động và đời sống hàng ngày. Trải qua nhiều thế kỷ các đức tính ấy đă được hun đúc thành tinh thần kỹ thuật Tây phương.
Trở lại việc t́m hiểu vũ trụ và tạo hoá trên kia, chúng ta nên thêm rằng một khi đă có trong tay những khí cụ thám cứu, việc t́m hiểu vũ trụ chưa chắc đă có kết quả được, nếu chúng ta có một quan niệm chấp nhận vũ trụ như Thượng Đế đă ban cho, và v́ vậy, không cần t́m hiểu thêm nữa. Nhưng đây là một điểm đă lọt sang lĩnh vực “tôn giáo và công cuộc Tây phương hoá” dưới đây.
Sự kiện đă như vậy th́, nếu chúng ta muốn chế ngự khả năng sáng tạo khoa học chúng ta cần tạo cho dân tộc các đức tính nói trên kia. Nói rơ hơn nữa đồng thời với vấn đề hấp thụ khoa học và kỹ thuật đương nhiên phải có, chúng ta phải gieo sâu vào trí năo của mọi người tập quán ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lư trí. Chính đó mới là căn bản của một cuộc Tây phương hoá chính danh có đường hướng và có mục đích. Vấn đề đă đặt ra như vậy, chúng ta mới ư thức rơ rệt tính cách vĩ đại của công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta cần phải thực hiện. Không phải Tây phương hoá một nhóm người, mà Tây phương hoá toàn thể dân tộc. Không phải Tây phương hoá trên mặt, chỉ bắt chước lối sống của người Tây phương mà phải Tây phương hoá cho đạt đến cái tinh tuư văn minh Tây phương. Công cuộc đă vĩ đại như vậy, th́, tuy chúng ta chưa bàn đến chi tiết thực hành, nhưng chúng ta cũng quan niệm được, ngay bây giờ, tính cách lớn lao của các phương tiện cần phải vận dụng, cũng như tính cách nặng nề của những hy sinh đ̣i hỏi và tính cách liên tục và trường kỳ của những nỗ lực phi thường cần thiết.
Chúng ta phải ngăn nắp, minh bạch trong tô chức và chính xác về lư trí, không phải riêng cho lĩnh vực nào, mà trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, không phải riêng cho một tŕnh độ trí thức nào, mà cho tất cả các tŕnh độ trí thức. Nghĩa là ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lư trí phải chi phối tất cả hoạt động của chúng ta, trong gia đ́nh cũng như ngoài gia đ́nh, từ phạm v́ sinh hoạt thông thường đến những phát triển cao nhất của lư trí. Do đó, vai tṛ của mỗi người đều quan trọng, và do đó, vai tṛ của các người đàn bà trong gia đ́nh vô cùng mật thiết với sự phát triển dân tộc.
Xem như thế, chúng ta lại c̣n phân biệt rơ rệt đặc tính của hai cuộc Tây phương hoá. Cuộc Tây phương hoá bắt buộc, không đường hướng, không mục đích, dưới thời Pháp thuộc, chỉ là một cuộc Tây phương nông cạn, của một mớ người. Thậm chí, đến các người phụ nữ cũng bị gạt ra khỏi việc theo mới: trong khi các ông mặc âu phục, ăn theo Tây và nói tiếng Tây, th́ các bà vẫn phải vận ta, ăn theo ta, nói tiếng ta, để mà bảo vệ phong tục Việt Nam.
Trái lại, công cuộc Tây phương hoá tự ư, có lănh đạo, có mục đích, như chúng ta quan niệm ngày nay, là một cuộc Tây phương hoá toàn diện cho mọi người và đến mức độ đủ cao để cho mục đích của công cuộc Tây phương hoá đạt được.
Cố nhiên một công cuộc đại quy mô như vậy đ̣i hỏi ở toàn dân, những nỗ lực phi thường một cách liên tục và trường kỳ, những hy sinh lớn lao và nặng nề. Nhưng thực hiện công cuộc phát triển dân tộc to tát đến tầm mức ấy, là một hành động có mănh lực hấp dẫn đến tột bậc, tất cả các phần tử của dân tộc.
Một công cuộc phát triển dân tộc vĩ đại đến tầm mức ấy, hùng mạnh như nước hải triều đang lên, hấp dẫn và lôi cuốn mọi người, v́ đó là lẽ sống của dân tộc.
Công cuộc Tây phương hoá tự ư
Một công cuộc Tây phương hoá tự ư, có đường hướng và có mục đích, phải toàn diện và đến mức độ đủ cao. Sự Tây phương hoá phải ăn sâu và lan rộng đến toàn dân. Ngược lại một công cuộc Tây phương hoá bắt buộc như thời Pháp thuộc, không có lănh đạo, không có mục đích, hỗn độn và nông cạn, chỉ giới hạn trong một nhóm người thường tiếp xúc với người Pháp. Công cuộc Tây phương hoá thời Pháp thuộc, là một công cuộc tự nó phát sinh như cỏ dại, đụng đâu mọc đấy, không ai chăm nom và cũng không ai thiết đến. Công cuộc Tây phương hoá chúng ta chủ trương là một công cuộc do chúng ta tạo ra như trồng một cây quư, lúc nào cũng phải săn sóc, vun phân, tưới nước.
V́ các lư do trên, cho nên các nỗ lực Tây phương hoá của chúng ta phải đặt trọng tâm vào đại chúng. Mà ở xứ ta đa số quần chúng là ở nông thôn. Và lư luận đă dần dần dẫn dắt chúng ta đến một kết luận tối quan trọng cho hành động của chúng ta sau này: Công tác Tây phương hoá của chúng ta phải dồn nỗ lực về nông thôn, nơi tập trung đa số nhân lực và tài sản của quốc gia. Nếu chúng ta không làm như vậy th́ chúng ta sẽ rơi vào cái sai lầm của các nhà lănh đạo các quốc gia ở Cận Đông mà chúng ta đă thấy trên kia: đương nhiên công cuộc Tây phương hoá của chúng ta sẽ giới hạn trong một nhóm nhỏ. Công cuộc Tây phương hoá, sẽ thất bại và lần lần đại chúng sẽ tách rời với nhóm lănh đạo, và t́nh trạng đó sẽ tạo hoàn cảnh thuận tiện cho một cuộc cách mạng tiêu diệt nhóm người Tây phương hoá một cách riêng biệt.
Sở dĩ chúng ta chủ trương một công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao, mục đích là để chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Khoa học và kỹ thuật của Tây phương mà chúng ta đă hấp thụ là những phương tiện. Những đức tính ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức, chính xác về lư trí, sẽ cho chúng ta khả năng chẳng những để sử dụng, mà c̣n cải tạo những phương tiện trên. Như vậy khi nào chúng ta đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương hoá, là chúng ta đă đạt lên đến lĩnh vực sáng tạo, và chúng ta đă thấy rằng đến mức đó, th́ công cuộc Tây phương hoá không làm cho mất bản chất dân tộc.
Vả lại, ví dụ mà bản chất dân tộc có phải mất v́ lẽ chúng ta tự tạo cho chúng ta được những đức tính ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lư trí, th́ có lẽ bản chất dân tộc gồm những đặc tính ngược lại với những đức tính trên. Nếu như thế th́, dù có phải mất bản chất dân tộc, để mà thâu phục được những đức tính trên, th́ cũng đáng mất.
Trong khi t́m những lư lẽ để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này chúng ta đă đương nhiên đề cập đến và giải thích như thế nào là một công cuộc Tây phương hoá toàn diện và đến mức độ đủ cao.
Tôn giáo và công cuộc phát triển dân tộc bằng cách tây phương hoá
Mục đích của công cuộc Tây phương hoá là để phát triển dân tộc, và chúng ta cũng thấy rằng, nếu tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc Tây phương hoá, th́ trái lại tôn giáo lại là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với công cuộc phát triển dân tộc. Tính cách thiết yếu của công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá không cần phải chứng minh nữa. Trên căn bản đó, dưới đây chúng ta trở lại ảnh hưởng của tôn giáo đối với công cuộc phát triển dân tộc.
Tất cả các giáo lư đều xây dựng trên một toàn bộ khái niệm về vũ trụ, trong đó đời sống của nhân loại ở thế gian này và ở thế giới bên kia là phần quan trọng nhất. Đi vào chi tiết hơn, các khái niệm sẽ liên quan đến các dây liên hệ giữa người và vũ trụ, và đến tính cách huyền bí của sự con người xuất ra từ vũ trụ. Hồi giáo và Gia Tô giáo, chú trọng về phần sau của mệnh đề trên đây, nên cả hai giải thích về số mệnh của con người sau khi rời cơi trần. Phật giáo, Lăo giáo lại chú trọng về phần trước của mệnh đề, dẫn dạy rất nhiều về tiền kiếp. Ấn Độ giáo chú trọng về cả hai phần của mệnh đề, và xây dựng thuyết linh hồn vũ trụ. Khổng giáo không phải là một tôn giáo.
Chúng ta lại có thể chia các giáo lư ra làm hai loại theo tiêu chuẩn dưới đây:
- Loại thứ nhất là các giáo lư công nhận đời sống ở thế gian này là sự thật và t́m cách giải quyết các vấn đề của nhân loại ngay trong cơi đời này.
- Loại thứ hai là các giáo lư phủ nhận đời sống ở thế gian này, không t́m cách giải quyết các vấn đề của nhận loại trong đời sống ở thế gian này và chỉ chú trọng đến đời sống ở thế giới bên kia.
Gia Tô giáo và Hồi giáo thuộc loại thứ nhất. Phật giáo, Lăo giáo và Ấn Độ giáo thuộc loại thứ hai.
Ở đây không phải chỗ để luận về tôn giáo nhưng để t́m hiểu ảnh hưởng tôn giáo đến công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá.
Công nhận đời sống và phủ nhận đời sống
Đời sống trên thế gian này, dù chúng ta có công nhận hay phủ nhận, th́ tự nó đă có. Đó là sự hiển nhiên. Và đối với chủ trương phủ nhận đời sống, th́ chính là v́ có đời sống, nên mới có người trụ vào đó mà phủ nhận đời sống. Như vậy th́, các giáo lư phủ nhận đời sống, đương nhiên đă ôm trong ḷng, ngay từ lúc đầu, một mâu thuẫn không bao giờ gỡ được. Các giáo lư công nhận đời sống, không có cái mâu thuẫn đó.
Mâu thuẫn đó ảnh hưởng thực tế như thế nào?
Các giáo lư phủ nhận đời sống, đương nhiên, giảng dạy các tín đồ không chú trọng về đời sống hiện tại, và chỉ t́m cách giải quyết các vấn đề vật chất trong thế gian này, vừa đủ để nuôi sống, chờ đợi ngày sang thế giới bên kia. Nhưng, mâu thuẫn nội bộ đă bộc lộ ra trong các giáo điều ấy, v́ như thế, th́ các tín đồ sẽ sống mà không sống, hay sẽ không sống mà sống.
Các giáo lư công nhận đời sống, mặc dù không phủ nhận đời sống bên kia thế giới, vẫn giảng dạy các tín đồ t́m cách giải quyết ngay các vấn đề vật chất ở thế gian này, và, sống cho đúng mức và sống cho đáng sống.
Do đó, các tín đồ của các giáo lư phủ nhận đời sống, sẽ có xu hướng trốn tránh cuộc đời, từ chối cuộc chiến đấu để sống, và không sẵn sàng đương đầu với các khó khăn khổ năo của cuộc đời. Nghĩa là sẽ không muốn và cũng không dám sống mạnh.
Ngược lại, các tín đồ của các giáo lư công nhận đời sống sẽ có xu hướng t́m sống, công nhận cuộc chiến đấu để sống, và sẵn sàng đương đầu với các sự khó khăn và khổ năo của cuộc đời. Nghĩa là sẽ muốn sống mạnh và dám sống mạnh.
Tôn giáo và phát triển dân tộc
Và tôn giáo sẽ ảnh hưởng quan trọng đến công cuộc phát triển dân tộc ở chỗ này. Một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách lấy Tây phương hoá là một công tŕnh vĩ đại, và, như chúng ta sẽ thấy, sẽ đ̣i hỏi ở toàn dân nhiều nỗ lực phi thường, nhiều hy sinh lớn lao, và như vậy một cách liên tục và trường kỳ. Như vậy, mặc dầu một công cuộc phát triển vĩ đại sẽ hấp dẫn đến tột độ, đời sống đă là một cuộc chiến đấu tự nó đă gian lao, đặt vào khuôn khổ một công cuộc phát triển dân tộc, đời sống sẽ gian lao hơn bội phần. Trừ một vài hoàn cảnh rất đỗi thuận lợi và hiếm có, mà chúng ta sẽ xét ở một đoạn sau, chúng ta có thể quả quyết rằng ít hay nhiều, công cuộc phát triển của dân tộc sẽ diễn ra trong không khí khổ hạnh cho mọi người. Các trường hợp của Nga Xô và của Nhật là những ví dụ rất hùng biện. Nếu may ra, hoàn cảnh của chúng ta tương tự như hoàn cảnh của Nhật, th́ không khí khắc khổ sẽ giảm đi, nhưng dầu thế nào, vẫn có.
Trong những điều kiện như vậy, cố nhiên là tín đồ của các giáo lư, thuộc loại thứ nhất, sẵn sàng tham gia một công cuộc phát triển dân tộc, như chúng ta đă tả trên đây, hơn là tín đồ của các giáo lư thuộc loại thứ hai. Bởi v́ những người thuộc nhóm trước để tâm đến đời sống hiện tại hơn, trong khi những người thuộc nhóm sau này, dù không phủ nhận được đời sống hiện tại, vẫn không tích cực t́m cách giải quyết các vấn đề, liên quan đến đời sống ở thế gian này. Lúc gặp gian khổ, xu hướng tự nhiên của những người này là tránh phấn đấu, t́m cách yên phận cho qua cuộc đời tạm bợ. Trái lại, trong hoàn cảnh đó, xu hướng tự nhiên của những người trước là cố sức phấn đấu để t́m cách giải quyết các vấn đề ngay trong đời sống hiện tại.
Những công cuộc phát triển dân tộc đă thành công có chứng minh lư luận trên đây không? Nhật Bản đă thành công trong công việc phát triển dân tộc, trong khi đó tôn giáo, của đa số quần chúng ở Nhật, là một môn phái của đạo Phật gọi là đạo Thiền. Như vậy trường hợp của nước Nhật mới xem qua, không xác nhận lư luận trên. Thật ra th́, mặc dù đạo Thiền là một môn phái của đạo Phật, nhưng sau khi sang đất Nhật rồi, đụng với dân tộc tính của Nhật, giáo lư nhà Phật đă thay đổi một cách sâu xa đến nỗi, thuyết bất bạo động của Phật đă biến thành tín ngưỡng của những nhà quư phái say máu của Nhật gọi là Samourai. Và giáo lư phủ nhận đời sống của Phật đă biến thành giáo lư công nhận đời sống của đạo Thiền. Hơn nữa các nhà lănh đạo Nhật Bản thời Minh Trị, chủ trương và hướng dẫn công cuộc Tây phương hoá nước Nhật đă đưa Thần đạo lên hàng Quốc đạo. Căn bản của giáo lư Thần đạo là tôn sùng tạo hoá dưới tất cả h́nh thức nghĩa là công nhận đời sống hiện tại, một cách hùng biện.
Trường hợp thứ nh́ của một công cuộc Tây phương hoá thành công là Nga Xô. Như chúng ta đă biết nước Nga theo Gia Tô giáo Đông phái. Gia Tô Đông phái ở Hy Lạp và Tây phái ở La Mă, đă phân ly với nhau, không phải v́ những nguyên nhân về giáo lư mà v́ những điều thuộc về nghi lễ và sử dụng tượng Thánh. Nghĩa là dân chúng Nga vẫn có tâm lư của những người tín đồ của một tôn giáo công nhận đời sống hiện tại. Tuy nhiên, trong trường hợp của Nga, yếu tố tôn giáo lại có một ảnh hưởng, không phải tích cực mà lại tiêu cực, bởi v́ phương pháp áp dụng bởi các nhà lănh đạo Cộng Sản là một phương pháp cưỡng bách đến tột độ. Do đó mức độ tham gia, đ̣i hỏi ở dân chúng vượt xa khỏi mức độ sẵn sàng tham gia của tín đồ một tôn giáo công nhận đời sống.
Trường hợp thứ ba là công cuộc Tây hương hoá có kết quả nửa chừng của Thổ Nhĩ Kỳ. Nguyên do của sự kết quả nửa chừng này ở chỗ các nhà lănh đạo Thổ Nhĩ Kỳ không quan niệm đúng mức sự cần thiết phải làm cho công cuộc Tây phương hoá ăn sâu và lan rộng vào quần chúng, hơn là ở chỗ tham gia thiếu hăng hái của quần chúng, v́ một lư do tôn giáo. Đáng lư ra, các tín đồ Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo đúng nhận xét trên đây, có thể đóng góp một sự tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc Thổ, nhưng cơ hội không đến với họ chỉ v́ các nhà lănh đạo không nghĩ rằng sự tham gia của họ là thiết yếu.
Ngay đối với các dân tộc đang nỗ lực t́m phát triển, ảnh hưởng tôn giáo đến công cuộc phát triển cũng có thể nhận thức được.
Công cuộc phát triển của dân tộc Ấn Độ chậm hơn công cuộc phát triển của dân tộc Trung Hoa không phải chỉ v́ Trung Hoa áp dụng biện pháp cưỡng bách của khối Cộng Sản, trong khi Ấn Độ áp dụng biện pháp thuyết phục của khối Tự Do.
Cho đến ngày Cộng Sản lên cầm quyền ở Trung Hoa, phản ứng tự nhiên của mỗi người Tàu, trước mọi vấn đề liên quan với đời sống, đều ăn khớp với luân lư Khổng Mạnh. Và đă là luân lư th́ đương nhiên công nhận đời sống hiện tại và lư do sinh tồn của luân lư chính là để giải quyết các vấn đề của đời sống ngay trong cơi thế gian này. Đa số dân chúng Ấn Độ theo Ấn Độ giáo mà bản chất là phủ nhận đời sống hiện tại. V́ thế cho nên chúng ta không nên lấy làm lạ mà nhận xét ở dân chúng Ấn Độ một sự tham gia kém hăng hái vào công cuộc phát triển của dân tộc hơn là dân chúng ở Trung Hoa. Giả sử mà hai khối dân chúng Ấn Độ và Trung Hoa có ở vào ngoại cảnh chính trị giống nhau đi nữa, th́ chắc chắn là vẫn sẽ có sự khác nhau về thái độ nói trên trước công cuộc phát triển.
Nói rộng ra hơn nữa, chúng ta có thể nh́n vào bản đồ các tôn giáo trên thế giới đính kèm theo quyển sách này mà tiên đoán dân tộc nào sẽ góp một phần tích cực vào công cuộc phát triển và dân tộc nào sẽ tham gia một cách khó khăn hơn khi, v́ lẽ sống c̣n, các nhà lănh đạo bắt buộc thực hiện công cuộc phát triển dân tộc.
Trên đây, chúng ta đề cập đến ảnh hưởng của tôn giáo đến công cuộc phát triển dân tộc, chỉ v́ mỗi tôn giáo, đương nhiên, rèn đúc cho tín đồ một tâm lư xă hội ăn nhịp với các khái niệm về vũ trụ và về đời sống của tôn giáo đó. Các khái niệm về đời sống đó đă ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người trước những sự kiện của đời sống, đều thích hợp với các khái niệm trừu tượng ấy.
Ảnh hưởng mà chúng ta muốn nói trên kia đối với công cuộc phát triển dân tộc chính là ảnh hưởng vô h́nh đó. Và chúng ta đă cố ư để ra ngoài và không đề cập đến một thứ ảnh hưởng chính trị thiết thực của tôn giáo, khi một giáo phái nào tự xem ḿnh là một lực lượng quần chúng có thể dùng làm một hậu thuẫn chính trị. Hay là khi một giáo phái nào, đă bị nhà đương quyền của một quốc gia liệt vào hàng một nơi ẩn trú của những người chống đối lại với chủ trương chính trị của họ. Trường hợp sau này là trường hợp của các quốc gia có một chính thể độc tài như chính thể Cộng Sản. Hai trường hợp trên đều là hai trường hợp bất thường của một giáo phái đă tự ư hay bắt buộc đưa ḿnh xuống một h́nh thức thấp hơn h́nh thức tôn giáo một bậc. Và như thế sớm hay muộn tôn giáo sẽ trải qua một cơn khủng hoảng vô cùng mănh liệt.
Phát triển dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
Nước Việt Nam, theo truyền thống văn hoá, nằm trong xă hội Trung Hoa và chịu ảnh hưởng văn hoá của Tàu. Về phương diện tôn giáo, Phật giáo và Lăo giáo đă ăn sâu vào đại chúng. Nhưng, cũng như ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống hiện tại của hai giáo lư này đă được luân lư xă hội của Khổng Mạnh quân b́nh. Nhờ đó mà có thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia một công cuộc phát triển dân tộc. Nếu có trở lực, th́ chắc chắn trở lực không phải ở chỗ tiềm thức của dân tộc quá thiên về các giáo lư phủ nhận đời sống, nhưng mà ở chỗ xă hội chúng ta bị tan ră, nên các tín hiệu tập hợp không c̣n, dù là các tín hiệu tập hợp lấy trong giáo điều của luân lư Khổng Mạnh.
Sau thời kỳ Pháp thuộc, và sau một công cuộc Tây phương hoá không có lănh đạo, một thiểu số đáng kể đă theo Thiên Chúa giáo. Theo sự kiện phân tích trên đây thiểu số tín đồ Thiên Chúa giáo, sẽ đóng góp một sự tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc. Bởi v́, trước hết, ảnh hưởng quân b́nh của luân lư Khổng Mạnh đă chế bớt rất nhiều xu hướng trốn tránh cuộc đời của những tín đồ Phật giáo. Lẽ thứ hai là ngay trong Phật giáo cũng có hai thái độ. Thái độ xuất thế, để t́m sự cứu rỗi cho bản thân, không phải trong đời sống này mà cho đời sồng bên kia thế giới. Thái độ nhập thế, để t́m cách cứu độ chúng sanh ngay trong cơi đời này. Tuy nhiên suy nghiệm theo lời nguyện của các vị Bồ Tát, hiện thân của thái độ nhập thế, th́ mục đích của sự nhập thế này, không phải làm để giúp cho chúng sanh giải quyết các vẩn đề vật chất ngay trong đời sống này, nhưng mà để độ chúng sanh khỏi kiếp luân hồi, nghĩa là để thoát khỏi cuộc đời này. Như thế th́ ngay trong thái độ nhập thế đă hàm một hậu ư xuất thế. Sự kiện này làm bộc lộ một cách rơ rệt mâu thuẫn nội tâm, về đời sống, mà chúng ta đă nói ở một đoạn trên. Nhưng dù sao thái độ nhập thế đă là một thái độ công nhận đời sống hơn là thái độ xuất thế. Và do đó, trong công cuộc phát triển dân tộc, thái độ nhập thế của các vị Bồ Tát sẽ thích hợp với nhu cầu quốc gia hơn. Nhưng sự kém sống mạnh, có thể dẫn dắt đến một sự tham gia thiếu tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc, của các tín đồ Phật giáo, vẫn nằm ở mâu thuẫn nguyên lai, phủ nhận đời sống hiện tại, của giáo lư nhà Phật.
Hai cơ hội phát triển
Trong các giai đoạn trên chúng ta nhiều lần nói đến hai cơ hội phát triển cho các quốc gia thuộc xă hội Đông Á. Dưới đây chúng ta sẽ t́m xem: (1) Như thế nào là một cơ hội phát triển; (2) Và hoàn cảnh nào tạo ra cơ hội phát triển.
Xét lại lịch sử các cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá đă thành công như trường hợp của Nhật, của Nga, đă phân nửa thành công như của Thổ Nhĩ Kỳ, sở dĩ các công cuộc đó thực hiện được là v́ có một sự đồng thời hiếm có của hai loại sự kiện. Loại thứ nhất, liên hệ đến t́nh trạng nội bộ của mỗi quốc gia, có thể gọi là sự kiện chủ quan. Loại thứ hai, liên hệ đến hoàn cảnh bên ngoài, do t́nh trạng chính trị của thế giới lúc bấy giờ tạo ra, và có thể gọi là sự kiện khách quan.
Trong số các sự kiện chủ quan, các đoạn trên đây đă cho chúng ta thấy rằng có hai sự kiện quan hệ nhất. Trước hết là sự có mặt, trong những giờ phút nghiêm trọng, và tại các giềng mối của bộ máy quốc gia, của những lănh đạo, đủ sáng suốt, để nhận thức sự cần thiết của công cuộc Tây phương hoá để phát triển dân tộc. Điều thứ hai là dân chúng có một tâm trạng sẵn sàng hưởng ứng công cuộc Tây phương hoá do người lănh đạo đề xướng.
Các điều kiện khách quan lại thuộc về một loại cụ thể hơn. Như chúng ta đă thấy trên đây, công cuộc Tây phương hoá đ̣i hỏi rất nhiều kỹ thuật, v́, chính trọng tâm của công cuộc Tây phương hoá là hấp thụ những kỹ thuật và khoa học Tây phương. Nhưng ngoài kỹ thuật ra, công cuộc Tây phương hoá c̣n đ̣i hỏi rất nhiều vốn để xây dựng các kỹ nghệ căn bản làm cơ sở phát triển cho các kỹ nghệ sản xuất, rất nhiều vốn để trang bị các cơ sở chính trị, quân sự, văn hoá và xă hội, trong khi các lợi tức của quốc gia chưa thoả măn được nhu cầu của dân tộc.
Kỹ thuật phải hoàn toàn ở ngoài đưa vào, đại đa số vốn phải ở ngoài đưa vào. Điều kiện khách quan được thoả măn, khi nào t́nh h́nh chính trị thế giới tạo một hoàn cảnh thuận tiện để cho kỹ thuật và vốn được đưa vào để giúp cho công cuộc Tây phương hoá.
Như vậy th́, cơ hội đối với các nước đang t́m phát triển, như chúng ta ngày nay, là khi nào hoàn cảnh bên ngoài, thuận tiện đế cho kỹ thuật và vốn được đưa vào. Nắm được cơ hội hay không là do hai điều kiện nội bộ, như trên vừa kể ra.
Cơ hội thứ nhất
Vào khoảng các năm 30 của thế kỷ XIX, sự phát triển và bành trướng của cường quốc Âu châu đă lên đến một mức độ tối cao. Trong nội bộ, những phát minh mới về khoa học và kỹ thuật đă tạo cho các quốc gia trong xă hội Tây phương một sự tự tin dũng mănh. Tín ngưỡng Gia Tô giáo đă hướng dẫn công cuộc chinh phục thế giới của văn minh Tây phương trong năm thế kỷ vừa qua. Sau đó, nhiều phát minh của khoa học lại tạo cho xă hội Tây phương một sinh lực mới, có phần dồi dào hơn sinh lực cũ do tín ngưỡng đă hun đúc trong nhiều thế kỷ. Trên phương diện thực tế, những thực hiện kỹ nghệ và kỹ thuật đă đặt trong tay các cường quốc Tây phương những khí giới chiến đấu có một sức mạnh chưa bao giờ thấy.
Dưới sự thúc đẩy của các sự kiện trên, và, sau khi củng cố địa vị ở đại lục Ấn Độ và các quần đảo Nam Dương và Phi Luật Tân, bao vây các quốc gia thuộc xă hội Đông Á, các cường quốc Tây phương bắt đầu tấn công ngay vào các quốc gia này. Năm 1842 người Anh gây chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa và mở màn cho một cuộc tổng tấn công vào xă hội Đông Á. Sự dùng vơ lực để mở hải cảng Uraga của Nhật năm 1853 của Đại tá Hải quân Mỹ Perry và cuộc pháo kích Đà Nẵng năm 1856 của chiến thuyền Catinat của Pháp đều là những sự kiện đồng thời và do một nguyên nhân sanh ra.
Đứng trước mối nguy cơ chung, các quốc gia thuộc xă hội Đông Á có những phản ứng tự vệ khác nhau, như chúng ta đă biết. Nguy cơ tuy lớn lao thật, nhưng, đồng thời, lại là một cơ hội để Tây phương hoá, phát triển dân tộc. Bởi v́, sự bành trướng mạnh mẽ của hai Đế quốc Anh và Pháp, vừa là một nguồn mâu thuẫn giữa, một bên, hai đế quốc lớn, một bên, các quốc gia khác ở Tây phương. Thêm vào đó, nước Mỹ, vừa chấn chỉnh xong nội bộ quốc gia, cũng bắt đầu gấm ghé thực hiện ư định có mặt ở Thái B́nh Dương.
Mâu thuẫn tạo cơ hội
Tất cả các mâu thuẫn chằng chịt đó là cơ hội cho các quốc gia bị tấn công, để Tây phương hoá, phát triển dân tộc và bảo vệ chủ quyền của ḿnh. Những mâu thuẫn trên đă tạo ra một hoàn cảnh chính trị thế giới, làm cho công cuộc xâm lăng, chiếm đóng thật sự trở thành một việc vô cùng khó khăn, và vạn bất đắc dĩ. Nếu bây giờ, sự lănh đạo quốc gia được phần nào sáng suốt và hàng ngũ xă hội được bền chặt, th́, đương nhiên các mâu thuẫn trên đă trở thành những đồng minh, giúp cho các nước bị tấn công, bảo tồn sự độc lập của ḿnh. Hơn thế nữa, các mâu thuẫn trên, nghĩa là sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đế quốc, sẽ mang lại kỹ thuật và vốn tư bản, để cho các nước bị tấn công thực hiện công cuộc phát triển dân tộc của ḿnh.
Cơ hội đă như vậy đó, nhưng, trong các quốc gia bị tấn công, chỉ có Nhật Bản là có đủ điều kiện chủ quan để nắm cơ hội do các điều kiện khách quan đưa đến. Sự thành công của các nhà lănh đạo Nhật Bản như thế nào, tất cả chúng ta đều biết.
Điều kiện chủ quan của quốc gia Trung Hoa, lúc bấy giờ, không có, bởi v́, người cầm quyền lại thuộc một dân tộc ngoại lai, mà người Trung Hoa oán ghét. Chẳng những thế, với thời gian, lịch sử c̣n chứng minh sự thiếu sáng suốt của các nhà lănh đạo Măn Thanh lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương cũng đă, đương nhiên, bảo vệ độc lập, ít ra, trên danh từ, cho Trung Hoa và tránh cho quốc gia này một sự thống trị trực tiếp như Việt Nam. Nhưng Trung Hoa cũng đă bỏ lỡ cơ hội thứ nhất để phát triển.
Hoàn cảnh nội bộ của Việt Nam lại càng bi đát hơn nữa. Sau một cuộc nội chiến, tàn khốc và tiêu hao, kéo dài từ năm 1620 đến năm 1802, nhà Nguyễn vừa thống nhất quốc gia được bốn mươi năm, th́ hoạ xâm lăng Tây phương lại ồ ạt kéo đến. Những điều kiện chủ quan, như trên đă tŕnh bày, quốc gia Việt Nam hoàn toàn không có. Nhân tâm c̣n ly tán, chính trị của nhà Nguyễn không thâu phục được ḷng dân, nội loạn không lúc nào dứt. Các nhà lănh đạo của chúng ta, lại không kịp thời nhận thức vấn đề của dân tộc, trong một giai đoạn quyết liệt. Các tài liệu lịch sử về sự lănh đạo quốc gia, trong thời kỳ này c̣n giữ lại, không thấy đề cập đến vấn đề Tây phương hoá. Nhiều nhân vật có để lại những bản sớ, nói về tính cách cần thiết của sự thu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng không thấy đề cập đến một công cuộc Tây phương hoá, như người Nhật quan niệm lúc bấy giờ. Chính những chương tŕnh do ông Nguyễn Trường Tộ đề nghị mặc dù có những kiến thức rất tiến bộ và sáng suốt, cũng vẫn là một chủ trương cải cách nhút nhát. Nếu có mang ra mà thi hành th́ có lẽ cũng chỉ dẫn dắt đến một cuộc Tây phương hoá thất bại mà thôi, v́ điều kiện chủ quan hoàn toàn không rơ rệt và rất sơ sài.
Hơn nữa, các tài liệu lịch sử, trong giai đoạn quyết liệt này, không thấy có ư thức ǵ về các mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương. Trong khi đó, chính các mâu thuẫn này là lợi khí sắc bén nhất, trong cơ hội đưa đến cho chúng ta. V́ thế cho nên, ví dầu mà chương tŕnh của Nguyễn Trường Tộ có đem ra thực hiện, th́ tính cách ấu trĩ của thuật ngoại giao của chúng ta, lúc bấy giờ, cũng không cho phép chúng ta thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc. Xem thế, chúng ta càng nhận thấy kiến thức hẹp ḥi của các nhà lănh đạo lúc bấy giờ, và quan niệm chưa trưởng thành của họ về việc lănh đạo quốc gia.
Các sự kiện trên càng làm bộc lộ rơ rệt quan niệm Việt Nam là một thuộc quốc đối với Trung Hoa, của các nhà lănh đạo lúc bấy giờ. Sự thiếu sót về ngoại giao trên đây, do một quan niệm thấp và hẹp về ư thức độc lập, là nguyên nhân chính làm cho chúng ta không lợi dụng được các mâu thuẫn, giữa các cường quốc Tây phương, để bảo vệ độc lập và chủ quyền cho dân tộc. Trong khi đó Thái Lan, lúc bấy giờ là Xiêm, mặc dầu không thực hiện được cuộc phát triển dân tộc nhưng ít ra, cũng cứu văn được độc lập bằng cách khai thác các mâu thuẫn giữa các cường quốc.
Cơ hội thứ nhất đă lỡ, hậu quả của sự lỡ cơ hội tai hại như thế nào, dân tộc chúng ta đă ghi vào xương máu bài học kinh nghiệm đắt giá đó. Nhưng, giá hết sức cao mà chúng ta đă phải trả, để mua kinh nghiệm lỡ cơ hội lần thứ nhất, có đủ để làm cho các nhà lănh đạo đương thời của chúng ta nhận thức sự cần thiết phải vận dụng hết nỗ lực để nắm cho được cơ hội thứ hai, đang đến với chúng ta, để phát triển dân tộc không?
Cơ hội thứ nhất đến ngay vào lúc những mâu thuẫn giữa các quốc gia Tây phương đi vào một giai đoạn rất gay cấn. Sự tranh giành ảnh hưởng đă đến một tŕnh độ hết sức căng thẳng giữa các đế quốc Anh, Pháp, Đức và Nga. Các yếu tố quân b́nh, trong khung cảnh chính trị cổ truyền của Âu châu, được mang áp dụng giữa các cường quốc đi chinh phục. Hoà ước Bắc Kinh, kư kết năm 1861 giữa Trung Hoa và các cường quốc chiến thắng, là một tài liệu thừa nhận sự phân chia nước Tàu làm nhiều vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc. Nhưng, đồng thời và trước hết, đó là một tài liệu chứng tỏ sự cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc Tây phương.
Tuy nhiên, với sự biến chuyển của t́nh h́nh chính trị, các mâu thuẫn có thể tạm thời dẹp một bên bằng những thoả hiệp. Đối với các quốc gia bị Tây phương tấn công, đó là lúc mà cơ hội mất. Riêng đối với Việt Nam th́ cơ hội đă mất, ngay khi chủ quyền đă mất.
Cơ hội thứ hai
Gần một thế kỷ sau, mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương lại bộc phát lên một cách dữ dội và dẫn dắt đến hai cuộc thế giới chiến tranh mà chúng ta đều biết. Chiến tranh chưa chấm dứt, sự tranh chấp, giữa hai quốc gia đă chiến thắng trong trận thế chiến thứ hai, nay lănh đạo hai khối chính trị trên thế giới, đă tạo ra cho các quốc gia, bị Tây phương xâm chiếm một cơ hội duy nhất để tranh giành độc lập và phát triển dân tộc. Sự tranh chấp giữa Nga Xô và khối Tây phương ngày nay, là hiện trạng của một cuộc tranh đấu không ngừng đă diễn ra từ hơn bốn trăm năm nay. Lúc gay cấn đến xảy ra chiến tranh, lúc ngấm ngầm, khi bên này thắng, bên kia thua, cuộc tranh đấu không bao giờ ngừng v́ những lư do mà chúng ta đă t́m hiểu trong nhiều đoạn ở trên.
Sở dĩ mà ngày nay cuộc tranh chấp trở thành vĩ đại và bao trùm hết thế giới và mọi lĩnh vực của đời sống là v́, như chúng ta đă thấy trong các chương đầu của tập này, lúc mở màn cho giai đoạn hiện tại, vị trí của hai bên như sau đây:
Tây phương, lúc bấy giờ, chiếm gần hết thế giới. Thuộc địa của những đế quốc Tây phương nằm khắp năm đại lục. Lực lượng quân sự của Tây phương đóng giữ các vị trí chiến lược hiểm trở trên địa cầu. Chiến thuyền của Tây phương tung hoành, rẽ sóng bốn biển. Lưới kinh tế của Tây phương bủa vây thế giới.
Đối với một địch thủ nắm trong tay một lực lượng kinh khủng như vậy, nếu Nga Xô tiếp tục chiến đấu theo quan niệm cổ truyền, và đóng khung nỗ lực của ḿnh trong giới hạn lănh thổ Nga, th́ chắc chắn đă nắm phần bại về ḿnh, ngay từ lúc chưa ra quân. Bởi v́ một chiến lược như thế có nghĩa là Nga Xô sẽ bị Tây phương siết chết trong một ṿng vây không lối thoát. Các nhà lănh đạo Nga Xô, ngay khi cách mạng Tháng Mười ở Mạc Tư Khoa chưa bùng nổ, đă đủ sáng suốt để nhận thức rằng, muốn tiếp tục công cuộc chiến đấu của dân tộc một cách thắng lợi, điều kiện tiên quyết, là phải đưa chiến lược lên một lănh vực bao trùm khắp thế giới, bởi v́ địch thủ đă áp dụng một chiến lược bao quát như vậy. Ngày nay cuộc chiến đấu vĩ đại vượt lên cả không gian, và lăm le thâu gồm vào ṿng chiến lược các hành tinh của Thái Dương hệ, cũng v́ lẽ không một địch thủ nào muốn để cho bên kia bao vây ḿnh.
Trở lại lúc đầu giai đoạn hiện tại của cuộc chiến đấu giữa Nga Xô và Tây phương, sở dĩ Nga Xô lúc bấy giờ quan niệm và thực hiện được một chiến lược mênh mông, như nói trên, là nhờ ở những điều kiện dưới đây:
Mâu thuẫn nội bộ
Trước hết những mâu thuẫn nội bộ giữa các đế quốc Tây phương lúc nào cũng có. Chính những mâu thuẫn này, trong những giai đoạn khủng hoảng, đă gây ra hai cuộc thế giới chiến tranh vừa qua.
Thuyết Các-mác Lê-nin lúc nào cũng nhắc đến các mâu thuẫn này và xem đó là đặc tính của xă hội tư bản. Và theo thuyết ấy, chính các mâu thuẫn đó sẽ đưa xă hội tư bản đến chỗ chết. Nếu chúng ta đồng ư với thuyết trên, về sự có mặt của các mâu thuẫn nội bộ nói đây trong xă hội tư bản th́ chúng ta lại nên thêm rằng, những mâu thuẫn nội bộ tương tự sẽ có, không cứ ǵ trong xă hội tư bản, mà bất cứ trong xă hội nào gồm nhiều phần tử mà quyền lợi bất đồng. Ngày nay, chúng ta đang mục kích nhiều mâu thuẫn nội bộ trong khối Cộng Sản. Những lư do, phát sinh những mâu thuẫn này, cũng tương tự và đương nhiên, như những lư do phát sinh những mâu thuẫn đang nói trên kia, trong xă hội Tây phương. Tuy nhiên, sự kiện các mâu thuẫn này có phải hay không phải là đặc tính của xă hội tư bản, không quan hệ. Điều quan hệ là sự có mặt của các mâu thuẫn ấy.
Nội tuyến
Điều kiện thứ hai là trong thời kỳ, cuối thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX, xă hội Tây phương trải qua một cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng, do chính các phát minh khoa học và kỹ nghệ gây ra. Các phát minh khoa học và kỹ nghệ là những lực lượng sản xuất mới, đă được đưa vào và áp dụng, một cách quá đột ngột, trong một xă hội chưa sẵn sàng để đón nó, v́ các cơ cấu vẫn c̣n giữ một lối tổ chức, theo nề nếp cũ, của một xă hội thủ công nghiệp. Bất cứ xă hội nào, trong hoàn cảnh đó, cũng bị một cuộc khủng hoảng như vậy. Sự kiện này đă mang đến sự ly khai giữa các quần chúng và các nhà lănh đạo trong xă hội Tây phương, v́ những hậu quả mà chúng ta không cần biết chi tiết ở đây, của các phát minh nói trên. Cuộc khủng hoảng trầm trọng đến nỗi, tất cả tầng lớp xă hội đều bị ảnh hưởng của cuộc chấn động. Và nhiều nhà triết học đă phải nghĩ đến một cuộc cải cách xă hội toàn diện, để cho các cơ cấu ăn khớp với những lực lượng sản xuất mới. Trong số đó, Engels, và Karl Marx là danh tiếng hơn cả. Như vậy, chúng ta thấy rơ rằng, lư thuyết Các-Mác, trước tiên là một phương thuốc do một số người Tây phương đề nghị, để chữa bệnh cho xă hội Tây phương, trong một cơn khủng hoảng.
V́ lư do nào mà thuyết ấy trở thành căn bản tư tưởng chiến đấu của Nga Xô, một quốc gia đang dấn thân vào một cuộc chiến đấu sống chết với Tây phương?
Trước hết các nhà lănh đạo Cộng Sản nhận thức rằng t́nh trạng của xă hội Tây phương lúc bấy giờ sẽ là t́nh trạng, có lẽ, dưới một h́nh thức c̣n trầm trọng hơn của xă hội họ, một khi, trong khuôn khổ công cuộc Tây phương hoá mà họ đang chủ trương, họ sẽ đưa vào xă hội Nga Xô các lực lượng sản xuất mới, vừa nói trên kia. Như thế th́, thái độ hợp lư không phải là thâu nhận ngay, và trước cả Tây phương, những tư tưởng và phương pháp xây dựng một xă hội thích hợp với các lực lượng sản xuất mới do khoa học phát minh sao? Bởi v́, như thế, th́ Nga sẽ chắc chắn đi trước và thắng Tây phương.
Trên đây là một lư do xây dựng cho xă hội Nga Xô. Nhưng c̣n một lư do khác, thuộc lănh vực chiến thuật, trong cuộc chiến đấu với Tây phương. Lư do nào đă nặng hơn? Điều đó khó mà biết được. Chỉ biết rằng cả hai lư do đều có, nếu chúng ta nhận xét ở các diễn biến, tiếp theo sau, của cuộc chiến đấu.
Đang lúc xă hội Tây phương có sự rạn nứt giữa cấp lănh đạo và quần chúng, tạo ra một t́nh trạng thuận lợi để cho cách mạng bùng nổ, th́ bất cứ người nào chủ trương một lư thuyết, mang nhiều hứa hẹn tương lai cho đời sống của quần chúng Tây phương, chắc chắn sẽ được quần chúng Tây phương hưởng ứng. Nếu người chủ trương là Nga Xô th́, quần chúng Tây phương, một khi đă hưởng ứng, sẽ biến thành một khối đồng minh vô giá của Nga Xô ở ngay trong ḷng kẻ địch của họ. Thật là một mưu tính thâm và cao.
Do hai lư do vừa kể trên, thuyết Cộng Sản, một sản phẩm của Tây phương, đă đương nhiên biến thành một lợi khí trong tay của Nga Xô để đánh lại Tây phương trên hai mặt trong và ngoài.
Thuyết Cộng Sản có thích nghi cho một xă hội kỹ nghệ hoá hay không? Chúng ta khó trả lời câu hỏi này mà khỏi lọt vào một cuộc luận chiến trường kỳ vô tận, cũng như mỗi khi chúng ta đặt cuộc tranh luận vào lĩnh vực triết lư. Nhưng một điều mà chúng ta có thể làm được, với những thực tế của lịch sử làm căn bản là xem xă hội Tây phương đă vượt qua những giai đoạn nào, sau khi đă từ chối thuyết Cộng Sản.
Dầu sao, tính toán chiến thuật của các nhà lănh đạo Nga Xô, như trên đây đă tŕnh bày, thật sự đă mang đến cho họ những kết quả ngoài sự mong mỏi. Sau khi Nga Xô đă tuyên bố tự nhận ḿnh là thành tŕ của thuyết Các-mác, là quốc gia lănh đạo cuộc cách mạng xây dựng xă hội Cộng Sản, tất cả các đảng Cộng Sản, ở các quốc gia Tây phương, đương nhiên, biến thành những đồng minh chiến đấu của Nga Xô. Hơn thế nữa, quần chúng Tây phương, đang chống đối với các thiểu số lănh đạo của ḿnh, cũng hướng về Nga Xô như hướng về một người giải phóng. Do đó, nước Nga, với những vũ khí vật chất và trong thời kỳ cực thịnh của họ về kỹ thuật, chưa bao giờ đă gây được trong xă hội Tây phương những chấn động kinh khủng, như lúc bấy giờ, với một vũ khí tinh thần và trong một thời kỳ kém hẳn Tây phương về kỹ thuật và khoa học.
Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Tây phương đă đủ già tay ấn để dẫn dắt xă hội Tây phương vượt qua được các cơn sóng gió. Sự phát triển, vẫn hùng mạnh, trong xă hội Tây phương hiện nay, chứng minh rằng xă hội này đă vượt qua cơn khủng hoảng và đă xây dựng được những cơ cấu xă hội thích nghi với các lực lượng sản xuất mới mà không cần phải áp dụng phương thuốc Cộng Sản. Như vậy, chúng ta không cần phải thảo luận về tính cách thích nghi hay không của một xă hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ và đối với một khoa học kỹ thuật tiến bộ. Chúng ta chỉ cần nhận xét rằng, trong thực tế, đă có một h́nh thức xă hội khác thích nghi một cách hữu hiệu với các lực lượng đó.
Và chính từ lúc Tây phương đă t́m được các phương thuốc xă hội, khác hơn những phương thuốc Cộng Sản, để chữa cơn khủng hoảng nội bộ của ḿnh, th́, từ lúc đó, thuyết Cộng Sản đă thấy hấp lực của ḿnh, ngày càng suy giảm đối với quần chúng Tây phương. Đấy là nguyên do chính của sự khủng hoảng nội bộ của các đảng Cộng Sản Tây phương hiện nay. Thuyết Cộng Sản không c̣n lư do tồn tại nữa, trong một xă hội đă được lành mạnh hoá, và đă được cải tạo theo một chiều hướng thích nghi với các lực lượng sản xuất đă gây ra cuộc khủng hoảng. Và ngày nay, điều này rất đỗi quan hệ cho chúng ta, sự bang giao giữa Nga Xô và các cường quốc Tây phương không c̣n đặt trên lĩnh vực lư thuyết nữa, như trước đây ba mươi năm. Sự bang giao này chỉ là một sự bang giao thông thường đặt trên những mâu thuẫn của các cường quốc với nhau.
Hợp tung
Bây giờ chúng ta đến điều kiện thứ ba đă giúp cho Nga Xô thành công trong việc quan niệm và áp dụng một chiến lược thế giới để đương đầu với khối Tây phương đang ngự trị hoàn cầu.
Chính v́ Tây phương đă chiếm gần hết thế giới, nên khắp thế giới, chỗ nào Tây phương cũng có kẻ thù. V́ thế cho nên, hợp tung tất cả kẻ thù của Tây phương vào trong một mặt trận, bao phủ địa cầu sẽ tăng cường hiệu quả của chiến lược của các nhà lănh đạo Nga Xô. Một mặt khác, các lănh tụ các quốc gia bị xâm chiếm, sau nhiều năm chiến đấu vô hiệu quả, và nhiều phen thất bại đau đớn, cũng đă lần lần nhận thấy rằng muốn chiến thắng một kẻ thù, mà nanh vuốt bao trùm khắp thế giới, th́ một cuộc chiến đấu, giới hạn trong khuôn khổ một quốc gia, không làm sao đưa đến kết quả được V́ lư do này, mà lời kêu gọi Đồng Minh của Nga Xô để chống kẻ thù chung, là Tây phương, được rất nhiều nhà lănh đạo quốc gia hưởng ứng một cách thành thật và nồng nhiệt. Hầu hết các nhà lănh đạo các quốc gia bị Tây phương xâm chiếm đều quy tụ dưới lá cờ Cộng Sản của Nga Xô. Chỉ có một số nhà lănh đạo sáng suốt, đă soi thấu thâm ư chiến lược của Nga Xô, mới từ chối lời kêu gọi đồng minh của Nga. Trong số này, có Gandhi và Nehru của Ấn Độ.
Chúng ta vừa thấy, do đường ngơ nào, mà lư tưởng tranh đấu Cộng Sản đă chuyển từ Nga Xô sang các quốc gia đă bị thuộc địa hoá, nhất là các thuộc địa ở Á châu. Bởi v́ trong số các thuộc địa, các quốc gia này là những quốc gia đă có một nền văn minh cổ truyền, một cơ cấu xă hội vững chăi, khả dĩ huy động một sức đề kháng đáng kế, đối với Tây phương. V́ vậy mà Cộng Sản quốc tế đặc biệt chú trọng đến Á Châu. Chúng ta cũng vừa thấy cơ thức, theo đó, lư tưởng tranh đấu Cộng Sản, mà mục đích nguyên thuỷ là một cuộc cách mạng xă hội tại Tây phương, để xây dựng một trật tự mới thích hợp với các lực lượng sản xuất do những phát minh khoa học tạo ra, sang Nga, đă biến thành một lợi khí vừa để lũng đoạn nội bộ Tây phương vừa để phát triển dân tộc, và sang Á Đông, biến thành một lợi khí tranh đấu để giải phóng các dân tộc bị đế quốc thống trị. Khác với các tác phẩm của Các-mác, các tác phẩm của Lê-nin đề cập nhiều đến các thuộc địa của đế quốc, nhất là các thuộc địa Á Châu, v́ những lư do trên đây.
Sự đồng minh giữa các nhà lănh đạo Nga Xô và các nhà lănh đạo Á Đông, không v́ sự khác biệt giữa hai mục đích, mỗi bên đang riêng theo đuổi, mà kém chặt chẽ và kém hiệu quả. Bởi v́ lư do phát sinh và tồn tại của sự liên kết là chống Tây phương, kẻ thù chung.
Các nhà lănh đạo Á Đông c̣n bị lôi cuốn vào cuộc đồng minh bởi một lư do thứ hai. Lư thuyết Các-mác đem đến cho các nhà lănh đạo này một kiểu mẫu xă hội tiền chế mệnh danh là một xă hội thích nghi với lực lượng sản xuất mới do khoa học đẻ ra. Chính v́ lư do này một phần mà các nhà lănh đạo Nga Xô đă thâu nhận một lư thuyết Tây phương làm một lư thuyết tranh đấu cho dân tộc Nga.
Trên kia chúng ta đă nêu câu hỏi: kiểu mẫu xă hội tiền chế đó có thật thích nghi với các lực lượng mới không? Và chúng ta đă từ chối không trả lời, chỉ nhận xét rằng, trong thực tế, đă có một h́nh thức xă hội khác thích nghi, một cách hiệu quả, với các lực lượng đó. H́nh thức nào thích nghi hơn? C̣n lâu lắm các sử gia mới trả lời được. Chỉ biết rằng h́nh thức xă hội Cộng Sản không thể giữ độc quyền tổ chức nhân loại. Và chỉ biết rằng h́nh thức xă hội Cộng Sản chưa hoàn thành và c̣n trong thời kỳ ṃ mẫm xây dựng. Trái lại, h́nh thức xă hội Tây phương cải tạo, đă thành h́nh và đang phát triển hùng mạnh.
Cũng trong phạm vi này, một nhận xét khác rất quan hệ cho chúng ta v́ nó làm cho vấn đề thêm sáng tỏ. Các quốc gia, đă và đang, t́m phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá, trong đó có cả Nga Xô, và Trung Cộng, đều, đă và đang nỗ lực thâu thập kỹ thuật Tây phương. Như thế th́, trong lĩnh vực kỹ thuật tổ chức xă hội, cũng như trong tất cả mọi lĩnh vực kỹ thuật, nếu cần phải học hỏi, th́ đương nhiên là nên học hỏi trực tiếp với Tây phương, hơn là học hỏi với những người, đă và đang, học hỏi với Tây phương.
Như thế, ngoài sự từ chối không làm học tṛ hạng nh́, chắc chắn chúng ta c̣n tránh được nhiều lỗi lầm của người học tṛ hạng nhất, ví dụ như “cái nhảy vượt bậc” và “phong trào nhân dân công xă” của các nhà lănh đạo Trung Cộng.
Với thời gian qua, và nhờ ánh sáng của những sự kiện lịch sử đă xảy ra, từ lúc mới chớm nở cuộc đồng minh giữa Nga Xô và các quốc gia bị thuộc địa hoá, đến ngày nay chúng ta có thể có hai nhận xét căn bản, có ảnh hưởng nhiều đến đường lối của dân tộc sau này.
Hai nhận xét
Trước hết, mục đích giải phóng dân tộc, và hoàn cảnh bi đát của các phong trào kháng chiến quốc gia lúc bấy giờ, có thể để thuyết minh cho sự liên kết với Nga Xô của các lănh tụ Á Đông. Mạnh hơn nữa, chúng ta có thể quả quyết rằng con đường liên kết với các lănh tụ Nga Xô, lúc bấy giờ, là con đường có nhiều bảo đảm trong giai đoạn tranh giành độc lập cho dân tộc. Nhưng, chúng ta cũng không nên quên rằng, có nhiều nhà lănh đạo, nh́n thấu thâm ư chiến lược của Nga Xô, như Gandhi và Nehru, đă từ chối sự liên kết trên, nhưng vẫn đạt đến kết quả giải phóng dân tộc của họ. Và một chủ trương đă đúng trong một giai đoạn không phải v́ đó mà sẽ đúng trong tất cả các giai đoạn. Nghĩa là, sau khi độc lập đă khôi phục, dân tộc chuyển sang giai đoạn phát triển, bằng cách Tây phương hoá toàn diện, chính sách Cộng Sản, nghĩa là đường lối và phương pháp Cộng Sản có c̣n thích hợp không?
Nếu có những nước, như Nga Xô, đă thực hiện được công cuộc phát triển bằng đường lối Cộng Sản, th́ cũng có những nước, như Nhật Bản, thực hiện được công cuộc phát triển, với một tŕnh độ không kém, bằng một đường lối không Cộng Sản. Chúng ta, sau này, sẽ bàn đến sự thích nghi hay không của đường lối Cộng Sản trong giai đoạn phát triển dân tộc của chúng ta. Nay chỉ cần ghi nhớ một điểm là, ít ra cũng có một đường lối khác để phát triển dân tộc, không kém hiệu quả hơn đường lối Cộng Sản.
Có thể có người nói rằng, nếu Việt Nam không theo đường lối Cộng Sản th́ Trung Cộng đă không giúp cho phương tiện để chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Về sự viện trợ của ngoại quốc, chúng ta sẽ đề cập đến một cách chi tiết dưới đây. Nay, giải đáp thắc mắc trên đây chúng ta có thể nói rằng thời kỳ Điện Biên Phủ vẫn c̣n nằm trong giai đoạn tranh giành độc lập. Vả lại Trung Cộng giúp khí giới, kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng v́ Trung Cộng thân Việt Nam hơn là bài Mỹ hay là bài Mỹ hơn thân Việt Nam? Và khi viện trợ như vậy, Trung Cộng xem Việt Nam là một đồng chí Cộng Sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp sửa được gồm thâu vào lănh thổ của họ?
Nhận xét căn bản thứ hai là như sau đây:
Trong cuộc đồng minh giữa Nga Xô và các quốc gia Á Đông bị Tây phương thống trị, Nga Xô theo đuổi trước hết và trên hết mục đích phát triển dân tộc của ḿnh. Trong khi đó các quốc gia Á Đông lại theo đuổi trước hết và trên hết mục đích giải phóng dân tộc thoái khỏi ách để quốc thực dân.
Sự khác biệt mục đích này đă đưa đến hai hậu quả đương nhiên. Khi nào có những biến cố xảy ra cho các đảng Cộng Sản bạn, làm cho những đảng này cần sự giúp đỡ sẽ không đến. Trường hợp này đă xảy ra rất nhiều lần, và thái độ của Staline đối với đảng Cộng Sản Trung Hoa trong thời kỳ bĩ cực là rơ rệt hơn cả. Bởi thế cho nên, mặc dầu có một cuộc liên minh quốc tế và trên lư tưởng v́ kẻ thù chung, nhưng quyền lợi của dân tộc là trên hết. Điều này chúng ta nên khắc sâu vào tâm năo.
Hậu quả thứ hai là, khi nào một bên đă đạt được mục đích rồi, sự đồng minh không c̣n lư do tồn tại nữa, trừ ra nếu có những lư do chính trị do hoàn cảnh đương thời tạo nên. Ngày nay, Nga đă đạt được mục đích phát triển dân tộc, th́ lư do của cuộc đồng minh, đối với Nga, đă giảm giá đi rất nhiều. Nếu Nga c̣n thấy cần đồng minh nữa, th́ cũng chỉ v́ cuộc chiến đấu cổ truyền với Tây phương vẫn tiếp tục, chớ không phải v́ một lư tưởng. Ngày nào cuộc tranh đấu này đi vào một thời kỳ êm dịu, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, th́ lư do đồng minh, đối với Nga, sẽ không c̣n nữa.
Những sự kiện trên đây giải thích một phần rất lớn, vừa những mâu thuẫn xảy ra giữa Nga và các đảng Cộng Sản Á châu, vừa những sự xung đột giữa Nga và Trung Cộng.
Như vậy là chúng ta đă xét qua ba điều kiện đă giúp cho Nga Xô chuyển cuộc tranh đấu cổ truyền với Tây phương trong phạm vi quốc gia, thành một cuộc tranh đấu vĩ đại, trong đó Nga Xô đă huy động được, vừa lớp người bất măn trong nội bộ của Tây phương, vừa kẻ thù khắp thế giới của Tây phương để nỗ lực đánh bại Tây phương.
Và Tây phương suưt bị đánh bại thật.
Nếu trong trận đại chiến thử hai vừa qua, mà Nga Xô, v́ một lẽ ǵ, đứng được ngoài cuộc chiến tranh, th́, ngày nay cuộc diện thế giới đă chuyển theo một chiều khác vô cùng thắng lợi cho Nga Xô. Đại chiến thứ hai cũng như đại chiến thứ nhất, trước tiên, là cuộc chiến tranh, giữa các cường quốc Tây phương, để thanh toán những mâu thuẫn nội bộ với nhau.
Lúc đầu của cuộc đại chiến, Nga Xô đă vận dụng nỗ lực để đứng ngoài chiến trận. Đó là một thái độ khôn ngoan nhất, v́, nếu để hai phe, đồng minh và trục, tiêu diệt lực lượng lẫn nhau đến kiệt quệ, th́ sau đó, với lực lượng nguyên vẹn của ḿnh, Nga Xô sẽ nắm bá quyền Âu châu và ngày nay Tây phương sẽ yếu thế hơn nhiều.
V́ vậy mà, đứng về quan điểm Tây phương, theo đó, Nga là một kẻ thù cổ truyền, sự tấn công vào đất Nga của Đức Quốc Xă là một hành động hợp lư. Và phe đồng minh liên kết với Nga là một hành động phản lịch sử, chỉ do những nhu cầu nhất thời về chính trị quyết định. Và chắc chắn là, sau này trong lịch sử tranh đấu giữa Nga và Tây phương, hành động của Đức Quốc Xă sẽ được ghi nhớ là một công trạng đối với Tây phương. Bởi v́ chính là nhờ ở sự tấn công Nga làm cho Nga phải tiêu hao lực lượng nên sau khi chiến tranh chấm dứt, sự quân b́nh giữa Tây phương và Nga mới c̣n được như ngày nay.
Đi sâu vào hơn một chút nữa, mặc dù Nga đă tiêu hao lực lượng rất nhiều, áp lực của Nga có thể đối với Tây phương, sau khi chiến tranh chấm dút, c̣n mạnh mẽ hơn nhiều, nếu Tây phương chưa phát minh và chế ngự được nguyên tử năng. Sự phát minh này đă đưa kỹ thuật của Tây phương lên một tŕnh độ vượt hẳn kỹ thuật của Nga Xô. Và chính v́ sự chênh lệch đó mà Nga Xô đă phải giảm hạ áp lực thật sự của ḿnh đi rất nhiều. Chỉ sau đó nhiều năm, khi, nhờ sự đóng góp kỹ thuật của Đức, Nga bắt kịp Tây phương về nguyên tử năng, th́ lúc bấy giờ áp lực của Nga mới trở thành mạnh mẽ và đi đến thế quân b́nh ngày nay. Và nhờ khoảng thời gian mấy năm đó, mà các cường quốc Tây Âu mới băng bó các vết thương chiến tranh, hưng vượng lại được và phát triển theo một đà mới, như chúng ta đă thấy ngày nay.
Cơ hội
Đối với các quốc gia bị Tây phương thống trị, các biến cố xảy ra đă tạo nên một cơ hội hiếm có không ngờ. Giả sử mà mâu thuẫn nội bộ giữa các quốc gia Tây phương không gay cấn đến nỗi xảy ra chiến tranh, th́ Nga Xô sẽ không lợi dụng cơ hội mà tăng cường ảnh hưởng của ḿnh được. Đă như thế th́ các thuộc địa sẽ chưa được giải thoát. Giả sử mà chiến tranh có xảy ra thật, nhưng các cường quốc Tây phương đều nhận thức, theo như Đức, rằng chính Nga mới là kẻ thù chính tông và kịp thời, thoả hiệp Đức, để quay tất cả lực lượng về đánh Nga, như nhiều lần Đức đă đề nghị, th́ kết quả cũng sẽ tương tự như trường hợp trên.
Giả sử mà sau đại chiến thứ hai, các cường quốc Tây phương chưa phát minh được nguyên tử năng, th́ áp lực và ảnh hưởng của Nga đă lan tràn khắp Tây Âu. Thế lực của Nga trên thế giới lấn áp thế lực của Tây phương. Tây phương sẽ thâu hẹp ṿng kiểm soát của họ lại nơi khu vực Bắc Mỹ và một vài nơi khác trên thế giới, như Úc châu và Nam Phi, th́ các thuộc địa sẽ rơi từ ṿng thống trị của Tây phương sang ṿng thống trị của Nga Xô. Công cuộc giải thoát dân tộc chưa chắc đă thực hiện dược, công cuộc phát triển th́ quả quyết là xa vời hơn nữa.
Đằng này, các biến cố đă thật sự xảy ra đều không nằm vào một trong ba trường hợp trên. Nga không bị dồn vào một thế yếu quá, mà cũng không lấn áp được địch thủ. Tây phương không chế ngự được địch thủ, nhưng cũng không bị địch thủ chế ngự. Chính sự thể hai bên đồng sức và ḱnh chống nhau đó đă tạo ra cho chúng ta, nghĩa là cho các quốc gia bị thống trị, hoặc các quốc gia đang t́m phát triển, cơ hội duy nhất từ một thế kỷ, để phục hồi độc lập và phát triển dân tộc.
V́ cuộc tranh chấp giữa Nga Xô và Tây phương dừng vào một giai đoạn quyết liệt, bên nào cũng nỗ lực t́m đồng minh, cho nên một mặt Tây phương lần hồi trả độc lập lại cho các nước bị trị, giúp đỡ phương tiện phát triển bằng Liên Hiệp Quốc, bằng kế hoạch Colombo, bằng viện trợ trực tiếp, v.v. Một mặt khác cũng với mục đích t́m đồng minh, Nga đă giúp đỡ các cuộc chiến tranh giải phóng và cũng giúp đỡ phương tiện phát triển cho nhiều quốc gia.
Từ hai mươi năm nay, từ ngày đại chiến thứ hai chấm dút, chính trị thế giới giữa hai khối, Tự Do và Cộng Sản, đều do các sự kiện trên đây quyết định. Sự viện trợ cho các cường quốc Tây Âu theo kế hoạch Marshall, sự phục hưng Tây Đức và Nhật Bản, sự viện trợ cho các quốc gia vừa độc lập, tất cả đều nằm trong một kế hoạch hoàn cầu của Tây phương để liên kết các đồng minh, trong một chiến lược vĩ đại bao vây Nga Xô. Đối lại, sự giúp đỡ cho Trung Hoa phát triển, sự viện trợ cho các quốc gia chống Mỹ như Cuba, tất cả đều nằm trong một chiến lược hoàn cầu của Nga Xô để phá ṿng vây. Cho đến các phát minh về không gian cũng được dùng vào việc liên kết đồng minh trong cuộc chiến đấu vĩ đại giữa Tây phương và Nga Xô.
Đối với các quốc gia, trước kia đă bị bán thuộc địa hoá, hay bị thuộc địa hoá, các sự kiện trên thật không phải là một cơ hội hiếm có, vô cùng quư báu hay sao? Tự nhiên độc lập được phục hồi và tự nhiên được viện trợ để phát triển.
Cho đến ngày nay, bao nhiêu quốc gia đă nắm được cơ hội để phát triển? Chúng ta chỉ thấy có Trung Hoa.
Việt Nam nắm được cơ hội chưa?
Việt Nam chúng ta trong hai mươi năm nay, chẳng những chưa lợi dụng được mâu thuẫn nói trên đây, giữa Tây phương và Nga Xô, để phát triển dân tộc, lại c̣n bị lọt vào cái ṿng mâu thuẫn đó. Do đó, chẳng những chúng ta không phát triển được, lại c̣n bị tiêu hao nhân lực và tài lực đến một mức độ rất đáng lo ngại.
Nếu lần này, các nhà lănh đạo dân tộc lại làm sẩy cơ hội thứ hai này nữa th́, dựa theo kinh nghiệm thất bại lần trước, chúng ta cũng có thể đoán được hoàn cảnh nào đang chờ đợi dân tộc chúng ta. Và trách nhiệm thất bại, mà thế hệ chúng ta phải mang, đối với các thế hệ sau này, sẽ vô bờ bến.
Một cơ hội hiếm có như vậy, lại đă kéo dài trong hai mươi năm, mà chúng ta chưa nắm được. Các nhà lănh đạo dân tộc hiện nay, xem thế cũng phải lấy làm khiếp đảm và tự khiển trách đến cực độ. Nếu chúng ta lại c̣n lỡ cơ hội nữa, th́ các nhà lănh đạo hiện nay sẽ mang nặng, đối với dân tộc, một lỗi lầm không có ǵ tha thứ được.
Các nhà lănh đạo, phía Nam và phía Bắc, của chúng ta đă nhận thức t́nh trạng, vô cùng nguy ngập và khẩn cấp cho chúng ta, như trên đây đă tŕnh bày chưa? Nếu chúng ta, căn cứ trên các biển cố xảy ra từ hai mươi năm nay, và nhất là từ mười năm nay, chúng ta phải thú nhận rằng chưa có một triệu chứng ǵ bảo đảm cho chúng ta rằng, nguy cơ đang đe doạ dân tộc đă được các nhà lănh đạo, phía Nam và phía Bắc, ư thức.
Chúng ta sống ở phía Nam, nên trong hai mươi năm vừa qua, có mấy dịp nhận thấy rằng các nhà lănh đạo, liên tục kế tiếp nhau thọ lănh trách nhiệm về vận mạng của quốc gia, chưa có lúc nào tỏ ra nh́n thấy vấn đề căn bản mà dân tộc cần phải giải quyết trong giai đoạn này. Đă không nh́n thấy vấn đề căn bản, th́ cố nhiên là không nh́n thấy t́nh trạng vô cùng nguy ngập đang đe doạ dân tộc.
Đối với các nhà lănh đạo phía Bắc, nghiên cứu các sáng tác về chính trị cũng như các hành động chính trị của họ, chúng ta công nhận rằng, nhờ sự nghiệp nghiên cứu các thực tế lịch sử của Cộng Sản quốc tế, vấn đề căn bản của dân tộc có thể đă được họ nh́n thấy rơ hơn. Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Nga Xô đă sử dụng thuyết Cộng Sản như là một lợi khí để chiến đấu với Tây phương, như chúng ta đă nhận thức trong các trang trên đây và chính Mao Trạch Đông đă viết câu sau đây về thuyết Cộng Sản.
“Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các-mác không phải v́ luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải v́ nó đựng một phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đă xem thuyết Các-mác là một giáo lư. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lư của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón c̣n làm giàu ruộng đất, giáo lư không làm được việc đó.”
Nghĩa là các lănh tụ tối cao của khối Cộng Sản đều xem thuyết Cộng Sản là một phương tiện. Họ chế ngự phương tiện tinh thần đó – do Tây phương phát minh ra – cũng như những phương tiện vật chất khác của Tây phương.
Ngược lại, các sáng tác chính trị của các nhà lănh đạo phía Bắc, lại chứng tỏ rằng, những người lănh đạo này c̣n đang say mê thuyết Cộng Sản và đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lư. Đưa một phương tiện chiến đấu của người lên làm một chân lư của ḿnh là mặc nhiên hạ ḿnh xuống thấp hơn một bậc đối với các lănh tụ Cộng Sản quốc tế và tự biến ḿnh thành một thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. V́ vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lănh đạo phía Bắc, lư thuyết Cộng Sản được để lên trên quyền lợi của dân tộc, điều ấy chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại giao giữa các quốc gia, họ tin rằng một sự đồng minh về lư thuyết có thể đặt trên quyền lợi của dân tộc.
Do các lư lẽ trên đây chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lănh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức nguy cơ đang đe doạ dân tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn c̣n tiếp tục.
Cơ hội thứ hai đă mất chưa?
Ngày nay chúng ta đă lỡ cơ hội thứ hai để phát triển dân tộc chưa?
Như ta đă thấy cơ hội nói trên được tạo ra do những mâu thuẫn phát sinh từ một cuộc tranh đấu giữa Tây phương và Nga Xô. Vậy cơ hội sẽ mất trong hai trường hợp:
1. Mâu thuẫn vẫn c̣n, nhưng chiến lược hai bên đều thay đổi, cho nên sự liên kết đồng minh không cần thiết nữa.
2. Mâu thuẫn không c̣n.
Trong cuộc tranh đấu hiện nay giữa Tây phương và Nga Xô, Tây phương do Mỹ lănh đạo về quân sự và Anh, Mỹ lănh đạo về đường lối.
Trên phương diện quân sự, chiến lược của Mỹ không phải là một chiến lược tấn công, nhưng là một chiến lược phản công kịp thời bằng vơ khí nguyên tử, ngay vào các trung tâm chiến lược của Nga Xô. Do đó, và bởi v́ lúc đầu của giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu, tầm hoạt động của phi cơ, phi đạn đều có giới hạn cho nên Mỹ cần một số căn cứ chiến lược bao quanh Nga Xô từ Âu sang Á. Đó cũng là nguyên nhân của công cuộc Mỹ viện trợ các nước không phải là Tây phương. Nơi nào Mỹ đóng căn cứ là nơi đó Mỹ viện trợ. Sau đó khi bộ máy viện trợ đă thành và chạy đều, nhiều sự kiện chính trị hay kinh tế chiến lược khác cũng thành những lư do viện trợ.
Để phá ṿng vây của Mỹ, Nga cũng viện trợ cho các quốc gia đó, để cho sự cần thiết đối với Mỹ kém đi th́ các quốc gia liên hệ có thể từ chối không cho Mỹ đặt căn cứ trên lănh thổ ḿnh. Đồng thời Nga Xô nỗ lực chế các loại phi đạn có tầm hoạt động xa để bắn tới các trung tâm chiến lược của Mỹ.
Các quốc gia tốt số đó, được hai bên ưu đăi và nếu ư thức được vấn đề căn bản của ḿnh, th́ dùng viện trợ đó để phát triển dân tộc.
V́ Mỹ có căn cứ ở gần Nga Xô, mà Nga Xô không có căn cứ ở gần Mỹ cho nên Nga Xô mới dồn hết nỗ lực kỹ thuật và kỹ nghệ của ḿnh vào việc sáng chế các phi đạn trường xạ tŕnh liên lục địa và đă tiến bộ hơn Mỹ về điểm này. Và, đương nhiên, tiến bộ hơn Mỹ về không gian phi hành, bởi v́ ngành này phải dùng loại phi đạn trường xạ tŕnh. Mỹ ỷ lại vào các căn cứ đă có gần Nga Xô, nên không chú trọng đến các phi đạn trường xạ tŕnh.
Tuy nhiên bởi v́ sự tuyên truyền của Nga Xô, nên các căn cứ quân sự của Mỹ, ở các nơi trên thế giới, gây ra nhiều thất bại về chính trị, ví dụ, như ở Nhật, khi Tổng Thống Eisenhower sắp sửa sang viếng Đông Kinh năm 1960. Cân nhắc kỹ, cái lợi quân sự không bù cái hại về chính trị, cho nên Mỹ lại xoay sang chiến lược thay thế các căn cứ cố định trên đất liền bằng những căn cứ phóng hoả tiễn trung xạ tŕnh, lưu động: Các tiềm thuỷ đĩnh nguyên tử.
Trên phương diện quân sự, sự thay đổi chiến lược này có nghĩa như là Mỹ đă tăng gia được tầm hoạt động của các phi đạn và không cần các căn cứ quân sự chung quanh Nga nữa. Căn cứ không cần đặt, th́ viện trợ sẽ rút. Khi nào số tiềm thuỷ đĩnh nguyên tử của Mỹ lên đến số lượng đủ dùng để thay thế các căn cứ trên lục địa, th́ viện trợ Mỹ sẽ chấm dứt. Và cơ hội phát triển của các nước nghèo sẽ bớt đi nhiều. Công cuộc rút này đă bắt đầu thi hành ở nhiều nơi.
Tuy nhiên, nếu trường hợp này xảy ra, mâu thuẫn Nga Xô - Tây phương vẫn c̣n, và các nước nhỏ mặc dầu phát triển có khó khăn, nhưng vẫn c̣n có hy vọng phát triển và độc lập không đến nỗi bị đe doạ.
Đường lối của Tây phương, trong công cuộc chiến đấu với Nga Xô, do Anh, Mỹ lănh đạo. Căn bản chính yếu của đường lối này, càng ngày càng bộc lộ rơ rệt. Các nhà lănh đạo Tây phương nhận thức hai điều:
Trước hết lư do chính, v́ đó mà Nga Xô đă dốc hết nhân lực và tài lực của ḿnh vào công cuộc chiến đấu vĩ đại với Tây phương, là ư chí của Nga Xô để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc.
Điều thứ hai là Nga Xô đă thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc và nay trở thành một cường quốc mà sức mạnh và năng lực đáng được kính nể.
Đường lối của Tây phương
Tất cả đường lối của Tây phương trong cuộc chiến đấu với Nga Xô đă được xây dựng từ trên hai nhận xét căn bản đó.
Như chúng ta đă thấy, trong một giai đoạn trên đây bàn về nước Nga, nước Nga và Tây phương có một di sản tinh thần chung: Đạo Gia Tô. Nhưng Tây phương theo Gia Tô Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mă; Nga Xô theo Gia Tô Đông phái, Giáo chủ lúc đầu ở Hy Lạp. Và hai nền văn minh Tây phương và Nga do đó có nhiều điểm giống nhau. Nhưng v́ một sự kiện lịch sử, mà chúng ta đă biết, di sản tinh thần chung, có thời kỳ có hiệu lực là một yếu tố liên hợp giữa hai bên, lại có thời kỳ có hiệu lực là một mầm chia rẽ.
Mặc dù phải vơ trang đến cực độ và thủ thế với nhau từng hành động và từng lời nói, đường lối của Tây phương hiện nay đối với Nga Xô là, kêu gọi đến tính cách liên hiệp của di sản tinh thần chung, mục đích đưa Nga trở về với xă hội Tây phương và khối người cùng một nền văn minh.
Tất cả nỗ lực ngoại giao của Tây phương đều hướng về mục đích trên, từ những hành động nhỏ nhặt, của từng cá nhân, đến những trao đổi văn hoá và những hiệp ước thương mại hay quân sự, giữa Nga Xô và các quốc gia Tây phương.
Ví dụ, không phải t́nh cờ mà người Anh đặt tên cho vệ tinh đầu tiên sắp bắn lên quĩ đạo là “Britnik”. Nhưng mà là cố ư tỏ ḷng thán phục những vệ tinh “Spoutnik của Nga. “Brit” là British (của người Anh), “nik” để nhắc rằng những vệ tinh của loài người bắn lên không gian trước hết là của Nga Xô. Ngụ ư của sự lựa chọn trên, là để thoả măn ḷng tự ái của Nga Xô lâu nay vẫn bị Tây phương xem là thấp kém, và nhắc nhở Nga Xô rằng Nga Xô và Tây phương đều cùng chung một nền văn minh.
Không phải t́nh cờ mà ông Paul Reynaud cựu Thủ tướng Pháp, trong cuộc thăm viếng nước Nga đă long trọng tuyên bố với Thủ tướng Krutchev: “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu châu”.
Những sự hoan nghênh và tiếp rước nồng hậu các phi hành gia Nga, ở các kinh đô Tây phương, cũng hàm cùng một ư nghĩa. Những sự trao đổi về văn hoá và khoa học, trong hội nghị quốc tế, hay những cuộc viếng thăm của những phái đoàn văn nghệ của hai bên đều là những hành động có tính toán, chuẩn bị dư luận của hai bên, để dẫn dắt lần lần quần chúng của hai bên đến chỗ thông cảm với nhau. Báo chí Tây phương không ngớt ca ngợi những thành tích khoa học và xă hội của Nga Xô và luôn luôn nhắc nhở đến những thời kỳ mà sự liên lạc giữa các nước Nga và Tây phương rất là thân hữu. Tất cả các hành động trên, trong tất cả các lĩnh vực, đều dọn đường để cho Nga Xô trở về với xă hội Tây phương.
Cuối cùng và quan hệ hơn hết là những nỗ lực để phát huy di sản tinh thần chung. Sau khi đă ly khai với nhau trong nhiều thế kỷ, giáo chủ Gia Tô Tây phái ở Roma là Giáo Hoàng Gioan XXIII đă mời và tiếp kiến các vị giáo chủ Tin Lành và các vị giáo chủ Gia Tô Đông phái. Các báo chí Tây phương đều hết sức hoan nghênh những cuộc tiếp xúc trên, để chuẩn bị cho công cuộc thống nhất Gia Tô giáo.
Sự tổ chức Công Đồng Vatican I tiếp tục chính sách trên và thích hợp với một đường lối chính trị của Tây phương. V́ vậy cho nên, sau khi Gioan XXIII đă từ trần, th́ dĩ nhiên Phao Lô VI sẽ tiếp tục chính sách trên và tổ chức Công Đồng Vatican II, trong đó, các giáo chủ các phái Gia Tô, ngoài Tây phái, đều được mời tham dự với tư cách là quan sát viên.
Xem thế, chúng ta nhận thấy một cách rơ rệt, xuyên qua không khí phức tạp và rối rắm, của sự bang giao giữa hai khối, những nét chính yếu của đường lối Tây phương đối với Nga Xô.
Chỉnh đốn nội bộ
Đồng thời với sự thi hành đường lối nói trên với Nga Xô, và cũng để làm hậu thuẫn cho đường lối ấy, Tây phương đang vận dụng nỗ lực của ḿnh để chinh đốn lại nội bộ xă hội Tây phương.
Các cường quốc Tây Âu ngày nay trải qua một giai đoạn, có nhiều điểm tương đồng với thời đại Chiến Quốc bên Tàu và thời kỳ các đô thị quốc gia của Cổ Hy Lạp hay là thời kỳ các đô thị quốc gia của Ư vào các thế kỷ X đến XIV.
Đại khái, các đô thị quốc gia Cổ Hy Lạp ngày xưa cũng là nơi đă phát sinh một nền văn minh xán lạn và cường thịnh. Người Hy Lạp cũng đă vượt sóng chinh phục các dân tộc ở khắp ven biển Địa Trung Hải. Hạt giống văn minh do họ gieo rắc, đă nảy mầm nhiều nơi, và ở những nơi này, nhiều quốc gia nhờ dân đông và đất rộng đă phát triển mạnh bạo, trở thành những lực lượng hùng hậu lấn áp cả uy thế của mẫu quốc.
Và nhiều quốc gia mới đă trở lại chinh phục các đô thị quốc gia Hy Lạp. Lúc đó các đô thị quốc gia này đă phải sụp đổ v́ không thắng nổi những sự tranh chấp cổ truyền để thống nhất lực lượng, chống xâm lăng.
Ngày nay, các cường quốc Tây Âu cũng vậy. Đó là nơi phát sinh nền văn minh Tây phương đă chinh phục thế giới. Hạt giống văn minh của họ đă nảy mầm khắp nơi trên địa cầu. Ở nhiều nơi này, nhờ dân đông và đất rộng, nhiều quốc gia đă phát triển mạnh bạo trở thành những lực lượng đe doạ cả các cường quốc Tây âu. Ví dụ Nga Xô hay Mỹ.
Rút kinh nghiệm thất bại của các đô thị quốc gia Cổ Hy Lạp, các nhà lănh đạo Tây Âu đang huy động hết nỗ lực của ḿnh để thực hiện, sự thống nhất Âu châu. Những hiệp ước quan thuế sáu nước, hiệp ước quan thuế bảy nước, và, ngay đến Thị Trường Cộng Đồng Âu Châu đều là những thực hiện đầu tiên và cụ thể của những cố gắng nói trên.
Sau khi, v́ mâu thuẫn nội bộ mà suưt bị đánh bại, và v́ mâu thuẫn với Nga Xô mà mất hết các thuộc địa, trước kia là nguồn cung cấp thiên sản cho họ, các cường quốc Tây Âu nhận thức rằng con đường sống duy nhất của họ là thanh toán các mâu thuẫn nói trên. Và chính đó là điều mà họ đang làm.
Đối với chúng ta, các quốc gia đă bị đế quốc thống trị, các mâu thuẫn trên đă tạo cho chúng ta cơ hội ngày nay. Vậy th́, ngày nào, các cường quốc Tây Âu và Tây phương, thành công trong dự tính của họ, các mâu thuẫn trên không c̣n nữa, và cơ hội của chúng ta cũng sẽ mất. Vậy câu hỏi là: các cường quốc Tây phương đă thành công chưa?
Trong công việc thanh toán mâu thuẫn nội bộ, có nhiều triệu chứng chỉ rằng họ có thể thành công và đang thành công. Triệu chứng quan trọng nhất là ư thức ngày càng rơ rệt, của quần chúng Âu châu đối với quan niệm “Âu châu quốc gia chung”. Trên phương diện này, những hành động có đượm tính cách di hận cá nhân của tướng De Gaulle đối với các nhà lănh đạo Anh, Mỹ, thành ra một trở lực cho công cuộc thanh toán mâu thuẫn nội bộ Âu châu. V́ vậy, mà chúng ta có thể đoán rằng tướng De Gaulle c̣n sống, uy tín cá nhân của De Gaulle sẽ che chở cho chính sách của ḿnh, nhưng lần hồi nước Pháp sẽ bị cô lập. Tướng De Gaulle chết đi, công cuộc thanh toán các mâu thuẫn nội bộ của Âu châu sẽ tiến hành dễ dàng hơn.
Đối với chúng ta, những mâu thuẫn nội bộ, giữa các cường quốc Tây phương, ngày nay, không c̣n quan hệ như những mâu thuẫn giữa Nga Xô và Tây phương nữa. Bất quá đó chỉ là những mâu thuẫn có thể dùng được trong công cuộc ngoại giao thông thường.
Vậy, Tây phương đă thành công trong công việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương chưa? Cố gắng của Tây phương trong công việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga Xô và Tây phương, vừa nhằm mục đích tránh cho nhân loại một chiến tranh nguyên tử thảm khốc, vừa nhằm mục đích cứu thoát văn minh Tây phương khỏi một sự tiêu diệt chắc chắn, nếu một cuộc chiến tranh nguyên tử bùng nổ giữa Nga Xô và Tây phương.
Thái độ của Nga Xô
Nga Xô, ngày nay, đứng trước hai lời kêu gọi. Một bên, lời kêu gọi của Tây phương là lời kêu gọi của gia đ́nh những người cùng một văn minh và cùng một di sản tinh thần. Một bên, là lời kêu gọi của gia đ́nh những người cùng một lư tưởng Cộng Sản.
Chính trị thượng tầng của thế giới ngày nay, sẽ được quy định bởi thái độ của Nga Xô trước hai lời kêu gọi trên. Ở vào một tŕnh độ phát triển, như tŕnh độ của Nga Xô ngày nay, Nga Xô có thể đáp lời kêu gọi của Tây phương. Nhưng kư ức cuộc tranh đấu gay go với Tây phương, trong suốt mấy thế kỷ, cũng chưa có thể sớm chiều phai mờ trong trí các nhà lănh đạo Nga Xô.
Nga Xô có thể đáp lại lời kêu gọi của gia đ́nh các đồng chí lư tưởng Cộng Sản. Nhưng các nhà lănh đạo Nga Xô, cũng thừa hiểu rằng lư tưởng Cộng Sản làm một phương tiện tranh đấu, đă giúp cho Nga Xô thực hiện cuộc phát triển dân tộc và chỉ c̣n giá trị khi c̣n một ích lợi nào cho cuộc tranh đấu giữa Nga Xô và Tây phương. Mà cuộc tranh đấu của Nga Xô đối với Tây phương ngày nay không c̣n như xưa nữa. Lư tưởng Cộng Sản hết c̣n là một lợi khí sắc bén trong ḷng địch Tây phương nữa, bởi v́ Tây phương đă t́m được những phương thuốc có khả năng loại lư tưởng Cộng Sản ra ngoài xă hội của họ.
Vậy Nga Xô sẽ ngả về bên nào? Khó mà biết được. Nhưng có lẽ thái độ chính trị thiết thực nhất, là Nga Xô sẽ tuỳ theo hoàn cảnh thực tế mà có lúc ngả bên này và có lúc ngả bên kia. Có điều chắc chăn là lư tưởng Cộng Sản đối với Nga Xô đă giảm giá trị đi rất nhiều. V́ lư do này, và v́ lư do Nga Xô có lúc tỏ ra thiên về Tây phương, cho nên mới gây nhiều sự tranh luận lư thuyết với Trung Cộng.
Nhưng trong giai đoạn này, Nga Xô đang ngả về đâu? Thuyết sống chung hoà b́nh của Nga có thể là một kế hoạch ru ngủ đối với Tây phương nhưng có phần chắc hơn là Nga Xô cũng trông thấy sự tai hại của một cuộc chiến tranh nguyên tử đối với nhân loại, và nhất là đối với văn minh Tây phương. Và chủ trương sống chung hoà b́nh, đương nhiên, đồng ư với Tây phương để cứu thoát văn minh Tây phương khỏi hoạ tiêu diệt. Và gần đây, thái độ của quần chúng Nga Xô, đối với các phái đoàn văn hoá Tây phương, tỏ ra nhiều cảm t́nh, đó là một triệu chứng Nga Xô thiên về Tây phương.
Một triệu chứng khác về sự Nga Xô hiện nay có lẽ đang thiên về Tây phương là phản ứng vô cùng mạnh bạo của Trung Cộng đối với thái độ dung hoà của Nga Xô. Trung Cộng đang ở vào một t́nh trạng, tương tự như của chúng ta, nghĩa là của một quốc gia vừa độc lập và đang t́m phát triển. Trung Cộng cũng đang cần có sự mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương để phát triển. Chỉ khác với chúng ta một điều là khối người của Trung Cộng là một yếu tố vô cùng quan trọng, có thể dùng đó mà làm lệch cán cân chính trị thế giới. V́ vậy cho nên Trung Cộng ảnh hưởng được đến sự bang giao giữa Nga Xô và Tây phương. Nhưng cũng v́ số người to tát này mà công cuộc phát triển của Trung Cộng vô cùng khó khăn. Khi nh́n thấy Tây phương đang t́m cách thanh toán các mâu thuẫn giữa ḿnh và Nga Xô, và xem chiều Nga Xô muốn thiên về Tây phương, th́ Trung Cộng, lấy tư cách là một phần tử quan trọng trong gia đ́nh lư tưởng Cộng Sản, phản đối rất gay gắt. Chắc chắn rằng các nhà lănh đạo Trung Cộng hiện nay rất lo âu về việc mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương có thể hết trong khi công cuộc phát triển của Trung Cộng chưa hoàn thành.
Dầu sao, nếu chưa mất hết hẳn, th́ mâu thuẫn giữa Nga Xô và Tây phương đă giảm đi nhiều. Và đồng thời cũng giảm đi cơ hội phát triển cho chúng ta, nếu chúng ta không sớm tỉnh ngộ để nắm lấy dịp mà phát triển dân tộc. Kinh nghiệm thất bại lần trước đủ cho chúng ta thấy hoàn cảnh bi đát mà chúng ta sẽ lọt vào kỳ này, nhất là nếu kỳ này người láng giềng khổng lồ của chúng ta phát triển được dân tộc của họ.
Tuy nhiên, trong một thế giới gồm nhiều cường quốc như thế giới hiện tại, nếu loại mâu thuẫn này chấm dứt, th́ thế nào giữa các cường quốc cũng nảy sinh ra những loại mâu thuẫn khác. Sự sinh tồn của các quốc gia nhỏ bé như quốc gia chúng ta căn cứ trên sự khai thác đúng mức các loại mâu thuẫn. V́ vậy cho nên, miễn là thiểu số lănh đạo xứng danh của chúng ta c̣n, là chúng ta c̣n cơ hội phát triển. Cơ hội phát triển của chúng ta khác với cơ hội phát triển của các khối lớn, như Trung Hoa hay Ấn Độ, là ở chỗ đó.
Trong các đoạn trên đây chúng ta đă cố gắng t́m hiểu công cuộc mà dân tộc chúng ta cần phải thực hiện trong giai đoạn này để bảo vệ độc lập và mưu hạnh phúc cho toàn dân. Công việc đă nh́n thấy, hoàn cảnh bên ngoài có thuận tiện, vậy thực hiện được hay không c̣n phụ thuộc điều kiện nội bộ của chúng ta. Trong phần sau đây, chúng ta sẽ t́m hiểu những điều kiện nội bộ nói trên.
(c̣n tiếp)
Tùng Phong Lê Văn Đồng
* Báo Chí
* Mục Lục
* Pháp Lư
* Biệt kích trong gịng lịch sử
* Mapquest
* Thời Thế
* Lưu Trữ
* Nam Nhân
* Tân Dân
* VietEdit
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ . Báo Chí . BBC . RFI . RFA . Tác Giả . Kỹ thuật . Dịch Thuật . Quảng Cáo . Groups . Portal . Forum .Tinh Hoa . Da Lat . Thư Quán . ChinhNghiaMedia . Liên lạc