CHIẾC PHONG CẦM CỦA BỐ TÔI
Dương Như Nguyện
Thay lời tựa: Tôi yêu lắm cái linh hồn, Gọi là tinh thần luân lư giáo khoa thư Vất vưởng theo bước chân người Việt Nam tị nạn Tôi luôn t́m chỗ nương náu Cho cái linh hồn mờ phai ấy Trong xă hội nhiễu nhương này Hôm qua, hôm nay, ngày mai, và nhiều ngày sau nữa. Tôi đă bắt đầu và tiếp tục cuộc hành tŕnh. Vào nước Mỹ thênh thang
Tôi đi, Nương theo linh hồn luân lí giáo khoa thư của Việt Nam nhỏ bé Đi mà nhớ măi, Tiếng đàn của một ông giáo,
Ôi tiếng Phong Cầm của Bố Tôi.
Tên tôi là Dương Thị Như Hoài An. Ở Mĩ tôi mang tên Ann Dương. Tôi là con gái một ông giáo dạy văn chương, sinh ngữ. Bố tôi là một người tị nạn Việt Nam. Ông dạy học suốt đời. Sang Mĩ từ năm 1975, bố tôi may mắn hơn nhiều bạn hữu của ông: ông được tiếp tục nghề dạy học. Người Mĩ gọi bố tôi là Dr. Dương. Tôi không phải là một nhà giáo. Tôi là một chuyên viên kinh tài thị trường chứng khoán. Tôi có tiền bạc sung túc hơn bố tôi, v́ tôi không chọn nghề dạy học, dù rằng thời thơ ấu ở Huế, tôi đă từng ôm mộng trở thành giáo sư dạy dương cầm. Năm tôi sáu tuổi, bố tôi để tôi lên yên sau chiếc xe đạp của ông, rồi ông g̣ người đạp xe đến trường Jeanne d''Arc, Huế. Ông phó thác tôi cho Sơ Thanh Tâm Fred Pierre. Bà là người dạy tôi đặt ngón tay lên phím trắng dương cầm lần đầu tiên. Chiếc xe đạp, thân người mảnh khảnh, cặp kính cận của bố tôi, những ṿng bánh xe quay trên con đường im vắng của thành phố Huế, và những phím trắng dương cầm, tất cả trở thành những h́nh ảnh mờ nhạt khi tôi mạnh dạn xách cặp da đi vào trụ sở Goldman Sachs (* ) ở Nữu Ước. Từ đó, tôi quên những con đường im vắng của Huế xưa cũ, quên những phím trắng dương cầm, và quên luôn đời sống của bố mẹ tôi, nhất là của bố tôi, một nhà giáo Việt Nam lưu vong tị nạn. Trong những đêm Nữu Ước sáng rực ánh đèn, tôi ngồi trong văn pḥng, đối diện cái máy vi tính, thoáng nghĩ đến bố mẹ tôi. Rồi vội vă kết luận: chắc là bố mẹ tôi vẫn b́nh an, sau đó lại tiếp tục dán mắt vào cái máy vi tính. * Tôi không biết bố mẹ tôi sống như thế nào, nói chi đến việc hiểu được sự mất mát của bố tôi... cho đến ngày tôi từ giă Goldman Sachs để về miền Nam sống bên cạnh bố mẹ. Tôi trở về với bố mẹ v́ đă mệt mỏi với nghề nghiệp của ḿnh. Tôi muốn đi t́m phím trắng dương cầm của thời thơ ấụ. Và trong khi đi t́m phím trắng dương cầm cho ḿnh, tôi bắt gặp, từ quá khứ im ĺm, những mảnh đời của bố mẹ tôi... * Suốt những năm ở Mĩ, bố tôi làm nghề viết curriculum cho một quận học chánh ở Texas. Viết xong curriculum, ông đem bài vào lớp thực nghiệm cho lũ trẻ con không nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ, trong những ngôi trường thị tứ (urban) cho con nhà nghèo, rồi ông phải bênh vực bài giảng của ḿnh soạn ra, trước những con mắt phê b́nh của những nhà giáo dục tiểu bang, đa số là những con người chưa từng bước chân ra khỏi ṿng đai tiểu bang Texas, nói giọng eo éo theo cái lối miền Nam. Qua bao nhiêu kiểm điểm, phê b́nh, bài của bố tôi mới được in ra, trở thành bài học căn bản cho lũ trẻ con nói hai thứ tiếng. Bao năm nay bố tôi sinh sống bằng nghề dạy học. Ngày lại ngày, sáng nào bố tôi cũng dậy từ năm giờ. Mẹ tôi dậy theo. Mẹ tôi để vào cái túi giấy dầu một cái bánh ḿ chả lụa, một trái chuối, và một lon sữa đậu nành. Đó là bữa ăn trưa của bố tôi. Sáu giờ sáng bố tôi ra khỏi nhà, cầm theo cái túi giấy dầu, và tài liệu dạy học nằm trong cái cặp da càng ngày càng cũ. (Tính bố tôi ưa sưu tầm, lưu trữ, không thích vứt bỏ cái ǵ cả. Ông khư khư giữ tất cả những ǵ ông đă sắm để rồi...tôi biết một ngày kia tất cả sẽ tan biến đi, như lần di tản 1975). Mẹ tôi than với tôi: "Cha con chán nghề dạy học rồi. Ông chỉ mong về hưu để sang Cali với bạn bè và học tṛ cũ. Về hưu rồi th́ tha hồ mà tán gẫu ở ṭa báo Người Việt với Người Chàm, Thế Hệ Hai Mươi với Thế Kỷ Hai Mốt..." Trong căn bếp hẹp, mẹ tôi sửa soạn túi giấy ăn trưa cho chồng. Tôi nghĩ, chắc bố tôi chán nghề dạy học thật. Khi cầm cặp với túi thức ăn đi ra cửa, mặt ông chảy dài có vẻ đau khổ, đôi mày ông cau lại. Tôi đi làm cho Goldman Sachs có nhiều lúc cũng chán ngán như thế. Quanh đi quẩn lại, hai mươi năm trôi qua, tôi bàng hoàng nhận ra là mười ngón tay ḿnh đă phụ bạc phím dương cầm. Nên tôi đă từ bỏ tiền lương sáu con số mà "lang thang giữa đời ối a biết đâu nguồn cội." Tôi đi làm, bước chân vào văn pḥng với chiếc ví Chanel, với nước hoa và phấn son thơm ngát, c̣n bố tôi bước chân ra cửa, trĩu nặng trên vai cái nếp sống đơn bạc của nghề giáo. Với tôi, chiếc ví Chanel, nước hoa và son phấn trở thành niềm an ủi, c̣n bố tôi lấy ǵ làm an ủi? Nh́n bố tôi chậm chạp trong bếp, tôi mủi ḷng. Đời tôi đă có nhiều ngậm ngùi, từ công danh cho đến t́nh duyên. Bây giờ, trong tuổi già của bố mẹ tôi, h́nh như tôi phải cưu mang thêm nỗi ngậm ngùi của họ. Tôi chạy vào pḥng t́m cái túi Lancôme cũ đưa cho bố tôi để ông làm túi đựng đồ ăn trưa. Tôi nói: "Cho nó lịch sự, bền bỉ hơn một chút, bố ạ."
Từ hôm đó, mỗi sáng bố tôi rời nhà với chiếc cặp da cũ, thêm cái túi Lancôme đựng đồ ăn rất "ốp a" của cô con gái thay thế cái túi giấy dầu. Ông nói với mẹ tôi: "Cái túi Lancôme chắc chắn không bị rách v́ lon sữa đậu nành như cái túi giấy dầu." Mặt ông nom nghiêm trọng như thể đang nói chuyện tương lai nước Việt Nam. Mẹ tôi th́ chê cái túi Lancôme nom đàn bà quá. Bố tôi dễ thương ở chỗ ông lập dị một cách vô tư lự. Thí dụ ông soi gương cắt tóc lấỵ. Có lần, tóc méo một bên không giống ai, ông vẫn tỉnh bơ, tuyên bố, "Hà tiện đồng nào hay đồng ấỵ." Thế nhưng bố tôi lại rất hồ hởi đi mua tranh của ông họa sĩ Đinh Cường về treo trong nhà làm cảnh. Khi ông rời nhà, mang theo cái cặp và cái túi, ôi đứng nh́n theo ông, tự hỏi trong cuộc đờinhà giáo, ông lấy ǵ làm an ủi, thay thế vị trí cái ví Chanel trong cuộc đời Goldman Sachs của tôi?
Nếu bố tôi không thích dạy học nữa, tại sao ông vẫn gương mẫu hơn bất cứ một công dân gương mẫu nào của Mĩ quốc nàỵ Ông phê b́nh chuyện tôi bỏ việc ở Goldman Sachs: "Nó trả con nhiều tiền thế, sao lại tự dưng xin thôi ?" Ông hay nhận định viec các em tôi và dâu rể có tật làm việc đi trễ về sớm theo ngôn ngữ Bắc Ḱ: "Chúng mày lạ quá, tao chẳng bao giờ đi làm trễ. Mĩ nó đúng giờ giấc lắm, đi trễ về sớm như chúng mày là bậy, bậy, bậy lắm" Em trai tôi cười trừ, nheo mắt, "Yes, Sir." Em gái tôi th́ nhỏ to: "Bố không muốn bê bối v́ bố...sợ tụi nó! Bố mặc cảm Việt Nam quá trời!"
Như một cái đồng hồ báo thức, trong mười tám năm, cứ sáu giờ sáng là bố tôi rời nhà với cặp da túi giấỵ. Bảy giờ sáng là bố tôi đă có mặt tại trường. Trừ khi đau ốm, ông không hề nghỉ một ngàỵ. Nếu quả t́nh dạy học ở Mĩ là khổ th́ khả năng chịu đựng của ông thuộc hạng... siêu! Ngày nào cũng như ngày ấy, sách cặp da túi giấy trong mười tám năm! *** Tôi vô tâm không hiểu tại sao bố tôi đi làm với nét mặt đau khổ. Tôi cho là bố tôi đă được voi, c̣n muốn đ̣i tiên.
Cho đến một hôm...
Không c̣n đeo gánh nặng của Goldmans Sachs trên vai, tôi có th́ giờ theo bố tôi đến lớp học một ngôi trường thị tứ...Bắt đầu bằng sự ṭ ṃ của một đứa con, tôi trở thành nhân chứng một ngày trong đời của bố tôi, để bàng hoàng nhận ra sự mất mát của thế hệ lưu vong đi trước. Bố tôi đứng, cũng phấn trắng bảng đen, ông ḥ hét không lại lũ trẻ con ngỗ nghịch, đen, trắng, vàng, Mễ có, Việt có, Tầu có. Ông đứng cô độc, già nua, nhỏ bé trong cái lớp học tồi tàn. Ngày hôm ấy tôi nhận thức được sự đau khổ của một nhà giáo Viêt Nam ở Mĩ ! Đây không phải là trường Trần Quư Cáp với những người học tṛ Quảng Nam t́nh nghĩa, tự biết cúi đầu khoanh tay, yêu thương thầy cô cho đến 30 năm sau không phai nhạt. Đây không phải là Đại học Vạn Hạnh của một xứ sở Phật giáo mà h́nh ảnh từ bi của Như Lai ḥa nhập với con đường đi t́m kiến thức. Bố tôi không c̣n là ông giáo mảnh khảnh mang kính cận giảng dậy văn chương Anh cho sinh viên. Từ Merchant of Venice cho đến A Farewell to Arms. Ông không c̣n say sưa dạy dịch Việt-Anh thế nào cho hay, từ Dọc Đường của Thanh Tâm Tuyền đến Mai Thảo, Những V́ sao của Diệu. Ông đứng trước bảng đen lạc lơng, cầm những tấm bích chương ông viết tay, nắn nót, danh từ, tĩnh từ, theo mấy cái phương pháp lẻ tẻ của giáo dục song ngữ (billingual education). Tóc ông bắt đầu thưa. Mắt ông lờ đờ sau cặp kính. Hai má xệ xuống theo tuổi già. Ông đứng đó, nhưng cũng vẫn phấn trắng bảng đen. Phấn trắng, bảng đen đeo đuổi ông cho đến hết cuộc đời. Có một đứa trẻ người Mễ, khoảng 14 tuổi, khi không nổi hứng thổi cái kẹo cao su vào bố tôi, chiếc bong bóng bay ngang không khí, "đậu" lại trên sân bay là cuốn sổ tay của bố tôi. Đứa trẻ la lên: --"Dr. Dương!" Nó ăn kẹo như vậy đâu có nghĩa nó là hiện tượng Bầy Thú Trước Bảng Đen của Duyên Anh! Nó chỉ là đứa trẻ nhà nghèo học trường thị tứ, nó thích ǵ là làm nấy. Theo bản năng tự nhiên. Trong môi trường thị tứ này, không có cái khuôn khổ nề nếp gọi là văn hóa giáo khoa thư ngày xưa của bố tôi. Của học tṛ Trần Quư Cáp, Đồng Khánh, Petrus Kư...Cái văn hóa của một lớp người biết chắp tay, "Thưa Thầy, con đi!!!" Chắc v́ nghĩ như thế nên bố tôi, cương vị của một nhà giáo dục lưu động, không có vẻ ǵ giận dữ. Ông quay lại cười với đứa nhỏ. Nói theo kiểu nôm na của bà nội tôi, nom ông "lành như Bụt." Thằng bé chẳng thèm nói xin lỗi. Ông đưa tay vớt cái bong bóng trên cuốn sổ. Tôi lặng người. Bố tôi, người giáo sư nước Việt Nam Cộng Ḥa ngày xưa, của khuôn viên đại học, giờ phút này bị biến thành một nhà giữ trẻ bất đắc dĩ. Đến giờ ra chơi, bố tôi đi vào pḥng giáo sư, ngồi cạnh những đồng nghiệp nói giọng eo éo miền Nam. Ông ăn miếng bánh ḿ chả lụa, uống lon sữa đậu nành, nhỏ nhẹ chép miệng theo kiểu Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Tôi xin cám ơn cộng đồng Việt Nam hải ngoại đă đem chả lụa với sữa đậu nành vào nước Mĩ rộng lớn dư thừa chất đạm từ hamburgers cho đến rib eye... Chả lụa với sữa đậu nành cho bữa ăn trưa của bố tôi. Trong mười tám năm, ngày nào cũng một menu đó. Đêm hôm ấy, tôi, Dương Thị Như Hoài An tức Ann Dương, con gái đầu ḷng của một ông giáo Việt Nam, trằn trọc không ngủ được. Tôi nhớ đến một vật sở hữu bố tôi đă có và đă mất. Tôi nhớ đến chiếc phong cầm của bố tôi. Như tôi đă nói, bố tôi có tính quen sưu tầm, lưu trữ, ít khi phế thải một vật sở hữu nào. Bằng chứng là ông vẫn giữ cái cặp da đầu tiên trong công vụ dạy học ông mua tại Sàig̣n hồi cuối năm 1955 trước khi lên đường ra miền Trung dạy học, nhất là cái bộ đồ "bốn túi" kiểu "kí giả" ông mang theo từ 1975. Đó là cái "mốt" một thời của bố tôi.. Nhiều lần, lũ con phải la lối đ̣i tẩy chay bố để ông khỏi lôi bộ đồ cổ lỗ sĩ ra mặc. Giữa đêm tối, tôi chợt hiểu rạ Tôi hiểu rồi, hiểu cái mất mát của bố tôi. Cái đau khổ mơ hồ của tôi hôm nay bắt đầu từ h́nh ảnh chiếc phong cầm thời thơ ấụ CHIẾC PHONG CẦM CỦA BỐ TÔI... Khi tôi bắt đầu có trí nhớ th́ bố tôi đă có chiếc phong cầm ấỵ. Bố tôi mất nó vào năm 1964, trong những ngày Huế sôi nổi xuống đường. *** Đầu năm 1963, tôi lên sáu, th́ bố tôi từ Pháp về. Ông đi du học từ hồi tôi ba tuổị. Không có bố bên cạnh, tôi sống trong không khí quây quần bên họ ngoại. Ngày ông về nước, ông là một h́nh ảnh xa lạ. Ông mảnh khảnh, mặt hơi tư lự. Tôi nh́n ông mà hơi sờ sợ. Những ngày ở Pháp về, ông không vui, có lẽ v́ thời cuộc. Con bé Hoài An ở tuổi thơ dại đó, bèn bắt đầu một công tŕnh nghiên cứu qui mô. Tôi quyết định nghiên cứu bố tôi. Việc đầu tiên tôi nhận xét là những câu nói của người nhà. Tỉ dụ, bà vú bảo: "Ông Tây quá," "Tối ngày ông nghe dĩa hát." Những tiếng hát trong vắt, ngôn ngữ xa lạ. Sau này lớn lên, qua Mĩ, tôi mới biết đó là dĩa hát nhạc kịch My Fair Lady ông mua từ Luân Đôn. Thời gian sinh sống ở Nữu Ước, tôi vẫn luôn tự hỏi biết đâu sự say mê âm nhạc và sân khấu của tôi đă bắt đầu với tiếng ca trong vắt từ cái dĩa hát của bố tôi ngày đó. I could have sung all night I could have sung all night All night
Và tiếng hát vút lên, ngân dài, cao ngất:
All night...
Trong dăy phố Nguyễn Trường Tộ ở xứ Huế êm đềm, chỉ nhà tôi là có cái dĩa hát quay ṿng ṿng. Bố tôi cầm cái cần nhẹ nhàng đặt lên dĩa hát, rồi cái dĩa quay ṿng ṿng, và tiếng hát xa lạ trong vắt bay ra từ cái hộp. Tôi nghĩ theo bà vú: "Sao mà nó Tây thế!" Ngoài cái máy hát, bà vú c̣n nói bố tôi mặc "áo tơi" đi trong nhà. Tôi đi theo nh́n bố tôi, thấy bà vú nói đúng. Bố tôi không mặc bà ba trắng có khuy cài như ông ngoại tôi. Bố tôi mặc cái áo thùng th́nh cột dây ngang lưng, tương tự như cái áo đầm dài đến chân (sau này tôi mới biết đó là cái robe de chambre). Bà vú bảo: "Tây ơi là Tây! Ôn ở lỗ mặc áo tơi đi trong nhà!" Tôi cũng muốn bắt chước bố tôi "mặc áo tơi" đi ṿng ṿng trong nhà như thế. Bà vú bảo: "Hoài An ơi, dị lắm. Đừng bao giờ bắt chước cha mi!" Sau đó bố tôi c̣n vẽ tranh, ông hay đi vẽ với họa sĩ Hiếu Đệ. Ông này hay xoa đầu tôi rất lâu. Tôi c̣n nhớ ông ta có cặp mắt kính rất dàỵ.Trong những tranh của bố tôi, có một tấm có cái thuyền treo ngược. Tôi không hiểu tại sao cái thuyền lại treo ngược, làm sao chèo được trong những ngày nước dâng ngập Đập Đá hoặc băo lụt ở miền Trung? Tôi hỏi mẹ tôi. Mẹ tôi cũng không hiểu bố tôi vẽ cái ǵ? Chỉ có bức tranh Thành Nội có rêu xanh, tường nâu là tôi thấy giống ngoài đời. Cứ như vậy, con bé Hoài An, lên sáu, nghếch mắt nh́n người bố xa lạ, quan sát và suy tư. Rồi bố tôi đem sách Pháp ra dạy tôi học: "C''est une chaise... C''est le chèvre de Mr. Seguin..." Sao mà chán quá! Thêm cái màn phải dậy sớm, tắm rửa, thay áo, uống sữa (một việc mà tôi rất ghét), rồi leo lên xe đạp cho bố tôi đèo đến trường Jeanne d''Arc tập đàn. Tập đàn th́ cũng được đi, nhưng tôi không muốn tập theo Méthode de Rose. Tôi muốn đánh ṃ bài "Những Đồi Hoa Sim, ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt" theo kiểu Phương Dung, con nhạn trắng G̣ Công. Sơ Thanh Tâm mà biết được sẽ khẻ tay tôi đau điếng. Tôi không biết thở than với ai về những cái khó chịu mà bố tôi bắt tôi phải trải qua. Tóm lại sự có mặt của bố tôi làm cuộc đời tôi bị xáo trộn. Tôi không c̣n được ngủ chung giường với mẹ tôi. Tôi phải ngủ giường ngoài, loại giường gỗ dành cho con nít. Tôi van vái Trời Phật cho ông đi du học thêm một lần nữa th́ đỡ quá! Van vái xong, tôi rón rén ghé tai vào cửa pḥng nghe bố mẹ tôi nói chuyện. Bố tôi hay độc thoại nói "ràm ràm" Mẹ tôi ngoan ngoăn ngồi nghe như tín đồ nghe kinh. Bà vú bảo, "Giống người điên. Ôn học giỏi quá, hóa điên!" Sau này khi lớn lên, được yêu và mong mỏi được người yêu thông hiểu, tôi mới cảm nhận được thế nào là nỗi buồn khi phải nói một ḿnh, và khi phải nghe người khác nói v́ bổn phận.. Để thương xót cho cuộc t́nh và hôn nhân của bố mẹ tôi. Một người nói, một người nghe. Phải chi cứ như người từ hành tinh khác đến, truyền thông bằng tư tưởng. Nh́n bằng mắt, hiểu nhau ngay. Th́ t́nh trường đỡ đau buồn, chật vật. Và nhân duyên đỡ cay đắng, đoạn trường v́ người ta không hiểu được nhau. Thế nhưng tuổi lên sáu bé dại, tôi thấy chuyện bố tôi "đọc kinh" cho mẹ tôi nghe một chiều là điều vừa kỳ quặc, vừa hào hứng. Có lần tôi nghe bố tôi đọc một đoạn văn cho mẹ tôi nghe, tôi thấy rất lạ lùng, và kết luận chắc là bố tôi điên đúng như bà vú nói. Tôi kể lại với bà vú, bố tôi nói ǵ về con lừa, về vũ trụ có đồ đạc lổn ngổn. Bà vú lè lưỡi, khuyên tôi sau lớn lo lấy chồng đừng có học giỏi làm chị. Và nhất là chớ có đi Tây. Sẽ điên giống bố tôi. *** Ba mươi bốn năm sau, ngồi ở Nữu Ước, nh́n ra ṿm trời đầy ánh điện, tôi đọc lại một đoạn văn của bố tôi viết ở Huế nhân dịp ông xem tranh của họa sĩ Đinh Cường. Một vài năm trước biến cố 1975, ông đem bài b́nh luận ấy quay ronéo cho sinh viên Văn Khoa Sài G̣n dịch ra tiếng Anh. Thời thơ ấu hiện về, tôi mới nhớ ra đó là đoạn văn tôi đă nghe lóm ngày xưa qua khung cửa pḥng của bố mẹ tôi: "Trong vũ trụ, súc vật, đồ đạc, người ngợm lổn ngổn, những vơ công thức cứng ngắc, rỗng tuếch, đập bửa ra toàn chất liệu chết, ù ĺ, đặc sệt; những cái đầu gỗ lọc cọc múa nhảy trên đường, những trường thành góc cạnh ĺ ĺ chắn lối; những xe cộ, bàn ghế, cây khô tĩnh vật đắp ụ ngơ xóm; đất rác từng đống sát mũi cửa nhà, bịt kín công lộ. Những cái cứng ngắc, lổn ngổn, tŕ độn ấy làm nghệ sĩ đi một bước là đụng, là đá, là vấp chạm đủ mọi chướng vật. Ấy là cái thế giới h́nh thể hiện thực bủa kín nghệ sĩ, muốn ḅ-sát-hóa thân phận nghệ sĩ. Nó bảo: mày làm con lừa kéo gỗ đi. Nó hô: cúi đầu xuống, uốn đuôi lên. Thế giới h́nh thể hiện thực vong thân nghệ sĩ bằng đủ kiểu phỉnh phờ. Nó chắp cánh gỗ cho nghệ sĩ bay vào thế giới lăng mạn, trăng sao mây nước. Nó gạt nghệ sĩ vào vũ trụ ấn tượng mù, lung linh bàng bạc. Rồi, rất biện chứng, nó đá đít những tâm hồn nghệ sĩ đích thực... Tôi không tự hỏi Đinh Cường đă đi vào trừu tượng thế nào ? Cái đó chẳng quan hệ ǵ đến người xem tranh, dĩ nhiên. Sự hiện hữu của trừu tượng Đinh Cường, tôi sẵn nh́n nó trong h́nh ảnh một bứt phá..." Đọc đoạn văn của bố tôi viết trên ba thập niên, tôi giật ḿnh sợ hăi. Tôi không nghĩ là bố tôi viết về tranh Đinh Cường. Mà ông viết về chính ḿnh. Về con mắt nh́n tranh. Ông đă thay tôi viết về thân phận con ngườị Cái tính trí thức và nghệ sĩ trong một môi trường tàn bạo đ̣i hỏi sự bứt phá. Dường như có sự tiên tri. Đoạn văn ngắn này áp dụng được vào khung cảnh của một Sài G̣n nhân măn quay cuồng trong kinh-tế-thị-trường-xă-hội-chủ-nghĩa ngày nay, vào ngay cả cái thành phố Nữu Ước này trước thế kỉ hai mươi mốt. Cái khoảng cách khác biệt giữa Cộng Sản và Tư Bản, Mĩ, Á, trong kỉ nguyên mới (New Age) biến mất trong đoạn văn của bố tôi. Cả hai bên đều có những con lừa kéo gỗ và sự bứt phá trong của tâm hồn nghệ sĩ đối với môi trường và sức ép chung quanh. Rồi tôi rùng ḿnh tự hỏi, năm 1965, khi viết lên những ḍng trên, bố tôi có biết chăng đứa con gái nhỏ đầu ḷng của ḿnh, trên ba mươi năm sau, cảm thấy nó là con lừa trong ṿng quay tới tấp của xă hội Mĩ. Goldman Sachs đă vô hiệu hóa những ngón tay của tôi, không thả cho ngón tay tôi mềm mại về với phím trắng dương cầm. Ở tuổi gần bốn mươi, tôi mong cầm bút để thay thế phím trắng dương cầm. Tôi ngậm ngùi hiểu ra rằng trong căn bản bố con tôi giống nhau. Chúng tôi, qua hai bối cảnh, hai thời điểm khác nhau, ở tuổi trung niên đều mang tâm trạng của những con lừa kéo gỗ. Thế nhưng trong những ngày tháng ở Huế năm 1965 khi bố tôi viết những ḍng trên th́ bố con tôi không nói chuyện với nhau. Bố mẹ Việt Nam thời đó không đến gần con nít, tối tối phải đọc truyện cho con nghe như bố mẹ ở Mĩ thời nay. Sự tương đồng về tâm trạng con lừa, về thân phận con người và kiếp lưu đày của tâm hồn nghệ sĩ, phải ba mươi bốn năm sau tôi mới nhận thấỵ Tuy nhiên, tôi xin tâm sự với độc giả một chi tiết rất quan trọng trong quăng đời thơ ấu của tôi. Khoảng thời gian 1964-65, ở phố Nguyễn Trường Tộ, Huế, bố con tôi có nói chuyện với nhau. Một cuộc nói chuyện thầm lặng qua chiếc phong cầm. Tiếng đàn phong cầm của bố tôi. Công cuộc nghiên cứu về người bố của bé Hoài An có khúc này là thú vị nhất. *** CHIếC PHONG CầM CủA Bố TÔI. Tôi c̣n nhớ rơ mồn một. Nó đẹp vô cùng. Những phím trắng nho nhỏ màu ngà, đục mà lại sáng bóng. Màu ngà c̣n đẹp hơn những thẻ xâm hường điểm son của bà ngoại tôi. Những phím đen nằm thẳng đều đặn cũng sáng bóng như răng hạt huyền của người đẹp Bắc Ninh xưa. Ở giữa những phím trắng với những phím đen là một khoảng huyền bí. Những nếp xếp kéo đi kéo lại, co vào, giăn rạ, huyền hoặc và lôi cuốn! Trong công cuộc nghiên cứu về bố tôi từ ngày ông ở Paris về nước, ngay buổi đầu tôi đă chú ư đến chiếc phong cầm. Buổi chiều khi đi học ở Jeanne d''Arc về, tôi hay bắt gặp bố tôi đứng đánh đàn bên cửa sổ trong trời mưa phùn xứ Huế. Mặt ông chăm chú không giống ai, môi chu lại một cách rất say sưa, v́ ông phải tập trung tinh thần mà "thả hồn vào âm điệu." Những ngón tay nhịp nhàng bấm phím, hai bàn tay kéo ra kéo vô, cái đàn nằm trên ngực bố tôi lắc lư theo âm điệu. Tôi thích bố tôi đánh đàn, lư do giản dị là v́ ông ham đánh đàn không bắt buộc tôi học tiếng Pháp, "C''est une chaisẹ...C''est le chèvre de Mr. Seguin," một điệp khúc vô cùng nhàm chán. Xin lưu ư độc giả, bố tôi không phải là một nhạc sĩ. Tiếng đàn của ông có lúc rè rè, có lúc êm ái mê ly, tùy theo cái hứng nghệ sĩ của bố tôi. Ông cũng không phải là ca sĩ, dù có lúc ông hát ong ỏng theo tiếng đàn. Thế nhưng tiếng đàn tiếng hát của bố tôi đă tạo dựng nên repertoire những bản nhạc Việt đầu tiên mà tôi ưa thích măi cho đến bây giờ. (Bài Những Đồi Hoa Sim không kể, đó là kết quả của sự tuyên truyềnn và tẩy năo của bà vú tôi, vốn mang tâm hồn rất b́nh dân học vụ) Thuở ấy, Trịnh Công Sơn, một thanh niên ốm o, đeo kính cận là hàng xóm của chúng tôi. Trịnh Công Sơn vừa làm xong bài Lời Buồn Thánh. Cái da diết, ủ ê của Lời Buồn Thánh cần phải được diễn tả bằng tiếng sắc-xô-phôn. Không có kèn bố tôi xài đỡ chiếc phong cầm. Tôi thuộc ḷng Lời Buồn Thánh từ đó. "Chiều Chủ Nhật buồn, nằm trong căn gác đ́u hiu Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều Bạn bè rời xa chăn chiếu Ô hay ḿnh vẫn cô liêu ...." Măi về sau, năm ba mươi hai tuổi, tôi bắt đầu để lại tóc dài thẳng đuột. (Trước đó, tôi uốn quăn theo kiểu Donna Summers cho thiên hạ lầm tôi là người Nam Mỹ. Tôi xin thú thực tôi cũng có tinh thần "vọng ngoại" như vài người cùng xứ sở với tôi, thích ăn bơ hơn nước mắm). Có lần, với mái tóc như thế, tôi mặc áo gypsy dấu mi-crô dưới tóc, gập người lại mà rên rỉ Lời Buồn Thánh theo kiểu jazz, kiểu blue trước đám thực khách Mỹ. Họ mải ham ăn, không ai để ư xem tôi hát cái tiếng nước non ǵ. Dưới ánh đèn, trong khói thuốc của một quán ăn nhỏ ở Adams Morgan, Washington, DC, tôi nhớ lại những buổi chiều mưa xứ Huế, bố tôi đứng trầm ngâm bên khung cửa mà đếm tiếng mưa, cái đàn phong cầm đeo ở ngực. Tôi, vừa mới để lại tóc dài thẳng đuột theo kiểu Việt Nam, chợt vứt cái mi-crô đi, mà hát gào cho quá khứ, cho chiếc phong cầm của bố tôi: Chiều Chủ Nhật buồn, lặng nghe gió đi về... Chiều Chủ Nhật buồn, lặng nghe gió đi về... Gió đưa tôi về căn phố Nguyễn Trường Tộ, Huế, nơi mà Trịnh Công Sơn viết Lời Buồn Thánh, và bố tôi đă dùng chiếc phong cầm nói lên Lời Buồn Thánh. Hết Lời Buồn Thánh, chiếc phong cầm của bố tôi lại nỉ non điệu nhạc Phạm Dụy. Và khi khôn lớn tôi mới biết rằng trong kư ức tôi, những âm điệu này đi đôi với cặp mắt Sơn Tây của bố tôi, cặp mắt Sơn Tây của chất thơ Quang Dũng. Ai có nghe tiếng hát hành quân xa Mà không nhớ thương người mẹ già Chờ con lúc đêm khuya Người con đă ra đi v́ nước Nhớ thương con oán thù loài giặc kia Lúc xa nhau mong chờ ngày chiến thắng Bóng dáng người hùng anh Về ấm lũy tre xanh Khi khôn lớn, tôi lẩn thẩn suy nghĩ. Làm sao chiếc phong cầm Tây phương đó, xuất thân từ nước Ư, lại có thể đem tôi đến với núi rừng Việt Bắc, với con người Quang Dũng, với tiếng hát hành quân xa, nếu không có tâm hồn rung cảm của bố tôi và sự đồng điệu trong máu huyết giữa bố con tôi. Những năm đó, tôi chẳng biết ǵ hết, chỉ biết yêu thích cách bố tôi lắc lư, cái đàn kéo ra kéo vào, và âm điệu da diết của tiếng đàn. Và đó là cách hai bố con tôi nói chuyện với nhau, qua chiếc phong cầm, trước khi tôi biết thế nào là thân phận con người trở thành con lừa kéo gỗ.... Chao ơi, tôi thương xót làm sao tiếng phong cầm của bố tôi! *** Không nói ngoa với độc giả, tôi tự hào ḿnh là con bé {"thông minh vốn sẵn tính trời..." V́ là con nhà giáo, tôi biết đọc năm lên bốn. Và ở tuổi lên sáu, tôi đă rất khoa học trong công tŕnh nghiên cứu về bố tôi. Tôi lục lọi trong cái rương cũ, t́m thấy thông tín bạ của ông hồi ông học trường Bưởi, Hà Nội. Trang đầu thông tín bạ có những ḍng chữ sau đây: Tên họ học sinh: Dương Quốc Ngữ Quê quán: Sơn Tây Tên cha/hoặc giám hộ: Dương Quốc Nho Nghề nghiệp: Làm ruộng Bố tôi đó, một thiếu niên, con cụ Tổng Nho, tổ tiên lập thân từ đồng ruộng làng Bún, miền Bắc, phía tây thành Thăng Long của nước Việt Nam h́nh chữ S. Tổ tiên tôi từ đời Trần đă quen nghề cày ruộng lấy thóc bán nuôi con cái đi học. Điển h́nh là ông nội tôi, cụ Tổng Nho, nuôi đàn con trai ăn học, dâng gạo nuôi quân cho Việt Minh đánh Pháp để rồi trở thành nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất bắt nguồn từ bên Tàu với ông lănh tụ quái gở Mao Trạch Đông. Năm 1993, Goldman Sachs, Merril Lynch, Bank of America, cùng bao nhiêu cơ quan kinh tài quốc tế khác tổ chức một cuộc du hành các nước đang phát triển ở Á Châu để nghiên cứu vấn đề thiết lập thị trường chứng khoán theo kiểu kinh tế thị trường. Tôi cũng xách cặp đi theo. Cuộc viễn du này cho tôi có dịp về thăm Hà Nội. Tôi thuê xe đi về Hà Tây, cùng với hai đồng nghiệp người Anh v́ hiếu kỳ mà t́nh nguyện đi với tôi. Tôi đi về làng Bún, đôi mắt tṛn lên, lạ lùng, bỡ ngỡ. Tôi đứng bên bờ đê nh́n những mẫu ruộng nho nhỏ, giữa ruộng có những ngôi mộ nằm trong nước. Tôi nh́n con ḅ, gầy ơi là gầỵ Con ḅ Việt Nam, nó gầy cũng như bố tôi gầy trong tấm h́nh chụp năm 1954. Rồi tôi nh́n cái xe ḅ, cái xe ḅ Việt Nam cộc kệch cuối thế kỷ hai mươi. Và tôi nh́n hai người đàn bà đứng tát nước c̣n gầy ốm hơn con ḅ. Tôi t́m ra ngôi mộ của cô tôi, chị ruột bố tôi, chết trẻ trong cuộc chiến tranh Việt Pháp. Ngôi mộ nằm giữa ruộng. Tôi nghĩ thịt xương tổ tiên tôi đă tan vào đất, từ đó mọc lên những hạt gạo "xuất khẩu" của Việt Nam. Khi ăn hạt gạo xuất khẩu, tôi có bao giờ nghĩ là đang ăn thịt xương của tổ tiên tôi? Tôi ngửa mặt lên trời t́m vừng mây trắng. Xa xa kia là sông Đà, núi Tản của Nguyễn Khắc Hiếu. Đâu đây là nét "vời vợi buồn Tây Phương" của Quang Dũng. Tôi mỏi mắt nh́n cho ra một nét quen thuộc nào đó, lắng nghe cho thấy "tiếng hát hành quân xa" và tự hỏi: nơi chốn này có yêu tôi không, hay đang nh́n tôi xoi mói, tôi con người đi về quê cha trên đôi giầy ReBox?.. Rồi tôi đứng nh́n con đường hẹp đầy ổ gà. Ngồi xe tôi cứ va bên này, chạm bên kia giữa hai đồng nghiệp người Anh to lớn. Tôi nh́n sang bên kia đường là "Nghĩa Trang Liệt Sĩ Xă Phụng Thượng Trong Cuộc Chiến Tranh Chống Mỹ." Bên này đường là "Quán Thịt Chó Thơm Ngon." Đây, Con Đường Cái Quan của Phạm Duy từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, con đường mà bà nội tôi đă đội nón lá đi bộ dưới nắng chang chang trốn ra Hà Nội ngày ông bà nội tôi bỏ làng vô Nam để tránh thảm trạng Đấu Tố Địa Chủ. Tôi nhắc đi nhắc lại như người mất hồn với hai đồng nghiệp: --"Sao mà nó nhỏ thế, con đường này, đồng ruộng này, đường chân trời này!" (How come everything is so small ?) --"Ông nội tôi bị kết tôi. địa chủ v́ có chút đồng ruộng này sao ?" (My grandfather got a death sentence because of these little paddies?) Hai người đồng nghiệp nhún vai, không nóị. Tôi không nghe tiếng linh hồn cô tôi đón chào trong gió. Quanh tôi chỉ có hai đồng nghiệp người Anh im lặng đứng nh́n. Tất cả không giống như trí tôi tưởng tượng. Khi tôi đă quen nh́n xa lộ thênh thang của nước Mỹ, những vườn táo mênh mông ở Illinois, những vườn cam bát ngát ở Florida. Tôi cứ hỏi đi hỏi lại, ông tôi suưt nữa bị dẫn ra đ́nh làng chịu đấu tố chỉ v́ ít mẫu ruộng này ư? Trong bao nhiêu năm nghe ông bà tôi kể chuyện, không hiểu sao tôi cứ tưởng tượng ruộng đất phải bao la c̣ bay thẳng cánh như tiểu bang Arizona. Phải nhiều lắm, lớn lắm th́ mới bị tố địa chủ chứ? Bây giờ sau chuyến về thăm đó, tôi mới biết thế nào là sự nho nhỏ, con con, như cái nước Việt Nam trên bản đồ thế giới, như cái số phận nho nhỏ, con con của con ḅ, của cái xe ḅ, của hai người đàn bà tát nước. Ngay cả đến ruộng đất ph́ nhiêu đă gây nên cái án địa chủ cho ông bà nội tôi cũng nho nhỏ, con con. Cái thảm khốc của nhân loại lại nằm ở trong những ǵ nho nhỏ, con con? *** Trong công tŕnh nghiên cứu về bố tôi năm lên sáu, tôi bắt gặp tấm ảnh 4 x 6 của một cậu con trai, dán trên thông tín bạ. Cậu có hai con mắt dài, xếch như một nét mực tàu sắc sảo. Khi lớn lên, tôi mới hiểu đó là cặp mắt Sơn Tây đă làm xót xa ḷng Quang Dũng. Bên nội tôi, đa số đều có cặp mắt đó. Ngay cả những đứa em họ sinh sau đẻ muộn làm công dân Mỹ, lọt ḷng mẹ trong nhà thương Mỹ, cũng mang vào Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ cặp mắt Sơn Tây của núi rừng Việt Bắc và hồn thơ Quang Dũng.Mẹ tôi kể trong thời gian học trường Bưởi, bố tôi theo học phong cầm với một ông cố đạo. Rồi mua đàn của ông. Đó là tiểu sử chiếc phong cầm của bố tôi. Nó xuất thân từ nước Ư, du nhập vào Hà Nội đầu thập niên 50. Khi di cư vào Nam, ông bà tôi đi trước, bố tôi là người cuối cùng rời Hà Nội vào Nam. Bố tôi đáp xe lửa từ Hà Nội xuống Hải Dương, rồi đạp xe đạp từ Hải Dương xuống Hải Pḥng. Bố tôi để cây đàn ghi-ta, thêm cái phong cầm lên xe đạp mà đạp. Trên đường đi, ông bán mất cái ghi-ta. Bán luôn đôi giày da. Nhưng không bán chiếc phong cầm. Bố tôi lên tàu bay vào Nam, có chiếc phong cầm mà không có đôi giày che gót. Tôi mường tượng cậu con trai có cặp mắt Sơn Tây đạp xe đạp, đèo theo chiếc phong cầm, những ṿng bánh xe cũng giống như những ṿng bánh xe bố tôi đạp chở tôi đi học dương cầm ở Huế. Chiếc phong cầm theo cậu trai trẻ lên máy bay từ Hải Pḥng vào Sài G̣n. Rồi vào trại sinh viên. Bố tôi sống nghèo ở miền Nam mà đi học trong kiếp di cư. Chiếc phong cầm luôn luôn đi theo ông như một t́nh nhân yêu kiều, chung thủỵ. Rồi bố tôi ra Hội An, dạy trường Trần Quư Cáp, vẫn khư khư giữ cái phong cầm. Tôi ra đời trong t́nh yêu của bố mẹ và được tặng cho cái tên Duong Thị Như Hội An, để đánh dấu thành phố nơi bố mẹ tôi đă gặp nhau. Sau này mẹ tôi đổi thành Duong Thị Như Hoài An để tránh dấu nặng trong tên con gái. Ngày mẹ tôi ẵm tôi từ bệnh viện về nhà, chắc là cái phong cầm đứng nh́n đâu đó, mà tôi th́ nhắm tít mắt như mọi trẻ sơ sinh khác. Rồi bố tôi đi Pháp. Khư khư đem cái đàn theo. Mẹ tôi phàn nàn: "Ở bên ấy thiếu ǵ đàn, vậy mà cha con cũng đem nó theo cho được." Mẹ con chúng tôi ở nhà, chứ cái đàn th́ đi Pháp theo bố tôi. *** Công cuộc nghiên cứu về bố tôi năm tôi lên sáu tuổi vẫn tiếp tục suốt thời gian 1964-65. Tôi kiếm thấy bức h́nh đen trắng bố tôi ngồi bên lan can căn pḥng sinh viên ở đại học xá lầu bốn. Paris trải rộng dưới chân. Bố tôi gầy như cây tăm, ngồi ôm chiếc phong cầm, gác hai chân lên lan can màu đen, nom rất thoải mái và rất "hip." Tôi nh́n bức h́nh ấy mà mơ ước sau này ḿnh cũng đi du học Paris và cũng ngồi gác chân lên lan can nh́n xuống thành phố. (Tôi đâu ngờ rằng, sau này lớn lên tôi làm một cuộc du học trường kỳ...). Rồi th́ cái đàn theo bố tôi về nước. Và tôi gặp nó ở căn phố Nguyễn Trường Tộ, Huế. Lần này th́ tôi thôi không nhắm tít mắt như một trẻ sơ sinh nữa. Tôi nhớ măi buổi chiều mưa phùn xứ Huế. Tôi trốn bố tôi (tôi thường hay chơi tṛ "trốn t́m") sau bức màn cửa pḥng khách. Bố tôi đánh đàn xong th́ để nó trên ghế. Thế là tôi nhảy tỏn ra. Tôi đứng mân mê, ṣ mó cái đàn. Tôi bấm thử, sao đàn không ra tiếng? Tôi khệ nệ t́m cách đeo nó vào cổ. Tôi say mê, nâng niu nó. Ôi tiếng hát hành quân xa với những chiều Chủ nhật buồn không nắng trong căn nhà nóng hâm hấp lặng nghe gió đi về! Ai xui khiến cho cái đàn này làm mọc chất nghệ sĩ trong tôi! Để ba mươi bốn năm sau tôi từ bỏ Goldman Sachs? Tôi muốn ẵm nó lên để đu đưa như bố tôi. Nhưng nặng quá. Cứ thế này th́ nếu tôi không té, cái đàn cũng sẽ té. Bỗng bố tôi bước vào. Tôi sợ muốn khóc v́ bị bắt quả tang, tưởng rằng sẽ bị đ̣n. Nhưng không, nét mặt bố tôi b́nh thản, đôi mắt Sơn Tây như hai vết mực tàu sắc nét. Đó là lúc ông thấy tôi bé quá không bê nổi chiếc phong cầm. Ông quyết định đem tôi đi gặp Sơ Thanh Tâm để xin học đàn dương cầm. Từ hôm đó, sáng nào ông cũng gọi tôi dậy sớm, bắt uống sữa, thay váy đầm. Rồi chở xe đạp đưa tôi đến trường Jeanne d''Arc học đàn... Chung qui cũng bởi tại cái phong cầm của bố tôi. *** Bạn đọc có tin rằng cái chết không kết liễu đời người, v́ phần hồn c̣n đi về đâu đó. Bởi thế mẹ tôi cứ cúng tổ tiên ông bà, bắt tôi thắp nhang mà lạy. Người Việt Nam chúng ta thờ linh hồn những người thân đă chết. Năm lên sáu, tôi tự hỏi vật vô tri chết đi có c̣n phần hồn vất vưởng hay không. Năm 1964, chiếc phong cầm gặp tôi, rồi nó mất đi. Và tôi thắc mắc măi phần linh hồn của nó đi đâu ? Và tôi thắp nhang cúng nó được không? Xứ Huế không phải là xứ yên b́nh. Cái yên b́nh của Huế chỉ là yên b́nh giả tạo. Những năm 1963-65, Huế là một ngọn lửa cách mạng hừng hực, sẵn sàng bừng cháỵ Từ chùa Từ Đàm. Đó lần đầu tiên trong đời tôi được nghe danh từ "cách mạng." Tôi phải lớn hơn mới hiểu được căn bản của vấn đề. Nếu có Cách Mạng, th́ làm ǵ có Hoài An? Mà đă có Hoài An th́ không có Cách Mạng. Từ năm lên sáu, ở thành phố Huế buồn ngủ ấy, tôi chưa đủ trí tuệ để hiểu thế nào là đấu tranh, nhưng tôi đă mường tượng một điều ǵ ghê sợ. Rằng tôi sinh ra trong một xứ sở có nhiều vấn đề. Những vấn đề ấy ở ngoài tầm tay tôi, nhưng chúng tạo nên định mệnh của tôi, như lưới giăng, như cơn lốc kéo thốc tôi vào. Dấu hiệu bất an đầu tiên là ngày Phật Đản. Một ngày vui mừng tôi và các em tôi mong mỏi để được xem xe hoa. Thế nhưng mẹ tôi cấm không cho chúng tôi đi xem. Xe hoa đi ngang nhà tôi, mẹ tôi không cho chúng tôi ghé đầu ra xem. Bảo nguy hiểm. Chúng tôi vẫn thấy được tượng Phật đứng trên ṭa sen trắng nơn, tay chỉ lên trờị. Nom Phật bụ bẫm dễ thương. Em tôi bảo: "Sao Phật giống em bé quá!" Chỉ một lúc sau xe hoa vừa đi khuất, bà vú đă chạy vào th́ thầm, "Công an giựt sụp xe hoa rồi, Phật đổ." Tôi cho rằng đó là chuyện kinh khủng. Cái ǵ đổ th́ đổ, chứ Phật làm sao đổ được. Điều ghê sợ khủng khiếp nhất, một sự lật đổ nào đó ngoài tầm tay những người dân b́nh thường, đă bắt đầu ám ảnh tôi. Thường thường mẹ tôi hay cho chúng tôi đi chùa Từ Đàm. Nhưng năm đó, chúng tôi không được lên chùa, mặc dù tôi thích lên chùa để được múạ: "Một hôm, một hôm mồng một đến chùa, cùng me đi lễ Phật, dâng vài hoa sen." Bà vú th́ thầm, "Hoài An ơi, lên chùa th́ công an bắt!" Tôi nín bặt v́ sợ. Bên cạnh những cái điều bất an đó, bố tôi vẫn kéo phong cầm để nói chuyện với tôi qua Tiếng Hát Hành Quân Xa và Lời Buồn Thánh. *** Thuở ấy, tôi không biết mặt những người bạn văn nghệ của bố tôi, từ họa sĩ Đinh Cường cho đến nhà văn Doăn Quốc Sĩ. Tôi chỉ nhớ có một ngườị. Đó là chú M., một nhạc sĩ. Tôi rất yêu chú M. Chú ấy vui tính và buồn cười lắm. Cả nhà ai cũng yêu mến chú M. Trừ bà vú: --"Ôn nớ là nhóm cách mạng chống Cần Lao đó Hoài An ơi!. Ôn nhà ni mà cứ giao du hoài là ngày cậu Cẩn tới chặt đầu." Bà vú nói chi ghê quá. Tôi hỏi Cần Lao là ǵ? Bà vú bảo Cần Lao là cậu Cẩn đó. Tôi hỏi cậu Cẩn là ai? Có giống chú M. không? Bà vú nói: "Con ni ngu quá. Nói tầm bậy coi chừng bị chặt đầu. Hay chết kiểu Quách Thị Trang." Tôi không dám hỏi bà vú Quách Thị Trang là ai, tôi biết đó là một người đă chết. Tôi co người lại v́ sợ. Trong những ngày tháng đó, bố tôi ít nói, ít kéo phong cầm. Cái đàn nằm cô đơn. Thỉnh thoảng chú M. vẫn ghé chơi. Hai người đóng cửa pḥng nói chuyện ŕ rào. Rồi một hôm, chú M. lại ghé thăm. Bố tôi mặc áo đi theo. Ông dặn mẹ tôi ông sang nhà chú M. ở phía bên kia sông Bến Ngự. Dăy phố Nguyễn Trường Tộ nằm bên này sông. Bên kia cầu là nhà thờ Phủ Cam. Bên trái nhà thờ là một dăy nhà kiểu Tây rất đẹp. Một trong những căn nhà đó là nhà chú M. ở. Bố tôi dặn gia đ́nh là ông sẽ đi khá lâu. Ông đi theo chú M. Đă ra đến cửa, ông c̣n quay lại lấy chiếc phong cầm. Cái đàn đi theo ông qua nhà chú M. Đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy chiếc đàn. Tôi linh cảm cái ǵ không hay sẽ xảy ra. Tôi chạy theo nắm áo bố tôi đ̣i đi theo. Tôi bíu chiếc đàn như muốn giữ nó lại.Chú M. chế giễu tôi con gái hay khóc nhè.
*** Tối đêm đó, tôi đang ngủ say th́ có tiếng khóc than, tiếng bà ngoại tôi kêu la. Tiếng người xôn xao ngoài ngơ. Nghe dễ sợ lắm. Tôi chạy ra thảng thốt. (Từ đó lớn lên, tôi rất sợ những khi đang ngủ th́ bị thức dậy v́ biến cố) Tôi vẫn c̣n nhớ tiếng người nói: "Nhà ai cháy? Công an đốt nhà ai?" Tôi nghe mẹ tôi nức nở, "Trời Phật ơi, phải nhà chú M. không? Mạ ơi, anh con ở bên nhà chú M..Thôi rồi mạ ơi..." Tôi thấy mọi người đổ xô ra cửa. Tôi cũng chạy ù ra. Mẹ tôi nắm chặt tay tôi. Bà vẫn kêu khóc. Ông ngoại tôi điềm tĩnh hơn. Ông nói, "Đă chắc chi ông Ngữ ở bên đó. Để ba mặc áo lên chùa. Hay qua dinh cha Thục hỏi..." Mẹ tôi vẫn điên cuồng kéo tay tôi và bà ngoại xô ra đường. Đám đông đứng đầy dọc bờ sông Bến Ngự bên hông nhà tôi. Chỉ trỏ xôn xao. Tôi nh́n qua bên kia sông. Ngọn lửa ngùn ngụt cháy. Tôi thấy bên kia bờ sông có bóng dáng những người cầm súng. Người đứng quanh tôi nhỏ to, "Công an đốt truyền đơn." Mẹ tôi ngất xỉu. Bà ngoại tôi vật vă. Tôi kêu khóc không thành tiếng. Phía bên kia sông lửa ngùn ngụt cháy, ở đó có chú M., bố tôi, và chiếc phong cầm. Tôi nh́n thấy lần đầu tiên cái kinh khủng của cách mạng. Nói đúng hơn của bạo lực đă đốt lửa cho cách mạng. Đó là lần đầu tiên tôi thấm hiểu trong trí óc non nớt của ḿnh, tôi sinh ra trong một đất nước của những người dân thích làm cách mạng. Của những người dân hay mang kiếp tù đày. Lư do? Tây, Tầu, Nga, Mỹ? Cái nghèo, cái cực, cái nô lệ, cái xâm lăng? Vân vân và vân vân. Trước Chúa bác ái, trước Phật từ bi, chúng ta cầm súng giết nhau đi rồi gọi đó là cách mạng. Ông ngoại tôi nói đúng. Một ngày sau bố tôi về. Một cơn ác mộng vừa qua. Tôi đứng xớ rớ t́m cách lắng nghe chuyện người lớn. (Tôi là một đứa nhỏ rất thích nghe chuyện người lớn, âu đó cũng là cái nghiệp chướng của tôi. Có khi tôi nghĩ tự ḿnh là mất tuổi thơ v́ cái đầu tôi ṭ ṃ ưa suy nghĩ.) Tôi nghe ra được chú M. chạy trốn lên chùa. Nhà th́ cháy tan nát.Mẹ và bà ngoại tôi đốt nhang khấn bàn thờ tạ ơn tổ tiên trời đất đă cứu bố tôi. Tôi đứng trước cửa nhà nh́n qua bên kia sông. Ngọn lửa đă tàn. Cảnh tượng tiêu điều thảm hại. Lần đầu tiên tôi chứng kiến sự u ám của những ǵ c̣n lại sau một cuộc tàn phá. Chú M. không cháy. Bố tôi không cháy. C̣n chiếc phong cầm? Phải chăng nó cháy giùm cho bố và chú M. yêu mến của tôi? Tôi ̣a khóc chạy vào nhà. Mẹ và bà ngoại tôi c̣n trong cơn mừng rỡ, c̣n lo nhang đèn. Không ai nghĩ đến chiếc phong cầm xấu số. Tôi nức nở trong ḷng bố tôi. Nhưng ông nghiêm mặt cấm không cho tôi khóc. (Những người bố Việt Nam, ai cũng ghét than khóc, cho đến ngày họ già. Bây giờ trong tuổi sáu mươi ngoài, bố tôi mau nước mắt. Thỉnh thoảng là tṛng mắt đỏ hoe. Mắt ông hay đỏ hoe khi các con về thăm rồi lại đi, c̣n lại căn nhà yên vắng với hai vợ chồng thui thủi)
*** Bố tôi nói lên điều mà tôi đă biết: --Cái đàn cháy trong nhà chú M. Tôi vụt khỏi ṿng tay của bố tôi. Tôi chạy ra đứng trước cửa nhà nh́n sông Bến Ngự. Tôi nghe có ngọn gió đi về. Chiều chủ nhật buồn lặng nghe gió đi về. Trên ngọn gió đi về, có chăng linh hồn chiếc phong cầm của bố tôi?
Từ đó, bạn đọc có thể đoán ra, bố tôi chẳng bao giờ kéo phong cầm nữa.
*** Bà vú nói, cách mạng thành công và Phật tử khỏi bị đàn áp. Tôi thôi không học trường Jeanne D''Arc nữa. Tôi đổi về trường Phú Vĩnh. H́nh Ngô Tổng thống treo trên tường bị hạ xuống. Đem ra đập ĺa. Cách đó không bao lâu, lũ trẻ con chúng tôi vẫn c̣n hát, "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống...". Sau cách mạng, Ông ngoại tôi, một công chức dưới triều Ngô, nghỉ việc về hưu sớm. Cách mạng thành công, nhưng tương lai công danh bố tôi chẳng sáng sủa ǵ hơn. Có kẻ không ưa bố tôi, làm nên sự vụ lệnh đổi bố tôi vào dạy ở Quảng Trị, chốn bom đạn chiến trường. Mặt bố tôi càng khó đăm đăm hơn. Mẹ tôi dạy Đồng Khánh. Bố tôi về Quảng Trị, tức là vợ một nơi, chồng một ngả. Sáng sớm tinh sương, thành phố Huế như có sương mù. Bà ngoại tôi lặn lội về làng đem lên những đ̣n chả Huế. Bà ngoại tôi, Quế Hương, pháp danh Tịnh Tâm, là người phụ nữ làm chả Huế, chả tôm ngon nhất thế giới. Tôi vẫn nhớ h́nh ảnh bà xương xương, đội nón bài thơ, mặc áo dài vân nhung (phụ nữ Huế của thời đại tôi biết không bước ra khỏi nhà mà không mặc áo dài.) Trời tờ mờ sáng, bà đă hiện ra ở cửa nhà tôi, tay xách cái giỏ thật lớn, đựng không biết bao nhiêu là đ̣n chả. Mẹ tôi lặng lẽ gói từng đ̣n chả để bố tôi đem đi tặng đồng nghiệp mới ở Quảng Trị. "Ở Quảng Trị cũng có học tṛ," bố tôi nói. Bố tôi đó, con người của giáo khoa thư! Ông tỉnh táo, yên phận, "lành như Bụt" đối với người đời (chỉ khó khăn với người trong nhà mà thôi), ông vui vẻ mà đi Quảng Trị nhận công vụ, không phàn nàn than thở. Theo lời mẹ tôi kể, th́ ông đi nhận việc rất đúng giờ. Ông đi cùng với những đ̣n chả Huế mẹ tôi gói rất cẩn thận đem cho đồng nghiệp. Ông c̣n đem pḥng thêm nhiều đ̣n chả nữa để cho học tṛ mới, có đứa nào ngoan, học giỏi th́ cho nó đ̣n chả lấy t́nh. Ôi t́nh nghĩa giáo khoa thư! Lần này ông đi không có chiếc phong cầm. (Măi về sau khi khôn lớn, tôi mới biết người đă đem bố tôi ra khỏi Quảng Trị (để bố mẹ tôi được trùng phùng) là giáo sư Trần, thời gian ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục Đệ Nhị Cộng Ḥa. Mẹ tôi nói bà vẫn luôn nhớ ơn bác Trần. VấVietna đề nhớ ơn là "tiết mục" văn hóa giáo khoa thư! Chứ ở Mĩ, tôi không rơ trong số đồng nghiệp tôi, ai là kẻ nhớ ơn Goldmand Sachs...) *** Từ đó, khi chiếc phong cầm đă chết, bố tôi đi Quảng Trị, th́ tôi lại trở về làm đứa trẻ con quây quần bên ngoại, đứa trẻ con vắng bố. Cuối năm 1963, con bé Hoài An lên sáu như già đi. Đầu óc non nớt đă lờ mờ hiểu thế nào là sự sụp đổ của một chế độ. Khi chế độ sụp đổ, có thể có súng ống, có lửa cháy, có tan cửa tan nhà, có người phải đi trốn chạy như chú M. đi trốn trong chùa, có ảnh, với h́nh, với tượng đá, với đồ treo bị đem ra đập bỏ, xé tan. Có những sự mất mát tận gốc rễ tâm hồn như cái chết của chiếc phong cầm sau ngày lửa cháy. Và tôi lờ mờ hiểu rằng, ở chế độ nào đi nữa, con người cũng có thể hại nhau...Như việc bố tôi phải từ giă gia đ́nh đi Quảng Trị. Cái mà chúng ta phải xây dựng là một nơi chốn cho chúng ta cơ hội để đi t́m sự công bằng tương đối.... *** Mười hai năm sau, 1975, tất cả những điều mà tôi nhận thấy ngày lên sáu tôi vừa liệt kê cho độc giả trên đây đă xẩy ra, lập lại. Như cái cộng nghiệp của một nơi chốn, một đám đông. Cái định mệnh của tôi. Một cá nhân nhỏ bé bị cuốn trôi vào ḍng lịch sử. Tôi hiểu thấu đáo. Hiểu nhiều quá đến nỗi mắt tôi ướt và tôi nhói ở tim. Chúng tôi, tất cả chúng ta, cũng như cái phong cầm. Trôi nổi theo bàn tay bố tôi rồi chôn thân ở nhà chú M. theo lửa cháy. Người Mĩ nói là, "be in the wrong place, at the wrong time." Chiếc phong cầm nằm sai chỗ, ở sai lúc. Đôi khi tôi phân vân tự hỏi, nếu tôi không là người Việt sinh trưởng ở miền Nam, và nếu tôi không là một trong mấy trăm ngàn người Việt di tản đầu tiên đến Mĩ, th́ định mệnh của tôi thế nào? Như chiếc phong cầm, tôi là kẻ sinh sai chỗ, ở sai nơi, hay là người may mắn, ở đúng chỗ, nằm đúng nơi? Tất cả, trong ṿng quay của lịch sử, chỉ là tương đối. *** Khoảng một tháng trước ngày Saigon sụp đổ, chú M. chạy ở Huế vào, có ghé thăm bố mẹ tôi nhưng ông bà không có nhà. Chú cháu tôi nấu ăn với nhau rất vui vẻ. Có ngờ đó là lúc chia tay. Sau khi sang Mĩ, bố tôi vẫn nhắc người bạn cũ. Ông rất ân hận đă không gặp được chú M. trước khi di tản. Bao nhiêu năm ở Mĩ, thỉnh thoảng trong bữa ăn, bố tôi vẫn nhắc đến chú M. Ông không hề nhắc tới chiếc phong cầm. Đến năm 1995 th́ có tin chú M. qua Mĩ, sau khi đă đi tù cải tạo rồi lập lại cuộc đời. Chú ghé thăm bố mẹ tôi ở Texas, tôi không gặp v́ tôi ở xa. Mẹ tôi bảo lúc nào chú cũng tự tin, yêu đời, ở hoàn cảnh nào cũng có thể thành công hết. Khi viết những ḍng này, tôi vẫn chưa gặp lại chú. Không biết chú có nhớ chuyện chiếc phong cầm của bố tôi? *** Bây giờ, trong những tháng ngày về già, sắp từ giă nghề dạy học để về hưu, bố tôi có lẽ không có những người bạn như chú M. nữa. Ông hay nhắc tới những người học tṛ cũ trường Trần Quư Cáp. Chắc đó là một khoảng đời đẹp trong nghề dạy học của bố tôi. Trong những ngày đă rời Goldman Sachs, có lần tôi mang bố mẹ đi mua sắm. Gặp một thương gia chủ cửa hàng cũng là học tṛ cũ của bố tôi ở quận học chánh Houston. Vị thương gia tay bắt mặt mừng, bảo rằng khách thường th́ lấy giá X., khách đặc biệt sẽ giảm giá tối đa, giá Z. C̣n thầy học th́ bớt 10 phần trăm, tức là giá Y, giá "ở giữa." V́ bố tôi là thầy dạy, ông được hưởng giá giảm hạng vừa, hạng "ở giữa." Một lần khác nằm trên ghế dài, tôi thấy bố tôi ở trên lầu đi đọc cuốn sách của một nhà văn Việt Nam, ông P.X.Đ., sách viết về Hà Nội. Tôi nhắc đến tên ông. Mắt bố tôi sáng lên: "Anh ấy cũng đi tù cải tạo nhiều năm như chú M. đấỵ." Tôi thắc mắc măi về câu bố tôi nói, và ánh mắt sáng của ông. Tại sao mắt bố tôi không sáng lên khi gặp người thương gia Mi~ giàu sụ v́ nghĩ đến thầy mà bớt giá 10 phần trăm? Tại sao ánh mắt ấy chỉ sáng lên khi nhắc tới tên một nhà văn Việt Nam? Chẳng lẽ bố tôi hẹp ḥi chỉ thương học tṛ người Việt mà không thương học tṛ người Mi~? Cũng như tại sao bố tôi chán việc dạy học ở Mi~, mà vẫn làm giáo sư gương mẫu, không bỏ lớp, không trễ nải bao giờ? Ông vẫn cắm cúi soạn bài, tô kẻ chữ làm bảng hiệu cho lũ học sinh non dại. Nói theo kiểu đùa của em gái tôi, bố tôi chăm chỉ v́ sợ bị Mi~ nó cười (hay so. mất việc!) Sự việc không thể giản dị như thế. Tôi thắc mắc mà không nghĩ ra được câu trả lời, bên tai vẫn nghe văng vẳng tiếng phong cầm của bố tôi. Chao ơi! Tiếng phong cầm của bố tôi! *** Tháng ba năm 1996, ông tôi mất. Cụ Tổng Nho Sơn Tây đă nằm xuống. Trước mặt con cháu, bố tôi khóc cha mà than ḿnh không làm được ǵ cho đất nước. Theo lời bố tôi, ông nội tôi đă làm đường gạch cho làng trong thời kỳ ông làm việc xă. Nh́n bố tôi đứng khóc cha, tôi rùng ḿnh nghĩ đến một ngày nào đó, tôi cũng phải khóc cha mẹ như bố tôi đă khóc thương ông tôi. Tôi tự thôi thúc, giục giă, và biết ḿnh phải làm ǵ ngay bây giờ. Việc đầu tiên, tôi sẽ đi mua tặng bố tôi một chiếc phong cầm, cho dù ông không c̣n tha thiết với đàn, và bố con tôi không c̣n nói chuyện với nhau qua tiếng đàn như hồi tôi c̣n thơ ấụ. Việc thứ nh́, tôi sẽ t́m mua cho được cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thự Tôi sẽ chậm răi mà đọc. Tôi đă khước từ nghề giáọ. Để giờ phút này, tôi hiểu rơ và tự quay về với bản chất của ḿnh. Tôi với bố tôi trong căn bản như nhạu. Dù muốn hay không muốn, tôi vẫn là sản phẩm của quốc văn giáo khoa thự. Mà đă là quốc văn giáo khoa thư th́ tôi không thể là Goldman Sachs. Việc thứ ba, tôi ngồi xuống trước máy vi tính. Và tôi bắt đầu viết. Không xây được đường làng, tôi xin xây ḷng nhân ái con người qua lời tôi viết. Tôi trí mọn tài hèn nhưng muốn những lời tôi viết làm cho độc giả tôi ngậm ngùi đủ mà nhỏ nước mắt cho nhau. Khi có giọt nước mắt thật sự, là có ḷng thương mà có ḷng thương là hết khoảng cách. Khi tôi cầm bút mà nhỏ nước mắt, giữa tôi với độc giả sẽ không cón khoảng cách. Có lần được đồng bào tôi mời diễn thuyết, tôi đă từng lộng ngôn trước mặt đám đông (có giáo sư Đỗ Quư Toàn làm chứng), tôi tuyên bố rằng thế hệ di dân của tôi giống như những con người cá, nửa người nửa cá. Nghĩ lại, tôi thấy ḿnh rởm ơi là rởm. Chẳng có vật thể nào gọi là người cá. Đó là sự tưởng tượng của những người thủy thủ lênh đênh trên biển cả. Khi mất đầu cá, mọc lên đầu người là có sự mất mát. Khi đôi chân người biến mất đổi dạng thành đuôi cá là có sự mất mát. Phải có sự mất mát, mới nảy mầm cái mới, cho dù cái mới đôi khi chẳng giống ai. Ông tôi nằm xuống, đó là sự mất mát phải có, và thế hệ sau của chúng tôi lớn lên. Cho nên tôi đang viết về sự mất mát. Sự thay đổi làm tê tái phần hồn. Đó là đời sống. Sau ba mươi tư năm, tôi hiểu được sự mất mát trong đời bố tôi. Và tôi cũng xin các diễn giả đừng đăi bôi về cái gọi là khoảng cách thế hệ. Người Việt già và người Việt trẻ cứ chưởi bới nhau. Rồi đổ vào khoảng cách thế hệ. Cho nên tôi viết về chiếc phong cầm của bố tôi. Một vật vô tri bị lôi cuốn vào ḍng lịch sử. Sau ba mươi tư năm tôi hiểu được sự mất mát trong đời bố tôi, và v́ mẹ tôi theo ông như một cái bóng, cho nên khi ông mất mát th́ mẹ tôi chịu đựng. Khi tôi thương yêu bố mẹ, th́ chẳng có vấn đề khoảng cách thế hệ khỉ khô ǵ nữa. Tôi xin thanh minh với độc giả. Những lời tôi kể đây không phải là lời viết về bố tôi. V́ bố tôi chỉ là một con người, có cái yếu, có cái mạnh, một người đàn ông đào tạo bởi văn hóa và thời đại của ḿnh, với tất cả nghi hoặc, đam mê, sâu xé của một kiếp người, như ông đă viết về con lừa kéo gỗ, về cuộc đập phá khi nghệ sĩ và môi trường cấu xé lẫn nhau. Nếu tôi viết về bố tôi, tôi phải viết về một con người, với đủ bề mặt tốt xấu của người đó. Tôi cũng không muốn như Maxine Hong Kingston, khi viết xong cuốn tiểu thuyết là gia đ́nh và cộng đồng từ bỏ. Cái giá của sự thật khi cầm bút có lúc nặng hơn cái chết. Và đi t́m sự thật là một trọng trách khó khăn hơn đi làm lịch sử. (Cái đau khổ của con người trước Thượng đế là đôi khi kẻ vụ lợi, xu thời, đồ tể, buôn thịt, bán xương, đều có thể làm thành lịch sử). Tôi không có khả năng hay tham vọng bưng vác trọng trách đi t́m sự thật bằng ng̣i viết. Tôi chỉ xin viết về một vật thể vô tri, tượng trưng cho cái đẹp, nếu không có bàn tay nghệ sĩ, chỉ nằm yên như một đồ vật trang sức. Nhưng khi lửa cháy ngùn ngụt, th́ vật vô tri cũng quay cuồng theo định mệnh như con người. Để giết một tổng thống, chiếc phong cầm vô tên tuổi, vô tội vạ, phi chính trị của bố tôi cũng bị giết theo chỉ v́ nó nằm không đúng chỗ. Tôi chỉ xin viết về cách tôi nh́n vật thể đó. Tôi viết cho ai, hay viết cho ḿnh, điều đó không quan hệ. Điều ao ước của tôi là ng̣i bút của ḿnh luôn luôn đi theo vẻ đẹp và vẻ sáng trong cuộc đời ảm đạm của kiếp lưu đày. Cái trắng trợn văng tục của realism, tôi xin nhường cho những người viết văn tục tĩu và dữ tợn. Sự tàn bạo của họ làm tôi kinh ngạc và kinh sợ. Trên cuộc hành tŕnh văn chương họ đi từ điểm A tới điểm B bằng ngôn ngữ rổn rang cay độc, bằng sự phá sản tâm linh, và. đối vói những kẻ viết khơi khơi vào t́nh dục chỉ để mà viết cho có tiếng vang, họ dùng cả ngay thân xác phụ nữ như một công cụ câu khách hoặc để làm dáng như thể ḿnh đang làm cách mạng choo nữ quyền, một cuộc cách mạng mà phụ nữ Tây Phương đă làm trước, đă làm cũ, đă làm trâng tráo, và đă làm thất bại và thoái hoá! Thật t́nh tôi không có tham vọng đi từ điểm A tới điểm B cái kiểu như vậy, qua tṛ chơi kiểu cách văn chương. Đồng thời tôi không tin tâm linh có thể phá sản, ngay cả trong ngục tù, cuồng tín, và đói rách. V́ tôi là kẻ hay mơ, tôi tin rằng cái đẹp và vẻ sáng sẽ thay Thượng đế bảo vệ con người. Và tôi cũng không muốn đi đến một nơi chốn nào bằng cái ṿng xe đặt trên điển h́nh xác thân phụ nữ, hay đem cái nhục nhă, hèn mạt của phận người ra làm dụng cụ văn chương. Tôi viết, v́ tôi muốn đi t́m lại cho chính tôi (và cho bố mẹ tôi, những nhà giáo tị nạn dạy văn chương) h́nh ảnh Chim Hót Trong Lồng, Những V́ Sao Của Diệu, Mối T́nh Chân, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều, Con Sáo Của Em Tôi, vân vân. Những cái đẹp đă mất của một thời đă qua sẽ ch́m vào quên lăng. Tôi viết v́ sau khi đă đi nửa cuộc đời, tôi mới biết ḿnh không phải là linh hồn Goldman Sachs. Tôi cũng chẳng có hân hạnh mang linh hồn Karl Marx, Angel, hay của bất cứ một danh nhân nào Tôi chỉ hy vọng ḿnh là một chút ǵ sót lại của linh hồn văn hóa giáo thư. Tôi sinh ra là Dương Thị Như Hội An, đổi thành Dương Thị Như Hoài An v́ bà mẹ nhân từ nhưng mê tín của tôi không muốn con gái mang vào người sự đau khổ v́ cái tên có dấu, tôi con gái đầu ḷng nhà giáo Dương Quốc Ngữ, và cháu nội cụ Tổng Làng Bún Dương Quốc Nho. Tôi là một người đàn bà v́ định mệnh mà nói tiếng Việt chen tiếng Tây Parisien, tiếng Mĩ vu`ng MidWest (như độc giả đă thấy ở đây), đứa con gái nhậy cảm của một nhà giáo vô danh gốc gác làm ruộng, đă từng là chủ nhân một chiếc phong cầm xấu số cũng vô danh nốt. Tôi viết, v́ tôi măi măi nhung nhớ, và muốn giữ măi trong ḷng, vẻ đẹp và vẻ sáng, từ chiếc phong cầm của bố tôi. ___________________ (*) Goldman Sachs là tên một cơ quan kinh tài thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ. |
|||