MINH THỊ
Chính Nghĩa là nơi tập hợp tất cả những nhân sinh quan, chính trị quan, thế giới quan từ nhiều nguồn khác biệt với mục đích cung cấp thông tin đáp ứng yêu cầu tham khảo, điều nghiên của Người Việt Quốc Gia để nhận rơ những âm mưu, quỷ kế, ngôn từ và hành động của đối phương hầu có phản ứng, đối sách kịp thời. Nội dung các bài viết được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của chúng tôi.
Sầu Thu: ư Cúc t́nh Thơ
Hải Đà - Vương Ngọc Long
Phần 1: Hoa Cúc Trong Đường Thi
Hoa muôn màu muôn sắc là món quà Thượng Đế ban cho con người để tô điểm cuộc sống, làm đẹp cho bức tranh thiên nhiên bốn mùa, qua những đường nét gợi cảm, những màu sắc tinh tế, vóc dáng đa t́nh, hương thơm ngào ngạt, thêm những biểu tượng độc đáo của từng loài hoa, như muốn thổ lộ tâm t́nh, nỗi niềm riêng tư nào đó…"ước ǵ nổi gió hây hây, để cho hoa đấy ḷng đây thơm cùng" ..(bài ca dân gian Trăm Hoa) . Nói đến những loài hoa quí, được nhân gian ưa chuộng nhiều, người ta thường nói đến bộ "tứ b́nh" (bức tranh treo ở bốn phía quanh nhà) , gồm có bốn loại hoa: Mai, Lan, Trúc, Cúc . Hoặc nói về "tứ quí" người ta muốn ám chỉ đến bốn loại cây cảnh : Tùng, Cúc, Trúc, Mai . Người xưa yêu hoa Cúc v́ đó là loài hoa biểu lộ đặc tính : "diệp bất ly chi, hoa vô lạc địa" , lá không rụng khỏi cành, hoa cũng chẳng ĺa thân, dù héo rũ tàn khô, vẫn luôn bám lấy cành như người quân tử đầy chí khí suốt đời theo đuổi lư tưởng chân chính của ḿnh.
Hoa Cúc biểu tượng cho tinh thần thanh cao của những kẻ sĩ muốn lánh xa ṿng tục lụy . "Cúc ngạo hàn sương", cúc vẫn hiên ngang ngạo nghễ đâm hoa kết nhánh mặc cho sương tuyết lạnh giá bao trùm, mặc cho khí thời khắc nghiệt vây quanh, cúc vẫn mang nét điềm đạm ung dung, cúc vẫn vương ḿnh đứng thẳng giữa phong trần, thách thức với bao nỗi đoạn trường gian truân của thế sự nhân t́nh:
Tiếu ngạo hàn sương phô cốt cách
Khai nhan diệu sắc kháng thu thâm
Cúc Đảm Ngạo Hàn Sương (Hải Đà)
(Hoa cười kiêu ngạo giữa sương lạnh, luôn giữ phong cách cao thượng
Mở mặt vui tươi màu sắc lộng lẫy như muốn thách thức thu già)
Sầu thu ư cúc man man
Hoàng hoa pha sắc cho vàng lá bay
Thơ không túy nguyệt mà say
Giữa đêm Nguyên Lượng cúc ngầy ngật hương *
Hồn xưa tỉnh giấc hoàng lương
Lặng nh́n sương khói phủ vườn tâm giao
Gió đong đưa lá xạc xào
Tiếng thu đồng vọng cúc xao xuyến t́nh ...
Hải Đà
(* Nguyên Lượng: tên tự của thi sĩ Đào Tiềm)
Cúc trong Đường Thi Trung Quốc
Bàn về hoa cúc trong đường thi, các tao nhân mặc khách thường nhắc nhở đến thi sĩ Đào Tiềm. Đào Tiềm là nhà thơ đời Tấn, tự Uyên Minh, tính t́nh cao thượng, phóng khoáng, không cầu cạnh lợi danh, ông được đề cử nhậm chức quan ở Bành Trạch (người đương thời thường gọi ông là Đào Bành Trạch), nhân cuối năm có một viên đốc bưu về kiểm tra công việc, và nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề ra đón. Ông than "ta há v́ năm đấu gạo mà cong lưng ṿng tay thờ bọn tiểu nhân nơi xóm sao ?", bèn treo ấn từ quan, và ông đă làm bài "Quy khứ lai từ" để bày tỏ ư chí của ḿnh, trong đó có hai câu:
Tam kính tựu hoang,
Tùng cúc do tồn
(Đường ra lối nhỏ vườn hoang
Chen nhau tùng cúc xếp hàng đợi đây)
Đào Tiềm thành ẩn sĩ , cuộc đời đối với ông chỉ là "vân vô tâm nhi xuất tụ" (mây hờ hững bay ra khỏi hốc núi), tâm hồn ông không c̣n bị xáo trộn, chi phối bởi ngoại cảnh, nhân t́nh thế sự, ông chỉ thích làm bạn với thiên nhiên, vui thú điền viên, trong cảnh nghèo, và đặc biệt là ông rất thích trồng cúc, làm bạn với hoa cúc, và thường bắc ghế trúc ngồi bên dậu đàm đạo với hoa hàng giờ, như muốn trang trải gửi gắm tâm hồn cùng tri âm . Trước sân nhà ông trồng năm cây liễu, nên người ta cũng thường gọi Đào Tiềm là "Ngũ Liễu Tiên Sinh" . Cứ đến ngày Trùng Dương (ngày lễ hoa cúc 9-9), ông cùng bạn bè bầy rượu bên mấy dậu cúc để thưởng hoa, ngâm vịnh, ca hát … “hái cúc dưới giậu đông, thơ thới nh́n núi nam” (Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn)
Kết lư tại nhân cảnh,
Nhi vô xa mă huyên.
Vấn quân hà năng nhĩ ?
Tâm viễn địa tự thiên.
Thái cúc đông ly hạ,
Du nhiên kiến nam sơn.
Sơn khí nhật tịch giai,
Phi điểu tương dữ hoàn.
Thử trung hữu chân ư,
Dục biện dĩ vong ngôn.
(Ẩm Tửu Thi - Đào Uyên Minh)
Cảnh phồn hoa dựng túp lều
Màng chi thế sự dập d́u ngựa xe
Cớ sao ta được vậy hề
Bởi ḷng thanh thản nghĩ về trời xa
Dậu đông hái cúc vàng hoa
Núi nam thơ thới ḷng ta cảm hoài
Sườn non khí lạnh chiều rơi
Chập chờn thấy bóng chim trời bay cao
Ư thành từ cảnh thanh tao
Sao không nói được lời nào riêng mang
(Hải Đà cảm dịch)
"Hoa cúc trác việt siêu phàm. Đào Tiềm, thi nhân đời Tấn, từng thốt rằng: "Thu cúc hữu giai sắc, ấp lộ chuyết kỳ anh, phiếm thử vong ưu vật, viễn ngă di thế t́nh" -Hoa cúc mùa thu có sắc đẹp, phơi lộ nét anh tú, khiến ta quên t́nh buồn, lánh xa t́nh đời" (Tứ Quân Tử Trong Hội Họa Trung Quốc-Lê Anh Minh)
Nhớ tích xưa Đào Tiềm trồng hoa cúc và yêu hoa nhất mực, thậm chí luyến thương lá cúc khô mà vẫn bám cành "diệp bất ly thân" không chịu rụng! Tất cả nói lên sự thủy chung, t́nh nghĩa gắn bó suốt đời của mỗi cá nhân với nguồn cội sinh thành, đất mẹ vườn cha của t́nh máu mủ ruột thịt.
Hoa cúc đă được các thi sĩ thời Đường, Tống Trung Hoa đưa vào thơ văn như Vi Ứng Vật với những bài thơ điềm đạm trầm mặc, thuần thục giản dị, ít lời nhiều ư, thường diễn tả tâm t́nh nhàn hạ, như bài thơ "Hiệu Đào Bành Trạch" (bắt chước Ông Đào Bành Trạch):
Sương lạc tụy bách thảo
Th́ cúc độc nghiên hoa
Vật tính hiểu như thử
Hàn thử kỷ nại hà !
Xuyết anh phiếm trọc giao
Nhật nhập hội điền gia
Tận túy mao thiềm hạ
Nhất sinh khởi tại đa ?
Hiệu Đào Bành Trạch (Vi Ứng V ật)
Sương rơi cỏ xác xơ tàn
Chỉ ḿnh cúc nở hoa vàng thắm tươi
Trên đời muôn vật thế thôi
Mặc cho nóng lạnh tiết thời đổi thay
Ngắt hoa ngâm với rượu này
Cùng chung bạn hữu đêm nay xum vầy
Thềm tranh cụng chén mà say
Sá chi thế sự đời nay chẳng màng !
(Hải Đà phỏng dịch)
Hoàng Sào (?-884), người Sơn Đông, năm Càn Phủ Đường, Hy Tông thứ 2 (875) cùng Vương Tiên Chi lănh đạo nông dân khởi nghĩa, trước sau trên mười năm, có lần đánh phá kinh đô Trường An . Là một lănh tụ nông dân nổi tiếng thời cổ đại Trung Quốc, thi hỏng mà có chí lớn, ông thường dùng hoa cúc để tự ví ḿnh, ư nói tính can trường bất khuất, giống như hoa cúc ngạo nghễ dưới trời sương tuyết phủ, trong khi bao loài hoa khác đều tàn úa, ngầm nói lên ư chí quyết tâm của ông muốn lật đổ triều Đường :
Táp táp tây phong măn viện tài
Nhị hàn hương lănh điệp nan lai
Tha niên ngă nhược vi Thanh đế
Báo dữ đào hoa nhất xứ khai
Đề cúc hoa (Hoàng Sào)
Vườn hoa gió thổi bời bời
Hương tàn nhụy rũ bướm thời khó qua
Chúa Xuân nếu được là ta
Sang năm ta bảo đào hoa nở cùng
(Hải Đà phỏng dịch)
Hoàng Sào có lần đă dẫn 60 vạn đại quân, đánh hạ ải Đồng Quan. Vương triều Đường sợ hăi lúng túng, Đường Hi Tông mang phi tần chạy trốn đến Thành Đô, Các quan lại triều Đường không kịp chạy trốn toàn bộ phải ra thành đầu hàng. Chiều hôm ấy, Hoàng Sào ngồi kiệu vàng, được các tướng sĩ vây chung quanh tiến vào thành Trường An. Trăm họ dân chúng trong thành giắt già bồng trẻ, đứng chật hai bên đường chào đón. Hoàng Sào lên ngôi hoàng đế, quốc hiệu gọi là Đại Tề. Quân khởi nghĩa trải qua bảy năm đấu tranh cũng dành được thắng lợi, nhưng cuộc khởi nghĩa cuối cùng bị thất bại, do nội bộ chia rẽ, và Hoàng Sào bị bộ hạ giết. Ít nhất Hoàng Sào đă thực hiện được giấc mộng trong thơ :" từng đợt hương ngút trời thấu suốt Trường An, khắp thành đều mặc áo giáp vàng (trích giai thoại Giấc mơ Hoa Cúc- tác giả Hoài Anh)
Đăi đắc thu lai cửu nguyệt bát
Ngă hoa khai thời bách hoa sát
Xung thiên hương trận thấu Trường An
Măn thành đái tận hoàng kim giáp
Cúc Hoa (Hoàng Sào)
Chờ thu tháng chín về nơi
Hoa ta nở rộ hoa người tàn phai
Trường An hương ngút ngập trời
Người mang áo giáp vàng chơi khắp thành
(Hải Đà phỏng dịch)
Đỗ Phủ là một nhà thơ lớn, một đại thụ sừng sững trên thi đàn Trung Quốc. Ông đă trải nghiệm qua bao thăng trầm trôi nổi trong cuộc sống, nên thơ của ông phong phú đa dạng, thanh điệu nhẹ nhàng, hiện thực trữ t́nh, phát xuất từ đời sống khốn khổ cơ hàn của chính bản thân ông và của tha nhân bằng chính mắt thấy tai nghe hàng ngày. Ngôn ngữ thơ ông bộc phát sự chân thành tha thiết, ḷng nhân đạo trắc ẩn, nên dễ gây sự xúc động nơi người đọc.
Nói đến hoa cúc là nói về mùa thu, cúc và thu như h́nh với bóng, nhà thơ Đỗ Phủ nh́n thấy cḥm cúc nở dưới trời thu lạnh mà lệ thầm tức tưởi buông rơi nhớ quê nhà "tùng cúc lưỡng khai: tha nhật lệ" .... Ông đă sáng tác 8 bài Thu Hứng nổi tiếng, trong những năm
cùng cực gần cuối đời, mà c̣n phải gối đất nằm sương , một ḿnh ngâm nga "mao ốc vi thu phong sở phá ca" (bài hát gió thu thổi
tốc mái nhà tranh" trong nghẹn ngào tức tưởi ..
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai: tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ: cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đai xích,
Bạch đế thành cao cấp mộ châm.
Thu Hứng (Đỗ Phủ)
Sương ngọc điêu tàn cây lá phong
Âm u Vu Giáp lạnh như đồng
Đất trời tiếp tiếp non cùng nước
Mây gió ùn ùn núi với sông
Tùng cúc hai lần rơi lệ uất
Đ̣ đơn một độ khóc quê ṛng
Thấu xương cơn rét cần may áo
Bạch Đế chày buông tiếng chập chùng
Hải Đà phỏng dịch
Trong một bài thơ thu khác nói về ngày hội "trùng dương" , ngày lễ của hoa cúc thay v́ cùng bạn bè uống rượu, thưởng hoa, đàm đạo thi ca, nhà thơ Đỗ Phủ lại "độc chước bôi trung tửu", lời lẽ chân thành tha thiết bộc lộ tâm sự xót xa, vất vả đắng cay của bản thân, cảnh buồn theo ḷng người quay quắt: " lá trúc cùng người than phận lỡ, cúc vàng thuở đó chẳng đơm hoa..."
Trùng dương độc chước bôi trung tửu
Bảo bệnh khởi đăng giang thượng đài
Trúc diệp vu nhân kí vô phận
Cúc hoa ṭng thử bất tu khai
Thù phương nhật lạc huyền viên khốc
Cố quốc sương tiền bạch nhạn lai
Đệ muội tiêu điều các hà tại
Can qua suy tạ lưỡng tương thôi
Cửu Nhật Ngũ Thủ, Tuyển Nhứt (Đỗ Phủ)
Trùng dương, rượu trút, một ḿnh ta
Khổ bệnh, sông dài, dấn bước qua
Lá trúc cùng người than phận lỡ
Cúc vàng thuở đó chẳng đơm hoa
Tha phương vượn khóc tà dương xế
Quê cũ nhạn về sương sớm sa
Em gái phương nào thân tá túc ?
Bệnh căn, loạn lạc, nhiễu phiền ta
Ngày Chín, Năm Bài Lựa Một (Hải Đà)
Những bài thơ tả cảnh của Đỗ Phủ rất sinh động tự nhiên, không đẽo gọt tỉ mĩ, mà lại thanh thoát, nhẹ nhàng lưu loát, ư tứ dạt dào xen lẫn h́nh ảnh đẹp thi vị, ngân vang âm điệu tràn đầy ..."thềm sân móc trắng sương rơi, phủ đầy hoa cúc giữa trời mênh mang.."
Quang tế huyền sơ thướng
Ảnh tà luân vị an
Vi thăng cổ tái ngoại
Dĩ ẩn mộ vân đoan
Hà Hán bất cải sắc
Quan sơn không tự hàn
Đ́nh tiền hữu bạch lộ
Ám măn cúc hoa đoàn
Sơ nguyệt (Đỗ Phủ)
Ánh mờ trăng mới nhú lên
Nghiêng nghiêng bóng đổ chênh vênh ráng trời
Dần lên cửa ải chơi vơi
Mây chiều núp bóng nửa vời xa xa
Nguyên màu một dăi ngân hà
Quan san giá lạnh buốt da khí thời
Thềm sân móc trắng sương rơi
Phủ đầy hoa cúc giữa trời mênh mang
Trăng Non (Hải Đà phỏng dịch)
Vương Duy là một bậc tài hoa của Trung Hoạ, ông vẽ rất đẹp, trong tranh của ông là một bài thơ, và trong thơ là một bức tranh.Ông c̣n tinh thông âm nhạc, giỏi đàn t́ bà . Vương Duy rất sùng mộ đạo Phật, điều này đă ảnh hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ, tư tưởng, và phong cách thơ của ông .Bài thơ "Tảo Thu Sơn Phong Các" ông viết để an ủi người bạn thân thiết là Bùi Dịch, làm quan bị dèm pha nên vua cách chức, nên phải bỏ vào rừng sâu ẩn dật. Ông đă dùng h́nh ảnh của Đào Lịch (tức là Đào Tiềm), người bạn tri kỷ của hoa cúc, đă một thời không chịu nhục treo ấn từ quan , và h́nh ảnh ẩn dụ của Thượng Tử B́nh ngày xưa khi đọc kinh Dịch đến quẻ Tốn than rằng: "giàu không bằng nghèo mà không lo lắng" và sau đó ông từ quan đi ngao du sơn thủy .
Vô tài bất cảm luỵ minh th́
Tứ hướng đông khê thủ cố li
Khởi yếm Thượng B́nh hôn giá tảo(1)
Khước hiềm Đào Lệnh khứ quan tŕ (2)
Thảo gian cung ưởng lâm thu cấp
Sơn lư thiền thanh bạc mộ bi
Tịch mịch sài môn nhân bất đáo
Không lâm độc dữ bạch vân kỳ
Tảo Thu Sơn Trung Các (Vương Duy)
Thời thịnh phiền chi kẻ bất tài
Đông Khê hướng cũ nhắm đi hoài
Thượng B́nh đâu kém t́nh gia thất
Đào Lệnh hiềm thua bỏ chức tài
Cỏ rậm dế rền thu vội đến
Non cao ve trỗi điệu bi ai
Thềm tranh quạnh quẽ người không viếng
Ḥ hẹn ḿnh ta mây trắng bay
Thơ Làm Trong Núi Buổi Đầu Thu (Hải Đà)
Bàn về hoa cúc là phải nói đến ngày hội Trùng Dương đă được nhắc nhở nhiều trong Đường thi . Trùng dương c̣n gọi là "trùng cửu" tức là tiết ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch, ngắm hoa uống rượu "cúc hoa tửu". Đó là thứ rượu ủ với cánh hoa cúc, khi hoa sắp tàn người ta mang nhặt bỏ những cành lá mà chỉ lấy toàn cánh hoa ủ với men rượu và một chút nước, đến năm sau vào đúng ngày Trùng Dương tức là mồng chín tháng chín mới mang ra uống. "Rượu đây vui với bạn đường, nâng ly thưởng hội trùng dương quên đời","Trùng dương hẹn lại chốn này, ngắm hoa cúc nở vui thay cảnh đời". Hoa cúc và ngày lễ Trùng Dương đă là đề tài được nhiều nhà thơ Đường ngâm vịnh:
1-
Trùng Dương tịch thượng phú bạch cúc
Măn viên hoa cúc uất kim hoàng,
Trung hữu cô tùng sắc tự sương.
Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch,
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.
Bạch Cư Dị
Tiệc Trùng Dương,vịnh hoa cúc trắng
Vàng hoe cúc nở đầy vườn
Một cḥm trắng tựa như sương lạc loài
Khác chi bàn tiệc sớm mai
Giữa thanh niên trẻ chen vai cụ già
Hải Đà phỏng dịch
2-
Cửu Nhật Tề Sơn Đăng Cao
Giang hàm thu ảnh nhạn sơ phi
Dữ khách huề hồ thướng thúy-vi
Trần thế nan phùng khai khẩu tiếu
Cúc hoa tu sáp măn đầu qui
Đăn tương minh-đính thù giai tiết
Bất dụng đăng lâm hận lạc huy
Cố văng kim lai chỉ như thủ
Ngưu-sơn hà tất độc triêm y *
Đỗ Mục
(*Ngưu sơn : núi ỏ nước Tề, đời Xuân thu, Tề-cảnh-Công lên núi trông về cố quốc mà khóc)
Lên Núi Tề Sơn Ngày Trùng Dương
Sông Thu lồng bóng nhạn mong manh
Bầu bạn thong dong cảnh sắc xanh
Thế tục buồn vương, môi héo nụ
Đường về cúc giắt, bước dồn nhanh
Mong sao cảnh đẹp, vui cùng rượu
Chẳng phí trèo non, cảm nắng hanh
Sự thế xưa nay trời đất chuyển
Cớ ǵ lên núi đứng buồn tênh
Hải Đà
3-
Thu Đăng Lan Sơn Kư Trương Ngữ
Bắc-sơn bạch vân lư
Ẩn giả tự di duyệt
Tương vọng thí đăng cao
Tâm tùy nhạn phi diệt
Sầu nhân bạc mộ khởi
Hứng thị thanh thu phiết
Thời kiến qui thôn nhân
Sa hành độ đầu yết
Thiên biên thụ nhược t́
Giang bạn châu như nguyệt
Hà đương tái tửu lai
Cọng tùy trùng dương tiết*
Mạnh Hạo Nhiên
Mùa Thu Lên Núi Lan Sơn làm thơ tặng Trương Ngữ
Núi cao mây trắng giăng đầy
Người u cư sống tháng ngày ung dung
Lên non nh́n xuống mịt mùng
Gửi ḷng theo cánh nhạn trùng bay xa
Sầu nghiêng nghiêng bóng chiều tà
Trời thu biếc ngọc chan ḥa ư thơ
Ai về thôn xóm thẫn thờ
Dừng chân biển cát, ngồi chờ bến sông
Hàng cây xanh đứng đợi mong
Sông quê in bóng nguyệt lồng soi gương
Rượu đây vui với bạn đường
Nâng ly thưởng hội trùng dương quên đời
Hải Đà phỏng dịch
4-
Tràng An Thu Tịch
Vân vật thê lương phất thự lưu
Hán gia cung khuyết động cao thu
Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái
Tràng địch nhất thanh nhân ỷ lâu
Tử diễm bán khai ly cúc tĩnh
Hồng y lạc tận chử liên sầu
Lô ngư chính mỹ bất qui khứ
Không đái nam quan học Sở tù
Triệu Cổ
Đêm Thu Tràng An
Ảm đạm trời thu điểm ánh thiều
Hán Cung lồng lộng gió phiêu phiêu
Lưa thưa sao sớm vờn chân nhạn
Réo rắt lầu khuya lộng sáo diều
Cúc nở hoa phô vườn thắm sắc
Sen tàn nhụy úa bến đ́u hiu
Sông quê mùa cá, chưa về xứ
Đày đọa phương người, phận hẩm hiu
Hải Đà phỏng dịch
5-
Quá cố nhân trang
Cố nhân cụ kê thử
Yêu ngă chí điền gia
Lục thụ thôn biên hợp
Thanh sơn quách ngoại tà
Khai hiên diện trường phố
Bả tửu thoại tang ma
Đăi đáo trùng dương nhật
Hoàn lai tựu cúc hoa.
Mạnh Hạo Nhiên
Qua Trại Của Bạn Cũ
Cơm gà bạn cũ mời ta
Thong dong vườn ruộng quê nhà ghé chơi
Quanh làng cây cỏ xanh tươi
Thành xưa bóng núi biếc ngời soi nghiêng
Vườn rau xanh mát ngoài hiên
Dâu tằm chuyện gẫu, bạn hiền cùng say
Trùng dương hẹn lại chốn này
Ngắm hoa cúc nở vui thay cảnh đời
Hải Đà phỏng dịch
6-
Trùng Dương
Tiết vật kinh tâm lưỡng mấn hoa
Đông ly không nhiễu vị khai hoa
Bách niên tương bán sĩ tam dĩ
Ngũ mẫu tựu hoang thiên nhất nha
Khởi hữu bạch y lai bác trác
Nhất ṭng ô mao tư y tà
Chân thành độc toạ không bao thủ
Môn liễu tiêu tiêu táo mộ nha
Cao Thích
Cảnh ngắm ḷng kinh tóc bạc phơ
Dậu đông chưa nở cúc ven bờ
Ba phen nhậm chức đời gần cạn
Năm mẫu vườn hoang đất xa mờ
Áo trắng ai đây phường quấy nhiễu
Mũ đen ta đó ngả thân chờ
Một ḿnh ṿ tóc ngồi ngơ ngác
Khóm liễu chiều kêu tiếng quạ ô
Hải Đà phỏng dịch
7-
Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ
Độc tại dị hương vi dị khách
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân
Vương Duy
Ngày 9 Tháng 9 Nhớ Anh Em Sơn Đông
Quê người lạ lẫm một ḿnh ta
Tết nhớ người thân măi thiết tha
Vẫn biết anh em lên núi thẳm
Thù du thiếu giắt một người xa*
Hải Đà phỏng dịch
*Thù du thiếu giắt một người xa: ư nói tác giả v́ phải làm thân ly khách, nơi đất lạ quê người, nên Tết Trùng Dương này không cùng với bạn bè ở phía đông núi Hoa Sơn (Sơn Đông) lên núi bẻ nhánh thù du. Ngày xưa tiết Trùng Dương 9/9, người ta hay tổ chức hội hè yến ẩm, ở nhà uống rượu cúc, khi đi chơi núi thường giắt lá thù du vào người với niềm tin là để tránh tai nạn, gọi là "kỵ tà". Thù du là loại cây thuốc có mùi thơm, giống cây tiêu dùng làm vị cay.
Cúc Trong Cổ Thi Việt Nam:
Trong bài thơ Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến có câu :
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào …
Ông Đào ở đây, thi sĩ Nguyễn Khuyến muốn nhắc đến thi sĩ Đào Tiềm trong đường thi Trung Quốc...
Bàn về cổ thi Việt Nam, Thái Thuận trong Lữ Đường Thi Tập đă được thi sĩ Quách Tấn ngợi khen là một nhà thơ có biệt tài, và ông Quách Tấn đă trích dịch một số thơ và giới thiệu Lữ Đường Di Cảo Thi Tập như một di sản tinh thần quí báu của tiền nhân. "V́ thật sự
sống cùng với thơ, cho nên loại thơ nào của Lữ Đường cũng đều sống động, thơ cảnh cũng như thơ t́nh, thơ vịnh vật cũng như thơ vịnh sử ....Rơ là cúc. Nhưng không phải cúc nở mùa xuân, cúc chưng bày nơi phố phường để bán, cúc trang điểm cho đài các thêm lộng lẫy huy hoàng. Cúc đây nở trong sương thu lạnh lẽo, cạnh rào dậu giữa thiên thiên. Cúc đây là bạn của Đào Tiềm, là "hóa thân" của tác giả Thái Thuận. Buồn mà tươi đẹp, tươi đẹp nhưng thật buồn, thật buồn song không chán nản ..." (trích Lữ Đường Thi-Quách Tấn)
Lănh liệt thu thâm độc nại sương
Nhiễu tùng khai biến bạn ly quang
Thảo biên nhật mộ huỳnh phân ảnh
Trúc lư phong hàn xạ tiến hương
Chúng diễm ưng tàm khuy văn tiết
Nhất sanh ná khẳn phụ trùng dương
Nhàn trung nga khởi Đào Bành Trạch
Tọa đới du nhiên thú vị trường
Cúc Hoa (Thái Thuận)
Lạnh ngắt sương thu đứng một ḿnh
Bên rào nở thắm ánh thiều minh
Cỏ đêm lấp lánh màu đom đóm
Gió lạnh ngạt ngào hương trúc xinh
Tiết muộn hoa tươi cười nhạo báng
Trùng dương cảnh đợi sống chung t́nh
Thảnh thơi chợt nhớ ông Bành Trạch
Nhàn nhă ung dung đối bóng ḿnh
Hải Đà phỏng dịch
Cũng trong một bài thơ vịnh cảnh khác, thi sĩ Thái Thuận đă cảm hứng trước cảnh thu buồn man mác, mà sáng tác bài Thu Dạ Tức Sự "lạc lạc hoàng hoa phiếm tửu bôi" (thấy hoa cúc vàng nở vui, hăy cùng nâng chén cạn ly), và thêm một lần nhắc nhở đến thi sĩ Đào Tiềm của hoa cúc đường thi:
Vũ quá nhàn đ́nh tuyệt điểm ai
Vô đoan thu hứng dạ trung thôi
Ngô đồng diệp lăo phong phiêu tán
Dương liễu âm sơ nguyệt đáo lai
Lộ khấp cùng thanh ưng hữu lệ
Thảo thiêu huynh hỏa bất thành khôi
Cọng thùy hoán báo Đào Bành Trạch
Lạc lạc hoàng hoa phiếm tửu bôi
Thu Dạ Túc Sự (Thái Thuận)
Sân sạch không c̣n mưa bụi bay
Từ đâu thu hứng đến đêm nay
Vàng ngô gió thổi tung nhiều hướng
Dương liễu trăng soi bóng tỏa đầy
Sương khóc trùng kêu tuôn lệ chảy
Cỏ thiêu tro đóm khó thành thay
Đào Tiềm nhắn hỏi cùng ai đó
Rực rỡ hoàng hoa cụng chén say
Việc Thấy Đêm Thu (Hải Đà)
Thi hào Nguyễn Du ngoài Truyện Kiều, c̣n để lại cho chúng ta ba tập thơ viết chữ Hán là Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, và Bắc Hành Tạp Lục. Những tập thơ chữ Hán này đă nói lên sự uyên bác tài ba của Nguyễn Du, sự mẫn cảm chân t́nh, những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ trước những thăng trầm của thế sự nhân t́nh . Nguyễn Du qua bài "Ngẫu Hứng" trong tập Nam Trung Tạp Ngâm đă nói lên nỗi nhớ quê dào dạt khi nh́n thấy cúc vàng chớm nở hoa, mà trằn trọc thâu đêm :
Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng
Thiên lư hương tâm dạ cộng trường
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt
Lục âm trùng điệp bất di quang
Ngẫu Hứng (Nguyễn Du)
Lau trắng cúc vàng chớm nở hoa
Canh trường thao thức nhớ quê xa
Vén rèm trằn trọc t́m trăng sáng
Bóng tối vây đầy, trăng chẳng qua
(Hải Đà phỏng dịch)
Nguyễn Trăi (1380 - 1442) là một anh hùng dân tộc, cũng là một nhà văn và nhà thơ lớn. Ông để để lại các tác phẩm văn bằng chữ Hán có giá trị văn hóa và lịch sử như Quân Trung Từ Mệnh Tập, B́nh Ngô Đại Cáo, Lam Sơn Thực Lục . Về thơ ông có hai tập : "Quốc âm thi tập" bằng chữ nôm, và "Ức Trai thi tập" bằng chữ Hán . Thơ của ông man mác t́nh quê hương dân tộc, gia đ́nh, thế thái nhân t́nh, cảnh oan nghiệt của cơi đời phù du ... Nhà văn Nhật Chiêu (trong tạp chí Văn hóa Phật giáo) đă có nhận xét : "Thơ Nguyễn Trăi (cả Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập) là thơ thiền. Tâm ấy với mây trắng là một, là nhất sắc - hay nói theo tiếng Việt của Nguyễn Trăi: "hai ấy cùng xem một thức cùng" .....ở Nguyễn Trăi, cái nhất sắc này được đẩy xa hơn, sâu hơn, vào trong tâm thiền. Nơi đó dường như tâm người, tâm chim và tâm cá hoà nhau trong nhất sắc, trong một thức trong một hư không ...." Người thiền như Nguyễn Trăi, ắt hẳn chỉ muốn từ bỏ chốn xa hoa đầy bụi bặm, tự giấu ḿnh bên núi đá, sống thanh bần, bầu bạn với thiên nhiên cỏ hoa. Trong bài thơ chữ Hán "Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn Đường" Nguyễn Trăi nhắc lại câu: "tùng cúc do tồn" từ bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm (đời Đông Tấn, Trung Quốc) để nói về sự ẩn dật của người xưa, bè bạn với tùng cúc, vui sống thanh nhàn:
Khứ hạ phiền hoa đạp nhuyễn trần
Nhất lê nham bạn khả tàng thân
Thương gia lệnh tá xưng Sằn Dă (1)
Hán thế cao phong ngưỡng Phú Xuân (2)
Tùng cúc do tồn quy vị văn
Lợi danh bất tiển ẩn phương chân
Ta dư cửu bị nho quan ngộ
Bổn thị canh nhàn điếu tịch nhân.
Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn Đường (Nguyễn Trăi)
(1) Sằn Dă: chỉ Y Doăn, người hiền sĩ cày ruộng đời nhà Thương (Trung Quốc), vua phải vời ba lần mới chịu giữ chức tể tướng, đủ tài b́nh trị quốc dân.
(2) Phú Xuân: một ngọn núi ở tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc) nơi cao sĩ Nghiêm Tử Lăng ở ẩn.
Từ bỏ xa hoa chốn bụi trần
Về hang núi ẩn chẳng phân vân
Pḥ Thương Sằn Dă từng lưu tiếng
Từ Hán Phú Xuân lộc chẳng cần
Tùng cúc c̣n đây khi trở lại
Lợi danh không thiết ẩn đời chân
Than ḿnh ngộ nhận là nho hủ
Cày ruộng, đi câu, sống cảnh nhàn
Hải Đà phỏng dịch
Trong bài thơ Thu Nhật Ngẫu Thành, Nguyễn Trăi cũng thêm một lần mơ ước, đă dùng lại chữ "tam kính cúc" (tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn) của Đào Tiềm cùng để giải bày nỗi niềm tâm tư của một triều quan chỉ mong ước dứt bỏ đường công danh sự nghiệp g̣ bó, để về nơi thôn dă với cuôc sống nhàn, gần gũi với thiên nhiên, được tự do phóng khoáng "Vườn xưa cúc nở nhớ thầm, thuyền đưa hồn mộng đêm đêm giục về":
Tiêu tiêu trụy diệp hưởng đ́nh cao
Bệnh cốt tài tô khí chuyển hào
Thiên địa tư văn tùng cổ trọng
Hồ sơn thanh hứng nhập thu cao
Kính trung bạch phát giai nhân lăo
Thân ngoại phù danh mạn nhĩ lao
Miến tưởng cố viên tam kính cúc
Mộng hồn dạ dạ thượng quy đao.
Thu Nhật Ngẫu Thành (Nguyễn Trăi)
Tiêu điều lá rụng đầy sân
Bệnh vừa qua khỏi tâm thần an nhiên
Tôn vinh sách vở thánh hiền
Nước non thu cảm triền miên dâng đầy
Soi gương tóc bạc mà hay
Phù du muôn sự chỉ bày khổ thêm
Vườn xưa cúc nở nhớ thầm
Thuyền đưa hồn mộng đêm đêm giục về
Cảm Hứng Ngày Thu (Hải Đà phỏng dịch)
Ngô Th́ Nhậm (1745 - 1803) là một trí thức đa tài, ông đă đóng góp nhiều thành tích đáng kể cho thời đại Tây Sơn về các phương diện chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông c̣n có biệt tài về văn chương, viết đủ thể loại : nghiên cứu, b́nh luận, thơ phú ... Ông sống cuộc đời liêm khiết, khiêm tốn. Thơ ông ung dung phong thái, tiềm tàng khí phách trượng phu, tấm gương mẫu mực của kẽ sĩ luôn coi trọng việc nước việc dân. Bài thơ Thu Cúc của ông ư từ thanh nhă, nói lên cái đức độ thiền tâm, cái nhẹ nhàng thanh thản của một người, không ham phú quí, không cầu cạnh lợi danh, như loài hoa cúc kia, vẫn nở đầy núi dù trong trời sương giá lạnh, đem lại màu hoa tươi thắm để trang điểm cho tiết thu vàng:
Cao tiết xung hàn phóng măn sơn,
Độc siêu quần hủy điểm thu nhan.
Hốt tư cựu tuế đông li hạ,
Đối tửu xan anh tận nhật nhàn.
Thu Cúc (Ngô Th́ Nhậm)
Phủ đầy khí lạnh non xanh
Sắc thu tô điểm chỉ ḿnh cúc bông
Nhớ xưa rào cũ bờ đông
Say nh́n hoa nở thấy ḷng ung dung
Hải Đà phỏng dịch
Trương Hán Siêu ( ? - 1354) tự là Thăng Phủ, hiệu Độn Tẩu, gốc ở Phúc Am, An Khánh thuộc Hà Nam Ninh. Thời trai trẻ, ông là môn khách trong dinh Trần Quốc Tuấn, từng đàm đạo thơ văn và chính sự với Trần Quốc Tuấn. Thơ văn Trương Hán Siêu c̣n lại không nhiều. Tác phẩm nổi tiếng qua nhiều thời là bài "Bạch Đằng giang phú". Chỉ với một bài này, ông cũng đă có vị trí xứng đáng trong ḍng văn học yêu nước chống ngoại xâm đời Trần. Trong văn chương của ông - mỗi ḍng sông, mỗi tên đất như c̣n vang vọng măi tiếng gươm giáo, tiếng gọi quân đánh giặc giữ yên sơn hà. Ḷng yêu nước đó gắn liền với niềm tự hào chính đáng về truyền thống anh hùng chiến tận của dân tộc (trích suutap.com). Trương Hán Siêu có bài thơ vịnh Hoa Cúc như sau:
Khứ niên kim nhật hữu hoa đa
Đối khách sầu vô tửu khả xa .
Thế sự tương vi mỗi như thử,
Kim triêu hữu tửu khước vô hoa
Cúc Hoa Vịnh (Trương Hán Siêu)
Ngày này năm ngoái nở đầy hoa
Chẳng rượu ngon mời tiếp bạn ta
Muôn sự trên đời hay nghịch lư
Rượu sẵn hôm nay chẳng thấy hoa
Hải Đà phỏng dịch
Phan Chu Trinh sinh năm Nhâm Tuất (1872) niên hiệu Tự Đức 26, tự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mă, quê ở xă Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam . Ông đă để lại một số thơ văn cách mạng để nói lên cái ư chí hạo nhiên của kẻ sĩ. Ngoài ra ông cũng sáng tác những bài thơ trữ t́nh, cũng như những bài thơ châm biếm những kẻ xu nịnh đương thời …
Ông Nguyễn Quí Anh là bạn thơ của Cụ Phan Châu Trinh, khi Pháp chiếm Nam Kỳ, cụ Phan Châu Trinh, dời ra Phan Thiết ở ẩn dật, chờ thời, chỗ ở này đặt tên là "Ngọa du sào" . Trong bài thơ đề tặng bạn Nguyễn Quí Anh, Phan Châu Trinh có nhắc đến "cúc kính" , tức là lối cúc, của Đào Tiềm khi xưa (tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn), để nói lên tấm ḷng thanh thản của nhà nho, bất cần danh lợi, cáo quan lui về sống ẩn dật ở vườn quê . Cũng trong bài thơ này, c̣n nhắc đến chữ "đào nguyên" , cũng từ nguồn "Đào nguyên kư" của Đào Uyên Minh, tức là Đào Tiềm, truyện kể có người ngư phủ lạc lối, thấy hoa đào trôi xuôi, bèn chèo ngược ḍng, đến được nguồn hoa đào, gặp con cháu những người tránh loạn đời nhà Tần, sống cảnh thanh b́nh, ḥa hợp , no ấm như cảnh tiên, nên chỗ này được gọi là động Đào nguyên, chỉ cảnh sống ẩn dật, an b́nh .
Thiên lư phùng nghênh lưỡng bố y
Nhật tà chước tửu mộ giang ky
Quan hà thu đáo phong vân biến
Hồ hải nhân đa ư khí hi
Cúc kính bán hoang nhân di cổ
Đào nguyên hồi thủ sự toàn phi
Chí kim khẳng khái bi ca ư
Yên Triệu lưu phong cố vị suy
Tặng Nguyễn Quí Anh Nhụ Khanh (Phan Châu Trinh)
Hàn sĩ hai người nghênh tiếp vui
Đầu sông mời rượu ngắm chiều rơi
Thu về mây gió trời trôi nổi
Người gặp sông hồ chí hợp thôi
Lối cúc vườn xưa người vắng bóng
Chốn tiên cảnh cũ chuyện xa vời
Xưa nay hùng tráng lời ca đó
Yên Triệu c̣n lưu dấu ấn ngời
Hải Đà phỏng dịch
Cúc và Thiền Thi:
Triệu Chương Tuyền, một thi nhân đời Tống, với những bài thơ miêu tả đời sống an nhàn thanh đạm, ḥa đồng cùng vũ trụ thiên nhiên, trong một bài "Luận Thi" (bàn bạc về Thơ), có câu : " Thu cúc xuân lan ninh dị địa. Thanh phong minh nguyệt bổn đồng thiên" (hoa cúc nở mùa thu, hoa lan nở mùa xuân là do thời tiết, chứ không phải do nơi đất đai khác nhau . Gió mát trăng thanh vốn cùng ở trong một bầu trời), đă nói lên cái phong độ thư thái an nhàn, tất cả cũng chỉ là sự t́nh cờ bất chợt trong cái vô thường của vũ trụ, "gió mát" -vô h́nh- là cái "không", "trăng thanh" -hữu h́nh -là cái "sắc" . "Không" chính là cái bản chất của vạn vật, c̣n "sắc" là cái biểu tượng bên ngoài . Đó là hai mặt của một bản thể thường hằng bất biến, tuy hai nhưng là một ..."sắc tức thị không, không tức thị sắc"
Sắc hoa, hương hoa, dáng hoa đă đem lại sự nồng nàn tha thiết, sự lăng mạn trữ t́nh cho người thơ . Hoa phảng phất những dư âm, làm rung cảm t́nh người, hoa h́nh như cũng muốn ḥa chung vào cảm xúc, rung động của con người , vốn dĩ tất bật trong cuộc đời phù du tạm bợ này. Hoa đem lại h́nh ảnh đẹp nhưng cũng thật mong manh .."sắc tức thị không..." .như Bạch Cư Dị trong bài "Kư Vương Sơn Nhân" đă nói "Tùng thụ thiên niên hủ, Cẩn hoa nhất nhật yến, Tất cánh cộng không hư, Hà tu khoa tuế nguyệt" (cây thông ngàn năm mới mục, hoa dâm bụt một ngày đă tàn, Cuối cùng tất cả là hư không, Việc ǵ mà phải khoe cùng năm tháng)
Bàn về hoa cúc, người ta thường nhắc đến bài thơ man mác hương vị thiền, siêu thoát của nhà sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần .Tên thật của ông là Lư Đạo Tái, pháp danh Huyền Quang, tổ thứ ba phái Thiền học Trúc Lâm . Các tác phẩm của ông gồm có "Chư phẩm kinh", "Công văn tập", và tập thơ "Ngọc tiên tập" có bài thơ Cúc Hoa nổi tiếng. Phần nhiều tác phẩm bị thất lạc, hiện giờ chỉ c̣n khoảng 24 bài được lưu lại đến ngày nay .
Theo tác giả Nguyễn Lang (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận) : "Huyền Quang giỏi Phật học nhưng thơ của ông b́nh dị, ít nặng nề danh từ Phật Giáo. Tuy vậy tính cách đạt ngộ thanh thoát vẫn bàn bạc trong thơ ông. Trong bài Hoa Cúc ta đă đọc những câu ông viết về chuyện ngắm hoa tuyệt diệu, trong đó người với hoa hồn nhiên là một và h́nh ảnh kỳ diệu của một bông cúc nở trong trạng thái ấy. Ông cười với tất cả ḷng từ bi khi nh́n thấy một thiếu nữ v́ không thây được bản chất mầu nhiệm của cúc, đă hái cúc cắm đầy đầu trước khi ra về "
"Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Khi tuổi đă già, ḷng đă khô héo, chỉ có hoa cúc mới làm êm dịu được ḷng ông. Trúc với mai đối với ông không thể nào so với cúc được. Trong vườn đây đó ông trồng toàn hoa cúc. Ngồi thiền xong, ông ngồi ngắm cúc cho tới khi người ngắm hoa và hoa, hai thứ hồn nhiên là một. Kết quả là cái thấy về thực tại của ông nở sáng như một đóa hoa ...Bài thơ hoa cúc của ông có nhiều t́nh tiết cảm động, b́nh dị mà siêu thoát. Ta hăy đọc toàn bài để thưởng thức sự rung cảm của một người trên 70 tuổi, một người xem như hoa cỏ cả thân mạng và cuộc đời nhưng hễ thấy hoa cúc là tâm t́nh rộn ràng như một người trai trẻ thấy bóng người yêu" (Nguyễn Lang):
Tùng Thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên xứ xứ thổ hoàng hoa
Thiên giang vô mộng cán khô trường
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lăo khứ sầu ngâm hồn vị ổn
Thi biều thực vị cúc hoa mang
Vong thân vong thế dĩ đô vương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế văn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
Niên niên ḥa lộ hướng đương khai
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Măn đầu tùy đáo tháp quy lai
Hoa tại trung đ́nh nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân nhữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
Xuân lai hoàng bạch các phương phi
Ái diễm liên hương diệc tự th́
Biên giới phồn hoa toàn trụy địa
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly
Cúc Hoa (Huyền Quang)
Tường Hủ nhà xinh nghe trúc reo
Tây Hồ cảnh đẹp thấy mai treo
Nghĩa t́nh chẳng hợp chăng đi nữa
Vườn cúc nơi nơi nở rộ đều
Sông ngàn đâu dễ nỗi niềm vơi
Mai vịnh trăm lần cũng thế thôi
Thổn thức sầu ngâm đầu vẫn bạc
Hân hoan cúc nở thấy ḷng vui
Thế sự thân ḿnh quên hết thôi
Ngồi thiền giường lạnh cảnh chơi vơi
Rừng sâu không lịch năm cùng tận
Biết tiết Trùng Dương cúc nở cười
Năm tháng thu về nở thắm xinh
Trăng thanh gió mát thiết tha t́nh
Cười ai chẳng biết nhành vi diệu
Về xứ tóc đầy hoa khiết trinh
Người ở lầu cao hoa trước hiên
Ngồi im tâm tịnh đốt nhang thiền
Vật, người an phận không hiềm tị
Sánh với ngàn hoa cúc trước tiên
Xuân đến trắng vàng sắc điểm tươi
Ngát hương trang điểm cũng theo thời
Ngàn hoa rơi rụng trên ngàn lối
Hoa cúc rào đông lộng lẫy cười
Hải Đà phỏng dịch
"Rừng sâu không lịch năm cùng tận, Biết tiết Trùng Dương cúc nở cười" ṛ ràng người thơ đă tách ḿnh ra khỏi ṿng cương tỏa của kiếp sống phù b́nh, tự ẩn mật ở một nơi chốn nhẹ nhàng thanh thoát, không cần lịch và không cần biết ngày tháng trôi qua, thời gian có bất chợt đến trong tâm hồn của người thơ cũng do sự ngẫu nhiên mà thôi "Tuế văn sơn trung vô lịch nhật, Cúc hoa khai xứ tức trùng dương .." , làm ta liên tưởng đến bài thơ Đáp Nhân (Trả lời Người) của Thái Thượng Ẩn Giả "Ngẫu lai tùng thụ hạ , Cao chẩm thạch đầu miên, Sơn trung vô lịch nhật, Hàn tận bất tri niên" (T́nh cờ bước đến gốc thông, Gối cao trên đá giấc nồng chiêm bao, Khó t́m sách lịch núi cao, Rét run đă dứt năm nào chả hay? Hải Đà dịch), cũng cùng chung một ư tưởng với Đào Tiềm trong bài thơ "Đào hoa nguyên thi" :"tuy vô kư lịch chí tứ thời tự thành tuế" (tuy không có lịch ghi ngày tháng, nhưng bốn mùa tự thành năm)
Nói về thơ thiền đời Lư Trần, người ta thường nhắc đến Viên Chiếu thiền sư (999 - 1091) tên là Mai Trực, người đất Phúc Đường, huyện Long Đàm, là cháu của Hoàng Hậu Linh Cảm (mẹ vua Lư Thánh Tôn). Sư thọ giáo với Định Hương Trưởng Lăo, rất am tường phương pháp Tam Quán của Kinh Viên Giác.Sư đứng ở vị trí đầu thế hệ thứ bảy ḍng thiền Quan Bích.
"Thơ thiền phần lớn là ngững bài kệ, hoặc là vấn đáp giữa sư phụ và môn đệ cốt đưa đến việc khai thông trí tuệ. Nhiều bài cũng khô khan nghiêm khắc như những pháp cú, nhưng cũng có nhiều bài đẹp như một bài thơ. Nhiều khi những câu trả lời c̣n có dạng công án không trực tiếp liền nghĩa với câu hỏi như trong bài Tham đồ hiển quyết (Chỉ rơ bí quyết đạo thiền cho môn đệ) của thiền sư Viên Chiếu" (trích Đường Về Cơi Phật Qua Thơ Văn Xưa-Quách Thanh Tâm) .
Ly hạ Trùng Dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh
Viên Chiếu thiền sư
Lưng giậu thu về cúc nở hoa
Xuân nồng cành thắm tiếng oanh ca
Vầng dương rạng rỡ ngày tươi sáng
Đêm đến trăng vàng lấp lánh xa
(Hải Đà phỏng dịch)
Theo văn học sử đời Lư c̣n có ông Phan Trường Nguyên, quê quán làng Trường Nguyên, huyện Tiên Du, Hà Bắc, nổi danh là một nhà tu hành chân chính thuộc thế hệ thứ 10 ḍng thiền Quan Bích. Ông là một người văn hay chữ tốt có tiếng, được vua Lư Anh Tông triệu về giúp việc, nhưng ông đă từ chối, lánh ḿnh ở ẩn và dời lên tu tại chùa Sóc Thiên Vương, núi Vệ Linh, quận B́nh Lổ . Tác phẩm của ông c̣n lưu truyền một bài thơ, biểu lộ tấm ḷng của ông chỉ thích hướng về thiên nhiên dân dă với cuộc sống thanh bần, đạm bạc không vướng màu tục lụy:
Viện hầu băo tử quy thanh chướng
Tự cổ thánh hiền một khả lượng
Xuân lai oanh chuyển bách hoa tham
Thu chí cúc khai một mô dạng
Quy Thanh Chướng (Phan Trường Nguyên)
Khỉ vượn ôm con vượt núi ngàn
Xưa nay hiền thánh ư mênh mang
Trăm hoa, oanh hót, mừng xuân đến
Một ḿnh cúc nở đón thu sang
Về Non Xanh (Hải Đà phỏng dịch)
Thu sầu dạo khúc thê lương
Nỗi buồn từ thuở ly hương lưu đày
Mơ quê xa lắc đường dài
Hoa vàng chợt thấy gửi ai đôi lời
Gió sương ngạo nghễ hoa cười
Mặc thu tàn úa, vẫn tươi thắm ngàn
Cha xưa yêu đóa cúc vàng
Ḷng con ly xứ muôn vàn nhớ Cha
Hải Đà
Cúc và Cha tôi:
Lúc sinh thời cha tôi yêu thích hoa cúc, nhà tôi ở thành phố không có vườn, nên ông đă lấy gỗ tự đóng lấy mấy giậu ô vuông, đổ đất và trồng hoa, đặc biệt ông thích loại hoa vàng. Cúc nở lâu tàn, và những khi nhàn rỗi cha tôi vẫn thường nấu ấm nước sôi, tự pha trà và nhâm nhi ngồi nh́n hoa cúc, dáng dấp trầm ngâm suy tư về một nỗi niềm riêng ...Phải chăng tâm tư nhạy cảm của ông mang nặng t́nh hoài cổ, nỗi ḷng rưng rưng về một kư ức xa xăm viễn mộng nào đó. Và khi nh́n chùm hoa cúc nở thắm, có lẽ cùng chung cảnh ngộ, đôi khi cha tôi chợt mỉm cười bâng quơ v́ hoa cúc có thể mang lại một niềm tin, một thông điệp nào đó cho một kiếp đời vốn trầm uất với bao cảnh dâu bể thăng trầm của thế sự nhân t́nh, thời cuộc đổi thay:
Tôi nhớ cha tôi thuở sinh thời
Thích trồng hoa cúc, thú vui chơi
Ôi ! cánh hoa vàng tươi rực rỡ
Rực cả hồn quê, rỡ nụ cười
Một sáng mùa đông trời băng giá
Sương tuyết rơi rơi ngập cả vườn
Chỉ một loài hoa vươn cánh nở :
Cúc hoàng ! Cúc đảm ngạo hàn sương !
Hoàng cúc phương chi chẳng ngại ngần
Vươn ḿnh sống thẳng giữa phong trần
Nhánh hoa thắm nhuộm màu tao nhă
Thắm cả ḷng yêu mến quốc-dân !
Hải Đà
Ḍng thời gian măi trôi đi biền biệt ....bây giờ tôi nơi xứ lạ quê người, cứ mỗi độ thu về, tiết trời se se lạnh, lá vàng bắt đầu nhẹ rơi, tôi đă thấy hàng xóm láng giềng trồng cúc trước nhà, quanh vườn, cạnh hàng rào, dọc lối đi . Những cảm giác lạ lẫm của cái lạnh mơn man trong buổi sáng mùa thu, chút nằng nhè nhẹ ban mai làm tan đi làn sương mờ trên những khóm cúc nở vàng tươi rực rỡ , thoang thoảng trong gió đong đưa một mùi hương gợi cảm, bất chợt làm tôi chạnh ḷng nhớ đến cha tôi ngày xưa ...Và trong phút giây lắng đọng, cảm xúc dâng trào, mạo muội viết bài thơ:
Cúc Đảm Ngạo Hàn Sương
Bách cảm thu ngâm uẩn khúc trầm
Lữ sầu uất muộn tại phân khâm
Mộng trung thanh phượng tư hà xứ (1)
Nhăn thượng hoàng hoa kư viễn âm
Tiếu ngạo hàn sương phô cốt cách (2)
Khai nhan diệu sắc kháng thu thâm
Sinh thời nghiêm phụ tương giao cúc
Du tử tha hương thốn thảo tâm (3)
Hải Đà
dịch nghĩa:
Hoa cúc ngạo nghễ dưới sương lạnh
Trăm mối cảm hoài, nghe khúc thu ngâm thầm lắng
Nỗi sầu xa xứ phiền muộn trong ḷng từ lúc biệt ly
Trong giấc mơ quê cha (Thanh Phượng) thấy nhớ nhà xưa
Trước mắt thấy cánh hoa vàng như muốn nhắn gửi lời phương xa
Hoa cười kiêu ngạo giữa sương lạnh, luôn giữ phong cách
Mở mặt vui tươi màu sắc lộng lẫy như muốn thách thức thu già
Lúc c̣n sống thân phụ thích làm bạn với hoa cúc
Con bây giờ ở nơi xa xăm tấc ḷng luôn tưởng nhớ
(1) Thanh Phượng= Thanh Cù, Phượng Lâu (tỉnh Hưng Yên, Bắc Việt) cũng là bút hiệu của thân phụ
(2) Cúc ngạo hàn sương= trời thu lạnh hoa tàn mà một ḿnh cúc tốt tươi, ư nói người cao sĩ thời loạn ly
Cốt cách= phong cách thanh tao ,Hoàng hoa= hoa cúc màu vàng thường nở vào mùa thu
(3) Thốn thảo tâm= tấc ḷng nhỏ ví như tấc cỏ "nguyện tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy"=
mong đem tấm ḷng như một tấc cỏ mà báo đáp công ơn cha mẹ ví như ánh sáng ba tháng mùa xuân
Bài thơ Du Tử Ngâm của Mạnh Giao có câu :"Thùy ngôn thốn thảo tâm , Báo đắc tam xuân huy"
Cúc Cười Ngạo Nghễ Gió Sương
(tưởng nhớ thân phụ)
1-
Ngâm khúc sầu thu luống đoạn trường
Mối sầu da diết thuở ly hương
Thầm mơ quê nội nhà xa quá
Chợt thấy hoa vàng gửi tiếng thương
Sương gió dăi dầu hoa ngạo nghễ
Thu già thách thức sắc phô trương
Sinh thời thân phụ yêu thương cúc
Tấc cỏ ḷng con măi vấn vương
2-
Thu sầu dạo khúc thê lương
Nỗi buồn từ thuở ly hương lưu đày
Mơ quê xa lắc đường dài
Hoa vàng chợt thấy gửi ai đôi lời
Gió sương ngạo nghễ hoa cười
Mặc thu tàn úa, vẫn tươi thắm ngàn
Cha xưa yêu đóa cúc vàng
Ḷng con ly xứ muôn vàn nhớ Cha
Hải Đà
Ghi chú: Những bài thơ chữ Hán trong bài viết sưu khảo này đă có rất nhiều nhà chuyên khảo Hán Học uyên bác, các học giả tiền bối đă dịch Thơ Đường với những bản dịch trác tuyệt và tài hoa. Nhưng mỗi dịch giả có một cách dịch thâm thúy khác nhau dưới các khía cạnh thưởng ngoạn đa dạng và cảm xúc rung động muôn chiều khi đọc, ngâm, vịnh một bài thơ Đường.
V́ ḷng đam mê văn chương và thi ca, tác giả mạo muội chỉ xin mượn ư và phỏng dịch từ Thơ ra Thơ. V́ phải giữ cấu tứ, âm điệu, thể cách, luật bằng trắc nên chắc chắc có rất nhiều thiếu sót v́ nhiều chữ không được sát nghĩa, khó lột đúng tinh thần nguyên tác, cái khó khăn là phải giữ cái hồn thơ và ư thơ của nguyên bản, và đồng thời thi điệu của bài thơ dịch. Nếu có ǵ thiếu sót và bất cẩn, mong sự lượng thứ và thông cảm của quí bậc túc nho trưởng thượng và quí bạn đọc yêu thơ .
Hải Đà-Vương Ngọc Long
Tài liệu tham khảo:
-Đường Thi Tuyển Dịch-Lê Nguyễn Lưu
-Lữ Đường Thi-Quách Tấn
-249 bài thơ Chữ Hán Nguyễn Du-Duy Phi biên soạn
-Giai thoại thơ Đường và Tác Giả - Hoài Anh
-Tạp chí Văn hóa Phật giáo-Nhật Chiêu
-Việt Nam Phật Giáo Sử Luận-Nguyễn Lang
-Đường Về Cơi Phật Qua Thơ Văn Xưa-Quách Thanh Tâm
-Tứ Quân Tử Trong Hội Họa Trung Quốc-Lê Anh Minh
-http://www.quangduc.com
-http://www.buddhismtoday.com
-http://www.truongviet.net
-http://www.luongsonbac.com
-http://www.maihoatrang.com
-http://www.phattuvietnam.org
-http://www.giaphahophan.com
Có phải em là nữ chúa Thu ?
Khai nhan lộng lẫy chốn sa mù
Muôn loài hoa khác tiêu điều dáng
Chỉ một ḿnh em nét đặc thù
Ngạo nghễ dưới trời sương tuyết phủ
Kiêu sa trước cuộc sống phù du
Đào Tiềm một thuở t́m tri kỷ
Chỉ có hoàng hoa sánh trượng phu
Hoàng Hoa (Hải Đà)
Xin xem tiếp:
Sưu Tầm về hoa
Cúc |
Loài
hoa mang khí tiết : Hoa Cúc
(sưu tầm, trích trang http://www.truongviet.net)
Hoa cúc là một loại hoa mà dân tộc Á Đông tôn trọng nhứt cho rằng hoa mang khí
tiết của bậc quân tử. Không thèm nở cùng một lúc với các loại hoa khác, mà chỉ
đợi khi gío lạnh vào thu mới chịu trổ nụ khai hoa. Bởi vậy mà người xưa bảo tính
của hoa cúc rất kiêu hănh, ưa sống biệt lập, không thích chung đụng với các thứ
cây cỏ phàm phu tục tử khác. Hoa cũng có thứ phàm phu chứ không phải chỉ riêng
giống người.
Vào tiết sương giáng ( khoăng giữa tháng chín), tháng chín c̣n mang tên là cúc
nguyệt, ngườI ta lo ươm hoa. Cúc trổ hoa vào tháng chạp, có thể trổ sớm hơn, tùy
giống, và cũng là tùy sự chăm bón đễ hăm lại chơ kịp ngày Tết hay thúc lên cho
đúng ngày phải mang ra chợ hoa.
Có tất cả 130 loại hoa cúc. Cúc c̣n mang tên ra Tiết Hoa hay là Nữ Tiết. Cúc chờ
lạnh đến mới nở, vùng nào lạnh sớm hoa sẽ nở sớm, lạnh muộn th́ hoa nở muộn.
Giống cúc vàng thích khí lạnh hơn hết. Ở những xứ ấm trời, hoa cỏ nở một cách
tạo tác vô thời, chỉ riêng hoa Cúc là biết kỷ luật.
Hoa Cúc có mấy màu chính là vàng (hoàng), trắng (bạch), tím (tử) và hồng (cũng
được gọi là hồng):
Cúc vàng (hoàng) gồm có :
- Thẩm Hoàng = Vàng đậm
- Thiến Hoàng = Vàng nhạt
- Nha Hoàng = Vàng ngá
- Giả Hoàng = Vàng đỏ
- Phiêu Hoàng = Vàng màu da ngựa
- Hoàng Cúc = Cúc vàng
- Huyết Nha Hoàng = Ngá đỏ
Cúc trắng (Bạch) th́ có:
- Tinh Bạch = Trắng trong
- Thiển Bạch = Trắng nhạt, màu trắng nhưng không cho căm giác trong như hạt
sương
Cúc tím (tử) th́ có:
- Thâm Tử, Thiển tử = Tím đậm
- Thanh Tữ = Tím xanh
- Mạc Tử = Tím đen như mực
- Cúc hồng (hồng) th́ có:
- Chi Hồng, Tham Hồng, Thiển Hồng = Hồng như mơ
- Chu Hồng = Hồng đậm
Ngoài ra c̣n có những màu gọi là:
- Vi Lục = Phớt lục
- Vi Hoàng = Phớt vàng
- Vi Giả = Phớt đỏ
Lại c̣n có những thứ tạp sắc, cánh trước một màu, đằng sau mang một màu khác hay
là nữa bên trái và nữa bên phải khác nhau (Uyên Ương Cúc).
Lá Cúc cũng đưọc chia ra như màu thâm lục, thiển lục, nộn lục (lá lục non) thanh
lục, mặt lục, lăo lục, giả lục.
Hoàng Cúc tức Cúc Vàng có đến 34 loại, dưới đây chỉ là một vài giống qúy:
KIM TRÂN: Hoa như cái chén vàng, cánh mỏng như giấy, phía trước maù vàng nhạt
(thiển kim hoàng), phía sau ưng ửng hồng không phải loại cành rộng ống như những
loại khác. Nhị hoa tṛn, bên ngoài vàng bên trong xanh, cành có pha chút tím đỏ,
lá khi già đổ màu thẩm lục.
DẠ QUANG CHÂU hay DẠ QUANG NGỌC: Maù phấn vàng, cánh đặc biệt hơi lóng lánh
sáng. Đầu cánh hoa nhọ, ngoài nhạt, màu khác hẳn cánh trong, lúc nở trọn th́
không c̣n trông thấy nhị.
LẠC HÀ HOÀNG hay ĐẠO NHÂN Y: Màu vàng đỏ tựa như màu nắng chiều hay là màu áo
của đạo sĩ, lúc nở trọn cũng lấp cả nhị, cành lá ngắn to mập, giống Cúc nầy lấy
ở đất Dương Châu nên c̣n gọi là Duy Dương Chủng.
NGỰ BÀO HOÀNG: Màu áo vua, vàng thật đậm cánh nhọn, trước sau một màu khi vừa nở
trong tâm c̣n có một hạt sương xanh, lá lục đậm cành thanh mảnh hơi pha tím.
TRẦM HƯƠNG QUẢN: Giống cúc cánh rỗng như tùng cái ống nhỏ, ghép lại màu vàng lúa
chín, đằng sau cánh đậm, đằng trước pha đỏ, có những đường gân màu hồng.
C̣n c̣n nhiều lắm, nào là Đế Quốc Long, Bạch Ngân Câu, Túy Nguyệt, Anh Đào Lộ,
Bạch Tố Tố, Kim Câu Câu...v.v.v…Thưở xưa vạ những lúc vườn hoa nở, chủ nhân
thường mời bạn bè canh đúng ngày để rồi dù đường xa cách mấy cũng đến uống rượu
thưởng hoa. V́ thế hoa mới mang những cái tên thật diêm duá, thật nên thơ v́ hoa
đă gợi ư cho người.
Ngoài ra c̣n có rượu cúc tức Cúc hoa tửu. Đó là thứ rượu ủ với cánh hoa cúc, khi
hoa sắp tàn người ta mang nhặt bỏ những cành lá mà chỉ lấy toàn cánh hoa ủ với
men rượu và chút nước đến năm sau vào đúng ngày trùng dương tức là mồng chín
tháng chín mới mang ra uống.
Người xưa yêu hoa không nỡ vứt bỏ khi hoa tàn nên lại c̣n lấy cánh hoa, phơi khô
mang nhồi vạ gối, gọi là Cúc châm. Người nào ngũ gối hoa Cúc th́ nhất định sẽ
ngũ rất ngon và mộng rất lành. Có ai muốn bắt chước không?
(sưu tầm)
Hoa
Cúc-Vị thuốc thần tiên của đất trời
(Nguyễn
Tràng Cát)
Xưa nay phần lớn thơ - từ thưởng thức và ngâm vịnh về cúc đều nhằm vào các loại
cúc thưởng ngoạn có đóa hoa rất to. C̣n các loại cúc dùng làm thuốc th́ có hoàng
cúc, bạch cúc và cúc mọc hoang, hoa rất nhỏ, hoàng cúc có tên là hàng hoàng cúc,
có vị ngọt, hơi đắng. Bạch cúc c̣n gọi là là hào cúc, trừ cúc. Bạch cúc tính mát
vị ngọt hơi đắng, lại c̣n gọi là cam cúc (cúc ngọt). Cúc mọc hoang vị đắng tính
hàn. Hoàng cúc chủ yếu dùng chữa cảm mạo; bạch cúc dùng chữa trị cao huyết áp,
đau đầu chóng mặt, mắt mờ; cúc mọc hoang dùng để chữa trị lở loét, mắt đỏ. Hoa
cúc có chứa các thành phần long năo volatilization oil, inuli (C6H10O5),
glucoside, flavone v.v... Thực nghiệm dược lư chứng tỏ hoa cúc có thể kháng
khuẩn, kháng virus (siêu vi trùng) cảm cúm, làm giăn mạch máu, hạ thấp huyết áp,
hạ thấp mỡ trong máu. Các bài thuốc nổi tiếng có: Tang cúc ẩm, dùng hoàng cúc
chữa trị các chứng cảm mạo; Ngũ vị tiêu độc ẩm, dùng cúc mọc hoang chữa trị đinh
nhọt; Kỉ cúc địa hoàng thang, dùng bạch cúc để chữa trị chứng đau đầu, chóng
mặt, ù tai, mờ mắt; Viên hạ áp trân cúc, dùng bạch cúc để chữa trị cao huyết áp;
lượng hoa cúc làm thuốc thường dùng khoảng 10g, lượng lớn đến 30g, đem sắc uống.
Hoa cúc có thể dùng làm rau ăn, điều này cũng đă có ghi chép trong thời cổ đại,
chẳng hạn trong Sở từ của Khuất Nguyên có câu: "Tịch xan thu; cúc chi lạc anh"
(bữa cơm tối có hoa thu cúc rụng). Trong "Bản thảo cương mục" chép rằng cam cúc
"ăn sống, ăn chín đều được", "có thể nấu canh ăn"; lại cũng chép rằng "Ắn hoa
cúc lâu ngày sẽ có thể kéo dài tuổi thọ", "nhiều tóc, sinh năng", "tôn nhan sắc
đẹp lên nhiều", đồng thời cũng khen hoa cúc có 5 cái đẹp: "Hoa tṛn vành vạnh
như mặt trăng treo lơ lửng trên trời xanh; màu vàng thuần khiết không lẫn màu
vàng của đất trời; trồng th́ sớm mà ra hoa th́ muộn, giống y như đức của người
quân tử vậy; vươn lên trong sương giá tượng trưng vẻ kiên trinh, tiết tháo,
thanh tao; nước thuốc hoa cúc rót trong chén uống chẳng khác ǵ uống một thứ
nước thần tiên vậy", nó tượng trưng cho một món ăn, một vị thuốc của đất trời
chứa đầy vẻ đạo đức, tiết tháo, kiên trinh, thần tiên, được đánh giá rất cao
không có một vị thuốc nào trong trung dược có thể so sánh ngang bằng được. Trong
"Diêu khê ngư ẩn tùng thoại" thời Tống có chép "Trong vùng núi sâu ở Nam Dương,
Hà Nam, có một con suối nhỏ, nước trong veo, lại có nhiều hoa thơm quả ngọt; dọc
hai bên bờ suối đó đều được trồng kín hoa cúc, dân làng hai ba chục hộ ở đấy đều
rất thích ăn hoa cúc, uống nước suối, phần đông dân cư đều sống đến 120, 130
tuổi". "Bản thảo cương mục" cũng có những đoạn ghi chép tương tự, như dùng cam
cúc chế thành thuốc viên "băng niên phương" (thang thuốc tăng tuổi thọ), uống
vào một năm th́ tóc bạc chuyển sang đen, uống hai năm th́ răng rụng tái sinh,
uống 5 năm th́ cụ già 80 tuổi vẻ mặt sẽ rạng rỡ, phấn chấn hẳn lên. Tóm lại,
dùng hoa cúc trong ăn uống có thể có lợi cho tuổi thọ rất nhiều, điều đó đă được
ghi chép nhiều ở các sách cổ xưa; c̣n hoa cúc trồng để làm rau ăn th́ c̣n cần
nghiên cứu khai thác thêm nhiều nữa để khẳng định thêm giá trị của nó.
C̣n về cái thanh tao, cao khiết, sáng trong của hoa cúc th́ ngay từ thời Khuất
Nguyên, thời Đào Uyên Minh đến nay, các thi nhân của nhiều thời đại đều đă không
ngớt lời ngợi ca về mọi phương diện; số tác phẩm hay đẹp được truyền tụng qua
ngàn đời về hoa cúc rất nhiều. Nhưng, đối với việc hoa cúc có rụng hay không,
th́ trong số các thi nhân nổi tiếng thời Tống có một cuộc tranh luận nho nhỏ,
trở thành câu chuyện vui. Thơ vịnh cúc của Vương An Thạch có câu: "Mưa gió hoàng
hôn ngập vườn cây; hoa cúc vàng khắp đất này" (Hoàng hôn phong vũ minh viên lâm,
tàn cúc phiêu linh măn địa kim). Ấu Dương Tu cười viết: "Trăm hoa rụng tốt, c̣n
trơ cành cúc khô mọc nhĩ" (Bách hoa tận lạc, độc cúc chi thượng khô nhĩ). Tô
Đông Pha làm thơ nói khích: "Hoa cúc mùa thu không rụng như hoa xuân, đó là để
báo nhà thơ nh́n cho kỹ" (Thu anh bất tỉ xuân hoa lạc, Vi báo thi nhân tử tế
khán). Vương An Thạch nghe xong bảo rằng: "Hoa cúc mùa thu rụng là thơ của Khuất
Nguyên, lẽ nào Tử Thiêm không rơ sao?". Bản thân Tô Đông Pha cũng có câu thơ
vịnh "Dạo gót tường đông ngửi mùi hoa cúc rụng" (Man viễn đông li khứu lạc anh).
Trên thực tế, hoa cúc trong pḥng chỉ khô quắt lại chứ không rụng, nếu ở ngoài
trời mưa to gió lớn cũng có thể rụng, song "vàng khắp đất" th́ lại chỉ là lời
khuếch đại của nhà thơ mà thôi. Hoa cúc làm thuốc th́ hái vào lúc hoa c̣n chúm
chím chưa nở bung ra, dĩ nhiên, không thể là hoa rụng được.
C̣n về việc dùng hoa cúc làm ruột gối th́ thời cổ xưa cũng đă có ghi chép lại
c̣n lưu truyền trong dân gian cho đến ngày nay. Thành phần volatilization của
hoa cúc được người hấp thu từ từ qua miệng, mũi, da làm cho ban đêm người ta dễ
ngủ, đến sáng dậy th́ đầu óc tỉnh táo, mắt sáng, nét mặt rạng rỡ. Có người dùng
hoa cúc phối hợp với những vị thuốc như bạch chỉ chẳng hạn làm thành gói thuốc,
dùng để điều trị cho trên 1.000 bệnh nhân mất ngủ, đă kéo dài thêm giấc ngủ được
trên 2 giờ, tỷ lệ hữu hiệu trên 90%, không có bất cứ một phản ứng phụ nào. Đối
với người già và người huyết áp cao lại càng thích hợp. Trẻ em dùng gối thuốc
hoa cúc có thể pḥng chữa bệnh rôm sảy.
Hoa cúc có thể ứng dụng rộng răi trong việc ăn uống để chữa bệnh, như pha chế
thành đồ uống, bánh điểm tâm, làm món ăn trong bữa ăn hàng ngày. Trong thức ăn
hàng ngày dùng hoa cúc bày ở xung quanh mép đĩa, dùng cánh hoa làm món rau xào,
nước hoa cúc đem nấu canh. Hoa cúc nấu với bột cua là một trong những món ăn nổi
tiếng của Trung Quốc. Hoa bạch cúc ngâm rượu, không những màu, mùi, vị đều tốt,
uống lâu dài không những sẽ bổ ích cho cơ thể, mà c̣n có thể giải nhiệt của
rượu, có thể phối hợp dùng với cẩu khởi tử; nhưng độ rượu chỉ nên thấp thôi.
Nguyễn Tràng Cát
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
The Beatles. French Music . Nhạc Pháp . Dalida . Jaune. Ngọc Lan. Thanh Lan. Elvis Phương. Best English1
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures. Dancing Music. 2015
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Federation of Anerican Scientist
Học Viện Ngoại Giao
Người Việt Seatle