MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News

v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 LỜI TÁC GIẢ

 

Đây chỉ là một sự cố gắng nhằm giải đáp cho nhiều người Mỹ hai câu hỏi khá phức tạp và tiếp liền nhau: “Tại sao Việt Nam?” và “Cái ǵ đă xảy ra ở Đông Dương vào năm 1945?”.
Lịch sử viết về thời kỳ đó hiển nhiên c̣n có một khoảng trống mà cuốn sách này hy vọng có khả năng góp phần bù đắp được. Các bản tường thuật thiên vị hoặc rời rạc của người Pháp và người Việt cũng đă không tŕnh bày nổi một cách khách quan vai tṛ của nước Mỹ trong giai đoạn lịch sử bi thảm của Pháp, Việt và Mỹ này.
Trong nhiều năm qua, các nhà chức trách Washington cũng đă tốn rất nhiều lời giải thích cho những câu hỏi dai dẳng về việc dính líu của người Mỹ chúng ta vào Việt Nam. Một số những lời giải thích đó đă không làm thoả măn được ai và đă bị rơi rụng dần v́ không đáng tin cậy. Số c̣n lại, đă từng được dùng làm chứng cứ cho lập luận rằng chúng ta phải ở đấy để giành lấy “hoà b́nh trong danh dự” cũng đă bị vứt bỏ qua sự kiện 30/04/1975. Các bản tuyên bố chính thức của Nhà Trắng, các tập hồi kư muộn mằn của các Tổng thống và các cố vấn thân cận của họ, các bản thuyết tŕnh dày cộp ở Quốc hội mà nổi bật là tập hồ sơ Lầu Năm Góc “phơi trần mọi việc”; tất cả chỉ cố gắng nhằm biện bạch cho việc sa lầy càng ngày càng lún sâu của chúng ta và cũng chỉ có tác dụng bôi mờ, che giấu những mục tiêu cơ bản thực sự của chúng ta bằng những lập luận mơ hồ, những lời biện hộ và xác nhận sự bất hạnh của người Mỹ chúng ta ở đó.
Là một bản tường thuật trực tiếp về sự có mặt đầu tiên của người Mỹ ở Đông Dương, “Tại sao Việt Nam?” ít ra cũng đáp lại được phần nào câu hỏi tại sao người Mỹ chúng ta đă ở đó, đồng thời lại cho thấy những chủ trương cao siêu cua những năm 1940 đă làm chúng ta xa rời những t́nh cảm đă được diễn đạt một cách cao thượng trong Hiến chương Bắc Đại Tây Dương - các dân tộc có quyền tự do lựa chọn Chính phủ ḿnh muốn và phải được trả lại chủ quyền, quyền tự trị đă bị tước đoạt. Cuốn sách cũng không phải là một lời bào chữa hoặc một bản án kết tội ai mà chỉ là một sự tŕnh bày thẳng thắn các sự kiện đúng như chúng đă diễn ra và được tác giả ghi lại theo ḍng thời gian. Từ những sự việc được dẫn chứng, người đọc có thể tự rút ra những kết luận riêng của ḿnh.
Từ đó đến nay, cả một thế hệ con người đă trôi qua nên trong phần I của bốn phần của cuốn sách này, tôi thấy cần phải nhắc đến bối cảnh t́nh h́nh từ đầu năm 1942 đến thời điểm 1945. Phần II dành nói về các kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc giao dịch với người Pháp, Trung Hoa và Việt Nam ở Trung Quốc và cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Hồ Chí Minh. Phần III thuật lại việc phái đoàn của tôi tới Hà Nội, vai tṛ của tôi trong công tác đối với người Nhật, Pháp và Việt. Phần này tả lại thời kỳ sôi động Tháng Tám, Tháng Mười 1945, việc nảy sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa độc lập đầu tiên, sự thất bại trong mưu toan của người Pháp định trở lại kiểm soát Đông Dương, cuộc chiếm đóng tàn phá của người Trung Hoa, cái chết của trung tá A. Peter Dewey, người Mỹ nạn nhân đầu tiên ở Việt Nam và việc đầu hàng chính thức của Nhật Bản. Phần IV “Hậu quả” nêu lên những điểm nổi bật trong chính sách sau Thế chiến thứ hai của Mỹ, chính sách đă đưa đến sự dính líu trực tiếp của chúng ta vào Việt Nam và sơ lược tóm tắt những vấn đề tồn tại mà chúng ta c̣n phải đương đầu.
Khi kể lại các cuộc nói chuyện riêng giữa tôi với Hồ Chí Minh, tôi chỉ muốn chuyển đến người đọc một vài suy nghĩ sâu sắc nhất của tôi về nhà cách mạng bí ẩn đó cùng với những khát vọng đối với nhân dân, đối với tiền đồ đất nước Việt Nam mới mẻ của ông. Đă có nhiều người Việt Nam coi cuộc rút lui vừa qua của can thiệp quân sự Mỹ ở Việt Nam như là trận thất bại cuối cùng của Chủ nghĩa thực dân trên đất nước họ. Nhưng từ 1945, Hồ Chí Minh đă thấy rất rơ rằng dân tộc của ông sẽ c̣n vấp phải vô vàn khó khăn trong sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của kẻ thù.
Điều mong muốn lúc đó của ông Hồ để Mỹ giữ một vai tṛ hoà b́nh và ổn định trong công cuộc phát triển đất nước ông, chưa bao giờ thể hiện xác đáng như hiện nay. V́ vậy trong khi chúng ta đang c̣n tiến từng bước ngập ngừng và chậm chạp trong việc lập quan hệ b́nh thường với nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam, rơ ràng là đă đến lúc phải xem xét lại các nhận định cơ bản của chúng ta và xác định xem thực sự lợi ích tối cao của người Mỹ chúng ta là ở đâu.
Người đọc có thể hỏi ngay tại sao đến nay tôi mới thuật lại câu chuyện này. Từ năm 1946, tôi đă phác thảo ra một bản tường thuật ngắn gọn về thời kỳ này nhưng c̣n vướng nhiều điều ràng buộc khác nên đành phải bỏ dở. Sau sự sụp đổ của Pháp ở Điện Biên Phủ, bản thảo của tôi cũng đă sẵn sàng để được cho in nhưng lúc đó đă là quá muộn. Đất nước chúng ta bị lôi cuốn vào t́nh trạng rối ren của thời kỳ chủ nghĩa chống Cộng điên cuồng Mac Carthy hoành hành. Bộ Lục quân rất nhạy cảm với những lời phê phán thù địch của giới quân sự đối với chính sách đối ngoại của Mỹ, đă thông báo cho biết rằng việc tiết lộ công khai mọi tin tức hoặc ư kiến của tôi về vấn đề dính líu của Mỹ vào Việt Nam sẽ không làm cho chính quyền hài ḷng và tôi có thể sẽ bị kỷ luật. Tôi phản đối nhưng vẫn phải chấp hành lệnh cấm của Bộ.
Chỉ sau khi quân đội ta đă rút hết khỏi Việt Nam vào tháng 3-1973, tôi mới tập hợp lại các bản ghi chép cũ trong thời kỳ chiến tranh và dựng lại các sự kiện và t́nh huống, các chính sách và các hoạt động ban đầu của Mỹ ở Đông Dương. Công việc thu thập tài liệu khá phức tạp v́ nhiều bức điện và báo cáo của tôi đă bị phân tán ở các cơ quan lưu trữ Bộ Ngoại giao, Bộ Lục quân và Cục T́nh báo Trung ương. Việc sưu tầm những tài liệu đó ở Bộ Lục quân đă không mang lại kết quả. Nhưng ở Bộ Ngoại giao và Cục T́nh báo Trung ương CIA th́ mọi thứ c̣n gần như nguyên vẹn và các tài liệu đă rất có ích cho tôi. Ở đây tôi xin tỏ lời cám ơn sự giúp đỡ tận t́nh của R.M. Blum, nhân viên Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội của nghị sĩ Fulbright, R. Spector thuộc Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Quân sự của quân đội Mỹ và Gail F. Donnalley, nguyên cán bộ lưu trữ Cục T́nh báo Trung ương. Sự giúp đỡ của họ đă giúp tôi t́m thấy được những tài liệu gốc, nguyên bản, các bản viết tay, các hồ sơ thông báo, gồm cả tập “Những quan hệ Mỹ - Việt Nam”, tập Romanus - Saunderland nói về các hoạt động của Mỹ ở Trung Quốc, Miến Điện, Ấn Độ, hồ sơ của OSS/SSU - những tài liệu vô cùng quí giá cho bản thảo 1946 của tôi.
Quyển sách cũng sẽ không thể có được nếu như không có sự ủng hộ và giúp đỡ hào hiệp, được đánh giá cao của các bạn đồng nghiệp của tôi trong Chính phủ Liên bang, Viện Hàn lâm, những chuyên gia kỳ cựu về Đông Dương mà ở đây tôi chỉ nêu lên được một số tên. Tôi đă được sử dụng rộng răi các tập hồ sơ lưu trữ quốc gia Mỹ, Thư viện Quốc hội, các phương tiện của Trung tâm Thư tín Quốc gia Washington ở Suitland, thư viện Mill Memorial ở Rollins College... Tôi đặc biệt cảm ơn F.E Taylor, cán bộ lưu trữ ngành Quân sự hiện đại trong sở Lưu trữ Quốc gia, P. Dowling, cán bộ lưu trữ ngành Ngoại giao, Sở Lưu trữ Quốc gia. J.L. Mc Farland, phụ trách thư viện Mill Memorial... và nhiều người khác đă giúp tôi rất nhiều trong việc kiên tŕ xác định, sưu tầm và cung cấp cho tôi những văn kiện quân sự chủ yếu, hồ sơ của Bộ Ngoại giao, tài liệu tham khảo trong thư viện Quốc hội.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn Mai van Elliot, Gareth Porter, Ngô Vinh Long và Trương Đ́nh Hùng đă khéo léo giúp tôi làm sáng tỏ những điều rối ren trong nền chính trị và xă hội Việt Nam. Tôi đánh giá rất cao và đặc biệt cảm ơn ba nhân vật đă bảo trợ, khuyến khích giúp dỡ tôi: Elizabeth Mc D. Mc Jintosh, đồng sự và bạn chiến đấu của tôi ở Trung Quốc đă góp ư kiến cho bản thảo đầu tiên, Ch.E. Cuningham khi làm Tổng biên tập Nhà xuất bản trường Đại học Washington đă giúp tôi xử lư và sử dụng một cách có hiệu quả một số lớn tài liệu, A. Wang, Giám đốc nhà xuất bản Hill và Wang, đă soát lại bản thảo thứ ba và đă khích lệ tôi rất nhiều.
Tôi hân hạnh nhắc tới sự giúp đỡ to lớn của nhân viên Nhà xuất bản Đại học California, đặc biệt là trợ lư giám đốc Stanley Holwitz đă giúp tôi nhiều trong việc soát lại và và làm dễ dàng việc ấn hành cuốn sách này.
Sau hết, xin cảm ơn Margaret, vợ tôi, người đă chép lại các bản thảo từ bản đầu tiên đến bản thứ năm và bản cuối cùng luôn luôn với một phong cách riêng, trong sáng và sâu sắc, cảm ơn con gái Julie của chúng tôi đă bỏ thời gian nghỉ hè để sắp xếp các bản phụ lục. Đối với hai mẹ con phải chịu đựng nhiều bận rộn, phiền hà trong sinh hoạt gia đ́nh với từng chồng sách vở, tài liệu, bản đồ đuợc bày ra, tôi thân ái mến tặng cuốn sách này.


Archimedes Patti

PHẦN I - WASHINGTON
Chương 1
Mở đầu một kỷ nguyên

Tôi ở Côn Minh, Trung Hoa ngày 7-8-1945, khi tin điện truyền đi khắp thế giới rằng nước Mỹ đă ném một “quả bom nguyên tử” xuống Hiroshima. Hai ngày sau, Liên Xô tuyên bố tham chiến chống Nhật vào ngày 9-8. Và cũng vào ngày đó, chúng ta ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống Nagasaki. Đối với chúng tôi, những người đang chuẩn bị những cuộc hành quân rộng lớn chống Nhật, thật là sửng sốt khi nhận thức được rằng đó là sự báo hiệu kết thúc chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày hôm sau, 10-8, thế giới được tin Bộ Ngoại giao Mỹ đă chấp nhận đề nghị đầu hàng của Nhật theo các điều khoản Potsdam không làm tổn hại đến ngôi Thiên hoàng.
Trong niềm vui to lớn đó, chúng tôi tin là chiến tranh đă chấm dứt đối với người Mỹ, với tất cả những người châu Á, và do đó với mọi người. Chúng tôi đă không hiểu được rằng những cuộc chiến tranh mới để giành quyền lực, giành sự thống trị hay giành độc lập đă có thể ập đến gần như ngay tức khắc và cuộc sống của hàng triệu người lại bị cuốn sâu và ngay lập tức vào các cuộc chiến tranh đó như ở Trung Hoa, Ấn Độ, Indonésia và Măn Châu và chỉ v́ một số ít người.
Trận cuối cùng trong Thế chiến thứ hai được trả giá khoảng một triệu rưỡi sinh mạng con người(1), và trận đánh đă trở thành cuộc đụng đầu dài nhất trong lịch sử hiện đại được bắt đầu ngay, không phải từ ở những thủ đô lớn của thế giới mà tại một ngôi làng nhỏ bé trong rừng không ai biết đến mang tên là Tân Trào, nơi đây đă tiến hành Đại hội bất thường của các đảng phái chính trị Việt Nam từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 8 năm 1945. Tại Đại hội này, họ tuyên bố quyết tâm giành độc lập và bầu Hồ Chí Minh làm lănh tụ của ḿnh. Do hoàn cảnh mà tôi đă được có mặt tại nơi trung tâm các sự kiện đang diễn ra.
Khi binh lính Mỹ ở Côn Minh và ở Trung Hoa ăn mừng chiến thắng Nhật th́ Bộ chỉ huy quân đội Đồng minh ở Trung Hoa đă quyết định mở một số cuộc hành quân quan trọng sau cuộc đầu hàng. Cơ quan công tác chiến lược(2) đă nhận được chỉ thị của Chiến trường Trung Hoa yêu cầu phải thi hành một trong nhiều nhiệm vụ được giao là giải phóng các tù binh chiến tranh(3) của Đồng minh đang bị Nhật giam giữ tại một số trại ở Trung Hoa, Măn Châu và Triều Tiên, c̣n ở Đông Dương th́ không. Tới ngày 10-8, đại tá Riehard P. Heppner, chỉ huy t́nh báo chiến lược tại Chiến trường Trung Hoa đă cho xúc tiến các kế hoạch đánh bất ngờ do OSS chuẩn bị nhằm giải phóng và bảo vệ các tù binh chiến tranh của Đồng minh. Một số đội Mercy của OSS được nhảy dù xuống các trại tù binh của Nhật để bảo vệ tù binh của chúng ta và trả về cho Đồng minh kiểm soát. Vài ngày sau, các đội này đă được nhanh chóng đưa đến Mukden (nơi tướng Wainwright(4) bị giam giữ) rồi Bắc Kinh (nơi thủy quân đảo Wake và những phi công lái máy bay trận tập kích Doolittle bị giam giữ) và các trại khác.
Sau một cuộc thảo luận quan trọng, Heppner thuyết phục tướng A.C. Wedemeyer(5), Tổng chỉ huy các lực lượng của Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa rằng một đội Mercy cần được đưa sang Hà Nội và Đông Dương, nơi có đến vài ngh́n tù binh (Mỹ, Anh, Úc, Ấn Độ và Pháp) đang bị giam giữ. Tôi phụ trách đội đến Hà Nội. Ngoài ra tôi c̣n được giao những nhiệm vụ khác như: chuẩn bị sơ bộ cho việc giải giáp quân Nhật ở Đông Dương, chịu trách nhiệm điều tra tội ác chiến tranh và báo cáo tin tức t́nh h́nh chính trị, quân sự và kinh tế.
Ít tuần lễ sau, Hồ Chí Minh đă nói với tôi về một chính sách “tiêu thổ” đối với Việt Nam sau khi ông có linh cảm về điều đó. Nhưng lúc bấy giờ cả ông và tôi đều không lường hết tầm lớn lao của cuộc xung đột sắp xảy ra cũng như sự phân hoá mà nó có thể gây ra trong đời sống của người Mỹ và trong chính thể nước Mỹ.
Vào một buổi chiều nóng ẩm, chúng tôi đă gặp nhau để thảo luận việc bảo đảm an toàn cho những người Pháp sống ở Hà Nội, Hải Pḥng và một số thành phố khác trên miền Bắc; nhưng, như ông đă thường làm trong những lần gặp trước, ông đă lái câu chuyện sang yêu cầu cấp bách của ông về sự ủng hộ của Mỹ cho nền độc lập của Việt Nam - và một lần nữa, tôi lại trả lời rằng vấn đề ấy không thể giải quyết vào thời điểm này và cần phải được xem xét và giải quyết sau chiến tranh qua hội đàm giữa Hà Nội và Paris hoặc có thể ở Liên Hợp Quốc. Ông Hồ im lặng một lát, đoạn hạ giọng nhưng với sự quả quyết sâu sắc, ông nói rằng nếu người Pháp cố t́nh trở lại Việt Nam “như là những tên đế quốc để bóc lột, tàn sát và giết hại đồng bào tôi”, ông dám khẳng định với họ và thế giới rằng - đất nước Việt Nam có thể biến thành tro bụi, điều đó thậm chí có nghĩa là đối với tất cả cuộc sống của mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con, chính sách đó của Chính phủ ông cũng sẽ là một trong những chính sách “triệt để tiêu thổ đến cùng”. Lời nói này đă được phát ra từ một con người biết tự chủ trong cách nói cân nhắc về ngoại giao nên tôi hiểu đó không phải là một lời đe doạ vẩn vơ, và đến nay tôi vẫn c̣n nhớ như in trong óc.
Buổi nói chuyện đó của chúng tôi ở Hà Nội, vào lúc các cuộc giao chiến đă chấm dứt nhưng trước khi người Nhật ở Đông Dương đầu hàng, và cũng trước khi các lực lượng quân sự Trung Hoa kéo đến để tiếp nhận sự giải giáp quân Nhật và điều khiển việc hồi hương của họ.
Trong 6 tháng trước đó, tôi là người chỉ huy công tác t́nh báo bí mật của cơ quan mật vụ(6) thuộc OSS ở Đông Dương và đóng ở Côn Minh. Tôi đă cảm nhận đôi điều tai họa về tính không khoan nhượng của Pháp về qui chế của Đông Dương, một thái độ làm cho tương lai không tránh khỏi rắc rối. Có những khoảnh khắc mà chỉ cần một bước nhỏ trong hướng đi cũng có thể làm thay đổi một tiến tŕnh lịch sử.


Chú thích :

(1) Khoảng 60.000 người Pháp, 56.000 người Mỹ và 1.500.000 người Việt Nam
(2) OSS: Office of Strategic Services
(3) POW: Prisoners of War
(4) tướng Jonathan Mayhew Wainwright (1883-1953), nguyên tư lệnh quân Mỹ tại Philippin, là tù binh Mỹ cao cấp trong tay quân Nhật (1942-1945), sau được toán Mercy (toán công tác Cardinal) do thiếu tá R.F. Lamar chỉ huy giải thoát. Tướng Wainwright cũng là người bên cạnh tướng Mac Arthur trong buổi lễ tiếp nhận quân Nhật đầu hàng ngày 2-9-1945 trên chiến hạm Missouri.
(5) tướng Albert Coady Wedemeyer (1897-1989), tư lệnh quân Mỹ, kiêm tham mưu trưởng lực lượng Đồng minh trên Chiến trường Trung Hoa (1944-1946)
(6) SI: Secret Intelligence

Chương 2
“…Nếu Trung Quốc thất bại...”

Hồi tưởng lại cũng thấy kỳ quặc, v́ lần đầu nhận được sự gợi ư điều tôi sang Đông Dương khi bóng tối bao trùm trên chiếc ghế lạnh của chiếc tầu đổ bộ Mỹ lắc la lắc lư gần băi biển Anxio nước Ư. Tất nhiên vào những lúc ấy hoàn toàn không phải là việc không b́nh thường cho những cuộc thảo luận quan trọng tại những nơi mà không có lấy một chỗ ngồi - nó hoang vắng, một lâu đài bị bom đạn phá huỷ, một băi biển bùn lầy, hoặc bất cứ đâu. Đó là chiến tranh.
Vào tối ngày 21-1-1944, một nhóm chúng tôi ngồi xổm xung quanh tướng William J. (Wild Bill) Donovan, chỉ huy của OSS. Nhóm này có cả một vài chuyên viên hoạt động bí mật, đại tá John.T.Whitaker(1) và tôi. Donovan đă thảo luận các hoạt động ở Ư, Balkan và ở Pháp rồi tóm tắt lại cho chúng tôi về các kế hoạch của OSS cho cuộc hành quân Overlord, vượt eo biển vào chiếm Pháp. Ông khuyên Whitaker và tôi nên đi trước Overlord để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt ở Viễn Đông. Ông không gặp khó khăn mấy trong việc hoàn chỉnh tổ chức các đội hoạt động ở châu Âu nhưng đối với chúng tôi th́ ông nhắc thêm là cũng có nhiều rắc rối. Chúng tôi đồng ư nhưng muốn biết kỹ hơn. “Sau khi chúng ta chiếm Rome”, Donovan chỉ trả lời gọn lỏn như vậy. Một giờ sau nửa đêm, sáng ngày 22, chúng tôi đổ bộ vào bờ biển Anxio.
Cái ǵ đang chờ đợi được diễn ra trong cuộc dạo chơi ngắn ngủi 25 dặm đến Rome để thay cho một cuộc hành tŕnh đẫm máu trong 5 tháng mới tới được thủ đô nước Ư. Quân đội chúng ta đă không tiến vào các phố xá của Rome trước ngày 4-6, đúng 2 ngày trước khi đổ bộ vào đất Pháp. Nhưng dù sao th́ vào hạ tuần tháng 6, tôi cũng đă được rút khỏi Chiến trường Địa Trung Hải và trên đường về Washington.
Whitaker gặp tôi tại địa điểm liên lạc và chúng tôi lái xe đến thẳng hiệu ăn Harvey, nơi tướng Donovan đang đợi tại một chiếc bàn khuất lối. Ông cho sửa soạn một bữa ăn trưa để họp nhằm tránh sự ngắt quăng như ở nhiệm sở. Tại đó, lần đầu tiên tôi biết rằng Donovan đă chọn tôi để cầm đầu một nhiệm vụ của OSS ở Đông Dương.
Trong mùa hè 1944, chiến tranh ở châu Âu diễn ra ác liệt và ở đó c̣n nhiều trận phải giành được chiến thắng nhưng ở đó đă có một mục đích lớn chung cho tất cả và không khí tràn đầy lạc quan. Bức tranh ở Viễn Đông lại hoàn toàn khác. Cuộc xung đột nhiều mặt v́ những lợi ích khác nhau chống lại sự thống nhất của Đồng minh. Tâm trạng ở Washington, London và Trùng Khánh là thất vọng. Ở Trung Quốc, Nhật kiểm soát hết các đường giao thông trên đất liền, ngoài biển và hầu hết các khu thành thị - công nghiệp nhưng không kiểm soát được các nông thôn rộng lớn chung quanh. Ở đó đang diễn ra cuộc chiến tranh phân liệt giữa các lực lượng gọi là Quốc gia của Tưởng Giới Thạch và những người Cộng sản của Mao Trạch Đông. Cuộc đấu tranh huynh đệ tương tàn này bị bọn quân phiệt có thế lực làm phức tạp thêm; bọn này lúc kết cấu với bên này lúc lại chuyển sang phía kia và là những kẻ mà bất luận trong tinh huống nào cũng không chịu phục tùng hoàn toàn đối với những nhà cầm quyền Chính phủ Trung ương của Tưởng. V́ những lư do trên nên các lực lượng vũ trang của Trung Quốc không thể sánh được với các lực lượng có kỷ luật và được tổ chức tốt của phương Tây.
Sự thiếu thống nhất giữa các nước Đồng minh ở Viễn Đông bộc lộ rất sớm. Sự sụp đổ của Singapore vào tháng 2-1942, tiếp theo là thảm hoạ ở Miến Điện đă làm tổn thương niềm kiêu hănh dân tộc của nước Anh một cách nhanh chóng. Churchill, con người được thừa nhận là kẻ đứng đầu trong việc đề cao vị trí của nước Anh trong khu vực thuộc địa ở Đông Nam Á đang lo lắng đến sự an ninh của Ấn Độ. Ông ta coi Miến Điện là thành lũy cuối cùng cần phải giữ với bất cứ giá nào. Tất nhiên những ưu tiên tối thượng của ông ta luôn luôn vẫn là đảm bảo cho nước Anh tồn tại và là chiến lược “Châu Âu trước hết”.
Tưởng Giới Thạch càng lo lắng trực tiếp hơn đối với cuộc chiến đấu ở Miến Điện v́ đó là vấn đề bảo vệ biên giới của ông ta và bảo đảm cho bản thân ông luồng tiếp tế theo chương tŕnh “Vay-Mượn” từ nước Mỹ.


ROOSEVELT – CHURCHILL - TƯỞNG


Tổng thống Roosevelt đồng t́nh với chiến lược “Châu Âu trước hết” của Anh nhưng muốn Churchill có một lập trường hiệu quả hơn ở Viễn Đông. Mấy năm qua, chúng tôi đă cam kết ủng hộ Tưởng trong cuộc đấu tranh chống tham vọng Liên Á của Nhật và Trung Quốc đă bị ép rất mạnh. Roosevelt sợ rằng Nhật tăng cường nỗ lực ở Trung Quốc, nắm lấy sự kiểm soát quân sự ở đó, và Trung Quốc có thể sụp đổ với nhũng hậu quả về chiến lược không lường hết được.
Tổng thống đă bộc lộ sự lo lắng đó vào đầu năm 1942 với con trai của ḿnh, Elliot khi ông hỏi: “... Nếu Trung Quốc thất bại, theo con th́ có bao nhiêu sư đoàn lính Nhật sẽ rảnh tay - để làm ǵ? Chiếm nước Úc, chiếm Ấn Độ - và điều đó sẽ giống như một quả mận đă chín mùi chỉ c̣n chờ được hái. Tiến quân thẳng vào Trung Đông... một cuộc bao vây gọng ḱm rộng lớn của người Nhật và Đức quốc xă, gặp nhau ở một nơi nào đó ở Cận Đông, cắt đứt hoàn toàn người Nga, chia cắt Ai Cập, cắt toàn bộ các đường giao thông liên lạc qua Địa Trung Hải? Chúng ta làm thế nào để tiếp tế cho Trung Quốc?... Con đường Miến Điện – và nếu nó bị sụp đổ?... Ấn Độ? Vậy đó!”.
Sau này, trong một cuộc thảo luận giữa ông với Elliot, Roosevelt nói thêm: “Điều mà chúng ta biết là thế này: Người Trung Quốc đang giết người Nhật và người Nga đang giết người Đức. Chúng ta cứ để cho họ tiếp tục, cho đến khi quân đội và hải quân của ta sẵn sàng giúp đỡ được”.
Churchill cho rằng cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) có thể kéo ngược lại sự ủng hộ của Mỹ đối với các nước Đồng minh châu Âu và Churchill đă nhanh chóng đến gặp Roosevelt tại Nhà Trắng ngay trong ngày Noel 1941. Vấn đề cơ quan chỉ huy thống nhất của Đồng minh ở Viễn Đông đă được đưa ra thảo luận và Bộ Chỉ huy Mỹ, Anh, Hà Lan và Úc (ABDACOM) thuộc quyền chỉ huy của tướng Archibald P. Wavell đă nhanh chóng được thành lập. Cơ cấu chỉ huy mới đă loại Trung Quốc ra ngoài v́ Roosevelt và Churchill đều nhất trí rằng Tưởng Giới Thạch có thể chống lại bất cứ sự kiểm soát nào của nước ngoài trên lănh thổ của Trung Hoa.
Tuy vậy, Roosevelt v́ những lí do chiến lược và chính trị vẫn lo lắng về việc giữ Trung Quốc trong chiến tranh và thuyết phục Churchill cũng nên để cho Tưởng có một địa vị chính thức trong các nước Đồng minh. Người Anh tán thành đề nghị đó của tổng thống, nhưng với điều kiện là không để Trung Quốc tham gia Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp (CSS). Kết quả cuối cùng là lập ra Chiến trường Trung Hoa riêng biệt, đặt dưới quyền chỉ huy của TưởngThống chế, bao gồm cả những phần đất như Thái Lan và Đông Dương lúc đó vẫn do Đồng minh chiếm đóng, nhưng không có Miến Điện. Tưởng được mời làm Tư lệnh tối cao Đồng minh, có một Bộ Tham mưu Đồng minh giúp việc.
Thấy có lợi về chính trị và chiến lược, Tưởng chấp nhận vai tṛ độc đáo của một tư lệnh Đồng minh “độc lập” chỉ chịu trách nhiệm với chính ḿnh và yêu cầu Mỹ gửi sang một sĩ quan cao cấp người Mỹ để giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu Đồng minh ở Trùng Khánh. Nhưng chỉ trong ít tuần, Wavell và Tưởng đă xung đột với nhau về vấn đề kiểm soát và phân phối hàng chi viện Vay - Mượn ở Miến Điện và về phương hướng trung tâm của chiến lược Đồng minh ở Viễn Đông. Mối hằn thù của họ đă làm suy yếu sự thống nhất của Đồng minh và là thảm họa đe dọa các mục tiêu quân sự của Mỹ cả ở Viễn Đông lẫn Thái B́nh Dương.
Gần như tiếp ngay sau đó, các cuộc tiến công nhanh chóng của quân đội Nhật chống người Anh và người Trung Hoa đă đặt ra cho tam cường vấn đề là phải cải tổ lại cơ cấu chỉ huy của họ. Trong ṿng không đầy 2 tháng, ABDACOM của tướng Wavell bị tê liệt và đúng như nhận định của Churchill lúc trước cho rằng Tổng thống Mỹ phải có nhiệm vụ chủ yếu là làm việc với Trung Quốc trong tất cả mọi mặt và toàn bộ Thái B́nh Dương (kể cả Trung Quốc) phải được đặt dưới quyền chỉ huy của Mỹ, mặc dù Tưởng vẫn c̣n nắm quyền điều hành tác chiến ở Trung Quốc. Wavell được cử giữ chức “Tư lệnh tối cao Ấn Độ”, có trách nhiệm về hành quân tác chiến ở Miến Điện. Phạm vi trách nhiệm của Anh được vạch ra từ Singapore đến bao gồm cả Trung Đông.

STILWELL NHẬP CUỘC

Theo yêu cầu của Tưởng muốn một người Mỹ làm tham mưu trưởng Bộ Tham mưu Đồng minh, tướng Marshall đă chỉ định thiếu tướng Joseph W. Stilwell(2) vào chức vụ đó. Ngày 6-3-1942, Stilwell được phái đến chỗ Tưởng với hàm trung tướng vừa mới được phong. Ông đă được Tưởng Thống chế và phu nhân tiếp đón thân mật ở Trùng Khánh, nhưng cũng ở đây ông đă thấy rơ được sự quan tâm của Tưởng đối với vấn đề chỉ huy ở Miến Điện và những khó khăn trong quan hệ Trung - Anh. Điều ngạc nhiên đối với ông là Tưởng tuyên bố rằng Stilwell chỉ là tham mưu trưởng các lực lượng Đồng minh (tức là Mỹ - Anh) mà thôi chứ không phải của quân đội Trung Quốc.
Điều này đă đặt Stilwell vào một t́nh thế khó khăn từ những buổi ban đầu. Tưởng chọn và giữ lại một người bạn tin cậy cũ của ḿnh, tướng Hà Ứng Khâm (Ho Yingchin) làm Tham mưu trưởng các lực lượng Trung Quốc. Stilwell đă được cử sang Trung Quốc để nhằm giúp Tưởng hoàn thành các nhiệm vụ của Tư lệnh Tối cao của một chiến trường Đồng minh, đă nhận thấy quyền lực của ḿnh bị cắt xén đi quá nhiều. Ông cũng thấy ra được rằng ḿnh làm cho một con người tự do và những quan niệm về lợi ích của Trung Quốc của người đó th́ không phải lúc nào cũng phù hợp với lợi ích của người Anh và Mỹ. Khi có sự khác nhau xảy ra, Stilwell đă phải đóng vai trung gian dung hoà giữa những ư muốn của Tưởng với tư cách là chỉ huy một Chiến trường Đồng minh độc lập với những chỉ thị quân sự của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (Mỹ) và hỗn hợp (Anh - Mỹ).
Stilwell c̣n đảm nhận thêm ba chức vụ khác nữa: Tổng chỉ huy các lực lượng quân đội Mỹ ở Trung Quốc, Miến Điện và Ấn Độ (CBI); đại diện quân sự của Tổng thống Mỹ ở Trùng Khánh, và trách nhiệm phân phối toàn bộ đồ viện trợ chương tŕnh “Vay - Mượn”. Việc phân phối hàng tiếp viện “Vay - Mượn” đă thường xuyên gây nên sự tranh chấp gay gắt.
T́nh trạng lộn xộn và giẫm đạp lên nhau này kéo dài măi cho đến tháng 8-1943 mới chấm dứt khi Tổng thống, Thủ tướng và các Tham mưu trưởng của họ gặp nhau ở Quebéc để họp hội nghị Quadrant. Lần đầu tiên những người tham dự hội nghị đă hoàn toàn nhất trí với nhau về kế hoạch đánh bại Nhật Bản. Họ đă đi đến kết luận dùng Trung Quốc làm một căn cứ cực tốt cho các cuộc tập kích đường không vào các cứ điểm pḥng thủ của Nhật Bản, các đường giao thông dẫn đến các biển phía Nam và cho cuộc xâm chiếm chính quốc Nhật.
Kế hoạch của họ dự tính một cuộc tiến công bằng hai mũi từ phía đông và tây để chiếm lấy khu vực Quảng Đông – Hongkong. Mũi tiến công phía đông có lực lượng không lục hải quân phối hợp, lần lượt đánh chiếm các đảo để cuối cùng tập trung mở một cuộc tấn công thuỷ bộ vào bờ biển Trung Quốc. Từ phía tây, các lực lượng của Tưởng theo đường bộ tiến ra gặp các đạo quân Đồng minh đổ bộ vào đất liền. Sau đó hai cánh quân sẽ đánh lên phía Bắc Trung Quốc. Mốc thời gian cho các cuộc hành quân vào chính quốc Nhật Bản được ấn định vào năm 1947.
Cũng như các lần trước, sự bất đồng giữa người Anh và người Mỹ lại nổ ra về vấn đề các cuộc hành quân ở Miến Điện, điểm then chốt đảm bảo sự thực hiện thành công của chiến lược mới được đưa ra. Người Mỹ chủ trương ngay sau khi đánh được quân Nhật khỏi miền bắc Miến Điện th́ cấp thiết phải tiến quân về phía nam, chủ yếu để mở thông cảng Rangoon, tăng thêm ḍng tiếp vận cho Trung Quốc. Người Anh lại có ư định giành lại Sumatra để lấy làm bàn đạp đánh chiếm lại Singapore và bán đảo Mă Lai. Do dó họ thích đi ṿng và bỏ qua Rangoon.
Các Tham mưu trưởng liên quân Mỹ mặc dầu đồng ư cho các phương hướng tiến công nói chung trong kế hoạch của Anh là đúng đắn nhưng trong thâm tâm họ lại sợ người Anh có thể tính toán đến một cuộc thương lượng hoà b́nh với Nhật Bản và như thế th́ sẽ bỏ mặc cho người Mỹ chiến đấu đơn độc ở Thái B́nh Dương. Họ đă chống lại bằng cách đưa ra đề nghị nhằm thực hiện một kế hoạch cấp tốc đánh đuổi quân Nhật ra khỏi Miến Điện, bảo vệ các đường tiếp vận ở bắc Miến Điện, củng cố cảng Rangoon và ấn định thời hạn đánh bại Nhật là 12 tháng sau khi Đức sụp đổ. Đề nghị của người Mỹ về một chiến dịch tấn công cấp tốc hướng trực tiếp thẳng ngay vào chính quốc Nhật đă bị người Anh bác bỏ một cách quyết liệt. Đối với họ, một thắng lợi sớm ở châu Âu và việc cứu văn đế quốc thuộc địa của họ ở Viễn Đông c̣n quan trọng hơn nhiều so với việc trước mắt Nhật Bản bị đánh bại.
Nỗi bực tức gây ra v́ những sự bất đồng đó đă được phản ảnh trong nhật kư của huân tước Alanbrooke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Hoàng gia Anh viết ngày 1-10-1943, như sau:
“Một buổi sáng đấu nhau dồn dập với COS(2) tới măi 12 giờ trưa; sau đó họp với P.M(3), các tham mưu trưởng, Dickie Mountbatten và Pownall. Cuộc họp đă dẫn đến một trận đấu căng thẳng kéo dài một tiếng đồng hồ giữ tôi và P.M về vấn đề rút quân từ Địa Trung Hải để bổ sung cho cuộc tấn công ở Ấn Độ Dương. Tôi từ chối việc làm suy ưêu tiềm năng các lực lượng đổ bộ tổng hợp ở Địa Trung Hải để nhằm tổ chức trận tập kích táo bạo cho Mountbatten đánh vào Sumatra. Ngược lại, P.M lại sẵn sáng phá bỏ chính sách cơ bản của chúng ta và đặt Nhật lên vị trí trước cả Đức. Nhưng, cuối cùng tôi đă đánh bại hầu hết những ư đồ của ông ta”
Mối đe doạ mới ở Viễn Đông, đặc biệt là các hoạt động tác chiến ở Ấn Độ Dương và bắc Sumatra đă thu hút sự quan tâm của Churchill nhưng ông ta vẫn không chịu chấp nhận ư kiến của Roosevelt cho rằng Trung Quốc là nhân tố cơ bản để đánh bại Nhật và các cuộc hành quân ở Miến Điện là có ư nghĩa quyết định cho vấn đề này.
Trong một cuộc thảo luận quan trọng khác ở Hội nghị Quadrant, Churchill, đă lái câu chuyện sang việc thành lập một Bộ Chỉ huy Đông Nam Á (SEAC) mới cho các cuộc hành quân của Đồng minh ở châu Á. Roosevelt được biết tham vọng của Churchill là chiếm lại Singapore và sắp đặt một vị trí chỉ huy then chốt cho huân tước Louis Mountbatten, cháu của vua và là con trai của một bạn đồng nghiệp cũ của Churchill, công tước Louis de Battenberg. Tổng thống đồng ư thành lập SEAC; và ông, Thủ tướng cũng như các Tham mưu trưởng của họ đều tán thành bổ nhiệm phó đô đốc Mountbatten, cựu trưởng ban tác chiến hỗn hợp, làm Tư lệnh tối cao chiến trường Đông Nam Á. Việc bổ nhiệm một đô đốc Hải quân hoàng gia chỉ xác nhận những sự nghi ngờ của Bộ Tham mưu Mỹ tại hội nghị là Churchill coi SEAC là một chiến trường thuỷ bộ hơn là một chiến trường mặt đất, một bộ chỉ huy mà ông ta muốn dùng để tiến hành chiến dịch Sumatra mà ông ta hằng ấp ủ để chiếm lại Singopore, biểu tượng của quyền lực đế quốc Anh ở châu Á.
Một lần nữa, vị trí chỉ huy của Stilwell, như đă từng xảy ra, lại phải được điều chỉnh cho thích hợp với sự sắp xếp đă thay đổi từ chóp bu. Trong một bức điện tỉ mỉ ngày 17-8-1943, tướng Marshall đă giải thích một cách kiên nhẫn và khéo léo vị trí của Stilwell dưới quyền Mountbatten. Ông nhấn mạnh rằng chiến lược Miến Điện vẫn không thay đổi, nhưng thời biểu tác chiến phải gấp hơn do những khả năng tiếp tế trên các đường Miến Điện, cả đường bộ lẫn đường không, đă tăng lên. Tuy nhiên, Marshall nói tiếp, các quan hệ chỉ huy bên trong SEAC quá ư phức tạp. Việc thành lập SEAC có nghĩa là tới 4 chiến trường, ba chiến trường địa lư và một chiến trường tác chiến, đại biểu một cách tương ứng cho những lợi ích của ba nước và ba cơ quan t́nh báo, tất cả đều đang hoạt động trong cùng một khu vực. SEAC phải là một bộ chỉ huy của Anh - Mỹ, bao gồm Miến Điện, Ceylon, Sumatra và Malaysia, nhưng không có Ấn Độ. Ấn Độ nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ Chỉ huy Ấn Độ, có trách nhiệm đối với Trung Đông là nơi các sư đoàn Ấn Độ đang chiến đấu cũng như đối với Viễn Đông. Tất nhiên, ở Trung Quốc, có Chiến trường Trung Quốc của Tưởng. Chiến trường tác chiến của Mỹ, CBI, hoạt động tất cả ở ba khu vực địa lư. Nó không phụ thuộc vào SEAC.
Quân đội Trung Quốc ở Ấn Độ, do Stilwell chỉ huy, dựa vào Bộ Chỉ huy Ấn Độ về tiếp tế hậu cần, nhưng lại chiến đấu trong khu vực của SEAC dưới quyền chỉ huy của Mountbatten. Đội không quân thứ 14 của Mỹ dưới quyền chỉ huy của tướng Claire L. Chennault đóng ở Trung Quốc để hoạt động, được tiếp tế từ Ấn Độ, nhưng về h́nh thức lại nằm dưới quyền Tưởng Thống chế. Việc cai quản, pḥng thủ và an ninh nội bộ của Bộ Chỉ huy Ấn Độ đặt dưới quyền của tướng Claude J.E. Auchinlek là người chịu trách nhiệm chính với chính phủ Ấn Độ. Là đại diện của nội các chiến tranh của Anh và phó vương Ấn Độ, Thống chế Wavell là trọng tài về những thứ tự ưu tiên giữa Bộ chỉ huy Ấn Độ và SEAC, nhưng mỗi bên có thể khiếu nại về những quyết định của Wavell lên tham mưu trưởng của Anh. Việc liên lạc giữa SEAC và Tưởng gặp trở ngại bởi việc chỉ định Stilwell làm phó Tư lệnh tối cao Đồng minh ở SEAC, và nhiệm vụ của ông là xem xét người Trung Quốc đóng vai tṛ của ḿnh như thế nào. Marshall gọi đó là một sứ mệnh “không dễ dàng ǵ”.
Thật dễ dàng nhận thấy rằng trong t́nh trạng rối rắm về chỉ huy ấy, không thể có một sự thống nhất của Đồng minh, và những bất đồng có thể xảy ra ở mọi cấp và mọi khu vực. Tuy nhiên Stilwell và Mountbatten bắt đầu mối quan hệ của họ một cách thuận lợi. Marshall đoán trước rằng Stilwell sẽ nh́n thấy ở đô đốc “một luồng không khí mát mẻ” và Stilwell đồng ư với điều đó khi ghi vào nhật kư của ḿnh “Louis là một người rất tốt... đầy nhiệt t́nh và không thích sự chây ỳ và bảo thủ”. V́ thế Stilwell cũng đă có thể nói tới công việc của ḿnh với tư cách Phó tư lệnh tối cao của Đồng minh rằng đă có một sự hợp tác thật sự với người Anh, Đồng minh chỉ yếu của Mỹ. Bất cứ một điều ǵ đe doạ chia rẽ hai nước này đều sẽ có ảnh hưởng đến toàn cầu. Như tướng Thomas T.Handy(4) diễn đạt về điều đó, nếu người Anh hát bài “Cầu Chúa phù hộ Đức vua”(5) th́ Stilwell không thể hát theo được, nhưng ít ra ông ta có thể đứng dậy.
Trước khi Mountbatten đến, qua thái độ công khai coi thường của Stilwell đối với thái độ “không làm ǵ cả” của người Anh và người Trung Quốc trong việc đuổi người Nhật ra khỏi Miến Điện, ông đă được gọi là “Joe có bộ mặt câng câng”. Ông tỏ ra kiên quyết khi phê phán nạn tham nhũng của Quốc dân đảng Trung Quốc và việc sử dụng không đúng những hàng tiếp tế “Vay - Mượn” của chúng ta cũng như chủ trương của Tưởng muốn tiến hành một chiến dịch riêng chống phe cộng sản của Mao. Stilwell dần dần trở thành một bête noire(6) ở Viễn Đông. Tưởng cũng biết quá rơ sự chống đối của Stilwell và đến khoảng tháng 9-1943, những bất đồng của họ đă đạt tới điểm gay go. Chennault th́ quy sự bất lực của ḿnh về xu thế trên không cho t́nh trạng thiếu máy bay chiến đấu và tiếp tế lúc đầu đă được hứa cho và đă quở trách Stilwell là người phân phối vũ khí “Vay - Mượn”. Các viên chỉ huy Trung Quốc cũng buộc tội Stilwell v́ đă từ chối những yêu cầu cung cấp binh lính và tiếp tế hậu cần cho họ.
Khi Mountbatten tới Trùng Khánh ngày 16-10-1943, để gặp Tưởng Giới Thạch, ông đă được tướng Brehon B. Somervell cho biết rằng Tưởng đă công khai bày tỏ ư muốn của ḿnh là Stilwell được rút đi. Đó là một sự bắt đầu khó khăn của Mountbatten trong việc giải quyết các vấn đề về bộ chỉ huy của ông. Sau một thời gian suy nghĩ, ông kết luận rằng không nên sử dụng bộ đội Trung Quốc nếu người đă chỉ huy họ hai năm rồi lại bị đuổi đi ngay trước khi tiến hành những cuộc hành quân chủ động và ông cho phép Somervell thông báo điều đó với Tưởng và cuộc khủng hoảng đă được giải quyết một thời gian với sự cam kết của Stilwell là sẽ hợp tác đầy đủ với Tưởng và sẽ nhũn nhặn hơn trong tương lai.
Một vấn đề hóc búa khác nữa đă nổi lên tại cuộc gặp gỡ ở Trùng Khánh. Về sau này không một ai nhớ được chính xác, vấn đề ranh giới giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc đă được nêu lên như thế nào. Những vấn đề đă được đặt ra tại Hội nghị Quadrant và những người tham gia hội nghị nhớ lại rằng người Trung Quốc đă được nói cho biết là Đông Dương và Thái Lan thuộc về Chiến trường Trung Quốc. Sự thật là Bộ tham mưu hỗn hợp thấy cần phải chuyển hai xứ đó sang cho SEAC và điều đó đă được truyền đạt một cách khôn khéo cho Tưởng. Tưởng đă kịch liệt phản đối. Cuối cùng vấn đề này được giải quyết theo một đề nghị thoả thuận lịch sử của Mountbatten, sự thoả thuận này đă có ảnh hưởng lâu dài sau này. Thái Lan và Đông Dương sẽ được giữ lại trong Chiến trường Trung Quốc với điều kiện cả Mountbatten và Tưởng đều có quyền hành động ở đó và khu vực nào do ai chiếm đóng th́ tất nhiên sẽ nằm dưới quyền của Bộ chỉ huy chiếm đóng. Cả hai Tư lệnh đều đă đồng ư, những sự thoả thuận ấy đă không được chấp nhận hay bị bác bỏ bởi Tổng thống, Thủ tướng và CCS, tất cả đều muốn để lại vấn đề gai góc này.
Việc thành lập SEAC và việc buộc phải tạm ngưng xung đội giữa Stilwell và Tưởng đă không cải thiện được t́nh thế. Tướng Chennault, viên sĩ quan không quân cao cấp của Mỹ ở Trung Quốc đă kiên quyết phản đối quan điểm của Stilwell cho rằng những cuộc chiến đấu phải được tiến hành và giành thắng lợi trên mặt đất c̣n không lực chỉ là một cánh tay hỗ trợ. Ông ta căi lại rằng Stilwell đă bỏ quá nhiều sức lực vào những cuộc cải tổ trong quân đội Trung Quốc và dành hết những phương tiện ít ỏi của ḿnh vào công việc đó, do đó đă bỏ lỡ cơ hội để giành thắng lợi sớm hơn đối với Nhật. Chennault đă giành được sự ủng hộ của Tổng thống và của Tưởng, và đă được quyền ưu tiên nhận những hàng tiếp tế đó sang Trung Quốc, do Bộ chỉ huy Vận tải đường không của Mỹ thực hiện. Luồng tiếp tế cho cuộc chiến tranh bằng không quân của Chennault đă gây trở ngại rất lớn cho Stilwell trong việc trang bị và huấn luyện các lực lượng Trung Quốc để tiến hành chiến dịch của ông ở Miến Điện.
Chennault đă sử dụng trọng tải đang tăng lên một cách rất thành công và đă tăng cường những cuộc tấn công bằng không quân của ông vào các cứ điểm của Nhật ở phía đông Trung Quốc đến mức người Nhật lo sợ rằng người Mỹ sẽ lập được căn cứ cho những máy bay ném bom tầm xa mới chế tạo của ḿnh ở phía đông Trung Quốc, và từ đó sẽ dễ dàng tấn công chính nước Nhật. Kết quả trực tiếp là những cuộc phản công quyết liệt của người Nhật chống lại những sân bay tiền tiêu của Mỹ mà Chennault đă sử dụng để hoạt động. Cuộc tấn công của người Nhật mở ra trong tháng 4-1944 và tiến sâu vào Trung Quốc trước một sự kháng cự không đáng kể trên bộ. Thống chế (Tưởng) từ chối việc gửi vũ khí bất cứ loại nào, vũ khí Trung Quốc hay vũ khí “Vay - Mượn”, cho những binh lính Trung Hoa pḥng thủ ở các sân bay của Chennault. Các báo cáo t́nh báo của các quan sát viên Mỹ vạch ra rằng sự từ chối của Tưởng phản ánh một sự thoả thuận giữa một vài viên chỉ huy Trung Quốc địa phương với người Nhật với điều kiện người Nhật sẽ để cho người Trung Hoa yên ổn ở tây nam Trung Quốc nếu người Trung Hoa không can thiệp khi người Nhật tấn công các sân bay có thể đe doạ chính quốc họ.
Mỹ đă tỏ ra lo ngại một cách dễ hiểu đối với việc duy tŕ sự kiểm soát các sân bay dùng để làm căn cứ trên mặt đất cho không quân yểm trợ các chiến dịch của Mỹ ở tây Thái B́nh Dương và đă có cố gắng cứu văn t́nh h́nh. Các Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ kết luận rằng nếu Stilwell nắm lấy quyền chỉ huy tất cả các lực lượng ở Chiến trường Trung Quốc, cả Quốc dân đảng lẫn Cộng sản, th́ ông ta có khả năng ngăn chặn được việc người Nhật chiếm các sân bay. Tổng thống đă đồng ư.


STIWELL RA ĐI, WEDEMEYER NHẬP CUỘC

Toàn bộ lịch sử Trung Quốc sau chiến tranh chỉ rơ rằng mọi cố gắng nào nhằm thuyết phục Quốc dân đảng và Cộng sản liên kết vào một hành động chung để chống người Nhật đều bị thất bại. Nhưng chưa bao giờ đề nghị kiểu đó đă đi tới chỗ gần được chấp nhận như bấy giờ. Từ tháng 7 đến tháng 9-1944, đại diện đặc biệt của Tổng thống, tướng Patrick J. Hurley(7), đă cố thuyết phục Tưởng để bổ nhiệm Stilwell làm Tư lệnh dă chiến ở Chiến trường Trung Quốc. Lúc đầu Tưởng đồng ư về nguyên tắc, sau đó lại thay đổi hoàn toàn, cho rằng Stilwell tỏ ra chưa đủ tŕnh độ, và cuối cùng lại yêu cầu băi bỏ Stilwell. Cuối cùng Tổng thống cũng phải thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc về vấn đề này và ra lệnh cho Stilwell trở về nước, nhưng đă từ chối yêu cầu của Tưởng về việc cử một người Mỹ khác nắm quyền chỉ huy các lực lượng Trung Hoa ở Trung Quốc.
Trong các giai đoạn cuối cùng của các cuộc thượng lượng không thành công này, t́nh thế của Đồng minh ở Thái B́nh Dương đă được cải thiện đáng kể. Hải quân Mỹ đă đánh bại một cách quyết định Hải quân Thiên hoàng Nhật Bản trong trận đánh ở vịnh Leyte. Tướng Mac Arthur đă thiết lập vững chắc quyền lực của Mỹ ở Philippinnes. Và ngày 15-10, nguyên soái Xtalin tuyên bố với đại diện Mỹ ở Matxcơva và với Thủ tướng Anh rằng Liên Xô sẽ phái 60 sư đoàn sang chống Nhật Bản, trong ṿng 3 tháng sau khi nước Đức thất bại.
Trong không khí ấy, việc cứu các sân bay Trung Quốc trở nên ít khẩn trương hơn so với cuộc chiến tranh chống Nhật, nhưng vẫn c̣n một nguy cơ rất thực tế là Chính phủ Tưởng có thể kư một hoà ước riêng rẽ với Nhật hay chính bản thân Tưởng có thể bị lật đổ bằng một cuộc đảo chính do những phần tử thân Nhật tiến hành. Sự kiện nào cũng có thể giúp cho Nhật giải thoát được những lực lượng quan trọng để tăng cường sự bố pḥng trên chính quốc Nhật. Đứng trước những khả năng đó, Tổng thống đă thay đổi ư kiến của ḿnh và chỉ định thiếu tướng Wedemeyer làm sĩ quan cao cấp của Mỹ ở Chiến trường Trung Quốc và làm tham mưu trưởng cho Thống chế. Ngày cuối cùng tháng 10-1944, sau khi được thăng cấp lên trung tướng, Wedemeyer đến Trùng Khánh. Bốn hôm trước đó tướng Stilwell đă rời Karachi về Mỹ. Chennault vẫn ở lại.
Những mệnh lệnh mà Wedemeyer nhận được từ Bộ chiến tranh và những phương tiện được đặt dưới quyền của ông rất khác với những thứ đă giao cho Stilwell hai năm rưỡi trước đây; dù rằng những vấn đề của ông, như chính ông đă biết rơ, vẫn như cũ: “Tạo ra những điều kiện để sử dụng có hiệu quả tối đa những phương tiện của Mỹ trong khu vực… Người Trung Quốc phải được yêu cầu đóng một vai tṛ tích cực trong chiến tranh”. Plus ça change, plus c’est la même chose(8).
Từ mùa hè 1944, Bộ chiến tranh đồng ư tách Chiến trường Trung Quốc - Miến Điện - Ấn Độ (CBI) ra làm đôi. Kế hoạch ấy vẫn c̣n có giá trị, và Wedemeyer giữ chức chỉ huy Chiến trường Trung Quốc riêng biệt, bao gồm Trung Hoa lục địa, Măn Châu, và Đông Dương, cộng với những ḥn đảo ngoài khơi, trừ Đài Loan. Những sự thoả thuận mơ hồ giữa các bộ chỉ huy tối cao với các bộ chỉ huy chiến trường về Đông Dương về sau này chứng tỏ có tầm quan trọng sống c̣n đối với các kế hoạch của Pháp nhằm chiếm lại thuộc địa cũ của họ.


MỘT BABYLON HIỆN ĐẠI

Việc bổ nhiệm Wedemeyer ở Trung Quốc đă thách thức những quan niệm giáo điều và những giải pháp học viện về chỉ huy và kiểm soát ở một sân khấu chính trị phi lư.
Ở phía bắc Trung Quốc, Mao Trạch Đông đă thiết lập một nhà nước trong một nhà nước, ở đó có những người Cộng sản Trung Quốc hoàn toàn kiểm soát được một mảng lớn lục địa Trung Quốc với những bộ máy kinh tế và quân sự riêng của họ, độc lập với kiểm soát của Đồng minh hay với quyền uy không chắc chắn của Tưởng.
Ở Trùng Khánh, Quốc dân đảng được mọi người biết tới như một chính phủ, cũng bị chia thành nhiều mảng. Sự bất đồng giữa những chỉ huy của họ đang lan rộng. T́nh h́nh kinh tế tệ hại của họ lại càng nặng nề thêm do sự bao vây của Nhật và nạn lạm phát tăng dần lên. T́nh h́nh đó đe doạ Quốc dân đảng Trung Hoa phân hoá thành một nhóm những bè phái đấu đá nhau. C̣n về Tưởng Giới Thạch, th́ như Wedemeyer đă nhận định vắn tắt cho tướng Marshall biết: “bây giờ th́ tôi phải kết luận rằng Thống chế và những người cùng cánh của ông ta đă hiểu rơ tính chất nghiêm trọng của t́nh h́nh, nhưng họ bất lực và bối rối”.
Bộ tham mưu liên quân Mỹ, suy nghĩ về kinh nghiệm đă qua với Tưởng, đă bổ nhiệm Wedemeyer làm Tổng chỉ huy các lực lượng Mỹ ở Chiến trường Trung Quốc và đă cho cho phép ông “chấp nhận” thêm vai tṛ Tham mưu trưởng của Thống chế. Như vậy, Mỹ tránh lặp lại một t́nh thế không thể để xảy ra như t́nh thế của Stilwell trước kia. Sự thu xếp mới này, khi đă được phát triển lên, đă tỏ ra rất tốt. Wedemeyer và Tưởng đă thu xếp được một mối quan hệ cá nhân trơn tru và thân mật với nhau.
Cơ cấu chỉ huy riêng của chúng ta, tuy vậy, cũng vẫn c̣n nhiều vấn đề. Ở Trung Quốc, Wedemeyer thấy các nhân viên người Mỹ ở các lực lượng Hải, Lục, Không quân đều thuộc vào các đơn vị khác nhau, các đơn vị đă tỏ ra độc lập hoàn toàn hay một phần với ông với tư cách chỉ huy chiến trường. Hạm đội Mỹ ở Trung Quốc th́ báo cáo về Bộ Hải quân; OSS th́ báo cáo về cho Ban tham mưu của ḿnh ở Washington; cơ quan thu thập t́nh báo hỗn hợp (JICA) và Bộ chỉ huy máy bay ném bom XX th́ đặt dưới quyền chỉ huy trục tiếp của Bộ tham mưu liên quân; c̣n Bộ chỉ huy vận tải đường không (ATC) th́ độc lập với sự kiểm soát của các chiến trường Ấn Độ - Miến Điện cũng như Trung Quốc. C̣n vô số phái đoàn Đồng minh và những tổ chức bí mật hoạt động bên cạnh người Anh và người Pháp ở Trùng Khánh.
Đại sứ nước ta tại Trung Quốc, Clarence E. Gauss, mô tả t́nh cảnh ấy rất hay:
“…Ở đây có quá nhiều sự hỗn độn… Những thư từ do Đại bản doanh gửi cho chúng tôi cho thấy OSS, cũng như Miles(9) và Tai Li (10) đang quan tâm đến những vấn đề Đông Dương; “Hoạt động của OSS thông qua AGFARTS (sic)… Căn cứ của “Đội không quân thứ 14” đang thiết lập đường liên lạc của người Pháp ở Đông Dương một cách độc lập với phái đoàn quân sự Pháp ở đây và “người Trung Quốc và OSS đang hoạt động thông qua nhóm Gordon, một tổ chức hoàn toàn không được phái đoàn Pháp ưa thích… Như vậy chúng tôi có Miles và Tai Li, OSS và Gordon, Quân đội Mỹ; chúng tôi thấy phái đoàn quân sự Pháp thường đến gặp Quân đội và phái đoàn Pháp thường đến gặp chúng tôi với nhiều vấn đề; và không ai biết được cái ǵ đă làm ở đây hay cái ǵ phải được làm ở đây cả”.
Theo quan điểm chỉ huy và kiểm soát, đó là một Babylon hiện đại, và vị tân Tư lệnh Chiến trường đă hỏi ngay Marshall về việc xác định mối quan hệ của ông với nhiều tổ chức và với tướng Hurley, đại diện riêng của Tổng thống. Tuy nhiên, sự trả lời lại vô thưởng vô phạt và chỉ nhắc cho Wedemeyer những chỉ thị lúc ban đầu. Trong thực tế, Wedemeyer không bị hạn chế vai tṛ chỉ huy của ông bởi những chỉ thị mới và chi tiết nào, nhưng các cơ quan độc lập cũng không bị giới hạn về hoạt động của họ vào những đường dây chỉ huy chính thức nào, miễn là họ “thông báo” cho Tư lệnh chiến trường. Sự thu xếp có vẻ tiện lợi cho mọi điều có liên quan. Wedemeyer được chính Donovan lựa chọn êkíp riêng của ông và đă bắt tay vào việc cải tổ cơ cấu chỉ huy và thay đổi nhân sự theo những nhu cầu hoạt động riêng của ông. Ông sử dụng th́ giờ của ḿnh một cách khôn khéo hơn và xử sự một cách thận trọng với các cơ quan t́nh báo khác nhau.
Trong số những vấn đề chính trị - quân sự mà ông gặp phải với tư cách Tư lệnh chiến trường, có vấn đề Cộng sản Trung Quốc ở Diên An và các Phái đoàn quân sự Pháp ở Côn Minh và Trùng Khánh. Vấn đề thứ nhất, về cơ bản là một vấn đề của Trung Quốc, phải được giải quyết với Tưởng. Vấn đề thứ hai lại có một lịch sử khác. Những hệ quả quốc tế của sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc đă đụng đến những quyền lợi của Đồng minh và có liên quan với Mỹ một cách trực tiếp và nghiêm trọng.
Chú thích :

(1) thủ trưởng ban SI của OSS
(2) Chief Of Staff: tham mưu trưởng liên quân
(3) Prime Minister: thủ tướng
(4) thủ trưởng Cục tác chiến và kế hoạch, WD
(5) Quốc ca Anh
(6) người đáng ghét nhất - tiếng Pháp
(7) phái viên của tổng thống Mỹ, thay mặt SEAC bên cạnh Tưởng
(8) càng thay đổi lại càng vẫn thế - tiếng Pháp
(9) chỉ huy hạm đội Mỹ tại Trung Quốc
(10) người đứng đầu cơ quan mật vụ của Tưởng

Chương 3
Đông Dương: Một điểm cấp bách
F.D. ROOSEVELT VÀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN

Tổng thống Roosevelt từ lâu đă nêu lên chính sách cơ bản của ông đối với vai tṛ của Pháp sau chiến tranh ở Viễn Đông.
Ông coi chủ nghĩa thực dân là nguyên nhân chính của Thế chiến thứ hai. Khi thảo luận về nước Pháp với con trai ḿnh ở Casablanca, ông cho rằng Pháp phải chịu trách nhiệm một phần về cuộc tấn công của Nhật ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng): “Elliot ạ, đừng một lúc nào nghĩ rằng người Mỹ có thể chết trong cái đêm Thái B́nh Dương ấy(1) nếu không phải v́ cái tính tham lam thiển cận của người Pháp, người Anh và người Hà Lan. Liệu chúng ta có nên cứ để cho họ làm mọi cái một lần nữa không?... Liên Hiệp Quốc - một khi nó được tổ chức ra - phải nắm lấy các thuộc địa. Liệu nó có thể làm được điều đó không?… Dưới một chế độ ủy trị, hay một chế độ quản trị - trong một số năm nào đó chẳng hạn”. Roosevelt đă thúc ép đưa vấn đề quản trị ra ở Cairo, Teheran và Yalta và ông đă nhận được sự tán thành của Tưởng Giới Thạch và Xtalin. Nhưng Churchill đă lẩn tránh.
Hồi ức của Cordell Hull, công bố năm 1948, c̣n nhấn mạnh vấn đề này hơn nữa. Ông viết, Tổng thống ấp ủ những quan điểm mạnh mẽ về nền độc lập của Đông Dương thuộc Pháp. Ông lưu tâm đến sự lệ thuộc của Pháp v́ đó là bàn đạp để cho người Nhật tấn công: Philippin, Malaysia và vùng Đông Ấn của Hà Lan. Ông không thể quên được cách cư xử của Chính phủ Vichy khi trao cho Nhật Bản quyền đóng quân ở đó; mà không hỏi ư kiến chúng ta nhưng lại cố làm cho thế giới tưởng rằng chúng ta đă đồng ư. 
Về chế độ quản trị, Hull nói: “Thỉnh thoảng Tổng thống nói thẳng với tôi và những người khác, ư kiến của ông rằng Đông Dương thuộc Pháp sẽ phải đặt dưới một chế độ qủan trị quốc tế ngay sau khi chiến tranh kết thúc, và để cho xứ này được độc lập càng sớm càng hay”.
Hull cũng dẫn ra bản bị vong lục tháng Giêng 1944 của Tổng thống, trong đó nói rằng “... Đông Dương sẽ không bị trao trở lại cho nước Pháp mà sẽ được cai quản bởi một chế độ quản trị quốc tế…”. Tuy tổng thống có những ư kiến mạnh mẽ như vậy, nhưng không có một tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay một sự thoả thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh công bố cả.
LẬP TRƯỜNG CỦA PHÁP
Về phần ḿnh, nước Pháp chưa bao giờ tỏ ra một chút ǵ muốn “giải thoát” cho thuộc địa cũ của nó. Mục tiêu của Pháp có phần nào hợp pháp, v́ nó đưôc Mỹ ba lần chính thức cam kết ủng hộ. Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Welles đă viết ngày 13-4-1943, trong một lá thư gửi cho Henri Haye, đại sứ Pháp ở Washington: “Chính phủ Mỹ thừa nhận chủ quyền của người Pháp đối với lănh thổ nước Pháp và đối với những thuộc địa của Pháp ở Hải ngoại... (và) nồng nhiệt hy vọng nước Pháp sẽ có thể khôi phục được nền độc lập của nước Pháp và sự toàn vẹn lănh thổ của Pháp”; và đến tháng 11, một viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại giao ở Bắc Phi, Robert Murphy, đă viết cho Giraud rằng “Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ chủ quyền nước Pháp sẽ được phục hồi càng sớm càng tốt trên toàn bộ lănh thổ, chính quốc và thuộc địa, trên đó cờ nước Pháp đă tung bay vào năm 1939”. Hiệp định Clark - Darlan về cuộc tấn công của chúng ta vào Bắc Phi cũng đă ghi nhận sự đồng ư giữa hai bên rằng các lực lượng của Pháp sẽ “giúp đỡ và ủng hộ” Đồng minh trong việc phục hồi toàn bộ Đế quốc Pháp”.
Do đó, một năm sau, “nước Pháp tự do” dưới quyền của tướng Charles de Gaulle đă quyết định thời điểm để trưng cờ ba sắc ra và để bảo đảm cho nước Pháp sau chiến tranh một chỗ ngồi trong các nước Đồng minh ở chiếc bàn kư hoà ước. Với mục đích ấy, Pháp đệ tŕnh Đại bản doanh Đồng minh (AFHQ), vào tháng 10-1943, những yêu cầu của ḿnh về việc trang bị cho quân đội viễn chinh Đông Dương của Pháp (CEFEO) để sẵn sàng hành động vào mùa thu 1944. Đồng thời, đại diện Pháp ở Washington (2) nói cho tướng Marshall biết rằng các giới chức trách quân sự Pháp dự định yêu cầu được có đại diện trong Hội đồng chiến tranh Thái B́nh Dương.
Đối với những người vạch kế hoạch của Mỹ ở Washington, những yêu cầu ấy của Pháp là không cần thiết v́ chiến lược Viễn Đông của Anh - Mỹ vẫn tiến triển yên ổn mà không cần có nước Pháp gánh thêm. Hơn nữa, ư đồ được nhấn mạnh của Pháp về việc giành lại đế quốc thuộc địa trước chiến tranh của nó là quá rơ ràng và đi ngược lại chính sách của Roosevelt đối với các dân tộc lệ thuộc.
Cho đến cuối tháng 8-1944, chưa có một quyết định ở cấp cao nào được thông báo cho Pháp về sự tôn trọng ư định của nước này tham gia những cuộc hành quân ở Viễn Đông, đặc biệt ở Đông Dương. Sự thật là chưa đi tới được một quyết định nào v́ những bất đồng giữa Anh - Mỹ về vấn đề thuộc địa. Trong t́nh h́nh ấy, không thể đồng ư với nhau về quyết định này và suốt cả cuộc chiến tranh cũng không đi tới một quyết định nào.
Khi Wedemeyer được cử làm chỉ huy, những vấn đề của nước Pháp về trang bị cho Quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông và trở thành thành viên của Hội đồng chiến tranh Thái B́nh Dương vẫn chưa được rơ ràng. Sức ép tiếp tục của De Gaulle đă vấp phải sự chống đối của chính quyền Washington và của tướng Eisenhower ở châu Âu. Để phá vỡ sự chống đối của Mỹ, De Gaulle gửi một phái đoàn quân sự lớn, do tướng Roger C. Blaizot cầm đầu, đến Ceylon. Ở đây, Pháp yêu cầu Mỹ tán thành và chính thức thừa nhận và nói với Mỹ rằng Pháp muốn có một qui chế giống như các phái đoàn Đồng minh khác đóng tại SEAC. Những yêu cầu ấy tỏ ra không đúng chỗ.
Tuy nhiên cần phải ghi nhận rằng người Pháp đă nhận được một sự khuyến khích nhẹ dạ của một viên chức quân sự và ngoại giao Mỹ ở châu Âu. Rất dễ hiểu rằng những người Mỹ từng chia xẻ một số kinh nghiệm chiến tranh với những đồng nghiệp Pháp của họ không thấy khó khăn ǵ khi chấp nhận lập luận của “nước Pháp tự do” sẽ tham gia hành động của Đồng minh ở Viễn Đông và nước Pháp sẽ “giải thoát” Đông Dương khỏi kẻ thù chung. Điều đó cũng không phải là nhũng người Mỹ ở Paris ấy đă tiếp tay cho ư đồ của Pháp khôi phục lại chủ quyền thuộc địa của nó đối với Đông Dương, trái với những nguyện tắc của Hiến chương Đại Tây Dương và chính sách chống thực dân của Mỹ.

CUỘC CHIẾN TRANH GIẰNG CO

Chính vào thời điểm ấy của những mối quan hệ Pháp - Mỹ, lần đầu tiên tôi được biết những sự phức tạp của sự bổ nhiệm mới đối với tôi sang Viễn Đông. Tôi chuẩn bị nhiều tháng ở Washington cho sứ mệnh của tôi ở Đông Dương. Nhờ OSS mà tôi có thể có được những hồ sơ của Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (JCS) để tiếp cận với những thông tin mật. Cuối tháng Chạp 1944, từ trong những hồ sơ ấy, tôi biết rằng Samuel Reber, một viên chức cấp cao của Bộ Ngoại giao bên cạnh Bộ Tổng tư lênh tối cao quân viễn chinh Đồng minh (SHAEF) đă may mắn phát hiện ra rằng người Pháp đang tổ chức ở miền nam nước Pháp một đội quân 2 sư đoàn để sử dụng ở Viễn Đông. Điều đó xảy ra với sự đồng ư ngầm của SHAEF, chứng tỏ rằng quân đội ấy không tham gia các cuộc hành quân của Đồng minh và rơ ràng là nước Pháp sử dụng trang bị riêng của họ. Tôi lưu ư tướng Donovan về những ảo tưởng rơ ràng đối với kế hoạch của Pháp, không phải v́ không để cho Pháp tham gia các cuộc hành quân của Đồng minh v́ sợ rằng việc chuyên chở 2 sư đoàn của Pháp sẽ làm phân tán khả năng các cuộc hành quân đă được hoạch định. Hơn nữa, Pháp không có khả năng hậu cần để duy tŕ một đội quân lớn mà không có sự giúp đỡ nào của Đồng minh. Việc chuẩn y một sự tăng thêm quân đội ở Viễn Đông ngoài kế hoạch như vậy sẽ gây ra nhiều căng thẳng đối với những dự trữ của SEAC và các tư lệnh chiến trường ở Trung Quốc, có hại cho những cuộc hành quân đă được chuẩn y của họ.
Reber cũng được báo cáo là thiếu tá Bouheret đang tuyển mộ người Pháp cho một công việc bí mật Viễn Đông. Với sự có mặt của trung tá Carlton Smith thuộc SOE(3), những đội đă được tuyển mộ ở Pháp sẽ được gửi sang huấn luyện đặc biệt ở London. Kẻ đỡ đầu cho hành động mạo hiểm này được gọi là “Ủy ban phối hợp về những công việc Viễn Đông” hoạt động trong “Phái đoàn SHAEF” của Pháp ở Paris. Ngoài những đại biểu của cơ quan t́nh báo Pháp, nó c̣n gồm có những thành viên SOE của Anh và OSS của Mỹ.
Vấn đề này đă được lưu ư cho Bộ trưởng Ngoại giao Stettinius bởi sự nhấn mạnh của Joseph W. Ballantine(4), rằng “thái độ của các nhà chức trách quân sự chúng ta ở Pháp tỏ ra không phù hợp với lập trường của Tổng thống... ngăn cấm hoạt động của Mỹ... đối với Đông Dương”.
Mấy ngày sau (22 tháng Chạp), Stettinius viết cho Donovan rằng cho đến ngày 16-10, “Tổng thống nói rơ là vào lúc này chúng ta không được làm ǵ đối với các nhóm kháng chiến hay không được làm một điều ǵ khác đối với Đông Dương. Gần đây hơn, Tổng thống báo cho Bộ Ngoại giao biết Mỹ không được tán thành đặt bất cứ bất cứ một phái đoàn quân sự của Pháp nào ở Bộ tư lệnh Đông Nam Á”. Stettinius chỉ rơ rằng việc gửi một lực lượng viễn chinh Pháp sang tham gia giải phóng Đông Dương và một lực lượng nhỏ can thiệp vào những cuộc hành quân bí mật ở Đông Dương đều có liên quan chặt chẽ với phái đoàn quân sự Pháp. Ông yêu cầu Donovan xét xem sự tham gia của Mỹ do Reber báo cáo có phù hợp với những chỉ thị của Tổng thống không.
Bức thư của Bộ trưởng Ngoại giao được chuyển cho tôi để trả lời. Trong khi đi t́m những tài liệu gốc trong đống hồ sơ Viễn Đông, tôi đọc qua nhiều tài liệu hồi đó làm cho tôi phải giật ḿnh. Tài liệu thứ nhất là một bức điện dài của đại sứ Gauss đề ngày 26-7-1944 hỏi Bộ Ngoại giao xem “đă đến lúc Chính phủ Mỹ nêu rơ và xác định chính sách của ḿnh đối với Đông Dương hay chưa”.
Cuộc điều tra của tôi chứng tỏ rằng vấn đề này đă được báo cáo cho Tổng thống ngày 26-8, khi có một aide - mémoire(5) của huân tước Halifax, đại sứ Anh ở Washington. Halifax cũng nhấn mạnh rằng vấn đề này hết sức cấp bách v́ Anthony Eden, Bộ trưởng Ngoại giao Anh, bị người Pháp ở London thúc bách phải trả lời họ. Những điểm cốt yếu của vấn đề này là việc đặt phái đoàn Blaizot tại SEAC và việc thành lập ở Ấn Độ một đội quân can thiệp nhỏ dường như đă thành lập ở Alger.
Roosevelt không để cho ḿnh bị rơi vào một quyết định của Pháp hay của Bộ Ngoại giao Anh. Ngày 28-8, ông gợi ư hoăn vấn đề này lại đến sau khi ông gặp Churchill ở Québec tháng 9 tới(6). Nhưng sau cuộc gặp gỡ Québec, vẫn không có một lời nào phát ra từ Nhà Trắng cả.
Phái viên liên lạc của tôi với Bộ Ngoại giao nói với tôi rằng đầu tháng 10, lănh sự Mỹ ở Ceylon đă báo cáo về ư định của Anh ủng hộ phái đoàn Blaizot ở SEAC, ở đó Anh sẽ cộng tác và tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc hành quân của Pháp ở Đông Dương. Nhưng v́ không giành được một sự đồng ư của Mỹ, phái đoàn vẫn sẽ có vẻ không chính thức và lúc đầu sẽ ở tại một khách sạn gần đó.
Người Anh nêu lên một vấn đề khác - những hoạt động chính trị của Pháp trong chiến tranh ở Đông Dương, mà không phải là những hoạt động quân sự. Lập trường của họ là: đây là một vấn đề nội bộ giữa đại bản doanh của Mountbatten và chi nhánh chính trị của phái đoàn quân sự Pháp. Ở Washington, người của chúng ta tại Bộ ngoại giao và JCS coi sự thu xếp đó là không phù hợp với những qui định về các khu vực chiến trường, v́ Đông Dương nằm trong chiến trường Trung Quốc, mà không phải trong SEAC.
Có quá nhiều vấn đề xa lạ đă được xen cài vào chiến lược của Đồng minh ở Viễn Đông v́ sự ương ngạnh của Pháp và sự khuyến khích của Anh đối với việc giành lại những đế quốc thuộc địa đă mất đi của họ. Hơn nữa, v́ thiếu một chỉ thị chính trị rơ rệt đối với qui chế hiện nay và sau chiến tranh của Đông Dương, nên những viên chức Bộ Ngoại giao chúng ta không phải bao giờ cũng đồng ư với nhau. Wedemeyer và Mountbatten có những sự bất đồng về khu vực chiến trường đối với những cuộc hành quân ở Đông Dương và cả hai viên tư lệnh này đều bị người Pháp thúc ép ở Trùng Khánh và ở Ceylon. OSS th́ nằm kẹt giữa âm mưu ấy của Pháp.
Ban tham mưu OSS, từ cuối năm 1942 và với sự tán thành của JCS, đă vạch kế hoạch sử dụng các nhóm kháng chiến (Cộng sản Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Dương và các đội quân bù nh́n của Nhật) chống lại các lực lượng Nhật Bản. Dù những kế hoạch ấy có lợi thế về quân sự, nhưng lại vướng phải những dính líu chính trị. Ngày 10-10-1944, Donovan đă hỏi Abbot Mofat, vụ trưởng vụ Tây Nam Thái B́nh Dương về những quan điểm của Bộ Ngoại giao, câu hỏi được gửi đến Nhà Trắng và ngày 16, Tổng thống trả lời rơ ràng: “Không được làm ǵ đối với các nhóm kháng chiến hay làm một điều ǵ khác về vấn đề Đông Dương...”. Donovan cũng được Hull căn dặn như vậy ngày 20-10.
Suốt trong hai tháng 11 và 12, Bộ Ngoại giao rối lên về việc bảo đảm phải đưa ra một chính sách có thể chấp nhận được. Cuối cùng, cuối tháng 12, do bản báo cáo của Reber nêu ra, Stettinius hỏi Bộ Chiến tranh và Bộ Hải quân cũng như tướng Donovan về sự tham gia thích hợp của Mỹ vào các cuộc hành quân ở Đông Dương, OSS giữ lập trường là không nên dấn ḿnh vào nhũng hoạt động chiến tranh chính trị của Pháp, cũng như không để cho những hoạt động của ḿnh phục vụ cho những tham vọng thuộc địa của Pháp. OSS không có ǵ xung đột với quan điểm của Tổng thống trong việc sử dụng những dự trữ của Pháp nếu chúng chỉ được dùng vào những nỗ lực của Đồng minh chống Nhật.
Tổng thống hiển nhiên là đă thảo luận một vài vấn đề này với Churchill ở Hội nghị Québec, v́ ông đă gửi thư cho Stettinius vào ngày đầu năm 1945 (để trả lời thư nhắc nhở thứ hai của Halifax), trong đó đặc biệt có nói rằng: “Tôi thấy không cần phải dính dáng bất cứ một nỗ lực quân sự nào nhằm giải phóng Đông Dương khỏi người Nhật. Ngài có thể nói với Halifax rằng tôi đă nói rất rơ điều đó với Churchill. Xét cả hai mặt quân sự và dân sự, hành động vào lúc này là quá sớm”.
Nhưng dù ông đă nói điều ǵ ở Québec, th́ điều đó cũng không giảm đi chút nào quyết tâm của Pháp về việc bố trí nhân sự của nước này nhằm nhanh chóng giành quyền kiểm soát Đông Dương khi tới lúc cần thiết.


Chú thích :

(1) ngày 22-1-1943
(2) Trung tướng Bethouart, Trưởng phái đoàn quân sự Pháp tại Washington, do tướng Giraud phái đến để điều đ́nh về vấn đề trang bị vũ khí Mỹ cho quân đội Pháp
(3) Ban hành động đặc biệt của Anh (tương tự OSS)
(4) Giám đốc Viễn Đông sự vụ, Bộ Ngoại giao
(5) công hàm nhắc lại - tiếng Pháp
(6) Hội nghị Québec lần 2 (mật danh Octagon) 10-9-1944

Chương 4
Một cộng đồng t́nh báo khó hiểu

Khi tôi nhận lấy sứ mệnh Đông Dương vào cuối năm 1944, tôi hoàn toàn bối rối trước những lợi ích xen kẽ nhau và những hoạt động không có liên hệ với nhau ở SEAC và Chiến trường Trung Quốc. Những cơ cấu chỉ huy trùng nhau, những mục tiêu quốc gia xung đột nhau, những sự ghen ghét giữa các nước Đồng minh và giữa các cơ quan và những cuộc đấu tranh giành quyền hành bên trong các cơ quan đă có tác dụng chống lại những hoạt động có hiệu quả và dẫn tới tổn thất to lớn về nỗ lực của con người và về tài sản quốc gia.
Khi tôi định t́m hiểu hoạt động của OSS ở châu Á, tôi phải xuyên qua một mớ ḅng bong: Đội 101 ở Nazir, Ấn Độ; Đội 202 ở Trùng Khánh; OSS/SACO làm việc với Quốc dân đảng Trung Quốc; OSS/AGFRST, một tổ liên kết OSS và đoàn không quân 14 ở Côn Minh; đội 303 ở New Delhi; đội 404 ở Kandy, Ceylon; các kế hoạch cho đội 505 ở Calcutta; phái đoàn DIXIE ở Diên An v.v...
Tôi phải tốn nhiều th́ giờ để gỡ ra cái mớ hỗn độn những đơn vị rơ ràng là trùng lặp và chưa có liên hệ với nhau ấy. Những cuộc điều tra về Ban tham mưu OSS chỉ làm cho tôi bối rối thêm. Một số ít người hiểu đó là vai tṛ của một và có thể là của hai đơn vị; một số người khác th́ chỉ nói đơn giản: “Rất tiếc, điều đó đă được sắp xếp cả rồi”; c̣n một số người khác nữa, thành thật hơn, th́ khoát tay và thừa nhận rằng họ không biết ǵ và cũng không hiểu được. Cuối cùng, tôi đă lắp ráp tất cả vào với nhau được.
Sự tiến triển của OSS ở châu Á có thể vạch thành ba đoạn chính: OSS/Khu vực Thái B́nh Dương, không bao giờ ra hỏi khu vực ấy và chỉ có liên lạc với Hawai; OSS/Trung Quốc; OSS/SEAC (về sau là OSS/Ấn Độ - Miến Điện). Ngay sau vụ Trân Châu Cảng, tướng Donovan được Tổng thống tán thành đă yêu cầu nhiều người cộng tác với ḿnh xem xét khả năng tiến hành những hoạt động bí mật ở châu Á. Những sự t́m hiểu của họ cho thấy các hoạt động t́nh báo và du kích có thể tiến hành ở Đông Nam Á và Trung Quốc chống lại các đơn vị Nhật Bản trên lục địa và chống lại những mục tiêu ở Nhật Bản. Mùa hè 1942, tướng Stilwell chấp nhận nhóm hỗn hợp đầu tiên SI/SO(1) cho Trung Quốc. Nhưng v́ “sự cần thiết quân sự”, Stilwell biến nhóm này từ phái đoàn bí mật đầu tiên của nó ở Trung Quốc thành một phái đoàn chiến thuật ở Miến Điện. Ông gọi nó là “trạm thí nghiệm của Mỹ, đội 101, SOS”. Nhóm này do thiếu tá (sau đó là trung tá) Carl Eifler chỉ huy.
Mục đích thực sự của Stilwell khi đổi lại các kế hoạch của Donovan là ông cảm thấy có thể sử dụng đội này vào chiến dịch Miến Điện sắp tới của ông. Ông nh́n thấy trước những khó khăn đối với các hoạt động của OSS/Trung Quốc với Chính phủ Tưởng và với hạm đội Mỹ đang bắt đầu có nhũng hoạt động bí mật, ngoài lĩnh vực quân sự của nó ở Trung Quốc và chỉ đặt dưới quyền của Stilwell về danh nghĩa. Những hoạt động Hải quân do Hải quân Mỹ ở Trung Quốc tiến hành, dưới sự chỉ huy của hạm trưởng (sau đó là chuẩn đô đốc) Milton E.Miles, được bảo trợ bởi đô đốc Ernest J. King, chỉ huy những hoạt động hải quân. Ngay từ đầu Miles đă có một mối quan hệ lạ lùng với Cục trưởng cục an ninh nội bộ và phản gián của Tưởng(2), tướng Tai Li, một mẫu người của tính bí hiểm phương Đông. Như tôi trực tiếp biết được, liên minh Miles - Tai là một sự phiêu lưu tai hại đối với Mỹ. Tài liệu t́nh báo của họ, có một giá trị đáng ngờ đối Đồng minh, và những hành động ngoài lĩnh vực quân sự chỉ được chấp nhận như những hứa hẹn. Sự thật chứng minh rằng Tai Li đă lấy được tất cả đồ tiếp tế của Mỹ mà ông ta có thể lấy được, không cần đếm xỉa ǵ tới những thủ tục đối với Tư lệnh chiến trường của Mỹ.
Những dự định của Donovan nhằm giành một chỗ đứng chân ở Trung Quốc bị hẫng mất do sự từ chối của Tai Li đối với việc đề nghị cho phép một cơ quan bí mật độc lập của nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc. Nguồn tiếp tế của hạm đội Miles bị giới hạn, so với sự phong phú của OSS, và nếu không cung cấp được cho các cơ quan t́nh báo Trung Quốc, th́ vị trí của Miles ở Trung Quốc lâm vào thế nguy hiểm. Để cứu văn t́nh h́nh của ḿnh, Miles đề nghị với OSS cho thống nhất những hoạt động bí mật ở Trung Quốc, với một qui chế chính thức cho bản thân ông. Với sự khẩn khoản của Bộ trưởng Hải quân Frank Knox, là người chịu sức ép của nhóm “lobby Trung Quốc” của Tưởng ở Washington, Donovan chấp nhận đề nghị ấy.
Thế là vào tháng Giêng 1943, Donovan đă nhập hội với Miles và Tai Li để triển khai sự thoả thuận của họ thành một tổ chức Trung Quốc - Hải quân - OSS; gọi là tổ chức hợp tác Trung - Mỹ (SACO), một trong những tên gọi sai nhất trong lịch sử. Tai Li được chỉ định là Giám đốc và Miles trở thành Phó giám đốc. Một lần nữa do sự thúc giục của Bộ Hải quân ở Washington, hạm trưởng Miles lại được bổ nhiệm làm người đứng đầu những hoạt động của OSS ở chiến trường châu Á. Nhưng v́ Stilwell đă lập ra đội 101 ở Miến Điện, nên quyền của Miles đối với nhân viên OSS và đối với các hoạt động của nó ở Trung Quốc chỉ là danh nghĩa. Tuy vậy Miles và Bộ Hải quân cũng hài ḷng với sự thoả thuận SACO. Chỉ với một nhúm nhỏ nhân viên OSS, Miles được bảo đảm về những cung cấp của Mỹ mỗi tháng 150 tấn và về việc kiểm soát sự phân phối các thứ đó.
Vấn đề tiếp theo đó trong việc thành lập OSS ở Viễn Đông đụng phải những quan hệ OSS - Anh. Vào giữa năm 1943, đội 101 tỏ ra đáng giá đối với Stilwell và ông ta đă tán thành những kế hoạch mở rộng tổ chức và những hoạt động của nó. SOE của Anh hốt hoảng về cái cơ quan bí mật của Mỹ, vừa mới phôi thai, hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của Anh, và t́m cách ngăn chặn các kế hoạch bành trướng của nó. Mùa hè 1943, những mối quan hệ giữa OSS và Anh xấu đi đến mức đối dịch nhau công khai, làm trở ngại nghiêm trọng cho chiến dịch Miến Điện của Stilwell và những hoạt động của đội 101. Tất nhiên t́nh h́nh c̣n nghiêm trọng thêm v́ những mối nghi ngại mạnh mẽ của SOE với t́nh cảm chống thực dân của Mỹ cũng như về những hệ quả của một sự tổ chức ganh đua nhau đối với những hoạt động chiến tranh chính trị trong các “dân tộc lệ thuộc” ở Đông Nam Á.
Trong lúc đó, ở Trung Quốc, những mối quan hệ OSS - SACO đi tới chỗ bế tắc. Những hoạt động của OSS không được phép tiến hành. Những báo cáo của OSS gửi về Washington nói đầy rẫy lên rằng, trong khi SACO nhân danh mật vụ của Tai Li làm việc trôi chảy như một tổ chức Vay - Mượn(3) và tạo điều kiện rất thuận lợi cho những hoạt động của Hải quân ở Thái B́nh Dương, th́ nó lại đưa rất ít tin tức t́nh báo có ích cho Đồng minh ở Chiến trường Trung Quốc. Hơn nữa, nhân viên OSS được phái vào SACO không thể làm việc quá thời gian tiêu chuẩn và không thể kiên tŕ cố gắng phá vỡ sự chống đối không thấy rơ nhưng lại rất kiên quyết của người Trung Hoa.
Bị ngăn cản hoạt động t́nh báo ngay từ đầu bởi tổ chức SACO và bị cả Tai Li và Hạm đội Mỹ ở Trung Quốc làm trở ngại (hạm đội Mỹ đă kiên quyết đứng về phía Tai Li), Donovan đă thay đổi t́nh h́nh bằng cách rút bỏ tư cách sĩ quan t́nh báo chiến lược CBI của Miles ngày 5-12-1943. Ông đẩy mạnh hoạt động của Đội 202 ở Trùng Khánh và chuyển nhiều người từ Đội 101 tới một đơn vị mới. Hạm trưởng Miles vẫn ở lại SACO với tư cách phó của Tai Li, nhưng đă bị thay thế bằng trung tá John Coughlim trong OSS/Trung Quốc. Coughlim, một sĩ quan quân đội chính quy đă từng làm sĩ quan phụ tá cho Eifler trong Đội 101 từ khi đội này bắt đầu thành lập.
Trong khi tiến hành những thay đổi ở Trùng Khánh, Donovan quyết định giành cho được sự độc lập hoạt động cho OSS/Trung Quốc của ḿnh, và ông đă tiếp xúc với tướng Chennault, viên chức cao cấp duy nhất của Mỹ ở Trung Quốc (khác với Stilwell) để bàn về việc cùng nhau tiến hành hoạt động bí mật. Vào lúc đó, Tư lệnh của Đội không quân (USAAF) thứ 14 đang thiếu t́nh báo chiến thuật có hiệu quả và đang cần có một hệ thống cứu nạn những phi công bị rơi xuống mặt đất. OSS của Donovan dược thành lập để giải quyết những hoạt động ấy. Ngược lại Donovan cũng cần có một người thân cận với Tưởng Thống chế để bù lại thái độ đối địch của Tai Li và hạm trưởng Miles, cũng như để che chở cho đơn vị OSS của ông hoàn toàn độc lập với SACO, tức là tất cả những ǵ mà Chennault có thể giúp được. Họ đạt tới một sự thỏa thuận, và ngày 26-4-1944, một sự thu xếp đă được chính thức tiến hành khi Stilwell cho thành lập một đơn vị mới với một cái tên khó hiểu có chủ tâm “Ban tham mưu kỹ thuật (lâm thời) không lực và mặt đất” (AGFRST), với bí số 5239, và sở chỉ huy ở Côn Minh.
Sau tất cả những sự đối phó của chủ trương phá rối của Tai Li và óc bè phái đầy tham vọng của Miles, hành động của Donovan - Chennault đă thành công và SACO bị thất bại. Sự phối hợp diễn ra hết sức tốt cho đến đầu 1945 (và sau đó nó tồn tại lâu hơn như một lực lượng quân sự) có ảnh hưởng tốt đến những nhận định chính trị của Trung Quốc, những thay đổi trong chiến lược của Đồng minh và những sự cải tổ trên chiến trường.
Vào những lúc Weydemeyer thay thế Stilwell, sự bành trướng và thành công của OSS trong những hoạt động bí mật ở chiến trường Trung Quốc đă đặt nó vào một vị trí có ưu thế trong cộng đồng t́nh báo Viễn Đông đối với hạm đội Mỹ ở Trung Quốc, BIS của Tai Li, SOE của Anh, các cơ quan t́nh báo của Pháp và Hà Lan, và phái đoàn đại diện không chính thức của Liên Xô. Donovan rất muốn đạt tới kết quả tối đa và tiếp tục kiểm soát được những quyền lợi của Mỹ ở một chiến trường của chiến tranh không chính qui đă gửi một giác thư cho Tổng thống vào mùa thu 1944 để nêu rơ rằng đă đến lúc để cho OSS/Trung Quốc trực tiếp chịu trách nhiệm với Tư lệnh chiến trường Mỹ và đề nghị, nếu cần, để cho OSS/Trung Quốc cũng phục vụ cho tướng Mc Arthur và đô đốc Nimitz ở Thái B́nh Dương.
Đoán trước sự đồng ư của Washington, Donovan bay sang Trung Quốc tháng Giêng 1945 để gặp bạn cũ ḿnh là Wedemeyer. Viên Tư lệnh chiến trường mới này năm 1942 đă từng thảo ra chỉ thị đầu tiên của JSC về thành lập OSS, đă từng theo dơi qua bản doanh SEAC về những chiến công thắng lợi của Đội 101 ở Miến Điện, và cũng hiểu rơ Donovan và tổ chức của ông ta. Kết quả của những cuộc gặp gỡ của họ là một cuộc cải tổ lớn cơ quan t́nh báo chiến trường, OSS chịu trách nhiệm về tất cả các chương tŕnh bí mật (trừ các chương tŕnh của Trung Quốc). Hạm trưởng Miles (lúc này đă là chuẩn đô đốc) bị mất quyền kiểm soát. Cả hai tổ chức Hạm đội Mỹ ở Trung Quốc và AGFRST được đặt dưới quyền của Wedemeyer. OSS được nâng lên quy chế một ban chỉ huy độc lập chịu trách nhiệm hoàn toàn về chính trị với Wedemeyer, nhưng về mặt hoạt động th́ chịu trách nhiệm với OSS/Trung Quốc.
Sau đó Donovan bay sang bản doanh SEAC của Mountbatten ở Kandy. Ở đó, với sự tán thành của đô đốc, OSS/SEAC bị xoá bỏ và được thay thế bằng OSS/Ấn Độ - Miến Điện (OSS/IBT) đóng sở chỉ huy ở Kandy, tại đội 404. Trung tá Richard P. Hepper, người đă từng đương đầu OSS/SEAC, được chỉ định làm sĩ quan t́nh báo chiến lược ở Trung Quốc và đồng thời được đề bạt lên đại tá.
Lúc đó, tôi đă sẵn sàng để sang Trung Quốc vào tháng 3, hầu hết các vấn đề tổ chức dường như đă được giải quyết. Donovan đă hoàn tất việc hợp nhất và kiểm soát các hoạt động bí mật và đă đặt được quyền hành của ḿnh đối với công tác t́nh báo độc lập Mỹ - mục tiêu chủ yếu của ông đối với OSS/Trung Quốc. Thoạt nh́n, dường như không có trở ngại ǵ đối với sứ mệnh của tôi ở Đông Dương. Tôi được bảo đảm sự ủng hộ hoàn toàn của tướng Donovan và nhận những chỉ thị rơ ràng và đặc biệt trực tiếp từ Nhà Trắng. Wedemeyer đă được báo cho biết một cách đầy đủ và tôi đoán trước mọi cái sẽ thông đồng bén giọt. Nhưng đó là Washington. C̣n ở Trung Quốc, không có điều ǵ là đơn giản cả.
Chú thích :

(1) Nhóm mật vụ và công tác đặc biệt
(2) Núp dưới danh nghĩa Cục điều tra và thống kê, BIS;
(3) Nguyên văn: Lend - Lease organisation

Chương 5
OSS: Tổ phụ trách Đông Dương thuộc Pháp
CHÍNH SÁCH: PHẢI GIÀNH LẤY CÔNG VIỆC

Sau khi đă cải tổ OSS ở các khu vực của Tưởng và Mountbatten, Donovan trở về Washington. Whitaker và tôi đă gặp ông để thảo luận về sự phân công mới của chúng tôi ở Viễn Đông; và được biết rằng Wedemeyer đang chờ đợi chúng tôi; và Heppner đă được chỉ dẫn về chính sách của Mỹ, tức là: Tổng thống yêu cầu OSS không để cho Pháp chiếm lại thuộc địa cũ của họ; Tổng thống coi qui chế tương lai của Đông Dương là một vấn đề quyết định sau chiến tranh và không thuộc về giới quân sự Mỹ. Không một trường hợp nào được cung cấp vũ khí hay tiếp tế cho Pháp, ngoại trừ để đẩy tới những mục tiêu chống Nhật đă được Đồng minh tán thành.
Tôi được biết về những hoạt động bí mật của Pháp ở Đông Dương từ các căn cứ SEAC và Trung Quốc, và tôi đă nêu ra vấn đề công tác với các phái đoàn quân sự Pháp ở Kandy, Trùng Khánh và Côn Minh. Tôi được trả lời “không phản đối”, miễn là tôi không làm ǵ được hiểu là “giúp đỡ” cho những mục tiêu quân sự hay chính trị của Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương.
Donovan đă thăm ḍ những ư kiến của tôi đối với người Pháp, đặc biệt với người Pháp ở Bắc Phi, những quan điểm của tôi về chính sách thuộc địa của họ đối vớii người Algerie, và về thái độ của De Gaulle đối với Mỹ, cũng như sự chống đối của ông ta đối với Tổng thống Roosevelt. Tôi lấy làm ngạc nhiên và sửng sốt trước phương hướng của cuộc nói chuyện đột ngột diễn ra của chúng tôi. Tôi bày tỏ mối cảm t́nh của tôi đối với cảnh ngộ nước Pháp, nhưng với vai tṛ của nó dưới chế độ Vichy, với tư cách một dân tộc, nước Pháp không hiện lên như một h́nh ảnh dũng cảm với tư thế “chiến đấu đến cùng” của người Anh. Tuy nhiên, tôi nhận xét, nhiều người Phap nam và nữ đă làm tṛn bổn phận ḿnh ở Bắc Phi và châu Âu. Tôi thừa nhận là đă có một vài sự dè dặt đối với các chính sách thuộc địa của Pháp và đối với người Ả Rập ở Bắc Phi và tin rằng người Pháp vẫn muốn thiên về chính sách thước dây(1) ở Đông Dương.
Donovan tỏ ra yên tâm với những nhận xét của tôi và tiếp tục b́nh luận rằng thái độ, nguyện vọng và cả những mục tiêu sau chiến tranh của Pháp không phải là công việc của chúng ta, nhưng lại yêu cầu tôi phải thấy trước sức ép to lớn buộc chúng ta phải rời bỏ lập trường trung lập của chúng ta từ những phía khác, ngoài phía Pháp ra. Ông nói hiện nay đang có nhiều người ủng hộ chế độ thực dân trong các giới kinh doanh dầu mỏ và cao su ở Mỹ, có những kẻ nhiệt liệt tán thành Pháp quay trở lại đế quốc thuộc địa của họ, và có sự ủng hộ của Anh và Hà Lan đối với các chính sách thực dân của Pháp ở Đông Nam Á. Nếu tôi gặp phải một sự phản đối nghiêm trọng, “Hăy báo cho John(2) biết”.
Trong 6 tháng liền tôi phụ trách “Tổ Đông Dương thuộc Pháp” ở OSS Washington, vạch ra các kế hoạch, nghiên cứu thư từ, tuyển chọn người cho tổ dă chiến và xem lại những hồ sơ có ích. Lúc đầu, những tài liệu ấy hết sức lộn xộn, trộn lẫn với những hồ sơ không có liên quan trong các bộ phận khác của OSS. Dần dần, với sự giúp đỡ của Austin Glass(3), Ducan Lee(4) và những người khác, tôi đă có thể tạo nên một tài liệu tập hợp những ǵ có liên quan đến bộ phận này của thế giới. Đống hồ sơ không có những tài liệu t́nh báo có ư nghĩa về bản thân xứ Đông Dương, nhưng lại có những thông tin rộng lớn về những ư đồ và khả năng của Nhật ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Tôi t́nm thấy các báo cáo của hạm đội Mỹ ở Trung Quốc; của đội OSS ở vùng cộng sản Diên An với sự cộng tác của tổ quan sát Mỹ do trung tá David D. Barnett chỉ huy; của cơ quan tập hợp t́nh báo chung. Khi tôi nêu lên câu hỏi về sự đóng góp của Trung Quốc vào những nỗ lực t́nh báo, đặc biệt ở Đông Nam Á, th́ những tay kỳ cựu về Trung Quốc “quen thuộc” của chúng ta bao giờ cũng cần phải được biệt rơ, “người Trung Quốc nào?” th́ tôi không phải mất nhiều th́ giờ để phân biệt Quốc dân đảng, Cộng sản, các nhóm bù nh́n Trung Quốc do người Nhật lập ra và những cái gọi là các “toán cướp Trung Quốc”. Các toán này là những lực lượng độc lập, thường cướp bóc các mục tiêu tuỳ theo thời cơ, và những nguyên nhân chính trị không có liên quan ǵ với trang bị của chúng.
Tôi cũng xem cả những báo cáo của người Pháp, v́ những hồ sơ của chúng ta cho thấy rơ sự cộng tác của nước Pháp tự do với SOE của Anh, nhưng OSS không có tin tức ǵ thật chắc chắn từ nguồn này. Có một hồ sơ sơ sài về một tổ chức hoạt động của Đông Dương gọi là “GBT”. Nó không chứa đựng một tài liệu t́nh báo nào quan trọng nhưng đă để lộ rơ một hoạt động bí mật đang tiến hành ở Anh - Pháp - Trung Quốc có giá trị tiềm tàng đáng kể đối với sứ mệnh sắp tới của tôi.
Chỉ có một tin tức khác có liên quan với các nguồn công tác bí mật có thể có là bức thư của Đông Dương Độc lập Đồng minh hội. Nó tương đối mới, đề ngày 18-8-1944, từ Trùng Khánh, Trung Quốc gửi cho đại sứ Mỹ. Những tác giả của nó kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ cho cuộc đấu tranh giành độc lập của họ, cam kết ngược lại là sẽ cùng với người Mỹ chống “chủ nghĩa phát xít Nhật”. Cùng với ban tham mưu OSS, tôi theo đuổi khả năng sử dụng nhóm này. Ư kiến của họ không thống nhất, “những tay kỳ cựu về Trung Quốc quen thuộc” khuyên phải kiên quyết chống lại sự cộng tác với “những phần tử cách mạng”, trong khi những người mới đến này lại cho rằng chúng ta không mất ǵ mấy nếu sử dụng những nguồn dự trữ này để chống lại người Nhật ở bất cứ nơi nào trong Thái B́nh Dương. Tôi bèn hỏi Donovan về lập trường của OSS.
Ngay từ đầu, tôi đề nghị với tướng Donovan nên sử dụng du kích địa phương. Ông nói rằng ông và viên phó của Wedemeyer là trung tướng Robert B. Mc Clure, đă đồng ư về ư định tiến hành những hoạt động ở chiến trường Trung Quốc, đặc biệt về việc sử dụng du kích của Mao Trạch Đông. Khi tôi nhấn mạnh điểm sử dụng những tay chân người Đông Dương, Donovan trả ḷi: “Cứ sử dụng bất cứ ai làm việc với chúng ta để chống lại người Nhật, nhưng đừng dính vào những hoạt động chính trị của Đông Dương thuộc Pháp”. Ông đảm bảo với tôi rằng lúc tôi sang Trung Quốc, Hepper sẽ có chỉ thị rơ ràng của Wedemeyer về sử dụng các đơn vị du kích. Những lời của Donovan rơ ràng là một chỉ thị đại cương để thực hiện công việc một cách tốt nhất và đồng thời cũng tránh rơi vào những âm mưu của Pháp trái ngược với chính sách của Mỹ.
MƯU MẸO “ESCAMOTAGE” CỦA PHÁP BỊ LỘ TẨY

Tuy có những chỉ thị của Donovan đối với Pháp, tôi vẫn có những nghi ngại về những cố gắng của Pháp nhằm sử dụng và lợi dụng những phương tiện của Mỹ ở Viễn Đông theo một lối bí mật và xảo quyệt. Vào giữa tháng 11-1944, tôi được biết sau khi sự việc xảy ra từ lâu và qua sự báo động của một sĩ quan Mỹ ở SEAC rằng đề án do người Anh đảm nhận nhân danh phái đoàn quân sự Pháp ở Ceylon có tất cả những dấu hiệu của một hoạt động chiến tranh chính trị không được cho phép.
Đề án ấy quan trọng ấy về mặt chính trị, và những chi tiết về sự khởi đầu và thực hiện của nó nói lên rất rơ rằng đó là một mẫu mực của sự hợp tác Anh - Pháp nhằm “làm phá sản” chính sách của Mỹ. Ngày 21-2-1944, lực lượng 136 đệ tŕnh Bộ tham mưu hỗn hợp Mỹ - Anh của SEAC một đề nghị của Pháp về việc phối hợp nhân sự. Việc phối hợp ấy được gọi bằng tên mă là BELIEF(5) và chủ trương cho một tổ thâm nhập vào bắc Đông Dương. Những mục tiêu của nó là: thành lập một tổ chức bí mật ở Đông Dương được kiểm soát từ bên ngoài và phá hoại những phương tiện cập bến của các cảng Đông Dương.
Đề nghị ban đầu của Pháp như đă nêu với SOE, chủ trương cho “một hay nhiều sĩ quan trong phái đoàn quân sự Pháp” nhảy dù từ một căn cứ không quân Trung Quốc xuống bắc Bắc Kỳ. Nhưng tất cả những hoạt động không quân rời khỏi Trung Quốc đ̣i hỏi phải được sự tán thành của Chennault và các phái đoàn độc lập của Pháp không được phép làm điều đó, nên người Anh viết lại mục tiêu của phái đoàn thành ra: “ Việc thả người và tiếp tế xuống vùng phía bắc Bắc Kỳ nhằm phát triển một hoạt động do cơ quan mật vụ Anh tiến hành”. Việc thả dù được thực hiện đêm 4-5 tháng 7 từ một máy bay Anh đỗ ở Côn Minh.
Hành động của Pháp có thể diễn ra mà không ai hay biết ǵ nếu không phải yêu cầu lực lượng 136 “một sự cho phép đặc biệt cho hoạt động BELIEF II, coi như một bộ phận nằm trong BELIEF I, được tung ra ngày 13-7. Hoạt động thứ hai này cũng được đại bản doanh SEAC và bản doanh Chennault tán thành.
Trong lúc đó, thiếu tá Hải quân Taylor(6), sĩ quan cao cấp của Mỹ, ở sư đoàn “P”, được báo tin ngày 7-7 rằng lại có thể cần phải tổ chức hoạt động BELIEF lần thứ ba để vớt một sĩ quan Pháp đă nhảy dù trong BELIEF I lên, v́ viên sĩ quan này đă mang một bức thư viết tay của tướng De Gaulle và phải lấy một sự trả lời từ Đông Dương mang đi. Mưu kế đánh lừa rơ ràng của người Pháp, được SOE tán thành và đồng loă, đối với chính sách của Mỹ đă làm cho Taylor tức giận và thúc bách ông thông báo cho tướng Wedemeyer (lúc đó là tham mưu phó của SEAC) biết toàn bộ sự việc.
Giác thư của Taylor viết một cách thích hợp cho Bộ tham mưu hỗn hợp Anh - Mỹ nói rơ: “Giá trị và tầm quan trọng của hoạt dộng BELIEF rất lớn, và nếu nó bị coi là không có lợi cho chính sách quốc gia của Mỹ, th́ theo quan điểêm của sư đoàn “P”, nó phải được ủng hộ mạnh mẽ. Nhưng những thông tin mà hiện nay sư đoàn “P” nhận được không đưa lại một cơ sở nào để có một lời khuyên bảo thuận lợi hay không thuận lợi đối với yêu cầu của lực lượng 136 về sự giúp đỡ của phái đoàn quân sự Mỹ trong việc thực hiện kế hoạch của họ”.
Hiểu rất rơ những xung đột chính trị trong vấn đề này, Wedemeyer đă thảo luận nó với Mountbatten. Mountbatten, đến lượt ông ta, đă mở một cuộc họp ngày 24-7 với tham mưu trưởng của ḿnh, giám đốc t́nh báo John Keswick thuộc SOE/SEAC và cố vấn chính trị về công việc Trung Quốc, trung tướng R.A. Wheeler, đại diện cho Wedemeyer, và thiếu tướng R.T. Maddocks, trợ lư của Wheeler. Trong cuộc gặp mặt, Mountbatten nêu rơ rằng nhân viên người Pháp là thiếu tá De Langlade đă xuất hiện để mang một bức thư viết tay của tướng De Gaulle. Sau đó ông cho rằng “bức thư không nhằm mục đích thúc đẩy người Pháp ở Đông Dương đứng lên chống người Nhật mà rơ ràng chỉ là một bức thư giới thiệu”.
Tướng Maddocks thừa nhận rằng trường hợp đó rất có thể là như vậy, nhưng lại khôn ngoan nêu lên rằng chưa thể biết được De Langlade đă có những chỉ thị miệng ǵ. Rơ ràng vụ rắc rối này có hiệu quả đi khá xa. Nó dính líu tới De Gaulle và đi ngược lại với chính sách và chiến lược của Đồng minh. Tướng Wheeler gợi ư báo cáo vấn đề này cho London và Washington. Mountbatten th́ trực tiếp chỉ thị cho Keswick làm một bản báo cáo đầy đủ cho Bộ ngoại giao (Anh).
V́ 4 tháng sau tôi mới được đọc lại những giác thư của Mỹ về vấn đề này, nên tất nhiên là tôi không thể không biết tới những ư đồ của Pháp và những phương pháp khá xảo quyệt được họ dùng để được bảo đảm sự ủng hộ và vận tải. Tôi cũng đă suy nghĩ về ảnh hưởng có thể có của những điều đó với những kế hoạch của tôi.

TỪ CATROUX ĐẾN DECOUX

Quyết định của Pháp nhằm sắp đặt một âm mưu không được cho phép ở Đông Đương rơ ràng bắt nguồn từ tướng De Gaulle vào lúc De Langlade nhảy dù xuống đó. De Gaulle là một yếu tố mới trong những mối quan hệ Pháp - Nhật ở Đông Dương. Sự sụp đổ của Pháp vào tháng Sáu-1940 đă làm cho người Nhật rảnh tay tràn xuống Đông Nam Á. Một ngày sau khi Thống chế Pétain yêu cầu giảng hoà với nước Đức, người Nhật đă gửi một tối hậu thư cho Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp, tướng Georges Catroux. Trong ṿng 48 giờ, Catroux đă chấp nhận các điều khoản của người Nhật(7), lúc đó ở gần biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ, và đồng ư để cho phái đoàn quân sự Nhật kiểm soát việc đ́nh chỉ mọi viện trợ cho Trung Quốc.
Điều trái ngược là chính phủ Pétain - Darlan trong khi trong nước đă khuất phục trước những yêu cầu sỉ nhục của người Đức th́ lại khiển trách Catroux v́ đă chấp nhận những điều khoản kém nặng nề hơn của người Nhật và đă thay ông ta bằng một người đă được Darlan bảo trợ, phó đô đốc Jean Decoux. Bị từ bỏ bởi một Chính phủ mà ông ta định phục vụ, bị làm nhục và cô đơn, Catroux đă muốn chia sẻ số phận với một người lưu vong Pháp ở London, Charles De Gaulle.
Tuy nhiên không thể nghĩ rằng những yêu cầu của người Nhật dừng lại ở đó. Các kế hoạch của họ được bố trí có mục đích và được thực hiện có hệ thống. Nhật cần có những dự trữ chiến lược của Hà Lan và Pháp ở Đông Nam Á. Vichy, London cũng như Washington đều không ngăn chặn được họ vào năm 1940. Anh và Mỹ, lo đối phó với cuộc tấn công quyết liệt của Hitler ở châu Âu, đă thiếu phương tiện để bảo vệ các đế quốc thuộc địa ở Viễn Đông.
Sự nhân nhượng lúc đầu ở Đông Dương chỉ khuyến khích Nhật Bản đặt ra những yêu cầu lớn hơn đối với viên Toàn quyền mới. Ngày 22-9-1940, với sự tán thành của Vichy, đô đốc Decoux và tróng Issaku Nishihara đă kư kết một thoả ước thứ hai cho phép người Nhật chiếm đóng những vị trí then chốt ở phía bắc Bắc Kỳ. Mười tháng sau, Chính phủ Vichy chấp nhận quyền người Nhật chiếm thêm những phần thuộc miền nam Đông Dương. Sau trận Trân Châu Cảng, Đông Dương trở thành một căn cứ để cho người Nhật tấn công Đồng minh.
Người Nhật được phục vụ một cách lư tưởng. Mặc dầu có khoảng 5 vạn quân Pháp ở Đông Dương, Nhật đă giành được một căn cứ chiến lược ở Đông Nam Á mà không cần phải đổ máu hay phải đầu tư to lớn cho các lực lượng chiếm đóng. Trái lại, Nhật có thể để sự cai trị đất nước lại cho người Pháp một cách thích hợp, đến mức dung thứ cả cho quân đội thuộc địa của Pháp. “Những năm chiến tranh” thật khá thoải mái đối với những kẻ thực dân Pháp và những nhà kinh doanh Pháp đă lợi dụng được việc buôn bán của họ với kẻ thù. Về phần ḿnh, Nhật Bản đă t́m được một nguồn tiếp tế sẵn sàng và tự nguyện cho nền kinh tế nước họ.
Trong thời kỳ hợp tác ấy, Decoux đă lợi dụng khá thành công cái gọi là “huyền thoại Pétain” trong người Pháp, nh́n chung, người Pháp đều là pétainistes(8) và cả trong những người Việt Nam trở nên giàu có, phồn thịnh trong nền kinh tế chiến tranh mới. Để chống lại tuyên truyền của Nhật về khu thịnh vượng chung Đại Đông Á - sự tuyên truyền này cũng hấp dẫn phần nào trong các thuộc địa do người Âu thống trị - Decoux đă tiến hành một loạt các cải cách nhỏ nhặt để “tranh thủ trái tim của người Annam”, như cấm gọi người Việt Nam là “mày” theo lối bề trên hay đánh dập người Việt Nam công khai. Vô h́nh chung, Decoux đă cung cấp cho phong trào cách mạng đang lên một số viên chức cai trị và quan liêu được huấn luyện bằng cách tăng gấp đôi số viên chức trung cấp và cao cấp trong ngành dân sự.


“HĂY CẦM VŨ KHÍ” - DE GAULLE

Chỉ có một nhúm người ở Đông Dương được biết đến lời kêu gọi đầu tiên của De Gaulle qua đài BBC về sự liên kết với nước Pháp tự do, phát đi ngày 18-6-1940 theo giờ London (19-6 ở Đông Dương). Trong số những người nghe được, chỉ có một số rất nhỏ những viên chức Pháp cao cấp nhận ra tiếng nói của đại tá Charles De Gaulle. Catroux là một trong số đó; cho đến khi bị Pétain cách chức hẳn, ông ta mới quay hẳn sang với “phái De Gaulle”. Dù sao th́ Đông Dương cũng đứng hẳn về phía Vichy cho tới năm 1944 và không chuyển sang phía De Gaulle cho đến lúc mà sự kết thúc cuối cùng cuộc chiến tranh ở châu Âu là chắc chắn rồi.
Ở Trung Quốc, lời kêu gọi của De Gaulle được một số người Pháp nghe được và một trong những người đó, Jean Escarra, một chuyên gia luật quốc tế đă từng làm cố vấn cho Quốc dân đảng, đă đáp lại lời kêu gọi và đi sang London. Ở đây, cùng với Lapie, cựu Toàn quyền Chad, và ông Hackin, cái bào thai tham mưu đối ngoại của De Gaulle đă h́nh thành để “liên lạc với các vụ khác nhau của Bộ Ngoại giao Anh và với các chính phủ lưu vong của châu Âu”.
Escarra sang Trùng Khánh vào giữa năm 1941 để tiếp xúc với Tưởng Giới Thạch, nhân danh De Gaulle, và để thu xếp những mối liên hệ chính thức giữa Quốc dân đảng và “nước Pháp tự do”. Với sự giúp đỡ của nhà thám hiểm André Guibaut, lúc đó cũng ở Trùng Khánh, và của nhiều sỹ quan trong quân đội Pháp đă rời Đông Dương, Escarra thành lập một cái khung mà về sau được biết tới dưới cái tên “Phái đoàn quân sự Pháp ở Trung Quốc”.
Theo lời kể của De Gaulle, ông đă có những “đại diện” của nước Pháp tự do hoạt động ở nhiều thủ đô trên thế giới và họ trực tiếp báo cáo với ông. Trong số nhiều cái tên được nhắc tới trong hồi ức của ông, có Schompré, Baron và François De Langlade ở Singapore, Guibaut và Béchamp ở Trùng Khánh. Trong số đó, De Langlade nổi bật lên như một kẻ tiên phong trong bộ máy bí mật của Pháp ở Viễn Đông. Là một người quản lư trước kia của các đồn điền cao su ở Malaysia, ông đă phục vụ cho t́nh báo Anh năm 1940 và đă cộng tác với cơ quan t́nh báo của nước Pháp tự do ở Singapore dưới quyền của trung tá Tutenges. Khi Singapore thất thủ năm 1942, tổ Tutenges - De Langlade sang Trung Quốc và móc nối với phái đoàn quân sự không chính thức của Escarra.
Sự có mặt mới của nước Pháp ở Trung Quốc không lẩn tránh được con mắt luôn luôn cảnh giác của Tai Li. Ông ta không cho phép bất cứ một hoạt động t́nh báo độc lập nào của Pháp ở đây. Escarra giới thiệu nhóm này với Tưởng và giành được một quy chế gần như chính thức cho nước Pháp tự do, với điều kiện họ chỉ hoạt động với BIS của Tai Li. Sự thu xếp tỏ ra không có hiệu quả. Tutenges và De Langlade tuy được tự do đi lại nhưng luôn luôn bị Trung Quốc giám sát. Nhưng sự thu xếp cũng thu được một điểm bù lại cho người Pháp: Tai Li, do sử dụng được những phương tiện của hạm trưởng Miles lấy từ OSS, đă cung cấp cho những nhân viên Pháp quỹ, đài phát và những tiếp tế đặc biệt. Nước Pháp tự do lập được một mạng lưới có thể làm việc được ở Đông Dương và cung cấp lại cho người Trung Quốc những tin tức về những sự bố trí của quân Nhật và những tin tức về các mục tiêu cho lực lượng không quân Chennault, bao gồm cả sự giúp đỡ cho các phi công nhảy dù của Mỹ khi cần thiết.
Những phương tiện của hạm trưởng Miles chỉ là một nguồn hỗ trợ cho những hoạt động bí mật rộng lớn và tốn kém của Tai Li. Một nguồn thu nhập quan trọng hơm là việc buôn thuốc phiện có lợi và những đường chợ đen từ Malaysia, Miến Điện và Thái Lan đi qua Đông Dương. Tai Li cần nắm được việc buôn bán ấy một cách liên tục, và ngay từ lúc bắt đầu cuộc chiến tranh Trung - Nhật, ông ta đă nhập bọn với kẻ quân phiệt hùng mạnh cai quản cửa tây nam vào Trung Quốc; tướng Trương Phát Khuê tỉnh Quảng Tây và tướng Lư Hán ở tỉnh Vân Nam. Cả hai tỉnh nằm sát với Đông Dương.
Để tự bảo vệ khỏi sự can thiệp của Mỹ mà ông coi là quá trong sạch, Tai Li ngay từ đầu cuộc chiến tranh đă yêu cầu người Mỹ không xen vào Đông Dương. Ông ta sau đó đă làm dịu ḷng người Mỹ bằng những hoạt động được cho phép của OSS ở Đông Dương với điều kiện sử dụng người Pháp hơn là người Mỹ.


GIRAUDISTES VÀ GAULISTES

Để đáp ứng những điều kiện của Tai Li, Donovan tiếp xúc với người Pháp ở Bắc Phi và gợi ư họ phái một số sĩ quan Pháp vào OSS để hoạt động t́nh báo ở Đông Dương. Người Pháp nhận lời và Donovan chỉ thị cho Miles, lúc từ Washington trở lại Trung Quốc, thảo luận vấn đề này với tướng Chennault. Đó là vào tháng 5-1943, khi Miles đang làm phó cho Tai Li trong SACO vừa mới thành lập.
Miles giành được sự phục vụ của một số sĩ quan hải quân Pháp nổi tiếng và đă được nhiều lần tặng thưởng huân chương thiếu tá Robert Meynier, một người trẻ tuổi theo Giraud(9), chỉ huy tàu ngầm. Ông ta không những nổi tiếng về những cuộc tấn công thắng lợi chống lại hạm đội Đức, mà tháng 11-1942 c̣n thực hiện được một cuộc chạy trốn nguy hiểm khỏi nước Pháp với chiếc tàu và toàn bộ thuỷ thủ tới Casablanca.
Theo những hồ sơ của OSS, Meynier dường như đă tuyển mộ được nhiều sĩ quan Pháp có kinh nghiệm ở Đông Dương và một số lính Việt Nam trong quân đội Pháp đóng ở Pháp. Nhóm này được huấn luyện trong một căn cứ của OSS gần Alger và đổ bộ lên Trung Quốc tháng 7-1943 để được huấn luyện ở căn cứ SACO, trong khi chờ đợi Meynier. Những hồ sơ chính thức nói đến điểm này rất không rơ ràng, đặc biệt về việc tại sao Meynier đi qua Washington trong khi tới Trung Quốc.
Meynier lấy một phụ nữ lai Âu - Á quyến rũ, được coi là một công chúa An Nam, cháu của cựu Khâm sai (phó vương) Bắc Kỳ và ủy viên Hội đồng tư vấn của Bảo Đại, Hoàng Trọng Phu. Năm l943, bà Meynier bị bắt giam trong nước Pháp bị chiếm đóng. Kế hoạch của Meynier rơ ràng là muốn dùng nhũng hiểu biết và ảnh hưởng của vợ ḿnh một cách đầy đủ, và đó là một điểm mà ông ta không tiết lộ ra cho đến khi tổ này sẵn sàng đi sang Trung Quốc. Với sự giúp đỡ của SOE và những phần tử kháng chiến Pháp, một hoạt động theo kiểu biệt kích của OSS đă giải thoát bà Meynier khỏi một trại tập trung của Đức, nhưng phải trả giá bằng nhiều mạng sống của người Anh và người Pháp. Bà ta được hộ tống đến một vùng hoang vắng, được đưa lên một chiếc máy bay Anh đi London, và sau đó bay tới Alger để gặp chồng.
Việc giải thoát bà Meynier đă tạo ra một cơn băo táp nhỏ trong cộng đồng t́nh báo và phơi bày ra những xung đột gây ra bởi cuộc đấu tranh quyền lực đang diễn ra giữa De Gaulle và Giraud, mà De Gaulle rơ ràng đă thắng thế. OSS che giấu SOE mục tiêu thật sự của Meynier, người theo Graud, v́ sự ủng hộ rơ rệt của SOE đối với cơ quan t́nh báo thuộc phái De Gaulle, BCRA(10). OSS cũng dựng lên một câu chuyện ngụy trang. Meynier bề ngoài được giao cho cầm đầu một hoạt động đặc biệt của OSS/USN(11) ở Philippines, được tiến hành từ bờ biển Trung Quốc và bà Meynier th́ trở thành một sĩ quan WAC(12) của Mỹ được chỉ định vào một “phái đoàn cao cấp” v́ thế mà vợ chồng Meynier đă bay từ Alger tới Washington.
Tuy nhiên, theo một nhận xét bí mật trong một thông báo của OSS/Alger gửi cho OSS/Washington, Meynier đă được cơ quan t́nh báo của Giraud giao cho một bảng mật mă riêng để sử dụng trong một hoạt động t́nh báo ở Đông Dương, và điều cần thiết là bảng mật mă đặc biệt ấy phải phù hợp với mật mă của cơ quan t́nh báo hải quân ở Washington.
Khi Meynier đến Trùng Khánh hồi tháng 8-1943 để tiến hành nhiệm vụ do Giraud giao cho, ông đă t́m thấy một phái đoàn quân sự Pháp chính thức mới thành lập do một người đại diện cho De Gaulle cầm đầu bên cạnh Tưởng Giới Thạch, tướng Zinovi Pechkov(13) (cũng gọi là Pechkoff và Petchkoff). Tướng Pechkov yêu cầu Meynier trao lại mật mă riêng và đặt ông ta dưới sự kiểm soát của Phái đoàn. Không cần phải thách thức công khai với Pechkov, Meynier phàn nàn với đại tá Emblanc, người kế tục Tutenges, về hậu quả của việc sứ mệnh của ông ta bị đối xử xấu. Ông ta nói rằng ông ta được Giraud chọn để tiến hành một “sứ mệnh rất khó khăn cho nước Pháp” và kế hoạch ấy đă được De Gaulle tán thành và ông ta, Meynier, định tiến hành kế hoạch đó dù phải làm việc bên ngoài Phái đoàn quân sự Pháp. Meynier gợi ư, có thể đó cũng là lời đe doạ che đậy, rằng ông ta có thể trông cậy vào sự ủng hộ của Miles và Tai Li để thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhưng Emblanc không chú ư lắm và từ chối ủng hộ sứ mệnh của Meynier.
Sự va chạm ấy đă phát triển thành một cuộc xung đột trong các người Pháp ở Viễn Đông. Nhóm Meynier bị coi là những kẻ theo Giraud và được người Pháp ở Đông Dương gọi là “Bộ tham mưu”, trong khi nhóm Pechkov - Emblanc được coi là những kẻ theo De Gaulle, đại diện cho nhóm dân sự kháng chiến ở Đông Dương, hoạt động từ Trung Quốc.
Tuy đă được thừa nhận chính thức, Phái đoàn quân sự Pháp ở Trùng Khánh vẫn vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của Tai Li, bị Tai Li lên án là đang do thám chính phủ Trung Quốc. Phái đoàn phản đối rằng Tai Li đang tiến hành việc giết hại những người Pháp yêu nước để đảm bảo cho sự lật đổ không bị ngăn cản của Trung Quốc đối với người Việt Nam ở Bắc Kỳ.
Trong lúc đó, nhóm Meynier, với sự giúp đỡ của Miles và Tai Li, đă tuyển mộ những nhân viên Việt Nam ở Trung Quốc và đă tiếp xúc với một người bà con giàu có của bà Meynier và với những viên chức thuộc địa người Pháp ở Hà Nội. Qua những liên hệ buôn bán của bà Meynier, vợ chồng Meynier đă thiết lập được liên lạc với những viên chức chống De Gaulle trong Chính phủ Decoux.
Chẳng bao lâu, nhóm Emblanc ở phái đoàn đă kêu lên về “cú chơi xấu” ấy. Bản thân Emblanc tuyên bố “Bộ tham mưu” là một công cụ của Vichy, làm việc cho những quyền lợi nước ngoài, không thù địch với tương lai nước Pháp, và bất cứ người Pháp lương thiện nào cũng nên ngăn cản điều đó. Hai phái Emblanc và Meynier vẫn duy tŕ mối hận thù cay đắng của họ suốt cả cuộc chiến tranh ở Viễn Đông.
Là người được hạm trưởng Miles bảo trợ, Meynier hiện ra trước con mắt của Tai Li với một vẻ thuận lợi nhất. Tai Li hoan nghênh những sự tiếp xúc với chế độ Decoux để làm dễ dàng cho việc buôn bán “nhập khẩu” của BIS/Đông Dương. Meynier cũng thuyết phục được Tai Li rằng phái đoàn quân sự Pháp đối nghịch với BIS. Có thể đoán chắc rằng đó là một sự tin nhau rất nhỏ v́ hai bên vẫn bắn tỉa lẫn nhau. Kết quả là đầu năm 1944, Tai Li ra lệnh cấm chỉ những phương tiện liên lạc của phái đoàn quân sự Pháp với Đông Dương. Điều đó làm tê liệt hoạt động của phái De Gaulle cho đến lúc tận cùng của cuộc chiến tranh.
Sứ mệnh của Meynier, có một ư nghĩa rất quan trọng trong việc chia rẽ người Pháp, là một thất bại của OSS. Nó rất ít có tiến bộ trong việc thâm nhập Đông Dương và OSS không nhận được những tin tức quân sự mà Donovan chờ đợi và Miles hứa hẹn. Tháng 12-1943, Miles bị cất khỏi chức đứng đầu OSS ở Viễn Đông và cắt những tiếp tế cho những cơ quan đó. Trong lúc đó, những sự rắc rối chính trị của Pháp tỏ ra quá mạnh và Donovan yêu cầu nhóm Meynier chuyển sang đặt dưới quyền kiểm tra và điều khiển hoàn toàn của Phái đoàn tướng Pechkov.

RESISTANCE(14) CỦA MORDANT

Ở Alger, Đông Dương vẫn được nhớ tới. De Gaulle nhắc lại trong hồi ức của ḿnh rằng: “Một số nhà chức trách Pháp ở Đông Dương dần dần quay về phía Chính phủ Alger. Ông François, một giám đốc ngân hàng từ Sài G̣n tới nói với tôi như vậy; ông De Boisanger, người đứng đầu ở Sở chính trị của Phủ toàn quyền (chính phủ Decoux), đă mở một ăng ten bí mật hướng về tướng Pechkov, đại sứ chúng tôi (sic) ở Trùng Khánh; tướng Mordant, Tổng chỉ huy quân đội, bí mật tiếp xúc với đại tá Tutenges...”.
Cuối năm 1943, ông François gửi một thông điệp của tướng Mordant cho tướng Giraud ở Alger, tỏ ư muốn hợp tác với Ủy ban giải phóng dân tộc Pháp (CFLN) ở Alger. Thông điệp được chuyển tới BCRA và cuối cùng tới De Gaulle. Ông đă viết trong hồi ức của ḿnh rằng: “Ngày 29-2-1944, tôi viết cho tướng Mordant để xác nhận với ông ta những thiện chí mà ông ta bày tỏ với tôi và nêu rơ với ông ta rằng Chính phủ chờ đợi ở ông ta và quân đội của ông ta đang nằm trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”. Bức thư của De Gaulle đáng lẽ được trao cho Mordant bởi ông François, nhưng việc trở lại Đông Dương của ông này bị hoăn lại và bức thư ấy được giữ ở BCRA (Alger) cho tới khi có những thu xếp khác 4 tháng sau đó.
De Gaulle, đoán trước sự đồng ư của Mỹ đối với sự tham gia của Pháp ở Viễn Đông, hồi đó đă chỉ định Blaizot làm chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (CEFEO), với sứ mệnh chính là giải phóng Đông Dương. Cùng lúc đó, các kế hoạch được vạch ra để hợp nhất những cơ quan t́nh báo của Giraud vào tổ chức BCRA. Những cơ quan hợp nhất hợp thành một tổ chức mới, Tổng nha công tác đặc biệt, viết tắt là DGSS. Mọi cách tiến hành chiến tranh không chính thống đều do DGSS hướng dẫn, bao gồm cả hoạt dộng chiến tranh chính trị ở Viễn Đông, do trung úy (sau đó là thiếu tá) François De Langlade cầm đầu.
De Langlade, người đă từng làm việc ở Ceylon với SOE/SEAC, tới Alger vào mùa xuân 1944 để báo cáo những hoạt động của ḿnh ở Đông Nam Á cho đại tá Escarra; rồi với Bộ tham mưu quốc pḥng đang phụ trách tất cả các phái đoàn quân sự ở nước ngoài, và tŕnh bày tóm tắt với đồng nghiệp cũ của ḿnh là đại tá Tutenges về t́nh h́nh Đông Dương. Tutenges, một chuyên gia về Đông Nam Á, là người đứng đầu Pḥng nh́ (bộ phận t́nh báo) của tướng Blaizot.
Khi nhận chức giám đốc DGSS/Viễn Đông, De Langlade yêu cầu De Gaulle ủng hộ về nhân sự và về quyền hành để thực hiện sự kiểm soát duy nhất đối với tất cả những hoạt động bí mật của Pháp về Đông Dương. Cả hai người, De Gaulle và René Pléven, Ủy viên thuộc địa, đồng ư điều đó. Thế nhưng, trước khi De Langlade đảm nhận chức vụ mới của ông ta, De Gaulle yêu cầu ông ta truyền đạt riêng cho tướng Mordant ở Đông Dương những chỉ thị cao nhất của ḿnh. Đó là lí do của việc De Langlade nhảy dù xuống Bắc Kỳ trong kế hoạch BELIEF I. Người Mỹ không biết ǵ đến những chỉ thị của De Gaulle cho Mordant. Thế nhưng, trước khi tôi sang Viễn Đông vào tháng 3-1945, tôi đă được biết một phần câu chuyện này từ tùy viên quân sự Mỹ ở New Delhi (qua những người Anh chống đối trong SEAC và do OSS/châu Âu cung cấp).
Chẳng bao lâu sau khi quân Đồng minh đổ bộ lên Bắc Phi, Mordant, người chỉ huy các lực lượng Pháp ở Đông Dương từ năm 1940, đă cảm thấy một sự bố trí mới ở nước Pháp và quay sang Chính phủ lâm thời của Pháp ở Alger; do đó mà có thông điệp của ông ta nhờ ông François mang tới cho Giraud năm 1943. Nhận được sự đồng ư của De Gaulle thông qua De Langlade, Mordant yêu cầu rút lui khỏi danh sách tại chức ngày 23-7-1943. Đô đốc Decoux đồng ư với yêu cầu ấy và cử phó chỉ huy là tướng Aymé làm tổng chỉ huy mới. Những chỉ thị bằng miệng của De Gaulle do De Langlade truyền lại đă chỉ định Mordant làm thủ lĩnh cuộc kháng chiến của người Pháp ở Đông Dương; việc từ chức của ông là để ông rảnh tay chuẩn bị cho “một cuộc đổ bộ của Đồng minh” chống người Nhật ở Đông Dương. Sau cuộc gặp gỡ Mordant - Aymé - De Langlade ở Hà Nội, De Langlade tới Calcutta, ở đó những người theo De Gaulle đă lập ra một Chi nhánh liên lạc Pháp ở Viễn Đông (SLFEO), và dàn xếp với người Anh để thả dù vũ khí, đạn dược, tiếp tế và những nhân viên của “nước Pháp tự do” cho Mordant. Chúng tôi biết được đại khái là người Pháp dự định dùng những căn cứ ở Ceylon và Ấn Độ.
Ở Đông Dương, những thay đổi diễn ra hỗn loạn. Mordant, chủ yếu là một quân nhân, không thông thạo những phương pháp bí mật; ông ta tiến hành các hoạt động của ḿnh như những hoạt động quân sự thông thường và rất ít bí mật. Ông ta coi phong trào kháng chiến gần như là một hoạt động quân sự và không nghĩ tới sự ủng hộ của dân chúng. Khi SLFEO thả dù những nhân viên dân sự đă được huấn luyện của họ xuống Đông Dương, và khi họ gợi ư nên tranh thủ sự cộng tác của người Việt Nam, th́ quân đội lẩn tránh và bướng bỉnh bác bỏ những lời khuyên bảo về chính trị và quân sự của các chuyên gia dân sự. Nhóm Mordant tiến hành công việc của họ mà hoàn toàn không tính đến sự an toàn và chẳng bao lâu, mọi người, kể cả người Nhật, đều biết đến những hoạt động của họ. Trong các tiệm rượu và tiệm cà phê, câu chuyện chính là huyền thoại người Mỹ sẽ đến, như họ đă làm ở Bắc Phi. Câu chuyện hoang đường ấy càng lặp đi lặp lại bao nhiêu th́ người ta càng tin chắc điều đó sẽ xảy tới nhanh chóng bấy nhiêu. Người ta tưởng tượng ra những cuộc đổ bộ của Đồng minh lên bờ biển Đông Dương, được một làn sóng cờ tam tài chào đón hợp thành một cuộc tấn công quy mô vào người Nhật. Những sự căn dặn của SLFEO phải giữ bí mật hơn và bớt phởn đi đă không ngăn nổi tinh thần cả tin của người Pháp, lần đầu tiên kể từ năm 1940, họ cảm thấy ḿnh cũng vẫn c̣n là một phần của nước Pháp.
Những câu chuyện ba hoa về việc Đồng minh đổ bộ, về việc đuổi người Nhật, về kháng chiến đă làm cho đô đốc Decoux và những kẻ ủng hộ ông ta trong giới thương nghiệp - công nghiệp Pháp lo ngại. Sau khi giải phóng Paris hồi tháng 8-1944, việc cai trị, nhân danh chính phủ Vichy đă chết, trở nên khó khăn. Nhưng De Gaulle, lo lắng đạt tới địa vị b́nh đẳng trong Đồng minh, đă không bỏ mất tḥi gian trong việc tuyên bố “nước Pháp mới” của ḿnh đang tiến hành chiến tranh với Nhật Bản. Điều đó đặt Decoux vào một vị trí đặc biệt tế nhị - không phải là bạn cũng không phải là thù - với người Nhật chiếm đóng, cũng không phải là đại diện hợp pháp của “nước Pháp mới”. Vị đô đốc già này báo cho chính phủ Paris và đại diện Pháp ở Trùng Khánh rằng chỉ có thông qua sự tiếp tục cộng tác với người Nhật mới giữ được chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Và ông ta phản đối tất cả những ǵ mà viên tướng náo động Mordant gây ra một phong trào kháng chiến ít được che giấu của ḿnh.
Những lời phản đối của Decoux rơi vào những cái tai điếc v́ ngày 12-9, De Gaulle bí mật chỉ định Mordant làm Tổng đại diện của ḿnh ở Đông Dương với đầy đủ quyền hành để đưa ra những quyết định chính trị và quân sự, trở thành đại diện của Chính phủ Pháp ở Paris, trong thực tế. Khi Decoux hay biết điều đó, ông ta đă chống lại. Một lần nữa, ngày 19-11-1944, De Langlade được phái tới Hà Nội, lần này là để thuyết phục Decoux đừng chống lại và đưa ông ta vào sự cộng tác với De Gaulle. Với những chỉ thị từ Paris phải kiên quyết với viên Toàn quyền bấp bênh này, De Langlade nhân danh Chính phủ Lâm thời Pháp ra lệnh cho Decoux phải giữ vị trí của ông ta, không được thay đổi chút ǵ về thái độ và quan hệ của ông ta với các nhà chức trách Nhật, để cho người Nhật không biết ǵ tới những kế hoạch của Pháp ở Đông Dương, và không biết ǵ tới phong trào kháng chiến. Viên đô đốc kiêu căng và ích kỷ này, hiểu ra t́nh h́nh và tương lai chính trị của bản thân ḿnh, đă chấp nhận mệnh lệnh của Paris và đồng ư tất cả.
Chưa đầy mười ngày sau (28-11), De Langlade lại trở lại Đông Dương để báo cho Decoux biết Chính phủ Paris đă lập một hội đồng Đông Dương bí mật để trông coi tất cả những vấn đề chính trị và quân sự. Decoux được chỉ định là “chủ tịch” Hội đồng. Cùng với ông ta, có Mordant là “phó chủ tịch”, tướng Aymé và 5 người trung thành với De Gaulle khác. Như vậy, Decuox bị tước mọi quyền hành ở Đông Dương và chỉ là “b́nh phong” cho Mordant.

PHẢN ỨNG CỦA NGƯỜI NHẬT

Đúng vào những tháng cuối cùng của ưu thế thuộc địa Pháp ở Đông Nam Á ấy, người Nhật vẫn yên trí bằng ḷng để cho người Pháp kiểm soát hành chính và thương mại cho đến lúc nào chưa có một sự can thiệp bên ngoài làm cho t́nh h́nh thay đổi khác đi. Nhưng chỉ cần nghe thấy tính thiếu thận trọng và những lời khoác lác, thách thức của những sĩ quan Pháp, của những viên chức chính phủ và của những kẻ thực dân, là họ đă cảm thấy có một cái ǵ hết sức đáng lo ngại đang xảy đến.
Người Nhật đă chịu những sự đảo ngược ở Miến Điện và Thái B́nh Dương, lo lắng trước sự náo động bên trong và sự biến động chính trị ở Đông Dương; và họ bắt đầu đề pḥng. Họ thay đạo quân đồn trú ở Đông Dương bằng đạo quân Thiên Hoàng chiến thuật thứ 38, dưới sự chỉ huy của trung tướng Yuitsu Tsuchihashi. Như tôi trực tiếp được biết mấy tháng sau đó ở Hà Nội, viên tướng này đă đoán trước được những chuyện rắc rối đối với phái De Gaulle và với “quân Etsumei (Việt Minh)” và đă xin phép Tokyo vào tháng 12-1944 cho tiến hành những biện pháp thích hợp để ngăn chặn một cuộc tấn công của Pháp, nhưng Tokyo đă bác bỏ yêu cầu đó.
Trung tá Tateki Sakai, một sĩ quan cao cấp ở Ban tham mưu của Tsuchihashi, hồi tháng 8-1945, đă kể cho tôi nghe về tâm trạng của người Nhật trong mùa đông trước đó: “Do cuộc hành quân Philippin của quân Mỹ, …toàn bộ bờ biển Đông Dương phơi ra cho... những cuộc đổ bộ của kẻ địch... Những đường giao thông của chúng tôi với chính nước Nhật có nguy cơ bị cắt đứt bởi các lực lượng hải quân và không quân có ưu thế của Mỹ và những người bản xứ Đông Dương đang chờ đợi nổi dậy khi kẻ địch (Mỷ) ném bom... Xứ Đông Dương thuộc Pháp cho đến nay vẫn chỉ là một khu vực giao thông th́ bây giờ đă trở thành một chiến trường”. Sau đó: “Việc tăng cường pḥng thủ trong khu vực này không thể bị coi thường. Khi đă thấy rơ sự tiến triển bất lợi về quân sự trên mặt trận phía Tây và phía Đông, quân đội Đông Dương thuộc Pháp rơ ràng muốn hoạch định việc chuẩn bị tác chiến chống lại Nhật, bắt đầu tuyển mộ dân bản xứ vào quân đội. Trong việc tuyển mộ này, họ đặc biệt tránh những người An Nam ngoan ngoăn và thân Nhật, và lấy các bộ lạc man rợ Mọi và Lào vào sư đoàn Bắc Kỳ. Hành động ấy bị chúng tôi chú ư v́ nó báo trưóc những mối liên hệ tương lai của nó với Trung Quốc”.
Về t́nh h́nh đặc biệt hồi tháng Giêng, trung tá Sakai nói: “Trong khi đó, quân đội chúng tôi tiếp tục nhận được những tin tức t́nh báo có giá trị như: “Bọn gián điệp Pháp vào Đông Dương qua đường không”; “Chúng đang liên lạc bằng vô tuyến điện với Ấn Độ và Trung Quốc”; “nhóm FFI(15) chịu trách nhiệm về những hoạt động ngầm”; “Toàn quyền Decoux trong một diễn văn đă sỉ nhục nước Nhật và ca ngợi Chính phủ De Gaulle”; “Dân bản xứ đang được tuyển mộ vào quân đội”; “quân đội Đông Dương thuộc Pháp đang phân tán ra các ngoại ô và các vùng nông thôn, và đang tập trung xây dựng những công sự pḥng thủ”. Lúc đó Đông Dương thuộc Pháp đă tỏ rơ thái độ đối địch với Nhật và vẫn c̣n cố che giấu những t́nh cảm bên ngoài của họ cho đến lúc các lực lượng Đồng minh đến”.
Nhưng, hồi tháng 12-1944, Tokyo đă không sẵn sàng đảo lộn nguyên trạng. Đạo quân Thiên hoàng chiến thuật thứ 38 mới được tổ chức lại c̣n thiếu các đơn vị chiến đấu, vẫn c̣n trên đường từ các khu vực ngoài Đông Dương tới, cho đến tháng 4-1945 nó vẫn chưa thể chiếm lĩnh được vị trí của nó. Trong số những lí do chính trị dài ḍng được đưa ra ở Tokyo, có lí do nói rằng trong trường hợp thất bại của Nhật, th́ tốt nhất không nên để Pháp đứng thêm vào những nước đ̣i bồi thường. Và trong t́nh thế ấy, khiêu khích người Pháp sẽ có lợi ǵ? Việc ủng hộ những nguyện vọng độc lập của người Việt Nam, như Tsuchihashi đă có lần gợi ư, cũng vô ích v́ rốt cuộc Đông Dương lại bị trả lại cho Pháp, bị Trung Quốc nuốt đi hoặc trở thành lệ thuộc của Liên Xô. Dù cái ǵ đang xảy đến, nước Nhật vẫn gánh chịu sự hận thù của người Pháp, và ở Tokyo đă đi đến kết luận rằng nên khôn ngoan tránh khỏi những vướng mắc chính trị ở đó và nên ở trong tư thế trao Đông Dương nguyên vẹn cho Pháp. Nhưng IGHQ(16) ở Tokyo lại cân nhắc hết sức thận trọng trong việc trả lời cho Tsuchihashi và chỉ thị cho ông ta chờ cho đến lúc nào quân đội của ông ta sẵn sàng chiến đấu đă.
Như vậy, nhiều tuần lễ trôi qua khi quân đội Nhật ở Đông Dương phải đối phó với vấn đề hoạt động ngầm của phái De Gaulle. Từ lúc khởi đầu vào tháng 8-1944 đến tháng 1-1945, hoạt động ấy phát triển om ṣm, nếu không phải là có hiệu quả. Từ mỗi bản doanh đều có những chỉ thị nói rằng các kế hoạch kháng chiến phải dựa vào một hoạt động ít tổn thất nhất: người Pháp không có kỳ vọng cuộc kháng chiến của họ sẽ là một hành động độc lập của người Pháp để giải phóng xứ này; trái lại, họ đều thừa nhận rằng họ chỉ tấn công người Nhật sau khi các cuộc đổ bộ của Đồng minh bắt đầu. Người Nhật ở Đông Dương đă biết rơ những kế hoạch ấy của người Pháp và đă nghĩ tới việc bảo vệ cho chính họ. Họ cũng không đánh giá thấp khả năng sau này là không có những cuộc đổ bộ trước khi Nhật thất bại và người Pháp trong trường hợp ấy tuy vốn rất ít dũng cảm nhưng vẫn có thể trả thù. V́ thế, người Nhật ở Đông Dương không có cách nào khác ngoài việc vô hiệu hoá quân đội Pháp trước khi Nhật thất bại, nếu nhu cầu phải tránh một cuộc tàn sát sau khi ngưng chiến.
Những gián điệp có kinh nghiệm hơn trong người Pháp hẳn phải thấy được việc cải tổ quân sự, những biện pháp tăng quân và những chuyển hướng ngoại giao của Nhật là những chỉ dẫn rơ rệt cho thấy rằng phong trào kháng chiến đang được chờ đón một cách thận trọng như thế nào. Nhưng Mordant và SLFEO đă có những hành động khác thường chỉ khiến cho người Nhật càng thêm nghi ngờ.
Hồi tháng Giêng và tháng Hai, Mordant ra lệnh di chuyển quân đội Pháp từ các thành phố và ngoại ô lên các vùng núi của Bắc Kỳ và Lào. Cuộc di chuyển ấy dựa trên sự tính toán là trong trường hợp Đồng minh tấn công, quân đội sẽ không bị nhốt kẹp vào những đồn đóng quân thời b́nh và có thể hoạt động như du kích ở những vùng ít dân cư. Làm thế nào để giúp cho các cuộc đổ bộ của Đồng minh ở những đồng bằng ven biển xa xôi, điều đó không được thảo luận kỹ lưỡng. Hơn nữa, những sự di chuyển quân đội của họ bị người Nhật theo dơi; và khi những viên chỉ huy Pháp di chuyển quân đội từ các vị trí chính qui của họ đi, th́ các đơn vị Nhật lại đi theo và đóng với một khoảng cách cần thiết.
Tháng 2, SLFEO ở Calcutta làm sống lại một cách dại dột huyền thoại về việc Đồng minh đổ bộ vào tháng 5, và những hoạt động sôi nổi lại bùng lên - nhưng bao giờ cũng ở dưới những con mắt giám sát của Kempeitai, cơ quan an ninh Nhật.
Do một sụ trùng hợp không may trong chiến tranh, 9 phi công Mỹ buộc phải nhảy dù khỏi máy bay trên Đông Dương trong thời kỳ đó, và 4 phi công đă bị người Pháp bắt giam. Người Nhật yêu cầu chuyển giao cho người Nhật giam giữ, nhưng đô đốc Decoux từ chối.
Người Nhật đă thấy quá đủ. Một quyết định được đưa ra để chấm dứt những hoạt dộng của Pháp. Ngày 9-3-1945, vào 6 giờ, giờ Sài G̣n, đại sứ Matsumoto trao cho đô đốc Decoux tại dinh ông ta ở Sài G̣n một tối hậu thư đ̣i các lực lượng vũ trang Pháp phải đặt dưới quyền chỉ huy của Nhật. Nhận được một sự trả lời không hài ḷng sau 2 giờ đồng hồ đă được qui định, người Nhật cho rằng Decoux đă bác bỏ tối hậu thư.
Trong ṿng 48 giờ, tất cả các viên chức Pháp, từ đô đốc Decoux cho tới những viên chức thấp nhất, đều bị tước quyền hành và bị bỏ tù hoặc bị tập trung lại. Các tướng Mordant và Aymé bị bắt. Cờ Pháp bị kéo xuống khỏi các nhà công cộng và các căn cứ quân sự. Các nhà công nghiệp chủ chốt và những người bị biết rơ là thuộc phái De Gaulle đều bị bắt giam như những tù chính trị. Tất cả sĩ quan và các đơn vị thuộc phái quân đội của Pháp đều bị giải giáp và giam giữ. Chỉ có mấy ngh́n quân Pháp đóng ở phía Bắc Kỳ và Lào là trốn thoát được cú vét lưới của Nhật. Và những người trốn thoát đă bắt đầu một cuộc rút lui bằng cách đi bộ sang Trung Quốc.
Chú thích :

(1) Nguyên văn: status quo-ante
(2) tức Whitaker
(3) thiếu tá, cựu giám đốc chi nhánh công ty Standard Oil ở Hải Pḥng
(4) thiếu tá, trưởng ban Nhật – Trung Quốc, SI-OSS
(5) ḷng tin
(6) phó giám đốc cục “P”
(7) ngày 20-6-1940
(8) những người theo Pétain - tiếng Pháp
(9) Cao ủy Pháp ở Bắc và Tây Phi, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Pháp
(10) Nha t́nh báo và hành động trung ương (BCRA), sau đổi thành DGER, chức năng tương tự như OSS và SOE
(11) USN (US Navy): Hải quân Mỹ
(12) WAC (Women's Army Corps): lực lượng nữ quân nhân
(13) trưởng phái đoàn quân sự Pháp ở Trung Quốc từ năm 1943
(14) cuộc kháng chiến
(15) lực lượng kháng chiến nội địa Pháp
(16) Tổng hành dinh quân đội Hoàng gia (Nhật)

Chương 6
Người Mỹ phát hiện ra Hồ Chí Minh

Khi các cường quốc bắt đầu xúc tiến các hoạt động bí mật ở Đông Dương th́ ở đó ít nhiều cũng đă có một số nhóm công tác ngầm. Một nhóm đại diện cho quyền lợi giới dầu lửa phương Tây. Một nhóm khác là phong trào dân tộc Việt Nam - Việt Minh. OSS đă có liên hệ ở mức độ nhất định với cả hai nhóm và trước khi rời Washington, tôi đă để ư nghiên cứu t́nh h́nh các nhóm này.


GBT: NHÓM GORDON
Điều đầu tiên gợi cho tôi chú ư đến nhóm GBT là bản báo cáo của AGAS/ Trung Quốc(1) nói về tin của nhóm GBT tường thuật cuộc tập kích đường không của Đồng minh trên vùng Sài G̣n.
Nhóm GBT cho biết 9 phi công Mỹ đă bị hoả lực đối phương bắn rơi và 3 trong số đó đă bị Nhật bắt. Tin tức tiếp sau lại chỉ rơ các phi công khác đă được người Pháp cứu và có thể sẽ không trao lại cho Nhật.
Sau đó độ một tuần, tin tức của nhóm GBT đă được xác nhận lại khi Hurley báo cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ biết là người Pháp ở Côn Minh phán đoán là giữa Pháp và Nhật sẽ nổ ra một cuộc khủng hoảng v́ đại sứ Matsumoto đă đưa ra cho đô đốc Decoux một số yêu sách, trong đó yêu cầu Pháp phải trao trả quân đội Nhật: “4(!) phi công Mỹ đă bị hạ trên đất Đông Dương và đă rơi vào tay người Pháp”.
Báo cáo của nhóm GBT về các nhân viên hàng không Mỹ đă làm tôi nhớ đến bức điện của đại sứ Gauss trước đó 6 tháng: “Người Trung Hoa và OSS hoạt dông thông qua nhóm Gordon, một tổ chức không được phái đoàn Pháp hoàn toàn ưa chuộng”. (Gordon là một người Anh, bề ngoài là đại diện của hăng Texas ở đó, nhưng bên trong th́ để nhiều thời gian làm công tác t́nh báo cho OSS và cho quân đội Mỹ. Khi tới Trùng Khánh, Gordon đă ở cùng với tùy viên quân sự của chúng ta).
Tôi muốn t́m hiểu nhóm GBT này nhưng cơ quan OSS đă chẳng cung cấp cho tôi được ǵ hơn, măi cho đến khi trung tá Duncan Lee gợi ư cho tôi phải hỏi đến OSS New York của chúng ta. Đến tháng 2-1945, tôi mới nắm được một ít t́nh h́nh về cái nhóm hai mặt ḱ cục này.
GBT là chữ tắt của các tên Gordon - Bernard - Tan. Nhóm GBT thuộc sự điều khiển của Laurence Laing Gordon, một công dân Anh sinh ở Canada. Trước đây Gordon là một chủ đồn điền cà phê ở Kénya, đă chuyển sang kinh doanh công nghiệp dầu lửa và phụ trách nhiều công tác khoan dầu ở Ai Cập, Trung Quốc và ở Madagascar.
Khi chiến tranh bùng nổ (1939-1940), Gordon là giám đốc công ty Cal - Texaco ở Hải Pḥng. Sau khi Nhật chiếm đóng Đông Dương, Gordon và gia đ́nh trở về California nhưng vẫn giữ quan hệ với các lănh đạo của Cal - Texaco. Vào năm 1941, Cal - Texaco khuyên Gordon trở lại trông nom quyền lợi của hăng ở Đông Nam Á. Nhưng chuyến đi của Gordon đă phải bỏ dở v́ Nhật đánh Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) và cũng từ đó, lănh đạo Cal - Texaco đă đặt kế hoạch cho Gordon xâm nhập vào Đông Dương dưới một cái vỏ bán công khai.
Câu chuyện ngụy trang của Gordon do Sir William Stephenson(2), thủ trưởng Cục phối hợp An ninh Anh xây dựng. Sau khi được cơ quan t́nh báo Anh tuyển mộ, Gordon được điều tới New Delhi và theo chỉ thị của Bộ chiến tranh Anh, được bí mật phong hàm đại uư t́nh báo. Nhiệm vụ của Gordon lúc đó là đến cộng tác với phái đoàn Pháp ở Trùng Khánh để xây dựng một mạng lưới t́nh báo ở Đông Dương.
Thoạt đầu Gordon muốn tranh thủ sự giúp đỡ của phái đoàn Pháp và nhận thấy ngay rằng việc đó sẽ chẳng mang lại một kết quả ǵ, không những chỉ v́ có sự hạn chế của tướng Tai Li mà c̣n do những chia rẽ v́ tranh giành về chính trị. Gordon liền xoay xở để có một chỗ dựa chính thức, t́m đến tùy viên quân sự của ta(3) và được giới thiệu với Đô đốc Yang Hsuan Cheng(4). Người Trung Hoa đă cho phép Gordon được hoạt động ở tỉnh Quảng Tây, nhưng với điều kiện không được cộng tác với các cơ quan t́nh báo Pháp.
Thoạt tiên, Gordon chỉ hạn chế hoạt động trong việc duy tŕ sự có mặt của ḿnh trong đám các nhân viên cũ của Cal - Texaco. Về sau, với danh nghĩa là một đại lư dầu hoả độc lập, Gordon đi khắp Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, nối lại các quan hệ cũ, tập họp những người Pháp và người Việt trung thành, vừa cung cấp khá nhiều xăng dầu và các thứ khác cho chợ đen của người Trung Hoa, vừa xây dựng một mạng lưới chỉ điểm để nhằm cứu văn tài sản của công ty dầu lửa. Như thế là ngẫu nhiên mà đă h́nh thành một cơ cấu sớm mang những đặc điểm của một tổ chức t́nh báo tài tử.
Trong năm đầu hoạt động, Gordon sử dụng tiền tài, đài vô tuyến điện và thiết bị máy móc của người Anh, nhân viên người Hoa, với sự cộng tác của hai người Mỹ, một là Frank (“Frankie'') Tan, dân Boston gốc Hoa, quen với Gordon khi ở Hải Pḥng, hai là Harry V. Bernard, một cựu nhân viên Cal - Texaco ở Sài G̣n.
Trong thời kỳ hoạt động khẩn trương 1943, nhóm GBT đă làm cho người ta thấy họ không thể thiếu được đối với người Trung Hoa và đội không quân thứ 14 của tướng Chennault. Lợi dụng tốt nhất các quan hệ Pháp và Việt, nhóm GBT đă thiết lập được ở khắp Đông Dương một mạng lưới năng nổ các đài vô tuyến và trạm thu tin t́nh báo. Nhân viên của họ tuy không được đào tạo chuyên môn nhưng vẫn là nguồn cung cấp tin chủ yếu về Đông Dương trong những năm 1942-1943.
Sau khi hợp nhất tổ chức OSS và AGFRTS(5) tháng 4-1944, người Anh yêu cầu tướng Donovan sử dụng nhóm GBT và tất nhiên là phải trợ cấp cho họ. Lúc đầu, Gordon tỏ ra bướng bỉnh, muốn duy tŕ một kiểu hoạt động độc lập ngoài sự ràng buộc bởi lợi ích dân tộc và lề lối quan liêu bàn giấy. Nhưng sau, nhận thấy sự hỗ trợ hạn chế của người Anh, thấy tài nguyên và thế lực ngày càng lớn của OSS trên chiến trường Trung Quốc, Gordon cuối cùng đă phải nhận cộng tác với OSS/AGFRTS và đă tham gia vào các chiến dịch tâm lư (MO) của OSS. Tháng 9-1944, OSS cử trung uư Charles Fenn(6) làm sĩ quan liên lạc đến nhóm này. Về sau, trong khi mở rộng hoạt động của ḿnh, OSS lại gia tăng nỗ lực để kiểm soát chặt chẽ nhóm tự do GBT hơn. Gordon không vừa ḷng nên cuối cùng đă tự tách ḿnh ra khỏi OSS/AGFRST và đi theo AGAS. Nhưng đến tháng 2-1945, Fenn lại được bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc của OSS với AGAS và do đó tái lập lại mối quan hệ với tổ chức GBT lúc ấy đang cộng tác với AGAS. Trung uư Fenn tiếp tục giám sát Gordon cho OSS.
Cuộc đảo chính tai hại của Nhật vào tháng sau đă làm cho mọi hoạt động của Gordon tiêu tan không thể tránh khỏi.

TRƯỜNG HỢP “ÔNG HỒ”

Các báo cáo của nhóm GBT đều khẳng định mọi thành công trong việc giải thoát được người của Đồng minh từ sau vùng bị Nhật kiểm soát là nhờ ở sự tổ chức và cộng tác có hiệu quả của những người Việt “phiến loạn” thuộc một phong trào chính trị vững mạnh đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, được coi là có xu hướng thân Matxcơva, nhưng người Nhật, Trung Hoa và Pháp nói chung lại gọi họ là “cộng sản”. Trong các báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ, AGAS và OSS/AGFRTS, họ lại thường được kêu là phần tử “thân Đồng minh”, “chống 'Nhật” và “chống thực dân”. Về phần ḿnh, tôi cho rằng nhóm người này cũng giống như những người du kích chống phát xít châu Âu, có thể hỗ trợ nhiều cho các nỗ lực chiến tranh của chúng ta ở Đông Nam Á.
Lục trong đống hồ sơ, tôi đă t́m được một số thông báo của các nhà ngoại giao ta ở Trùng Khánh, Sài G̣n và Côn Minh, đề ngày tháng từ 1940 nói về các hoạt động của phong trào dân tộc này. Các bản thông báo đầu tiên phản ánh quan điểm của người Pháp đánh giá người Việt Nam “non nớt về chính trị, có thái độ lănh đạm và thân Pháp”. Nhưng khi phong trào do đă có đà phát triển mạnh và sự chống đối với các nhà chức trách Pháp, Nhật đă trở thành công khai thù địch hơn; người Pháp, người Nhật và cả một số quan chức trong cơ quan đối ngoại của ta bắt đầu gán cho những người trong phong trào đó danh hiệu là “cộng sản”.
Chắc chắn rằng trong số lănh tụ phong trào quốc gia đó cũng có mặt các phần tử thân Matxcơva, nhưng đa số những người lănh đạo nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập ấy chỉ là một khối hỗn hợp, trong đó bao gồm thành phần của mọi xu hướng chính trị, từ các tín đồ tôn giáo cho đến những người bảo hoàng theo ông hoàng Cường Để thân Nhật, từ những người Việt không Cộng sản, thân Trung Quốc, lưu vong ở Hoa Nam cho đến những người Cộng sản triệt để đi theo đại biểu Xô-viết Hồ Chí Minh.
Qua tập hồ sơ, tôi thấy lần đầu tiên người ta đề cập đến Hồ Chí Minh trong một bức điện của Đại sứ Gauss ghi ngày 31-12-1942. Bức điện đă nhắc tới một bản thông báo trước đó nói về việc người Trung Hoa bắt giữ một lănh tụ Việt Nam “một người An Nam tên là Ho Chih Chi (?)” (sic) và được biết là giam ở Liễu Châu, Quảng Tây ngày 2-9.
Một năm sau, đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh đă gửi về Bộ Ngoại giao hai bức thư của Ủy ban Trung ương hiệp hội Quốc tế chống xâm lược Đông Dương. Một bức viết bằng tiếng Pháp gửi cho Đại sứ Mỹ, một bằng tiếng Trung Hoa gửi cho thống chế Tưởng Giói Thạch. Cả hai bức thư đều đề ngày 25-10-1943, Hà Nội, nhưng mang dấu bưu điện 25-11-1943, Tŕnh Tây(7). Bức thư gửi đại sứ Mỹ yêu cầu Đại sứ ủng hộ “Hiệp hội” trong việc đ̣i tha cho “đại diện Hồ Chí Minh của chúng tôi”. Bức thư cho Tưởng đ̣i Tưởng trả lại tự do cho Hồ Chí Minh, để tiếp tục lănh đạo các hội viên Hiệp hội hoạt động chống Nhật.
Trong hồ sơ của OSS chúng tôi, chỉ có thấy nhắc đến Hồ Chí Minh trong bản báo cáo của Powell thuộc OWI(8) ghi ngày 28-8-1944 và trong bức điện của William R. Langdon, tổng lănh sự Mỹ ở Côn Minh, xin ư kiến Bộ Ngoại giao về việc xin thị thực nhập cảnh cho Hồ Chí Minh vào nước Mỹ.
Lúc đó cái tên Hồ Chí Minh liên tục xuất hiện trong các tài liệu hồ sơ hàng năm của OSS đă thu hút sự chú ư của tôi. Tôi liền t́m hỏi Austin Glass, một người bạn thân và là chuyên gia về các vấn đề Đông Dương. Anh ta có biết “người bạn An Nam” này, nhưng lại không rơ bây giờ ông ta lấy tên ǵ và Glass cũng chẳng giúp cho tôi t́m được ông ta ở đâu v́ ông ta không có nơi ở nhất định. Glass chỉ nói: “Hăy kiếm ông ta ở Bắc Kỳ”.
Qua nhiều cộng tác viên khác của OSS tôi được biết Nha Viễn Đông sự vụ Bộ Ngoại giao cũng đang loay hoay t́m bắt mối với “Ông Hồ” và xem xét trường hợp của ông. Người bạn đồng nghiệp của tôi ở đó đă bắt tôi phải cam đoan giữ tuyệt đối bí mật mới cho phép tôi được xem tập hồ sơ những “tin tức chỉ để tham khảo” chứ không phải “để giải quyết” của Bộ. Theo tôi, đúng là t́nh h́nh đă được thổi phồng lên quá mức trong tài liệu của Bộ Ngoại giao.
Như vậy, thoạt tiên Hồ Chí Minh đă được những người Mỹ ở Trung Quốc chú ư vào khoảng 4 tháng sau khi ông bị bắt ở Quảng Tây (nay được xác định là vào ngày 28-8-1942). Bằng một nước cờ tài t́nh nhằm thu hút sự chú ư của người Mỹ nhưng đồng thời cũng làm cho Quốc dân đảng Trung Quốc bối rối, ông Hồ đă dựa vào sự giúp đỡ của bạn bè cho đăng trên đại công báo, tờ báo hàng ngày ở Trùng Khánh, một bài tiết lộ sự tồn tại của một chính phủ lâm thời do Trung Quốc dựng lên cho Đông Dương. Bài báo xuất hiện ngày 18-12-1942 và lập túc được ngay hăng UP tóm lấy để chuyển về New York và Washington.
Bản tin của UP đă gây ra một sự ngao ngán đáng kể trong giới ngoại giao Trung Quốc, Pháp và Mỹ ở Trùng Khánh. Chỉ vài giờ sau khi tin này được công bố tại Mỹ, Đại sứ quán của chúng ta ở Trùng Khánh phải chỉ thị cho một trong số những sĩ quan trẻ tuổi sắc sảo Cục Đối ngoại, Philip D. Sprouse(9) tiến hành diều tra về vấn đề này. Sprouse đă báo cáo là bài báo do một phóng viên của tờ Đại công báo tên là Hsu Ying viết dựa theo tin tức của một người Đông Dương không rơ căn cước nhưng được coi là một người Cộng sản. Sprouse cũng có đến gặp J. Fisbacher, đại diện “những người Pháp chiến đấu” theo De Gaulle ở Trùng Khánh. Fisbacher nói không hay biết ǵ về một “chính phủ lâm thời” cho Đông Dương nhưng lại cho Sprouse xem một bức thư (cũng từ một “người An Nam” không được xác minh!) gửi cho thông tín viên địa phương của hăng Reuters phản đối việc nhà cầm quyền Trung Quốc ở Liễu Châu đă bắt giữ ngày “2-9-1942” một người An Nam tên là Ho Chih Chi(?) “được xác nhận là lănh tụ Đông Dương Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược”. Theo Sprouse, Fisbacher đă hăm hở gạt bỏ không những bài báo mà cả bức thư gửi cho Reuters và tỏ ư mong rằng cơ quan sứ quán Mỹ hăy bỏ qua đừng quan tâm đến chuyện này nữa.
Nhung cả Gauss và Sprouse đă không hoàn toàn bỏ rơi câu chuyện. Theo thường lệ, ngày 31-12, Gauss báo cáo về Bộ những điều đă khám phá ra được, kèm theo bản tường thuật của Fisbacher và nêu nhận định của Gauss có thể đồng ư với quan điểm của Pháp là không có “Chính phủ lâm thời” nhưng điều đó chưa thực chắc chắn lắm. Việc các nhà đương cục Trung Hoa vội vàng gạt bỏ câu chuyện và người Pháp đă quá nhậy cảm đối với quyền lợi của Mỹ trong các vấn đề Trung - Việt đă gây cho Gauss nhiều sự nghi ngờ.
Gauss đă không chững lại. Khi rời Trùng Khánh về Washington xin chỉ thị, Gauss đă đề nghị với đại diện lâm thời George Atcheson Jr. cho tiếp tục công việc. Ngày 20-5-l943, được sự đồng ư của trên, J.S. Service(10) và Sprouse đă tổ chức một bữa ăn với G. Wang, thông tín viên UP ở Trùng Khánh và ban biên tập Đại công báo, trong đó có người phóng viên độc đáo, ông Hsu Ying. Trong cân chuyện hôm đó, Hsu Ying đă nói chi tiết về nguồn gốc bài báo, đồng thời lại tiết lộ cho biết có hai tổ chức tuy có liên quan với nhau nhưng khác hẳn nhau, cùng tồn tại trong những người Việt lưu vong ở Trung Quốc và Hoa kiều hải ngoại.
Nhóm thứ nhất gọi là “Đông Dương Cách mạng Đồng minh Hội”, thành lập ở Liễu Chân dưới sự bảo trợ của tướng Trương Phát Khuê(11). Lănh tụ của họ gồm toàn người Hoa kiều nhưng nghe nói họ cũng có khoảng chừng 2.000 lính An Nam được giới quân sự Trung Quốc huấn luyện.
Nhóm thứ hai là ṇng cốt của “Chính phủ lâm thời Đông Dương”, gồm toàn người Việt và dựa vào Quốc dân đảng. Lănh tụ của nhóm là một người Việt tên là Wu Fei, người này đă có lần đến Trùng Khánh, gặp bác sĩ Chu Chia Hua (12). Cái gọi là Chính phủ lâm thời này được tổ chức bởi hai đảng - Quốc dân đảng (không có quan hệ với chính phủ Trung ương Trung Hoa) và đảng Bảo hoàng. Có tin “Chính phủ” của họ đă có độ 12.000 quân du kích đang hoạt động ở miền bắc Bắc Kỳ, giáp biên giới Trung Quốc.
Ngày 28-5, Atcheson đă gửi bản báo cáo công tác của Sprouse cho Bộ Ngoại giao để hỏi ư kiến của John Carter Vincent(13). Carter Vincent tuyên bố không biết ǵ về các tổ chức nói trên nhưng biết có người nào đó thuộc một nhóm quốc gia Đông Dương “không phải đă bị bắt cầm tù mà chỉ bị các nhà chức trách Trung Quốc ở Liễu Châu giám sát chặt chẽ không cho tự do hoạt động”. Vincent cho rằng người Trung Hoa đă nghi nhóm người Đông Dương nói trên được cảm t́nh của cộng sản và đang xúc tiến thành lập một Chính phủ lâm thời Đông Dương trên đất Trung Quốc, mà theo ông th́ chủ trương này không được Trung Quốc tán thành (14).
Nhưng Vincent, trước đây là quyền cố vấn đại sứ quán Mỹ lại nghĩ rằng người Pháp ở Trùng Khánh cũng nghi ngờ người Trung Hoa “đang mưu toan xúc tiến một cuộc vận động nhằm thiết lập một Chính phủ lâm thời ở Đông Dương” và phỏng đoán nhóm người Việt ở Liễu Châu đă được họ giúp đỡ để thực hiện ư đồ đó. Vincent đă nhắc tới việc Boncourt, cựu cố vấn đại sứ quán Pháp tại Trùng Khánh, cùng nhiều nhà chức trách Pháp đă tỏ ra rất mẫn cảm đối với mọi gợi ư về việc Trung Quốc có kế hoạch nhằm tranh chấp chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Bộ trưởng Hull không hài ḷng về thái độ lững lờ của Bộ Ngoại giao đối với trường hợp “ông Hồ”, ngày 30-6 đă điện cho đại sứ quán ta ở Trùng Khánh biết là t́nh h́nh “chưa hoàn toàn rơ ràng” và Hull muốn có một bản báo cáo bằng công văn tỉ mỉ hơn, kèm theo nhận xét của đại sứ quán về vấn đề này. Bản phúc đáp của Sprouse ngày 21-7 không nói ǵ đến việc ông Hồ bị bắt hoặc bị giam giữ mà chỉ xác định lại các báo cáo trước đó và phản ánh quan điểm của người Pháp cho rằng phong trào của người Việt Nam nói trên không có ǵ đặc biệt quan trọng trong lúc này. Sự việc này đă dừng lại ở đó vào tháng 7-1943.
Cố gắng đầu tiên của ông Hồ để thoát khỏi bị giam giữ và tranh thủ sự công nhận chính thức của Đồng minh đă không đi tới đâu. Câu chuyện trên tờ Đại công báo tuy có làm cho giới ngoại giao xôn xao ít nhiều nhưng rồi cũng bị lắng ch́m đi trong cái biển quan liêu của Bộ Ngoại giao.

OSS VÀ “ÔNG HỒ”

Nhưng t́nh h́nh đă đổi khác, khi mà ở Trùng Khánh OSS ra sức xây dựng một hệ thống tổ chức hoạt động bí mật có hiệu quả. Đại diện của Mao Trạch Đông ở Trùng Khánh đă tiếp xúc với các sĩ quan OSS và SACO, và gợi ư rằng bằng con đường điều đ́nh riêng có khả năng khiến cho nhà lănh tụ Việt Nam đi theo phe Đồng minh.
Như chúng ta đă rơ, 1942 và 1 943 là những năm khó khăn cho hoạt động bí mật của Mỹ ở Đông Nam Á. V́ những lư do khác nhau, cả hai nước Pháp và Trung Quốc đều tỏ ra dè chừng đối với Mỹ, và cả hai đều đă từ chối không chịu tŕnh bày ư đồ của ḿnh hoặc cộng tác với Mỹ về các chủ trương chính sách đối với Đông Dương. Thực tế, họ đă có mưu đồ cách ly người Mỹ với các kế hoạch của họ. Pháp th́ muốn ve văn cảm t́nh và sự ủng hộ của người Anh, cùng là nước thực dân như nhau, để loại trừ người Mỹ. C̣n Trung Quốc lại lo giành thế mạnh trên bàn đàm phán hoà b́nh sau này về các vấn đề đặc quyền ngoại giao và nhượng địa của Pháp ở Trung Quốc, nên Trung Quốc đă mưu tính với những người quốc gia Việt Nam nhằm thừa cơ hất cẳng Pháp ra khỏi thuộc địa cũ của Pháp.
Bằng nhiều con đường kín đáo khác nhau, gợi ư của những người cộng sản Trung Quốc đă được chuyển tới các đại diện của OSS ở Trùng Khánh. Không cho cả Miles và Tai Li biết, các đại diện của OSS đưa vấn đề ra thảo luận với OWI, với nhân viên Đại sứ quán; và họ đă đồng ư sẽ cho xúc tiến một cố gắng chính thức nhằm kéo Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù và điều đ́nh để ông cộng tác với OSS.
Bây giờ chúng tôi mới hay là, cũng trong mùa hè và mùa thu 1943, khi OSS xúc tiến thương lượng qua đường ngoại giao và quân sự để giải thoát ông Hồ th́ lúc đó tướng Trương Phát Khuê cũng đă làm áp lực để buộc ông hoạt động cho Quốc dân đảng. Trương đă gặp nhiều khó khăn rắc rối với các nhóm người Việt lưu vong ở Hoa Nam mà sự chia rẽ chống đối nhau về phương pháp tiến hành đấu tranh và những sự tranh giành quyền lực giữa các lănh tụ đảng phái đă che lấp mất mục tiêu thống nhất đấu tranh giành độc lập đất nước họ đang theo đuổi. Trương đă lập luận rằng nếu muốn lợi dụng được các nhóm này để phục vụ cho Quốc dân đảng th́ trong chiến tranh hay thời b́nh họ phải được thống nhất và tổ chức lại thành một khối thuần nhất thân Trung Quốc - Hồ Chí Minh đă được coi như là con người thích đáng nhất để đảm nhận công việc đó và “để giúp chấn chỉnh” Đồng minh Hội(15), mặt trận quốc gia do Trung Quốc đỡ đầu.
Tháng 11 năm đó được xem như là thời điểm mà Hồ Chí Minh đă được người Mỹ nghĩ tới, người Trung Hoa và các bạn Cộng sản của ông ở Việt Nam cho là biệt tăm v́ họ chẳng được tin tức ǵ về số phận của ông ở Quảng Tây. Lúc đó cũng là lúc có hai bản kiến nghị xin tha cho ông được gửi đi từ Hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Tài liệu Bộ Ngoại giao cho thấy con người lanh lợi Sprouse đă tŕnh ngay bản kiến nghị cho Đại sứ và đề nghị gửi về Washington, kèm theo một công văn chuyển giao do Sprouse thảo. Nhưng cái lối làm việc quanh co ở đây đă giúp cho Đại sứ quán lẩn tránh được nhiệm vụ gay cấn phải giải quyết các vấn đề chính trị của người Pháp ở Đông Dương. Trong công văn, Sprouse đă ghi “người An Nam” chính là người được coi là đă bị bắt, là người đă được báo cáo gần một năm trước đây. Nhưng Gauss lại đề nghị Bộ trưởng “không nên phúc đáp bức thư của tổ chức người An Nam” khi mà người Pháp đă từ chối mạnh mẽ không công nhận sự tồn tại của “Hiệp hội”.
Lúc đó bản thân Đại sứ Mỹ cũng đang bị rối bận về các mối quan hệ Mỹ - Trung, một mặt là các vấn đề gay cấn trong cấp chỉ huy, giữa huân tước Mounbatten và Tưởng Giới Thạch, mặt khác là mối hận thù giữa Stilwell và Chennault. Các việc nhỏ nhặt khác như vấn đề Đông Dương đều được giao lại cho cơ quan giải quyết. Nhưng cơ quan, đặc biệt là Sprouse lại thường xuyên chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi Phái đoàn Pháp theo De Gaulle trong các sự vụ ở Đông Dương. Các quan chức phụ trách phái đoàn đă để nhiều thời gian và công sức thuyết phục người Mỹ rằng tất cả mọi người Việt Nam đều thân Pháp và mong đợi lực lượng thân De Gaulle quay trở lại, ở đó không có phong trào độc lập dân tộc quan trọng nào mà chỉ có người Trung Hoa khuyến khích một số ít người Việt bất măn gây rối cho người Pháp. Bức thú gửi cho Hull, phản ánh ảnh hưởng của Pháp với Sprouse, đă kết luận “h́nh như không có cơ sở để nghĩ rằng các tổ chức quốc gia Đông Dương không đại diện ǵ cho một cái ǵ khác hơn là một mưu toan của Trung Quốc nhằm phơi bày một thái độ hữu nghị đối với các dân tộc bị lệ thuộc châu Á và đồng thời cũng nắm trong tay một hạt nhân tổ chức để phục vụ cho “những t́nh huống có thể xảy đến” sau này. Bức thư - báo cáo đến Washington ngày 12-1-1944 và đă được chuyển cho nhiều cơ quan để “biết và làm tài liệu”.
Mấy ngày sau, Lănh sự quán của chúng ta ở Quế Lâm đă báo cáo là lănh tụ của Đảng Cộng sản là “một ông Hoàng nào đó, đă từng cộng tác lâu năm với đảng Cộng sản Trung Quốc... Cơ quan lănh đạo của phong trào đóng trong vùng phía nam tỉnh Vân Nam”. Đây hầu như là điều chắc chắn ám chỉ ông Hồ, nhưng tên th́ chưa được xác nhận; đây không phải là “đồng chí Vương” như người ta đă nhiều lần được biết tên ông ở Quảng Đông, Liễu Châu và Côn Minh.
Hồ sơ của Bộ Ngoại giao đă cung cấp những tin tức có giá trị về vấn đề Powell/Langdon xin giấy phép nhập cảnh cho Hồ Chí Minh 6 tháng trước đó. Powell thuộc cơ quan OWI đă đến gặp Langdon, Tổng lănh sự Mỹ ở Côn Minh và yêu cầu cấp thị thực nhập cảnh cho một người Đông Dương gốc Hoa “Ho Ting Ching”. Powell cho biết các nhà chức trách OWI New York đă định thuê người này trong một thời gian dài để phát thanh các bản tài liệu dịch tiếng Việt của OWI từ San Francisco.
Langdon đă trả lời là sẽ đồng ư cấp giấy nếu OWI yêu cầu và nói thêm rằng “Ho Ting Ching” cần phải xin một giấy phép thông hành do Chính phủ Trung Hoa cấp để đến công tác tại nước Mỹ và Langdon đă tỏ ra không tin là Ho Ting Ching đă có giấy đó. Langdon cũng lại cho biết trong bất cứ t́nh huống nào người Pháp cũng sẽ “rất bất b́nh” nếu “Ho Ting Ching” được đoán chừng cũng có thể là một người có quốc tịch Pháp, được đưa đến nước Mỹ để tuyển dụng vào làm nhân viên nhà nước mà người Pháp không được hỏi ư kiến trước.
Thấy có khả năng xảy ra nhiều điều phức tạp, Langdon đă hỏi xem ư kiến Bộ. Vấn đề được đặt ra cho Washington vào tháng 12-1944 và được chuyển tói Sprouse(16). Sprouse đă phải chuẩn bị một bản bị vong lục nói về “ông Hồ” cùng với những hoạt động và quan hệ của ông với OWI Côn Minh. Nhưng chứng chỉ nhập cảnh đă không được cấp.
Vấn đề xin nhập cảnh cũng như bài đăng trên Đại công báo và các kiến nghị xin trả tự do cho ông Hồ đă nằm chết trong đống hồ sơ của Bộ Ngoại giao. Nghĩ tới các bản danh sách các nạn nhân chiến tranh bi thảm của chúng ta trong những thập kỷ vừa qua, người ta chỉ có thể đau xót, hối tiếc đă để lỡ mất những cơ hội có khả năng làm chuyển biến thời cuộc đi theo một hướng khác như đă được tŕnh bày ở trên. C̣n đối với tôi lúc đó, ít ra tôi cũng đă nắm được một số đầu mối tổ chức kháng chiến của những người Việt Nam vào đầu năm 1945. Đó là một việc mà tôi cảm thấy có thể sẽ có ích cho tôi ở Trung Quốc. Nhưng lúc đó th́ tôi không nhận thức được rằng những hồ sơ bị xếp xó đó và những cuộc điều đ́nh của OSS ở Trùng Khánh đă thể hiện một cố gắng nhất định của Hồ Chí Minh chỉ nhằm để làm cho Mỹ chính thức công nhận “sự nghiệp” của ông ta.
Khi Hồ Chí Minh c̣n là khách của tướng Trương Phát Khuê tại nhà tù Tiên Dao th́ Wendell Wilkie đến thăm Trung Quốc vào tháng 10-1942. Qua các báo chí cũ và các tin tức phát thanh bập bơm, ông Hồ cũng nắm được các sự kiện xảy ra trên thế giới và những lời công bố của Wilkie, và đă phát hiện được sự căng thẳng trong quan hệ giữa Mỹ, Anh, Pháp về vấn đề chủ nghĩa thực dân. Khi rời Trung Quốc Wilkie đă tuyên bố là người châu Á đang yêu cầu thi hành các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương phù hợp với điều kiện đặc biệt của đất nước họ. Sau đó ông Hồ lại được đọc trên báo chí Trung Quốc những tin tức mới, những lời b́nh luận về cuộc trao đổi ư kiến giữa Churchill và Roosevelt về việc thi hành Hiến chương Bắc Đại Tây Dương. Vào 1945, trong một phút giễu cợt hiếm có của ông, ông Hồ đă hỏi tôi “phải chăng Hiến chương Bắc Đại Tây Dương chỉ là một bạn cùng đôi với 14 điểm Wilson được áp dụng cho các nước người da trắng châu Âu, ngoại trừ các nước thuộc địa Á – Phi”(17).
Trong những năm 1942-1944, vấn đề tự do của tất cả các dân tộc phụ thuộc đă trở thành một vấn đề quan trọng và người Mỹ đă nổi lên như một quán quân bênh vực cho lư tưởng này. Roosevelt và Cordell Hull yêu cầu các cường quốc thực dân châu Âu theo gương người Mỹ ở Philippin trong việc đặt nền tảng cho việc thực hiện độc lập của các nước thuộc địa cũ của họ. Roosevelt đă có lần nhấn mạnh quá mức đến nước Pháp ở Đông Dương và nói đến nền cai trị Pháp ở đây như là một điển h́nh nổi bật của chủ nghĩa thực dân áp bức bóc lột nặng nề.
Điều đó đă làm cho huân tước Halifax(18) phải yêu cầu Hull ngày3-1-1944 giải thích rơ hơn về ư đồ của Tổng thống Roosevelt. Theo bộ ngoại giao Anh th́ Tổng thống Mỹ đă “xác nhận phần nào” những lời tuyên bố trong dịp đi Cairo và Téheran của ông với nội dung là “Đông Dương có thể sẽ được tách ra khỏi nước Pháp và đặt dưới quyền ủy trị quốc tế”. Halifax cho biết thêm là bản thân ông cũng đă nhiều lần được nghe Tổng thống có ư kiến như vậy nhưng không biết chắc những lời phát biểu đó của Tổng thống có phải đă là kết luận cuối cùng không. Người Anh ngại rằng những lời nhận xét đó của Tổng thống có thể tới tai người Pháp và sẽ gây ra nhiều sự lúng túng lớn.
Hull đảm bảo với Halifax là ông ta cũng chẳng biết ǵ hơn về việc này và gợi ư rằng có thể tốt hơn hết là Tổng thống và Churchill nên trao đổi với nhau về vấn đề này trong một cuộc gặp gỡ sau nào đó.
Câu chuyện giữa Halifax và Hull đă gây ra những tiếng vang xôn xao. Hai ngày sau, S.K. Hornbeck, cố vấn chính trị Bộ Ngoại giao, đă thông báo cho Hull biết tin nhà chức trách Trung Quốc đă nhiều lần tuyên bố rằng mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng lại không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số các điều bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động không thân thiện đối với quyền lợi của người Trung Hoa sau này. Nói tóm tắt là tương lai của Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu như không có mặt người Trung Hoa trên bàn Hội nghị Hoà b́nh. Chính trong bối cảnh của việc nhận thức mới này về sự quan trọng của Đông Dương mà Trung Quốc và OSS đă sử dụng Hồ Chí Minh trong năm 1944-1945.
Sau vụ “hạ tầng công tác”(19) ở Đồng minh Hội, ông Hồ thấy rằng ḿnh đă có một cương vị vững vàng để tự do hoạt động, vai tṛ lănh đạo đă được công nhận trong đám đồng bào bạn bè và không bạn bè của ông, nên ông đă sử dụng triệt để lợi thế mới của ḿnh. Đồng minh rơ ràng sẽ chiến thắng ở châu Âu và ông Hồ đă thấy trước là toàn bộ lực lượng của bộ máy chiến tranh Đồng minh sẽ chuyển sang chống Nhật Bản. Ông Hồ cũng biết rằng thời giờ c̣n lại cho ông rất eo hẹp. Ông phải sẵn sàng, nếu không theo luật pháp th́ trên thực tế, là người đại diện cho chính quyền ở Đông Dương đối với những người Đồng minh chiến thắng, nếu như ông giành và duy tŕ được sự kiểm soát của một nước Việt Nam độc lập. Trong thực tế, thời gian của ông c̣n bị hạn chế hơn ông tưởng rất nhiều v́ có vụ nổ bom nguyên tử.
Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc t́nh h́nh chính trị thế giới, ông Hồ đă rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm t́nh của nước Mỹ. Ông đă xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí c̣n hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đă bị kiệt sức v́ chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông. Đối với những nước này th́ chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng. Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đ̣i lại Đông Dương làm thuộc địa.
Chỉ c̣n có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm t́nh của một con người đă được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đă phải vắt óc suy nghĩ để t́m ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đ̣i hỏi về lư thuyết và thực hành của ông. Ông cảm thấy người Mỹ rơ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xă hội của họ chưa thực sự “dân chủ”. Vô sản của họ thật chưa được “tự do” và được “giải phóng” như ở Nga. Nhưng chỉ c̣n có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm.
Cuối mùa xuân 1944, thoát khỏi được gánh nặng ở Đồng minh Hội, chưa bao giờ ông Hồ lại lo tranh thủ sự chú ư của người Mỹ như lúc này. Năng khiếu nhận thức và tính toán thời cơ của ông đă giữ vai tṛ quan trọng trong các sự kiện tiếp theo. Ông biết rằng OSS cho tổ chức những nhóm gián điệp người Trung Hoa để quấy phá Nhật Bản dọc theo bờ biển Trung Quốc và trong các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Lúc đó OSS ở Trung Quốc đánh giá cao cái vốn quư của ông Hồ trong lĩnh vực công tác t́nh báo và chiến tranh du kích, nhưng người Pháp và Trung Hoa ở Trùng Khánh đă hoạt động chống lại việc người Mỹ muốn sử dụng Việt Minh. Mặc dù vấp phải những trở ngại nói trên, giữa năm 1944, OSS và AGAS đă tiếp xúc với ông Hồ trong một cố gắng không thành nhằm tổ chức một lưới t́nh báo ở Đông Dương, sau khi ông đă cộng tác phần nào với người Mỹ trong công tác tuyên truyền.
“Ông già” mưu mẹo(20) đă phản đối việc sử dụng ông giống như những nhân viên người Trung Hoa khác. Ông muốn được công khai chính thức công nhận và ở cấp bậc cao nhất có thể được. Tất nhiên ông không có được sự ủy nhiệm ngoại giao cần thiết để làm việc với một cường quốc bên ngoài. Ông được Matxcơva công nhận nhưng Cộng sản hoàn toàn không được thừa nhận ở Trùng Khánh. Ông Hồ có được một cơ sở chính trị trung thành và có hiệu lực ở Đông Dương nhưng lại bị người Pháp ở đó đặt ra ngoài ṿng pháp luật. Ông bị đàn áp ở Trung Quốc v́ Trung Quốc ủng hộ bọn “tay sai bù nh́n” mà họ hy vọng để sử dụng cho những tín toán sau chiến tranh. Nếu người Mỹ muốn lợi dụng sự giúp đỡ của ông cho ḿnh - và họ cũng mong muốn như vậy - th́ họ buộc phải đối xử với ông một cách khá trang trọng hơn. Và một cuộc thương lượng giữa ông Hồ với những người của OSS tiếp cận với ông đă được xúc tiến.

ÔNG HỒ T̀M KIẾM SỰ CÔNG NHẬN CHÍNH THỨC

Vào tháng 8-1944, qua các sĩ quan OSS và OWI ở Côn Minh, Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội đă gửi một bức thu đến Đại sứ Mỹ. Tác giả bức thư yêu cầu Mỹ giúp đỡ công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ và cho họ được cơ hội chiến đấu chống Nhật bên cạnh các nước Đồng minh. Ngày 18-8, một sĩ quan OSS tŕnh bức thư cho Langdon, kèm theo b́nh luận: “Những người cách mạng An Nam... hiện nay tinh thần rất cao... [] họ mong việc yêu cầu Mỹ giúp đỡ được chấp nhận”. Và người sĩ quan đó phán đoán: “Sau chiến tranh, sẽ có rối loạn lớn ở Đông Dương, nếu như không có ít nhất một biện pháp sớm bảo đảm quyền tự trị thực sự cho đất nước này”.
Ngày 8-9, được OSS khuyến khích, Langdon đă gặp các tác giả bức thư. Theo lời kể lại của Langdon, ông Phạm Viết Tự, được coi như là người phát ngôn của họ, đă nói rằng họ “đến để tranh thủ cảm t́nh... của nước Mỹ”. Langdon đă đáp lại như sau:
“Họ hoàn toàn đúng khi làm cho người đại diện nước Mỹ biết đến những quan điểm và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam trong khi mà người phát ngôn cấp cao nhất của chính phủ Mỹ đă nhiều lần tuyên bố bảo đảm sự quan tâm của chính phủ Mỹ đối với chính sách v́ phồn vinh và tiến bộ của các dân tộc bị trị ở phương Đông, trong đó nhân dân Việt Nam cũng có thể tự coi như có ḿnh”.
Và Langdon đă hứa với những người đối thoại rằng những ư kiến của họ sẽ được ông ta chuyển tới Chính phủ Mỹ. Nhưng Langdon lại nói tiếp:
“Người Việt Nam là công dân của nước Pháp, mà nước Pháp lại đang sát cánh cùng Mỹ đấu tranh... chống lại phe Trục. Thực không c̣n nghĩa lư ǵ nếu như một mặt Mỹ đă phải bỏ ra những chi phí rất lớn về người và của để chi viện và giải phóng nước Pháp khỏi ách nô lệ của người Đức mà mặt khác Mỹ lại đục khoét đế quốc Pháp”.
Phạm Viết Tự đă đáp trả:
“Người An Nam rất biết về t́nh h́nh hữu nghị lâu đời giữa Pháp và Mỹ, và Đồng minh Hội chúng tôi không có ư đồ đấu tranh chống lại Pháp mà chỉ muốn cho các hội viên của ḿnh được đứng về phía Đồng minh đánh Nhật. V́ thế Hội đă có kế hoạch hành động theo hướng đó nếu như Mỹ bằng ḷng cung cấp vũ khí và tiếp tế cho chúng tôi”.
Đến đây Langdon ngắt lời và nói rằng đó là một vấn đề quân sự nên Đồng minh Hội phải trực tiếp thảo luận với Bộ chỉ huy quân sự của Đồng minh.
Phạm Viết Tự nói lại ông chỉ muốn hạn chế ư kiến của ḿnh ở khía cạnh chính trị của vấn đề và yêu cầu Langdon đề đạt rơ với Chính phủ Mỹ là ở đây chỉ nhấn mạnh đến vấn đề tự trị cho nhân dân Việt Nam. Một lần nữa Langdon lại kéo dài câu chuyện và nói rằng ông hy vọng Đồng minh Hội xem xét lại lời yêu cầu trên với một lập trường thực tế hơn và cũng nên thấy rằng trong đó có bao hàm một sự ép buộc có thể đối với Đồng minh Pháp.
Langdon nói thêm là người An Nam có ǵ phải kêu ca đối với người Pháp th́ họ nên theo con đường thông thường mà nói chuyện thẳng với người Pháp.
Phạm Viết Tự đáp lại rằng về lư thuyết mà nói th́ đó là một cách giải quyết chính đáng “nhưng bênh vực cho điều đó trong trường hợp của Đông Dương là ngu ngốc, không nhận thấy thực tế của t́nh h́nh, v́ ở đó chỉ có áp bức, không có dân chủ”.
Một lần nữa Langdon lại đả vào các người khách của ḿnh: “Dân An Nam không nên nh́n tiền đồ của ḿnh một cách quá bi quan. Tháng 7(21) vừa qua, tướng De Gaulle đă có công bố với báo chí Washington rằng chính sách của Pháp là nhằm dẫn dắt mọi dân tộc trong đế quốc Pháp tiến tới tự trị...”.
Cuộc nói chuyện đă tiếp diễn theo cái kiểu đó để rồi dẫn đến một kết thúc tất nhiên không tránh khỏi.
Khi Phạrn Viết Tự và các bạn của ông báo cáo lại cho ông Hồ, họ đă tỏ ra thất vọng và chỉ có thể nói rằng họ đă được tiếp đón thân mật nhưng không được một lời hứa hẹn ủng hộ về chính trị nào. Điều tốt nhất mà họ hy vọng có thể đạt được chỉ là một sự giúp đỡ hạn chế về quân sự và cũng có thể chỉ được trả công các dịch vụ đă tiến hành. Nhưng ông Hồ không thất vọng, trái lại ông tỏ ra hoan hỉ, trước sự ngạc nhiên của mọi người kể cả các sĩ quan OSS...
“Đồng minh Hội” của ông đă tranh thủ được sự công nhận của một quan chức trong Chính phủ Mỹ và đă giành được lời hứa hẹn sẽ làm cho các nhà cầm quyền cao cấp nhất  ở Washington, có thể cả đến “Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, phải quan tâm đến sự nghiệp chính nghĩa của Hội.
Nhưng ở Washington, người ta đă đi đến một kết luận rất khác. Người Pháp đă được chấp nhận trước một cách không có cơ sở thục tế, như là một nước Đồng minh chiến dấu chống lại các lực lượng của Nhật ở Trung Quốc. Không muốn bị bỏ quên trên chiến trường Thái B́nh Dương và hy vọng chiếm lại chủ quyền ở Đông Dương, người Pháp đă dồn dập yêu cầu các Chính phủ Washington và London cho họ tham gia vào các kế hoạch quân sự ở Viễn Đông.
Về sau việc tham gia chính thức của Pháp càng trở nên phức tạp khi Pháp đ̣i có quyền xúc tiến các hoạt động bí mật “chuẩn bị tác chiến” ngay trên đất Đông Dương. Việc đó đă đến tai cả Roosevelt và Churchill. Churchill không phản đối ư đồ của Pháp nhưng lại không muốn công khai bác bỏ lập trường đă được công bố của Roosevelt cho rằng ngtịi Pháp không được chiếm lại Đông Dương bằng vơ lực. Vấn đề được đưa ra bàn bạc rộng răi và đă là đầu đề cho hàng đống giấy tờ và công văn ngoại giao trao đổi trong nội vụ và giữa các Bộ Ngoại giao Mỹ - Anh.
Roosevelt rất bực bội trước những đ̣i hỏi khăng khăng của Pháp, Anh và đă chỉ thị cho Hull “không được làm ǵ cả đối với các nhóm kháng chiến hay bất cứ cái ǵ khác có liên quan đến Đông Dương...”. Và như thế là câu chuyện đă được chấm dứt vào ngày 16-10-1944, nhất là đối với các hoạt dộng của Pháp như Roosevelt đă có ư nói. Nhưng vấn đề cũng đă lại chấm dứt với cả các “nhóm kháng chiến”.
Về sau, điểm này đă được làm sáng tỏ vào mùa xuân 1945, khi các nhà cầm quyền Mỹ cuối cùng đă phải cho phép chỉ giúp đỡ cho các nhóm nào đă chuẩn bị đánh Nhật.

ÔNG HỒ GẶP CHENNAULT

Trong lúc này, nhiều cuộc dàn xếp với ông Hồ đă được xúc tiến tại chỗ. Sau lần thương lượng mới với Trương Phát Khuê, ông được hoạt động tương đối tự do, và đă để một phần thời giờ cùng với các nhà chức trách OSS và OWI tham gia điều khiển công tác tuyên truyền của Đồng minh ở Côn Minh, Quế Lâm, Liễu Châu. Ông đă tận dụng các phương tiện của OWI để trau dồi thêm vốn tiếng Anh và sự hiểu biết thêm về lịch sử, phong tục tập quán Mỹ cũng như t́nh h́nh thời sự quốc tế. Ngoài ra, thỉnh thoảng ông lại cung cấp cho BIS tin tức quân sự về Nhật từ Đông Dương gửi tới, thực hiện công tác của tổ chức Việt Minh của ông và thu nạp người của các nhóm quốc gia đối lập. Đó cũng là một thời kỳ để ông Hồ tận dụng các khả năng thuận lợi của ḿnh; nhưng trong thực tế, ông chỉ là một con tép nhỏ trong cái ao lớn và chắc chắn rằng đă chẳng có người Mỹ nào thấy được tầm quan trọng vai tṛ của ông trong tương lai.
Những người đi theo ông Hồ ở Đông Dương, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, mà người Mỹ ở Trung Quốc không hề biết, cảm thấy phấn khởi trước việc ông Hồ thoát khỏi sự giam cầm của người Trung Quốc, trước thắng lợi của Đồng minh ở châu Âu và Thái B́nh Dương. Dưới sự lănh đạo tài t́nh của Vơ Nguyên Giáp, họ đă tiến hành đánh phá các tiền đồn của Pháp và Nhật. Tiếp theo đó là những vụ đàn áp không thể tránh khỏi, cuộc “khủng bố trắng” của người Pháp. Người Việt Nam bị bắt giữ, nhà cửa bị đốt phá, tài sản bị tịch thu, làng xóm bị triệt hạ. Một số người Cộng sản được phát hiện bị bắn bỏ, bị chém đầu, hoặc bị chặt tay chân để bêu ra chợ. Chính quyền Decoux treo thưởng tiền và muối cho ai nộp được đầu các lănh tụ cách mạng.
Những trận tấn công khủng bố của người Việt Nam và sự đàn áp dă man của Pháp đang c̣n diễn ra ác liệt vào 1944, khi có tin tướng De Gaulle vào Paris. Giáp trở nên nôn nóng và muốn phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại cả Pháp lẫn Nhật, nhưng nhiệt t́nh của ông đă bị các lănh tụ khác thận trọng hơn ḱm lại và cuộc khởi nghĩa đă bị hoăn. Nhưng những cuộc đàn áp của Pháp vẫn tiếp tục và phong trào cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt. Từ Côn Minh, ông Hồ ra lệnh “đ́nh chỉ lại tất cả”, cho đến khi ông có thể về đến Pác Bó, hành dinh chiến đấu của ông trong vùng rừng núi t́nh Cao Bằng.
Cuối tháng 11, ông Hồ gặp Giáp và các chiến sĩ khác ở Bắc Kỳ. Ông thảo luận với họ về t́nh h́nh, phê phán tính nóng vội của họ và chỉ cho họ biết rằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra lúc đó là quá sớm và sẽ thất bại. Để nâng cao tinh thần họ và ngăn chặn những hành động liều lĩnh có thể làm nguy hại cho phong trào, ông Hồ cho thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và cử Giáp làm Tổng chỉ huy. Ban đầu, đội tập trung vào tuyên truyền phổ biến và giáo dục cho dân chúng về chiến thuật du kích; và sau đó đội đă trở thành tiền thân của Quân dội Nhân dân hiện nay mà Giáp là Tổng tư lệnh và là người anh hùng.
Sau khi đă giải thích và trấn an những người đi theo, ông Hồ quay trở lại Côn Minh. Khi đi qua vùng Cao Bằng gần biên giới Trung Quốc, ông Hồ gặp một người phụ tá tin cẩn khác là Phạm Văn Đồng, người trước đây đă đề xuất ra các bản yêu sách cho Gauss và Tưởng Giới Thạch để xin tha cho ông Hồ ra khỏi nhà tù. Qua Đồng, t́nh cờ ông Hồ biết là có một phi công Mỹ bị hạ đang được giữ trong một đơn vị du kích của Giáp ở gần đó. Người phi công đó chính là một trong 9 nhân viên hàng không mà nhóm GBT báo cáo là đă nhảy dù ra khỏi máy bay sau trận đánh trên vùng Sài G̣n.
Hay tin có một phi công Mỹ đang được giữ ở một nơi an toàn, ông Hồ nắm ngay lấy thời cơ may mắn này và ra lệnh cho đưa người Mỹ đó đến gặp. Sau một lúc nói chuyện thân mật và tin chắc rằng người Mỹ đă thấy được sự giúp đỡ của người Việt Nam, ông đă chỉ thị cho Đồng cho hộ tống người Mỹ đó, không phải chỉ giản đơn đến biên giới, mà đến thẳng cho người Mỹ ở Trung Quốc. Đây là một dịp thuận lợi nữa để ông Hồ đề cao phong trào cách mạng với người Mỹ và làm cho họ phải chính thức công nhận phong trào của ông.
Ông Hồ trở lại Côn Minh vào tháng 2 rét lạnh. Ở đó ông đă tiếp xúc ngay với các bạn ở OSS và OWI. Ông tỏ ra lo lắng về các cuộc điều động quân mới đây của Pháp và Nhật. Ông cho việc quân Pháp và cả quân Nhật cũng triển khai lực lượng trên các vùng rừng núi Bắc Kỳ và Lào là một điều lạ lùng. Ông Hồ đă không thể biết rơ về các cuộc điều động binh lực này nhưng chắc chắn là có một cái ǵ đó quan trọng đang được chuẩn bị. Theo ông có thể có cuộc tiến quân phối hợp Pháp - Nhật về hướng Vân Nam phủ(22) ở phía Bắc hoặc về Nam Ninh ở phía Đông.
Điều mà ông Hồ không biết là đội tuyên truyền mới của ông sắp sửa là mục tiêu cuộc hành quân càn quét của quân Pháp nhằm triệt để hoàn toàn “bọn phiến loạn”. Cuộc hành quân này đă được dự định tiến hành trong tuần lễ bắt đầu từ 10-3. Trong khi chuẩn bị, một số đơn vị quân Pháp ở Bắc Kỳ đă được dàn ra ở phía Bắc, hướng vào các căn cứ địa quân du kích Việt Nam. Thật ra, đó chỉ là một bộ phận trong kế hoạch to lớn chủ yếu của tướng Mordant bố trí toàn bộ quân của ông ở phía Bác để chờ “cuộc đổ bộ của quân Đồng minh” vào Đông Dương. Cuộc hành quân càn quét chỉ là một kế hoạch che giấu nhưng đồng thời đó cũng là một đ̣n Mordant muốn trả đũa cho “nhóm người An Nam phản bội”.
Nếu như ông Hồ và ông Giáp không hay biết ǵ về ư đồ nhằm tiêu diệt lực lượng nhỏ bé của họ th́ người Pháp lại càng bất ngờ hơn với người Nhật: Nhật đă đột nhiên tấn công quân Pháp chiều ngày 9-3, ngay trước khi cuộc hành quân của Pháp bắt đầu. Như sau này đă rơ, người Nhật đă tước vũ khí và bắt giam tất cả những lực lượng quân sự cùng với những nhà lănh đạo Pháp, trong đó có tướng Mordant và Aymé, và đă tước quyền của các quan chức mọi cấp - từ Decoux cho đến tên thư kư quèn. Như đă nêu trên, chỉ có những người Pháp trong các đội quân được triển khai ở bắc Bắc Kỳ và Lào(23) để nhằm càn quét vùng rừng núi quân du kích Việt Minh và chờ “quân Đồng minh” đến mới thoát được ra ngoài cú vét lưới của Nhật.
Chỉ có Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh của ông ta là đă được lợi gấp đôi trong cái cú đánh lớn may mắn này. Họ đă được cứu thoát khỏi những người Pháp đang nhằm tiêu diệt họ, những người mà sau này họ đă che chở và cho ẩn náu khi rút lui qua Trung Quốc. C̣n nhân dân Việt Nam th́ tạm thời đă được “giải phóng” khỏi những ông chủ Pháp của họ.
Luồng tin tức t́nh báo từ Đông Dương cho đến lúc đó vẫn c̣n hạn chế, đă bị tắc trong ngày một ngày hai. Cú đảo chính của Nhật đă làm ỉm đi mất tất cả mọi đường dây thông tin quân sự, chính trị của mạng lưới SACO và GBT. Tướng Chennault bên hàng không đ̣i cung cấp các mục tiêu t́nh báo; người Trung Hoa gặp khó khăn nguy hiểm trong việc triển khai các lực lượng trang bị đơn sơ và nghèo nàn của họ, cũng như trong việc xây dựng các cứ điểm pḥng thủ của họ dọc theo biên giới Đông Dương mà không nắm được tin tức về sự bố trí quân Nhật. V́ vậy phải cấp bách mở lại các đường giao liên và các hoạt động bí mật để bảo đảm cho các kế hoạch chống Nhật ở Trung Quốc và Thái B́nh Dương của Đồng minh thành công.
Trong t́nh h́nh khẩn cấp đó, lănh đạo OSS được chỉ thị phải làm mọi việc có thể được để mở thông lại luồng tin tức và đă cho phép được sử dụng “tất cả mọi nhóm kháng chiến”. Đây rơ ràng là một sự thay đổi trong chính sách cấm đoán của Tổng thống từ tháng 10 trước và cũng có nghĩa là OSS đă được quyền tự do tiếp xúc với Hồ Chí Minh.
Fenn, trung uư hải quân của chúng ta, lúc đó được phái đến công tác ở AGAS, đă dược nghe nói về một “người An Nam tên là Hu Tze Minh” đă giúp cho viên phi công bị hạ “Trung uư Shaw” trở về Trung Quốc. Fenn lại được biết “Hu Tze Ming” đă ở Côn Minh và “thỉnh thoảng” xuất hiện trong các cơ quan của OWI. Fenn thu xếp để gặp người An Nam đó vào chiều 17-3. Đó tất nhiên là Hồ Chí Minh.
Khi tôi đến Côn Minh vào tháng 4-1945, tôi đă có dịp đọc một số báo cáo của Fenn nói về việc tổ chức “các lưới t́nh báo bản xứ trong nội địa Đông Dương”. Nhưng các báo cáo này không có những chi tiết mà trung uư Fenn đă đưa ra sau này trong quyển sách in năm 1973 của ông(24). Một số ít các chi tiết này (mà tôi đă xác nhận trong tập ghi chú chính thức vào lúc đó) đă nói rất xác đáng về những thắng lợi chính trị của Hồ Chí Minh vài tháng sau đó.
Trung uư Fenn đă kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Fenn với ông Hồ: “Hồ đi cùng với một người trẻ tuổi là Phạm(25)... H́nh như ông ta đă được gặp... Glass và De Sibour, nhưng chẳng thu được ǵ ở các vị này. Tôi đă hỏi xem ông Hồ muốn ǵ ở họ. Ông Hồ nói - chỉ có vấn đề công nhận nhóm của ông ta (gọi là Mặt trận Đồng minh hay Mặt trận Độc lập)”. Sau đó ba hôm, họ gặp nhau lại để chuẩn bị cho ông Hồ trở về Đông Dương, nơi sẽ được đặt các trạm thu tin t́nh báo với các máy vô tuyến của OSS và các hiệu thính viên người Việt do OSS đào tạo.
Ông Hồ đă gợi ư với Fenn rằng ông ta muốn được gặp tướng Chennault. Fenn chỉ đồng ư thu xếp cuộc tiếp kiến nếu như ông Hồ chấp nhận không được đ̣i hỏi ở Chennault bất cứ điều ǵ: “việc xin tiếp tế cũng như hứa hẹn ủng hộ. Hồ tán thành”. Ngày 29-3, Fenn, Bernard và Hồ Chí Minh được đưa đến cơ quan và giới thiệu với tướng Chenjlault.
Fenn kể lại: “Chennault rất cảm ơn ông Hồ về việc người phi công được cứu thoát. Ông Hồ đáp lại bao giờ ông cũng sung sướng được giúp đỡ người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông ta hết mực ca tụng. Họ chuyện tṛ về đội Hổ bay. Chennault tỏ ra hài ḷng về những câu chuyện mà ông Hồ biết chung quanh vấn đề này. Họ bàn chuyện cứu các phi công bị nạn. Không ai nói ǵ đến người Pháp hoặc nói chuyện chính trị. Tôi thở phào khi mọi người sắp từ biệt nhau. Lúc đó, ông Hồ nói rằng ông muốn xin một vật kỷ niệm nhỏ... Và tất cả cái mà ông muốn chỉ là một cái ảnh của tướng Chennault... Đúng lúc... một tập ảnh 8x10 được đưa ra. “Hăy chọn lấy”, Chennault nói. Ông Hồ cầm lấy một chiếc ảnh và hỏi tướng Chennault có vui ḷng cho xin chữ kư?' Chennault liền viết ở dưới “Bạn chân thành của anh. Claire L. Chennault”.
Theo ư ông Hồ th́ việc được tướng Chennault tiếp là hết sức quan trọng v́ được coi như là một sự công nhận chính thức của Mỹ. Nhưng tấm ảnh có chữ kư đă trở thành vật có ư nghĩa quan trọng sống c̣n đối với ông khi ông rất cần một chứng cứ cụ thể để thuyết phục một số người Việt Nam quốc gia đa nghi rằng ông đă giành được sự ủng hộ của Mỹ. Đó chỉ là một mưu mẹo không có cơ sở nhưng cũng đă đạt được kết quả.
Khi Fenn, Bernard và Tan điều đ́nh với AGAS để chở ông Hồ đến vùng biên giới Tŕnh Tây để rồi từ đó ông đi bộ về Pác Bó, tôi cũng dùng “Humpll”(25) bay tới Côn Minh để tiếp quản các công tác ở Đông Dương.
Chú thích :

 (1) Ban không trợ mặt đất, tổ chức cứu các phi công bị rơi ở chiến trường Trung Hoa, tương tự như BAAG của Anh.
(2) “Người hùng” của Churchill, lúc đó đang hoạt động bí mật dưới danh nghĩa là người Mỹ.
(3) Đại tá  N.B. De Pass
(4) Trưởng ban Ngoại vụ của Quân sự Ủy viên hội, giám đốc Cục t́nh báo quân sự Trung Quốc.
(5) Ban tham mưu kỹ thuật không lực mặt đất, đơn vị 5329
(6) sĩ quan MO của OSS ở Miến Điện
(7) thuộc đông bắc Côn Minh, cách biên giới Đông Dương 30 dặm
(8) Nha thông tin chiến tranh
(9) Bí thư thứ ba của Đại sứ quán ở Trùng Khánh
(10) Bí thư thứ hai của Đại sứ quán ở Trùng Khánh
(11) Tư lệnh Đệ tứ chiến khu
(12) Bộ trưởng Bộ tổ chức Ban chấp hành Trung ương Trung Hoa Quốc dân đảng
(13) giám đốc Viễn Đông sự vụ Bộ Ngoại giao
(14) ư Vincent muốn chỉ tổ chức Việt Minh
(15) tức Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội
(16) lúc này Sprouse đă được chuyển về Bộ Ngoại giao
(17) Tại hội nghị Versailes 1919, ông Hồ, lúc đó mang tên Nguyễn Ái Quốc, đă thay mặt cho Đông Dương, gửi kiến nghị (bản Yêu sách 8 điểm) cho tổng thống Wilson nhưng không có kết quả.
(18) Đại sứ Anh ở Mỹ 1941-1946
(19) Để đáp lại việc Trung Quốc trả lại tự do vào tháng 8-1943, ông Hồ đă đồng ư hợp tác với tướng Trương Phát Khuê tổ chức lại Đồng minh Hội. Ông Hồ cũng phải hứa cộng tác với người Trung Quốc trong việc thu thập tin tức t́nh báo.
(20) lúc đó ông Hồ 54 tuổi
(21) năm 1944
(22) Côn Minh
(23) lực lượng dưới quyền tướng Galwel Sabattier, chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ và tướng Wavcet Alessandri
(24) Charles Fenn, Hồ Chí Minh, 1973
(25) Sau này chính Phạm Văn Đồng đă xác nhận ông là người đi cùng ông Hồ trong lần gặp gỡ với Fenn
(26) tuyến đường bay ở phía đông Himalaya, được Đồng minh sử dụng để vận chuyển người và đồ tiếp tế từ Ấn Độ sang Trung Quốc.

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5

 

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: