MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record v CBO
v US Government vCongressional Record
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News
v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian v Political Insider v Law v Media
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart Interceipt
v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic
v National Public Radio v ForeignTrade v Slate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 31
Những
vấn đề của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau khi ra
đời
ÔNG HỒ TIẾN LÊN PHÍA TRƯỚC
Tuy đă có cuộc
ngừng bắn nhưng Sài G̣n và toàn bộ Nam Kỳ, sau
ngày “Chủ nhật đen tối” vẫn ở trong t́nh trạng
náo động. Bửu và Liệu đều cho nguyên nhân cơ bản
gây ra t́nh h́nh đó là do sự cạnh tranh chính
trị và xung đột kinh tế xă hội.
Họ nhấn mạnh vào việc thiếu
thông tin liên lạc và phối hợp giữa miền Nam và
miền Bắc. Nhưng Bửu đă giúp tôi hiểu biết rơ về
vấn đề miền Nam hơn. Sài G̣n và Hà Nội;
theo ông nói, cách xa nhau gần 800 dặm về mặt
địa lư, v́ thế mà họ cũng khác biệt nhau trong
các sách lược và kỹ thuật hành chính.
Mặc dù có sự non kém của miền Nam và nguy cơ đe
doạ của những người Quốc gia thân Trung Quốc ở
Bắc, ông Hồ vẫn quyết định cho xúc tiến chương
tŕnh cải cách của ḿnh. Ông
nói với tôi là đă đến lúc phải thực hiện lời hứa
của ông với người Việt Nam về một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Hơn nữa, việc quân đội chiếm
đóng Anh và Trung Quốc tới lại càng thúc ép ông
một cách khẩn cấp phải tiến lên một bước nữa để
tiếp đón Đồng minh với một chế độ thực sự “dân
chủ”. Tuy vậy, ông cũng hết sức thận trọng để
tránh không làm cho quần chúng Việt Nam và các
nước Đồng minh xa ĺa v́ đă đi
theo chủ nghĩa Cộng
sản một cách quá lộ liễu…
Những tin tức về những người Quốc gia thân Trung
Quốc được quân Tưởng cho đi cùng về Việt Nam làm
cho việc cải cách trở nên hết sức cấp bách trước
khi Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại
Việt cùng các đảng phái lưu vong khác tới. Ông
Hồ không muốn để cho “bọn tay sai của Trung
Quốc”, như ông thường gọi, có cớ để lên án ông
là đă không làm ǵ cả, mà trái lại, họ phải chấp
nhận ông dă cho xúc tiến một chương tŕnh hành
động thích đáng của Mặt trận Việt Minh và được
nhân dân cũng như các nước Đồng minh công nhận.
Khi tôi ở Trung Quốc về, ông Hồ và Chính phủ Lâm
thời của ông đă cho xúc tiến một số cải tổ và
thăm ḍ những đường lối mới. Ông Hồ đă để Giàu
mở rộng cơ sở Lâm uỷ Nam Bộ bằng cách thu nạp
thêm những nhân viên thuộc phe đối lập và tiếp
tục các cuộc điều đ́nh với Cédile, hy vọng rằng
người Anh và người Pháp sẽ công nhận Việt Minh
trên thực tế như là một bộ máy chính trị có đầy
đủ khả năng lănh đạo quốc gia và như thế sẽ có
thể tránh được các cuộc đụng độ bằng vũ lực.
Đối với toàn quốc, Chính phủ
ông Hồ xúc tiến và công bố các cải cách ở cấp
cao. Ngày 5-9, ông Hồ giải thể các Hội
đồng Nhân sĩ nổi tiếng và thay bằng các Uỷ ban
Nhân dân do nhân dân địa phương bầu cử.
Chế độ quan lại cũ đă bị thủ
tiêu.
Cuộc cải cách mong chờ từ
lâu cũng được khởi đầu nhưng rất thận trọng để
không gây thù hằn giữa giai cấp trung lưu và các
đại địa chủ. Việc chia lại ruộng đất chỉ
hạn chế trong các công điền, đất bỏ hoang, đất
tịch thu của Pháp và “bọn hợp tác với phát xít”,
để chia cho các nông dân không có ruộng.
Thực tế từ 22-9, các chủ
ruộng đất nhỏ, từ 5 mẫu trở xuống, đều được miễn
thuế ruộng đất. Việc hạn chế buôn bán
thóc gạo và ngũ cốc
của Nhật, Pháp trước đây đă được huỷ bỏ.
Thuế công thương nghiệp và
môn bài cũng chấm dứt từ 14-9.
Việc độc quyền bán thuốc
phiện, rượu và muối cũng bị cấm. Cuộc cải
cách cấm cả đánh bạc và măi dâm, cùng với các
h́nh thức lao động
khổ sai khác. Công nhân được
phép lập nghiệp đoàn và được khuyến khích điều
đ́nh với giới chủ.
Tất cả các công nhân đều được hưởng chế độ ngày
làm 8 giờ.
Theo luật bầu cử mới, các xă và tỉnh sẽ bầu ra
Uỷ ban Nhân dân xă và tỉnh, và đến cuối năm sẽ
bầu Quốc dân Đại hội (Quốc hội Lập hiến).
Luật mới bảo đảm quyền phổ
thông đầu phiến cho mọi công dân nam nữ trên 18
tuổi.
Một trong những điều cải cách có thể nói là cơ
bản nhất, mà ông Hồ rất tha thiết, là công cuộc
xoá nạn mù chữ, nhằm làm cho mọi người đi học để
biết đọc và biết viết. Ông Hồ muốn có một xă hội
có văn hoá, có khả năng quản lư được nền “độc
lập” mới, tiếp thu được các lợi ích của nhà
trường mà nhà nước sẽ mở, và có đầy đủ điều kiện
để đạt tới một nền kỹ thuật hiện đại.
Liệu sẽ sử dụng mọi phương
tiện và biện pháp để tuyên tuyền rộng răi trong
quần chúng các điều cải cách nói trên.
Quảng đại quần chúng, nông
dân cũng như công nhân đă phấn khởi hưởng ứng sự
cố gắng của Chính phủ trong công cuộc cải thiện
đời sống của họ. Việt
Minh được nhiệt liệt hoan nghênh và được tích
cực ủng hộ. Chỉ có
một số nhỏ bị bỏ rơi, nhưng không đáng kể.
Vấn đề là ở chỗ phúc lợi của
nhân dân, thắng lợi của cuộc cách mạng và sự đảm
bảo cho nền độc lập của đất nước. Đây là
lần đầu tiên cả nước đoàn kết thống nhất trong
một mục đích chung và đồng thời cũng là lúc mà
các tranh chấp về chính trị đă bị nhấn ch́m đi -
ít nhất tại miền Bắc.
CHỦ TRƯƠNG ĐỀ KHÁNG THỤ ĐỘNG
Tuy vẫn thể hiện một tinh thần lạc
quan và phấn khởi cao độ, nhưng Chính phủ Hà Nội
vẫn phải lo lắng đối phó với những vấn đề cực kỳ
nghiêm trọng. Các lực lượng ngoại quốc đang từ
hai phía Bắc và Nam tiến vào Việt Nam, với danh
nghĩa thực hiện nhiệm vụ của Đồng minh nhưng
thực ra họ đều mang theo
những động cơ khác. Trong
hai tuần, người Trung Quốc đă tỏ ra quan tâm đến
tước đoạt, cướp bóc nhiều hơn là chú ư đến quân
Nhật mà họ có nhiệm vụ phải giải giáp.
C̣n người Anh ở miền Nam th́ chỉ lo làm sao đập
tan được Chính phủ Việt Minh, dọn đường cho
người Pháp chiếm lại thuộc dịa cũ hơn là thực
hiện nhiệm vụ đă được công bố của họ. Thực sự họ
cũng không biết ǵ về vấn đề lực lượng quân Nhật
vẫn c̣n đầy đủ vũ khí trong
tay.
Ư thức được địa vị gây cấn của ḿnh, cả về
phương diện quân sự và chính trị, nên ông Hồ đă
quyết định theo đuổi
một chính sách đề kháng thụ dộng đối với các thế
lực chiếm đóng. Chính phủ của ông công khai ủng
hộ nhiệm vụ của họ trong việc giải giáp quân
Nhật và sẵn sàng giúp đỡ mọi mặt để hoàn thành
được nhiệm vụ trên. Đă nhiều
lần, ông đă phải để thời giờ để giải thích cho
tôi về chính sách đó.
Đối với người Trung Quốc, phải tránh không để nổ
ra các cuộc xung đột bằng bất cứ giá nào.
Nếu như chủ quyền Việt Nam có bị thử thách th́
cũng không để xảy ra xung đột vũ trang; nhân dân
sẽ đoàn kết trong một mặt trận thống nhất và nếu
cần sẽ không cộng tác với các nhà chức trách
quân sự Trung Quốc, sẽ có băi công, băi thị, và
nhân dân sẽ được phân tán dần về các vùng nông
thôn. Đó sẽ là chiến thuật
của ông ta.
Ở miền Nam th́ không được để cho bất cứ một sự
lộn xộn nào tạo cho người Anh cái cớ để can
thiệp và phá hoại công tác cách mạng của Việt
Minh. Ông Hồ đă ra lệnh cho
Giàu là trong bất cứ trường hợp nào cũng không
được xâm phạm đến thân thể và tài sản người
Pháp, không dùng bạo lực và cũng không để xảy ra
cướp đoạt. Khi người Anh chưa đi khỏi th́
cuộc cách mạng chỉ là “dân chủ”, không phải là
“xă hội chủ nghĩa”, không để xảy ra xung đột với
quân đội Pháp và phải tránh các thường dân Pháp.
Đối với quân Anh, chính sách của Giàu là phải
cộng tác trong việc duy tŕ trật tự công cộng và
các sự vụ hành chính, nếu như họ không can thiệp
vào việc điều hành công tác của Lâm uỷ.
Dewey cho biết, ngày 4-9, Bộ Tư lệnh Đông Nam Á
(SEAC) đă nghiêm khắc phê phán viên chỉ huy
Nhật, Thống chế Terauchi, về sự lơ là trước cuộc
rối loạn ở Sài G̣n và một lần nữa nhắc lại trách
nhiệm duy tŕ trật tự của ông ta cho đến khi
được các nước Đồng minh thay thế.
San đó, Terauchi đă ra lệnh
điều nhiều tiểu đoàn Nhật vào Sài G̣n để tước vũ
khí của người Việt Nam. Điều này nói lên
một cách rơ ràng ư nghĩa bức công điện của
Mountbatten gửi Wedemeyer bảo phải sẵn sàng “nắm
lấy t́nh h́nh trong Chiến trường Trung Quốc”.
Điều đó giải thích tại sao
Giàu báo động và kêu gọi dân chúng phải b́nh
tĩnh.
Khi đại tá Cass đến Sài G̣n, ngày 6-9, theo yêu
cầu của SEAC, Nhật đă tăng cường lực lượng vùng
Sài G̣n - Chợ Lớn lên tới khoảng 7 tiểu đoàn và
đ̣i Lâm uỷ phải tước vũ khí và giải tán các
chiến sĩ Việt Nam. Trong
thực tế, chỉ có Hoà Hảo, Cao Đài và B́nh Xuyên
mới có lực lượng vũ trang có tổ chức.
C̣n Troskism và Việt Minh
chỉ có một số lực lượng tượng trưng. Do
đó, lệnh tược vũ khí chỉ được áp dụng chủ yếu
đối với các nhóm chống Việt Minh.
Theo chính sách đề kháng thụ động và bất bạo
động của ông Hồ, ngày 8-9, Giàu ra lời kêu gọi
nhân dân cộng tác, như đă nói ở trên, những phe
đối lập liền kết tội Việt Ḿnh là phản bội.
Những người chống Cộng được
nhóm Troskism khuyến khích, cũng từ chối không
nộp vũ khí và đ̣i Giàu phải từ chức.
Ngày hôm sau, Việt Minh cho cải tổ và mở rộng cơ
sở Lâm uỷ, Giàu rút lui nhường chỗ cho một người
Quốc gia độc lập là Phạm Văn Bạch. Trong uỷ ban
mới, số Cộng sản rút từ 6 (trong số 9 người)
xuống c̣n 4 (trong số 13 người) và có 1 Cao Đài,
1 Troskism, 1 Hoà Hảo, 3 độc lập, 2 Quốc gia và
nhà sư Huỳnh Phú Sổ, thủ lĩnh tinh thần của Hoà
Hảo. Qua việc nghiên cừu danh sách các uỷ viên,
tôi không tin là Việt Minh đă buông
tay.
Tôi biết Phạm Văn Bạch, tuy
được kêu là độc lập, nhưng là một kẻ thù công
khai của lực lượng phản cách mạng và là một
người bí mật sùng bái ông Hồ. Do đó, nếu
như người Việt Nam phải đương đầu với cuộc chiếm
đóng và đàn áp dân tộc của Pháp th́ những người
Troskism và có thể nhiều người độc lập chắc chắn
sẽ đứng về Việt Minh. Những
cuộc cải tổ đă không mang lại được sự ổn định
cần thiết cho Chính phủ ở miền Nam. Các
cuộc đấu tranh đảng phái, luận điệu phân biệt
chủng tộc, tinh thần chống Pháp, nỗi lo sợ các
“đội danh dự” Việt Minh(1),
tất cả đă đưa đến sự sụp đổ của Uỷ ban mới chỉ
sau chưa đầy 2 tuần lễ.
Ngày 12-9, một đơn vị Gurkhas(2) của tướng
Gracey cùng với một phân đội thuộc trung đoàn 5
RIC(3) Pháp từ Rangoon đến sân bay Tân Sơn Nhất
thực hiện cuộc hành quân “thắng lợi” của Anh -
Pháp vào “Đông Dương thuộc Pháp”.
Thành phố sôi lên với những
tin đồn đại quá mức là quân Pháp “đă đổ bộ'”.
Người Việt Nam th́ náo động,
c̣n người Pháp th́ phấn chấn.
Phản ứng của Dewey là sự có
mặt của người Pháp nhờ vào sự che chở của Anh là
một “điều xấu trong lúc này và đă được khuyên
bảo một cách sai lầm”.
Các nhân viên SLFEO (của Pháp) đến đây từ trước
với lực lượng 136 của Cass, đă đón đơn vị 5 RIC
và dẫn họ thẳng tới các kho đạn dược, bến cảng
và các kho tàng nhà binh.
Pháp đă nhanh chóng thay thế người Nhật và nắm
quyền kiểm soát. Trùm DGER (Pháp) ở Sài
G̣n, đại uư hải quân De Riencourt đă đến hành
dinh của Cass và thuyết phục Cédile ra lệnh cho
viên cai ngục Nhật thả một số nhân viên chủ yếu
trong tổ chức “kháng chiến Pháp” và hàng trăm sĩ
quan và hạ sĩ quan lê dương(4). Số lính này được
phiên thành đơn vị, đưa về các trại lính, nhận
vũ khí và được lệnh toả ra khắp thành phố bắt
liên lạc với các thường dân Pháp và tổ chức họ
để chuẩn bị chiếm lại Sài G̣n.
Cả người Pháp và Việt Nam,
nh́n thấy bọn lê dương vơ trang kiêu căng đi
khệnh khạng trên đường phố Sài G̣n đều có phản
ứng một cách mạnh mẽ. Thích thú trong
niềm vui thắng lợi đầu tiên, người Pháp muốn
nhằm vào lúc này để dạy cho dân “An
nam mít” bội bạc “một bài học”.
Cờ tam tài Pháp đă được
trương lên trên nhiều công sở nhưng không được
lâu. Người Anh đă ra
lệnh hạ xuống ngay trong ngày hôm đó để tránh
kích động t́nh cảm dân địa phương.
Nhưng đă quá
muộn.
CUỘC
CHỐNG ĐỐI Ở MIỀN NAM
Tôi không phải
là người duy nhất ở Hà Nội được biết những ǵ đă
xảy ra ở Sài G̣n.
Ông Hồ cũng có đường dây
liên lạc thẳng với Sài G̣n và tỏ ra rất lo
phiền. Các nhóm Quốc gia thân Trung Quốc
cũng nắm được tin tức và đă lợi dụng câu chuyện
“Pháp đổ bộ” làm một vũ khí tuyên truyền tuyệt
vời để phá hoại uy tín của ông Hồ và Việt Minh
trước công chúng. Họ lớn tiếng ca tụng lập
trường của Tưởng tuân theo
các nguyên tắc Hiến chương Đại Tây Dương và giúp
đỡ cho sự nghiệp độc lập dân tộc của Việt Nam.
Trong khi đó th́ Việt Minh ở
miền Nam lại thương lượng với Pháp và ông Hồ ở
Hà Nội cũng tỏ ra thái độ thiện chí đối với
Pháp.
Việc đả kích về ông Hồ xuất phát từ các bài báo
của hai nhà báo phương Tây đầu tiên mới tới Hà
Nội: Serge de Gunzburg, hăng AFP (Pháp) và Phale
Thorpe của AP (Mỹ) ở Trùng Khánh. Họ đă phỏng
vấn Chủ tịch Hồ và đưa ra một tin được coi là
“giật gân” nói rằng ông Hồ đă tuyên bố “Chính
phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng
chấp nhận cả các cố vấn người Pháp nếu họ tới
Việt Nam với tư cách là những người bạn chứ
không phải là kẻ xâm lược”.
Tôi cho không có ǵ giật gân trong lời tuyên bố
đó cả; ông Hồ đă nhiều lần nhắc tối điều đó với
tôi cũng như với người Pháp ở Hà Nội…
Ở đây, qua nhà báo Pháp,
chắc ông Hồ muốn nói với công chúng Pháp biết
rằng ông đă coi họ như là những người bạn b́nh
đẳng. Nhưng lời tuyên
bố với nhà báo ngoại quốc đó đă được đăng lên
các báo Việt Nam và đă được phe thân Trung Quốc
đối lập với ông Hồ chộp ngay lấy. Mặc dù
một số người Trung Quốc cho đó chỉ là một xu
hướng đi tới thoả hiệp với Pháp nhằm cứu văn
t́nh h́nh, một đề nghị mà nếu có chăng nữa cũng
chẳng làm thay đổi ǵ lập trường chính thức của
Trung Quốc đối với Pháp và đối với Chính phủ của
ông Hồ. Nhưng những người Quốc gia thân Trung
Quốc lại hoảng sợ trước “đề nghị thương lượng”
đó của ông Hồ, v́ rằng một thoả thuận giữa chế
độ của ông Hồ với Pháp sẽ gạt họ ra khỏi mọi sự
dàn xếp sau này.
Tôi có nói chuyện với hai
nhà báo. Họ cho biết đă có cảm tưởng khá
sâu sắc đối với “nhà cách mạng lăo thành” mà họ
cho là một “con người rất trung thực và có khả
năng”. De Gunzburg nghĩ răng Chính phủ Hồ không
thể đạt được cao vọng của ḿnh nếu “không có sự
giúp đỡ”. Tôi hỏi có phải ông định nói tới nước
Pháp không, nhưng được trả lời, “Hay là nước Mỹ?”.
Chiều hôm đó tôi đến gặp ông Hồ ở nhà riêng gần
Bắc Bộ Phủ. Ông trông rất mệt nhọc và
sa sút.
Trời nóng nhưng ông quàng
khăn cổ mỏng và h́nh như thấy lạnh. Có
thể ông đă lại lên cơn sốt nhưng nói không hề
ǵ, chỉ bị mệt và mời tôi ngồi lại.
Ông hút một điếu
Chesterfield, hít sâu và thả khói qua cửa sổ.
Ông nói chung chung
là hoà b́nh rất mong manh, rồi đi về phía bàn
làm việc mà trên vẫn thường để cái máy chữ ọp ẹp
của ông. Ông t́m được một tờ
thông cáo mà ông nói là nhà chức trách quân sự
Trung Quốc đă cho rải khắp Hà Nội ngày hôm
trước. Tờ thông cáo
được in một mặt bằng tiếng Trung Quốc, một mặt
tiếng quốc ngữ. Ông
Hồ trực tiếp dịch cho tôi nghe.
Nó ca tụng sự hy sinh t́nh
cảm của các Việt kiều quốc gia hải ngoại cho sự
nghiệp độc lập dân tộc, cảm ơn Tưởng thống chế
về sự ủng hộ và biểu dương t́nh hữu nghị bất
diệt của Việt Nam và Trung Quốc. Sau đó
nó kết thúc bằng lời kết tội Việt Minh cấu kết
với Pháp và kêu gọi những người Việt Nam yêu
nước trung thành, nếu thực sự muốn độc lập và tự
do, phải từ bỏ “ông
Hồ và bè lũ giết người của ông Hồ”.
Kư tên dưới tờ thông cáo là
Nguyễn Hải Thần, thay mặt cho Đồng minh Hội.
Ông Hồ quay về phía tôi và nói “bây giờ bắt đầu
đấy”. Với một thái độ khinh
miệt, điều mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây ở
ông Hồ, ông ném mạnh tờ giấy xuống bàn.
Một lúc sau ông nói “Việt
Minh sẽ c̣n phải đấu tranh lâu dài cả với người
Trung Quốc và người Việt Nam”.
Sau đó ông Hồ hỏi tôi về tin
tức Sài G̣n. Tôi kể lại cho ông những
điều ít ỏi mà tôi biết và chúng tôi đă thẳng
thắn trao đổi về những sự phức tạp gây ra do
việc người Pháp có mặt ở đây. Ông Hồ hết sức lo
lắng và nhận định nếu như các sự kiện xảy ra
trong tuần trước được coi như là một dấu hiệu
nào đó th́ chắc rằng Uỷ ban mới đây của Phạm Văn
Bạch sẽ không tồn tại được lâu.
Đó là một nhận xét sau này
đă được chúng minh là đúng đắn. Ông Hồ
chán ngán v́ việc Anh công khai ủng hộ Pháp và
các nước Đồng minh th́ rơ ràng không quan tâm
đối với sự nghiệp của ông.
Tôi cảm thấy ông thực sự mất tinh thần.
Tôi cố khuyến khích ông bằng
cách ca tụng những cải cách ông đă cho công bố.
Ông mỉm cười nhưng trở lại
nghiêm nghị ngay. Ông
Hồ công nhận việc thực hiện công cuộc cải cách
sẽ rất khó khăn nếu không có sự viện trợ từ bên
ngoài, nhưng cho đến nay th́ chưa có ai công
nhận Việt Nam là một nước độc lập, “ngay cả đến
Liên Xô cũng vậy”.
Cải cách ruộng đất, giảm
thuế, kế hoạch nông nghiệp, phát triển công
nghiệp - tất cả những cái đó đ̣i hỏi không phải
chỉ những ư định hay và nhân công mà ông có rất
dồi dào. Chúng đ̣i hỏi phải có tiền,
nhưng kho bạc của Chính phủ th́ bị phá
sản(5).
Điều kiện kinh tế của đất
nước thực sự đang trong t́nh trạng nguy ngập.
T́nh h́nh lương thực đang bị
đàn “châu chấu Trung Quốc” làm kiệt đi từng giờ.
Thóc gạo vụ mùa cũng không
đủ để nuôi dân Bắc Kỳ quá được 30 ngày.
Và các cán bộ của Lư Hán đ̣i phải nộp lương thực
và dịch vụ tại chỗ để chi cho việc chiếm đóng.
Đó là một bức tranh ảm đạm.
Tôi cũng cảm thấy buồn phiền
nhưng không thể làm ǵ hơn là giúp thông báo
t́nh h́nh Côn Minh như thường lệ.
Nghĩ đến t́nh trạng khó khăn
của ông Hồ, tôi thông cảm với giọng hoà giải
trong lời tuyên bố của ông với các kư giả ngoại
quốc. Ông đă phải
hành động từ một thế yếu và thực tế đă đưa ra
một đề nghị thương lượng dứt khoát với Pháp với
hy vọng sẽ tránh được một cuộc xung đột vơ trang
và tranh thủ thời gian cho Chính phủ của ông.
Sự xuất hiện của người Anh
và người Pháp ở Sài G̣n đă tác động mạnh đến
t́nh h́nh ở Thành (Hà Nội). Người của
Sainteny đă không mất thời gian để báo những tin
tức trên cho nhóm Mordant trong Thành, đồng thời
cũng chuyển cho họ lệnh của tướng Alessanđri từ
Trung Quốc chỉ thị cho các tù binh Pháp ở đây
phải “tổ chức thành các đơn vị bộ đội” và “cấp
vũ khí cho một đại đội lê dương để bảo vệ trật
tự” khi người Trung Quốc đến nhận nhiệm vụ chỉ
huy Thành. Cùng lúc đó, người Nhật chỉ huy trại
cũng tuyên bố nhận được chỉ thị của bản doanh ra
lệnh phải theo gương
Sài G̣n và thả tất cả các tù binh.
Đại tá Norlinger phụ trách
công tác tù binh lúc đó đă hỏi ư kiến tôi.
Tôi đă khuyên ông phải bác bỏ lệnh của
Alessandri và ra lệnh cho Nhật tăng cường canh
gác, cấm không được thả tù binh nào cho đến khi
nhận được lệnh của Bộ chỉ huy tối cao Trung
Quốc. Norlinger tiếp thu
ư kiến của tôi và báo cáo với Côn Minh. Ngày hôm
sau chúng tôi nhận được sự đồng ư của cấp trên
kèm theo ghi chú
Alessandri ở Trùng Khánh cải chính không gửi bất
kỳ lệnh nào cho người Pháp ở Hà Nội.
Miền Bắc Đông Dương quả thực
là một nhà thương điên. Những người Pháp
xấu số, liên tục phải chống lại các “Đồng minh”
“vô tâm” và người Việt “bội bạc”; những người
Quốc gia thân Trung Quốc tích cực hoạt động nhằm
lật đổ chính phủ Việt Minh; quân Quốc dân Đảng
háu ăn đang ra sức tàn phá đất nước; các gián
điệp Nhật đang lén lút tổ chức mạng lưới ngầm
sau chiến tranh của họ.
Trung tâm hoạt động của tất cả các nhóm này vẫn
là Hà Nội.
BỘ MÁY BÍ MẬT CỦA NHẬT
Ngoài những hoạt động công khai của Nhật đă được
mô tả ở trên, tổ phản gián chúng tôi đă khám phá
ra một mạng lưới hoạt động bí mật hết sức phức
tạp được cài một cách chặt chẽ vào các tổ hợp
kinh tế và văn hoá ở Đông Dương và c̣n đang hoạt
dộng. Trung tâm hệ thống t́nh báo và chiến tranh
chính trị Nhật đă được xác định là hai tố chức
hết sức kín đáo: Công ty Thương mại và Kỹ nghệ
Đông Dương có tên là CICEI và Trung tâm Văn hoá
(Bunka Kaikan).
CICEI được h́nh thành từ một
hăng xuất cảng Nhật nhỏ Taikatu, đặt tại Hà Nội
từ trước 1937.
Taikatu có 15 chi nhánh ở khắp Đông Dương với
trụ sở đàng hoàng và nhân viên đầy đủ.
Tháng 9-1937, Doichi Yamane,
cựu đại diện Nhật tại Hội Quốc Liên, mở thêm một
hăng xuất cảng thứ hai bên cạnh Lănh sự Pháp tại
phố Carnot. Sáu tháng
sau, Bunishi Onishi từ Tokyo đến và lập ra
CICEI. Onishi có quyền gắn bó với Ngân
hàng Đài Loan, Ngân hàng Yokohama và Ngân hàng
Đông Dương mà ở đó ông có một số quyền lợi quan
trọng và qua một số biện pháp tài chính ông đă
thống nhất các hăng xuất cảng nhỏ vào CICEI.
CICEI trở thành một phường hội khép kín, không
chịu sự kiểm soát của bên
ngoài(6).
Ban đầu CICEI tập trung vào việc thăm ḍ đất
đai, khai thác mỏ và
quặng sắt. Nhân viên của họ
đi khắp nơi để nghiên cứu, chụp ảnh và vẽ bản
đồ. Họ có thể hỏi thẳng các nhà chức
trách quân sự, dân sự Pháp để lấy các tài liệu
về địa chất, địa lư, bến cảng, đường giao thông,
kho tàng, bờ biển, tàu bè…
Mùa thu 1938, CICEI
mở rộng kinh doanh khai thác quặng sắt cho Nhật
ở Thái Nguyên. Đến 1941, CICEI tiếp quản các mỏ
ở Lào Cai để cung cấp
nguyên liệu cần thiết cho nền kinh tế chiến
tranh Nhật. Họ thu lợi lớn nhưng đồng thời cũng
lượm được những tin t́nh báo quư giá về Pháp và
Trung Quốc.
Nhật rất thiếu crôm và kẽm, CICEI qua Ngân hàng
Đông Dương năm 1 942 tham gia vào một công ty
crôm và kẽm của Pháp và lập ra một liên hợp gọi
là CROMIC. Trong 1 942 - 1943, CICEI phát triển
vào Sài G̣n, Hải Pḥng, Cao Bằng, Hà Giang, Thái
Nguyên và Thai Niên (?). Một
nhân vật cao cấp ở Tokyo đă chỉ đạo về tài chính
cho CICEI chứng tỏ quy mô hoạt động lớn lúc đó.
Sau những cuộc ném bom đánh
phá bằng tàu ngầm của Đồng minh 1944, hoạt động
của CICEI có giảm sút. Nhưng CICEI vẫn
duy tŕ khối lượng nhân viên như cũ để
tung ra hoạt động
suốt khắp Đông Dương dọc bờ biển nam Trung Quốc,
giữa Ấn Độ và Miến Điện. Đồng thời qua các luồng
ngân hàng, nhất là Ngân hàng Đông Dương, cơ quan
CICEI vẫn liên lạc với Tokyo, Berlin, Rome,
Bern, Paris và cả Washington để trao đổi tin
t́nh báo và gián điệp.
Quân Nhật ở Đông Dương cũng có tổ chức bí mật
riêng của ḿnh gọi là Dainan Koosi, chuyên hoạt
động thu thập tin tức Quân đội và Hải quân Nhật.
Dainan Koosi được đặt dưới sự lănh đạo của một
gián điệp nổi tiếng tên là Matsushita(7).
Cơ quan của Dainan Koosi phù trợ cho Hải quân là
Manwa (hay là Van Woo), sưu tầm quặng
kim loại đặc biệt và
cung cấp t́nh báo có liên quan đến công nghiệp
luyện kim. Một khía cạnh hoạt động khác của nó
là trao đổi vật tư và hàng lậu để lấy tiền quan
kim và kim loại để
chi phí cho các hoạt động t́nh báo ở Trung Quốc.
Syotu đóng ở Hà Nội là cơ quan phù trợ cho Quân
đội Nhật. Nó chuyển mua hoặc kiểm soát các ṣng
bạc ở duyên hải Trung Quốc nhằm để chuẩn bị cho
việc đưa đón các gián điệp Nhật có nhiệm vụ thu
thập tiền bạc và t́nh báo ở Trung Quốc. Syotu ở
Hà Nội cho thấy hàng tháng đă
thu được độ 100 tấn
đồng Trung Quốc.
Trong 1944, Dainan Koosi đă thu thập được gần
4.000 tấn đồng pha thiếc, được lọc lại tại Đông
Dương và do CICEI, CATEL chở về Nhật. Qua chợ
đen, Manwa và Syotu c̣n kiếm được một số khá lớn
antimon, ch́, mangan, amiang, mica và
da( 8 )
Bộ máy hoàn bị này chắc là đă bóp nghẹt nền kinh
tế Đông Dương và đă cung cấp cho Nhật ngoại tệ,
tin t́nh báo về Đồng minh và các vật liệu chiến
lược. Nhưng điều quan trọng trước mắt đối với
chúng tôi là ở chỗ nó làm vỏ bọc cho kế hoạch
hoạt động hậu chiến của Khối Thịnh vượng chung
Đại Đông Á. Thua trận trước các nước Đồng minh
hoàn toàn không có nghĩa là Nhật đă thôi không
theo đuổi các kế hoạch trước chiến tranh “Á châu
cho người châu Á” của họ.
Chúng tôi cũng phát hiện được một
cách rơ ràng là Hiến binh Nhật hoạt động từ các
Trung tâm Văn hoá(9)
ở Hà Nội, Huế và Sài G̣n. Số
lớn các nhân viên của họ đă vứt bỏ quân phục và
phân tán vào dân chúng Việt Nam. Chúng
tôi cũng xác định được một số Hiến binh lẩn
trong các nhân viên các hăng buôn Nhật cũ… Những
người Nhật “đào ngũ” này được lệnh phải “biến
đi” để tổ chức thành con buôn, cướp… để sau này
hoạt động bí mật, đặc biệt là trong các công tác
quấy rối và tuyên tuyền trong các phần tử chống
Pháp và chống Việt Minh.
Một trong những điều quan tâm của tôi là t́m bắt
cho được đại sứ Jean Marie Yokoyama(10), người
đứng đầu Trung tâm Văn hoá, cùng với nhiều cộng
tác viên thân cận của ông ta(11).
Ngay từ buổi đầu chiến
tranh, Yokoyama đă là một đối tượng của OSS v́
ông là người lănh đạo lưới t́nh báo gián điệp ở
Đông Nam Á có nhiều đầu mối rộng khắp thế giới.
Vào năm 1943, chúng tôi đă phát hiện được
Yokoyama ở Huế, hoạt động dưới sự bảo trợ của
Ngân hàng Đông Dương. Yokoyama là nhân vật số 2
trong danh sách phải “ưu tiên t́m kiếm” của tôi,
sau Subhas Chandra Bose(12).
Chúng tôi đă chẳng phải lâu
la ǵ t́m ra được các nhân vật này nhưng chúng
tôi không thể bắt giữ họ nếu như không có sự
cộng tác của người Trung Quốc. Nhưng cơ
quan an ninh của Lư
Hán và bản thân ông ta tỏ ra không phấn khởi
trong việc phải gặp lại những người cộng tác cũ.
Yokoyama và Long Vân trước
đây đă không xa lạ nhau. Trong lời cung
khai của các viên chỉ huy Nhật ở nam Trung Quốc,
họ xác nhận một cách dễ dàng đă có những tiếp
xúc từ lâu giữa họ và các “quân phiệt và sĩ quan
cao cấp Trung Quốc” trước giữa những năm 1930.
Những cuộc tiếp xúc đă được tổ chức thông qua
Yoshio Minoda, Tổng lănh sự Nhật tại Hà Nội, cho
đến 1939 và sau th́ Yokoyama đảm nhận nhiệm vụ
này.
Trước khi người Nhật vào nắm quyền ở Đông Dương,
hoạt động t́nh báo và chính trị của Nhật nhiều
lúc đă lộ liễu đến mức bắt buộc người Pháp trong
nhiều trường hợp phải trục xuất các nhà ngoại
giao và kỹ nghệ Nhật như Matsushita. Song chính
những người này năm 1940 đă quay trở lại những
nơi họ đă phải bỏ ra đi, nhưng với nhiều quyền
hành và năng nổ hơn trước v́ Nhật đă chiếm được
một vai tṛ trội hơn ở châu Á.
Vào năm 1940, khi Nhật chuẩn bị bước vào một
cuộc chiến tranh Thái B́nh Dương và Đức đă chiếm
Pháp,các nhà vạch kế hoạch ở Tokyo đă nhằm tiến
lên xa hơn. Để thực hiện mục tiêu lâu dài của họ
trong việc kết thúc nền đô hộ của người da
trắng, họ trông mong vào việc đuổi người Anh ra
khỏi Miến Điện và Mă Lai, người Hà Lan ra khỏi
Indonesia và người Pháp khỏi Đông Dương và họ ra
sức thuyết phục Tnmg Quốc tốt hơn hết là phải
cộng tác với Nhật. Đồng thời, thuộc địa Anh, Hà
Lan, Trung Quốc lại gần sát với Nhật nên Đông
Dương sẽ phải là một bàn đạp thích hợp cho các
cuộc hành quân của họ tiến vào Đông Nam Á.
Ngay trước khi có thoả hiệp quân sự tháng 8-1940
với chính phủ Vichy về quyền được ưu đăi ở Đông
Dương, Nhật đă cử đại sứ Yokohama lănh đạo Trung
tâm Văn hoá Hà Nội dưới vỏ bọc là viên lănh sự,
có người phó giúp việc là Komaki Omiya(13) và
Komatsu phụ trách về tuyên truyền(14).
… Mục tiêu lâu dài của Nhật
đ̣i hỏi phải từng bước gạt bỏ ảnh hưởng và chủ
quyền Pháp ra khỏi Đông Dương. Đó là những điều
Matsushita đă làm từ những năm 1930.
Và sau khi bị Pháp trục xuất
vào 1938, Matsushita đă trở lại Đông Dương làm
giám đốc Dainan Koosi.
Yokoyama và Matsushita trở
thành những người cộng tác với nhau từ 1941.
Ban đầu, chương tŕnh của Yokoyama hướng vào
việc tuyên truyền cho nền văn hoá Nhật, nhưng
sau đó đă chuyển sang công khai cổ vũ cho thuyết
phân biệt chủng tộc trong cái gọi là triết lư
của Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Điều đó
cũng đă được một bộ phận rộng răi quần chúng
Việt Nam tiếp thu, đặc biệt trong các giáo phái
Cao Đài và Hoà Hảo. Nhưng sau cú 9-3 và các trận
thất bại ở Thái B́nh Dương, Tokyo mất hào hứng
trong chính sách phân biệt chủng tộc, lệnh cho
Yokoyama tập trung vào công tác tuyên truyền
trực tiếp và làm t́nh báo. Matsushita và một số
thuộc cánh “Châu Á cho người châu Á” liền cho đó
là một sự phản bội của các phần tử thân châu Âu
ở Tokyo và cũng nghi ngờ đối với Yokoyama mà mẹ
và vợ đều là người Pháp và
theo đạo Thiên Chúa.
Trong khi điều tra về tổ hợp thương mại, chính
trị và t́nh báo Nhật ở Đông Dương, người ta thấy
tay chân Matsushita trong Phục Quốc và Đại Việt
dă tiến hành tuyên truyền thân Nhật với sự bảo
trợ và giúp đỡ của Hiến binh ở những cấp cao
trong quân đội Nhật. Và hoạt động của họ c̣n
tiếp tục cho đến tận 1946.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Hiến b́nh Nhật đảm
nhận việc lănh đạo phong trào chống người Âu và
cũng dă gộp Cộng sản Việt Minh vào bản danh sách
căm thù của họ.
Trong t́nh h́nh đó, tôi t́m sự giúp đỡ của Trung
Quốc, gặp tướng Mă, tham mưu trưởng của Lư Hán
và đề nghị Trung Quốc cho cơ quan an ninh bắt
giữ bọn gián điệp Nhật đă được phát hiện và thu
thập nhiều tài liệu có giá trị c̣n trong Lănh sự
quán Nhật, các Hành dinh quân đội và tại các
Trung tâm t́nh báo. Mă tỏ ra
không chú ư, đặc biệt khi tôi nói tới Yokoyama
và Matsushita. Ông lịch sự đáp lại là Lư
Hán đă “không nhận được chỉ thị của Trùng Khánh
về vấn đề công tác phản gián” và nhân viên của
ông ta không thông thạo trong loại công việc
này. Kết quả không thể tránh khỏi là người Nhật
vẫn được thoải mái đi theo
con đường của họ.
Mấy tháng sau, tôi đă báo cáo về Bộ Chiến tranh
và Bộ Ngoại giao về những sự cấu kết của Nhật
trong quan hệ trong thời kỳ chiến tranh của họ
với các phần tử Pháp, Trung Quốc và Việt Nam…
cùng những mưu toan hợp tác của các phần tử địa
phương trong việc nhằm thực hiện các nhiệm vụ
trước mắt cũng như lâu dài của Nhật.
Một h́nh ảnh nổi bật của các thủ đoạn tài nghệ
này thể hiện trong vai tṛ của Ngân hàng Đông
Dương Pháp trong các vụ đầu cơ về t́nh báo và
thương mại của Nhật. Thành công của các vụ này
gắn liền một cách không thể chối căi được với sự
cộng tác có ư thức của nhiều quan chức cao cấp
Pháp trên lĩnh vực tài chính và chính trị, ở
Đông Dương và ở chính quốc Pháp. Trong 6 năm
tṛn, những người theo Pétain và De Gaulle đều
cùng với các nhà chức trách Nhật hoạt động một
cách không thân thiện đối với Đồng minh và làm
thiệt hại đến những lợi ích tối cao của Đông
Dương.
… Trong những năm
chiến tranh, nhiều người Tnmg Quốc cũng buôn bán
lương thực và đồ quân dụng với Nhật để kiếm lời.
Cũng như người Nhật, họ phải lợi dụng Ngân hàng
Đông Dương và yêu cầu Nhật tiếp tục kiểm soát
các tài sản của ngân hàng trong khi Quốc dân
Đảng thương lượng với Pháp về vấn đề đặc quyền
ngoại giao ở Trung Quốc và quyền lợi đặc biệt ở
Đông Dương.
Một cái vốn có ích khác là những người Việt Nam
thân Nhật. Họ đă được khuyến khích chống lại
thực dân Pháp và ủng hộ Khối thịnh vượng chung
Đại Đông Á của Nhật. Nhưng trong năm 1940 và sau
đó là 1945, khi họ mất hết khả năng và miếng mồi
đă mất, họ đă bị Nhật bỏ rơi để cho Pháp khủng
bố và Việt Minh trừng trị.
Qua công tác điều tra của cơ quan phản gián, bấy
giờ tôi mới rơ tại sao chỉ có ngôi nhà Ngân hàng
Đông Dương mới được gác cẩn thận như thế ở Hà
Nội; tại sao nó lại là một phương tiện duy nhất
mà Nhật c̣n kiểm soát một cách chặt chẽ cho tới
giữa tháng 10 và tại sao người Nhật đă vội vàng
rút những khoản tiền lớn trước khi người Trung
Quốc tới, để cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của
ông Hồ một tài khoản phá sản. Vai tṛ ghê tởm
của số người nhúng tay
vào các hoạt động phá hoại này trong Thế chiến
thứ hai đă rất ít trong số họ đă bị trừng trị.
Chú thích
(1) các đội ám sát
(2) Một tiểu đoàn của trung đoàn kỵ binh 16, sư
đoàn 20 Ấn Độ (Gurkhas)
(3) Một đại đội của trung đoàn thuộc địa số 5 (5
RIC). Đây là một đơn vị được phục hồi lại từ các
lực lượng cũ của Pháp được tập hợp lại và huấn
luyện ở Bắc Phi trong đội quân ứng chiến để
chiếm lại Đông Dương của tướng Blaizot.
(4) các tù b́nh Hà
Lan, Úc và Anh đang chờ được hồi hương.
Tù binh Mỹ đă được toán
Dewey chuyển đi từ trước.
(5) Phạm Văn Đồng nói với tôi ngày 3-9-1945 là
Chính phủ mới chỉ thấy trong ngân khố lúc đó
không quá 1,5 triệu đồng
(6) Masumi Yaghiou là con của Giám đốc ngân hàng
Đài Loan, được chính phủ Nhật giao cho nhiệm vụ
kiểm soát tất cả các hoạt động tài chính của tổ
hợp công thương nghiệp có liên qan đến các hoạt
động bí mật ở Đông Dương. Ông là nhà chức trách
duy nhất giữ liên lạc giữa các tổ chức dân sự và
quân sự, và là một công chức cao cấp của Nhật ở
mọi nơi.
(7) C̣n gọi là Matusita
( 8 ) Năm 1944, chính phủ Trung Quốc đă ra sắc
lệnh xử tử tất cả người nào có “những số lớn
tiền bạc hoặc vải vóc không sản xuất tại Trung
Quốc”. Nhưng qua sự chất vấn các quan chức
Dainan Koosi sau chiến tranh đă cho thấy một sự
buôn bán rất lớn tiền tệ và vải vóc đă được xúc
tiến bởi “một số quân phiệt” ở Vân Nam, Quảng
Tây và Quảng Đông.
(9) J.M. Yokohama đă tổ chức
được một trung tâm chiến tranh chính trị có quy
mộ toàn quốc ở Hà Nội.
Trung tâm này phụ trách một
hệ thống các trường học Nhật cho các gia đ́nh
người Nhật ở Đông Dương và tổ chức các buổi
thuyết tŕnh lư luận chính trị và văn hoá Nhật
cho các thanh niên Việt Nam.
Nhưng đó cũng là một trung
tâm tuyển mộ những người Quốc gia chống Pháp và
chống Việt Minh.
Trung tâm hoạt động phối hợp với CICEI.
(10) Yokohama là một nhà ngoại giao chuyên
nghiệp, từng là Bộ trưởng ở Tây Ban Nha cho đến
khi được chuyển về Đông Dương 1939.
Nhiệm vụ của ông là tổ chức,
điều khiển hoạt động t́nh báo và chính trị, đồng
thời là cố vấn cho triều đ́nh Huế.
Mẹ và vợ đều là người Pháp
Công giáo đă giúp nhiều cho ông quan hệ với các
giới Pháp ở Sài G̣n, Huế, Hà Nội.
Ông cộng tác với người bạn
đồng nghiệp trong giới kỹ nghệ là Matsushita.
Ngày 10-3-1945, chính Yokohama đă vào điện Kiến
Trung để khuuyên Bảo Đại hợp tác với Nhật trong
Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á và đă thuyết
phục được Bảo Đại chấp nhận kế hoạch phân biệt
chủng tộc bằng cách tuyên bố để “giữ thể diện”
là Việt Nam “không lệ thuộc vào nước ngoài” và
sẵn sàng hợp tác với Nhật để củng cố nển “độc
lập” của Việt Nam.
(11) Komaki Omiya, Doichi Yamane, Komatsu và
Matsushita
(12) Lănh tụ phe Quốc gia Ấn Độ
(13) Đến Đông Dương năm 1939 nhờ sự bảo trợ của
Doichi Yamane, cựu đại diện Nhật ở Hội Quốc Liên
và là một nhân viên cơ quan t́nh báo Nhật.
Komaki Omiya được cử vào ban quản trị CIDIM, một
chi nhánh của CICEI. Omiya đă có một thời gian
ngắn (1942-1943) cộng tác với Việt
Minh(?) để nhằm lôi
kéo người Việt chống lại người da trắng nhưng
đạt ít kết quả v́ Việt Minh có tinh thần chống
Nhật.
(14) Một cựu thông tín viên của tờ báo quân đội
Nhật Yomiwu, phụ trách công tác văn hoá quân
chúng trong trung tâm văn hoá
Chương 32
Nam vĩ tuyến 16
“MỘT THIẾU TƯỚNG HIỆN ĐẠI
ĐIỂN H̀NH”
Thiếu
tướng Douglas D. Gracey đến Sài G̣n một ngày
sau tiểu đoàn Gourkhas của ông.
Gracey thuộc loại sĩ
quan thuộc địa cổ điển Anh. Sư đoàn
Ấn Độ 20 của ông đă tham gia cuộc chiến đấu
lâu dài và ác liệt ở Miến Điện nên việc được
chỉ định đến Đông Dương sẽ làm cho họ có
được nơi nghỉ ngơi thích dáng và dễ chịu.
Vị tướng Anh đến Đông Dương hoàn toàn không
có sự hiểu biết ǵ về những người “bản xứ”
nhưng ông lại biết rằng Đông Dương, trước
đây là một thuộc địa của Pháp. Ông cho biết
khi rời Rangoon đi Sài G̣n, tổng số thông
tin của ông chỉ vẻn vẹn nằm gọn trong một
trang tóm tắt về t́nh h́nh chính trị do
người Pháp cung cấp. Ông không nhận được ǵ
từ phía người Mỹ. Cơ quan t́nh báo Anh và
Mỹ, theo ông, đă không có sự trao đổi tin
tức về Đông Dương, thể theo ư muốn của De
Gaulle.
.. Trước khi rời Rangoon, Gracey đảm
nhiệm hai nhiệm vụ: Chỉ huy Ban Thanh tra Bộ
Tư lệnh tối cao SEAC; và chỉ huy trưởng lực
lượng Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương phía
nam vĩ tuyến 16.
Với tư cách là chỉ huy Ban Thanh tra, ông
chịu trách nhiệm trực tiếp với Mounbatten về
việc kiểm tra Tổng hành dinh tập đoàn quân
Nam của Thống chế Terauchi ở Sài G̣n, tiến
hành thương lượng về Nhật đầu hàng, giữ liên
lạc với người Pháp, giúp đỡ việc thả và
chuyên chở các tù binh Đồng minh.
Trong vai tṛ chỉ huy lực lượng Đồng minh,
ông chịu trách nhiệm trước tướng
Slim(1), về các
hoạt động bí mật, chiếm giữ các bộ chỉ huy
thuộc Hành dinh Tập đoàn quân Nam và vùng
Sài G̣n - Chợ Lớn, giúp đỡ công tác tù binh
và tù thường dân, giải giáp và tập trung
quân Nhật, duy tŕ pháp luật và trật tự.
Ngoài ra, Gracey c̣n phải đảm nhiệm việc chỉ
huy các quân nhân Pháp cho đến khi tướng
Slim thay thế.
Nhưng khi Gracey lên đường đi Sài G̣n, ngày
13-9, tướng Slim
đă bổ sung thêm nhiệm vụ cho ông. Gracey
“không có trách nhiệm giữ trật tự ngoài các
khu vực chủ yếu, nếu nhà chức trách Pháp
không yêu cầu và phải được sự đồng ư của
Tổng tư lệnh tối cao Đồng minh (Mounbatten);
hơn nữa cho đến khi có sự thoả thuận giữa
Anh và Pháp về vấn đề chính quyền dân sự ở
Đông Dương th́ các khu vực chủ yếu sẽ được
xác định căn cứ vào nhu cầu giải giáp và hồi
hương quân Nhật”.
Mệnh lệnh bổ sung rơ ràng không giao trách
nhiệm giữ trật tự cho Gracey ở những khu vực
không có liên quan đến việc giải giáp và tập
trung quân Nhật để hồi hương. Nhưng chưa đầy
10 ngày sau, mệnh lệnh đă bị
vi phạm và đă đưa
đến nhiều hậu quả chính trị nghiêm trọng.
Đại tá Cass và các sĩ
quan cao cấp khác dă đến đón Gracey ở phi
cảng Sài G̣n. Sĩ
quan và binh lính Nhật cũng kín đáo chờ đợi,
tuy ở xa nơi đó một chút.
Trên đường về thành phố,
Cass báo cáo cho Gracey biết về t́nh h́nh
Nam Kỳ. Nhưng h́nh như Gracey không nắm được
thực chất vấn đề nêu lên.
Viên tướng - quân nhân
này h́nh như quên khuấy mất các biến động
chính trị tại thành phố rối loạn này.
… Ông tướng thực dân
nhận định đó là một t́nh trạng vô chính phủ,
đ̣i hỏi phải có một hành động nhanh chóng và
kiên quyết. Vài giờ sau, Gracey ra
lệnh cho Nhật tước vũ khí người Việt Nam,
đuổi Lâm uỷ ra khỏi dinh Toàn quyền ở Sài
G̣n, đồng thời cũng tuyên bố hành động đó
“không gây ra phức tạp ǵ về chính trị”.
Người Pháp không để mất thời gian, liền treo
cờ Pháp lên các công sở(2)
và cắm cả cờ tam tài lên các xe quân sự (do
Mỹ sản xuất).
Từ khi quân Anh và Pháp
đổ bộ ngày 12-9, tin tức thực và tưởng tượng
về t́nh h́nh Nam Kỳ đă rộn lên. Các
tin lẫn lộn và phóng đại về những sự bạo
ngược của Pháp; tin Anh dùng quân đội Nhật
để đàn áp những người chống đối Việt Nam;
sắp tới quân đội của Leclerc sẽ chiếm lại
toàn bộ Việt Nam, và nhiều tin đồn khác đă
lan ra Hà Nội, kích động mọi người và gây
căng thẳng trong những nhóm chống đối…
Trong đêm 13, tin truyền
đi cấp tốc ở Huế và Hà Nội là Anh và Pháp đă
nắm chính quyền và đánh đổ Chính phủ Việt
Nam. Tin nói rằng Bộ chỉ huy của
Gracey đă công bố người Anh sẽ đảm nhận việc
duy tŕ trật tự và pháp luật “cho đến khi
quân đội Pháp tới”, bao hàm ư nghĩ người
Pháp sắp quay trở lại đă gây xúc động mạnh.
Toán OSS ở Sài G̣n đă
khẳng định tin trên và nói thêm là Lâm uỷ
lúc đó đă công khai kêu gọi dân chúng “hăy
b́nh tĩnh và tránh mọi sự xung đột” nhưng
đồng thời cũng ngầm bắt đầu “cho phụ nữ và
trẻ em sơ tán khỏi các thành phố” về nông
thôn.
Theo tôi, lệnh sơ tán
của Việt Minh là một dấu hiệu tích cực tỏ ra
thực sự muốn hành động. Tôi báo cho
đại tá Heppner và tướng Donovan biết ư kiến
của tôi là, nếu như Anh ở miền Nam và Trung
Quốc ở miền Bắc dính líu sâu vào việc Pháp
quay trở lại th́ tốt hơn hết Mỹ nên tách
ḿnh khỏi những mưu mô này, nếu không Mỹ sẽ
bị lôi cuốn đi theo các thế lực thực dân ở
Viễn Đông. Trong một
công văn riêng, Dewey ủng hộ quan điểm của
tôi và cho biết thêm anh ta đă bị Gracey
khuyên nhủ phải chấm dứt sự “đồng loă với
bọn phiến loạn”.
CON ĐƯỜNG ĐẪN ĐẾN THIẾT QUÂN LUẬT
Ở Sài G̣n, Dewey dă gặp Cédile
và cho ông là “một con người trung thực,
biết lẽ phải, và theo
phái De Gaulle” triệt để trung thành với bản
Tuyên bố 24-3 (của Pháp). Dewey và Cédile có
nhiều chỗ tương đồng như xu hướng tự do
trong quan điểm chính trị, ca tụng De
Gaulle, có cảm t́nh với hoài băo độc lập dân
tộc của người Việt. Sự
khác biệt giũa họ có nguồn gốc dân tộc.
Cédile là quan chức Pháp
theo chính sách “độc lập dần từng
bước”, c̣n Dewey là sĩ quan Mỹ gắn bó với
chủ nghĩa chống thực dân của Roosevelt.
Nhưng họ cũng đă có thể giao thiệp với nhau…
Ngoài người Pháp ra, Dewey cũng c̣n có quan
hệ chặt chẽ với các uỷ viên trong Lâm uỷ,
đặc biệt với Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc
Thạch. Trong gần 2 tuần lễ, Dewey đă gặp
người Pháp và người Việt mà vẫn không thu
xếp được một cuộc điều đ́nh giữa Cédile và
Lâm uỷ. Mọi cố gắng theo hướng này đă bị
chặn đứng bởi một nhóm thực dân cực hữu Pháp
do Mario Bocquet(3)
cầm đầu. Bế tắc ở đây chỉ là do tính chất bè
phái và những quyền lợi bất di bất dịch.
Dewey cũng đă thấy có những phần tử biết
điều trong những người Pháp muốn chấp nhận
thương lượng ở một mức độ tự trị cho người
Việt trong phạm vi
bản Tuyên bố 24-3.
Cédile ở trong số những người đồng ư thương
lượng chỉ nhằm để tránh một cuộc xung đột vũ
trang. Nhưng bất hạnh là ông lại bị
cầm tù bởi một khối có thế lực về tài chính
ở Nam Kỳ lúc đó, gồm bọn chủ nhà băng, chủ
đồn điền, chủ mỏ, các quan chức, các nhà
chính trị… Họ phần lớn
là thực dân người Pháp nhưng cũng có một số
ít người Hoa và Việt giàu có. Số này
kiên quyết không chịu thảo luận với những
người Việt và đặc biệt với Lâm uỷ với lư do
họ là người của Việt Minh - toàn là Cộng sản
- và không đại diện cho “người
An nam mít hiền
lành và trung thành”.
Ở phía bên kia,
người Việt cũng bị chia rẽ. Việt Minh th́
sẵn sàng nói chuyện, cũng có thể thoả thuận
với những yêu cầu hạn chế của Pháp, cốt để
Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để
lấy đó làm một điểm xuất phát.
Nhưng họ cũng bị công
kích bởi các nhóm đối lập đang ganh đua nắm
quyền lănh đạo đất nước và mong đợi cho Việt
Minh sụp đổ. Phái
đối lập muốn huỷ bỏ cuộc thương lượng với
Cédile và cho phát động cuộc kháng chiến
chống Pháp quay trở lại.
… Cédile bị cánh hữu bảo
thủ Pháp cũng như những người cánh tả lên
án. Nhưng ông cũng chỉ là một công
chức, Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Nam Kỳ…
Ông không thể vượt quá
chỉ thị của Chính phủ.
Bác sĩ Thạch đă kêu gọi
sự hiểu biết của Cédile và Gracey.
Người Pháp đă tỏ ra có
thiện cảm nhưng người Anh đă cự tuyệt thẳng
thừng. Dewey
không có ảnh hưởng ǵ đối với giới của
Gracey, c̣n Washington th́ cũng chẳng ngó
ngàng ǵ đến các báo cáo của ông.
V́ vậy việc Gracey từ
chối không làm việc với người Việt Nam làm
cho người Pháp cảm thấy được khích lệ và họ
cho rằng người Anh đă cho phép họ nắm lấy
chính quyền.
Cho tới ngày 16-9, ai
cũng thấy rơ là cuộc nói chuyện Cédile -
Bạch đă không đi tới đâu.
Theo quan điểm của người
Việt Nam, cuộc nói chuyện chỉ phục vụ cho
mục tiêu của người Pháp, cho họ thời gian để
củng cố vị trí và chờ quân đội Leclerc tới.
Phạm Văn Bạch, nhân nhượng trước áp lực đảng
phái, đă tuyên bố công khai lên án Anh từ
chối không chịu công nhận chính phủ duy nhất
hợp pháp ở Nam Kỳ - Lâm uỷ Nam Bộ - và đă
gạt bỏ đề nghị thương lượng hợp tác của Lâm
uỷ trong việc quản lư đất nước.
Không nhận được lời đáp
lại, Lâm uỷ liền ra lệnh tổ chức một cuộc
tổng băi công vào ngày hôm sau để phản đối
cái mà họ cho là âm mưu Pháp - Anh nhằm lật
đổ chính phủ Việt Nam.
Sáng hôm sau, 17-9, tuy là Chủ nhật, khu chợ
đông nghịt người, tầu điện đứng chết tại
nhiều chỗ trên đường, vắng hẳn
xe kéo, những
người “bồi” cũng không thấy đâu, cửa hàng
đều đóng khoá… Không đưa
thư tín và cũng không có điện. Điện
tín điện thoại lúc có lúc không…
Đó cũng chỉ mới là những
điều bất tiện. Nhưng cũng từ đó mà đă
nổ ra các việc rắc rối: các vụ bắt bớ ngược
đăi người Pháp và một số vụ bắt cóc người
Việt thân Pháp. Đêm đó thực là một đêm cực
khó khăn..
Đến Thứ hai, t́nh h́nh
cũng không được cải thiện hơn.
Cuộc sống ở thành phố
ngừng lại. Lẻ tẻ
vẫn nổ ra những cuộc xô xát giữa người Pháp
và người Việt, nhưng phần lớn mang tính chất
những vụ đụng độ nhỏ với những lời ḥ hét,
căi chửi nhau và đe doạ. Điều khó
chịu cho những bà nội trợ Pháp là thiếu thịt
tươi, sữa, hoa quả, nước và điện hiếm… trong
khi những người “bồi” của họ th́ biến mất.
Sáng hôm đó, tôi nhận được một bức điện của
Phạm Văn Bạch như sau:
“Gửi Phái đoàn Đồng minh, Hà Nội.
Phái đoàn Anh đă dùng
quân đội chiếm đóng các công sở của Chính
phủ Việt Nam ở Nam Kỳ. Mong rằng được chứng
minh quyền được Độc lập của Nhân dân An Nam.
Việt Nam đă hoàn toàn
độc lập. Người
Việt Nam có quyền được tự định đoạt số phận
của ḿnh”.
Báo cáo đêm hôm đó của
toán Dewey làm cho người ta bối rối thêm; họ
đă nhận được tin, nếu chính xác, th́ có
nghĩa là đă xảy ra rối loạn nghiêm trọng.
Các đội tuần tiễu Nhật
đă bắt nhiều toán khiêu khích được xác nhận
thuộc bọn cướp B́nh Xuyên.
Chúng đă đánh bị thương
một số quân nhân Pháp trong một quán cà phê
và đốt hai nhà người Pháp, không cứu được v́
không có lính cứu hoả và nước. Đến
đêm các cuộc tấn công vào người Pháp và Việt
tăng thêm và người Pháp bắt đầu sợ. Người
Việt Nam lo thu
vén tài sản, nhiều đàn bà và trẻ em chuẩn bị
sơ tán khỏi thành phố.
Cédile, với tư cách là
một người phát ngôn cao cấp nhất của Pháp ở
Nam Kỳ lúc đó, đă bị đặt trước một t́nh h́nh
khó xử. Mệnh lệnh
duy nhất đầu tiên ông nhận được ở Calcutta
vào tháng 8, là “lập lại trật tự và khôi
phục chủ quyền của Pháp”.
Cuộc đổ máu giữa người
Pháp vũ trang và người Việt là không thể
tránh khỏi nên Cédile quyết định hành động.
Ông gặp Gracey và đưa ra
việc cấp thiết phải bảo vệ tính mệnh, tài
sản người Pháp và đề nghị phát vũ khí cho
các tù binh Pháp.
Theo một người của Dewey được chứng kiến th́
trong cuộc gặp không đả động ǵ đến sinh
mệnh và tài sản người Việt Nam.
Gracey cho đề nghị của
Cédile là thiết thực và có lư.
Ông rất muốn cấp vũ khí
cho người Pháp, nhưng đă phải chững lại.
Lần đầu tiên trong binh
nghiệp của ḿnh, Gracey đă bắt đầu phải suy
nghĩ về chính trị.
Ông đă nhận thức được
rằng người Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề
độc lập và đó cũng là một việc không thể bàn
căi được. Đông Dương ở trong một bối
cảnh hoàn toàn khác với Ấn Độ. Trong khi
Công Đảng Anh ở London c̣n đang tranh căi về
quy chế tương lai của Ấn Độ trong Đế quốc
Anh th́ Đông Dương đă tuyên bố hoàn thành sự
nghiệp độc lập của ḿnh mà không cần phải có
sự thoả thuận của Pháp. Nhưng điều đă làm
viên tướng thực dân phải cảnh giác hơn cả là
việc Ban An ninh
quân đội đă báo cáo trong binh lính Ấn Độ
của ông đang âm ỉ lan truyền những lời cằn
nhằn oán trách. Nhiều hạ sĩ quan thuộc Sư
đoàn Ấn Độ, được các đảng viên Đảng Quốc đại
khuyến khích, có ư kiến là quân đội thuộc
địa Anh không được tham gia vào việc đàn áp
phong trào dân tộc của người Việt Nam.
Trong khi xác định lập
trường của ḿnh, viên tư lệnh đă phải tính
đến nhiều yếu tố có lợi cho Pháp.
Quân đội Anh lúc đó c̣n quá yếu, mà lại
không thể dựa vào sự giúp đỡ của Nhật. Mà
Nhật th́ đă biểu thị không muốn cộng tác
trong việc tước vũ khí người Việt Nam và
trấn áp nhiệt t́nh của họ đối với nền độc
lập. Gracey không tin
rằng quân đội của ông lại có thể một ḿnh
đương đầu với một cuộc nổi dậy của “người
bản xứ”. Trong bất kỳ trường hợp nào,
Gracey cũng sợ sẽ xảy ra một cuộc tàn sát
đẫm máu mà ông cảm thấy hănh diện nếu có khả
năng tránh được bằng bất cứ giá nào.
Trong t́nh h́nh lúc đó, Gracey kết luận việc
thích đáng nhất có thể làm là giúp cho Pháp
tự bảo vệ lấy ḿnh v́
theo ông, không những họ cần mà c̣n
“có quyền” làm như vậy.
Trước sau rồi người Pháp cũng sẽ được giúp
đỡ th́ sao bây giờ lại không giúp họ?
Nhưng Gracey cũng đă
nhận được những mệnh lệnh chính thức trong
đó không nói ǵ đến việc cấp vũ khí cho
người Pháp.
Chẳng
khác ǵ Cédile, ông cũng vấp phải một trường
hợp khó xử.
Sáng ngày
18-9, có quyết định tạm thời rút bớt quyền
hạn của Gracey.
Mounbatten đă được báo cáo là Gracey đă
không triệt để tuân theo chỉ thị của ông nên
ông đă yêu cầu tướng Slim, trên đường về
SEAC, dừng lại ở Sài G̣n, để nhắc cho Gracey
biết ông ta chỉ có một nhiệm vụ - giải giáp
quân đội Nhật. Ông không được để bị lôi cuốn
vào việc duy tŕ trật tự công cộng.
Điều đó thuộc trách
nhiệm của người Nhật. Sau đó, Gracey lại c̣n
được nhắc nhở phải tránh xa các mưu toan
chính trị của Pháp và Việt.
Lời cảnh cáo đă khiến cho Gracey phải có một
đường lối hành động khác trước, chẳng
ăn nhập ǵ với
các mệnh lệnh cũ trước đây của ông.
Ông cho gọi viên chỉ huy
Nhật tới và dứt khoát ra lệnh cho Nhật phải
có những biện pháp cấp bách và có hiệu lực
để khôi phục lại trật tự công cộng, thậm chí
có thể cho bắn vào người Việt Nam.
Ông c̣n nhấn nạnh thêm là Nhật phải thực
hiện mệnh lệnh ngày 6-9, tước vũ khí của tất
cả bộ đội, tự vệ, cảnh sát, và dân thường
người Việt. Gracey nhắc
cho viên chỉ huy Nhật biết việc đầu hàng
chưa được kư kết và từ nay đến đó, các nước
Đồng minh trao cho Nhật nhiệm vụ giũ ǵn
trật tự giữa người Pháp và người Việt.
Tất nhiên đó cũng là một lời đe doạ rằng nếu
để xảy ra đổ máu th́ sẽ bị coi như là một
tội phạm chiến tranh và điều đó cũng không
loại trừ đối với viên chỉ huy Nhật.
Ngoài mặt th́ Sài G̣n và các vùng lân cận
c̣n được coi như là b́nh thường. Các cuộc xô
xát Pháp - Việt và giữa các phái Việt Nam có
tăng thêm về số lượng nhưng về mức độ dữ dội
th́ vẫn c̣n có thể chịu đựng được. Không
thấy có báo cáo về người chết hoặc phá hoại
nghiêm trọng về tài sản hay các vụ rối loạn
quy mô lớn. Công khai mang vũ khí th́ chỉ có
quân nhân và cảnh sát địa phương.
Nhưng thực ra cả vùng là
một trại vũ trang đang chuẩn bị đối phó với
một cuộc phong toả lâu dài.
Cả người Pháp lẫn người
Việt đều t́m kiếm, tích trữ lương thực và vũ
khí. Cédile, Gracey và Phạm Văn Bạch,
mỗi người với những lư do riêng của ḿnh,
đều rất lo phiền; tất cả đều biết rằng cơn
thịnh nộ đang lên cao và có quá nhiều người
có súng ống.
Trong một hành động vào
giờ chót, Cédile yêu cầu Dewey đến gặp các
lănh tụ Việt Minh để thuyết phục họ bỏ cuộc
và giúp khôi phục lại trật tự. Trong
đêm 18-9 Dewey đă bí mật họp với Trần Văn
Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai (Cảnh
sát trưởng), Bác sĩ Thạch (Uỷ viên Ngoại
giao), và Nguyễn Văn Tạo (lănh tụ Công
đoàn). Tất cả đều cho
rằng đă quá muộn để thương lượng và hợp tác.
Dân chúng đă bị xúc phạm v́ thái độ kiêu
căng của Pháp, bị kích động mạnh và đă ở tư
thế sẵn sàng làm mọi việc để giữ vững được
nền độc lập của ḿnh. Sau cuộc gặp gỡ, Dewey
đă nói lại cho Cédile và nhắc lại lời của
Giàu: “Hiện nay, việc cực kỳ khó khăn là
kiểm soát được các bè phái chính trị khác
nhau, v́ không phải tất cả thân Việt Minh mà
tất cả đều chống Pháp”.
Người Việt Nam đă trả lời Cedile một cách
mạnh mẽ rơ ràng. Không
thương lượng, không c̣n hy vọng sáp lại gần
nhau và cũng không cần hợp tác nữa.
Nhưng Cédile vẫn lạc
quan. Sáng ngày 19-9, Cédile cho họp
các nhà báo địa phương và nước
ngoài(4).
Trong một bản tuyên bố
đă chuẩn bị sẵn, ông công bố là Việt Minh
không đại diện cho nguyện vọng của những
người Đông Dương và không có đủ khả năng duy
tŕ trật tự công cộng.
Ông c̣n nói các cuộc
thương lượng với người Việt Nam đă được
ngừng lại cho đến khi trật tự được lập lại
và sẽ chỉ được tiếp tục dựa trên cơ sở của
bản Tuyên bố 24-3.
Mọi quan hệ dứt khoát
chấm dứt. Báo chí nước ngoài ở Sài
G̣n, trước đây vẫn lớn tiếng chỉ trích chính
sách Anh tại Nam Việt Nam và thái dộ của
Gracey đối với người Việt Nam đă đưa tin sắp
nổ ra nổi loạn. Ngày 20-9, SEAC đă phản
kháng lại bằng cách ra lệnh cho Gracey phải
“kiểm soát” đài phát thanh địa phương và t́m
cách “bịt” các tin tức và b́nh luận chống
Anh. Đó là một mệnh lệnh giản đơn, hoàn toàn
rơ ràng. Nhưng Gracey đă hiểu nó
theo một cách
khác.
B́nh thường như thế th́ chỉ cần đặt một sĩ
quan liên lạc ở bộ máy đầu năo đài phát
thanh Sài G̣n của Pháp để kiểm duyệt các tin
tức chống Anh. Nhưng
Gracey đă cho thi hành một biện pháp đặc
biệt lạ lùng. Không hỏi ư kiến của
SEAC và chỉ dựa trên quyền hạn người cầm đầu
Phái đoàn kiểm soát của Đồng minh, ngay hôm
nhận được lệnh của SEAC, Gracey đă cho phát
ra bản Tuyên cáo số 1, tự cho minh có toàn
quyền “duy tŕ pháp luật và trật tự ở Đông
Dương nam vĩ tuyến 16”. Mọi người đều tỏ ra
nghi ngờ sự sáng suốt của Gracey.
Nhưng Gracey, sau khi khẳng định địa vị hợp
pháp của ḿnh, đă xông vào các báo chí Việt
Nam, cấm rất cả các loại báo nhưng lại bỏ
qua không đụng ǵ đến đài Sài G̣n và các báo
Pháp. Ông cho thiết lập một biện pháp kiểm
duyệt hạn chế đối với tin tức của các phóng
viên ngoại quốc nhưng thực ra họ vẫn có thể
chuyển được tin qua đường Trùng Khánh, Côn
Minh… Một hành dộng khác của Gracey là cho
sáp nhập cảnh sát Việt Nam vào quân đội Anh,
coi như một đơn vị phụ thuộc dưới quyền chỉ
huy của ông.
Tuyên bố của Cédile, hành động độc đoán của
Gracey, cũng như sự đứt đoạn trong quan hệ
giữa dân chúng và các nhà chức trách, tất cả
những cái đó mở đầu cho giai đoạn tiếp
theo.
Chỉ trong 24 giờ sau,
các cuộc phá hoại, cướp bóc, đánh đập, bắt
cóc… nổ ra ở một mức độ đáng sợ.
Nhưng tội ác này không
phải chỉ xảy ra từ một phía, mà ở cả hai
bên, Pháp và Việt.
Gracey không thể không
biết đến t́nh h́nh và ông quyết định phải
hành động.
Ngày hôm sau, 21-9,
Gracey tuyên bố thiết quân luật. Cụ
thể là ra lệnh giới nghiêm, cấm hội họp công
khai và biểu t́nh, hạn chế đi lại của thường
dân trong một số khu vục, cấm mang vũ khí và
cả gậy gộc, thiết lập toà án binh để xử các
vụ vi phạm trật tự công cộng và xử tử h́nh
đối với các tội cướp bóc và phá hoại. Dewey
đă rất thẳng thắn vạch ra rằng tất cả các
biện pháp này đều nhằm vào người Việt, nhưng
Gracey lại trơ tráo công khai tuyên bố
“quyết tâm” của ông được thấy việc chiếm
đóng sẽ được thực hiện trong điều kiện hoà
b́nh và “triệt để vô tư”.
Đ̉N TÁO BẠO CỦA CÉDILE
Trong đêm 21 rạng 22-9, nhân
viên SLFEO đă báo cho Cédile biết người Việt
Nam đang củng cố lực lượng vũ trang của họ
dưới sự chỉ đạo của Việt Minh. Cédile biết
là 18.000 quân Anh - Ấn cũng không thể chống
lại với một cuộc tấn công ồ ạt của du kích
Việt Minh, nên một lần nữa ông lại gặp
Gracey và lại đề nghị cấp vũ khí cho 14.000
tù binh Pháp bị giữ từ cú 9-3 tại trại Trung
đoàn 11 RIC ở ngoại ô Sài G̣n. Theo Cédile,
số người này sẽ được đặt dưới quyền các sĩ
quan Pháp và nếu cần, sẽ được sử dụng để hỗ
trợ cho quân Anh.
Gracey, biết rơ thế yếu về quân sự của ḿnh,
nên đă đánh giá cao đề nghị của Cédile.
Sáng sớm ngày 22, Anh
lặng lẽ thay thế quân Nhật tiếp quản Khám
lớn và thả một số lính dù Pháp đă bị bắt giữ
trong các cuộc rối loạn tuần lễ trước.
Số này đi thẳng tới trại 11 RIC và tổ vhức
14.000 tù binh Pháp, phần lớn là lính lê
dương, thành đơn vị chiến đấu, rồi đưa về
các địa điểm đă được quy định để chờ lệnh.
Nhưng để chứng tỏ giá trị và ḷng trung
thành với “nước Pháp mới”, số lính này tản
ra khắp trung tâm thành phố và chộp lấy bất
kỳ người Việt Nam vô tội nào mà chúng bắt
gặp.
Có lực lượng vũ trang trong tay, Cédile cảm
thấy có thể tiếp cứu cho thành phố, lập lại
trật tự, và nối lại các cuộc thương lượng
với người Việt Nam với hy vọng không phải
dùng đến bạo lực. Kế
hoạch của ông ta là lợi dụng đêm tối 22 rạng
23, đánh chiếm cơ sở hành chính thành phố.
V́ vậy ngay từ chiều ngày 22, một ngày Thứ
bảy, ông bắt đầu cho thay thế người Nhật
chiếm giữ nhiều đồn cảnh sát ở Sài G̣n.
Người Pháp vẫn lặng lẽ
và ngoài Nhật ra th́ không ai chú ư đến hành
động này.
Cũng trong chiều hôm đó,
bác sĩ Thạch gặp gỡ với các nhân viên Phái
đoàn OSS. Họ kinh ngạc khi được báo
cho biết là, bằng một hành động cuối cùng và
tuyệt vọng, Việt Minh sẽ phát động một cuộc
biểu dương lực lượng quần chúng với nhiều
ngàn người Việt vào ngày hôm sau.
Họ sẽ diễu hành qua
thành phố, không mang vũ khí, mà chỉ có các
biểu ngữ, khẩu hiệu, huy hiệu của đảng.
Người Mỹ nhắc Bác sĩ Thạch rằng những cuộc
biểu t́nh như thế là hoàn toàn bị cấm
theo lệnh thiết
quân luật của Gracey và có nguy cơ lớn gây
ra đổ máu. Bác sĩ Thạch
đáp lại rằng ư đồ của Việt Minh là khích cho
Anh, Pháp tiến hành đàn áp “gây ra nhiều
thương vong, làm cho thế giới phải quan tâm
đến những người hoà b́nh yêu tự do này”.
Nhưng chỉ vài giờ sau, thế giới đă biết tới
cảnh ngộ của nhân dân Sài G̣n, qua tin tức
về những sự say sưa tàn bạo của người Pháp…
Trước lúc rạng đông, quân đội của Cédile,
theo kế hoạch đă
định, lặng lẽ chiếm các đồn cảnh sát c̣n
lại, Kho bạc, sở Mật thám, và nhà Bưu điện.
Sau đó vào buổi sáng, đến lượt Toà thị
chính, nơi Lâm uỷ Nam Bộ đóng từ khi bị
Gracey đuổi khỏi dinh Toàn quyền. (Hôm đó là
ngày Chủ nhật, 23-9, đúng 3 tuần sau khi xảy
ra những vụ lộn xộn đầu tiên trước nhà thờ
lớn Sài G̣n, rơ ràng là một ngày tiếp theo
để trả nợ cho những người “An nam mít” về
cuộc tiến công hèn nhát của họ ngày “Chủ
nhật đen tối”). Người
lính Việt Minh đứng gác trước Toà thị chính
đă bị người Pháp bắn chết một cách tàn nhẫn.
Số ít người đóng trong
cơ quan bị bất ngờ, đă chống cự một cách
không có hiệu quả, và cũng đă bị giết chết
hoặc bị bắt. Tất
cả các uỷ viên trong Lâm uỷ, trừ một người
(Hoàng Đôn Văn, phụ trách Lao công) đă thoát
được. Nhưng
Cédile đă chiếm lại được thành phố.
Khi hết lệnh giới nghiêm vào 5 giờ 30, dân
chúng mới ra khỏi nhà và đă thấy cờ tam tài
bay trên nóc các công sở và lính Pháp đứng
gác ở mọi nơi. Cả người
Pháp và người Việt lúc đầu đều tưởng rằng
quân đội Leclerc đă tới, nhưng họ đă nhận
được mặt ngay nhiều sĩ quan và binh lính là
tù binh cũ ở trại 11 RIC.
Người Việt phản ứng lại
một cách giận dữ, chán ngán và lo sợ.
Người Pháp vô cùng hoan
hỉ sau 3 tuần sống trong sự sợ hăi.
Nay giờ chiến thắng đă
đến và cũng là dịp để họ trả thù. Họ
liền phản ứng lại như một đám du thủ du
thực, phá phách một cách dă man hùng hổ.
Từng toán 3, 4, 6, cả đàn ông, đàn bà Pháp
xông ra đường phố Sài G̣n để t́m bắt, đánh
đập bất kỳ người Việt nào, đàn ông, đàn bà,
trẻ, già và có chỗ đối với cả trẻ em… Số nạn
nhân ít ra cũng tới hàng trăm và có thể tới
hàng ngàn…
Mọi sự diễn ra ngay
trước một các quân nhân Pháp và Anh, nhưng
họ thờ ơ và c̣n tỏ ra có vẻ thích thú.
Những cảnh tượng đó cũng
được các nhà báo ngoại quốc chứng kiến.
Toán OSS chúng tôi cũng
thấy dược tận mắt những sự tàn bạo quá đáng,
cảm thấy bị xúc phạm. Dewey, với tư
cách là người Mỹ cao cấp nhất ở Sài G̣n, đă
xin gặp tướng Gracey để phản đối thái độ của
người Pháp và sự đồng loă của người Anh,
nhưng tướng Gracey đă từ chối không tiếp.
Bực với phái dộ của
Gracey, Dewey đă không tiếc lời nói thầm với
các sĩ quan cao cấp của ông. Dewey
lại gặp Cédile và thiếu tá
Buis(5), sĩ quan
thân cận của Leclerc, nhưng cũng không đạt
được ǵ khá hơn. Cédile nói với Dewey một
cách mơ hồ rằng đó không phải là công việc
của ông ta và rơ ràng người Mỹ đáng phải chê
trách về t́nh trạng này.
Ngày hôm sau, tướng Gracey tuyên bố Dewey
không c̣n là người được chấp thuận nữa và ra
lệnh cho ông phải rời Sài G̣n ngay càng sớm
càng tốt. Dewey
thu xếp đi chuyến bay trở về Candy
vào Thứ tư, 26-9.
Tuy Gracey và Cédile bên
ngoài phản ứng với những lời phản đối của
Dewey như vậy, nhưng hai ông cũng đều kinh
sợ và tức tối về cách đối xử của người Pháp.
Cédile và Buis thử can thiệp bằng cách dùng
loa kêu gọi trên đường phố giữ trật tự, ôn
hoà, kiên nhẫn, và v́ “danh dự Pháp”.
Nhưng đám du côn đă
chống lại. Lệnh
của Cédile bắt ngừng các cuộc bắt bớ, trừ
đối với hành động tội phạm, đă không được ai
biết đến. Ông cố
gắng giải thích cho một số người Pháp là ở
đây mục đích của họ không nhằm trả thù mà là
muốn nhanh chóng nối lại cuộc điều đ́nh
trong khuôn khổ Bản Tuyên bố 24-3.
Ông nghĩ rằng ngón đ̣n
của ông có thể dẫn tới điều đó.
Ông chỉ thị cho Buis thả
tất cả những người Việt vừa bị bắt, nhưng
điều này chỉ làm cho dân chúng Pháp bực bội
thêm.
Gracey phải chịu đựng
một áp lực khác.
Các kư giả ngoại quốc nói nhiều nhất về ông
vẫn là nhà báo Anh, và họ đă phê phán chống
ông khá gay gắt.
Trong 24 giờ, những bài chỉ trích của họ tới
tấp đánh về London, Paris và Washington.
Trước khi màn đêm buông xuống, Gracey đành
phải ra lệnh cho Cédile tước vũ khí của đám
tù binh, đưa họ trở về trại và giao cho
người Nhật trách nhiệm khôi phục lại trật tự
trong thành phố.
Nhưng vấn đề không c̣n ở
chỗ thả các người bị bắt và rút đám tù binh
ra khỏi các khu phố nữa.
Người Anh và người Pháp
đă bỏ qua một nhân tố quan trọng - phản ứng
của người Việt đối với cú đánh của Cédlle.
Sau khi được thả khỏi
nhà giam, người Việt tập hợp nhau lại dưới
sự lănh đạo của Việt Minh. Trước đây
Việt Minh là một cái đệm giữa những người
thực dân Pháp và các phần tử Việt Nam cực
đoan, và Việt Minh chủ trương ôn hoà, trật
tự công cộng, đề kháng thụ động và thương
lượng, đến nay họ đă không c̣n sụ lựa chọn
nào khác ngoài việc tiến hành chiến tranh.
CUỘC PHẢN CÔNG
Ngày hôm
sau, 24-9, người Pháp bắt đầu “biến mất” và
một số nhà máy và kho tàng trong khu vực
cảng bị đập phá và đốt cháy.
Điện và nước trước thỉnh
thoảng c̣n có, nay bị cắt hoàn toàn.
Các đơn vị tự vệ Việt Minh và các đội công
nhân xung phong tấn công phi cảng Tân Sơn
Nhất, đốt một tàu Pháp ở bến cảng, phá nhà
giam và thả hàng ngàn người Việt Nam mới bị
cầm tù.
Một lần nữa, nỗi lo sợ
lại bao trùm lên cộng đồng người Pháp.
Nhiều gia đ́nh Pháp đă
t́m cách trốn vào khách sạn Continental.
Một phần khách sạn đă có các sĩ quan cao cấp
Đồng minh và nhiều đơn vị t́nh báo Đồng minh
như phái đoàn OSS, cơ quan
An ninh dă chiến
Anh và SLFEO của Pháp đóng. Toà nhà và vùng
xung quanh được lính Anh gác, do đó người
Pháp cảm thấy được bảo vệ
an toàn.
Ngày hôm đó tiến triển
với đầy những sự cố.
Giữa trưa, chợ trung tâm
bị đốt cháy. Chướng ngại được dựng
lên ở khắp đường và càng có đông người cố
lao tới khách
sạn…
Tiếng súng, tiếng nổ… vang lên cho tới tận
khuya. Không hiếu tại
sao mà không thấy lấy một vài đội tuần tra
Anh và Pháp mà chỉ có mặt người Nhật khá
bàng quan. Sài
G̣n ngập trong t́nh trạng vô chính phủ -
chẳng có ai, ngoại trừ Việt Minh vô h́nh có
vẻ nắm dược t́nh h́nh.
Nhiều báo cáo và tin đồn
đại trong người Pháp là nhiều toán Việt Minh
vũ trang đang tập trung tại khu vực phía nam
và đông thành phố và vùng cảng.
Cũng chẳng ai biết rơ họ
là ai, định làm ǵ và thực tế có ở đó không.
Nhưng một lần nữa người Pháp lại phải xuống
thế, c̣n người Anh th́ đă giao công tác
an ninh cho người
Nhật, mà người Nhật th́ lại tỏ ra trung lập.
T́nh trạng rối ren trong
ngày kéo dài cho tới giờ giới nghiêm.
Nhưng khi dân chúng trở
về nhà th́ lại có tin đồn Việt Minh sẽ đánh
vào nội thành c̣n vùng ngoại ô th́ được yên
ổn hơn.
… Nhưng đêm đó, ở Tân Định, vùng ngoại ô Sài
G̣n, một lực lượng B́nh Xuyên điên cuồng đă
tấn công dă man khu Hérault, nơi nhiều người
Pháp lai sinh sống. Chỉ
trong ṿng hai giờ, chúng đă tiến hành một
trong những cuộc tàn sát xấu xa và kinh
khủng nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập
của Việt Nam. Ba trăm thường dân da
trắng và Pháp lai đă bị bắt làm con tin.
Khoảng một nửa đă được thả về, sau khi đă bị
tra tấn, đánh đập, số c̣n lại đă bị giết hại
dă man vào sáng 25-/9.
Bộ chỉ huy Anh đă không được tin báo về cuộc
tấn công cho đến măi một giờ sau khi nó đă
nổ ra. V́ vậy,
khi họ tới nơi th́ phần lớn người Việt đă
biến cùng với những con tin của họ.
Bạo lực tiếp tục giảm.
Việt, Nhật không hợp tác làm cho Gracey tức
giận, nhưng ông cũng chẳng có thể làm ǵ
khác hơn đe doạ kết tội viên chỉ huy Nhật đă
từ chối không tuân theo
mệnh lệnh của Đồng minh.
Cả điều đó cũng chẳng giải quyết được vấn đề
khôi phục lại trật tự và tiêu diệt được
người Việt nổi loạn. Hơn nữa, khi
Gracey khiển trách viên chỉ huy Nhật th́
được họ trả lời là quân lính Nhật sợ người
Việt Nam trả thù nếu họ can thiệp. Trước chủ
trương phá đám của Nhật và sự bất lực của
quân Anh lúc dó, Gracey một lần nữa phải cam
nhận các yêu sách của Cédile, lại cấp phát
vũ khí cho số tù binh Pháp ở 11 RIC.
Nhưng t́nh h́nh đă quá
muộn.
Cuộc tấn công riêng rẽ của B́nh Xuyên vào
khu Hérault đă khuấy lên nhiều cuộc bạo động
và phá rối trật tự ở khắp nói, từ vùng Chợ
Lớn - Sài G̣n tới miền đồng bằng phía đông
và nam, và Phú Cường, Biên Hoà ở phía bắc.
Tính chất của hoạt động
nói trên đă báo động cho Giàu thấy những
người Quốc gia chống Cộng đang láo xược âm
mưu giành lấy quyền lănh đạo phong trào.
Ông tức thời bước tới và
ra lệnh tiến hành tổng băi công, triệt để sơ
tán người Việt, cấm bán lương thực, thực
phẩm, tuyên bố Sài G̣n bị đặt trong t́nh
trạng bị bao vây. Giàu doạ sẽ đốt Sài
G̣n thành tro nếu như người Pháp không chịu
bỏ vũ khí, rút lui, và công nhận độc lập của
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong những ngày 25 và 26, các đơn vị tự vệ
Việt Minh tiếp tục dựng lên các chướng ngại
trên các đường đi vào thành phố, ngăn chặn
mọi người ra vào, chỉ trừ cho người Anh và
Mỹ. Chỉ một dấu hiệu quân phục Pháp ló ra ở
đầu phố là đă bị bắn, v́ vậy quân nhân Pháp
phải tránh mặt. Trong thành phố, thiếu tá
Buis và sở mật thám t́m thấy vũ khí, thuốc
nổ và rơ ràng là Giàu và Việt Minh đáng gờm
đă có kế hoạch đánh trả.
C̣n bên ngoài khu vực thành phố, trong vùng
Nhật kiểm soát, cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp
tục.
Cuộc đấu tranh dữ dội giành độc lập dân tộc
đă khởi đầu một cách lặng lẽ trong làng nhỏ
Tân Trào, ngày 13-8, nay trong buổi sớm ngày
25-9 đă trở thành một cuộc chiến tranh, một
cuộc chiến tranh lúc đầu th́ chỉ ở miền Nam,
nhưng không đầy 6 tháng sau đă lên phía bắc
tới Hà Nội và cả Bắc Kỳ, và đă kéo dài trong
10 năm với chỉ một ít lúc gián đoạn.
Ở Hà Nội, chúng tôi nhận
được báo cáo sâu sắc cuối cùng của Dewey
chiều 24-9(6). Bản báo cáo kết luận:
“Nam Kỳ đang bừng cháy, người Anh và người
Pháp sẽ cáo chung
ở đây, c̣n chúng ta (người Mỹ) phải rút lui
khỏi Đông Nam Á”. Lời
của Dewey quả thực là tiên tri nhưng đă
chẳng được ai biết đến.
NGƯỜI MỸ THƯƠNG VONG ĐẦU TIÊN
Chuyến bay của Dewey đă được trù
định vào 9 giờ 30 sáng ngày 26-9. Đại uư J.
Bluechel(7) đưa
Dewey ra sân bay và được biết máy bay không
thể cất cánh trước giữa trưa. Họ liền lái
xe về khách sạn
Continental để lấy hành lư.
Đường phố vắng vẻ, chỉ
thỉnh thoảng mới có một đội tuần tra.
Người Pháp ở trong nhà,
c̣n người Việt th́ đă rời thành phố hoặc lẩn
kín. Vào khoảng 11 giờ, Dewey đă nhận
được tin đại uư R. Coolidge( 8 ) trong toán
t́nh báo, bị phục kích và bị thương chiều
hôm trước, nên Dewey quyết định đến thăm
Coolidge ở bệnh viện.
Dewey và Bluechel trở
lại sân bay vào 12 giờ 15. Phi cơ từ
Kandy về chưa tới nên chuyến bay lại bị chậm
lại. Họ quyết định quay trở lại cơ quan của
OSS(9) để ăn cơm
v́ chỉ cần đi xe 10 phút. Dewey lái
xe và họ nói với
nhau về kinh nghiệm không may của R.
Coolidge th́ tới gần cái chắn đường cách nhà
OSS độ gần 50 mét. Theo
Bluechel chính thức kể lại, lúc đó họ không
thấy có ǵ bất thường khi tiến gần cái chắn
đường. Họ rất quen thuộc với khu vực
này v́ đă nhiều lần qua lại đây, mà lần cuối
cùng là vào buổi sáng hôm đó, khi họ ra sân
bay chuyến đầu.
Cái chắn làm bằng ba
cành cây, có thể vượt qua được nhưng chỉ cần
phải đi chậm lại. Dewey giảm tốc độ
xuống 8 dặm giờ, bỗng có một khẩu súng máy
nhẹ từ một chỗ kín đáo, bắn thẳng vào họ, mà
không hề có dấu hiệu báo trước.
Thiếu tá Dewey bị bắn
vào đầu bên trái và chết ngay tức khắc.
Vụ phục kích giết Dewey
xảy ra vào lúc 12 giờ 30 ngày 26-9-1945.
Sau đó người Việt tấn công vào cơ quan OSS
và ḱm chặt những người ở trong đó(10) dưới
một làn lưới lửa dày đặc cho đến tận 3 giờ,
khi người Việt đề nghị ngừng bắn để thu hồi
người chết và bị thương của họ.
Toán OSS đồng ư và ấn
định với người chỉ huy Việt Nam đổi xác của
Dewey với 3 xác người Việt bị bắn ngă trước
nhà OSS. Trao đổi sắp xong th́ có hai
trung đội thuộc đơn vị Gurkhas tiến dọc phố
đến chỗ đàm phàm và bắn vào người Việt Nam.
Những người này liền vớ
lấy xác đồng dội và bỏ chạy. Xác của
thiếu tá Dewey cùng với chiếc
xe Jeep cũng bị
họ mang đi luôn và không bao gị t́m lại
được nữa.
Chỉ trong ṿng 6 giờ sau, tin tức về vụ giết
hại Dewey đă lan
khắp thế giới và trong nhiều ngày, việc này
tỏ ra bao hàm một ư nghĩa chính trị quốc tế
quan trọng.
Cuội buổi chiều hôm đó,
tôi được đại uư Imai báo tin về cái chết của
Dewey. Lúc đó,
đang có nhiều sĩ quan tham mưu Trung Quốc
đến gặp tôi để bàn về nghi thức đối với Phái
đoàn Mỹ trong buổi lễ tiếp nhận đầu hàng của
Nhật (sẽ được tổ chức vào ngày hôm sau).
Bernique nhảy xổ vào báo
cho tôi biết Imai cần gặp v́ có tin tức “rất
quan trọng và khẩn cấp”.
Tôi thấy Imai đang bị
xúc động mạnh. Ông tự dịch cho tôi
những điều viết bằng tiếng Nhật trong bức
điện của Tổng Hành dinh tập đoàn quân Nam ở
Sài G̣n gửi tướng Tsuchihashi về việc quân
Etsumei (Việt Minh) đă tấn công Phái đoàn Mỹ
và giết chết viên sĩ quan chỉ huy.
Imai không biết rơ tên
người và các chi tiết khác. Bức điện
bằng mật mă và theo
Imai, th́ không ai được biết ngoài tướng
Tsuchihashi và ông cho rằng cần phải báo
ngay cho tôi biết đầu tiên.
Tôi giao cho Knapp tiếp tục làm việc với
người Trung Quốc và đến ngay gặp thẳng ông
Hồ. Ông không được tin ǵ về vụ này và tỏ ra
rất hoài nghi về tin báo của Nhật mặc dù rơ
ràng ông rất xúc động trước khả năng điều đó
có thể trở thành thực sự.
Ông đảm bảo với tôi là
sẽ trực tiếp xem xét vấn đề này. Khi
tôi trở về cơ quan th́ đă gần 6 giờ chiều và
nhận được điện của Helliwell xác định cuộc
tấn công và lần đầu tiên tôi biết tin chính
thức Dewey đă bị giết chết.
Phản ứng tức khắc của
tôi là sự tức giận đối với Việt Minh.
Điều đó đối với tôi thực
không c̣n nghĩa lư ǵ nữa. Họ đă giết
hại người bạn độc nhất của họ ở Nam Kỳ và
chắc chắn rằng những tin này sẽ chẳng đề cao
được lư tưởng của họ trước nhân dân Mỹ. Tôi
chưa có đủ tài liệu nhưng cứ muốn nghĩ rằng
không phải người Việt Nam, đă giết Dewey.
Ở Sài G̣n, sau khi quân
Gurkhas xông vào và Việt Minh đă tháo lui
th́ toán OSS chuyển vào khách sạn
Continental.
Chiều hôm đó, Bluechel gặp Cédile và báo cho
ông biết tin.
Cédile đă không để mất thời gian và thông
báo ngay cho Graeey, ông này liền “ra lệnh
cho tất cả các lực lượng thuộc quyền của họ
(Anh - Pháp) phải xúc tiến tích cực t́m xác
của Dewey”.
Ngay sau 6 giờ chiều hôm đó, đại tá J.
Caughlin(11) báo
cáo về Washington, tướng Donovan đă khuấy
động cả mạng lưới thông tin quân sự và ngoại
giao.
London thúc giục
Mountbatten cung cấp thêm tài liệu trong khi
các phóng viên chiến tranh đ̣i hỏi những chi
tiết đặc biệt, nêu ra những vấn đề hóc búa
về những vụ âm mưu và phản âm mưu.
Lúc đó, ai cũng nhằm vào
những người đối lập của ḿnh.
Người Việt Nam buộc tội
người Pháp với tiền đề là v́ người Mỹ chống
thực dân. Người Pháp có lư do vững
chắc quy tội Việt Minh. Nhưng cũng có ít
nhiều người Mỹ nghi ngờ cơ quan t́nh báo SOE
của Anh đă âm mưu loại trừ sự cạnh tranh của
OSS với họ ở Đông Nam Á.
Toán OSS tiến hành một cuộc điều tra riêng
về hoàn cảnh chung quanh cái chết của Dewey
đă bác bỏ mọi lập luận về “âm mưu đen tối”
hoặc v́ có hiềm thù đối với Dewey hay người
Mỹ. Sự thực, dựa trên những báo cáo có giá
trị của những người được chứng kiến, th́ đây
chỉ là một trường hợp nhầm lẫn gây ra một
phần do có thiếu sót trong sự nhận biết về
quốc tịch. Trong báo cáo chính thức có đoạn
viết:
“… Thiếu tá Dewey… đă bị phục kích và bị
giết v́ bị nhận lầm là người có quốc tịch
khác không phải là Mỹ. Nếu chiếc xe của ông
ta lúc đó có cắm cờ Mỹ, th́ tôi (Bluechel)
chắc rằng người ta đă không bắn. Xe đă không
cắm cờ; theo đúng chỉ thị bằng miệng của
tướng Gracey…”.
Gracey đă tỏ ra là một con người gặp đâu làm
đấy. Ông đối phó với các
sự kiện đă xảy ra, không phải là lường trước
chúng, mà cũng chẳng phải là đánh giá đúng
tác động của sự việc.
Phản ứng
của ông trong trường hợp cái chết của Dewey
là ra lệnh bắt giữ Thống chế Bá tước
Térauchi, không phải v́ người Nhật phải chịu
trách nhiệm trong vụ này, mà chỉ là Gracey
phản ứng.
“NAM KỲ BÙNG CHÁY”
Những lời
ca thán về thái độ thiên vị của Anh, các báo
cáo về các vụ phá rối trật tự, cũng như tin
tức về cái chết của Dewey, đă vượt qua SEAC
và tới London. Mounbatten
theo dơi t́nh
h́nh với một sự quan tâm đặc biệt v́ lúc đó
Chính phủ Công đảng Anh đang dự định nới
rộng chính sách về quy chế tương lai của Ấn
Độ trong Khối Liên hiệp Anh.
Ông cho rằng thiên hướng
của Gracey muốn dính líu vào các công việc
Pháp - Việt đă làm cho ông lúng túng, từ lúc
Gracey cho ra bản tuyên bố kém cỏi ngày
20-9.
Mounbatten đă phải khó
khăn để giải thích và thanh minh cho những
quyết định và hành động đáng ngờ của Gracey.
Trong bản báo cáo gửi Bộ tham mưu hỗn hợp,
Mounbatten đă giải thích rằng lúc đầu ông
cho là t́nh h́nh quân sự ở Sài G̣n nghiêm
trọng, song ông vẫn cảm thấy… bản tuyên bố…
đă trái với chính sách của Chính phủ Hoàng
gia, và dù cho các bản tuyên bố kiểu đó có
thể hiện do chính sách của Chính phủ khởi
xướng, th́ tôi (Mounbatten) cũng đă báo cho
thiếu tướng Gracey phải chú ư hạn chế hoạt
động của quân đội Anh - Ấn vào các nhiệm vụ
có mức độ đă được đề ra.
Việc Mounbatten biện
minh và che chở cho các hoạt động Gracey c̣n
được tiếp tục cho đến khi quân Anh rút khỏi
Đông Dương vào 20-1-1946.
Cũng có lúc Mounbatten
nói với Leclerc là Gracey đă vượt quyền ông
ta và ông đă có ư định thay Gracey bằng một
người khác. Nhưng
Leclerc đă nói trước là Gracey đă làm được
một việc tốt và nên được giữ lại.
Theo Leclerc th́ những vụ rối loạn ngày
23-27 tháng 9 ở Sài G̣n là do những phần tử
tội phạm - bọn cướp B́nh Xuyên - gây ra.
Nhưng cố vấn chính trị của Gracey, H.N.
Brain, đă không đồng ư với Leclerc và chỉ ra
rằng thực chất vấn đề ở Đông Dương là một
nguyện vọng dân tộc chân chính mà người Pháp
đă không chú ư tới.
Sự náo động về ngoại giao do cái chết của
Dewey gây ra đă buộc Mounbatten phải triệu
Gracey và Cédile về gặp ở Singapore ngày
28-9. Với sự hiện diện của Tổng trưởng Chiến
tranh J.J. Lawson, Mounbatten đă nhắc lại
chính sách của Anh, nhấn mạnh việc quân đội
Anh không được can thiệp vào công việc nội
bộ của Đông Dương, v nhất là không được sử
dụng dể đánh lại người Việt. Cédile tỏ ra lo
ngại, v́ ngay cả khi có lực lượng tăng cường
tới, một ḿnh Pháp cũng khó mà đối phó được
với t́nh h́nh, nhưng Mounbatten đă đề xuất
ra vấn đề là nên điều đ́nh lại với các nhà
lănh tụ Quốc gia.
Song chỉ vài ngày sau, lập trường của Anh đă
phải chuyển theo
mệnh lệnh của London.
Mounbatten đă nhận được chỉ thị sử dụng quân
Anh - Ấn để hỗ trợ cho người Pháp, nếu cần,
và điều đó cũng không hại ǵ cho nhiệm vụ
của họ ở Sài G̣n. Mounbatten chuyển
những chỉ thị trên cho Gracey và bổ sung
thêm là quân đội chỉ được sử dụng trong
nhiệm vụ pḥng ngừa chứ không được dùng để
tấn công.
Ngày 1-10, Gracey chủ động mở lại những cuộc
thương thuyết với Lâm uỷ Nam Bộ và đă được
Cédile, Bạch, Thạch, và Tây đồng ư chấp nhận
một cuộc ngừng bắn thực sự vào ngày hôm sau.
Ông Brain cũng tham gia
vào cuộc gặp gơ, giải thích cho các đại biểu
Việt Nam biết chính sách của Anh. Ông
nhấn mạnh về sự trung lập của Anh, nhưng lại
nói thêm rằng theo
sự thoả thuận giữa các nước Đồng minh, Anh
sẽ không công nhận bất kỳ sự thay đổi chủ
quyền trên bất cứ vùng đất đai nào đă phải
chiếm lại được bằng vũ lực trong thời kỳ
chiến tranh.
Thoạt nghe th́ chính sách nói trên tỏ ra hợp
lư và cả hai bên đều có thể chấp nhận được,
nhưng Bạch và Thạch cũng nhận thấy ngay được
là chủ quyền trước chiến tranh -
theo người Anh,
có nghĩa là của Pháp chứ không phải là Nhật,
do đó Đông Dương vẫn là thuộc Pháp. Bất chấp
những lời tuyên bố của Việt Nam là họ đă
đánh Nhật để giành lại độc lập và họ đă
giành lại tự do và độc lập, người Anh vẫn
coi Đông Dương là thuộc địa của Pháp.
Như thế không thể có hoà
b́nh.
Vào ngày 2 và 6 tháng 10, c̣n có hai cuộc
họp giữa Cédile, đại tá R. Préneuf(12) đại
diện cho Pháp và người Anh, và người Việt
Nam. Người Pháp yêu cầu trả lại các con tin
đă bị bắt trong các vụ lộn xộn trước và xác
của thiếu tá Dewey, làm điều kiện tiên quyết
cho các cuộc thương lượng
sau(13). Người
Việt Nam giữ lập trường là điều kiện tiên
quyết chỉ có thể là Pháp phải công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước tự do và
độc lập.
Trong cuộc gặp ngày 6,
người Pháp đặt vấn dề duy tŕ cuộc ngừng
bắn. Người Việt Nam chỉ đồng ư kéo
dài cuộc ngừng bắn với điều kiện sau đây:
tất cả mọi quyền hành chính ở Sài G̣n phải
được phục hồi lại cho Lâm uỷ Nam Bộ, được
coi như là chính quyền duy nhất; cảnh sát
địa phương phải được trao lại cho chính phủ
Việt Nam là người duy nhất chịu trách nhiệm
duy tŕ trật tự công cộng; tất cả quân đội
Pháp phải được giải giáp và không được đưa
quân mới vào; người Pháp phải tập trung vào
những khu vực nhất định và an ninh và đời
sống của họ sẽ được Chính phủ Việt Nam đảm
bảo.
Rơ ràng là người Pháp và người Anh đă không
nghiêm chỉnh trong việc t́m kiếm một cơ sở
cho việc thoả thuận với người Việt. Họ tiến
hành thương lượng chỉ nhằm một mục đích
trong đầu: lấy lại sự yên ổn và làm giảm nhẹ
cuộc phong toả Sài G̣n, duy tŕ cuộc ngừng
bắn cho đến khi quân tiếp viện tới. Yêu cầu
ban đầu của họ về việc trả lại con tin chỉ
là giả tạo. Lâm uỷ chẳng có cách nào để nắm
lại được số con tin từ tay bọn B́nh Xuyên và
các giáo phái chống Cộng. Hơn thế nữa, cả
Pháp và Việt chẳng ai biết được là có bao
nhiêu người và những ai đă bị bắt. Phản đề
nghị đ̣i trở lại nguyên t́nh trạng cũ tỏ ra
hợp lư đối với người Việt v́ họ cũng sẽ
chẳng mất ǵ, nhưng với người Pháp th́ đó
chẳng khác ǵ một cuộc đầu hàng, v́ thế mà
không thể nào chấp nhận được.
Đây lại là một sự cách
biệt khác.
Mặc dù Anh - Pháp chỉ nhằm tŕ hoăn để tranh
thủ thời gian và cuộc đối thoại đă tan vỡ
vào ngày 6-10, giữa những lời lẽ gay gắt và
doạ nạt, nhưng cuộc ngừng bắn vẫn tiếp tục.
Mật vụ SLFEO đă báo cho Cédile biết là Việt
Minh đă triển khai quân đội chung quanh Sài
G̣n và tại các vị trí chiến lược ở phía bắc
và nam thành phố, đồng thời cũng cho biết
Hoàng Quốc Việt(14)
vẫn liên lạc chặt chẽ với Trung ương đảng
tại Hà Nội, đă chỉ thị cho Giàu và Bạch phải
chống lại mọi mưu đồ của Đồng minh nhằm giúp
Pháp nắm quyền kiểm soát Sài G̣n.
Và nếu cần, chỉ sau 24
tiếng đồng hồ, Hà Nội sẽ gửi quân tăng viện
tới.
Cédile lo ngại Việt Minh sẽ phát động tấn
công nên đă yêu cầu Leclerc, mới tới Sài G̣n
ngày 5-10, đề nghị với Mounbatten can thiệp.
Ngày 8, đặc phái viên
của Mounbatten đă gặp Thạch và Bạch, và đ̣i
kéo dài cuộc ngừng bắn thêm 48 giờ nữa.
người Việt hỏi
thăm mục đích ǵ? V́ ở đây hai bên không có
chỗ đứng chung.
Người Pháp chỉ sẽ thương lượng với tiền đề
là họ tiếp tục cai
trị Đông Dương và định quăng cho người Việt
một cái xương dưới h́nh thức những lời hứa
hẹn về một sự cai trị trong tương lai.
Thạch nhắc cho phái viên
người Anh biết là Việt Nam đă được độc lập
và tất cả những ǵ c̣n phải bàn căi chỉ là
quy chế cho nước Việt Nam trong tương lai.
Người Anh trả lời cửa
vẫn tiếp tục mở rộng cho tới chừng nào có
thể đạt được sự thoả thuận trong các cuộc
đối thoại tương lai.
Người Việt Nam đă đồng ư
kéo dài cuộc ngừng bắn.
Nhưng trong quá tŕnh cuộc đối thoại và
ngừng bắn, người Việt Nam đă không được biết
rằng sư đoàn Ấn Độ của Gracey đă được bổ
sung đầy đủ số quân; tàu Triomphant của Pháp
chở Trung đoàn 5 RIC của Leclerc đă lặng lẽ
đổ bộ xuống 10.000 quân (ngày 3-10), bản
Thoả hiệp về công dân sự vụ đă được kư kết ở
London (ngày 9-10) xác định Pháp được Anh
ủng hộ hoàn toàn trong việc cai trị toàn
miền Đông Dương nam vĩ tuyến 16.
Cuộc ngừng bắn không kéo
dài quá chiều ngày 10.
Sự có mặt của quân đội
Pháp, với số lượng lớn và trang bị Mỹ mới đă
nói lên tất cả.
Đêm ngày 10, bộ đội của Giàu tấn công sân
bay và quân Anh đóng ỏ đó.
Sáng ngày 11, người Việt
đụng đầu với lính Pháp và Anh trên khắp các
nẻo đường dẫn vào Sài G̣n.
Người Anh liền yêu cầu
Nhật hỗ trợ và lần này th́ họ làm thực sự.
Leclerc cũng c̣n phải
chịu ơn người Nhật v́ họ đă giúp ông phá vỡ
cuộc bao vây thành phố sau 2 tuần chiến đấu
liên tục.
Người Việt Nam có ngừng lại một lần cuối
cùng ở Sài G̣n vào ngày 16-10, nhưng lực
lượng hơn hẳn của Anh, Nhật và Pháp đă buộc
họ phải rút lui về các vùng nông thôn.
Không quân Hoàng gia Anh
và lực lượng c̣n lại của không quân Nhật đă
được sử dụng rộng răi để ném bom và bắn phá
các nơi tập trung quân đội Việt Minh.
Cuối năm đó, tướng Mac Arthur đă phát biểu
với nhà báo Edgar Snow “Nếu có ǵ đó đă làm
máu tôi sôi lên, th́ đó là việc tôi được
thấy các nước Đồng minh của chúng ta ở Đông
Dương và Java đă sử dụng quân Nhật để đàn áp
các dân tộc bé nhỏ này mà chúng ta đă hứa
giải phóng. Đó là một sự phản bội kinh tởm
nhất”(15). Tôi
thấy lời tuyên bố của Mac Arthur hoàn toàn
không ăn khớp với
điều mà trước đây Leclerc cho rằng Mac
Arthur đă nói với ông: “…
Đưa thêm quân, nhiều
quân nữa, có thể thêm bao nhiêu th́ cứ
thêm”. Nhưng đây
cũng có thể chỉ là một vấn đề không nhuần
nhuyễn về tiếng Anh.
Chú thích
(1) Trung tướng J. Slim, Tổng
chỉ huy Lục quân Đồng minh, Bộ tư lệnh Đông
Nam Á
(2) sau đó chuyển cho người Anh
(3) Một chủ đồn điền có thế lực ở miền Nam,
tham gia phong trào kháng chiến Pháp, cộng
tác với nhóm CBT để thu thập tin t́nh báo về
Nhật cho AGAS, người được nói đến nhiều nhất
trong khối chống lại nền độc lập của Việt
Nam và tích cực chống Việt Minh.
(4) Từ 6-9, Bộ tư lệnh Đông Nam Á đă cho
phép các phóng viên báo chí Anh, Mỹ, Pháp,
Hà Lan, Ấn Độ hoạt động trong vùng chiếm
đóng của SEAC để đưa tin tức.
(5) Một người thân tín của Leclerc được đưa
tới Sài G̣n trước để tiếp quản sở Mật thám
và phụ trách công tác t́nh báo chính trị
Việt Nam dưới quyền
Cédile
(6) Ngày 23-9, tôi đă nắm được t́nh h́nh nhờ
các báo cáo lẻ tẻ nhận được ở Hà Nội và Côn
Minh do OSS Sài G̣n và OSS Kandy cung cấp,
từ các tin có giá trị của Việt minh ở Hà Nội
và các tin tức báo chí ở Trung Quốc.
(7) Sĩ quan OSS phối thuộc vào SEAC và phụ
tá cho Dewey
( 8 ) Đại uư Coolidge từ Đà Lạt trở về cùng
với một số sĩ quan Đồng minh, trong đó có
người Pháp và phụ nữ Việt trẻ tuổi. Các Sài
G̣n khoảng 10 dặm, đoàn
xe đă bị Việt Minh phục kích.
Họ đă định giải thích v́
đă bị nghi nhầm là người Pháp. Nhưng
súng nổ, Coolidge bị thương và được đưa về
bệnh viện dă chiến 75 của Anh ở Sài G̣n, sau
đó được chuyển về Mỹ và phải nằm 8 tháng
trong quân y viện.
(9) ở biệt thự Ferier, phía bắc thành phối,
cạnh sân quần vợt
(10) Đại uư M. White, đại uư Wickes (OSS),
thiếu tá F. Werger (quân đội Pháp, thuộc
nhóm E, Uỷ ban kiểm soát Sài G̣n), 2 nhà báo
Mỹ Mc Clincy và W. Downs
(11) Sĩ quan OSS - SEAC
(12) Phụ trách 2B (pḥng Nh́, t́nh báo) của
Leclerc
(13) Ông Hồ đă ra lệnh cho Việt Minh t́m xác
của Dewey để trao trả cho nhà chức trách Mỹ.
Ngày 12-10-1945, người Pháp cũng treo giải
thưởng 5.000 đồng. nhưng
không nơi nào t́m được xác của Dewey.
(14) đại diện của
ông Hồ trong Lâm uỷ Nam Bộ
(15) Ed. Snow, “Bờ sông bên kia - Trung Quốc
đó ngày nay”.
Chương 33
Những cảnh trái ngược
Ở miền Bắc
người Việt Nam đang cho thí nghiệm một
cuộc cách mạng đổi đời dựa trên cơ sở
một sự thay đổi về chính quyền, không ǵ
khác hơn là một sự chuyển biến từ chế dộ
thực dân sang chế độ tự quản, và không
thông qua bạo lực.
Như ông Hồ thường nhắc mọi người, đây là
lúc để điều chỉnh, cải tổ và xây dựng
lại. Cuộc
cách mạng kinh tế xă hội sẽ tới sau.
Cuộc chiếm đóng hoà b́nh của Trung Quốc
ở phía bắc vĩ tuyến 16 hoàn toàn trái
ngược với việc tiếp quản bằng vũ lực của
Anh ở Nam Kỳ. Khác với người Anh đă trục
xuất thẳng tay Lâm uỷ Nam Bộ khỏi dinh
Toàn quyền ở Sài G̣n, người Trung Quốc
chấp nhận để Chính phủ của ông Hồ đóng
tại Bắc Bộ Phủ và cộng tác với họ suốt
trong thời gian chiếm đóng.
Ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, họ cũng không cần phải yêu cầu người
Nhật đàn áp những người Quốc gia và dọn
đường cho Pháp quay trở lại.
Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chịu trách nhiệm về mọi việc.
Cảnh trái ngược đập
ngay vào mắt.
Tuy vậy, t́nh h́nh
Sài G̣n đă gây ra nhiều đợt phản úng ở
Hà Nội. Những tin tức về cuộc
tiếp quản trịch thượng của Gracey tới Hà
Nội vào trưa ngày 13-9 và nhiều tin đồn
đại được loan truyền: “Quân Anh dẫn đầu
cho quân xâm lược của Leclerc!”, “Trung
Quốc đă đồng ư cho người Pháp ở Trung
Quốc kéo về Bắc Kỳ để phối hợp với quân
của Leclerc”. Khắp
nơi người ta bàn tán về “kháng chiến”.
Chiều hôm đó, tôi gặp ông Hồ và ông cũng
nói với tôi: “Tất cả các đường thông tin
liên lạc từ Trung Quốc tới đă từng bước
bị phá hoại, và như vậy là nếu có xâm
lược th́ nhất định sẽ có chống cự bằng
vũ lực”.
Sáng và chiều nào, đài phát thanh Delhi
và Sài G̣n cũng sa
sả nói về việc quân Anh và Gracey tới.
Tất nhiên điều đó
chỉ khích lệ người Pháp và làm cho người
Việt hoảng sợ. Đài Delhi đă mở
dầu bằng câu chuyện về sự có mặt quân Ấn
để “giải giáp quân Nhật”, nhưng lại kết
thúc với tin về Gracey và chỉ trích ông
trong việc sử dụng quân Ấn để “dập tắt
phong trào Quốc gia Việt Minh”. Công
phẫn trước thái độ của Anh, ông Hồ đă
gửi một bức điện phản đối cho Atlee về
“thái độ không dân chủ của Mounbatten ở
Sài G̣n” và đă chỉ thị cho Bộ trưởng
tuyên truyền của ông tổ chức một cuộc
biểu tinh chống Anh vào ngày hôm sau.
Sáng sớm hôm đó,
trên đường phố Hà Nội đă đầy người xếp
hàng chuẩn bị diễu hành. Họ bắt
đầu vào lúc 8 giờ, mang
theo cờ Việt
Minh và hô khẩu hiệu chống Anh, vác áp
phích vẽ John Bull như một chúa tể ở
Đông Nam Á đang chinh phục Việt Nam.
Cờ Anh đă biến khỏi
rừng cờ. Có khoảng 5 hoặc 6 ngàn
người từ Nhà hát Thành phố tiến về quảng
trường Ba Đ́nh hô to phản đối “sự tàn
bạo” và thái độ “không dân chủ” của Anh.
Tại quảng trường,
một số diễn giả lên tiếng nhưng không có
ǵ tỏ ra muốn kích động sự phẫn nộ lên
quá múc. Mọi
việc đều được điều phối tốt.
Cuộc biểu t́nh đạt
tới đỉnh cao vào buổi trưa, với một bức
điện của ông Hồ gửi qua đài Hà Nội cho
Thủ tướng Anh Atlee. Nhân danh
“nhân dân Việt Nam tự do”, ông Hồ phản
đối phái đoàn Anh ở Nam Kỳ đă dùng vũ
lực gạt bỏ “Chính phủ hợp pháp” ra khỏi
trụ sở của họ ở dinh Toàn quyền. Ông Hồ
yêu cầu Thủ tướng Anh ra lệnh cho phái
đoàn phải “tôn trọng quyền và nền độc
lập của nhân dân Việt Nam”, kèm
theo một lời
đe doạ úp mở nói “để tránh xảy ra những
điều đáng tiếc trong tương lai”. Trong
khi mọi người c̣n đang vui mừng với
“việc biểu thị hoà b́nh và dân chủ của
sự trưởng thành về chính trị này”, th́
phía người Pháp lại mắc phải một hành
động thiếu suy xét nhỏ. Đám trẻ ngỗ
ngược theo De
Gaulle trong Thành (Hà Nội) đă t́m cách
trèo lên cắm cờ tam tài (Pháp) trên một
bao lơn cao. Do có sự can thiệp của đại
tá Norlingher nên lá cờ đă được hạ xuống
một cách khó nhọc, nhưng không phải là
trước khi tin đó đă bay tói “những người
biểu t́nh địa phương”.
Tôi cho sự việc
không có ǵ quan trọng mà nó chỉ phơi
bày một cách ngô nghê món láu cá của
Pháp. Nhưng
những người hoạt động Việt Nam th́ lại
cái đó là “một sự thách thức hết sức
khiêu khích”.
Sainteny đă cải chính không biết ǵ về
việc này nhưng lại tỏ ra hài ḷng với
“cánh trẻ ở trong Thành”.
Tôi đă định cho qua vấn đề, nhưng đột
nhiên có tin phản ứng của địa phương trở
nên gây gắt, và trên đường phố người ta
bàn tán việc “đánh vào Thành và cho Pháp
một bài học”. Nhưng sau đó đă không có
ǵ xảy ra, chủ yếu có thể v́ tôi đă khẩn
khoản với ông Hồ rằng tôi sẽ không thể
ngăn chặn được các biện pháp pḥng vệ
của Trung Quốc và Nhật, thậm chí ngay cả
khi người Việt Nam bị đổ máu.
Đó cũng là lần đầu
tiên và độc nhất, tôi đă ngăn ông Hồ và
chống lại những biện pháp chống Pháp mà
Việt Minh đă dự định. Sau này,
ông Hồ đă cảm ơn tôi về lời khuyên nhưng
đă hỏi khéo léo tôi không biết ông c̣n
phải chịu đựng “sự kiêu căng của Pháp”
cho đến mức nào nữa.
BÓP MÉO SỰ THẬT
T́nh trạng hỗn loạn do công
tác tuyên truyền của Pháp gây ra ở Hà
Nội, sau khi Gracey tới Sài G̣n, thể
hiện rơ qua các luận điệu và thủ đoạn
tuyên truyền của họ.
Ngày 13-9, tôi nhận
được tin từ Côn Minh là hành dinh của
OSS sẽ chuyển về Thượng Hải. Chỉ
vài giờ sau, người của Saniteny đă
tung tin OSS
đang rút khỏi Trung Quốc và cá nhân tôi
cũng sẽ bị gọi về Washington v́ tội
không phục tùng và có khuyết điểm trong
việc không giúp đỡ cho Pháp ở Đông Dương
“theo đúng mệnh lệnh của Đồng minh”.
Ngày hôm sau,
Sainteny đến hỏi tôi để biết khi nào th́
OSS chuyển về Washington. Tôi đáp
không có kế hoạch, th́ ông nói,
theo nguồn
tin của ông, chỉ trong ṿng từ 30 đến 60
ngày nữa.
Việc khác là việc cảnh sát địa phương đă
bắt được hai tù binh Pháp, trốn ở Thành
ra, mặc quân phục Mỹ và đi phá một hiệu
kim hoàn người Việt… Quân cảnh Trung
Quốc lại bắt được hai hạ sĩ người Việt
thuộc quân đội thực dân Pháp, cũng từ
Thành ra, ăn mặc quần áo Trung Quốc và
vào kho ăn cắp xe ô tô của Trung Quốc để
nhằm gây mâu thuẫn giữa người Trung Quốc
và Việt Nam.
… Họ c̣n tung
tin Mỹ đă phản bội Đồng minh; tư bản Mỹ
để mua được Hồ Chí Minh bằng máu của
người Pháp… Tin đồn nguy hại nhất là Côn
Minh đă ra lệnh cho người Trung Quốc thả
các tù binh Pháp trong Thành và cấp vũ
khí cho chúng để làm nhiệm vụ cảnh sát…
Tin này đă tác động đến một số người
Việt và được những người Quốc gia chống
Cộng nắm lấy sử dụng để chia rẽ quan hệ
Việt - Mỹ.
… Tướng Tiêu Văn cũng yêu cầu tôi
xác nhận tin Trùng Khánh đă cho phép
Alessandri ra lệnh cho người Nhật chỉ
huy nhà tù Hà Nội tổ chức các tù binh
thành đơn vị chiến đấu để giúp Trung
Quốc giữ ǵn trật tự.
Đại tá Stephens trong Bộ chỉ huy Chiến
trường Trung Quốc (CCC) lại muốn biết có
cơ sở ǵ để xác định Trung Quốc đă bố
trí cho Sainteny đến ở nhà Ngân hàng
Đông Dương là một bộ phận trong “mưu đồ”
Pháp - Hoa.
Bộ trưởng Tuyên
truyền Liệu th́ hỏi tôi tin tức t́nh
h́nh Sài G̣n xung quanh việc Hoa kiều ở
Chợ Lớn ủng hộ người Pháp đánh chiếng
lại miền Nam. Ông cũng rất quan
tâm đến vai tṛ của OSS đối với Phái
đoàn Sainteny và cái gọi là kế hoạch của
Mỹ rút lui khỏi Đông Dương.
Bộ máy tuyên truyền của Pháp c̣n hoạt
động mạnh mẽ ở các nước khác, từ Pháp,
châu Phi và Ấn Độ. Điển h́nh là việc có
một bản tin nói là phát đi từ San
Francisco nghe được ở Hà Nội ngày 17-9.
Bản tin bằng tiếng Việt báo “quân đội
Trung Quốc và Anh có mặt ở Đông Dương là
để duy tŕ luật pháp và trật tự trong
khi chờ cho quân đội Pháp và các quan
chức hành chính tới”. Tôi hỏi Côn Minh
và được trả lời: bản tin phát đi từ một
đài bí mật của Pháp (đài Brazzaville 2 ở
châu Phi) và đó là một tin hoàn toàn
bịa…
Các tin đồn đại này tác động không chỉ
đến người Việt mà tới cả một số người
Pháp trước đây rất thân thiện với tôi và
các người Mỹ khác ở Hà Nội. Trong bầu
không khí đă thay đổi đó, tôi điện về
Côn Minh: “từ khi chúng tôi tới đây,
người Pháp đă thay đổi thái độ đối với
Mỹ… từ rất thân thiện đến lănh đạm.
Đặc biệt đối với
tôi, rất lạnh nhạt”.
Mỗi việc rất nhỏ nhặt cũng được sử dụng
để chống lại người Mỹ. Sáng ngày 18-9,
Sainteny lại đến gặp tôi về việc “mất
sữa khô”. Và đến chiều lại có tin đồn là
lương thực của người Pháp gửi để cứu đói
cho người Việt Nam bằng máy bay Mỹ đă
được Mỹ trao cho người Trung Quốc để bán
ra chợ đen ở Hà Nội.
Nhưng không phải chỉ có người Pháp tuyên
truyền chống Mỹ. C̣n có người Nhật, và
Matsushita vẫn sử dụng được bộ máy tuyên
truyền của Trung tâm Văn hoá Hà Nội, Huế
và Sài G̣n và cũng đạt được ít nhiều kết
quả trong một bộ phận dân chúng chống
Việt Minh…
Chiến dịch tuyên truyền của Nhật, kết
hợp với của Pháp đă gặm nhấm dần h́nh
ảnh Mỹ, gây ra một bầu không khí không
lành mạnh đến mức tôi đă phải yêu cầu
OSS Côn Minh cho tiến hành những biện
pháp chống trả lại.
Nhưng tôi đă bị đánh bại bởi những phần
tử thân Pháp khá mạnh trong ngành Điều
tra và Nghiên cứu (R&A) của chúng ta.
Họ cho là tôi quá
khắt khe đối với lập trường của Pháp.
Ở R&A, người ta cho
rằng Pháp đă bị tước bỏ quyền chính đáng
đ̣i lại Đông Dương một cánh bất công và
người Mỹ chúng ta phải tỏ ra thông cảm
với Pháp hơn nữa về vấn đề này.
Cả Heppner và Helliwell đều không đồng ư
và đă chuyển thẳng các báo cáo của tôi
về OSS Washington và tướng Wedemeyer mà
không thêm bớt ǵ.
“GIỐNG NHƯ CON BỌ CHÉT TRÊN
M̀NH CHÓ”
Trong khi t́nh trạng rối
loạn ở Sài G̣n trầm trọng hơn và chiến
dịch phao tin đồn đạt tới những đỉnh cao
mới th́ những người Việt lưu vong ở
Trung Quốc kéo về nước. Họ mang
theo cao vọng
là sẽ nắm trọn quyền lănh đạo đất nước
nhưng lại quá kém về tổ chức và không có
được một chương tŕnh hành động ra hồn.
Họ đă sống tập trung
nhiều năm ở Quảng Tây dưới sự che chở
của Trương Phát Khuê và ngẫu nhiên trở
nên chống Pháp.
Họ hy vọng dựng lên
một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ
của Trung Quốc. Khi chiến tranh
kết thúc, ai cũng đinh ninh là việc
chiếm đóng Đông Dương sẽ được trao cho
Trương, nên việc chuyển nhiệm vụ đó vào
phút chót cho Lư Hán, đă làm cho người
lưu vong vô cùng bối rối.
Liên minh Đồng minh
Hội đầy tham vọng và rạn nứt, đă bị lạc
lơng. Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt cũng tách
khỏi liên minh và t́m cách giành cho
ḿnh quyền lănh đạo.
Sự tan vỡ đă làm cho những người lưu
vong được Trung Quốc nâng đỡ mất hết
hiệu lực, và họ phải chia làm hai phe.
Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt đi
theo viên tướng Vân Nam Lư Hán, những
người c̣n lại của Đồng minh Hội th́ ở
lại dưới quyền lănh đạo của Tiêu Văn,
phục vu cho Trương Phát Khuê và Quốc dân
Đảng (Trung Quốc). Sự chia rẽ đă làm lợi
cho Việt Nam suốt trong 6 tháng sau và
những người Quốc gia thân Trung Quốc đă
tự ḿnh cô lập khỏi đông đảo quần chúng,
đúng như ông Hồ đă dự đoán.
Vào cuối tháng 8, quân đội Trung Quốc đă
vượt qua biên giới
theo hai cánh. Các tập đoàn quân
62 và 53 của Trương Phát Khuê, dưới
quyền chỉ huy của tướng Tiêu Văn, tiến
từ Quảng Tây vào chiếm Cao Bằng, Lạng
Sơn và các cứ điểm chủ chốt dọc bờ biển
Đông Bắc đến Hải Pḥng. C̣n các tập đoàn
quân 93 và 60 của Lư Hán từ Vân Nam tiến
vào Lào Cai và đi dọc theo thung lũng
sông Hồng tới Hả Nội - Vinh - Đà Nẵng.
Dưới sự lănh đạo nhu nhược của Nguyễn
Hải Thần, Đồng minh Hội đi theo quân
Quảng Tây vào Cao Bằng và Móng Cái. V́
muốn giành cho ḿnh một địa vị lănh đạo
trong chính phủ mà ông cho rằng Trung
Quốc có thể dựng lên ở Hà Nội, nên ông
đă lao đi trước quân đội để về thủ đô
gặp người đỡ đầu là tướng Tiêu Văn. Khi
Thần đang trên đường về Hà Nội th́ Vũ
Kim Thành, một phụ tá tin cậy của ông đă
từng tập hợp được một đội quân vài trăm
người cho Đồng minh Hội, đă thành lập
một “Chính phủ Quốc gia Việt Nam Lâm
thời” ở Móng Cái và “bầu” Thần làm thủ
tướng. Trong khi
Thần vắng mặt th́ Thành nắm quyền thay.
Ngày 13-9, Thần tới Lạng Sơn với một số
quân do Nông Quốc Long dẫn
đầu(1).
Quân Đồng minh Hội
hạ cờ Việt Minh và kéo cờ của họ thay
vào đó. Thần cho họp mít tinh
quần chúng có khoảng 3 hay 4 trăm người
và nói với quần chúng “rằng họ phải
theo sự lănh
đạo và chính sách của Trung Quốc ngay cả
khi phải trả giá bằng nền độc lập của
ḿnh”. Nghe thấy
thế, “quần chúng” liền bỏ đi, kéo cờ
Đồng minh Hội xuống và trương cờ Việt
Minh lên. Chắc chắn là đă có cán
bộ Việt Minh lănh đạo quần chúng trong
cuộc loạn đả sau đó.
Quần chúng được đội tự vệ hỗ trợ, đă tấn
công vào đám bộ hạ của Thần cho tới khi
quân Trung Quốc đến lập lại trật tự.
Thần và bọn tay sai liền rút khỏi Lạng
Sơn về Kỳ Lừa và ra lệnh cho “quân đội”
của Vũ Kim Thành xúc tiến một cuộc hành
quân trừng phạt trong vùng từ Lạng Sơn
tới Chữ, ở phía bắc Kép.
Cùng ngày đó, tôi lại được tin là tất cả
dân chúng Việt Nam dọc đường xe lửa từ
Lạng Sơn tới Kép đă phải bỏ nhà cửa,
ruộng đất ra đi sau những ngày bị binh
lính Tập đoàn quân 62 và bọn “thổ phỉ”
tay chân Trung Quốc cướp phá.
Bọn thổ phỉ này
chính là quân của Vũ Kim Thành.
Đây không phải là một bước đầu đă làm
được cho “quần chúng nhân dân” “quư
chuộng” các lănh tụ đă xuất ngoại và cái
chính phủ ma ở Móng Cái chỉ tồn tại được
tới cuối tháng 10, khi Tiêu Văn ép được
Nguyễn Hải Thần hợp tác với chính phủ
ông Hồ trong một mặt trận thống nhất
chống Pháp.
Trong lúc Đồng minh Hội
gây ra sự tàn phá suốt dọc miền đông bắc
Bắc Kỳ, th́ lực lượng của Vũ Hồng Khanh
(Việt Nam Quốc dân Đảng) và của Nguyễn
Tường Tam (Đại Việt) đi theo tập đoàn
quân 93 Vân Nam, cũng tiến hành những
bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành
làng tây bắc từ Lào Cai đến Yên Bái, Phú
Thọ.
Giữa lúc ông Hồ đang tính toán đối với
những người Quốc gia lưu vong từ Trung
Quốc về th́ tôi nhận được công văn phản
đối của Bạch từ Sài G̣n gửi tới và đă
mang ra thảo luận với ông Hồ. Ông đồng ư
với nội dung công văn của Bạch và với
một vẻ đau khổ và nhịn nhục, ông nhận
xét thêm là những nỗi lo sợ xấu nhất của
ông nay đă thành hiện thực.
Ông ngẫm nghĩ “Giá
mà có được một cách nào để chặn được
cuộc tấn công dữ dội không thể tránh
khỏi”. Ông nói riêng với tôi là
đă có nhiều người của Giàu, đêm trước đă
tới gặp, mang theo
nhưng tin tức làm nản ḷng. Sự việc ông
đưa ra, về căn bản không khác ǵ mấy đối
với các báo cáo của Dewey, nhưng tôi
nghĩ các quan điểm và sự sáng suốt của
ông th́ thực đáng chú ư đặc biệt.
Ông Hồ đă chỉ trích mạnh mẽ quyết định
của Gracey về việc thả tù binh Pháp lúc
ban đầu. Ông Hồ nghĩ rằng các tù binh
Pháp đó ngoài việc tức tối đối với người
Nhật đă cầm tù họ, họ c̣n khinh miệt
người Việt Nam trước đây đă coi họ như
những ông chủ và chúa tể.
Ông Hồ thấy những
người Pháp này, cũng như các đồng hương
của họ ở Đông Dương, đang phải chịu đựng
một t́nh trạng gây cấn về tâm lư.
Trong 4 năm, họ đă phục vụ cho Nhật và
Vichy, rồi lại trở thành tù nhân của
ngay những ông chủ mới này, trong khi
đồng bào của họ ở miền Bắc đă chiến đấu
(ít nhất th́ cũng trong dư luận của tù
binh) oanh liệt cho nước Pháp của De
Gaulle. V́ vậy, theo ông Hồ phân tích,
chỉ có một cách duy nhất dể làm cho
lương tâm họ được thanh thản là phải làm
được một cái ǵ gây xúc động cực kỳ mạnh
mẽ, như cuộc đảo chính ở Nam Kỳ. Đó sẽ
là một điều rất dáng tiếc, ông Hồ nói
thêm. Người Pháp sẽ
không bao giờ trở lại được Việt Nam,
trước khi “nhân dân sẽ tiêu huỷ đất nước
này và hy sinh cho đến người đàn ông,
đàn bà và trẻ con cuối cùng”.
Ông Hồ nhận định
việc Mounbatten giao cho Gracey đảm
nhiệm công việc ở miền Nam là một sự lựa
chọn kém cỏi. Gracey là một sĩ
quan thực dân thâm căn cố đế, chỉ biết
phục vụ cho sự tồn tại của nền trật tự
cũ. Có nổi loạn, ông Hồ nói, và chỉ có
người Pháp và “những người bạn thực dân”
của họ đă không chịu chấp nhân một sự
thực là Việt Nam đă là một nước độc lập,
người Pháp là những người ngoại quốc; và
từ năm 1940, người Việt Nam đă sống qua
được một cách đàng hoàng không có họ.
Với một thái độ trầm ngâm, ông Hồ nhận
xét, “Tôi mong rằng Đồng minh sẽ giải
thích cho những người mới tới (chỉ những
người theo De
Gaulle) mục đích của Hiến chương Đại Tây
Dương”… Điều mà ông muốn nói đúng là “…
tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc
được sự lựa chọn h́nh thức chính quyền
mà họ muốn…” Đó là điều… mà ông chắc
chắn Mỹ đă nắm được nhưng c̣n Anh?…
Nhưng rồi với một vẻ
thất vọng, ông nói thêm chỉ có đấu tranh
vũ trang của nhân dân Việt Nam chống kẻ
thù của họ mới có thể giải quyết được số
phận tương lai của đất nước ông.
Suốt trong tuần lễ
trước, mỗi một lần gặp ông Hồ, tôi lại
mất đi cái cảm giác ông không c̣n kiểm
soát được trọn vẹn t́nh h́nh nữa.
Ông đă để lại cho tôi một ấn tượng là
nắm rất chắc các sự kiện đang bao vây
lấy ông: trước hết là người Pháp ở miền
Nam, rồi người Trung Quốc ở phía Bắc, sự
ly khai về chính trị và chia rẽ nội bộ,
và thường xuyên là t́nh h́nh kinh tế
nguy ngập. Mọi sự
đều không phải là tốt đẹp cho Việt Minh
cũng như cho Việt Nam.
V́ vậy, trong “ông
già” là cả một mớ các cuộc đấu tranh.
Mắt ông lóe sáng v́ thích thú và v́ giận
dữ. Nhưng bao giờ
ông cũng giữ được chủ động một cách
thích đáng.
T́nh h́nh miền Nam xấu đi đă kéo theo
một sự xói ṃn về cơ sỏ chính trị của
ông Hồ ở miền Bắc. Một tuần sau khi Tam
và Thần về tới Hà Nội, một số các báo
chí tiếng Việt đại diện các người quốc
gia thân Trung Quốc đă đưa ra những bài
với tít lớn - “NGƯỜI PHÁP CHIẾM LẠI NAM
KỲ”. Các bài tường
thuật của họ, c̣n xa mới đúng sự thực,
nhưng cũng đạt được mục đích mô tả Việt
Minh là bất lực và có khi là phản bội.
Cũng ngày hôm đó, 20-9, tờ nhật báo
tiếng Hoa, lần đầu tiên đăng tin Tam và
Thần về tới Hà Nội, cùng với một lời
khẩn cầu Quốc dân Đảng (Trung Quốc) ra
tay “cứu văn” nền độc lập của Việt Nam.
Tôi không ngạc nhiên
về việc những tin tức trên lại không làm
cho ông Hồ mất vẻ b́nh thản gần như thụ
động trước cuộc tuyên chiến công khai
của người Quốc gia thân Trung Quốc.
Ông đă có lần nói
với tôi về “một kế hoạch đối phó với bọn
tay sai này”, nhưng tôi không rơ ông đă
cho tiến hành chưa? Tại sao ông
lại dung thứ cho các hoạt động phá hoại
của họ trong khi ông có đủ quyền hành và
lực lượng để tiêu diệt họ?
Ngoài cái lợi thế
được Trung Quốc đỡ đầu, điều ǵ đă làm
cho những người thân Trung Quốc tỏ ra
liều lĩnh như vậy? Tôi đề ra các
thắc mắc này với ông Hồ.
Ông Hồ trả lời: chúng chỉ là một sự quấy
rầy chứ không phải là một mối đe doạ,
giống như “con bọ chét bám vào lưng chó”
mà người ta phải chịu đựng nếu không
phải v́ lư do nào khác hơn là v́ phải
coi họ như những miếng mồi để đút lót
các viên tướng Trung Hoa. Ông Hồ cho
rằng mục tiêu trước mắt cao nnất của
Quốc dân Đảng (Trung Quốc) là nhằm giữ
người Pháp đứng ngoài Đông Dương, và ủng
hộ cho phong trào quốc gia cho đến khi
Trung Quốc giành được thắng lợi trong
cuộc điều đ́nh với Paris. Ông đă cuộc
rằng khi nào mà Việt Nam hoặc một chế độ
thân Trung Quốc c̣n nắm được chính quyền
th́ Pháp không thể mưu tính một cuộc lật
đổ ở miền Bắc.
Từ những ngày mới tới Trung Quốc, tôi đă
dược biết những người Việt lưu vong là
một nhóm người xuất dương đi t́m đường
giải phóng dân tộc.
Nhưng ngoài Việt Minh ra th́ họ thiếu sự
liên kết về chính trị và thiếu lănh đạo.
Họ chống Cộng quyết liệt, dựa hẳn vào sự
ủng hộ của Trung Quốc hoặc Nhật và sự
đồng t́nh của Mỹ. Trong số hội viên Đồng
minh Hội và Quốc dân Đảng mà tôi đă tiếp
chuyện, tôi thấy họ hoàn toàn không có
các chương tŕnh kinh tế xă hội để giải
quyết các nhu cầu của quần chúng.
Họ nói đến “nắm
chính quyền”, nhưng thực tế không ai
biết chắc là sẽ để làm ǵ. Họ đă
mất phương hướng một cách đáng thương
hại trong lĩnh vực chính trị, v́ nhiều
người được coi là lănh tụ, như Nguyễn
Hải Thần, người đă sống xa đất nước quá
lâu ngày ở Trung Quốc…
Tôi đă phải kết luận
rằng… họ chỉ có động cơ v́ quyền hành và
lợi ích cá nhân. Đă nhiều lần,
tôi nghe họ nói: “Chúng tôi sẽ nắm chính
quyền v́ chúng tôi có nhân dân và chúng
tôi sẽ phục vụ nhân dân”. Nhưng không
phải chỉ có họ đă quên, mà cả người
Pháp, cũng như người Mỹ sau này, đă thất
bại trong việc tranh thủ sự ủng hộ của
quần chúng nhân dân.
Ông Hồ vững vàng
hơn, ông đă nhắc cho tôi biết nhiều lần
là chỉ có Việt Minh mới có một chương
tŕnh hành động có thể thực hiện được và
được nhân dân Việt Nam ủng hộ.
Theo nhận xét của
riêng tôi, tôi đồng t́nh với niềm kiêu
hănh đó. Tuy
vậy, ông vẫn coi như c̣n có vấn đề, v́
trong một số giới, đặc biệt là trong
tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta
vẫn gán cho ông và đảng ông cái chiêu
bài “Cộng sản”. Những người Quốc
gia thân Trung Quốc lại không bị như
vậy, do đó ông đă phải làm mọi cách có
thể được để gạt bỏ tất nhiên không phải
là triết lư mà là cái nhăn hiệu nói
trên.
Trong tháng 8 trước đây ở Tân Trào, mọi
người đă thống nhất ư kiến là phải bằng
mọi giá tránh cho được, không để nổ ra
xung đột vũ trang với quân Tưởng hoặc
những người Quốc gia lưu vong. Để đạt
được mục đích đó, Việt Minh muốn nhấn
mạnh vào nhiệm vụ của người Trung Quốc
chỉ là giải giáp quân Nhật, và nếu cần
th́ Việt Minh sẽ phát động quần chúng để
tiến hành một cuộc phản đối không vũ
trang để vẫn duy tŕ được quyền kiểm
soát của Chính phủ trong khi hợp tác với
người Trung Quốc để giúp họ làm nhiệm vụ
trên.
Kế hoạch của ông Hồ
đă đặc biệt nhằm cô lập Việt Nam Quốc
dân Đảng và Đồng minh Hội, và dùng áp
lực của quần chúng để chống lại họ.
Tiến hành đấu tranh
vũ trang với họ chỉ là phương sách cuối
cùng. Nếu như các viên tướng
Trung Hoa lại ra mặt ủng hộ phe đối lập,
th́ ông Hồ sẵn sàng thoả hiệp để bảo
toàn được các mục tiêu của cách mạng.
Cơ hội đă đến gần.
Tôi biết đă có một cuộc họp bí mật vào
đêm 19-9 giữa ông Hồ và Nguyễn Tường Tam
và ông này đă đề nghị hợp nhất Đại Việt
của ông với Việt Minh.
Một ngày trước đó,
Nguyễn Hải Thần cũng có một đề nghị
tương tự cho Đồng minh Hội. Họ đă
bất ngờ chuyển quyết tâm sang cộng tác
với Việt Minh chỉ v́ họ thấy ông Hồ đă
nắm được chính quyền, c̣n họ đă bị gạt
ra ngoài. Ông Hồ có
được một bộ máy chính trị tổ chức hoàn
hảo, một chính phủ đang c̣n tồn tại và
được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân, kể
cả những người không phải là Cộng sản.
Con đường duy nhất mở ra trước mắt họ là
hợp tác cho tới khi ông Hồ và Việt Minh
bị mất uy tín và họ nắm được chính quyền
nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc.
Họ đề nghị đánh đổi
cho ông Hồ sự ủng hộ về tài chính cùng
với sụ hỗ trợ của Trung Quốc để nắm lấy
tổ chức của ông và sự đồng t́nh của quần
chúng.
Khi tôi đưa những đề
nghị đó ra thảo luận với Giáp, ông dứt
khoát không đồng ư. Theo ông, những đề
nghị đó không có giá trị và không thật
thà. Nó chẳng
khác ǵ thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp
bằng ách thống trị của Trung Quốc.
Về mặt tài chính,
nhân dân sẽ tiêu dùng với cái mà họ có
và sẽ tiêu dùng ít đi nếu như điều đó là
cần thiết để giữ ǵn nền độc lập của họ.
Nhân dân sẽ “chẳng
bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính
nghĩa của họ để đổi lấy đollar Trung
Quốc”.
Hoàng Minh Giám, một nhà ngoại giao xă
hội thực dụng, lại có một quan điểm thực
tế hơn. Ông nghĩ
rằng những đề nghị đó cũng có thể được
coi như là một phương sách nhất thời.
Một sự hợp nhất của tất cả các nhóm Quốc
gia có thể sẽ làm giảm bớt sự đối lập và
tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm
yên tâm người Trung Quốc, c̣n người Pháp
sẽ phải lo nghĩ. Nhưng điều quan trọng
hơn cả, sẽ là việc Việt Nam ra mặt được
với Đồng minh, và đặc biệt là đối với
Mỹ, dưới h́nh ảnh của một chính phủ thực
sự “dân chủ”.
Bản thân tôi cho rằng, ở đây, ông Hồ sẽ
sử dụng đến cái chiến thuật thắng lợi
thường dùng nhằm điều đ́nh, tŕ hoăn,
tranh thủ thời gian, chờ thời cơ thuận
lợi sẽ đánh trả, để giành lại những mục
tiêu cơ bản của ông.
Tạ Quang Bửu, người
thanh niên thông thạo tiếng Anh của
Giáp, thỉnh thoảng cũng góp thêm sự hiểu
biết về các sắc thái của cuộc rối rắm ở
Trung Quốc. Bửu có ư kiến là mặc
dù Tưởng thừa nhận là đứng trung lập,
nhưng ở Trung Quốc vẫn có hai lực lượng
đấu tranh với nhau và cả hai đều mong
muốn làm chậm lại việc người Pháp quay
trở lại Việt Nam càng lâu càng tốt.
Quốc dân Đảng Trung
Quốc cho việc chiếm đóng là một cơ hội
để ép Paris phải nhân nhượng. Các
tướng địa phương, đặc biệt là Lư Hán,
lại coi việc chiếm đóng là một dịp cổ
truyền để cướp đoạt, gây dựng một nguồn
và thị trường lâu dài để buôn lậu, và mở
rộng quyền sở hữu của họ ra vùng ngoài
biên giới Trung Quốc.
Ngay sau khi vào
Việt Nam, cả hai lực lượng Trung Quốc
nói trên đă xung đột với người Pháp cũng
như người Việt.
Người Pháp đă cộng
tác với Trùng Khánh từ đầu tháng 8,
nhưng lại thấy Lư Hán ngoan cố và thực
tế chống đối lại họ. C̣n ông Hồ,
ông cũng đương đầu lại với mối đe doạ có
thể bị đánh đổ bởi các đối thủ chính trị
do Trung Quốc nuôi dưỡng, nhưng cũng may
mà phe đối lập của ông lại đang bị ở
trong một t́nh trạng chia rẽ nghiêm
trọng.
Theo Bửu, t́nh trạng chia rẽ đó sẽ tác
động đến những nhà chính trị quốc gia
Việt Nam v́ các viên tướng Trung Hoa ở
Việt Nam cũng xung đột nhau về chính
sách chiếm đóng. Tiêu Văn, đại diện Quốc
dân Đảng, ủng hộ chính sách 14 điểm về
chiếm đóng. Nhưng trong 14 điểm đó th́
ít nhất cũng có tới 4 điểm là nguồn
thường xuyên gây bực bội cả cho tướng Lư
Hán và cho Pháp:
1- mời một đại diện Pháp tham gia buổi lễ tiếp nhận đầu hàng,
2- duy tŕ cơ cấu công nghiệp và việc điều hành công tác chính phủ cho tới khi thực hiện xong việc thương lượng giữa nhà chức trách chiếm đóng và người Pháp;
3- đ̣i hỏi người Pháp ở Hà Nội phải yêu cầu “người Việt Nam” cung cấp lương thực và vận chuyển cho các lực lượng chiếm đóng (Bộ Ngoại giao Trung Quốc sẽ điều đ́nh về các hiệp định thanh toán); và
4-
giữ một thái độ trung lập đối với
các mối qua hệ Pháp - Việt.
Các điểm này, Bửu
nói, không có ǵ phù hợp với lời tuyên
bố cao thượng gán cho Tưởng rằng “người
Việt Nam sẽ dần dần đạt tới độc lập phù
hợp với những nguyên tắc của Hiến chương
Đại Tây Dương”.
Tôi nói với Bửu rằng
không có ǵ chứng thực là Tưởng đă phát
ra bản tuyên bố đó.
Theo tôi hiểu th́ đó
là việc của Tiêu Văn chỉ nhằm để tuyên
truyền, không được Trung Khánh thông
qua. Tôi nói cho Bửu hay là chúng
tôi có được tờ thông báo của Đồng minh
Hội phân phát rộng răi ngày 10-9, bốn
ngày trước khi Lư Hán tới Hà Nội. Nội
dung nói đại diện cho chính sách của
Quốc dân Đảng (Trung Quốc) và từ dó có
thể hiểu là của Tưởng. Bửu đọc tờ thông
báo và cũng cho rằng đó mới là chính
sách của Trung Quốc, trong dó có đoạn
viết:
“… Người Trung Quốc ủng hộ Hiến chương
Đại Tây Dương,…
và các cường quốc Đồng minh không hề có
tham vọng đất đai (ở Đông Dương)… Các
nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương
sẽ là cơ sở cho một chế độ quản lư tự
trị trong lúc này, để rồi có thể đưa đến
một nền độc lập của dân tộc, và các
nguyên tắc đó của Hiến chương Đại Tây
Dương sẽ là phương châm chỉ đạo (sic)
cho người Trung Quốc ở Đông Dương”.
Đại sứ quán chúng ta ở Trùng Khánh cũng
bị tuyên truyền của Đồng minh Hội làm
cho mê muội và đă bắt tôi phải xác định
một lời tuyên bố trong báo chí ở Côn
Minh, nói là của tướng Lư Hán, mà người
ta cho rằng: “ông đă tuyên bố trong một
cuộc họp báo chính thức ở Hà Nội ngày
5-9 là ông có thiện cảm với phong trào
độc lập dân tộc của người An Nam và với
cuộc biểu t́nh của họ chống lại hành
động của người Anh trong việc “xúi giục
người Pháp đă kéo cờ Pháp lên và dùng vũ
lực chiếm các cơ quan của người An
Nam(2).
Cũng trong buổi họp đó, tướng Lư Hán đă
tuyên bố là Trung Quốc không tham vọng
đất đai ở Đông Dương và mệnh lệnh của
Tổng thống Tưởng Giới Thạch chỉ nhằm mục
đích giúp đỡ cho các dân tộc nhỏ yếu
thực hiện được nền độc lập và tự trị của
nước ḿnh”.
Trả
lời của tôi cho Trùng Khánh đă vạch ra
sự thật.
Không thể có cuộc
họp báo nào của Lư Hán vào ngày 5-9 ở Hà
Nội được v́ lúc đó ông ta đang ở Trung
Quốc và cho tới ngày 14-9 vẫn chưa tới
Hà Nội. Nhưng
Tiêu Văn th́ ở Hà Nội lúc đó và đă có
gặp nhiều đại diện báo chí. Và
nếu như Tiêu Văn đă đưa ra bản tuyên bố
nói là của Lư Hán, th́ cũng có thể hiểu
là Tiêu Văn có ư định muốn tranh thủ sự
bảo đảm của Lư Hán đối với kế hoạch của
Trùng Khánh nhằm nhanh chóng kết thúc
thắng lợi cuộc thương lượng Pháp - Hoa
và nhanh chóng chuyển quân đội Lư Hán
trở về nội địa Trung Quốc.
Khi đi sâu vào lập trường 14 điểm của
Tưởng, rơ ràng ông ta không có ư định để
cho ḿnh bị dính líu vào cuộc đấu tranh
giữa Pháp - Việt.
Tưởng vẫn coi Pháp là một cường quốc thế
giới có thế lực trong các nước Đồng minh
và không muốn cho vai tṛ Pháp ở Đông
Dương bị thử thách. Từ khi
Roosevelt chết, chủ nghĩa chống thực dân
Mỹ đă phải chuyển theo ư kiến của Anh và
Pháp là muốn cho Đông Nam Á trở lại
nguyên trạng cũ và Tưởng thấy đứng về
phía những người cách mạng Việt Nam
chống lại liên minh thực dân phương Tây
là một điều vô chính trị.
Lư Hán đă mạnh mẽ gạt bỏ 14 điểm của
Quốc dân Đảng và quở trách Tiêu Văn, ông
quan niệm chính sách Quốc dân Đảng là
thiển cận và chủ trương huỷ bỏ lập
trường lâu năm của Trung Quốc đi theo
các nguyên tắc Hiến chương Đại Tây
Dương. Cố gắng của Tiêu Văn để lừa khéo
Lư Hán vào lập trường của Quốc dân Đảng
trong thực tế đă mang lại những kết quả
ngược lại. Lư Hán chủ trương chiếm đóng
lâu dài Đông Dương, đặt Việt Nam dưới
quyền bảo trợ của Trung Quốc, và phải
lâu dài Việt Nam mới được độc lập mà
không cần đến sự giúp đỡ của người Pháp.
Sự ác cảm của ông ta
đối với người Pháp mà ông cho không phải
v́ họ là người da trắng mà c̣n là chống
Trung Quốc, là một nguyên nhân thường
xuyên làm cho Quốc dân Đảng bực bội.
Suốt trong thời gian Trung Quốc chiếm
đóng, cá nhân Lư Hán với tất cả khả năng
của ḿnh, đă làm thất bại mọi kế hoạch
của Pháp nhằm giành lại quyền kiểm soát
ở miền bắc Đông Dương. Vào đầu tháng 8,
tướng Alessandri đă được Hà Ứng Khâm cho
phép đi cùng với người Trung Quốc vào
Việt Nam, nhưng sau đó Lư Hán đă chặn
ông lại cho tới tận ngày 19-9.
Sự chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn đă
phản ánh trực tiếp tới những người Quốc
gia Việt Nam đi theo họ: Việt Nam Quốc
dân Đảng và Đại Việt bám lấy quan điểm
của Lư Hán về chiếm đóng lâu dài và đặt
quan hệ hữu nghị với các tướng quân
phiệt Vân Nam; Đồng minh Hội lại đi theo
chiến thuật của Tiêu Văn, muốn cho Nhật
nhanh chóng rút lui và quân Lư Hán cũng
thoái triệt về Trung Quốc để Nguyễn Hải
Thần lănh đạo toàn quốc với sự bảo trợ
của Quốc dân Đảng (Trung Quốc). Người ta
sớm thấy cả hai phái đă phải đấu tranh
vối Hồ Chí Minh và Việt Minh, bất chấp
cả đường lối chính trị
chung và sách
lược.
QUỸ MUA VŨ KHÍ
Ông Hồ không phải chỉ có
những vấn đề chính trị phải giải quyết.
Trước hết là người
Nhật, sau đó là người Trung Quốc, đă đ̣i
hỏi phải nộp những món tiền lớn để “chi
tiêu cho việc duy tŕ trật tự và pháp
luật cùng các công việc chính khác”.
Từ ngày 1-9, mọi thuế khoá đă dược băi
bỏ, và thực tế không c̣n một khoản
thu nào cho
ngân sách Nhà nước. Trong
khi dó th́
Ngân hàng Đông Dương đă đóng các tài
khoản của Chính phủ và tuyên bố Chính
phủ “phá sản”. Các khoản chi tiêu hàng
ngày th́ c̣n có thể giải quyết được từ
nguồn này nguồn kia.
Nhưng trong t́nh
h́nh đó th́ không sao có thể đề xuất ra
được những chương tŕnh dài hạn.
Thực tế phần lớn các cơ quan hành chính
sự vụ đều do các người
lao động của
Đảng phục vụ dựa trên nguồn sinh sống
nhỏ nhặt của ḿnh và dựa vào sự ủng hộ
của một số người Việt có cảm t́nh. Đó
chủ yếu là một Chính phủ của những người
t́nh nguyện không ăn
lương.
Nhưng có một chương
tŕnh quan trọng bậc nhất đối với Chính
phủ ông Hồ lúc đó là việc kiếm vũ khí và
đạn dược. Nguồn cung cấp chủ yếu
trước đây vẫn là các kho tàng của Pháp
và Nhật. Nhưng quân đội Trung Quốc đă
tịch thu những kho này, và người Trung
Quốc đă nhanh chóng báo cho Việt Minh
biết là họ có thể có đủ vũ khí Nhật,
Pháp và cả Mỹ(3)
thông qua những người Trung Quốc, nếu
như họ đồng ư các “điều kiện”: giá cả
phải chăng, trả tiền ngay, và có thái độ
cộng tác với người Quốc gia thân Trung
Quốc.
Đứng trước 2 mối đe doạ: của người Pháp
ở miền Nam và những người Quốc gia thân
Trung Quốc ở miền Bắc, ông Hồ cảm thấy
việc cung cấp cho nhu cầu quốc pḥng
phải là việc ưu tiên bậc nhất. Sau khi
để hết tâm trí suy nghĩ và dựa theo ư
kiến của những người trợ thủ gần gũi của
ông, Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng,
ông Hồ đồng ư cho thi hành một biện pháp
dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân
dân. Ngày 4-9, Chính phủ cho đặt ra quỹ
Độc lập do Bộ trưởng tài chính Phạm Văn
Đồng chủ tŕ. Tuần lễ 16 đến 22 tháng 9
được mệnh danh là Tuần lễ Vàng, để cho
tất cả những người công dân yêu nước, kể
cả những người không phải gốc Việt Nam,
cũng sẽ quyên góp cho quỹ chi tiêu về
quốc pḥng. Hai tuần
lễ sau khi quốc gia mới ra đời, Chính
phủ đă kêu gọi quyên góp lập lại quỹ để
giúp cho đất nước có thể tồn tại.
Phạm Văn Đồng đă mở đầu Tuần lễ Vàng
bằng một lời kêu gọi về một sự đóng góp
cá nhân… Buổi quyên tiền đă được tổ chức
chu đáo trước
toà nhà Chính phủ… Với nhiều bàn phủ
trắng… micro..
âm nhạc… và
thỉnh thoảng có người lên kêu gọi… Nhiều
người Việt Nam khá giả, một số mặc áo
dài quan chức, tiến lên các bàn và đặc
đồ quyên góp lên trên…
Nhưng ngày đầu thực
không đáng phấn khởi.
Số đông quần chúng
chỉ đến xem mà không có quyên góp ǵ.
Cả ngày chỉ thu
được một khoản nhỏ mọn 100 kư vàng và
khoảng 5 vạn đồng bạc.
Ông Hồ vốn không hào hứng với ư kiến bắt
nhân dân phải đóng góp phần của cải
nghèo nàn của họ, đặc biệt là đối với
những người nghèo, để mua vũ khí; nhưng
đây là v́ đất nước đang ở trong một t́nh
trạng tuyệt vọng, và các cố vấn của ông
đă đảm bảo rằng đó là biện pháp duy
nhất. Sau buổi lễ
nghèo nàn đó, Đồng và Giáp đă thuyết
phục được ông Hồ là chỉ có lời kêu gọi
của ông mới phát động được quần chúng
nhân dân. Ông
Hồ đồng ư, nhưng với điều kiện là ông sẽ
không trực tiếp ra mắt, và cử Đồng thay
mặt đọc lời kêu gọi.
Thứ hai, 17-9, Đồng đọc lời kêu gọi của
ông Hồ, bắt dầu bằng câu “V́ mắc bận
không thể tới được, nên tôi gửi lời kêu
gọi đồng bào toàn quốc…”.
Giải thích việc quyên góp là cần thiết
“để chống lại những mưu mô xâm lược của
đế quốc Pháp”, ông Hồ nhấn mạnh ông kêu
gọi chủ yếu… các gia đ́nh khá giả. Về ư
nghĩa của Tuần lễ Vàng, ông nói “đây
không phải chỉ có nghĩa của một cuộc
quyên góp để phục vụ cho việc bảo vệ đất
nước, mà c̣n mang theo một ư nghĩa chính
trị quan trọng(4).
Có thể ông cũng ngầm
muốn nói rằng một khoản lớn của quỹ này
sẽ được dùng để thoả măn ḷng tham của
Trung Quốc.
Bức thông điệp của ông Hồ thế mà
ăn tiền. Suốt
trong 6 ngày tiếp
theo, hàng đoàn những người khá
giả và nông dân b́nh thường đă lũ lượt
đến đặt lên trên bàn các đồ quư giá gia
truyền của gia đ́nh họ: dây chuyền, đồng
hồ, ṿng, nhẫn, hoa tai bằng vàng bạc và
đá quư… Một tuần lễ sau, báo chí địa
phương công bố đă quyên góp được 129 kư
vàng và 1,5
triệu đồng. Báo chí
đánh giá đó là kết quả của một cuộc
quyên góp “hết sức hào hiệp”, nhưng tôi
cho là c̣n khiêm tốn nếu so với tiền của
những nhà giàu Việt Nam.
Tôi không có điều
kiện để xác định số tiền quyên góp được
là bao nhiêu và cũng chẳng biết được
Trung Quốc đă “lấy” bao nhiêu.
Về sau ông Hồ nói với tôi, “Tôi cảm thấy
như là một kẻ phản bội” trong khi cho
phép “diễn cái tṛ này”, khi thấy “mỗi
đồng xu” chạy vào túi người Tnmg Quốc,
và mặc dù ông kêu gọi những gia đ́nh
“khá giả”, nhưng thực tế đồ vàng bạc,
của tế nhuyễn… đều do những người nghèo
khó mang đến, c̣n các thương gia, địa
chủ giàu người Việt và Hoa lại chẳng góp
được bao nhiêu.
Sau khi rời Việt Nam, tôi được toán của
chúng tôi báo cho biết là khoản tiền thu
được lớn hơn rất nhiều so với khoản tiền
đă được công bố, và ít nhất cũng có tới
2/3 số đó đă chạy vào túi người Trung
Quốc qua con đường mua bán súng ống và
chạy chọt về chính trị. Điều đó đă được
Vơ Nguyên Giáp xác nhận vào năm 1975,
khi ông viết số tiền quyên được là “20
triệu đồng và 370 kư vàng”(5).
Vấn đề tài chính của
ông Hồ c̣n bị những t́nh h́nh khó khăn
làm cho phức tạp thêm. Quân Trung
Quốc tới, đầu tiên đă làm nảy nở nạn chợ
đen về thuốc lá Mỹ, bánh kẹo, quân
trang, vũ khí ngày càng bành trướng, đặc
biệt trong cộng đồng người Hoa. Một bao
thuốc lá Mỹ giá 16 đồng… Giá hối đoái 1
dollar Mỹ ăn 14 kim
viên nhưng giá chợ đen phải là 20 kim
viên. Người Trung Quốc mua 1 dollar bằng
200 kim viên.
Giá chính thức ở Trùng Khánh là 100
kim viên, ở
Côn Minh là 150 đến 175 kim viên.
Điều nổi bật ở thị trường tài chính
tháng 9 ở Hà Nội là t́m đổi tiền kim
viên Trung Quốc để lấy dollar Mỹ và đồng
bạc Đông Dương. Tuy rằng hành dinh của
tướng Lư Hán tỏ ra như không quan tâm ǵ
làm đến việc đổi chác tiền Trung Quốc
này nhưng Trùng Khánh th́ rất lo lắng.
Đă có lệnh cấm các nhân viên người Mỹ
không được đổi tiền kim viên, trừ trường
hợp được cơ quan tài chính Trung ương
cho phép, và tất cả người Mỹ trước khi
rời Trung Quốc bắt buộc phải kê khai và
gửi lại tiền dollar ở Trung Quốc. Điều
hạn chế này, cùng với tin đồn đại là
Trung Quốc sẽ quy định lại giá hối đoái
đă làm cho những người buôn tiền cảnh
giác và làm cho thị trường tiền tệ phải
chững lại, ít hoạt động trong một thời
gian.
Tuần lễ Vàng cũng đă
ảnh hưởng đến việc kinh doanh tiền tệ,
nhất là giá vàng đă hạ từ 1.900 xuống
1.500 một lạng. Người ta cho rằng
vàng mất giá là do người Trung Quốc tung
ra tin đồn Chính phủ Việt Nam sẽ tịch
thu vàng, hoặc để Chính phủ chi tiêu,
hoặc mệnh lệnh của Lư Hán để cung phụng
cho Thống đốc Long Vân.
Những đ̣i hỏi về tiền của người Trung
Quốc và Nhật, việc buôn bạc, và sự biến
động trong giá cả tiền tệ; tất cả những
cái đó đă tác động tai hại đến nền kinh
tế và tài chính Việt Nam.
Nhưng
Chính phủ của ông Hồ chỉ loạng choạng mà
không sụp đổ, chủ yếu nhờ cái quyết tâm
của nhiều người đă phục vụ sự nghiệp
công cộng mà không đ̣i hỏi tiền lương.
TẠI SAO NGƯỜI PHÁP
LẠI BỊ LOẠI TRỪ?
Vào ngày 13-9,
Sainteny lại đến kêu ca với tôi.
Ông không bằng ḷng
về “mối quan hệ hữu nghị không cần thiết
giữa người Nhật và người Trung Quốc”.
Điều làm ông không
chịu là việc Pháp bị gạt ra ngoài cuộc
thương lượng Trung - Nhật về vấn đề đầu
hàng. Cũng khá lạ là cuối ngày
hôm đó, tôi cũng nhận được một yêu sách
tương tự của ông Hồ. Một cảm giác nghi
ngờ đă nảy sinh một sách vô t́nh trong
các mối giao tiếp b́nh thường giữa người
đại diện các nước Đồng minh và Nhật.
Đúng là Sainteny đă không thể chấp nhận
sự việc là trong các điều khoản của Hội
nghị Postdam đă không ghi nhận có Pháp
trong cuộc thương lượng đầu hàng. C̣n về
phía ông Hồ, ông có ư kiến là “Chính phủ
thực tế” của ông cũng cần phải biết
tương lai của Việt Nam sẽ ra sao và
người Trung Quốc sẽ bày vẽ ra cái ǵ.
Theo ông Hồ, người Trung Quốc không
những gian lận mà c̣n phạm tội ác trong
việc nẫng tay trên các tài sản của Nhật,
mà ở đây tôi hiểu là vũ khí và các đồ
quân dụng, và đồng thời đă cho chở một
số lớn các kho lương thục và vật phẩm về
Trung Quốc.
Hai ngày sau, Salnteny đến gặp tôi lần
nữa để thảo luận việc tướng Lư Hán đến
trong ngày hôm trước và lại nêu vấn đề
Pháp tham gia vào việc đầu hàng của
Nhật. Tôi đă nói thẳng ra rằng tôi biết
không có kế hoạch cho người Pháp tham
gia vào việc giải giáp cũng như hồi
hương Nhật và cũng nhắc lại cho Sainteny
hay là trước khi chúng tôi rồi Côn Minh,
tôi đă được báo cho biết rơ là nhiệm vụ
nói trên đă chỉ được giao cho người Anh
ở miền Nam và người Trung Quốc ở miền
Bắc.
Sainteny tiếp tục nêu vấn đề và chất vấn
là người Pháp có c̣n được coi như là một
nước thành viên trong Đồng minh nữa
không. Tôi khẳng định là c̣n, nhưng nhận
xét là rơ ràng v́ lư do tiếp tế hậu cần
mà Pháp đă không tham gia vào chiến
tranh Thái B́nh Dương và tức là cũng đă
không tích cực tham gia vào cuộc chiến
tranh chống Nhật. Hơn nữa, theo hiệp
định Postdam, mà tướng De Gaulle và Bộ
Tổng tham mưu Pháp đă biết, th́ nhiệm vụ
giải quyết với Nhật ở Bắc Đông Dương đă
được đặc cách giao riêng cho Tưởng. Đúng
là người Pháp đă bị gạt ra ngoài, nhưng
cả người Mỹ, Anh và Hà Lan cũng thế.
Lời đáp thẳng thắn và trung thực này đối
với một câu hỏi đầy tính khiêu khích của
Sainteny đă bị nhiều nhà văn xuyên tạc
đi cho là người Mỹ đă “nhẫn tâm” và
“chống đối” và cũng đă có những hậu quả
lâu dài trong mối quan hệ Mỹ - Pháp(6).
Tôi biết rằng Sainteny chẳng thích thú
ǵ câu trả lời của tôi, và ông đă gây
cho tôi cái cảm giác là ông cho rằng
việc Pháp bị gạt ra ngoài là do lỗi tại
người Mỹ, và đặc biệt là do tôi.
Tôi đă không thể nào
làm khác được trong khi cả Paris,
Calcutta và Trùng Khánh cũng không tán
thành vai tṛ tự đặt cho ḿnh là đại
diện của nước Pháp ở Đông Dương của ông
ta. Đă nhiều lần ông ta thú nhận
với tôi, điều mà sau này ông đă viết
trong hồi kư(7)
- rằng ông hoàn toàn không nhận được
nhiệm vụ chính thức hoặc chỉ thị về Đông
Dương, và mặc dù ông đă nhiều lần kêu
gọi Trùng Khánh, Calcutta và Paris xác
định quy chế chính thức của ông ở Hà
Nội, nhưng ông đă chẳng bao giờ nhận
được trả lời và chức quyền mà ông mong
muốn.
Rơ ràng là Sainteny và bộ tham mưu của
ông đă nuôi dưỡng những t́nh cảm đối lập
mạnh mẽ đối với OSS và nước Mỹ, những
t́nh cảm mà từ 1945 đến 1954, qua những
ẩn ư và những lời nói cạnh, được truyền
tới các giới quan chức Paris (De Gaulle,
Messmer, Massu, Hoppenot…) như là một sự
“phản bội của Mỹ” đối với một “đồng minh
trung thành”(
8 ). Trong một số nhận xét của cơ quan
tham mưu của ông gửi cho người Pháp ở Hà
Nội, nhóm t́nh báo DGER đă gán tất cả
những sự rối ren của người Pháp ở Đông
Dương cho một âm mưu của Đồng minh nhằm
gạt Pháp ra khỏi Đông Dương. Những lời
giải thích ngược lại của tôi đều không
có giá trị.
Nhân việc có mặt Lư Hán ở Hà Nội,
Sainteny hỏi tôi Mỹ sẽ có phản ứng ǵ
trước cuộc điều đ́nh Pháp - Hoa để cho
quân đội của Alessandri trở lại Bắc Kỳ.
Tôi bảo ông rằng Hoa Kỳ chắc chắn sẽ
không có ǵ phản đối.
Đó là một vấn đề của
Trung Quốc. Tưởng có toàn quyền
hành động, c̣n người Mỹ,
theo quy
định, thuộc quyền chỉ huy quân sự của
ông. Tôi đảm bảo với Sainteny rằng nếu
Tưởng cho phép Wedemeyer dùng máy bay Mỹ
chở quân Pháp sang Bắc Kỳ, th́ Bộ chỉ
huy Mỹ sẽ thi hành.
Nhưng tôi nhấn mạnh đây phải là một sự
thoả thuận Pháp - Hoa giữa những người
cầm đầu các nước ở Paris, Washington và
Trùng Khánh.
Theo ư tôi, những cuộc dàn xếp ở địa
phương chỉ đầy cạm bẫy và trắc trở.
Sainteny không phải
không đồng ư với sự phân tích của tôi,
nhưng vẫn hy vọng cứu văn được sự rút
lui nhanh chóng một ḿnh của Pháp ở miền
Bắc, một công tác không có khả năng thực
hiện được.
Như là một thủ thuật
của ông gần đây, Sainteny kết thúc cuộc
viếng thăm bằng cách nêu thêm một khó
khăn. Ông ta
nói nhỏ cho biết, ông lo ngại người
Trung Quốc, nhất là người của Lư Hán,
xúi người Việt “bắt cóc” ông. Lư
do nêu ra là v́ ông đă hoạt động chống
Trung Quốc. Tôi cho
ông đă quá cường điệu, nhưng chúng tôi
cũng sẽ để ư giúp ông.
Đi sâu vào vấn đề nhận xét của Sainteny
chung quanh
cuộc thoả hiệp Pháp - Hoa, th́ ư kiến
của Sainteny về vấn đề bắt cóc tỏ ra là
phi lư.
Tôi xem nó chỉ như là một
mưu mô nhằm làm áp lực đối với chúng tôi
để đưa thêm quân Pháp tới, nhưng tôi
cũng báo cáo nỗi lo ngại của Sainteny
với Côn Minh và gợi ư cũng không nên coi
trọng vấn đề này cho đến khi có được
chứng cứ mới.
CUỘC ĐẤU ĐÁ - LƯ
HÁN CHỐNG LẠI QUỐC DÂN ĐẢNG TRUNG QUỐC
Nhiều
vấn đề nổi lên san khi Lư Hán tới đă làm
cho tôi gặp rất nhiều khó khăn trong vị
trí một sĩ quan chính trị cao cấp nhất ở
đây. Người Trung Quốc đến để giải giáp
quân Nhật, nhưng cho đến ngày 16-9 tôi
vẫn chưa moi được ở Lư Hán hay bộ tham
mưu của ông kế hoạch và thời hạn đế xúc
tiến việc đó. Trong khi người Nhật tiếp
tục giữ thái độ “bàng quan” của những
khán giả đă bị chinh phục, chờ đợi hảo
tâm của Đồng minh, th́ ba hoặc bốn ngàn
trong số họ đă biến đi theo phong trào
bí mật Liên Á. Những tin tức từ Sài G̣n
đă kích động mạnh tinh thần chiến đấu
của người Pháp, nhưng Lư Hán vẫn từ chối
đến cả việc nói chuyện với họ.
Người Việt Nam đang
đấu tranh đă đưa tất cả những sự tranh
chấp của họ lên sân khấu chính trị địa
phương. Mọi
vấn đề càng trở thành phức tạp ở Hà Nội.
Tôi nhẹ người khi được tin tướng
Gallegher đă lên đường sang Hà Nội.
Không phải v́ ông ta có thẩm quyền về
các vấn dề chính trị, nhưng v́ ít ra th́
ông cũng có cấp bậc để công tác thuận
lợi hơn với người Trung Quốc và người
Nhật. Nhiệm vụ của ông ta thuần tuư chỉ
là giúp cho tướng Lư Hán trong việc chấp
nhận sự đầu hàng và hồi hương quân Nhật
đă bị tước vũ khí.
Chiều 16-9, tôi đón ông ở sân bay, nhưng
ông đă làm tôi ngạc nhiên khi ông cho
hay là Trùng Khánh hỏi về việc tổ chức
buổi lễ tiếp nhận đầu hàng chính thức ở
Hà Nội. Vấn đề rắc
rối là ở chỗ vai tṛ của người Pháp và
sự có mặt của người đại diện ngoại giao
cấp cao nhất của Nhật, Thống chế bá tước
Terauchi lại ở Sài G̣n.
Quốc dân Đảng (Trung
Quốc) rất nhạy cảm với địa vị của Pháp
trong khối các nước Đồng minh và sự có
mặt của họ ở châu Á là việc Trung Quốc
hoàn toàn không thể không đếm xỉa tới.
Tổ chức ngày lễ đầu
hàng chính thức ở Hà Nội mà không có mặt
người Pháp tham dự có thể bị Paris coi
như là một sự xúc phạm và Tưởng rất
không muốn hứng chịu lấy điều nguy hiểm
đó.
Cũng c̣n có vấn đề
Tổng hành dinh Tập đoàn quân phương Nam
của Nhật ở Sài G̣n.
Tưởng c̣n đang bị
nhức nhối về vấn đề người Anh ở Hongkong
nên không muốn bị lôi kéo vào một cuộc
tranh chấp khác về pháp lư với người
Anh. Đúng ra, việc đầu hàng của
quân Nhật ở Đông Dương sẽ phải được
Térauchi, với tư cách Tư lệnh tối cao
của Nhật tiến hành, nhưng ông lại ở
trong chiến trường thuộc Mounbatten. Đă
có gợi ư là Téranchi đầu hàng với người
Anh theo đúng như quy định trong bản
Mệnh lệnh chung số 1 và cho phép
Tsuchihashi ở miền Bắc giao nộp vũ khí
cho người Trung Quốc và người Trung Quốc
sẽ phụ trách cả việc hồi hương quân Nhật
thuộc quyền Tsuchihashi ở phía bắc vĩ
tuyến 16. Về nguyên tắc th́ việc thu xếp
như thế cũng có thể chấp nhận được đối
với Trùng Khánh; Tưởng cũng có thể phải
thoả măn với một cuộc đầu hàng về mặt
“hành chính” và để cho Mounbatten tiến
hành buổi lễ chính thức của ông ta ở Sài
G̣n, mà ở đó th́ người Pháp chắc chắn sẽ
được tham dự. Nếu như thế, bản bị vong
lục của Trung Quốc gửi cho phái đoàn
Nhật ở Khai Viễn ngày 2-9 cũng đủ làm cơ
sở để cho xúc tiến công việc.
Nhưng Lư Hán bất
măn. Ông cảm
thấy ḿnh bị xếp xuống vai tṛ của một
người “quản lư hành chính” so với Trương
Phát Khuê, vốn được giao nhiệm vụ quân
sự tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật một
cách ầm ĩ ở Quảng Đông.
Lư Hán bị mất mặt.
Ông phản đối với
tướng Hà Ứng Khâm và khẩn khoản yêu cầu
phải tổ chức một buổi lễ chính thức ở Hà
Nội. Tướng Hà đồng ư nhận sẽ xem
xét đề nghị của Lư Hán nhằm để tránh
không phải xáo trộn kế hoạch nhằm gạt bỏ
Thống đốc Long Vân khỏi căn cứ địa của
ông ta ở Vân Nam.
Nhưng cho đến ngày 17-9, Hà Nội vẫn
không nhận được quyết định ǵ về vấn đề
này.
Thêm một vấn đề gay
cấn khác.
Tướng Gallagher nhận được chỉ thị của
Hành dinh Chiến trường, yêu cầu Lư Hán
cho máy bay chở tướng Alessandri tới Hà
Nội. Lư Hán
lại cực lực phản đối để cho Trùng Khánh
thấy rằng Alessandri chỉ có thể tới Hà
Nội nếu như buổi lễ tiếp nhận đầu hàng
được tổ chức tại đó. Lư Hán chưa
nhận được chỉ thị tổ chức buổi lễ nên
ông cho rằng không có lư do chính đáng
để Alessandri có mặt tại Hà Nội, nếu
không th́ việc đó chỉ kích động rối
loạn.
Gallagher báo cho Lư
Hán biết là mệnh lệnh của Trùng Khánh là
dứt khoát phải tôn trọng. Lư Hán
vẫn không lay
chuyển. Nhưng về sau, Gallagher đă cho
tôi hay là cũng đă
thu xếp được cho Alessandri và
một người Pháp khác được đi tới Hà Nội
vào ngày 19-9.
Gallagher và tôi đă thảo luận về việc
Alessandri có mặt ở Hà Nội và tôi đồng ư
với Lư Hán là việc đó gây ra nhiều vấn
đề, nhưng không phải như Lư Hán quan
niệm. Tôi nêu ra mối thâm thù đă có từ
lâu giữa Lư Hán và Alessandri, và lư do
để nghĩ rằng người Trung Quốc muốn ở lại
lâu dài chẳng qua cũng chỉ nhằm để cướp
đoạt đất nước này một cách triệt để và
có lợi nhất cho Long Vân. Nếu Alessandri
về trong lúc này, ông ta có thể kéo
theo số quân
Pháp ở Trung Quốc đi cùng hoặc từ Sài
G̣n ra, nhưng ông ta cũng có thể có ư đồ
xin giải thoát cho số tù binh hiện c̣n ở
trong Thành. Là một thủ lĩnh theo phái
De Gaulle, chắc chắn Alessandri sẽ có
mưu đồ cho xúc tiến nhanh việc Pháp
chiếm đóng lại Việt Nam và người Trung
Quốc phải rút sớm về nước, và như vậy là
trực tiếp chống đối lại với kế hoạch của
Lư Hán. Gallagher
cảm ơn về những nhận xét của tôi và nói
ông sẽ cảnh giác đối với các cuộc vận
động của Pháp.
Gallagher có hỏi về
vai tṛ của Sainteny, và tôi dă kể lại
các hoạt động của nhóm t́nh báo Pháp từ
khi chúng tôi tới Hà Nội.
Sainteny cũng đă yêu
cầu được gặp Gallagher và tôi đă khuyên
Gallagher không nên nhận lời trong lúc
này, tốt nhất nên chờ cho đến khi
Alessandri tới, tuy ông ta cũng chẳng có
chức vụ chính thức hoặc một chỉ thị
chính trị cơ bản nào của Paris.
Gallagher đă đồng ư.
MỘT CUỘC TRAO ĐỔI VÔ VỊ
Tôi báo cho Sainteny biết
tin Alessandri sẽ đáp máy bay tới Hà
Nội, và cơ quan DGER có được 2 ngày để
chuẩn bị bố trí đón.
Đoàn thể cộng đồng người Pháp trong một
trạng thái hết sức phấn chấn v́ họ biết
là tướng Alessandri sẽ đến để “nắm lại
t́nh h́nh”. Alessandri và Leon
Pignon(9) tới sân bay Gia Lâm, đúng vào
giữa lúc cuộc thương lượng ở miền Nam
tan vỡ, và Cédile đă có một cuộc họp báo
với một đường lối cứng rắn.
Họ đă được đưa nhanh
chóng về hành dinh của Sainteny mà không
ai hay.
Nhờ có việc
Alessandri và Pignon tới nên hoạt động
của nhóm Sainteny trước đây ở mức thấp
nay đă có một quy mô mới.
Thái độ ngoan cố của
Cédile và Gracey ở Sài G̣n đă gợi cho
Sainteny biết đây là lúc thuận lợi để mở
cuộc nói chuyện với Hồ Chí Minh.
Ông ta báo cho ông Hồ biết Pháp hoan
nghênh một cuộc hội nghị giữa ông Hồ và
một đại diện Pháp ở Ấn Độ. Ông Hồ đă từ
chối: ông không muốn gặp một người trung
gian mà phải là De Gaulle.
Alessandri đành phải
gác vấn đề đó lại sau. Ông thuyết
phục Đô đốc Thierry D'Argenlieu(10), Cao
uỷ Pháp đă được chỉ định cho Đông Dương,
lúc đó ở Calcutta, nên gặp một đại diện
của ông Hồ. Nhưng ông Hồ không được hỏi
ư kiến trước! Nên khi Alessandri báo cho
ông Hồ biết một lần nữa là D'Argenlieu
muốn gặp ông, ông Hồ vẫn cho rằng đó chỉ
là một cuộc hội nghị giữa Pháp và đại
diện của ông nên đă yêu cầu Cựu hoàng
Bảo Đại thay mặt cho ông.
Ngày 22-9, tôi cùng
với tướng Gallagher đến gặp ông Hồ v́
ông muốn hỏi ư kiến chúng tôi về đề nghị
gặp gỡ của Pháp.
Chúng tôi phát biểu,
tốt hơn hết là hai bên nên có một cuộc
nói chuyện trực tiếp với nhau, nếu ông
không đồng ư với những ǵ mà người Pháp
đề nghị th́ ông có quyền không chấp
nhận. Ông Hồ cho biết ông cũng đă
có trao đổi vấn đề này với tướng Lư Hán,
v́ cuộc gặp có liên quan đến việc đi lại
bằng máy bay mà chỉ Trung Quốc mới có
khả năng giải quyết vấn đề. Lư Hán tránh
mặt trong lúc này, nhưng cho biết ông ta
có thể thu
xếp cho một máy bay trong ṿng 10 hay 12
ngày. Gallagher và
tôi cho rằng cuộc gặp gỡ cũng chẳng có
hại ǵ và chắc ông Hồ sẽ chấp nhận.
Tôi nói thêm, nếu
Pháp thực hiện được lời mời đă được đưa
ra th́ điều đó cũng có thể coi như là
một dấu hiệu tỏ ra Pháp có ư định công
nhận chính phủ độc lập của Việt Nam.
Ông Hồ nắm lấy ư này
và quyết định thôi không cử người thay
mặt mà tự ḿnh sẽ đến hội nghị.
Nhưng ông sẽ chỉ tới gặp nếu như người
Pháp đồng ư hội họp ở Trung Quốc và có
một quan chức Mỹ tham gia như quan sát
viên.
Sau này, khi có những tin tức dữ dội về
vụ giết hại Dewey, tôi đến gặp ông Hồ,
và Hoàng Minh Giám đă kéo tôi ra một nói
để nói cho biết về câu chuyện Pháp mời
và cuộc gặp gỡ đă xảy ra. Giám, với danh
nghĩa Bộ trưởng Ngoại giao, đă nhận dược
một giác thư của Alessandri nói về một
cuộc gặp gỡ giữa “Pháp và dân An Nam do
đảng Quốc gia Cách mạng đại diện”. Bản
giác thư đă
chẳng nói ǵ đến cuộc gặp gỡ giữa ông Hồ
và D'Argenlieu, mà chỉ có hàm ư nói đến
việc ông Hồ được mời.
Giám rất lo lắng
trước sự mê muội không thể tưởng được
này của người Pháp. Ông cho rằng
người Pháp nếu không phải là láo xược
th́ cũng là đần độn, nên trong các tầng
lớp nhân dân, mới chọn một phần tử Việt
Nam Quốc dân Đảng đă chết rồi làm người
đại diện cho nhân dân Việt Nam. Nhưng dù
sao đi nữa th́ điều đó chỉ biểu thị sự
ngoan cố của Pháp trong việc từ chối
không chịu công nhận nền độc lập của
Việt Nam, khi họ đă không mời ông Hồ với
tư cách là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời
Cộng hoà Việt Nam tới dự họp.
Cuộc trao đổi vô vị
này đă làm cho ông Hồ, hơn bao giờ hết,
hoài nghi về sự thành thật và các ư đồ
của Pháp. Nó
cho ông thấy Pháp chỉ muốn lợi dụng ông,
chứ không quan tâm điều đ́nh một cách có
thiện chí. Ông Hồ đă coi như
không biết đến bản giác
thư, và mọi
kiểu điều đ́nh của Alessandri đă không
mang lại kết quả.
NHỮNG BỨC THƯ ỦY
NHIỆM KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN ĐUỢC
Những
tin tức về bản tuyên bố số 1 của Gracey
lan tới Hà Nội một cách hết sức nhanh
chóng và đă khuấy động t́nh cảm dân
chúng Pháp đến cao độ.
Chỉ có lời kêu gọi
mạnh mẽ của Alessandri với cộng đồng
người Pháp và tù binh ở trong Thành mới
có thể duy tŕ được t́nh h́nh không để
cho bùng nổ.
Tướng Lư Hán bực dọc và đă báo cho người
Pháp, tuy chưa được chính thức công nhận
là ông ta sẽ không cho phép người Pháp
biểu dương sự đồng t́nh với các đồng bào
của họ ở miền Nam.
Người Việt Nam, Cộng
sản cũng như chống Cộng vẫn giữ được
thái độ b́nh tĩnh đáng khen, nhưng cũng
rất cảnh giác.
Riêng chỉ có người
Nhật tỏ vẻ trung lập một cách trơ tráo.
Tối hôm đó, tôi gặp cán bộ của ông Hồ,
và cùng nhau kiểm lại t́nh h́nh trong
ngày. Qua câu
chuyện, tôi được biết ngày hôm trước ông
Hồ có nhận được một thông báo của hành
dinh tướng Mounbatten yêu cầu báo cáo về
quân số và vũ khí của quân đội Việt Nam.
Đối với yêu cầu phi lư và xấc xược này,
ông Hồ đă chỉ thị cho Chu Văn Tấn(11) từ
chối không báo cáo và chỉ thị cho Giám
gửi một bản phản đối chính thức với danh
nghĩa của Chính phủ Việt Nam cho
Mounbatten. Đêm đó,
21 - 22 tháng 9, cũng là một đêm vô cùng
khó khăn.
Trong ngày, Gracey đă tuyên bố thiết
quân luật ở miền Nam, và suốt đêm đă
diễn ra những hoạt động không b́nh
thường ở Hà Nội. Không xảy ra bạo
lực, nhưng đă có một loạt các hoạt động
khẩn trương chuẩn bị, hội họp và, ánh
đèn thâu đêm ở Bắc Bộ Phủ. Người Âu th́
đi lại giữa các nhà thủ lĩnh Pháp. Cảnh
sát Việt Nam được báo động, đă chặn hỏi
một số người Âu và người Việt, nhưng
cũng không có ai bị bắt giữ.
Sáng hôm sau, tướng
Alessandri đến gặp tướng Lư Hán để yêu
cầu được công nhận là đại diện của Ge
Gaulle ở Hà Nội. Lư Nán tiếp ông
ta ở nơi trước đây là dinh của vị Toàn
quyền Pháp, nhưng gần như chỉ một phút
sau, ông đă rút lui, để cho Tham mưu
trưởng của ông, tướng Mă, làm việc với
Alessandri. Tướng Mă giải thích là người
đại diện duy nhất được uỷ nhiệm đối với
Chính phủ Trung Quốc và người duy nhất
được tướng Lư Hán công nhận là người
phát ngôn của Chính phủ Pháp và viên Đại
sứ Pháp ở Trùng Khánh.
Để xoa dịu
Alessandri, Mă báo cho ông biết nhiệm vụ
của Lư Hán là giải giáp quân Nhật và các
công tác có liên quan.
Ông sẽ không dính
líu ǵ tới các vấn đề chính trị cũng như
các cuộc xung đột Pháp - Việt.
C̣n đối với người
Pháp ở Việt Nam, trong thời gian chiếm
đóng, họ sẽ được đối xử như những người
ngoại quốc khác.
Sự từ chối này là
một điều thất vọng cay đắng nhất cho
Alessandri, v́ ông vẫn bám lấy ư nghĩ
rằng người Pháp phải được coi như là
Đồng minh, chứ không phải là người nước
ngoài. Ngón
trả thù của Lư Hán thực sự là ngọt đậm.
Trong hoàn cảnh nhục
nhằn như vậy, Alessandri lại phải chịu
đựng một sự hạ ḿnh hơn nữa. Một
sĩ quan của Sainteny đă t́m gặp một sĩ
quan tham mưu Trung Quốc để yêu cầu cung
cấp nhà ở, nơi làm việc, máy chữ…
Yêu cầu đă bị khước
từ v́ “không được phép”.
Alessandri phản đối.
Người Trung Quốc trả lời là tướng Lư Hán
coi những yêu cầu đó là “không cần thiết
cho người Pháp ở Việt Nam”.
Sau việc người Trung Quốc ở Hà Nội từ
chối, không công nhận Alessandri và
Sainteny là quan chức đại diện của Pháp;
cả hai đă t́m gặp Gallagher.
Ông này rất có thiện
cảm nhưng cũng chẳng giúp đỡ được ǵ.
Một lần nữa, Alessandri lại thất vọng v́
ông vẫn mong đợi một sự ủng hộ nào đó
của Mỹ. Sau cùng, Sainteny lại t́m đến
tôi để nhờ giúp đỡ về các mặt quản trị
hành chính. Nhưng
tôi cũng chịu thua v́ không có chỉ thị
nói phải giúp cho Pháp thiết lập một
hành dinh của Pháp ở Việt Nam.
Sau này, Gallagher
cho biết Sainteny yêu cầu cho một chuyến
bay để ông ta về Côn Minh và Gallagher
đă hứa giải quyết.
Ông hỏi ư kiến tôi.
Tôi nói rằng, mặc dù chiến dịch chống Mỹ
của Sainteny đă gây ra tai hại cho chúng
ta, tôi vẫn muốn khuyên ông ta ở Hà Nội
hơn là ở Trùng Khánh hay Calcutta; v́ ở
đó nhất định ông ta sẽ tiếp tục báo cáo
láo về t́nh h́nh Hà Nội và phá hoại uy
tín của Mỹ. Nhưng nếu như Gallagher tán
thành đề nghị của ông ta và để ông ta
đi, th́ ông ta cũng sẽ không đặt ra vấn
đề ǵ phản đối với OSS Côn Minh.
MỘT SỰ THỎA THUẬN NGẦM
Ngày nhục nhă cho Alessandri
và Sainteny cũng là một ngày đầy rẫy lo
phiền cho người Việt Nam: điện báo từ
Sài G̣n đưa ra tin Gracey đă cho chiếm
Khám Lớn và thả bọn lính dù của Cedile;
sau đó lại có tin số tù binh được thả ra
tấn công bừa băi vào người Việt Nam,
trên các đường phố Sài G̣n.
Ông Hồ sợ rằng người Trung Quốc có thể
theo gương
của Gracey ở Sài G̣n, nên ngay chiều hôm
đó ông đă gặp tướng Lư Hán.
Cuộc gặp gỡ tỏ ra
hết sức hữu nghị. Lư Hán nói với
ông Hồ về cuộc viếng thăm trước đó của
Alessandri và lời từ chối của cá nhân
ông không công nhận những người Pháp ở
Việt Nam làm đại diện chính thức cho
nước Pháp và đă không ấn định quy chế
chính thức cho họ.
Ông Hồ nêu vấn đề bản Tuyên bố số 1 của
Gracey và tŕnh bày mong muốn của ông
thấy không cần thiết phải áp dụng những
biện pháp tương tự ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Lư Hán đảm bảo với ông không có ǵ phải
lo ngại đối với việc người Trung Quốc
can thiệp vào việc điều hành công tác
chính quyền, nhưng chỉ với một điều
kiện: Trung Quốc sẽ phải can thiệp nếu
như chính quyền của ông Hồ tỏ ra có dấu
hiệu yếu đuối hoặc bất lực, không đối
phó được với việc duy tŕ trật tự trên
mọi lĩnh vực. Ông Hồ đảm bảo với Lư Hán
là ông có thể nắm chắc được t́nh h́nh,
dù cho có thể có những trở ngại nhỏ của
một số ít người Việt “Quốc gia quá hăng
hái”. Tất nhiên ở đây, có thể mỗi người
hiểu theo một
phách. Lư Hán đồng ư sẽ cho xúc tiến sự
ủng hộ “nhiều hơn nữa”.
Tối hôm đó, ông Hồ khẳng định với tôi là
ông đă yên tâm nhiều qua lời đảm bảo
không can thiệp của Lư Hán. Tuy vậy, ông
vẫn c̣n rất lo ngại đối với t́nh h́nh
Nam Kỳ. Ông được biết Leclerc đang trên
đường sang Việt Nam cùng với tàu bè và
vũ khí của Đồng minh.
Ông hỏi tôi tin tức
đó có xác thực không.
Tôi nói tôi không
rơ. Nhưng có một việc theo quan
điểm của tôi th́ hành động của người Anh
và thái độ tự tin của người Pháp ở Sài
G̣n cho thấy có khả năng có lực lượng
viễn chinh Pháp đang đổ bộ vào vùng đồng
bằng (Nam Bộ). Rơ ràng trong khi chúng
tôi nói chuyện với nhau, chẳng một ai đă
h́nh dung dược việc Cédile cho làm cú
đảo chính và chỉ ngày hôm sau đă thấy
Chính phủ Việt Nam bị bật ra khỏi Sài
G̣n, dân chúng bị tấn công ác liệt trên
đường phố và nhiều nạn nhân bị bắt bớ
hàng loạt.
Trong t́nh trạng báo động về những sụ
việc đang tiến triển đó, Côn Minh cũng
chẳng báo cho tôi biết chút tiến bộ ǵ
trong kế hoạch chuẩn bị cho việc đầu
hàng, nên tôi lại phải đến bàn với
Gallagher. Ông cũng chẳng được tin ǵ
của Trùng Khánh, nhưng cho rằng cuộc
điều đ́nh Pháp - Hoa c̣n đang tiếp diễn
và Trùng Khánh chưa muốn cho xúc tiến
ngay việc chiếm đóng của Trung Quốc cho
đến khi lừa được người Pháp phải chấp
nhận các vấn đề đă được đặt ra.
Lư Hán th́ lại không hài ḷng về việc
Trùng Khanh cứ tiếp tục im lặng và đă
báo cho Gallagher biết: nếu đến ngày
25-9 mà ông không nhận được chỉ thị ǵ
th́ ông ta sẽ tự hành động
theo ư kiến
riêng của ḿnh. Ông không quên việc
tướng Tsuchihashi cùng với các điều
khoản về đầu hàng đă được ấn định ở Khai
Viễn, người Nhật đă kư vào đó trước sự
hiện diện của người Mỹ, cho nên chỉ c̣n
có việc cho xúc tiến thi hành các điều
khoản nói trên.
Nhưng cuối cùng, ngày 24, tôi đă được
Gallagher cho biết Lư Hán đă được tướng
Hà Ứng Khâm cho chính thức tổ chức buổi
lễ đầu hàng. Cùng
ngày, tôi cũng nhận được một thiếp bằng
chữ Trung Quốc mời tới dự buổi lễ, với
tư cách là một “vị khách đặc biệt của
Chính phủ Trung Quốc”.
KẾ HOẠCH ĐỀ PH̉NG BẤT TRẮC CỦA
ÔNG HỒ
Cú của Cédile ở Sài G̣n đă làm bật ra
một tinh thần đoàn kết dân tộc mới giữa
những người Việt Nam. Mọi phe phái đă
nhất loạt gạt các bất đồng sang một bên
để đi theo
Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống lại
người Pháp. Những người Thiên Chúa giáo
ở Hà Nội có kế hoạch tổ chức một cuộc
mít ting để ủng hộ chương tŕnh giành
độc lập dân tộc của Việt Minh vào ngày
23-9, nhưng t́nh cờ cũng đúng vào ngày
hôm đó, tin tức về cú của Cédile lan tới
Hà Nội. Cuộc mít ting tự nhiên đă chuyển
thành cuộc biểu t́nh của người Công giáo
phản đối sự ngoan cố của Anh - Pháp và
ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Giám
mục người Việt J.B. Ṭng(12) thay mặt
những người Công giáo Việt Nam gửi một
bức thủ cho Giáo hoàng yêu cầu ban phúc
lành và đọc kinh cầu nguyện cho nền độc
lập dân tộc của Việt Nam.
Tôi thực không thể xác định được cuộc
biểu t́nh của Công giáo ủng hộ những
người Cộng sản đó là chân thật hay chỉ
là một sụ bày đặt. Nhưng rơ ràng là tôi
không thể t́m thấy một dấu hiệu ǵ là họ
chống lại ông Hồ. Tôi xúc động sâu sắc
trước thái độ biểu thị sự ủng hộ của họ
đối với sự nghiệp độc lập dân tộc, và
đặc biệt là sự trung thành tuyệt đối của
họ đối với ông Hồ. Trong những người
Công giáo đang xuống đường, không có vấn
đề bàn căi về chủ nghĩa Cộng sản, chủ
nghĩa Xă hội, hay một “chủ nghĩa” nào
khác. Vấn đề là độc lập dân tộc và tự do
thoát khỏi ách thống trị nước ngoài. Qua
việc ủng hộ phong trào Việt Minh, lănh
đạo Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam
muốn tách ḿnh và giáo hội ra khỏi một
thực tế lịch sử là họ đă làm công cụ cho
việc thiết lập và nuôi dưỡng chế độ
thuộc địa Pháp ở Đông Dương.
Việt Minh đă hoan nghênh sự ủng hộ đó,
tất nhiên không phải v́ triết lư tôn
giáo, mà v́ 2 triệu giáo dân cùng với
1.500 cha cố của họ, trong lúc này ít ra
th́ cũng không phải là một lực lượng đối
lập. Ông Hồ đă hết sức thận trọng tránh
không để xảy ra có bè phái về chính trị
và bao giờ cũng nhấn mạnh vào tính chất
mặt trận dân tộc rộng răi của Chính phủ.
Ông đă đặt một người Công giáo, Nguyễn
Mạnh Hà, làm Bộ trưởng Kinh tế trong
chính phủ đầu tiên của ông, và ông đă
hoan nghênh sự ủng hộ cá nhân của những
người Công giáo nổi tiếng như Ngô Tử Hạ,
một chủ nhà in lớn giàu có, và Giám mục
Ngô Đ́nh Thục, anh của Ngô Đ́nh Diệm.
Khi tin tức về những sự việc tồi tệ ở
Sài G̣n lan đến Hà Nội, người ta đă vây
kín cả phái đoàn OSS chúng tôi; nào là
các phóng viên báo chí địa phương và
ngoại quốc, nào là các viên chức của
chính phủ ông Hồ, của cơ quan tham mưu
Lư Hán và người của nhóm Alessandri,
Sainteny. Ai cũng muốn biết tin tức về
những ǵ đă xảy ra hoặc xác định các tin
tức do đài phát thanh đưa ra.
Knapp nghe được một
tin đồn là ông Hồ đă có ư định nghiêm
chỉnh đưa những người Quốc gia thân
Trung Quốc vào Chính phủ. Chúng
tôi đă phỏng đoán nhiều về điều đó và
được báo cáo là các đảng phái thân Trung
Quốc đă thu được nhiều thắng lợi ở các
địa phương khác ở miền Bắc, nhờ vào sự
giúp đỡ mạnh mẽ của Trung Quốc như ở
Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và Hải
Pḥng. Tin đồn quan
trọng nhất là ông Hồ đă chịu xuống nước
để nhường chỗ cho Nguyễn Hải Thần, người
được Tiêu Văn đỡ đầu. Các nguồn
tin thân cận với ông Hồ lại cho rằng
Việt Minh sẽ không phản đối Thần, và chỉ
giữ lại những Bộ quan trọng trong nội
các và ông Hồ sẽ đồng ư làm Phó chủ
tịch. Tôi đă đoán rằng Việt Minh cũng có
thể chấp nhận một sự hợp nhất như vậy
cốt để tên lănh tụ bù nh́n Trung Quốc có
thể cứu trợ về tài chính cho Chính phủ
đang bị phá sản và Nguyễn Hải Thần bất
lúc cũng có thể là một kẻ kém nhất trong
số bọn đang quấy nhiễu ông Hồ. Hơn nữa,
một sự thoả hiệp như vậy, chắc chắn sẽ
làm thoả măn được những yêu sách của các
viên tướng Trung Quốc đối với số tay
chân Việt Nam của họ.
Nhưng, lập luận của
tôi đă hoàn toàn sai.
Chiều hôm đó, ông Hồ
báo cho tôi biết ông muốn mời tôi đến
dùng cơm tối, khá trễ, khoảng 9 giờ.
Tôi biết ông bận rộn
suốt ngày nên cái giờ muộn mằn không
b́nh thường này làm tôi ngạc nhiên, Và
tôi đoán trước rằng ông có vấn đề quan
trọng ǵ muốn nói. Tôi đến ngay
và thấy ở đấy đă có nhiều người trong
ban tham mưu thân tín của ông, có cả
viên giám đốc cảnh sát. Họ cũng đến
ăn cơm cùng
chúng tôi.
Tất nhiên, câu
chuyện chính vẫn là t́nh h́nh Nam Bộ và
ảnh hưởng của nó.
Lần đầu tiên người
Việt Nam tiết lộ cho tôi biết mối quan
tâm của họ đối với các cuộc hành quân
xâm lược của Anh - Pháp vào đất Lào, ở
Vientiane và Savanakhet. Qua hoạt
động của OSS chúng
tôi(13), tôi biết đó là hoạt động
của lực lượng hỗn hợp Anh - Pháp 136
thuộc cơ quan t́nh báo Anh SOE.
Ông Hồ rất quan tâm
và nêu ra ư kiến là quân đội Pháp của
Leclerc có ư đồ muốn xâm nhập vào miền
Bắc Việt Nam thông qua vùng cạnh sườn
này. Ông đă ra lệnh cho tướng Chu
Văn Tấn tăng thêm lực lượng cho khu vực
phía nam dọc theo
sông Mekong và xử tử tất cả những người
Việt nào ăn tiền để làm tay sai cho
Pháp. Có lúc, ông Hồ đă đến mức phải nói
là một “cuộc chiến tranh không tuyên bố”
đă bắt đầu giữa Pháp và Việt Nam, và
“cuộc xung đột công khai cũng không c̣n
xa xôi nữa”.
Dần dần trong bữa
ăn, tôi mới biết được những tin tức khá
sửng sốt. Với
một giọng kín đáo, ông Hồ tiết lộ cho
biết nhân dân ông đang “triển khai kế
hoạch hoạt động chuẩn bị cho một cuộc
chiến tranh lâu dài chống người Pháp”.
Một cách b́nh thường, ông nêu ra ư kiến
là một “chính phủ bù nh́n Trung Quốc tạm
quyền” cũng có thể chấp nhận được. Điều
đó sẽ cho phép ông và Các trợ thủ chủ
yếu của ông “rút lui vào bưng biền để
lănh đạo cuộc đấu tranh”, trong khi đó
th́ một người, như Thần chẳng hạn, cùng
một số ít Việt Minh tiêu biểu sẽ ở lại
trong một chính phủ do Trung Quốc đỡ đầu
ở Hà Nội.
Kế hoạch của ông một
tên trúng hai đích. Nó vừa có thể
duy tŕ được sự ủng hộ của người Trung
Quốc và tức là của Đồng minh; vừa lại
cho phép ông Hồ và Việt Minh được tự do
hành động để đánh Pháp mà không gây
thiệt hại cho công cuộc đấu tranh giành
độc lập của Việt Minh. Tôi mạnh dạn hỏi
xem việc ông vắng mặt ở Hà Nội có lànm
cho dân chúng mất tinh thần và làm suy
yếu phong trào quần chúng
theo ông
không? Lần đầu tiên
trong tối hôm đó ông mỉm cười, trả lời
không có ǵ phải sợ. Ông đảm bảo
với tôi rằng ông được nhân dân tín nhiệm
tuyệt đối, bất kỳ họ có xu hướng chính
trị nào, và ông chắc rằng họ sẽ hoàn
toàn đi theo
ông v́ nguyện vọng độc lập dân tộc.
Bất chợt, với một
chút hài hước, ông thêm “ngay cả người
Công giáo”; lúc đó tôi cũng phải cười.
Phải chăng điều đó
có nghĩa là Chính phủ mới đă từ bỏ
chương tŕnh cải tạo xă hội chủ nghĩa
của họ, cũng như về mặt h́nh thức của
Chính phủ?
Ông
Hồ cho rằng mọi người sẽ vui ḷng chờ
đợi cho đến khi người Nhật, Trung Quốc
và người Pháp rời khỏi đất nước.
Câu chuyện lại chuyển
sang về vấn đề người Pháp, và ông đưa ra
ư kiến muốn kiểm soát chặt chẽ hơn nữa
số dân chúng Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Ông hỏi ư kiến tôi về biện pháp cho tập
trung người Pháp lại trong những khu vục
xa các điểm dân cư đông đúc. Tôi không
ngờ ông đă có ư nghĩ này và cho rằng ông
muốn dùng người Pháp làm con tin nếu như
Leclerc tiến quân ra Bắc. Tôi nói đó sẽ
là một biện pháp quyết liệt, không phải
chỉ về mặt chính trị, mà c̣n cả về mặt
tổ chức hậu cần. Sẽ
đẻ ra vấn đề tập trung người, vận
chuyển, lán trại, tiếp tế và canh gác.
Mà điều này lại phải
giải quyết cho không những chỉ đàn ông
mà c̣n đàn bà, trẻ em, trẻ và già.
“Đúng như vậy”, ông
nói, “người Pháp đă làm những cái đó cho
người Việt trong nhiều năm rồi, và chúng
tôi cũng học tập được họ”. Tôi
đưa ra lư do là người Pháp sẽ không chấp
nhận bất kỳ một h́nh thức tập trung nào
một cách tự nguyện và do đó sẽ phải cần
đến lực lượng quân sự. Ông đồng ư, nhưng
nói thêm một cách gượng gạo: “chúng tôi
cũng có đủ nhân lực cần thiết cho việc
bảo vệ họ”.
Điều làm cho tôi lo
ngại là h́nh như ông Hồ nói về kế hoạch
tập trung của ông một cách hoàn toàn
nghiêm chỉnh.
Tôi gợi ư ông nên xem lại kế hoạch đó và
có thể cần phải trao đổi với tướng Lư
Hán và tướng Gallagher để tranh thủ ư
kiến của Trùng Khánh.
Tôi nói tôi không
đồng ư vấn đề này v́ tôi chắc chắn rằng
nó sẽ chỉ mang lại sự chống đối về chính
trị và ngoại giao có hại cho sự nghiệp
của Việt Nam.
Ông Hồ hứa sẽ xem xét lại.
Những lời đảm bảo cá nhân của Lư Hán
cũng như sự thống nhất đoàn kết về chính
trị mới đạt được đă cổ vũ rất nhiều cho
ông Hồ, nhưng ông vẫn trao đổi với tôi
điều làm ông lo lắng rất nhiều là việc
thiếu giao thông liên lạc giữa Tổng hành
dinh của ông và Lâm uỷ Nam Bộ, Giàu,
Bạch và Việt(14),
đại diện của Trung ương, hoặc đă không
nhận đọc chỉ thị của ông.
Dù sao đi nữa, ông
Hồ cảm thấy ḿnh bất lực trong việc tác
động đến t́nh h́nh của miền Nam.
Cả ngày hôm đó, ông
Hồ và Ban thường vụ bị mắc vào các cuộc
hội nghị với người Trung Quốc và với các
lănh tụ Quốc gia thân Trung Quốc.
Các chỉ thị về kháng chiến, quan trọng
hơn nữa là các chỉ thị cá nhân của Trung
ương gửi cho Lâm uỷ Nam Bộ chỉ được gửi
tới chỗ Giàu và Bạch kèm theo những chỉ
dẫn riêng của ông Hồ.
Trước khi tôi ra về, ông Hồ kéo tôi ra
bên cạnh và hỏi tôi xem có đúng là có
tin tôi sắp phải rời khỏi Hà Nội không.
Tôi trả lời đúng và giải thích là phái
đoàn t́nh báo của chúng tôi sắp hết
nhiệm vụ và tôi không c̣n lư do ǵ để ở
lại. Ông muốn biết
xem có những người Mỹ khác đến tiếp với
OSS không. Tôi cho ông hay là
chắc Bộ ngoại giao sẽ đặt một toà lănh
sự và một tổ chức ngoại giao nào đó.
Ông tỏ ư tiếc thấy
đoàn OSS phải ra đi, nói trắng ông rất
hiểu và thực tế, đă dự kiến trước sự kết
thúc mối quan hệ giữa chúng tôi.
Khi chúng tôi tiến
ra cửa, ông Hồ nói, “Tôi có thư chính
thức muốn gửi đến Tổng thống Truman”.
Tôi không nhận và
nhă nhặn gợi ư ông nên chuyển cho tướng
Gallagher cho hợp thức hơn.
Ông Hồ mỉm cười,
“đường nghi thức ngoại giao đă bắt đầu
rồi đấy”.
Chúng tôi chào tạm biệt và tôi trở lại
biệt thự. Tôi hỏi không rơ ông Hồ
có chuyển bức thư
cho Gallagher không.
Tôi được báo cáo là Giám và Giáp đă gặp
Tiêu Văn và Nguyễn Hải Thần, bàn về việc
có thể hợp nhất tổ chức với các đảng
phái Quốc gia, một nước đi hoàn toàn
theo đường lối của ông Hồ mà ông đă tiết
lộ ra là mong muốn lập ra một Chính phủ
bù nh́n dưới sự bảo trợ của Trung Quốc.
Nhưng dù sao th́ hoạt động không b́nh
thường ở Bắc Bộ phủ và dinh Toàn quyền
cũng đă kéo đến khuya, rất khuya trong
đêm đó, sau khi tôi đă trở về nhà
Ganthier.
Trưa ngày hôm sau, Gallagher mang
thư của ông
Hồ gửi Truman đến gặp tôi và nhờ tôi
chuyển cho Bộ ngoại giao. Tôi bảo với
Gallagher là tôi không thể gửi thẳng bức
thư cho
Washington, mà phải qua Đại sứ Hurley ở
Trùng Khánh.
Gallagher nhắc tôi là đại sứ Hurley đă
về Washington từ hôm trước.
Tôi nói viên đại
biện có thể phụ trách việc này và chúng
tôi đă điện cho Trùng Khánh.
Bức thư viết:
“Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, Cộng hoà
Việt Nam
Gửi Tổng thống Hoa Kỳ, Washington
Chúng tôi xin trân trọng báo để cho Ngài
rơ về những biện pháp sau đây của Tổng
tư lệnh vác lực lượng quân Anh đă tiến
hành ở miền Nam Việt Nam:
Một, cấm các báo chí;
Hai, cung cấp vũ khí và đạn dược cho dân
chúng Pháp;
Ba, tước vũ khí các lực lượng cảnh sát
Việt Nam;
Các biện pháp này là một sự vi phạm rơ
ràng đến những quyền tự nhiên của nhân
dân Việt Nam, đe doạ trực tiếp nền an
ninh trong nước, và là nhân tố làm mất
ổn định và hoà b́nh ở Đông Nam Á.
Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Việt Nam
phản đối mạnh mẽ và yêu cầu Ngài can
thiệp với các nhà chức trách Anh băi bỏ
các biện pháp nói trên.
Chúng tôi sẽ rất biết ơn Ngài thuyết
phục người Anh đứng vững trên cơ sở các
nguyên tắc tự do và tự quyết do Hiến
chương Đại Tây Dương đề ra.
Kính
Hồ Chí Minh”
HÀ NỘI - CỬA NGƠ CỦA PHƯƠNG
ĐÔNG
Bây giờ Sainteny “t́m được”
tướng Gallagher nên đă “bỏ rơi” tôi,
nhưng Gallagher lại chỉ làm việc với ông
ta qua cơ quan tham mưu của ông.
Sáng hôm đó,
Sainteny đến cơ quan của Gallagher với
câu chuyện một “cuộc nổi loạn của dân An
Nam chống Pháp đang đe doạ nổ ra”.
Ông rất lo lắng v́ chỉ “đêm nay hay ngày
mai”, “bọn đầy tớ bản xứ có thể bỏ thuốc
độc hoặc tấn công người Pháp tại nhà”;
và Việt Minh đă chỉ thị cho nhân viên
của họ “chuẩn bị sẵn sàng để tiêu diệt
tất cả người Pháp”.
Tôi kể lại cho Gallagher nghe nội dung
của cuộc gặp gỡ của tôi với ông Hồ tối
hôm trườc, và ư kiến của tôi cho rằng,
mặc dù kế hoạch của ông Hồ vẫn c̣n giữ
kín, sự lo sợ của Sainteny, như thường
lệ, tuy gây xúc động mạnh, nhưng vẫn
không có căn cứ. Tôi
cho rằng nếu như người Pháp không chủ
động gây hấn trước th́ Việt Minh ở miền
Bắc chắc sẽ không có hành động chống lại
họ. Kết luận của tôi có căn cứ
vững vàng dựa trên mong muốn của ông Hồ
muốn ngăn ngừa đổ máu và ra mắt Đồng
minh với h́nh ảnh của một Chính phủ có
trách nhiệm. Tôi
nghĩ rằng ông Hồ muốn duy tŕ sự kiểm
soát của chính phủ ở Hà Nội càng lâu
càng tốt, ngay cả khi phải có một cái
“b́nh phong thân Trung Quốc”. Nếu
Việt Minh xúc tiến một hành động chặn
trước, ông Hồ biết rằng Lư Hán sẽ không
ngồi yên, mà sẽ dùng lực lượng quân sự
để đàn áp mọi cuộc gây rối trật tự, và
như thế, địa vị người quản lư chủ yếu ở
miền Bắc của ông Hồ sẽ bị sụp đổ.
Buổi sáng c̣n thanh thản, nhưng buổi
chiều th́ tin tức từ Sài G̣n đến tới tấp
qua các báo cáo khẩn cấp, thông báo đặc
biệt: “cháy lớn”, “nổi loạn”, “bắn
súng”, “bắt bớ”, “bắt cóc”…; nên ở Hà
Nội đă có một số triệu chứng hoang mang.
Một vài gia đ́nh Pháp sơ tán, nhiều hàng
hoá quư giá biến khỏi cửa hiệu,…
Các Bộ Quốc pḥng và
Tuyên truyền cho chuyển hồ sơ tài liệu
và khí tài thông tin về các địa điểm bí
mật. Các cơ quan khác của Chính
phủ cũng nhanh chóng chuyển đồ đạc trên
những xe
riêng hoặc xe tải chạy bằng dầu.
Cuối buổi chiều hôm
đó, chúng tôi cho rằng tuy có những
chuyện hốt hoảng, nhưng thực sụ chưa
phải là hoang mang hoặc đă có cuộc sơ
tán lớn. Đến
nửa đêm, t́nh h́nh trở lại yên tĩnh, và
hôm sau thành phố lại có vẻ như b́nh
thường.
Việc đầu tiên tôi phải làm ngay sáng sớm
hôm sau, 25-9, là xác định xem Chính phủ
của ông Hồ c̣n có ở Bắc Bộ phủ không.
Chính phủ vẫn c̣n
đó. Người đầu
tiên tôi gặp là Trần Huy Liệu.
Tôi chưa kịp hỏi th́ ông đă cho tôi hay
là Bạch ra lệnh Tổng băi công ở Sài G̣n
và Trần Văn Giàu sẽ phong toả Sài G̣n
cho đến khi người Anh phải trao trả lại
chính quyền cho Lâm uỷ. Nhưng ông ngừng,
và với cái nh́n hóm hỉnh, ông chuyển
sang hỏi có phải tôi đă
thu xếp “giấy
đi đường” cho Sainteny không. Ông mới
được biết tin người đồng nghiệp Pháp của
chúng ta đang trên đường về Côn Minh.
Quả là như vậy, Sainteny đă có kế hoạch
rời Hà Nội vào chuyến bay 9 giờ, nói là
đă kết thúc công tác của M.5 ở đây.
Liệu và tôi cùng đến
cơ quan của Giảm. Ở đó đă nhận
được các tin tức về cuộc thảm sát ở khu
cư xá Cité Hérault.
Giám hết sức kinh hoàng. Lúc đó
tôi chưa được biết tin ǵ, v́ chưa tới 8
giờ sáng, mà tôi cũng chưa xem các điện
báo ban đêm.
Liệu đă nhanh chóng
báo cáo tóm tắt. Giám đảm bảo với
tôi là Hồ Chủ tịch rất xúc động và giận
dữ, và mong tôi hiểu rằng Việt Minh đă
không hề chỉ đạo, cũng như không hề tham
gia vào hành động tàn ác đó.
Liệu nghi đó có thể
là hành dộng của một trong các phái
chống Việt Minh nhằm làm mất uy tín
chính quyền Phạm Văn Bạch và gây khó
khăn cho những người Cộng sản.
Người đọc chắc c̣n nhớ là sau lúc đó mới
biết B́nh Xuyên đă gây ra vụ này, mà
động cơ chính là “tội ác cướp bóc” và
không bao giờ t́m thấy được những lư do
chính trị dù là nhỏ nhất. Nhưng sau này,
người ta cũng không sao có thể biết được
ai đă xúi giục gây ra cuộc thảm sát này
hoặc nên kết tội ai.
Trong ngày, t́nh
h́nh căng thẳng thêm. Sainteny đă
đi, nhưng toán “tuyên truyền” của ông ta
đă xuất hiện, ra sức động viên tinh thần
người Pháp, với những tin Leclerc chỉ
vài ngày nữa sẽ tới bờ biển Đông Dương;
Pháp đă tranh thủ được sự đồng t́nh của
chính phủ Trung Quốc cho hạm đội Pháp đổ
bộ vào Hải Pḥng; ở miền Nam, Anh đă ra
lệnh cho Nhật quét sạch du kích Việt Nam
ở Nam Kỳ, đặc biệt trong vùng Sài G̣n -
Chợ Lớn. Cộng đồng người Pháp ở đây đă
tin những câu chuyện này hoàn toàn là
thật. Người Việt
Nam, ngoài giới chính quyền tuy không
chấp nhận hoàn toàn, nhưng cũng thấy đầy
nguy hiểm.
Người Trung Quốc nghe ngóng và cố muốn
biết sự thật đến đâu và Pháp bịa đặt ra
đến đâu. Những người bạn Pháp của
chúng rơ ràng cũng không lơ là trong
cuộc vận động chống Mỹ của họ, và có khi
c̣n gia tăng thêm sau cú của Cédile.
Tôi đă điện cho
Heppner ngay trong buổi Sainteny đi Côn
Minh để Heppner biết và bàn với Sainteny
xem có thể làm việc ǵ không để kiềm chế
bớt những người của họ lại.
Hà Nội đă trở thành
một cái ǵ giống như một trung tâm của
những cuộc vận động quốc tế ngầm và bí
ẩn. Các nhà báo Mỹ, Anh, Pháp,
Trung Quốc, Hà Lan, Ấn Độ và Liên Xô đua
nhau kéo tới thành phố. Một cuộc chiến
tranh mới đang h́nh thành ở miền Nam và
Hà Nội là địa điểm khá yên ổn mà ở đó
người ta có thể quan sát và
thu nhặt được
nhiều tin tức và dư luận. Nhưng đó cũng
là một trung tâm quyền lực của người
Pháp, Trung Quốc, Việt, Nhật, Nga và Mỹ.
Khi đài Sài G̣n phát đi những tin tức về
mệnh lệnh của Gracey cho người Nhật “bắn
vào người Việt Nam” th́ ai cũng căm
phẫn, và người Việt ở tất cả các xu
hướng chính trị đều cảm thấy bị de doạ.
Người Nhật nhận thấy
ngay một làn sóng căm thù họ trỗi dậy ở
người Việt, và họ cho là họ bị oan trong
vai tṛ của những người đao phủ mới.
Người Pháp lại mưu
toan hợp lư hoá bản mệnh lệnh của Anh và
nói đó chỉ là một lời đe doạ chứ không
phải là điều để thi hành.
Những người Nga tôi
quen th́ cho đó thực sự là vô nhân đạo
và dồn dập nhờ tôi chuyển các điện phản
đối cho Trùng Khánh, Moskva và London.
Ngay cả người Trung
Quốc cũng bị báo động.
Tướng Lư Hán cho
người tới hỏi tôi xem báo cáo có thật
không, và tôi đă trả lời ông là OSS Sài
G̣n đă xác định.
Imai, người cận vệ
cũ của tôi, cũng khẳng định là có những
chỉ thị của Anh cho người Nhật ở miền
Nam, nhưng lại nói thêm điều rất đáng
ngờ là người Nhật sẽ thi hành lệnh của
Gracey một cách đến cùng. Imai
cho tôi hay là Thống chế Bá tước
Terauchi đang ốm, và viên Tham mưu tưởng
của ông, sau khi đă hỏi ư kiến của
Tsuchihashi, đă đồng ư thực hiện các chỉ
thị của Đồng minh “trong chừng mực”
không có ǵ trái với những điều Tokyo đă
chỉ dẫn.
Không nói ra một cách rơ ràng, nhưng
Imai đă cố gắng làm cho tôi hiểu rằng
Nhật sẽ làm mọi cách để duy tŕ trật tự
công cộng nhưng sẽ không giúp cho người
Pháp “tiêu diệt” đối phương. Anh ta miêu
tả quan niệm của Bộ chỉ huy tối cao Nhật
qua việc lập luận là quy chế tương lai
của Đông Dương không rơ ràng.
Không một nước Đồng
minh nào ở “cấp chính thức” đă ra lệnh
cho Nhật phải trả lại Đông Dương cho
người Pháp, hay cho một nước nào khác.
V́ vậy để cho bị lôi
cuốn vào cuộc tranh chấp giữa người Pháp
và người Việt là một điều không đúng với
phương hướng các chỉ thị nhận được từ
Tokyo.
Điều Imai đă không nói thẳng ra là người
Nhật, hay ít nhất là một số phần tử Liên
Á có thế lực ở Tokyo cũng như ở Đông
Dương vẫn c̣n ư nghĩ là ảnh hưởng của
người Âu ở châu Á là đáng nguyền rủa.
Họ muốn Việt Nam
phải được trả lại cho người Việt Nam, và
cũng có thể cho người Trong Quốc cho đến
khi nào ảnh hưởng của người da trắng bị
loại trừ.
Cuộc vận động chống Mỹ của Nhật mà tôi
đă chứng kiến đă hỗ trợ cho lư lẽ của
tôi.
Tôi đă không thể làm
được ǵ hơn ngoài việc báo cho OSS Côn
Minh biết. Sự thật là đúng vào
ngày xảy ra cuộc thảm sát ở khu cư xá
Cité Hérault, cả Dewey và tôi đều nhận
được thông báo là Tổng thống Truman ngày
20-9 đă kư mệnh lệnh 9620 cho giải thể
Cục t́nh báo Chiến lược OSS kể từ ngày
1-10-1945.
LẠI ĐẤU ĐÁ NHAU - LƯ HÁN
CHỐNG LẠI QUỐC DÂN ĐẢNG
Chiều
tối 26-9, Gallagher báo cho tôi biết là
t́nh h́nh đă có những bước phát triển
hoàn toàn mới.
Ông nhận được chỉ
thị của hành dinh Chiến trường phải t́m
hiểu việc Lư Hán và cơ quan tham mưu
Trung Quốc giúp người Pháp thiết lập một
chính quyền Pháp ở Hà Nội.
Chỉ thị không nêu rơ
khi nào và bằng cách ǵ công việc đó
phải được hoàn thành.
Gallagher đă cho
thảo luận với Lư Hán nhưng ông này kêu
là không nhận được chỉ thị nào như vậy
mà cũng chẳng dự kiến sẽ có việc như
vậy. Ư kiến
của Gallagher cho rằng Lư Hán sẽ không
chấp hành, dù đích thân Tưởng ra lệnh.
Trong trường hợp đó,
Tưởng sẽ phải đối phó với sự chống đối
của Thống dốc Long Vân ở Vân Nam và cả
của Lư Hán ở Hà Nội.
Gallagher yêu cầu
tôi xác minh t́nh h́nh qua các nguồn tin
của tôi ở OSS và Đại sứ quán.
Tôi đă điện cho
Helliwell và Heppner, nhưng không được
trả lời.
Sau này, ở Côn Minh, tôi được biết Lư
Hán cũng có nhận được chỉ thị phải giúp
cho người Pháp đặt bộ máy cai trị dân
sự. Và ông cũng đă gửi một phái
đoàn(15) đến
Trùng Khánh để thuyết phục Quốc dân Đảng
chuyển chính sách từ thân Pháp sang thân
Việt Minh. Nhưng trước khi phái đoàn của
Lư Hán trở về Hà Nội th́ chính tướng Hà
Ứng Khâm cũng bay đến Gia Lâm, t́nh cờ
đúng ngay vào ngày máy bay của tôi đi
Côn Minh, 1-10. Tướng Hà đến Hà Nội là
để trực tiếp “khép quân đội Trung Quốc
vào kỷ luật”, và đối với người Pháp và
người Việt, th́ điều dó lại có nghĩa là
“để thuyết phục Lư Hán giúp đỡ người
Pháp”.
Với phong cách đặc
biệt Á Đông, Lư Hán đă đóng vai tṛ của
một chủ nhân ông thành thạo.
Ngay chiều hôm tướng
Hà tới, ông ta đă tổ chức một bữa tiệc
lớn để chào mừng tướng Hà, cả Hồ Chí
Minh và tướng Alessandri đều đă được mời
như những vị khách đặc biệt.
Đây cũng là lần đầu
tiên ông Hồ và tướng Alessandri đă ở
trong cùng một pḥng.
Tướng Hà lưu lại Hà
Nội vài ngày và đă gặp riêng người Trung
Quốc, người Pháp và người Việt.
Lư Hán vẫn tỏ ra không
lay chuyển
đối với vấn đề có mặt của người Pháp,
doạ sẽ rút quân của ông về Vân Nam.
Nhưng cuối cùng, ngày 4-10, giữa 2 viên
tướng đă đạt được một sự thoả hiệp;
trong đó Lư Hán đă đồng ư:
- Hoàn thành việc giải giáp quân Nhật
vào ngày 31-10.
- Tập trung tất cả quân Nhật để hồi
hương vào các địa điểm đă quy định vào
ngày 10- 11.
- Tiếp tục những cuộc điều đ́nh không
chính thức với Hồ Chí Minh nhưng tránh
đặt mọi quan hệ chính thức với Hồ Chí
Minh và Chính phủ Lâm thời, đừng để xem
đó là một sự công nhận chính thúc.
Lư Hán tỏ ra không
hài ḷng với cái cách mà Quốc dân Đảng
đối xử với người Việt Nam. Rơ
ràng ông thích có một nước Việt Nam độc
lập dưới sự bảo trợ của Trung Quốc.
Nhưng đúng ngày hôm sau (5-10), Tưởng đă
cho bung ra “sự cố Côn Minh” và cử Lư
Hán làm Thống đốc Vân Nam thay cho Long
Vân, c̣n Long Vân th́ lại được “đề bạt
lên” làm Viện trưởng Viện Cố vấn Quân
sự, một chức vụ gần như không có quyền
hành và bị Tưởng kiểm soát chặt chẽ ở
Trùng Khánh. Từ đó,
sự quan tâm của Lư Hán đối cới Việt Nam
đă giảm sút đi rơ rệt v́ ông ta phải tập
trung vào các vấn đề của Vân Nam, nên đă
uỷ nhiệm cho thuộc cấp giải quyết các
công tác chiếm đóng ở Việt Nam.
Ngày 8-10, Long Chi’i Han, một trong
những phái viên của Lư Hán gửi đi Trùng
Khánh, đă trở về Hà Nội, mang theo một
chỉ thị mới. Nội dung chỉ yếu của nó là:
không được can thiệp vào cơ cấu chính
trị và quản lư của Việt Minh, nhưng phải
nắm chắc con đường xe lửa Vân Nam phủ và
các thiết bị hải cảng; cho rút tất cả
quân đội Trung Quốc về Trung Quốc ngay
sau khi đă cho hồi hương quân Nhật;
không được chiếm đóng (tiếp quản) bất kỳ
cơ quan dân sự nào của Việt Nam; không
được tiếp quản nhà Ngân hàng Đông Dương.
Tôi nhận xét là những quyền lợi của
Trung Quốc ở Việt Nam vẫn là vấn đề quan
trọng hơn hết và Ngân hàng Đông Dương
vẫn là bất khả xâm phạm.
Nhưng tất cả các chi
tiết đó là dành cho về sau.
Đêm ấy tôi nghĩ ǵ
về buổi lễ tiếp nhận đầu hàng ở Hà Nội
sắp được tổ chức, sau khi Tokyo đầu hàng
đă 8 tuần. Thật khó mà thông cảm
và chấp nhận được rằng kẻ thù trước
kia của chúng
ta lại được người Anh ở miền Nam thúc
giục đi tấn công và giết hại người Việt
Nam ngay trên đất nước họ.
Đêm đó Sài G̣n đang
bị phong toả.
Tôi nhó lại lúc chúng tôi tới Hà Nội với
những mong ước cao xa của một thời đại
hoà b́nh sau chiến tranh. Tôi đă
hân hoan v́ lúc đó chưa biết tin Peter
Dewey đă chết trong một cái mương nước
ngay sáng hôm sau ở Nam Kỳ.
Chú thích
(1) Con của Nông Kinh Du,
một lănh tụ của Đồng minh Hội, bạn thân
của Nguyễn Hải Thần
(2) Đơn vị Anh đầu tiên do đại tá Cass
chỉ huy, chưa tới Sài G̣n ngày 6-9-1945
nên thực tế không có việc có hành động
của người Pháp chống lại người Việt được
Anh cho phép cho tới ngày 22-9-1945.
(3) Quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc
phần lớn được trang bị bằng vũ khí Mỹ
trong thời kỳ chiến tranh nên rất thuận
lợi cho việc “buôn bán đổi chác”.
(4) Hồ Chí Minh Tuyển tập
(5) Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng
không bao giờ quên”
(6) B. Fall, “Con đường không vui”
(7) Sainteny, “Lịch sử”
( 8 ) B. Fall, “Con đường không vui”
(9) Quan chức thực dân, cố vấn chính trị
của tướng Alessandri
(10) Đô đốc G.L.M. Thierry D'Argenlieu
(1889-1964). Gia nhập hải quân từ 1909;
từ 1912 đến 1914, tham gia chiến dịch ở
Maloc dưới quyền Thống chế Lyautey; năm
1919 thuyền trưởng tàu tuần tiễu
Tourterelle; sau Thế chiến thứ nhất,
giải ngũ, chuyển sang ngạch dự bị, rồi
đi tu, thuộc ḍng Carmelite Thiên Chúa
giáo.
Tháng 8-1939, tái
ngũ, làm sĩ quan hải quân tham
mưu ở Cherbourg. Bị quân Đức bắt làm tù
binh tháng 6-1940; vượt ngục sang Anh
tham gia Hải quân Pháp tự do của De
Gaulle làm sĩ quan tuyên uư.
D'Argenlieu đă tham gia thắng lợi chiến
dịch chống lại Gabon và giành lại châu
Phi xích đạo thuộc Pháp cho phe De
Gaulle, được thưởng công và được thăng
cấp rất nhanh, có chân trong Uỷ ban Quốc
gia Pḥng thủ Đế quốc Pháp.
Năm 1941, được đưa
về London làm nhiệm vụ.
Ngày 5-8-1941, được cử làm Cao uỷ nước
Pháp tự do ở Thái B́nh Dương, đóng ở
Nouméa, Tahiti, với hàm Hạm trưởng. Ở
đây, ông đă xung đột với Bộ tư lệnh Hải
quân và Lục quân Mỹ ở New Calédonia v́
muốn duy tŕ chủ quyền Pháp chống lại nỗ
lực của Đồng minh chống Nhật - ông cũng
gây rắc rối cho người Anh nhưng đă bị
dân Calédonia cầm giữ.
Bị gọi về London,
nhưng được đề bạt Phó Đô dốc tháng
6-1942.
Tháng 5-1943, ông được cử chỉ huy Lực
lượng Hải quân chiến đấu Pháp, đóng ở
London trong khi hạm đội Pháp lại do Bộ
chỉ huy của tướng Giraud cai quản ở
Alger, do đó có sự rạn nứt trong Hải
quân Pháp.
Khi nước Pháp giải phóng (1944),
D'Argenlieu được cử làm Phó Tổng Tham
mưu trưởng Hải quân và
theo De
Gaulle vào Paris, dưới quyền đô đốc
Lemonnier. Đầu năm
1945, De Gaulle cử D'Argenlieu làm Phó
Chủ tịch Hội đồng Cao cấp Hải quân Pháp.
Ngày 17-8-1945, được cử làm Cao uỷ Pháp
tại Đông Dương, “đại diện ở Đông Dương
cho Chính phú Cộng hoà Lâm thời; có
quyền hành như Toàn quyền Đông Dương và
Tổng tư lệnh các lực lượng trên đất,
biển và trên không có căn cứ ở Đông
Dương”.
Ông được mô tả là
một người lạnh lùng, thô bạo, kiêu kỳ và
cũng rất độc đoán. Có người cho
ông là “một nhà ngoại giao tuyệt vời,
xuất sắc”, nhưng cũng có người cho là
“con gấu đáng tởm và là một người quỷ
quyệt nhất” - Nguồn ALUSNA, Paris.
(11) Bộ trưởng Quốc pḥng
(12) tức Giám mục Jean Baptiste Nguyễn
Bá Ṭng, giám mục tiên khởi Việt Nam
(13) Đại tá Daron Bank lúc đó đang ở
trong vùng này để điều tra về tội phạm
chiến tranh và đă báo cáo về các hoạt
động của đội 136 (SOI) của Anh - Pháp.
(14) tức
Hoàng Quốc Việt
(15) gồm Shao Pai Chang (Quân quản) và
Ling Ch’i Han (Ngoại vụ)
Chương 34
Kết
thúc nhiệm vụ
DẬP TẮT CÁC CUỘC XUNG ĐỘT
Tin tức từ
miền Nam làm cho mọi người ở Bắc Kỳ lo ngại, trừ
người Pháp. Họ hy vọng ở cú của Cédile, ở sự ủng
hộ “sáng suốt” chính sách thực dân Pháp của
Gracey, và ở các tin đồn đại về việc Leclerc sắp
tới. Báo chí bí mật(1)
của Sainteny thôi thúc người Pháp về triển vọng
một cuộc giải phóng tức th́. Nó thổi phồng những
tin tức về việc nắm chính quyền của Cédile,
chuyện người Pháp anh dũng lật đổ “bọn cướp Việt
Nam”, báo cáo về các cuộc hành quân thắng lợi
“càn quét các ổ cướp Việt Minh”, và những tin
thất thiệt về “lực lượng quân đội lớn” đang đổ
bộ vào Phnom Penh, Cambodia với ư ngầm là quân
Pháp đă lên đường qua phía cửa sau để giải phóng
Bắc Kỳ. Mặc dù chẳng có lấy một chút sự thật nào
trong đợt tuyên truyền này, nhưng dân Pháp ở Hà
Nội và Hải Pḥng lại rất tin tưởng và phản ứng
bằng cách tỏ ra hết sức tự tin và kiêu ngạo một
cách trắng trợn, nên đă gây ra nhiều vụ xung đột
nhỏ và một số vụ bắt bớ. Trước những hành
vi thái quá của người
Pháp, Chính phủ Hà Nội vẫn muốn t́m mọi cách
tránh không để nổ ra một cuộc đụng độ.
Ông Hồ đă chỉ thị cho Giáp
ra lệnh cảnh cáo dân chúng Pháp.
Sáng ngày 26-9, nhiều biểu
ngữ lớn đă xuất hiện trên các tường trong thành
phố, với đầu đề “Tuyên cáo với dân chúng Pháp”.
Nhiều truyền đơn mang nội dung lời tuyên cáo này
cũng được phân phát cho cộng đồng người Pháp qua
các ḥm thư, đưa tay
hoặc thông qua các cửa hiệu Việt Nam. Đó là lời
tuyên cáo chính thức do Giáp kư với tư cách là
Bộ trưởng Nội vụ, thay mặt Chính phủ Lâm thời.
Với những lời lẽ kiên quyết, tờ tuyên cáo nhắc
lại các sự kiện đă xảy ra ở miền Nam, việc Pháp
và Anh ngược đăi người Việt Nam, quyết tâm của
dân chúng chống lại mọi sự đô hộ của nước ngoài
để bảo vệ nền độc lập của ḿnh và nêu lên nhũng
điểm chủ yếu:
“Một số người Pháp đă lên tiếng tỏ ra lo ngại
cho sự an ninh… của đồng bào họ đang sống ở Bắc
Kỳ. Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
sẽ không tiến hành những biện pháp trả thù đối
với người Pháp ở đây, và đă nhiều lần ra lệnh
cho dân chúng Việt Nam phải b́nh tĩnh. Nhưng
Chính phủ sẽ không dung thứ bất cứ hành động
khiêu khích nào, bất cứ mưu toan nào nhằm làm
hại đến nền an ninh và độc lập của đất nước, và
sẽ không chịu trách nhiệm về những phản ứn sau
này của nhân dân Việt Nam chống lại các hành
động xâm lược của người Pháp ở Bắc Kỳ. V́ vậy,
tôi (Giáp) khuyên những người này phái hết sức
thận trọng trong lời nói cũng như trong hành vi
của họ, và phải nghiêm ngặt tuân thủ các biện
pháp được đưa ra để bảo đảm an ninh cho chính
họ”.
Người Pháp đă coi khinh lời cảnh cáo này.Một số
tù binh Pháp “từ Thành ra” đă xé các biểu ngữ ở
phố Gambetta Jauré Guibéry, Paul Bert, và đă
đánh những người Việt Minh đi phân phát truyền
đơn. Thường dân Pháp đă ùa
theo bắt chước họ và t́nh h́nh có nguy cơ
bùng nổ.
Tôi đă được Tạ Quang Bửu báo
ngay cho biết t́nh h́nh rối ren đó. Ông
phản đối việc người Mỹ thả tù binh Pháp và cho
tôi hay rằng Giáp rất lo lắng và bất b́nh.
Bửu nói rằng việc phá rối
trật tự rất có thể buộc Chính phủ phải có những
biện pháp cứng rắn, có thể dẫn đến đổ máu - một
việc vô cùng đáng tiếc. Tôi trả lời Bửu
là theo chỗ tôi biết
th́ không có lệnh nào của Mỹ cho thả tù binh, và
yêu cầu báo cho Giáp biết là trong ṿng một
tiếng sau tôi sẽ đến gặp ông ta.
Ngay lúc đó, tôi điện cho
đại tá Nordlinger và yêu cầu ông cho tôi gặp ở
cơ quan của Gallagher để thảo luận về t́nh h́nh
đang xảy ra. Đề nghị
của tôi h́nh như có làm phiền ít nhiều cho
Nordlinger nhưng ông ta cũng nhận lời gặp tôi 10
phút sau. Tôi liền
báo cho Gallagher biết là chúng tôi đến gặp.
Trong khi đó, tổ phản gián
X2 của chúng tôi cũng đă nhanh chóng xác định
được nhiều tù binh nói trên là những lănh tụ của
phong trào kháng chiến Mordant.
Tôi đến nơi th́ đă thấy
Gallagher và Nordlinger đang chờ.
Gallagher cũng đă thu
xếp để sẽ gặp và nói chuyện với Lư Hán. Trên
đường đến hành dinh của Lư Hán, tôi ngạc nhiên
được biết trong tuần lễ này, Nordlingher đă ra
lệnh cho các giám ngục Nhật ở trong Thành cho
phép các tù binh được “về một ngày” với gia đ́nh
ở Hà Nội. Tôi hỏi ông cho
biết đă có bao nhiêu lần phép cho tù binh Pháp,
ông ta không biết đích xác nhưng ước lượng có
khoảng chừng từ 200 đến 300 lần phép mỗi ngày.
Cả Gallagher và tôi đều kinh
ngạc nhưng Nordlinger th́ cho đó chỉ là một biện
pháp thông thường trong việc đối xử với các tù
binh Đồng minh.
Lư Hán tiếp chúng tôi ngay.
Ông ta cũng đă được báo cáo
về t́nh h́nh hỗn loạn trên đường phố và đă ra
lệnh cho các đội tuần tra vây bắt đám tù binh và
đưa họ trở về Thành. Lư Hán yêu cầu
Gallagher phải rút hết “phép cho về nhà” cho đến
khi t́nh h́nh trở lại yên tĩnh và từ nay về sau
các lệnh nghỉ phép phải do một sĩ quan Mỹ do
tướng Gallagher chỉ định kư mới có giá trị. Từ
hành dinh của Lư Hán, tôi điện báo cho Bửu và
yêu cầu ông ta nói cho Giáp yên tâm là chúng tôi
sẽ “nắm lại” tất cả tù binh Pháp, c̣n cảnh sát
địa phương sẽ đối phó với các thường dân ngoan
cố. Tiếp sau đó, không c̣n
có nguy cơ bùng nổ nào khác.
Nordlinger đă thực hiện nhiệm vụ nhân đạo của
ḿnh một cách chân thực và ông không h́nh dung
được là ông thường bị người Pháp lợi dụng để
nhằm đạt các mục đích chính trị của họ.
Nhưng cũng không thể xếp ông
vào loại “thân Pháp” như nhiều người Pháp trong
thời kỳ đó đă làm.
Ông là một trong nhiều người Mỹ biết tiếng Pháp
ở Hà Nội, có nhiệm vụ chăm lo đến đời sống của
các tù binh Đồng minh và dân thường trong khu
vực này. Do đó, ông được người Pháp xem
như là một cha tuyên uư, người che chở và phân
phối các bổng lộc của Mỹ. Khi ông rời Hà Nội vào
tháng 10, ông cũng tỏ ra quan tâm đến số phận
của người Việt, và đă cho tiến hành phân phối
một số lương thực cho họ cũng như cho người
Pháp.
Ông trở về Mỹ vào tháng 12, mang theo một bức
thư của Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Lâm
thời, gửi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, nêu lên những
khó nhăn ở Đông Dương và yêu cầu công nhận nền
độc lập của Việt Nam. Bộ Ngoại giao đă có một
thái độ lạnh nhạt, cho là Nordlinger hoạt động
như là một đường dây liên lạc với một “Chính
phủ” không được công nhận và bức thư đă được xếp
vào loại “không có hành động tiếp theo”
ÔNG HỒ NẮM LẠI T̀NH H̀NH
Trong khi chúng tôi dập tắt những vụ
xung đột nhỏ ở Hà Nội th́ ông Hồ cũng làm ngọn
lửa đề kháng ở Nam Kỳ dịu bớt đi.
Trong một bài phát thanh cho
toàn quốc, qua Đài Tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội,
ông đă khôn khéo trực tiếp kêu gọi người Việt
Nam cung như người Pháp. Ông nói “Đồng
bào miền Nam thân mến!”,
nhưng thực ra bài diễn văn của ông bao trùm tất
cả.
Trước hết, ông chỉ trích
Pháp về thái độ phản phúc, hèn nhát trước đây và
những cố gắng hiện nay của Pháp để “thống trị
nhân dân chúng tôi một lần nữa”. Về vấn
đề người Pháp có ư cho rằng người Nam Bộ muốn
quay trở lại nguyên trạng trước
kia, ông nói “tôi tin
tưởng và đồng bào chúng tôi trong cả nước cùng
tin tưởng ở tinh thần yêu nước mạnh mẽ của đồng
bào miền Nam”. Và, một cách rất thông minh, ông
lái chuyển sang tấn công người Pháp. “Chúng tôi
c̣n nhớ lời nói hùng hồn của một nhà cách mạng
vĩ đại Pháp, “thà chết như một người tự do c̣n
hơn sống như một kẻ nô lệ”. Ca tụng sự ủng hộ
của đất nước đối với “các chiến sĩ và đồng bào
đă hy sinh trong cuộc đấu tranh để giữ ǵn nền
độc lập của dân tộc”, ông Hồ đảm bảo với các
thính giả rằng toàn thế giới có thiện cảm với sự
nghiệp của nhân dân Việt Nam(2).
Tiếp đó, ông nói thẳng với các nhà lănh đạo Pháp
và Việt Nam ở miền Nam, “Tôi muốn nhắc nhở, đồng
bào chúng ta ở miền Nam chỉ có một điều: ngay
đối với những người Pháp bị bắt trong chiến
tranh, chúng ta phải canh giữ họ một cách hết
sức cẩn mật, nhưng chúng ta cũng phải đối xử với
họ một cách rộng lượng. Chúng ta phải tỏ cho thế
giới, và đặc biệt là cho người Pháp, biết là
chúng ta chỉ muốn được độc lập và tự do, chúng
ta không đấu tranh v́ hận thù và chống đối cá
nhân. Chúng ta phải tỏ cho thế giới biết chúng
ta là một dân tộc thông minh, văn minh hơn hẳn
bọn xâm lược giết người”(3).
Đây chắc chắn là những lời
lẽ nhằm để hé cửa cho nối lại những cuộc thương
lượng.
Lúc đó chúng tôi không nắm
được dấu hiệu ǵ chứng tỏ rằng ông Hồ muốn nói
với những người Việt Nam ở miền Nam đang bị bao
vây và bài diễn văn đă đến như một tín hiệu bất
ngờ. Đó cũng là lời
tuyên bố công khai chính thức đầu tiên của ông
Hồ với đồng bào Nam Bộ từ 26-8. Dưới ánh
sáng của các sự kiện mới xảy ra, người ta có thể
coi bài diễn văn như là một lực ép mạnh mẽ về
chính trị trong Đảng.
Giàu và ông Hồ, cả hai đều là sản phẩm của một
trường đào tạo lănh tụ cách mạng Nga, nhưng họ
đă khác nhau khá xa trong các quan điểm về sách
lược và phương pháp lănh đạo.
Ông Hồ nghĩ đến thương
lượng, thuyết phục, thậm chí cả thoả hiệp trước
khi phải sử dụng đến bạo lực. Giàu là một
người Stalinism thâm căn cố đế, một người Cộng
sản chính thống và giữ quan điểm là chỉ có thông
qua sự lănh đạo chính trị duy nhất, kỷ luật đảng
và sự phục tùng mù quáng đối với sự lănh đạo của
Việt Minh th́ nhân dân mới có thể giành thắng
lời trong cuộc đấu tranh chống Pháp.
Sau vụ rối loạn ngày 2-9, ông Hồ và Uỷ ban Trung
ương ở Hà Nội đă chỉ thị cho Giàu phải hoạt động
có chừng mực, phải tiến hành đối thoại với người
Pháp, những người
Troskism, những đảng phải không Cộng sản và phải
mở rộng cơ sở chính trị của Lâm uỷ. Nhưng Giàu
đă không tự ḿnh chia sẻ lănh đạo với những
người Troskism và chống Cộng. Ông đă nhường lại
ghế của ḿnh cho Phạm Văn Bạch, nhưng vẫn giữ
quyền kiểm soát về quân sự(4).
Ông Hồ thấy không có khả năng tác động được đến
Giàu và đưa các nhà lănh đạo miền Nam đi theo
đúng đường lối, nên bằng bài diễn văn, ông đă
ṿng qua Lâm uỷ để nói trực tiếp với nhân dân
miền Nam. Trong khi dứt khoát ủng hộ cuộc đề
kháng của nhân dân chống lại việc chiếm quyền
của Pháp và Anh, ông Hồ cũng khuyên phải có mức
độ và kiềm chế, mở rộng cửa cho việc điều đ́nh
với những người Pháp có thiện chí.
Bài diễn văn đă đạt được kết
quả mong muốn. Ông Hồ
đă khẳng định lại được quyền lănh đạo toàn quốc
của ḿnh và thiết lập lại được mối quan hệ giữa
miền Nam và Hà Nội. Trong những ngày tiếp
theo, người ta thấy
Bạch đă cố gắng t́m cách thương lượng với
Cédile.
CUỘC ĐẦU HÀNG CỦA
NHẬT
Ngày thứ Năm 28-9. Khi tôi
chuẩn bị đi dự buổi lễ đầu hàng của Nhật th́
nhận được lời chia buồn của cá nhân Hồ Chủ tịch
về “cái chết không may của trung tá Dewey”. Giấy
chia buồn do Nguyễn Văn Lưu(5)
đưa tới. Tôi cảm ơn và nói
sẽ gặp Chủ tịch ở dinh Toàn quyền.
Lưu báo ngay cho tôi biết là
ông Hồ không được khỏe và sẽ không dđến dự buổi
lễ. Tôi ngạc nhiên và
cũng không biết nên hiểu sự vắng mặt này như thế
nào. Chiều hôm trước
tôi có gặp ông Hồ và thấy ông khỏe, tuy vẫn ho
như thường lệ. Tôi
biết rằng ông cũng được mời dự lễ và chắc rằng
ông đă nhận lời, nhưng thực ra tôi chẳng biết rơ
ǵ cả.
Mọi công tác chuẩn bị đă xong, và Sư đoàn danh
dự Vân Nam số 2(6) triển khai canh gác
chung quanh dinh Toàn
quyền. Đó là những đội quân Trung Quốc khá cao
lớn, mặc áo chiến, mũ sắt, súng M.1 Mỹ có cắm lê
được dàn ra dọc đường đá đến tận cổng ra vào
dinh Toàn quyền. Ở phía
ngoài, trên sân có nhiều toán sĩ quan Trung Quốc
đứng, chờ tướng Lư Hán tới. Họ cũng lặng
lẽ trong các bộ quân phục sặc sỡ, thắt lưng Mỹ
mang kiếm đại lễ cán ngà bên lưng.
Đúng 10 giờ, tôi đến cổng
dinh. Trong những trường hợp như lúc này,
các quân cảnh Trung Quốc đă được thay thế bằng
binh lính Sư đoàn Danh dự số 2,
an ninh nghiêm ngặt.
Sĩ quan kiểm tra giấy một
cách cẩn thận, chào và mời tôi vào. Khi
xe tôi tới đỗ ở thềm
cửa, người ta mở cửa và một sĩ quan trẻ khác lại
xem giấy tờ. Với vẻ hài
ḷng, anh ta vời một sĩ quan khác đưa tôi vào
pḥng khách chính và tới chỗ dành riêng cạnh các
bàn dùng cho buổi lễ.
Trong pḥng có hàng trăm đại
diện các nhà chức trách quân sự và dân sự Trung
Quốc và một số ít người Mỹ. Tôi đă giúp cho sĩ
quan của Lư Hán về các thể thức lễ nghi được ghi
tên trong danh sách các vị khách đặc biệt.
Trong danh sách này có tên tướng Gallagher cùng
với các sĩ quan cao cấp bộ tham mưu của ông, có
Hồ Chủ tịch và nội các của ông, tướng Alessandri
và một đại biểu, tôi và 5 sĩ quan OSS khác, và
các vị khách quư của cộng đồng người Hoa ở đây.
Nhưng trong số nói trên,
người Pháp và người Việt đă cố t́nh vắng mặt.
Trong pḥng đă được xếp khoảng 200 ghế ngồi đối
diện với một cái bàn phủ vải xanh lớn, đằng sau
có 3 ghế đệm cao cho người Trung Quốc tiếp nhận
sự đầu hàng của Nhật. Trên tường phía sau có
treo bức ảnh lớn của Tôn Dật Tiên. Trước bàn của
người Trung Quốc là một bàn khác phủ vài trắng
với 5 ghế thấp hơn dành cho người Nhật. Trên
tường treo 4 lá cờ lớn, Mỹ và Liên Xô bên phải,
Trung Quốc và Anh bên trái.
Trên cửa và các cột trong pḥng cũng có những
chùm 4 cờ nhưng nhỏ hơn.
Không có cờ Pháp cũng như cờ
Việt Nam ở trong và ngoài dinh.
Đến 10 giờ 30, tướng Tsuchihashi và 4 sĩ quan
cao cấp Nhật (không mang vũ khí) vào pḥng và
tới trước bàn phủ vải trắng.
Họ coi như không thấy ghế dành cho họ và vẫn
đứng. Tsuchihashi ở
giữa. Với một điệu bộ trịnh trọng, ông
đặt mũ lên trên bàn và chú ư sửa lại cho ngay
ngắn với cả hai tay.
Các sĩ quan khác cầm mũ của ḿnh trong
tay phải.
Từ một cửa vào khác cạnh chiếc bàn xanh, tướng
Lư Hán, tướng Linh(7) và tướng Mă lần lượt vào
pḥng và ngồi vào bàn trước mặt người Nhật.
Những người này khẽ cúi đầu chào.
Người phiên
dịch Trung Quốc đọc cho viên tư lệnh Nhật nghe
các điều khoản đầu hàng của Đồng minh.
Tsuchihashi và các sĩ quan
đứng nghiêm lắng nghe.
Người phiên dịch đưa bản tài
liệu để người Nhật kư.
Tướng Tsuchihashi không đọc,
kư rồi trả lại bàn tài liệu và nghiêng ḿnh cúi
sâu ḿnh hướng về phía Lư Hán.
Người Trung Quốc tiếp nhận
cái chào một cách sơ sài và thản nhiên cho người
Nhật rút lui không một lời b́nh luận.
Người Nhật ra thẳng, không
hề liếc nh́n ra các phía.
Sau khi người Nhật đi khỏi,
Lư Hán đọc Bản tuyên bố nói về các điều khoản
đầu hàng và trách nhiệm của Trung Quốc ở Việt
Nam. Người phiên dịch Trung Quốc liền
dịch Bản tuyên bố đó sang cả tiếng Pháp và tiếng
Việt, mặc dù người Pháp và người Việt đều không
có mặt ở đó, và buổi lễ kết thúc.
Buổi lễ rất quan trọng này
của Lư Hán cũng đă không mang lại được thay đổi
ǵ lớn cho Hà Nội.
Tsuchihasshi vẫn tiếp tục làm vai tṛ của người
sĩ quan cao cấp Nhật để xúc tiến nhiệm vụ giải
giáp và tập trung đội quân bại trận của ông về
các địa điểm chở lên tàu. Lính Nhật vẫn
tiếp tục giúp đỡ cho quân Trung Quốc gác tù binh
Pháp trong Thành và các nhân viên kiểm soát của
Nhật vẫn ở lại vị trí cũ của họ trong Ngân hàng
Đông Dương.
Sau buổi lễ, có tổ chức chiêu đăi ngắn trong
pḥng bên cạnh và tôi cũng có dịp để thảo luận
với tướng Gallagher về sự vắng mặt của người
Pháp. Ông cho biết Alessandri đă yêu cầu Lư Hán
cho treo cờ Pháp cùng với các cờ của Đồng minh,
nhưng Lư Hán từ chối với lư do việc treo cờ Pháp
chắc chắn sẽ gây rắc rối. Alessandri đă yêu cầu
Gallagher can thiệp giúp và nêu ra với Lư Hán là
cờ Pháp đă được treo trong buổi lễ ở Tokyo và
Manila. Nhưng Lư Hán cương quyết không chịu, nói
là ở các nơi đó không có phong trào chống Pháp,
và nhấn mạnh rằng ở Sài G̣n chỉ việc trương cờ
Pháp ra cũng đă đủ là tín hiệu cho quần chúng
nổi dậy và gây ra đổ máu. Hơn nữa, việc
Alessandri là đại diện chính thức của Pháp cũng
“chưa rơ ràng”. Tôi lại nh́n
sự bất đồng như là biểu hiện của việc cá nhân Lư
Hán ác cảm với người Pháp, và ở đây ông chỉ muốn
làm nhục Alessandri.
Ông đă từ chối không để cho Alessandri được ngồi
trong khu vực các quan khách chính thức, mà đă
dành cho ông ta ghế số 115 trong khu vực của các
vị khách không chính thức. Theo tôi, đó
là một điều xúc phạm đến uy tín của Pháp nói
chung và của
Alessandri nói riêng.
Lại c̣n một vấn đề rắc rối
khác nữa. Tại sao ông
Hồ lại không đến?
Trong buổi chiêu đăi, tôi thấy có nhiều người
Việt nhưng h́nh như họ đến dự với tư cách là
người không chính thức. Họ đi cùng với
những Hoa kiều có thế lực ở địa phượng được xác
nhận là thuộc Đồng minh Hội của Nguyễn Hải Thần.
Tôi b́nh luận việc ông Hồ vắng mặt với đại tá
Hsei Chun Yie( 8 ) và
ông ta cho biết ông Hồ được chính cá nhân Lư Hán
mời như là một vị khách đặc biệt.
Nhưng đến phút cuối cùng,
ông Hồ đă chối từ v́ “lư do sức khỏe”.
Hsei giải thích là ông Hồ và Chính phủ của ông
không có quy chế chính thức ở Trùng Khánh nên
không thể nào xếp ông ta trong hàng
ngũ đại diện các nước
Đồng minh.
CUỘC HỢP NHẤT ĐANG H̀NH THÀNH
Sau này tôi mới biết Lư Hán không
thể công khai thừa nhận ông Hồ và không biết tới
các lănh tụ của các nhóm Quốc gia khác, chính v́
lúc đó đang diễn ra các cuộc thương lượng bí mật
để hợp nhất Việt Minh và Đồng minh Hội. Tiêu
Văn, theo chỉ thị của Trùng Khánh, ủng hộ Nguyễn
Hải Thần; nhưng Lư Hán lại không muốn cắt đứt
với ông Hồ, nên đă ép Tiêu phải cho xúc tiến một
cuộc hợp nhất.
Bước đầu tiên để đi tới cuộc hợp nhất được tiến
hành vào buổi sáng sau ngày lễ đầu hàng, qua
cuộc gặp giữa ông Hồ và Thần do Tiêu tổ chức,
tại trụ sở(9) của
Đồng minh Hội. Ở đó, lần đầu
tiên cờ của Đồng minh Hội được trưng ra ở Hà
Nội. Một số đông quần
chúng đă tụ tập chung quanh để hoan hô hai
người. Cũng đă xảy ra
cuộc ẩu đả giữa người của hai phe. Cảnh
sát địa phương và quân đội Trung Quốc phải can
thiệp, nhưng đă không có xô xát nghiêm trọng.
Cuộc gặp kéo dài khoảng 30
phút và cả hai người ra về đều mỉm cười vui vẻ.
Không có tuyên bố công khai, nhưng chỉ một giờ
sau đó, trên dường phố đă thấy
lan ra hai luồng dư
luận khác nhau. Những người
theo Thần vui vẻ cho biết ông Hồ sẽ
“xuống nước” để nhường chỗ cho Thần và chỉ giữ
chức “cố vấn quốc gia”. Những quan hệ Việt Minh
của tôi cho tôi biết là không đạt được quyết
định nào trừ việc ông Hồ mời Đồng minh Hội tham
gia với Việt Minh vào trong một chính phủ mới sẽ
do nhân dân bầu trong cuộc tổng tuyển cử dự định
tiến hành vào ngày 23-12(10). Tin đồn c̣n được
tăng thêm hương vị qua một câu chuyện được
truyền đi rộng răi, chắc là do người của Thần,
rằng Quốc dân Đảng (Trung Quốc) đă chi cho Thần
về vấn đề này 7 triệu đồng, nhưng một nửa số
tiền đă bị Tiêu Văn chiếm lấy để tiêu riêng.
Điều này chỉ làm suy yếu vị
trí của Thần ở chỗ như thể là ông đă được chuẩn
bị để cộng tác với Việt Minh trong việc thành
lập một Chính phủ liên hiệp.
Câu chuyện này thật hư như
thế nào, tôi không rơ. Nhưng biết rằng
vào tháng 10, sau khi tôi rời Hà Nội, giữa các
tướng Lư Hán và Tiêu Văn đă có một sự bất hoà
nghiêm trọng về hoạt động của Đồng minh Hội và
Tiêu Văn nhất thời đă bị rút bớt các nhiệm vụ
chính trị của ông ta. Vào mùa thu 1945, có tin
đồn Lư Hán đă cho bắt giữ Tiêu và đưa ông ta về
Trùng Khánh nghỉ; nhưng theo các bản tin tức của
Mỹ từ Việt Nam và Trung Quốc gửi đi th́ từ tháng
10-1945 đến tháng 10- 1946 Tiêu Văn vẫn c̣n làm
việc.
TIN TỨC LỘN XỘN
Buổi lễ đầu hàng đến thật không đúng
lúc và chỉ được báo chí địa phương thuật lại một
cách b́nh thường. Điều mọi người chú ư
nhiều nhất là các sự kiện ở miền Nam sau cái
chết của “đại tá”(11)
Dewey. Trong 2 ngày, đài phát thanh và báo chí
Sài G̣n, Huế, Singapore, New Delhi, và Trùng
Khánh đưa tin tức rộng răi về vụ ám sát Dewey và
nhữn tin tức này đă gây ra một sự lộn xộn lớn ở
Hà Nội.
Người Pháp công khai lên tiếng chia buồn và tỏ
thiện cảm đối với một người “bạn Đồng minh”,
trong khi trong thâm tâm họ có vẻ hài ḷng về
cái chết. Điều đó có thể lung lạc được t́nh cảm
của công chúng Mỹ đối với “dân
An na mít phản bội”.
Người Việt Nam lại công khai lên
án Anh và Pháp âm mưu
kích động t́nh cảm của người Mỹ chống lại Việt
Minh. Một số người Trung Quốc đứng đắn đồng ư
với luận điểm của người Việt Nam, nhưng cũng rất
nghi ngờ, cho đây là một mưu mô của Anh để gạt
người Mỹ ra khỏi khu vực hoạt động của họ.
Điều làm cho câu chuyện của
Dewey trở nên hấp dẫn đối với dư luận quần chúng
chính là tiềm năng ảnh hưởng quốc tế của nó.
Ở Hà Nội, người ta đặc biệt
chú ư đến một bài phỏng vấn nói là của phóng
viên Phale Thorpe ở Huế. Ngay trong ngày
Dewey bị giết, có tin ông đă lên
án “hành động của Anh
ở Nam Kỳ là trái với luật pháp quốc tế (sic) và
Việt Nam xứng đáng được độc lập”. Ông ta nói,
ông ta sẽ trở về ngay Hà Nội để báo cho phái
đoàn Mỹ ở đây những ǵ đă xảy ra ở miền Nam để
tránh gây ra đổ máu ở Bắc Kỳ “…(và)
cuộc xung dột Pháp - Việt cần phải được hoặc Mỹ
hoặc Trung Quốc ngăn chặn lại”.
Như người ta đă biết, nhận định của Thorpe đă
không bỏ qua vai tṛ của Pháp trong các sự kiện
xảy ra ở Sài G̣n và bộ máy tuyên truyền của Việt
Nam đă không bỏ lỡ cơ hội để tận dụng khai thác
những tin tức này. Người Pháp c̣n đang bị nhức
nhối về việc bị chính thức gạt khỏi buổi lễ đầu
hàng, đă phản tuyên truyền lại: “Pháp không c̣n
được coi như là một nước Đồng minh trong Liên
hợp quốc nữa và người Mỹ đă góp phần làm nhục
người Pháp ở phương Đông cũng như họ đă từng làm
ở phương Tây”. Họ đă khôn ngoan tăng cường luận
điệu tuyên truyền này bằng cách xuyên tạc các
nhận xét của Thorpe làm cho nó giống như là một
lời tuyên bố chính thức của Mỹ.
Đài Singapore đă tường thuật một cách tỉ mỉ việc
Mounbauen bao che cho Gracey trước mặt Tổng
trưởng Chiến tranh Anh, ngài Lawson. Báo chí
Việt Nam và Trung Quốc đă nhắc lại tin của đài
Singapore và đă nhấn mạnh vào lời tuyên bố của
Lawson về chính sách của Anh, “trách nhiệm của
Anh đối với đồng minh của ḿnh sẽ không dẫn đến
cuộc đấu tranh cho người Pháp chống lại nhân dân
Đông Dương”. Rơ ràng lời tuyên bố này đă được
đưa ra do có sự chống đối mạnh mẽ trong nội bộ
chính phủ Công đảng về việc ủng hộ về quân sự
cho người Pháp đàn áp phong trào dân tộc Việt
Nam, đi đôi với sự phản kháng dữ dội của Đảng
Quốc đại Ấn Độ chống lại việc sử dụng binh lính
Ấn phục vụ cho chính sách thực dân của De
Gaulle.
Ngoài ra, sau bản tin của đài Singapore, đài
Delhi lại thông báo Anh đă tung ra 2 sư đoàn Ấn
Độ tấn công du kích Việt Nam ở Nam Bộ. Phản ứng
tức khắc, Lâm uỷ Nam Bộ ra lệnh cho các đơn vị
bộ đội của họ “phải cô lập các lực lượng Anh và
Pháp bằng cách phá hoại cầu và đường”.
VỀ NHÀ
Trong mớ tin tức hỗn độn này, thật
khó mà biết dược chính xác việc ǵ đă xảy ra,
ngoài việc nổi bật lên khá rơ là cuộc chiến
tranh Thái B́nh Dương ác liệt và lâu dài kết
thúc không có nghĩa là đă mang lại hoà b́nh cho
Việt Nam. Đối với họ, một
cuộc chiến tranh mới đă bắt đầu.
Nhưng nó đă không lôi cuốn
chúng tôi vào đó.
Chúng tôi đang trên đường trở về nước.
Chiều ngày 29-9, tôi nhận
được lệnh mà tôi đang chờ đợi. Cục t́nh
báo OSS được “chuyển thuộc Bộ Chiến tranh và
Ngoại giao kể từ 1-10” và ngày đó tôi cũng phải
trở về Côn Minh. Đại uư
Bernique và trung uư Swif sẽ cho đóng cửa cơ
quan. Vào giữa tháng
10, tôi sẽ lên đường về nước.
Helliwell về sau mấy ngày,
c̣n Heppner th́ về Mỹ vào giữa tháng 11.
Bộ chỉ huy Chiến trường
Trung Quốc (CCC) cũng giải thể và tướng
Gallagher và Bộ tham mưu của ông cũng chuyển đi
nơi khác. OSS Trung Quốc chỉ c̣n lại một
số ít cán bộ giao thời. Hoạt động t́nh báo của
chúng ta tại Chiến trường Trung Quốc đă cáo
chung một cách nhanh chóng, mà công chúng Mỹ
cũng chẳng hay biết ǵ, nhưng họ đă phải trả một
giá đắt cho sự lăng quên này.
Tôi dùng ngày cuối cùng ở Hà
Nội, 30-9, để chuẩn bị túi bụi cho cuộc ra đi.
Tôi quyết định việc xử lư các tài liệu và đặt kế
hoạch an ninh, đề
pḥng phải sơ tán trong t́nh huống khẩn cấp. Sau
đó là những cuộc hội họp tiễn biệt với tướng
Gallagher, tướng Lư Hán, tướng Mă… Tướng
Gallagher mời cơm và chia
tay với tôi một cách vui vẻ, trước khi
tôi trở về nhà Gauthier. Ông Hồ mời tôi dự bữa
cơm chiều hôm đó và tôi đă chia sẻ buổi tối cuối
cùng của tôi ở Hà Nội với ông Hồ.
Chú thích:
(1) Báo Entente, lúc đầu do nhóm
Sainteny in bí mật, sau được phép xuất bản công
khai vào năm 1945 do Việt Minh kiểm duyệt.
(2) Hồ Chí Minh Tuyển tập
(3) Hồ Chí Minh Tuyển tập
(4) Cuối cùng, ông bị gọi về Hà Nội tháng
11-1945
(5) Chánh văn pḥng Bộ Ngoại giao, một cộng sự
của Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng (Hồ Chí Minh là
Bộ trưởng)
(6) Một đơn vị của quân Long Vân, dưới quyền của
thiếu tướng Chao Yao Ming, tư lệnh Tập đoàn quân
52. Sư đoàn Danh dự số 2 là đơn vị Trung Quốc
cuối cùng rời khỏi Việt Nam tháng 10-1945.
(7) Tư lệnh Tập đoàn quân 60 Trung Quốc
( 8 ) Bí thư và phụ trách lễ tân của Lư Hán
(9) tại số 23, phố Quan Thánh
(10) Tổng tuyển cử đă được tổ chức vào ngày
6-1-1946
(11) Dewey được truy phong Trung tá (Lieutenant
Colonel). Tuy nhiên, trong giao tiếp quân đội
Mỹ, cấp bậc Trung tá (Lieutenant Colonel) và Đại
tá (Colonel) thường được gọi
chung là Colonel. Giống như các cấp tướng
đều được gọi chung là
General.
Chương 35
Buổi từ biệt cuối cùng
Đúng 7 giờ tối, tôi có mặt ở
buồng đợi pḥng khách Bắc Bộ phủ.
Vơ Nguyên Giáp chào tôi
và cùng đi vào pḥng khách, nơi Hồ Chủ tịch
đang chờ cùng với Dương Đức Hiền, Nguyễn
Mạnh Hà và Trần Huy Liệu.
Chúng tôi đă biết nhau
nên không cần có nghi thức ǵ. Ông Hồ
ch́a bàn tay mảnh
khảnh đón tôi và nói: “Đây quả là một dịp
không hay. Mong rằng ông
chỉ xa chúng tôi một thời gian”.
Sau khi tôi đă thăm hỏi
những người khác, ông Hồ dẫn tôi và cả đoàn
tới bàn tiệc. Câu chuyện vẫn
chung chung, vừa
nói bằng tiếng Pháp vừa bằng tiếng Anh.
Tôi cảm thấy mọi người
đều cố gắng tránh những lời có thể làm cho
tôi lúng túng hoặc đặt tôi vào địa vị phải
bảo vệ lập trường của Đồng minh (Anh, Trung
Quốc). Sau bữa
cơm, chúng tôi ngồi lại chung quanh bàn 10,
15 phút. Trừ ông
Hồ và Giáp, mọi người xin rút lui sau khi đă
chúc tôi một cuộc hành tŕnh thú vị và tỏ ư
mong rằng tôi sẽ sớm trở lại để thăm hoặc
công tác ở Việt Nam.
Ba người chúng tôi chuyển sang một buồng nhỏ
hơn để dùng cà phê. Mấy phút sau, Giáp có
việc phải đi ra ngoài và đă bắt
tay tôi một cách
nồng nhiệt. Bằng một
tiếng Pháp hoàn hảo, ông nói nếu ông không
trở lại gặp được nữa th́ ông chỉ muốn tôi
hiểu cho rằng ông rất cảm tạ sự thông cảm
của tôi đối với sự nghiệp của nhân dân Việt
Nam. Ông bày tỏ sự đánh giá cao của
cá nhân ông và của các “chiến hữu” của ông
về sự giúp đỡ “to lớn” của “người Mỹ ở Côn
Minh” đối với ông “trong nhũng ngày trước
cách mạng”. Giáp hết lời và chúc tôi “bon
voyage”(1) và tỏ
ư mong rằng Việt Nam sẽ sớm có một người bạn
ở Washington.
Tôi ngạc nhiên và cũng
xúc động v́ đây là một dịp hiếm có Giáp đă
tự cho phép bộc lộ những t́nh cảm sâu kín
của ḿnh. Suốt trong những tuần lễ
tôi làm việc cùng ông, bao giờ ông cũng tỏ
ra lịch sự, thẳng thắn và say mê công việc,
nhưng không bao giờ để lộ ra bất cứ một t́nh
cảm nào đối với Mỹ hoặc cá nhân tôi. Trừ dịp
này và trong dịp lễ tiếp đón khi cờ của Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tung bay cùng với cờ
Mỹ, tôi đă xếp Giáp vào hàng ngũ những người
Cộng sản cứng rắn, và cũng có nghĩa là những
người này coi Mỹ là một nước đế quốc không
thể mang lại được một cái ǵ tốt đẹp cho sự
nghiệp của người Việt Nam và tất nhiên là
phải có một thái độ đối xử với người đại
diện của Mỹ (tôi) một cách thận trọng(2).
Nhưng lúc đó, tôi tin
chắc là ông đă hoàn toàn thành thật.
Khi Giáp đi ra, tôi cảm thấy có một ánh mắt
hài ḷng và đồng t́nh trên mặt ông Hồ. Tôi
cho lời từ biệt của Giáp sẽ được ông Hồ
khuyến khích, nhưng cũng rất có thể là một
cử chỉ thật ḷng của ông ta.
Tôi khó mà rơ được thực
hư như thế nào.
Khi chỉ c̣n ông Hồ và
tôi, ông hỏi ngay có phải Mỹ đang cho phép
Pháp trở lại Việt Nam không?
Ông không bàn luận mà lo
lắng và chỉ muốn qua tôi để biết một cách
không chính thức điều mà tôi nghĩ hoặc biết
về chính sách Mỹ đối với những ư đồ quá hiển
nhiên của Pháp.
Tôi nói cho ông biết chính sách Mỹ khi tôi
mới nhận nhiệm vụ là một chính sách “tránh
khỏi” Đông Dương, ngoại trừ các hoạt động
t́nh báo nhằm vào đối tượng người Nhật. Tôi
cũng nhắc lại là Roosevelt đă nhiều lần
tuyên bố về chính sách Mỹ không ủng hộ các
tham vọng thuộc địa của Pháp và không can
thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Chính sách đó hiện vẫn
được thi hành. Tôi đi xa hơn một bước
và nói với ông Hồ rằng từ khi Roosevelt mất,
nước Mỹ đă không hề có một bản tuyên bố
chính thức nào có nói đến vấn đề chủ quyền
Pháp đối với Việt Nam, cũng như Mỹ đă không
ủng hộ các kế hoạch của Pháp về Đông Dương.
Sự thật là tôi biết chắc chắn rằng không có
một sự thay đổi nào trong chính sách đ̣i hỏi
Mỹ phải ủng hộ Pháp dùng vũ lực để khôi phục
địa vị trước 1940 của Pháp ở Việt Nam.
Tôi cho rằng lập trường
của Mỹ cần phải thay đổi nếu như nhân dân
Việt Nam muốn cho những người Pháp quay trở
lại với một điều kiện nào đó.
Nhưng đó thực ra chỉ là
những điều phỏng đoán.
Tôi cũng nêu ra vấn đề là trước khi đi nhận
nhiệm vụ ở Hà Nội cũng như nhiều lần sau
này, tôi đă nhận được chỉ thị nhắc nhở là
đại diện của Mỹ ở Việt Nam phải tuyệt đối
trung lập. Tôi báo cho ông Hồ biết rằng dù
xu hướng cá nhân của tôi có chống lại hay
thiên về một nhóm nào hay một lư tưởng nào
đi nữa th́ tôi vẫn phải tuân thủ một cách
nghiêm ngặt các chỉ thị đă nhận được và có
thể nhiều lần hành động của tôi đă bị nhiều
thế lực khác nhau hiểu lầm. Đối với tướng
Gallagher, với AGAS, và các người Mỹ khác ở
Việt Nam, tôi đảm bảo với ông Hồ rằng nhiệm
vụ của họ được hạn chế trong việc giúp đỡ
người Trung Quốc, về công tác chính thức mà
các nước Đồng minh đă giao cho Tưởng - đó là
việc giải giáp quân Nhật bại trận.
Chúng tôi đă nhiều lần
trao đổi về vấn đề này.
Nhưng trong lần cuối
cùng này, tôi cảm thấy tôi đă không để cho
ông Hồ có một ảo tưởng hoặc hy vọng giả tạo
về sự viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam.
Ông Hồ lắng nghe một cách chăm chú, rồi lắc
đầu; ông nói với tôi ông không thể hoà giải
được lập trường của Mỹ ở Washington, Québec,
Téhéran và Postdam với thái độ thụ động của
nước này trước t́nh h́nh khẩn cấp đang xảy
ra ở Sài G̣n. Ông không thể nào hiểu được
rằng Mỹ, một nước nổi tiếng chống chủ nghĩa
thực dân mà lại làm ngơ và cho phép Anh và
thậm chí cả Trung Quốc giúp Pháp trong mưu
đồ nhằm áp đặt lại chế độ thuộc địa ở Việt
Nam. Ông nói không ai mù để mà không thấy
được sự thật hiển nhiên là quân đội Pháp
được Mỹ trang bị và tiếp tế, sớm muộn sẽ xâm
chiếm Lào, Cambodia, Trung Kỳ và cả Bắc Kỳ
nữa. Ông nói thêm một cách u uẩn: “Điều đó,
họ sẽ phải trả bằng một giá đắt”(3).
Nhưng một lần nữa, ông
vẫn hy vọng Mỹ sẽ ḱm chế được ư đồ thực dân
ngoan cố của Pháp. Ông lập luận rằng
nếu Mỹ chỉ dùng ảnh hưởng của ḿnh để tác
động đến De Gaulle thôi th́ cũng có thể đạt
tới được một cuộc ngừng bắn ở Việt Nam,
trong đó không chỉ riêng Pháp, mà tất cả các
nước bạn bè, đều có lợi v́ nền độc lập của
Việt Nam. Buông người
trên ghế một cách thoải mái, ông Hồ tiếp tục
nói. C̣n tôi th́ bị
thu hút khá mạnh
bởi cái triết lư của cá nhân ông nên không
hề ngắt lời ông dù chỉ với một câu hỏi. Ông
nói một cách chậm răi dịu dàng nhưng say sưa
và cẩn thận chọn lọc từng chữ một.
Ông đă nghĩ tới vấn đề của một cộng đồng
Liên Á gồm có ít nhất là Việt Nam, Cambodia,
Lào, Thái Lan, Malaysia, Miến Điện (gồm cả
Bengale), một Ấn Độ độc lập, một Indonesia
tự do và Philippin. Các nước này và cũng có
thể thêm các nước khác nữa cùng làm việc với
Mỹ, Anh, Pháp, sẽ góp phần xây dựng một cuộc
chung sống hoà
b́nh để phát triển các chương tŕnh mở mang
về chính trị và kinh tế v́ lợi ích chung.
Tôi thoáng như nghe thấy một cái ǵ đây rất
giống vối khái niệm Khối thịnh vượng chung
Đại Đông Á của Nhật. Nhưng ông Hồ đă nhấn
mạnh vấn đề tương hỗ giữa các nước b́nh đẳng
với nhau và coi đó là một điều căn bản khác
với một tổ hợp khu vực đặt dưới quyền thống
trị của Nhật.
Ông Hồ coi Mỹ là nước đi đầu trong phong
trào nói trên. Ông hỏi, “Phải chăng chính Mỹ
đă khai phá ra con đường này ở Philippin?”.
Và ông thấy “mây mù băo táp” đă bao trùm
Nghị viện Anh trong vấn đề trao trả đất đai
của Ấn Độ và Malaysia cho nhân dân, những
người chủ có đầy đủ thẩm quyền chính đáng
của Ấn Độ và Malaysia.
Ông Hồ cho rằng chủ nghĩa thực dân là một
thứ đă thuộc về quá khứ.
Đă gần một thế kỷ nay,
chế độ thực dân của bất cứ nước nào, ngay cả
các cường quốc hào phóng nhất, cũng đă thể
hiện là một chế độ áp bức và lạc hậu.
Nhân phẩm con người đă bị huỷ hoại, nền
thịnh vượng quốc gia bị tước đoạt ngoài sức
tưởng tượng. Nay đă đến
lúc phải thay đổi.
Để hỗ trợ cho quan điểm của ḿnh, ông Hồ lại
đưa ra những nguyên tắc chung mà Roosevelt
và Churchill đă nêu lên trong Hiến chương
Đại Tây Dương, Mỹ và Anh đă đảm bảo với thế
giới rằng họ không t́m kiếm những lợi ích về
đất đai; và cũng không khuyến khích những sự
cưỡng bách thay đổi đường biên giới ngược
lại ư nguyện của nhân dân, mặc dù Anh đă
giúp đơ cho Pháp ở Việt Nam và Thái Lan; cả
Mỹ và Anh dă nhiều lần tuyên bố công nhận
quyền của các dân tộc tự chọn lấy h́nh thức
chính quyền mà họ muốn và người Việt Nam
muốn được hưởng đặc quyền đó.
Cả hai nước Mỹ và Anh
đều tuyên bố họ thấy cần thiết phải khôi
phục lại chủ quyền và quyền tự trị cho các
dân tộc đă bị người ta cưỡng đoạt mất.
“Tại sao điều đó lại không được áp dụng cho
Việt Nam?”, ông
Hồ hỏi.
Ông đă nhấn mạnh vào sự cần thiết phát triển
kinh tế của Việt Nam không phải thuộc Pháp,
Nhật và Trung Quốc, hoặc thậm chí cả Mỹ; mà
là độc lập đối với mọi sự thống trị của nước
ngoài. Như Mỹ và Anh
trước đây, Việt Nam chủ trương một sự tự do
thông thương trên thế giới, chứ không phải
như trước đây chỉ hạn chế vào nước Pháp hoặc
Trung Quốc. Không có tự do thông
thương, Việt Nam sẽ không bao giờ phồn vinh
về kinh tế, và nhân dân Việt Nam như trước
đây, sẽ bị chặn lại để chỉ làm những công
việc thủ công tầm thường và buôn bán vụn
vặt.
Nếu đó thực sự là những nguyên tắc cao siêu
mà Mỹ và Anh đă phấn đấu trong Thế chiến thứ
hai, th́ tại sao trong bước khởi đầu thời kỳ
hậu chiến, họ đă từ bỏ những nguyên tắc đó
và đặc biệt là đă chối từ không áp dụng
chúng cho Việt Nam? Đúng
là Mỹ đă giúp đỡ cho cuộc đấu tranh của Việt
Nam trước đây, và đă tỏ ra có mục đích thành
thật ở Philippin. Tại sao nay Mỹ lại
tỏ ra nhu nhược trong khi Pháp
vi phạm các
nguyên tắc Hiến chương Đại Tây Dương và của
Liên hợp quốc? Tôi đă
không đáp lại và ông Hồ cũng chẳng chờ đợi
câu trả lởi.
Đột nhiên ông Hồ ngừng
mơ mộng, mỉm cười và nói mong tôi sẽ bỏ qua
sự suy tưởng đầy cảm tính của ông.
Ông Hồ cho biết, đối với
ông, việc bộc lộ những t́nh cảm thầm kín với
người ngoại quốc là một điều khó khăn; nhưng
ông coi tôi như là một người bạn rất đặc
biệt mà ông có thể thổ lộ tâm t́nh được.
Lần thứ hai trong chiều
nay, tôi cảm thấy xúc động trước những thái
độ cư xử đối với cá nhân tôi.
Cả Giáp và ông Hồ đều
biết rằng họ chỉ có thể chờ đợi ở tôi nhiều
nhất là một sự thông cảm và mối cảm t́nh.
Nhưng đồng thời tôi cũng thấy được họ đă
nhân cơ hội thuận lợi của buổi gặp gỡ cuối
cùng này để làm sáng tỏ chính bản thân họ và
sự nghiệp chính nghĩa của họ một cách tốt
nhất. Cho đến lúc đó, họ c̣n bị cô lập khỏi
thế giới Cộng sản, bị các cường quốc ích kỷ
bao vây chung
quanh, và họ chỉ thấy được số ít người Mỹ mà
họ đă có quan hệ giao tiếp. Người Mỹ lại
chính là những người đă thấy được các khó
khăn trong việc hoàn thành và duy tŕ nền
độc lập của dân tộc cũng do đó mà đối với
mối quan hệ không thể hiểu được này, người
Pháp ở Đông Dương đă khinh miệt, căm thù và
ra sức đả phá bằng mọi cách.
Tôi hướng câu chuyện vào
đề nghị mới đây của Pháp về một sự thoả hiệp
giữa người Việt Nam và chính phủ Paris.
Ông Hồ nhắc tôi nhớ lại
đề nghị khó hiểu của Alessandri để ông gặp
với D'Argenlieu.
Với mục đích ǵ? Ông Hồ đă làm
theo lởi khuyên
của tôi, nhưng ngay trước khi thu xếp được
cuộc gặp gỡ, người Pháp đă bộc lộ sự dối trá
của họ và thái độ coi thường hoàn toàn đối
với nền độc lập dân tộc Việt Nam. Họ đă đi
theo “những con
đường ṃn cũ” của những tên thực dân Pháp.
Ông Hồ nhận xét một cách châm
biếm rằng Sainteny, con rể của cựu Toàn
quyền Albert Sarraut không những đă chối từ
không chịu nói chuyện với ông trong tháng 7,
mà cả đến tháng sau, ở Hà Nội, Sainteny đă
tỏ ra hoàn toàn không có thiện cảm đối với
sự nghiệp chính nghĩa của người Việt Nam
trong khi hội đàm với Giáp.
C̣n về Alessandri?
Người Pháp đă dựng ông lên thành một “anh
hùng kháng chiến”. Nhưng
chống ai? Chống
Nhật ư? Hay chống chính ngay người
Việt Nam yêu nước? Nhưng chắc chắn là không
phải chống lại chính quyền Decoux hợp tác
với bè lũ Vichy và bọn phát xít Nhật. Lịch
sử mới đây c̣n ghi nhận vai tṛ của
Alessaildri là một người lănh đạo đă tích
cực tham gia vào chương tŕnh Mordant.
Chính những người Pháp
không được cải tạo này lại muốn nhân danh
“nước Pháp mới” để nói về tương lai của Việt
Nam. Cái tương
lai duy nhất mà họ muốn và sẽ thảo luận chỉ
là sự tiếp tục của một “xứ Đông Dương thuộc
Pháp” cũ, một vấn đề không c̣n có giá trị
nữa.
Tôi hỏi xem có phải ông
Hồ đóng kín cửa cho mọi cuộc đàm phán sau
này với nước Pháp không. Không, ông
nói, ông sẵn sàng thảo luận về các vấn đề
Việt Nam, nhưng những cuộc thảo luận như vậy
phải được xúc tiến trên cơ sở của ḷng tin
cậy lẫn nhau như những người b́nh đẳng, và
đó cũng không phải là như trường hợp hiện
nay.
“C̣n xung quanh vấn đề người Trung Quốc th́
sao?”, tôi hỏi
tiếp. Ông đứng dậy, quay
lưng lại và đi về phía cửa sổ. “Có
thể thấy trước được.”.
Trở lại ghế ngồi, ông
nói thêm, “một khi họ đă cuỗm được tất cả
cái ǵ họ có thể mang đi được, th́ họ sẽ rời
Việt Nam trở về Trung Quốc”. Nhưng,
trước khi rút lui, họ c̣n phải gây ra
tai hoạ cực kỳ to
lớn cho đất nước này, không những về phương
diện kinh tế mà c̣n cả về chính trị. Việt
Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội sẽ gây
chia rẽ giữa người Việt Nam với nhau, c̣n
các viên tướng Trung Quốc chắc chắn sẽ giao
dịch với người Pháp để gây ra những sự thù
nghịch đối với lợi ích tối cao của Việt Nam.
Ông Hồ lấy Nguyễn Hải
Thần, lănh tụ Đồng minh Hội làm ví dụ.
Ngày hôm trước, Thần đă đề nghị với ông Hồ
cụ thể “về một Hiệp định thống nhất” - một
chính phủ có cơ sở mở rộng gồm Đồng minh
Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Minh
cùng một ít đại diện các đảng Quốc gia khác.
Theo đó, ông Hồ sẽ
nhường chức Chủ tịch cho Thần, c̣n ông Hồ sẽ
đảm nhiệm chức Phó Chủ tịch và Cố vấn cao
cấp. Sẽ giao cho
mỗi đảng nói trên ¼ các Bộ trong Chính phủ,
phần c̣n lại sẽ chia cho các đảng phái nhỏ
khác. Ngược lại, ông Hồ, Việt Minh và
Chính phủ mới sẽ nhận được sự ủng hộ đầy đủ
nhất của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) để chống
lại mọi cố gắng của Pháp nhằm chiếm lại Bắc
Kỳ.
Ông Hồ đă tiếp nhận đề nghị trên với nhiều
sự dè dặt và cũng không bác bỏ nó một cách
hoàn toàn. Thần đă không hay biết ǵ việc
ông Hồ đă biết rơ về cuộc điều đ́nh của Pháp
với Thần trong tuần lễ có liên quan đến sự
hợp tác Pháp - Hoa - Việt. Người Pháp đă cho
biết là ngay sau khi người Tmng Quốc rút về,
họ sẽ thực hiện bản Tuyên bố 24-3, và công
nhận một Chính phủ liên bang cho Đông Dương,
được đặt dưới h́nh thức này hay h́nh thức
khác, trong Liên hiệp Pháp và “theo những
điều khoản thuận lợi nhất cho người Việt
Nam”. Nếu lúc đó tồn tại
một Chính phủ không Cộng sản th́ chắc chắn
là nước Pháp sẽ công nhận ngay.
Tất nhiên Đồng minh Hội
và Việt Nam Quốc dân Đảng đều là chống Cộng,
v́ thế mà điều trở ngại chủ yếu sẽ được khắc
phục. Ư đồ của
người Pháp là muốn thấy Việt Minh bị vô hiệu
hoá, và họ dựa vào những người Quốc gia thân
Trung Quốc để làm việc này. Người
Pháp cho rằng Thần có thể thực hiện được
điều nói trên và họ đă điều đ́nh với Thần mà
họ đă lầm cho là một con người “mềm mỏng”
chứ không phải là một lănh tụ nhu nhược
ngoại hạng.
Cuộc điều đ́nh đă không phải không làm cho
tướng Tiêu Văn và Quốc dân Đảng (Trung Quốc)
hài ḷng, v́ cái mà họ sợ nhất chính là Hồ
Chi Minh do “Moskva đào tạo” và “Việt Minh
có xu hướng Cộng sản ghê gớm”.
Khi tôi hỏi ư kiến ông Hồ về đề nghị của
Thần, ông đáp lại dó là điều cũng có thể
nhưng không có khả năng tiếp nhận được.
Nó có thể làm tŕ hoăn
cuộc đụng đầu không thể tránh khỏi với người
Trung Quốc và hoặc với người Pháp.
Nhưng ông tỏ ra hoài
nghi đối với sự hợp nhất đă được đề ra và
gần như tin chắc rằng nếu không có sự lănh
dạo của Việt Minh th́ sự nghiệp đấu tranh
cho độc lập sẽ bị thất bại.
Đồng minh Hội hoặc Việt
Nam Quốc dân Đảng có thể duy tŕ cái vỏ bên
ngoài một chính phủ độc lập khi nào họ c̣n
được người Trung Quốc nâng đỡ. Nhưng
bất kỳ họ được dựng lên bằng cách nào đi nữa
th́ họ vẫn được đặt dưới quyền kiểm soát của
người Pháp, người Trung Quốc sẽ chỉ tiếp tục
ủng hộ họ trong điều kiện phù hợp với kế
hoạch bóc lột về kinh tế của Trung Quốc.
Người Trung Quốc chỉ
ngăn chặn người Pháp cho tới khi cuộc điều
đ́nh của họ giữa Paris và Trùng Khánh đạt
được thắng lợi.
Lúc đó họ sẽ rút lui và cái chính phủ bù
nh́n thân Trung Quốc sẽ bị bỏ rơi và bất lực
trong việc đụng đầu với đội quân Leclerc của
Pháp; và nước Việt Nam một lần nữa trở thành
thuộc địa Pháp.
Lương tâm không cho phép ông Hồ để xảy ra
t́nh trạng đó. Ông sẽ t́m ra phương
pháp để làm chủ được t́nh h́nh dù có phải ra
bưng biền chiến đấu, như ông dă từng gợi ư
trước đó vài hôm.
Đêm đă khuya, tôi chuẩn
bị xin rút lui; nhưng ông Hồ nói tôi nán
ngồi lại. Tôi lại
ngồi xuống, ông cảm ơn tôi v́ đă tỏ ra thận
trọng, đă không bao giờ giục giă, kèo nài
tin tức, đă tôn trọng và giữ kín đáo các ư
kiến của ông. Ông
cũng cảm tạ điều tôi đă không bao giờ hỏi
ông về bối cảnh hoạt động của ông, mặc dù,
ông biết rằng tôi cũng thông thạo nhiều giai
đoạn trong cuộc đời của ông. Ông mô
tả vắn tắt cuộc viễn du “khắp thế giới” của
ông cho tôi hay là ông đă ra đi từ lúc lên
10, hoặc ít tuổi hơn nữa.
Ông nói có một anh và
một chị, tỏ ra thương yêu sâu sắc bà mẹ già
và người chị gái, và cho rằng những người đó
đă có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng chính
trị của ông.
Trước đây tôi tưởng quê ông ở miền bắc Bắc
Kỳ, nhưng ông nói ông sinh trưởng ở một làng
nhỏ Trung Kỳ, Hoàng Trù, và lớn lên tại làng
Kim Liên, quê bố. Cha
ông đă trở thành một công chức nhỏ tại triều
đ́nh Huế. Khi ông
Hồ chưa đầy 8 tuổi, cha ông đưa cả gia đ́nh
vào sồng ở Huế vài năm, sau lại chuyển về
Kim Liên. Ông Hồ cũng nói một vài nét
về sự nghèo nàn của nông dân các thôn xóm
nhỏ dưới cái mà ông Hồ gọi là “chế độ cũ” và
cả về đời sống vô tích sự của giới quan lại
ở Huế.
Khi ông Hồ 15 tuổi, cha
ông lại trở về Huế. Ông Hồ đi học ở
đó và đă rất bực bội v́ kiểu cách
theo phương Tây
của người hiệu trưởng và một số thầy giáo.
Ông cho là họ kiêu căng,
nghiệt ngă và khinh miệt nông dân, công nhân
và dân buôn bán. Ông Hồ tả cho tôi
biết nhà trường lúc đó chỉ là “một cái vũng
nước chứa đầy tư tưởng của phương Tây đang
tuôn ra một nền triết lư thực dân để vun
trồng một mớ những tên đầy tớ ngoan ngoăn có
lợi cho nước Pháp”.
Trong những năm sau khi mẹ ông mất vào
khoảng 1900, ông Hồ không chịu đựng nổi sự
kiêu ngạo của người Pháp cũng như thái độ
thụ động của người Việt, nên đă quyết định
sang Pháp, đất nước của tự do, b́nh đẳng và
bác ái. Mùa đông 1911 -
1912, ông đă xin làm nhân viên trên một tàu
buôn Pháp ở bến Sài G̣n. Ông cho tôi
hay là đă lên dường như một thuỷ thủ và đă
xuống cảng Marseille. Những cảnh phạm tội,
cướp đoạt, giết chóc, đĩ thoă thường xuyên
của bến cảng đă làm ông vỡ mộng; ông buồn
rầu tự hỏi tại sao người Pháp lại không tẩy
trừ những giống quỷ quái đó của chính họ
trước khi họ muốn dạy dỗ và “văn minh hoá”
người Việt Nam. Nhưng
đồng thời ông cũng lại thấy được rằng nhân
dân Marseille đối xử với ông một cách lịch
sự, trong khi người Pháp ở Việt Nam đă rất
trịch thượng đối với người Việt Nam.
Ông Hồ cũng kể lại những
chuyến đi sau này tới Bồ Đào Nha, Italia và
Tây Ban Nha, nhưng ở đấy ông không bao giờ
vượt quá khư vực các hải cảng.
Ông đă đến nhiều cảng
Đông và Bắc Phi, và đă có một lần thăm Congo
và Madagassca. Ở đâu ông cũng quan
sát thái độ của người da trắng đối với người
châu Á và dân đa đen Phí Châu.
Đâu cũng giống như ở
Việt Nam. Ông nói với tôi: “Thực là
tồi tệ!”.
Tôi ṭ ṃ biết điều ǵ đă làm cho ông quyết
tâm lựa chọn con đường chủ nghĩa Cộng sản.
Ông Hồ cho biết ông đă
không đi thẳng ngay vào chủ nghĩa Cộng sản,
mà đă tới với triết lư Cộng sản thông qua
chủ nghĩa xă hội.
Trong thực tế, ông vẫn chưa coi ông là một
người Cộng sản thật sự mà chỉ là một người
“dân tộc - xă hội”. Ở Anh vào năm
1913, ông đă gặp một nhóm người châu Á, phần
lớn là người Trung Quốc và người Mă Lai đang
chống lại chủ nghĩa thực dân (chủ yếu là
Anh) và đă để nhiều th́ giờ trao đổi những
vấn đề giúp đỡ nhau tại câu lạc bộ “Các công
nhân hải ngoại”. Họ đă thảo luận về các cuộc
đàn áp chính trị của thực dân trong các
thuộc địa Anh, Pháp, Hà
Lan và Bồ Đào Nha. Ông Hồ nói rằng,
lần đầu tiên, ông đă thấy có thể làm được ǵ
đó để cải thiện số phận của nhân dân ở trong
nước ông và cũng chỉ bằng các hoạt động
chính trị phối hợp mới có thể làm cho nhân
dân Việt Nam được đối xử như một cái ǵ cao
hơn là những đầy tớ của Pháp. Ông quyết định
trở lại Pháp v́ được tin ở đó có một số trí
thức Việt Nam đă đề xuất ra những chương
tŕnh cải cách chính trị xă hội cho Việt
Nam.
Sau Thế chiến thứ nhất, ông
lao vào hoạt động
chính trị và gia nhập Đảng Xă hội Pháp. Ông
viết bài cho tờ báo xă hội, Le Populaire, về
các vấn đề Việt Nam và các vấn đề thuộc địa
nói chung khác.
Qua những buổi tiếp xúc ban đầu với giới
chính trị, ông đă gặp Jean Longuet, người
cháu của Karl Marx, Uỷ viên Nghị viện lập
pháp. Longuet đă khuyến khích ông tiếp tục
cộng tác, và với sự giúp đỡ của các nhà báo
tự do có cảm t́nh, ông Hồ đă viết cho báo
chí Xă hội và Cộng sản những bài chống chế
độ và thân Việt Nam.
Với một nụ cười như để cáo lỗi, ông Hồ công
nhận với tôi là mặc dù ông đă tham gia vào
tất cả các hoạt động chính trị nhưng thực ra
ông chỉ theo đuổi
một mục đích duy nhất nhằm cải thiện số phận
của chính nhân dân ông.
Bấy giờ, ông không thể hiểu được, mà cũng
không quan tâm đến phong trào và chính cuộc
quốc tế. Ông không hiểu rơ chủ nghĩa
Xă hội, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Lao
công, và cả đến cái mà một đảng chính trị
phải làm. Theo ông Hồ, lúc đó trong đảng,
người ta thảo luận sôi nổi các vấn đề như
tham gia Đệ nhi Quốc tế, Đệ tam Quốc tế,
Công nhân và Phong trào thế giới, Đảng Xă
hội với cuộc Cách mạng Bolshevik tháng 10 và
vấn đề đi theo Đệ tam Quốc tế của Lénin.
Trong một thời gian dài,
ông nói ông lấy làm lạ về những ǵ đă diễn
ra trong Đệ tam Quốc tế, và chúng tôi đều
cười. Người ta
chỉ phát biểu về các phong trào thế giới,
các cuộc cách mạng vô sản v.v… và ông không
hề thấy ai nói tới vấn đề của thế giới thuộc
địa. Ông cảm thấy
thất vọng và mất tin tưởng.
Ai cũng có thiện cảm với
ông, họ đối xử với ông như một người b́nh
đẳng và gọi ông là “đồng chí” hay là “ông
Quốc”. Nhưng
những người bạn mới này vẫn coi vấn đề thuộc
địa là không quan trọng, một vấn đề nhỏ hẹp
chỉ sẽ được giải quyết ở mức thứ yếu.
Một hôm, ông Hồ nêu lên câu hỏi giản đơn xem
Quốc tế nào đă đứng về phía các dân tộc
thuộc địa và được một tâm hồn tốt lành nhủ
cho biết là: “Đệ tam” và người ta đă mang
tới cho ông bản Luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lénin.
Ông Hồ nói, “Đó là một bước ngoặt lớn trong
đời tôi!”.
Rốt cuộc ông đă t́m được
một điểm tựa. Ông vô
chung xúc động
bởi phong cách và sự hiểu biết sâu sắc của
Lénin. Ông trở thành một người đi đầu
theo chủ nghĩa
Lénin, tích cực tham gia các cuộc hội thảo
chính trị của đảng và mạnh mẽ lên tiếng ủng
hộ Đệ tam Quốc tế. Ông
đọc và nghiên cứu mọi tài liệu về vấn đề
thuộc địa và dân tộc mà ông gặp.
Ông được nhiều đảng viên
thông thái giúp đỡ và ông đă vận động Đảng
Xă hội gia nhập Đệ tam Quốc tế. Đến
Đại hội VIII Đảng Xă hội Pháp ở Tours tháng
12-1920, ông Hồ cùng với các phần tử cánh tả
trong đảng bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản
Pháp và xin gia nhập vào Đệ tam Quốc tế
(Comintern). Ông Hồ b́nh
luận với tôi là thực tế cũng có rất ít người
trong các giới chính trị quan tâm đến vấn đề
thuộc địa, nên ông thấy không có sự lựa chọn
nào khác. Ông Hồ
cũng đă lớn tiếng bày tỏ ông dă sai lầm như
thế nào khi nghĩ rằng người Pháp, Anh và
người Cộng sản Nga sẽ quan tâm đến vấn đề
Việt Nam. “Trong tất cả những năm
tiếp theo, không
một trong những phần tử gọi là tự do này đă
đi tới giúp đỡ cho các dân tộc thuộc địa.
Tôi đặt nhiều tin tưởng
vào Mỹ trong việc ủng hộ cho nền độc lập của
Việt Nam, trước khi tôi có thể hy vọng vào
sự giúp đỡ của Liên Xô”.
Ông Hồ nói rằng người Mỹ coi ông như là “bù
nh́n của Moskva”, “một người Quốc tế Cộng
sản”, chỉ v́ ông đă ở Moskva và nhiều năm ở
nước ngoài. Nhưng ông nói, ông không phải là
một người Cộng sản theo
nghĩa của Mỹ hiểu. Ông
không có một sự cam kết nào khác.
Ông tự coi ḿnh là một
nhà hoạt động cách mạng độc lập.
Nhưng nếu t́nh thế biến chuyển tới một điểm
cao, ông nói ông sẽ bắt buộc phải t́m kiếm
cho được đồng minh, nếu như đă chẳng t́m
được ai, nếu không thế th́ người Việt Nam sẽ
phải đi tới một ḿnh.
Đến lúc đó đă là quá
muộn và một lần nữa tôi lại đứng dậy xin cáo
lui. Ông Hồ kéo
chiếc đồng hồ cũ ra xem giờ và hỏi tôi ngồi
thêm một phút nữa được không?
Và tôi lại ngồi xuống.
Ông Hồ yêu cầu tôi mang về Mỹ một bức thư
đầy t́nh hữu nghị và ca tụng nồng nhiệt nhân
dân Mỹ. Ông mong rằng người Mỹ phải biết là
nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên Mỹ
là bạn và đồng minh. Họ măi sẽ biết ơn về sự
giúp đỡ vật chất mà Việt Nam đă nhận được,
nhưng điều quan trọng hơn cả là vấn đề tấm
gương lịch sử của nước Mỹ đă nêu cho Việt
Nam, trong cuộc đấu tranh của họ để giành
độc lập.
Ông Hồ tiễn tôi ra tận
cửa ngoài, cám ơn tôi đă tới và đă chịu nghe
ông “diễn thuyết”. Ông đặt hai
tay lên vai tôi
và chúc “Bon voyage!
Mong sớm quay trở lại. Lúc nào ông
cũng được chúng tôi hoan nghênh!”.
Khi xe nổ máy,
tôi nh́n lại vẫn thấy bóng nhỏ nhắn của ông
ở cửa, vẫy chào tạm biệt.
Tôi sực nhớ lại cuộc gặp
gỡ đầu tiên của chúng tôi trong một tiệm trà
ở Chiu Chou Chieh.
Ông hiện ra mong manh
đấy nhưng thực tế thật là bất khuất.
Chú thích
(1) Chúc lên đường may mắn
(2) Ba mươi năm sau, h́nh như Giáp vẫn c̣n
phân vân đối với mối thiện cảm và sự ủng hộ
của tôi với cuộc đấu tranh v́ độc lập của
nhân dân Việt Nam. Xem
“Những năm tháng không bao giờ quên”, Vơ
Nguyên Giáp.
(3) Trong năm 1945, vấn đề Lào và Cambodia
không bao giờ được coi như là những vấn đề
của các thực thể chính trị riêng biệt. Trong
bối cảnh cuộc đấu tranh v́ độc lập của nân
dân Việt Nam, tổ hợp 3 nước Đông Dương đă
được chuyển qua khái niệm Pháp thành “Liên
bang Đông Dương thuộc Pháp”. Trong những lần
khác nhau, tôi có hỏi Trường Chinh và Hoàng
Minh Giám để biết rơ vấn đề gơi Việt Nam là
một quốc gia mà lại dùng danh từ Đông Dương
để đặt cho Đảng Cộng sản Đông Dương. Cả hai
đă giải thích là ở đây không có ǵ mâu thuẫn
v́ từ khi 3 nước bị đặt dưới sự cai trị của
Pháp đă phát triển những đặt điểm chung về
địa lư, chính trị và quyền lợi kinh tế.
Phần IV
HẬU QUẢ
Chương 36
Chim hải âu của nước Mỹ
I.
Ở Washington tôi đă thấy có những thay
đổi khá mạnh mẽ trong cảnh tượng sau
chiến tranh. Phần lớn những người cộng
tác cũ với tôi đă quay trở lại cuộc sống
dân thường, và trong cơ quan của OSS ở
cuối đại lộ Hiến Pháp chỉ có một số ít
văn pḥng c̣n tiếp tục mở cửa. Rơ ràng
có thể thấy ở đây đang diễn ra một sự
chuyển biến nổi bật sang một thời kỳ
nhàn nhă thảnh thơi. Khi tôi tới là vào
giữa tháng 11 và được vào làm việc trong
một cơ quan quan trọng, ở đó tôi có
nhiệm vụ khởi thảo kế hoạch về Đông
Dương và giữ liền lạc với Bộ Ngoại giao
và Bộ Chiến tranh. Trước một đống báo
cáo và điện tín dồn dập từ khắp nơi: Sài
G̣n, Hà Nội, Côn Minh, Thượng Hải và
Kandy gửi về, tôi cảm thấy ḿnh trở
thành lạc lơng và vô tích sự. Tất cả đều
báo hiệu trước một sự trở lại nguyên
trạng cũ ở Đông Dương. Việc chúng tôi
rời khỏi sân khấu khu vực này đă được
người ta coi như một sự chấp nhận chính
thức của Mỹ cho việc Pháp quay trở lại.
Trong giới chính quyền ở Washington,
những lời tuyên bố cao thượng trong thời
kỳ chiến tranh về tự do, công bằng và tự
quyết đă nhanh chóng bị ch́m ngập trong
cuộc xô đẩy vội vàng để đưa nước Mỹ trở
lại thời kỳ trước chiến tranh. Dĩ nhiên,
chúng tôi đă có một Tổng thống mới và
một Bộ trưởng Ngoại giao mới, nhưng cả
hai đều có thể bị khuất phục trước những
áp lực to lớn về chính trị - kinh tế từ
trong và ngoài nước. Ê kíp mới ở Nhà
Trắng đă không có ǵ gắn bó và phần lớn
cũng đă không tham gia vào cái viễn vọng
của Roosevelt về một thế giới hoà b́nh,
thoát khỏi mọi sợ hăi và thiếu thốn. Nền
chính trị đối nội và đối ngoại của chúng
tôi đang ở trong t́nh trạng hỗn loạn,
đầy rẫy những nghi ngờ, xung đột, đấu
tranh và ngập ngừng.
Sản xuất chiến tranh đă đột ngột dừng
lại và luồng nhân lực mới được giải ngũ
ào tới đă gây nên vấn đề không có công
ăn việc làm cực kỳ to lớn; sự bất lực
của công nghiệp nhằm nhanh chóng chuyển
các xí nghiệp sang sản xuất vật dụng
thời b́nh, đă làm cho giới lănh đạo nhà
nước hoảng sợ. Thị trường thế giới bị
tan vỡ và khủng hoảng làm tăng thêm các
khó khăn trong nước. Các nước châu Âu và
châu Á đúng trước nhiệm vụ phải phục
hưng đất nước, đang trông cậy vào nước
Mỹ vẫn c̣n được nguyên vẹn để cứu trợ và
lănh đạo họ trong việc khôi phục lại nền
kinh tế.
Từ trước Thế chiến thứ hai, chính sách
đối ngoại của Mỹ đă phản ảnh một thứ chủ
nghĩa bành trướng áp đảo trong lănh vực
tài chính và thương mại Chính sách tiềm
tàng này đă dẫn đến việc thiết lập một
cách không tự giác trên toàn thế giói,
một mạng lưới các khu vực ảnh hưởng kinh
tế, phục vụ quyền lợi các tập đoàn kinh
doanh và các giới kinh tài có đặc quyền
đặc lợi. Việc bảo vệ quyền lợi của các
tập đoàn đó đ̣i hỏi phải có những người
đại diện trung thành của họ tham gia vào
việc ấn định và thi hành mọi chính sách
và luật lệ của đất nước. Ngay trước Thế
chiến thứ nhất, Washington đă trở thành
nơi đất thánh của các thế lực muốn gây
ảnh hưởng trong Nghị viện, và của các
nhóm có đặc quyền đặc lợi. T́nh h́nh
đúng như điều Bộ trưởng Quốc pḥng C.E.
Wilson đă nêu ra sau Thế chiến thứ hai,
“Cái ǵ tốt cho hăng Général Motor, đều
là tốt cho đất nước”. Và cũng từ đó, các
nhà kinh tế học đă đề xuất ra cái học
thuyết là tư bản ngự trị trên tất cả và
phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào.
Những năm tháng trong Thế chiến thứ hai
đă khẳng định học thuyết này; các nhà
học giả đă rút ra được và suy tôn ư kiến
là nền an ninh quốc gia của Mỹ đă được
gắn chặt không thể gỡ ra được với sự
kiểm soát thị trường và tài nguyên bên
ngoài bằng liên kết trong nền thống trị
về chính trị và quân sự. V́ thế cho nên,
ngay trước khi danh từ “tổ hợp quân sự -
công nghiệp” ra đời, các cấp chóp bu
trong chính quyền chúng ta cùng với các
phần tử thống trị của tập đoàn kinh
doanh và ngân hàng, mang quân phục hay
thường phục, đă lớn tiếng kêu gọi phải
bảo vệ quyền lợi kinh tế Mỹ trên khắp
thế giới chống lại sự xâm lược của các
nước Xă hội chủ nghĩa.
Sau thất bại của các nước trong phe
Trục, chỉ có hai nước Liên Xô và Mỹ nổi
lên như là các siêu cường quốc, một t́nh
thế mà Tổng thống Roosevelt đă dự kiến,
nhưng Tổng thống Truman đă không muốn và
cũng không chấp nhận. Sự hợp tác trong
thời kỳ chiến tranh giữa hai nước đă
chấm dút và Liên Xô đă trở lại thành
nước thù địch đối với các nước không
Cộng sản, đặc biệt là Mỹ, như thời kỳ
trước chiến tranh. Các lănh tụ Liên Xô
tuyên bố “bọn con buôn chiến tranh” ở Mỹ
(giới trùm kinh tài) đang âm mưu chống
lại Liên Xô, việc khuếch trương chủ
nghĩa Cộng sản là cần thiết cho nền an
ninh Xô viết, và chủ nghĩa Cộng sản nhất
định sẽ chiến thắng chủ nghĩa Tư bản
trên phạm vi toàn thế giới.
Chính quyền mới theo dơi một cách lo
ngại sự bành trướng thế lực, tư tưởng và
kinh tế của Liên Xô vào Trung Âu và châu
Á. Và trong một mưu đồ tuyệt vọng nhằm
ngăn chặn “làn sóng đỏ”, không cho nuốt
chửng các đất đai phụ thuộc, Tổng thống
Truman đă không công bố chính sách ngăn
chặn và thi đua kinh tế, đặc biệt bằng
cách thông qua sự viện trợ cho các nước
kém phát triển. Điều này đă đặt các siêu
cường và các nước có quan hệ gắn bó với
họ vào một cuộc xung đột giữa chủ nghĩa
Cộng sản và chủ nghĩa Tư bản.
*
Trong những công văn đầu tiên chuyển qua
cơ quan của tôi, có một bức điện đề ngày
5-10 của Bộ trưởng Ngoại giao Acheson
gửi cho Roberton, đại biện Đại sứ quán
chúng ta ở Trung Quốc, báo cho ông ta
biết rằng Mỹ “không phản đối mà cũng
không ủng hộ việc thiết lập lại nền cai
trị của người Pháp ở Đông Dương”. Nhưng
Mỹ tỏ ra “hài ḷng” khi thấy quyền cai
trị của Pháp “được thiết lập trên cơ sở
của một kết luận trong tương lai về sự
ủng hộ của dân chúng đối với các yêu
sách của Pháp”. Đây chẳng qua chỉ là
nhũng lời quanh co, giả nhân nghĩa để
nhằm làm dịu bớt nỗi lo lắng của Pháp
đối với việc không tán thành của Mỹ.
Nhưng đă đến lúc Pháp phải giữ một vai
tṛ then chốt trong kế hoạch Mỹ nhằm
thực hiện một sự tập hợp đội ngũ chính
trị và kinh tế mạnh mẽ với Anh ở hàng
đầu ở châu Âu và châu Á. Trở ngại chủ
yếu vẫn là Charles De Gaulle. Sự thù
địch của Truman đối với ông này đă vượt
xa những sự bực bội của Roosevelt, và đă
phản ánh đúng thái độ chính thức của Mỹ
đối với nước Pháp. Tổng thống cho De
Gaulle là người nóng nảy, kiêu kỳ và
không dáng tin cậy về mặt chính trị. Ông
nghi ngờ những sự cố gắng của De Gaulle
v́ trong mùa đông 1944, đă có hành động
chập chờn giữa Đông và Tây qua việc De
Gaulle bay tới Mátxcơva để điều đ́nh về
một Hiệp ước hữu nghị với người Nga mà
một năm sau điều đó đă được coi như là
một thất bại hoàn toàn. Tổng thống cũng
được biết việc Stalin tỏ ra khinh miệt
ra mặt đối với “người Pháp suy đồi” và
Stalin đă phản đối việc mời người Pháp
tham dự hội nghị Yalta cũng như hội nghị
Postdam, việc cho đến cuối năm 1945, De
Gaulle vẫn tiếp tục theo đuổi sự ủng hộ
của Cộng sản ở trong và ngoài nước. Tổng
thống Truman cũng không lạ ǵ các luận
điểm được nhắc di nhắc lại của De Gaulle
nhằm cô lập nước Mỹ khỏi thế giới qua
chủ trương của ông cho rằng chỉ có thể
xây dựng sự thống nhất của châu Âu dựa
trên ba cực: London, Paris và Mátxcơva.
Truman tin chắc rằng De Gaulle sẽ ngả
theo Liên Xô nếu điều đó trùng hợp với
lợi ích của Pháp.
Ở đây cũng c̣n vấn đề De Gaulle luôn
luôn nhấn mạnh việc ông phải được đối xử
như đối với Mỹ, Anh và Nga trong một
châu Âu sau chiến tranh. Tháng 8-1945, ở
Washington, De Gaulle đă không hề giấu
giếm cái viễn cảnh một nước Pháp đảm
nhận vai tṛ lănh đạo khối Tây Âu chống
lại cả Liên Xô và Mỹ - mà chủ yếu là Mỹ.
Trong các cuộc đàm thoại về vấn đề này,
De Gaulle đă không che giấu mối bất b́nh
của ḿnh đối với ảnh hưởng của Mỹ, đă
gạt bỏ các nguyện vọng của Pháp trong kế
hoạch sau chiến tranh muốn được tái kiến
thiết lại đất nước trên sự hoang tàn của
Đức, và trở thành một trung tâm kinh tế
và công nghiệp ở châu Âu. Truman đă đặc
biệt phiền ḷng với cái tính tự cao tự
đại của De Gaulle trong việc đ̣i cho
nước Pháp quyền kiểm soát vùng tả ngạn
sông Rhin và quốc tế hoá vùng Ruhr, để
Pháp có phần trong sản xuất và phân phối
các tài nguyên vùng đó. Sau hết, khi vấn
đề các căn cứ quân sự Mỹ trong kế hoạch
pḥng thủ toàn cầu được nêu lên, De
Gaulle đă tỏ ra không tha thiết với việc
cho nhường lại hoặc hợp tác với Mỹ trong
vấn đề có liên quan đến đất đai của Pháp
- một điều mà Truman không quên một cách
dễ dàng. Trong bầu không khí chống đối
và không tin cậy đó, Truman không có ư
muốn viện trợ tài chính đặc biệt hoặc
ủng hộ chính trị cho Pháp, và thay vào
đó, đă gợi ư là tốt nhất Pháp phải loại
những người Cộng sản ra ngoài chính phủ
và đánh giá lại phương hướng hoạt động
của ḿnh trong tương lai.
Sau các cuộc hội đàm, De Gaulle có cảm
giác là Mỹ đă không đối xử với Pháp như
là một cường quốc hạng nhất, c̣n Truman
lại bị ám ảnh bởi những nghi ngờ nghiêm
trọng xung quanh xu hướng ngả về Liên Xô
và chủ nghĩa Cộng sản của Pháp. Đó thực
là một khởi điểm đáng buồn trong mối
quan hệ của Pháp - Mỹ sau chiến tranh.
Và, với những vấn đề quan trọng đó ở
tuyến đầu, trong quan điểm của Mỹ, tương
lai Việt Nam chỉ là một vấn đề hết sức
ngoài lề.
*
Dưới chủ trương của phương châm chỉ đạo
lúc đó, tôi thấy các báo cáo của các Đại
sứ quán chúng ta từ Paris và Trùng Khánh
gửi về đầy những mâu thuẫn. Chúng không
chỉ chống lại cái mà chúng tôi đă làm ở
Đông Dương, mà c̣n gây thiệt hại cho
quyền lợi quốc gia của chúng ta; nhưng
qua đó chúng tôi cũng thấy được rằng Nhà
Trắng đă biết được đến đâu, chẳng rơ có
ai chú ư đến vấn đề này không.
Đại sứ Caffery ở Paris báo cáo là ngày
22-9 ông đă có một cuộc hội đàm với
Philippe Baudet ở Bộ Ngoại giao Pháp.
Baudet đă mô tả Việt Minh “đă được tổ
chức ít nhiều theo chủ trương đường lối
Cộng sản” và “có liên lạc mật thiết với
Phái đoàn Xô viết tại Trùng Khánh”,
nhưng lúc đó ông cũng có ư kiến là “Việt
Minh không phải là một tổ chức Cộng
sản”. Baudet nói rằng ở miền Bắc Đông
Dương, đảng Cộng sản “đă ít nhiều biến
mất, không c̣n là đảng Cộng sản nữa và
đă thể hiện ra như là đă bị thu hút vào
trong Việt Minh”. Tôi rất ngạc nhiên khi
thấy bức điện từ Paris gửi về chỉ nhắc
lại những tin tức thất thiệt của Pháp,
trong khi mà qua suốt 6 tháng trước đây,
đă có rất nhiều báo cáo và điện tín liên
quan tới Đông Dương được gửi tới cho
Caffery ở Paris.
Để kết luận, Baudet đă bày tỏ với
Caffery “sự đánh giá sâu sắc của Pháp
đối với việc chuyên chở mà Mỹ đă giúp đỡ
ở Thái B́nh Dương” và nhấn mạnh vào tầm
quan trọng có được tàu bè “của người Anh
cấp để đưa sang Đông Dương số quân Pháp
cần thiết cho việc lập lại trật tự ở
đây”. Rơ ràng đó là những tàu bè mà
tướng Leclerc đă sử dụng để đưa quân đội
của ông ta tới Sài G̣n. Và sau đó, vào
tháng 10 và tháng 12, các tàu này đă
chuyển quân Pháp tới Hải Pḥng.
Ngày 15-1-1946, Bộ trưởng Chiến tranh đă
được Bộ Ngoại giao báo cho biết “việc sử
dụng các tàu chiến và máy bay mang cờ Mỹ
để chuyên chở quân đội của bất cứ nước
nào đến hoặc đi khỏi Nam Dương quần đảo
hay Đông Dương thuộc Pháp, cũng như việc
cho Pháp dùng các tàu bè trên để chở vũ
khí, đạn dược, và các thiết bị quân sự
tới các vùng này”, đều trái với chính
sách của Mỹ. Nhưng chỉ 3 ngày sau, khi
H.F. Mathews, thủ trưởng vụ châu Âu, xin
chỉ thị Acheson về việc Anh đề nghị
chuyển giao cho Pháp khoảng 800 xe jeep
và ô tô vận tải, lúc đó ở Sài G̣n và
trước đây Anh đă nhận được từ viện trợ
vay mượn. Acheson đă trả lời “Tổng thống
cũng nghĩ rằng chúng ta sẽ đồng ư cho
chuyển giao số xe” với lư do là việc
điều động các thiết bị này sẽ “không thể
thực hiện được”. Việc chuyển giao các
khí tài quân sự nói trên đă thể hiện rơ
ràng là các chỉ thị hiện hành đă được
uốn nắn lại.
Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946,
cơ quan tôi đă nhận được các bản sao của
nhiều bức điện và thư của Hồ Chí Minh
gửi cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại
giao, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng
viện, và Liên hợp quốc. Đó là những lời
khẩn thiết kêu gọi can thiệp vào Việt
Nam trên cơ sở những nguyên tắc đă h́nh
thành trong Hiến chương Đại Tây Dương và
v́ lư do nhân đạo. Các văn kiện trên chủ
yếu yêu cầu một sự ủng hộ chính trị
trong việc giành độc lập của người Việt
Nam, nêu ra ví dụ của Mỹ ở Philippin và
bày tỏ hy vọng là người Pháp sẽ noi
gương người Mỹ. Tôi hỏi Bộ Ngoại giao
xem các thư từ và điện tín này đă được
tŕnh bày chưa hoặc ít ra th́ cũng đă
được ai đó có thẩm quyền xem xét một
cách nghiêm chỉnh không; và tôi đă được
nói cho biết rằng “Chính phủ” Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà không được Mỹ công nhận
và sẽ là một điều không thích đáng “nếu
như Tổng thống hoặc một người có chức
quyền nào khác xem xét tới các tài liệu
đó”. Hơn nữa, Mỹ “đă cam kết” dựa vào
người Pháp hơn là dựa vào những người
Việt Nam Quốc gia để nhằm thực hiện
những bước đi xây dựng tiến tới nền độc
lập của Việt Nam.
Cuộc tuyển cử ngày
6-1-1946 đă bầu ra Chính phủ Liên hiệp
Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu
tiên, A.B. Moffat, đứng đầu Vụ Đông Nam
Á thuộc Bộ Ngoại giao có đến gặp tôi.
Ông hỏi những tin tức mật về Hồ Chí Minh
và tôi đă cung cấp cho ông những ǵ mà
tôi có. Rất nhiều, đặc biệt là công việc
ông Hồ làm ở Quốc tế Cộng sản
(Comintern) và sự tham gia của ông với
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng, trước
hết, tôi nhấn mạnh đến tính chất dân tộc
chủ nghĩa của ông Hồ - cái điều trước
tiên phải là một người Việt Nam yêu nước
rồi thứ đến mới là người Cộng sản.
Ông Hồ cố gắng một cách tuyệt vọng muốn
“đóng hàng” đất nước mới ra đời của ông
với các nước phương Tây và muốn xoá bỏ
những lời lên án của Pháp cho ông và
Việt Minh của ông là tay sai của
Mátxcơva, nhưng chúng ta đă không ghi
nhận tín hiệu đó của ông.
Khi tôi đang theo dơi kết cấu t́nh h́nh
ở Đông Dương th́ lại đúng là lúc tôi
phải tiếp tục những công việc khác không
có liên quan ǵ tới Viễn Đông. Nhưng
cũng chính v́ thế mà sự quan sát của tôi
tỏ ra đúng mức, và tôi vẫn hoàn toàn tin
tưởng rằng không có một sự chống đối nào
lại có thể làm cho Việt Nam chuyển hướng
khỏi cuộc đấu tranh v́ độc lập của họ,
dù cho họ phải trả bằng giá nào và điều
dó phải kéo dài đến đâu.
Thật đáng tiếc là chính đất nước chúng
ta đă không chịu nh́n nhận cho hết thực
tế này và đă không vạch ra được một
phương hướng có thể đáp ứng lại những
quyền lợi tối cao của chúng ta. Có thể
nghĩa là hoàn toàn đứng ngoài sự việc
trên và giữ vững một thái độ thực sự
trung lập, một cách cụ thể và theo quan
điểm đă được vạch ra của chúng ta.
T́nh h́nh Đông Dương diễn biến theo
chiều hướng đă được dự đoán. Người Trung
Quốc đă kéo dài thời gian đủ để “bóp
nặn” người Pháp được ở mức tối đa: từ
28-2 tới 14-3 năm 1946, Pháp đă phải kư
một loạt các Hiệp định nhượng lại các
đặc quyền đặc lợi trước chiến tranh của
họ ở Trung Quốc. Theo hiệp định 14-3,
việc rút lui của quân chiếm đóng Trung
Quốc sẽ bắt đầu vào ngày 15-3 và kết
thúc vào ngày 31, nhưng trong thực tế
th́ măi tới tháng 10-1946, đơn vị cuối
cùng của Trung Quốc mới rời khỏi Hải
Pḥng. Trong khi đó bọn tay sai thương
mại và tài chính của Tưởng đă triển khai
được một cách chắc chắn một cơ sở kinh
tế khá vững vàng để tiến hành bóc lột
Đông Dương trong một thời gian kéo dài
hơn 30 năm sau, như hiện nay chúng ta đă
thấy qua câu chuyện “thuyền nhân”.
Bị Mỹ bỏ rơi, không được thế giới Cộng
sản biết tới, lại bị người Tnmg Quốc
tham lam vô độ o ép, Hồ Chí Minh đă phải
đi tới chấp nhận một “Hiệp định” khá
mong manh, ngày 6-3-1946, không phải với
chính phủ Pháp, mà với một quan chức cấp
thấp hơn, đại diện cho giới quân sự ở
Đông Dương. Nhưng ông Hồ cũng đă sớm
thấy ngay là bản Hiệp định không có sự
phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp và các
điều khoản buộc Pháp phải công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự
do”, có “Nghị viện riêng, quân đội
riêng, và nền tài chính riêng của ḿnh”,
nên bản Hiệp định đó đă không bao giờ
được thi hành.
Thay vào đó, quân đội Pháp đă nhanh
chóng vào chiếm đóng Hà Nội ngày 18-3.
Và đúng một tháng sau khi chính thúc kết
thúc việc chiếm đóng của Đồng minh, quân
đội Leclerc (phần lớn do Mỹ viện trợ vận
chuyển, trang bị vũ khí và khí tài) đă
chiếm đóng các thành phố chủ yếu của
Việt Nam. Chính sách của Mỹ đối với Đông
Dương lúc đó đă ngả từ phương hướng
chiến lược thời chiến sang lănh vực kinh
tế chính trị của mối quan hệ giữa Mỹ và
Pháp.
Hiệp định 6-3 đă nhanh chóng dẫn đến Hội
nghị Đà Lạt (từ tháng 4 đến tháng 5). Ở
đó “bè lũ Sài G̣n” do D'Argenlieu, “một
Raesputin(1) người Pháp” cầm đầu, đă tạm
thời cắt rời Nam Kỳ khỏi Việt Nam. Tiếp
sau đó là Hội nghị Fontainebleau (tháng
7 đến tháng 9) tai hại. Ở đó, ông Hồ đă
kư kết một cuộc ngừng bắn nhưng nó đă
sớm chết yểu. Quyết tâm của ông Hồ cộng
tác với người Pháp ít nhất cũng trong
một thời gian, đă làm cho cả những người
Quốc gia thân Trung Quốc cũng như các
thế lực thực dân Pháp hoảng sợ. Việc
tiếp tục tồn tại của ông Hồ và Việt Minh
của ông có nghĩa là họ sẽ chết, và đó là
điều họ muốn tránh bằng bất cứ giá nào.
Qua những con đường có thế lực ở Trùng
Khánh và Paris, một chiến dịch chống ông
Hồ và Việt Minh lại được bung ra với
những thủ đoạn cũ, cho họ là những tay
sai trung thành của Mátxcơva.
Mùa hè 1946, những luận điệu tuyên
truyền này lan tới Washington, và trong
tất cả những ǵ chính thức nói đến ông
Hồ đều được gắn thêm chữ “Cộng sản”.
Ngày 5-12-1946, khi Moffat tới thăm Đông
Dương, Bộ trưởng Acheson đă có điện chỉ
dẫn trong trường hợp có thể gặp ông Hồ,
Moffat “phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ
đă được xác định là một tay sai của Quốc
tế Cộng sản…”, mặc dù vẫn tồn tại một
điều thực tế là dấu vết âm mưu do
Kremlin điều khiển đều có thể t́m thấy
được ở mọi nơi, trừ Việt Nam ra. Chúng
ta không có chứng cớ ǵ về mối liên lạc
Việt Nam - Mátxcơva. Liên Xô không những
đă không ủng hộ ông Hồ trong cuộc đấu
tranh giành độc lập trước đây, mà c̣n
không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà trong nhiều năm sau nữa.
Từ Fontainebleu “tay không” trở về, ông
Hồ lại phải đương đầu với sự phản đối
kịch liệt của các phần tử chống lại ông
trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng
minh Hội. Chúng ḥ hét kết tội ông là
“phản bội” và “hợp tác” yêu cầu ông từ
chức. Để tránh đổ máu và tranh thủ thông
qua được Hiệp định Fontainebleu, ông Hồ
cho triệu tập phiên họp thứ hai Quốc hội
để phê chuẩn bản Hiệp định đ́nh chiến và
do đó gạt bỏ trước được sự chống đối của
Pháp. Quốc hội đă biểu quyết tín nhiệm
ông Hồ và yêu cầu ông đứng ra lập nội
các mới.
Ngày 8-11, nội các mới được thành lập
gồm có 7 Cộng sản, 2 Dân chủ, 1 Xă hội,
1 Việt Nam Quốc dân Đảng, và 1 độc lập.
Như vậy là Việt Minh vẫn nắm trọn quyền
kiểm soát lúc đó, những cuộc ngừng chiến
th́ chỉ kéo dài vừa vặn 70 ngày.
Kết thúc của cuộc ngừng bắn bắt đầu từ
hôm 20-11, khi nổ ra một cuộc xô xát vũ
trang ở Hải Pḥng giữa Hải quân Pháp với
bộ đội Việt Minh xung quanh vấn đề thuế
quan. Hai bên bắn nhau trong 2 ngày
trước khi đi tới một cuộc dàn xếp ở địa
phương. Nhưng đô đốc D'Argenglieu, lúc
đó đang ở Paris, tức giận về cái ông ta
cho là một sự xúc phạm của người Việt
Nam, đă điện cho thiếu tướng J. Valluy,
người phó của ông ta ở Sài G̣n, phải
“dạy cho bọn An Nam một hỗn láo này một
bài học”. Ba ngày sau, Pháp gửi một tối
hậu thư cho các nhà chức trách Việt
Minh, bắt trong ṿng 2 tiếng đồng hồ
phải rút hết quân đội ra khỏi khu vực
Hải Pḥng. Khi điều đó bị bác bỏ, quân
Pháp được pháo từ chiếm hạm Suffren
ngoài khơi bắn yểm hộ, đă tấn công vào
khu vực Hoa kiều trên bến cảng, gây
thương vong khoảng 25.000 người trong đó
có 6.000 người chết.
Bị bất ngờ trước cuộc tấn công tàn bạo
của Pháp, nhưng ông Hồ vốn là người muốn
thương lượng điều đ́nh, nên đă cố gắng
t́m cách tránh một cuộc đụng độ toàn
diện và kêu gọi người Pháp ngừng bắn.
Giới quân sự Pháp, được khích lệ bởi
việc D'Argrenglieu khinh thường ông Hồ
và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
của ông, đă t́m được một cái cớ để phá
vỡ hiệp định Fontainebleau nên dă không
đếm xỉa tới lời kêu gọi hoà hoăn của ông
Hồ, lại cho tăng thêm các cuộc đánh phá.
V́ vậy ngày 19-12, đội Tự vệ địa phương
đă phá huỷ nhà máy diện Hà Nội, báo hiệu
mở đầu cuộc tổng tiến công vào người
Pháp; ông Hồ và Chính phủ ông chuyển vào
rừng sâu. Thế là từ đó, cuộc chiến tranh
Đông Dương, được phát động từ ban đầu
bằng cú của Cédile ở Sài G̣n, nhưng ít
nhiều đă bị ḱm lại không mở rộng ra
ngay được v́ thực lực quân Pháp lúc đó
và chủ trương thương lượng của ông Hồ,
đă bắt đầu trở thành một thực tế có quy
mô toàn diện.
*
Trong khi người Việt và người Pháp phải
đương đầu với cuộc chiến tranh kéo dài
của họ, th́ quyết định của chúng ta giúp
đỡ người Pháp dưới h́nh thức viện trợ
quân sự, một sự viện trợ bắt nguồn từ
các yêu cầu kinh tế và các vấn đề chính
trị châu Âu, đă được trưng ra như một
quyết định về đấu tranh tư tưởng b́nh
thường - đó là vấn đề chống Cộng. Năm
1947, Hy Lạp đang bị rối loạn về kinh tế
và bị du kích Cộng sản tấn công. Nước
Thổ bị Nga làm áp lực bắt nhượng lại eo
biển Dardanelles. Những cố gắng này của
Cộng sản, nếu thành công sẽ mở rộng ảnh
hưởng của Liên Xô tới tận miền Đông Địa
Trung Hải. V́ thế, Tổng thống Truman đă
phải tuyên bố, trong cái mà sau này được
kêu là học thuyết Truman, “chính sách
của Mỹ là phải ủng hộ các dân tộc tự do”
chống lại sự xâm lược trực tiếp và gián
tiếp của Cộng sản. Kết quả là nhờ viện
trợ kinh tế Mỹ, Hy Lạp đă phục hồi lại
dược nền kinh tế, và nhờ viện trợ quân
sự Mỹ, đă đánh bại được các cuộc tấn
công của Cộng sản. Được viện trợ kinh tế
và quân sự của Mỹ hỗ trợ một cách mạnh
mẽ, Thổ đă chống lại được các yêu sách
kiểm soát Dardanelles của Nga.
Yêu cầu của nền kinh tế trong nước đ̣i
hỏi phải không ngừng sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm Mỹ dưới h́nh thức
thương mại hay viện trợ. Do đó, đến năm
1947, Bộ trưởng Ngoại giao Marshall đă
đề nghị cấp viện trợ kinh tế cho tất cả
các nước châu Âu, bao gồm cả Nga và các
nước phụ thuộc Nga. Ông nói “Chính sách
của chúng ta không nhằm chống lại bất cứ
nước nào hay học thuyết nào, mà chống
lại đói khát, nghèo nàn, thất vọng và
rối loạn”. Thực tế Mỹ chỉ muốn giúp cho
châu Âu thôi không phải xin các quỹ cứu
trợ tràn lan và ít hiệu quả của Mỹ nữa,
để khuyến khích phát triển một nền mậu
dịch hai bên cùng có lợi giữa Mỹ và châu
Âu, và cũng là để giảm nhẹ nguy cơ đe
doạ của Cộng sản ở Tây Âu, nhất là ở
Pháp và Ư. Những người nắm chính sách
đối ngoại của Mỹ sợ rằng nếu Tây Âu rơi
vào ṿng thống trị của Liên Xô th́ cùng
với nhau, họ sẽ thành một khối quân sự,
kinh tế cực kỳ mạnh, và sẽ gây nguy hại
một cách không thể tránh khỏi cho quyền
lợi quốc gia Mỹ trên toàn thế giới.
Trong 4 năm (1948-1951), Kế hoạch
Marshall, c̣n được gọi là Kế hoạch Phục
hưng châu Âu (ERP), đă cung cấp cho Tây
Âu 12,5 tỷ dollar, phần lớn cho việc chi
phí ở đây về thực phẩm, nguyên liệu và
thiết bị máy móc. Nhưng điều đó cũng đă
giúp giữ vững dược nền kinh tế của chúng
ta và đồng thời tăng cường được sự ổn
định chính trị ở các nước ngoài và làm
giảm được ảnh hưởng của Cộng sản.
Nga đă kết tội Kế hoạch Marshall là một
mưu mô của Mỹ nhằm giành quyền kiểm soát
kinh tế và chính trị châu Âu, và điều đó
chúng có phần đúng. Họ đă từ chối không
nhận một sự viện trợ nào cho họ, cũng
như cho các nước phụ thuộc họ, và đă đưa
ra một chương tŕnh viện trợ kinh tế
riêng tức là Hội đồng Tương trợ Kinh tế
(COMECON). Cuộc thi đua này lại càng
khiến cho Mỹ gia tăng nỗ lực mạnh hơn
nữa trong việc thống trị toàn cầu. Trong
bài diễn văn nhận chức năm 1949, Tổng
thống Truman khẳng định sự chống đối của
Mỹ với sự bành trướng của Liên Xô bằng
cách mở rộng ngoại viện Mỹ qua việc cung
cấp kỹ thuật, kiến thức và trang bị cho
các nước nghèo. Chương tŕnh mới, gọi là
Chương tŕnh Điểm Bốn(2), cũng khuyến
khích sự đầu tư mạnh mẽ của tư bản tư
nhân vào các nước kém phát triển với mục
tiêu cuối cùng là giành được sự ủng hộ
của họ.
Cuộc đấu tranh để giành lănh đạo về tư
tưởng và kinh tế giữa hai siêu cường đă
tràn sang lĩnh vực chiến lược vào năm
1948, khi thế giới tự do bị chấn động
bởi ba cuộc tấn công do Liên Xô sắp đặt
- đảo chính ở Tiệp Khắc, áp lực đối với
Phần Lan để nhập vào quỹ đạo Xô viết, và
cuộc khủng hoảng Berlin. Trong năm 1949,
Mỹ đă cùng 12 nước trong thế giới tự do
lập thành Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO), một hiệp ước pḥng thủ
chung, bảo đảm an ninh tập thể của các
nước, nhưng đồng thời cũng là một thị
trường tiêu thụ các khí tài chiến lược
mới do các nước chủ chốt trong hiệp ước
- Mỹ, Anh, Pháp và sau này có thêm Đức,
sản xuất.
Đến đó, một quy tŕnh đă được khép kín -
từ tư tưởng tới kỉnh tế (ERF, Điểm Bốn),
rồi chiến lược (NATO, sau đó là ANZUS và
SEATO). Và giống như trong cuộc xung đột
tư tưởng và kinh tế, Liên Xô đă trả đũa
bằng các liên minh chiến lược - Hiệp ước
Trung - Xô (1950) và Hiệp ước Varsaw
(1955).
Cũng phải đến tháng giêng 1953 mới có
một nhà lănh đạo Mỹ xác định một cách
trung thực quyền lợi quốc gia của chúng
ta như chúng đă và vẫn c̣n được ấn định
như hiện nay. Trong bài diễn văn nhận
chức của ông, Tổng thống Eisenhower
tuyên bố:
“Chúng ta biết rằng chúng ta gắn bó với
tất cả các dân tộc tự do không phải chỉ
đơn thuần bằng một lư tưởng cao thượng
mà bởi một nhu cầu khá giản đơn. Không
một nước tự do nào lại có thể bám giữ
măi lấy một đặc quyền hay được hưởng an
toàn trong sự cô lập về kinh tế. Nguyên
vật liệu của chúng ta có thể đáp ứng đầy
đủ cho mọi người, nhưng chúng ta cần thị
trường trên thế giới để tiêu thụ vật
phẩm dư thừa của các đồn điền và nhà máy
của chúng ta. Trái lại, chứng ta cần đến
những vật liệu và sản phẩm sống c̣n của
các vùng đất khác do chính ngay các đồn
điền và nhà máy đó. Quy luật cơ bản về
sự tương hỗ này, đă thể hiện quá rơ rệt
trong nền thương mại thời b́nh, sẽ được
áp dụng ở mức độ cực kỳ mạnh mẽ hơn nữa
trong thời chiến”.
Eisenhower đă nói rơ ra điều mà nhiều
người chúng ta đă biết nhưng cũng ít khi
chịu chấp nhận, đó là vấn đề quyền lợi
quốc gia chúng ta sẽ được phục vụ tốt
hơn hết bằng sự trao đổi thương mại, đặc
biệt là khi việc buôn bán này cung cấp
cho chúng ta những nguyên liệu (tài
nguyên nước ngoài) cần thiết để sản xuất
các vật phẩm có thể xuất cảng, làm ra từ
nước Mỹ và đem bán trên thị trường thế
giới.
Sự lo lắng về an ninh quốc gia của Mỹ đă
thể hiện qua việc Mỹ chống đối tích cực
với địch thủ chủ yếu của ḿnh là Liên Xô
trong việc tranh giành các vùng ảnh
hưởng trên thế giới.
Thoạt đầu, điều đó chỉ thể hiện một cách
duy nhất trong quần chúng như là một
cuộc chống đối với một khối Cộng sản
thống nhất. Nhưng thực tế đă không phải
như vậy, v́ những rạn nứt đă thỉnh
thoảng xuất hiện trong khối thống nhất
này; chẳng hạn như việc chính phủ Cộng
sản Nam Tư của Tito ly khai hoàn toàn
với Liên Xô năm 1948; và sau đó Tito đă
đ́nh chỉ viện trợ cho du kích Cộng sản ở
Hy Lạp.
Người Pháp đă thấy rất sớm họ cần phải
lợi dụng một cách tốt nhất những sự lo
sợ về tư tưởng lúc đó đang tồn tại ở Mỹ
như thế nào. Mối đe doạ Pháp có thể
“thành Cộng sản” đă mang lại những hậu
quả nhanh chóng. Việc phong trào quốc
gia Việt Nam bị gán cho nhăn hiệu là
“đỏ” hay “do Mátxcơva điều khiển” đă
hoàn toàn gạt bỏ mọi hành động của Chính
phủ Mỹ trong việc thăm ḍ các khả năng
mở được đường tới chính phủ Hồ Chi Minh.
Đó cũng là một h́nh thức doạ nạt đă được
thực hiện khá tốt trong một thời kỳ căng
thẳng.
Ngay sau khi nổ ra cuộc xung đột Pháp -
Việt, ngày 8-1-1947, Bộ Ngoại giao đă
điện cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho
Pháp biết rằng chúng ta có thiện cảm với
người Pháp, và sẵn sàng sử dụng “thiện
chí” của chúng ta để giúp thanh toán
cuộc tranh chấp. Ông cũng được phép báo
cho Pháp biết là Mỹ sẽ đồng ư bán vũ khí
cho Pháp “trừ các trường hợp tỏ ra có
liên quan tới Đông Dương”. Người Pháp đă
không để phải đợi trả lời. Ngay ngày hôm
đó, Đại sứ quán Pháp ở Washington đă
thông báo cho biết đánh giá của Pháp về
việc ông Achenson “đă có thái độ hiểu
biết trong khi thảo luận về vấn đề Đông
Dương”, và đă lịch sự gạt bỏ “thiện chí”
của chúng ta với một lời nói cạnh rằng
Pháp sẽ cố gắng giải quyết vấn đề của
ḿnh mà không cần tới sự giúp đỡ từ bên
ngoài “một khi Pháp được xác nhận lại
quyền lực của ḿnh”. Nhắc lại luận điệu
cũ về sự liên can của Mỹ trong việc Pháp
gặp rối ren ở Đông Nam Á, người đại diện
Pháp cho rằng Mỹ phải gánh phần trách
nhiệm về việc chậm trễ xác định lại
quyền lực của Pháp ở Đông Dương, v́
chúng ta “đă không đáp ứng những yêu cầu
viện trợ vật chất của Pháp vào mùa thu
1945”.
Về vấn đề Pháp hiểu lầm lập trường của
chúng ta ở Đông Dương và việc Pháp có
thể rút lui ở châu Âu, đầu tháng 2-1947,
Đại sứ Caffery đă nhận được chỉ thị phải
bảo đảm với Thủ tướng Ramadier về “những
t́nh cảm hữu nghị” của Mỹ đối với Pháp
và lợi ích của Mỹ trong việc giúp Pháp
khôi phục lại lực lượng kinh tế, chính
trị và quân sự. Sau khi đảm bảo với
Ramadier là Mỹ công nhận chủ quyền Pháp
tại Đông Dương, chúng ta đă đưa ra lư lẽ
là vấn đề thuộc địa này đă “lỗi thời”
rồi. C̣n đối với Hồ Chí Minh, Caffery đă
nhận được chỉ thị phải nói rằng chúng ta
không bỏ qua thực tế là ông Hồ “có những
mối liên quan trực tiếp với Cộng sản” và
hiển nhiên là “chúng ta không thấy có
lợi ích ǵ trong việc nền cai trị đế
quốc thực dân lại được thay thế bởi nền
triết lư và các tổ chức chính trị bắt
nguồn từ Kremlin và do Kremlin kiểm
soát”. Do đó, Mỹ đă lựa chọn lập trường
đứng ngoài cuộc xung đột và càng không
ngăn chặn Pháp trong vai tṛ xâm lược
của Pháp tại Việt Nam.
Nhưng chỉ vài tuần sau, chính sách Mỹ đă
được định h́nh. Ngày 13-5-1947, các nhà
ngoại giao của chúng ta ở Paris, Sài G̣n
và Hà Nội đă nhận được chỉ thị chính
thức sau đây:
“Lập trường chủ yếu trong nhận thức của
chúng ta là, ở Đông Nam Á, chúng ta nhất
thiết phải cùng thuyền cùng hội với
người Pháp, cũng như với người Anh và Hà
Lan… Chúng ta phải thấy rằng sự liên kết
chặt chẽ giữa Pháp và các thành viên
trong Liên hiệp Pháp không phải chỉ có
lợi cho các nước liên quân, mà c̣n có
lợi cho chúng ta một cách gián tiếp…
Đông Nam Á đang trải qua một giai đoạn
nghiêm trọng… với 7 nước mới đang trong
quá tŕnh đấu tranh hoặc thực hiện nền
độc lập hoặc nền tự trị. Các nước này
bao gồm 1/4 dân số thế giới và sự phát
triển tương lai của họ… sẽ là một nhân
tố hết sức quan trọng cho sự ấn định
toàn cầu. Đi theo với việc nền cai trị
của người châu Âu được nới ra… các nước
mới này có thể bị ch́m sâu vào những
cuộc bất hoà dữ dội… các xu hướng Liên Á
chống phương Tây có thể trở thành lực
lượng chính trị quan trọng nhất, hoặc
Cộng sản cũng có thể nắm lấy chính
quyển. Chúng ta cho rằng điều đảm bảo
nhất cho sự an toàn đối với các t́nh
huống có thể xảy ra nói trên phải là một
sự liên kết chặt chẽ được tiếp tục giữa
các dân tộc mới được tự trị với các
cường quốc đă từ lâu trước đây chịu
trách nhiệm về sự thịnh vượng của họ.
Đặc biệt chúng ta công nhận (rằng) người
Việt Nam trong một thời gian nhất định
vẫn c̣n cần tới sự giúp đỡ về vật chất
và kỹ thuật của Pháp cùng với một sự chỉ
dẫn sáng suốt về chính trị mà chỉ một
nước có truyền thống dân chủ lâu đời đă
được công nhận là biết tôn trọng nhân
quyền và giá trị cá nhân con người như
nước Pháp mới có thể đáp ứng được”.
Những người làm chính sách của chúng ta
ở Washington cảm thấy sẽ phải chịu một
sự tổn thất không thể tránh khỏi và cũng
không thể sửa lại được về các tài nguyên
quan trọng cho các nước phương Tây, nên
đă ra sức củng cố các cường quốc thực
dân. Và với một sự trắng trợn điển h́nh
gần như hốt hoảng, bản chỉ thị chính
thức tiếp tục viết:
“… Có chứng cớ là những người Cộng sản
Pháp đă được chỉ dạo phải tăng cường
hoạt động ở các thuộc địa Pháp dù cho
đến mức họ có thể mất sự ủng hộ của dân
chúng ngay trên đất Pháp; đó cũng là dấu
hiệu cho thấy Kremlin sẵn sàng hy sinh
những thắng lợi tạm thời với 40 triệu
người Pháp cho đường lối chiến lược lâu
dài về thuộc địa với 600 triệu dân chúng
các nước phụ thuộc; điều đó góp phần đ̣i
hỏi một cách hết sức cấp bách phải có
những sự nh́n nhận đi trước…
Bộ rất lo ngại, sợ rằng Pháp cho các cố
gắng của Pháp để t́m “những đại diện
thực sự” của Việt Nam rồi điều đ́nh với
họ để thành lập một chính phủ bất lực
theo kiểu chế độ Nam Kỳ, hoặc có thể có
mưu đồ phục hồi lại Bảo Đại (sic), với
những quyền dân chủ hạn chế để hỗ trợ
cho nền quân chủ, được coi là vũ khí để
chống lại chủ nghĩa Cộng sản”.
Cái bóng ma Cộng sản đang xâm nhập vào
các vùng đất từ trước đến nay vẫn được
coi là lănh địa của các nước dân chủ
phương Tây đă thúc đẩy Bộ Ngoại giao
chúng ta phải xem xét lại lập trường của
ḿnh. Mặc dù Mỹ vẫn chính thức coi cuộc
chiến tranh Đông Dương căn bản là một
vấn đề của Pháp, nhưng cuộc đấu tranh
lâu dài này lại tỏ ra có lợi cho những
người quốc gia Việt Nam - mà đó lại là
những người Cộng sản, nên Mỹ đă gợi ư
cho Pháp để họ có những nhân nhượng có ư
nghĩa đối với những người quốc gia Việt
Nam, đă chấm dứt sự ủng hộ đối với người
lănh tụ duy nhất hợp lư và có năng lực
là Hồ Chí Minh. Do đó, chính sách Mỹ đă
quay theo chính sách dùng biện pháp Bảo
Đại của Pháp chẳng phải v́ ông này là
một người Quốc gia có cỡ, mà chỉ v́ ông
này không phải là Cộng sản. Đến đây, rơ
ràng Mỹ đă ít quan tâm đến phong trào
dân tộc Việt Nam hơn là việc ngăn chặn
“làn sóng đỏ”.
Chính sách không can thiệp của Mỹ đă bắt
đầu chấm dứt từ năm 1949. Cũng vào tháng
giêng năm đó, Bắc Kinh rơi vào tay Cộng
sản Trung Quốc và Mỹ đă phản ứng một
cách gay gắt trước việc người Pháp thiếu
khẩn trương trong việc hứa cho Việt Nam
tự trị. Tiếp theo thoả hiệp Élysée (kư
tháng 3-1949), ngày 10-5, Bộ Ngoại giao
đă chỉ thị cho lănh sự Mỹ ở Sài G̣n phải
làm cho mọi người thấy là Mỹ mong muốn
“cuộc thí nghiệm Bảo Đại phải được xúc
tiến ngay sau khi ở đây đă thể hiện rơ
không c̣n có biện pháp thay thế nào
khác”. Mỹ c̣n tỏ ư sẵn sàng muốn đóng
góp bằng cách công nhận chính phủ Bảo
Đại, cung cấp vũ khí và viện trợ kinh tế
vào lúc thích đáng. Đó chỉ là cái mồi để
nhử Pháp khẩn trương hoạt động. Acheson
đă nhấn mạnh với lănh sự của chúng ta về
“sự cấp bách và cần thiết phải nhanh
chóng giải quyết cuộc xung đột giữa Pháp
- Việt trong khoảng thời gian ngắn ngủi
có thể c̣n lại trước khi Đông Dương bị
xáo động bởi những thắng lợi của Cộng
sản ở Trung Quốc”. Cái kiểu đối phó hàng
ngày gặp đâu hay đấy này của Mỹ, phản
ánh một nỗi lo sợ bẩm sinh đối với chủ
nghĩa Cộng sản, đă làm khổ nước này suốt
trong 1/4 thế kỷ tiếp sau đó trong những
mối quan hệ của chúng ta với Việt Nam,
và đó cũng là đặc tính chính sách đối
ngoại Mỹ trong sự giao dịch với Liên Xô
và thế giới Cộng sản.
***
Các sự kiện năm 1948 và 1949 ở Trung
Quốc đă mang lại cho Mỹ một sự cảnh giác
mới về sức sống mănh liệt của Cộng sản
châu Á; và Mỹ cảm thấy cấp bách phải
ngăn chặn họ lại. Các công cụ chính trị
Mỹ đă triển khai để đương đầu với những
thử thách quyết định của Cộng sản châu
Âu đă được áp dụng mà không có mấy thay
đổi với các vấn đề hoàn toàn khác biệt ở
Viễn Đông. Đồng thời với việc phát triển
khối NATO, Mỹ bắt đầu nghiên cứu xây
dựng khối an ninh tập thể châu Á. Các
chương tŕnh viện trợ kinh tế và quân sự
mới được ấn định và học thuyết Truman đă
hoàn toàn đạt tới những quy mô mới qua
việc được mở rộng sang các vùng mà các
đế quốc thực dân châu Âu đă bị tan ră.
Do đó vào những tháng cuối năm 1949,
phương hướng chính sách Mỹ là nhằm chặn
đứng sự bành trướng mới của Cộng sản ở
châu Á bằng tổ chức an ninh tập thể nếu
như người châu Á đă sẵn sàng, và bằng sự
cộng tác với các nước đồng minh châu Âu
chủ yếu và nếu có thể với các nước trong
khối Liên hiệp Anh, hoặc chỉ hợp tác tay
đôi nếu như cần thiết. Phương hướng
đường lối chính sách đó đă dẫn đến cuộc
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), đến
việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam
Á (SEATO) năm 1954, và việc can thiệp
ngày càng sâu của Mỹ vào Việt Nam.
Ngày 30-12-1949, Pháp đă kư một loạt các
hiệp ước về việc chuyển giao nền cai trị
trong nước cho Quốc gia Việt Nam của Bảo
Đại tiếp theo Hiệp định Élysée kư trong
tháng 3 trước. Vào tháng 1-1950, các đạo
quân của Mao tiến tới sát biên giới Bắc
Việt Nam, và Bắc Việt Nam cũng chuyển
vào quỹ đạo Trung - Xô. Ngày 18-1, Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và hai nước đă kư
một thoả hiệp thương mại ở Bắc Kinh về
viện trợ quân sự. Mười hai ngày sau,
Liên Xô cũng công nhận Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Báo chí Mátxcơva đă giải thích
một cách hài hước là Nga chỉ công nhận
một Chính phủ mà Pháp đă công nhận từ
năm 1946 mà thôi. Tại sao ông Hồ và Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà của ông lại không
được công nhận từ trước th́ không được
giải thích.
Ngày hôm sau (1-2), tiếp tục phản ứng,
Bộ trưởng Acheson công khai tỏ ra “ngạc
nhiên” về việc Kremlin công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và công khai nói
rằng hành động của Liên Xô “sẽ gạt bỏ
mọi ảo tưởng về cái gọi là thực chất
“Quốc gia” trong các mục tiêu Hồ Chí
Minh đang theo đuổi và tố giác ông Hồ
như là một kẻ tử thù của nền độc lập của
người bản xứ Đông Dương”. Hiển nhiên là
ông Acheson đă không thấy được rằng đă
hơn 1/4 thế kỷ nay, chỉ có Hồ Chí Minh
mới giữ cho ngọn đuốc độc lập bừng cháy
trong trái tim và khối óc những người
Việt Nam, Cộng sản cũng như không Cộng
sản; và duy nhất chỉ có ông đă trở thành
hiện thân của chủ nghĩa Quốc gia Việt
Nam - một George Washington Việt Nam.
Trong khi coi ông Hồ như một Washington
khác th́ cũng phải nói thêm rằng không
c̣n nghi ngờ ǵ việc ông là người lănh
tụ phong trào kháng chiến Việt Nam duy
nhất đă được quảng đại quần chúng tôn
sùng và cũng là người đứng đầu của phong
trào độc lập mạnh mẽ nhất và duy nhất có
quy mô toàn quốc. Ông đă từ lâu trở
thành “Bác Hồ” của người nghèo và b́nh
dân, với một ánh hào quang trên đầu là
tất cả các chế độ bù nh́n liên tiếp đă
không bao giờ có khả năng đánh đổ được.
Nhưng những sự thực đó đă tuột khỏi Bộ
trưởng Ngoại giao của chúng ta, ông ta
chỉ có kinh nghiệm cộng tác chặt chẽ với
các cường quốc thực dân châu Âu trong
việc miệt thị các dân tộc bản xứ thuộc
địa. Người ta đă thôi không gọi họ là
“dân bản xứ”, nhưng trong suy nghĩ th́
vẫn c̣n.
Việc nước Pháp chính thức thông qua vấn
đề cho Việt Nam “độc lập” được công bố
vào ngày 2-2. Xem xét kỹ th́ cái “độc
lập” này chỉ là một kiểu trưng bày mới
trong tủ kính mà đằng sau đó cơ cấu thực
dân cũ vẫn c̣n nguyên vẹn. Song le, cũng
vào ngày Pháp thông qua vấn đề này,
trong một bản giác thư gửi Tổng thống,
Acheson đă đề nghị chính thức công nhận
“ba chính phủ Việt Nam, Lào và Cambodia
được thành lập một cách hợp pháp”. Ông
mô tả ông Hồ là “một tay sai Cộng sản…
từ 1925”, là một người “đă quấy rối Pháp
từ đó đến nay” và ghi chú thêm là Trung
Cộng (ngày 18-1) và Nga Xô (ngày 30-1)
đă công nhận Hồ Chi Minh là người đứng
đầu Chính phủ hợp pháp ở Việt Nam… Ở
đây, một lần nữa đă phản ánh căn bệnh
chống Cộng cố hữu của chính quyền (Mỹ)
và một phản ứng tức th́ đối với các hoạt
động Trung - Xô.
Người ta có thể suy ra nhiều điều từ lập
luận của Acheson trong việc đề nghị Tổng
thống công nhận ngay các chính phủ bù
nh́n của Pháp. Trong chương IV bản giác
thư, ông nói rằng việc công nhận “tỏ ra
là được mọi người mong muốn và phù hợp
với chính sách đối ngoại Mỹ v́ nhiều lư
do. Trong đó có: khuyến khích các xu
hướng dân tộc không chịu sự lănh đạo
Cộng sản của các dân tộc các vùng thuộc
địa ở Đông Nam Á; thành lập những chính
phủ không Cộng sản ổn định trong các
vùng tiếp giáp với Trung Cộng; ủng hộ
một nước bạn, thành viên Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương; và một biểu thị không
bằng ḷng đối với các chiến thuật Cộng
sản…”.
Trong các lư lẽ này của
ông ta, chẳng ai có thể t́m thấy bất cứ
một sự liên tưởng nào tới các nguyên tắc
dân chủ, tự do, độc lập hay quyền tự
quyết của Mỹ. Trái lại, đây là một ủng
hộ mạnh mẽ đối với sự thống trị tiếp tục
của chủ nghĩa thực dân của một hội đồng
minh châu Âu, do dollar Mỹ tài trợ, và
phục vụ cho lợi ích tập đoàn đầu sỏ kinh
tế. Nguyên nhân cơ bản của cuộc xung
đột, vấn đề độc lập đối với sự thống trị
của nước ngoài, đă ngang nhiên được gạt
sang một bên để thích ứng với “một nước
bạn” và cũng là để đảm bảo cho ngay
chúng ta một vành đai chiến lược ở Đông
Nam Á. Quả thực đó cũng là một h́nh ảnh
khá lạ lùng của nền dân chủ Mỹ mà chúng
ta phô bày trước các dân tộc phụ thuộc.
Tuy vậy, ngày hôm sau Tổng thống Truman
cũng ưng thuận việc Mỹ công nhận Bảo Đại
và các quốc gia liên kết Đông Dương và
ngày 4-2, Tổng Lănh sự Mỹ ở Sài G̣n đă
nhận được chỉ thị chuyển đến Cựu hoàng
một bản thông điệp chúc mừng của Tổng
thông, đồng thời với sự công nhận về
ngoại giao chính phủ Quốc gia Việt Nam.
Người Pháp đă không để phí thời giờ
trong việc yêu cầu Mỹ viện trợ. Bực v́
Mỹ làm áp lực phải xúc tiến “giải pháp
Bảo Đại” và cho Việt Nam được quyền tự
trị lớn hơn, Pháp lại giở tṛ “bóp nặn”
của phương Đông. Ngày 16-2, Bộ Ngoại
giao Pháp gặp Đại sứ của chúng ta ở
Paris và nói toạc ra rằng “do kết quả
của t́nh h́nh phát triển mới đây (ở
Trung Quốc) và triển vọng ít ra th́
Trung Cộng cũng sẽ tăng cường viện trợ
quân sự cho Hồ Chí Ḿnh” nên t́nh h́nh
của Pháp đă trở nên cực kỳ nghiêm trọng.
Hơn nữa, “… cố gắng của Pháp ở Đông
Dương giống như một ḍng nước cuốn ở
Pháp, đ̣i hỏi cần phải có một chương
tŕnh giúp đỡ dài hạn mà chỉ có Mỹ mới
có thể cung cấp được. Nếu không… rất có
khả năng Pháp có thể bị buộc phải (xem
xét) chấm dứt các sự tổn thất của ḿnh
và rút lui khỏi Đông Dương”.
Vấn đề đă được đưa ra trước Hội đồng An
ninh Quốc gia và ngày 27-2 Hội đồng đă
đi tới kết luận “phải thi hành mọi biện
pháp có thể được để ngăn chặn sự phát
điển sau này của Cộng sản ở Đông Nam Á…
Thái Lan và Miến Điện có thể bị rơi vào
ách thống trị của Cộng sản nếu như Đông
Dương bị một chính phủ do Cộng sản khống
chế cai trị. Lúc đó sự cân bằng lực
lượng ở Đông Nam Á sẽ ở trong một t́nh
thế cực kỳ nguy hiểm”. Đây cũng có thể
là mầm mống của “thuyết domino”. Vấn đề
lại được chuyển cho Hội đồng Tham mưu
trưởng Liên quân; các Tham mưu trưởng
tán thành kết luận của Hội đồng An ninh
Quốc gia và đă kiến nghị với Bộ trưởng
Quốc pḥng cung cấp viện trợ cho Pháp ở
Đông Dương. Ngày 1-5, Tổng thống đă
nhanh chóng duyệt cấp một khoản tiền 10
triệu dollar khí cụ chiến tranh, lần đầu
tiên đánh dấu cái quyết định quan trọng
việc Mỹ tham gia về quân sự.
Từ đó, chẳng có thảo luận ǵ thêm, nhưng
một cách không thể nào thay đổi được, Mỹ
đă cam kết, ủng hộ chế độ bù nh́n của
Pháp trong cuộc chiến tranh chống lại
những người quốc gia Việt Nam và bảo vệ
quyền lợi thực dân của Pháp ở Đông Nam Á
trong tấn thảm kịch đang diễn ra, đó là
Việt Nam. Viện trợ Mỹ, bắt đầu một cách
khiêm tốn với 10 triệu dollar năm 1950,
đă vượt quá 1 tỷ dollar chỉ riêng trong
năm tài chính 1954, và lúc này đă chiếm
tới 78% chi phí về gánh nặng chiến tranh
của Pháp.
Mặc dù Bộ Ngoại giao chúng ta có một
nhóm khá mạnh thân Pháp, nhưng trong các
quan chức cơ quan đối ngoại cũng c̣n có
nhiều đầu óc thực tế, biết trước hết chú
trọng đến quyền lợi của nước Mỹ. Họ quan
niệm việc chúng ta tham gia vào đó, dù
đúng hay sai, chỉ như là biện pháp cần
thiết để ngăn ngừa Đông Dương không bị
rơi vào phe Cộng sản, chứ không phải để
giúp đỡ Pháp, một cường quốc thực dân
hay một đồng minh thành viên khối NATO.
Tuy vẫn theo đuổi mục đích cũ, nhưng các
phần tử này vẫn cùng với các nhà làm
chính trị khác trong chính quyền khuyến
khích Pháp trao hoàn toàn độc lập cho
các nước trong Liên hiệp.
Nhưng thực không may mà các mục tiêu
Pháp theo đuổi lại không trùng hợp với
mục đích của Mỹ nhằm phi thực dân hoá
Đông Dương và dựng lên một nước đệm
chống Cộng giữa Trung Cộng và các nước
Đông Nam Á. Suốt trong thời kỳ chúng ta
giúp đỡ cho nỗ lực quân sự Pháp
(1950-1954) người ta vẫn có thể nghe
thấy rơ những tiếng vang vọng của năm
1945 trong các mối quan hệ Mỹ - Pháp.
Như trong kinh nghiệm 1945, Mỹ đă lúng
túng không biết phải làm ǵ cho đúng.
Phái đoàn quân sự của chúng ta (MAAG) ở
Sài G̣n th́ nhỏ bé và bị người Pháp hạn
chế trong nhiệm vụ của một nhóm hỗ trợ
tiếp tế hậu cần. Tất cả các khoản viện
trợ Mỹ cho các quốc gia Liên hiệp chỉ
được cấp, với sự đồng ư và nhất thiết
phải qua tay Pháp. Sĩ quan MAAG không
được tự do phát triển công tác t́nh báo
thu tin trong quá tŕnh diễn biến cuộc
chiến tranh; tin tức t́nh báo do Pháp
cung cấp bị hạn chế, thường không xác
thực, có khi được cố t́nh làm sai lạc
đi. Người Pháp cưỡng lại với sự nhắc nhở
thường xuyên của Mỹ đ̣i phải xây dựng
các quân đội bản xứ các quốc gia Liên
hiệp và cả ngay khi những đội quân này
đă tồn tại th́ chúng cũng không thành
được một quân đội quốc gia Việt Nam thực
sự - đó cũng là một bài học mà chúng ta
đă không thuộc khi chúng ta trực tiếp
nắm vấn đề này.
Có một sự thực lịch sử là mỗi khi chúng
ta liều lĩnh t́m cách đi ngược lại sự
bành trướng của học thuyết Marxism,
chúng ta đều trở nên lúng túng và thực
tế phải đi tới chỗ phủ nhận cái nguyên
nhân đầu tiên của sự bất măn đă dẫn dắt
các dân tộc phụ thuộc tới việc tim kiếm
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù chúng
ta có thiện chí và cho rằng chỉ có h́nh
thức dân chủ của chúng ta mới là lời
giải đáp duy nhất đúng, chúng ta lại
không chịu chấp nhận cho các dân tộc
khác cái nguyên lư cơ bản của một nền
dân chủ - quyền dân tộc tự quyết. Xu
hướng các nhà lănh đạo Mỹ là dùng các
đ̣n bẩy kinh tế và quân sự để chống lại
“mối đe doạ” của chủ nghĩa Cộng sản,
nhưng trong mọi trường hợp cái đ̣n bẩy
này đă bị nổ tung ra. Và ở đâu chúng ta
thành công một thời gian trong việc áp
đặt được lối sống của chúng ta, th́
thông thường ở đó có bội bạc, phải trả
giá đắt mà vẫn khổ sở.
Khi những tiếng vọng của 1945 hăy c̣n
vang dội, chúng ta không thể không tự
hỏi: Đông Nam Á có thực là quan trọng
đối với quyền lợi an ninh của Mỹ năm
1950 không? Thuyết domino có đúng không?
Không có sự ủng hộ của dân chúng Việt
Nam, chúng ta có thể thắng trận được
không? Và khi chúng ta chiến đấu bên
cạnh nước Pháp, chúng ta có thể tránh
được vết nhơ của chủ nghĩa thực dân
không? Tuy các vấn đề này đang được bàn
căi, nhưng thực tế lúc đó và hiện nay
cũng đủ sức để trả lời “không” với mỗi
câu hỏi trên. Dưới ánh sáng kinh nghiệm
của chúng ta trong những năm 1940, cuộc
liên minh của chúng ta với Pháp trong
những năm 1950 và sự trực tiếp thiết
thực tham gia với Ngô Đ́nh Diệm và
Nguyễn Văn Thiệu đều là thuần tuư điên
rồ. Chúng ta chưa khi nào chịu t́m hiểu
tiếng nói của nhân dân. Mặc dù chúng ta
đă có một truyền thống huy hoàng chống
chủ nghĩa thực dân, có nguyên tắc tự
quyết của Wilson, và những lời tuyên bố
độc lập cho các dân tộc phụ thuộc của
Roosevelt, chúng ta đă bỏ ngoài tai
những lời kêu gọi của Việt Nam đ̣i giải
phóng khỏi ách thống trị của bên ngoài
và chế độ thực dân.
Sẽ quá dễ dàng khi nói rằng chính phủ
của chúng ta đă không được hiểu thực
chất của vấn đề Đông Dương; hoặc ở đó đă
không có được một lănh tụ quần chúng;
hoặc người Việt Nam không có năng lực tự
quản. C̣n Hồ Chí Minh, ngay với các bí
danh khác nhau của ông, ông đă được thế
giới phương Tây biết tới từ năm 1919.
Các quan chức Mỹ, cũng biết ông và việc
ông đă làm để thống nhất dân tộc trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập từ
1942, và đă theo dơi các thành tựu của
ông cho tới khi ông chết năm 1969. Những
người biện hộ cho Bộ Ngoại giao chúng ta
đă khó mà thanh minh được rằng họ không
biết tới tính cách dân tộc chủ nghĩa của
ông Hồ và sự ngay thật trong phong trào
giành độc lập dân tộc của ông. Nhưng
chính ngay những tập hồ sơ trong Bộ của
họ từ năm 1942 đă tiết lộ rằng ông Hồ và
Việt Minh là đặc biệt có tinh thần Quốc
gia và không có những cam kết dính líu
về chính trị với bên ngoài cho đến năm
1950.
Cho đến tận tháng 2-1950, những lời ám
chỉ thưởng quyên và thô lỗ nói ông Hồ là
một “tên Quốc tế” hay “phái viên của
Quốc tế Cộng sản” một cách không có
chứng cớ rơ ràng, đă tác động một cách
ngây thơ đến chính sách đối ngoại của
chúng ta và một lần nữa đă làm chúng ta
mất cơ hội để đi đến một cuộc hoà giải
với nhân dân Đông Dương. Tháng 5-1949,
Bộ trưởng Acheson, mặc dù chẳng có lấy
được một mẩu chứng cớ nào về các mối
liên lạc giữa ông Hồ với Kremlin, đă chỉ
thị cho đại diện Mỹ tại Hà Nội cảnh cáo
những người quốc gia Việt Nam để ngăn
chặn việc chấp nhận một sự liên minh với
ông Hồ, bằng những lời lẽ sau đây:
“Qua hiểu biết về quá tŕnh đào tạo của
ông Hồ, không thể có nhận định nào khác
hơn ông Hồ là “một tên” Cộng sản quốc tế
thực thụ v́: 1) rơ ràng ông Hồ đă không
thể chối căi được các mối liên hệ với
Mátxcơva và chủ nghĩa Cộng sản quốc tế;
và 2) là một cá nhân được đề cao trong
báo chí Quốc tế Cộng sản và dược họ ủng
hộ. Hơn nữa, Mỹ đă không hề bị xúc động
bởi tính chất dân tộc chủ nghĩa của lá
cờ đỏ với ngôi sao vàng (sic)”.
Đây chỉ là bước đầu để sau này ông ta
công khai tuyên bố ông Hồ “với bộ mặt
thật là một kẻ tử thù của nền độc lập ở
Đông Dương”. Mà điều này một lần nữa đă
khoá trước mọi quan hệ với ông Hồ vào
tháng 2-1950.
Dù cho ông Hồ là một người Quốc gia hay
một người Cộng sản đi nữa th́ vấn đề
cũng không phải ở đó. Sự việc là ở chỗ
trước hết ông là một người Quốc gia, và
thứ hai mới là Cộng sản. Ông quan tâm
đến độc lập và chủ quyền của Việt Nam
hơn là làm theo lợi ích và mệnh lệnh của
Mátxcơva và Bắc Kinh. Nếu có sự ủng hộ
của Mỹ, ông Hồ có thể đă chấp nhận một
h́nh thức trung lập nào đó trong cuộc
xung đột Đông - Tây và giữ cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà là một chướng ngại
trung lập và lâu dài chống lại sự bành
trướng của Trung Quốc về phía Nam..
Người Việt Nam đă chứng minh họ có một
mối lo sợ đối với sự đô hộ của Trung
Quốc. Họ sẽ c̣n tiếp tục như vậy. Và họ
có đầy đủ lư do riêng để hành động trong
khả năng làm một vật đệm. Ông Hồ có thể
phục vụ tốt cho mục tiêu rộng lớn hơn
trong chính sách của Mỹ ở châu Á, không
phải như những “con rối Cộng sản” dùng
để che mắt chúng ta.
Cuối thập niên 1940, nhiều tài liệu đă
được đưa ra để chứng minh về đường lối
lănh đạo của ông Hồ. Cũng có những tài
liệu cho rằng một chính sách khác của Mỹ
có thể khiến cho ông Hồ có đường lối
không đi theo và chống lại với Bắc Kinh;
nhưng một số người khác; trong đó có tác
giả lại nhấn mạnh và một kết quả tất yếu
là ông Hồ đă bị buộc phải phụ thuộc vào
Bắc Kinh và Mátxcơva chỉ v́ có sự chống
đối hoặc bàng quang của Mỹ.
Ông Hồ là một người Cộng sản; tự ông đă
nói với tôi như vậy và ông không hề chối
bỏ điều đó mỗi khi các nhà báo ngoại
quốc hỏi. Nhưng một người Cộng sản không
có nghĩa là ông bị cưỡng ép phải đặt các
mục tiêu, h́nh thức, và kỷ luật tổ chức
Quốc tế Cộng sản lệ thuộc vào việc giành
độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Đă
nhiều lần ông Hồ và các nhà lănh đạo
khác của Việt Minh đă cho tôi hay họ có
nhiều nghi ngại xung quanh vấn đề coi
chủ nghĩa Cộng sản là một h́nh thức
chính trị thích hợp với Việt Nam. Ông Hồ
đặc biệt không tin là người Việt Nam đă
đủ trưởng thành về mặt chính trị để có
thể chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản - nhưng
có thể một h́nh thức dân chủ xă hội chủ
nghĩa có cải biên sẽ là lời giải đáp
đúng đắn. Song dù cho về cuối những năm
1940, ông Hồ đă tỏ ra muốn xem xét tới
chủ nghĩa trung lập, việc gắn bó với
phương Tây, chủ nghĩa xă hội hay các
h́nh thức không Cộng sản khác, th́ ở đây
ông Hồ cũng chỉ đưa ra những sự lựa chọn
có mức độ. Ông đă không có liên lạc trực
tiếp với Mỹ từ 1946, và những tín hiệu
ông nhận được từ Washington có thể rất
không đáng phấn khởi. Vào năm 1947, các
trang bị quân sự Mỹ đă được quân đội
Pháp và Anh sử dụng để chống lại người
Việt Nam và Mỹ đă đồng ư cấp cho Pháp
một khoản tiền 160 triệu dollar để mua
xe cộ và các thiết bị máy móc sử dụng
trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Tháng
1-1947, Marshall chỉ công khai tuyên bố
mong muốn “cần phải t́m được một cơ sở
hoà b́nh cho việc hoà giải cuộc xung
đột”, nhưng kế hoạch Marshall cho châu
Âu đă tuồn các tài nguyên của Mỹ vào
nước Pháp một cách có tính chất quyết
định. C̣n sự chi viện của người Nga về
mặt vật chất th́ không nhiều hơn. Trong
khi người Xô viết chỉ trích kịch liệt
các cường quốc thực dân khác mà không đả
động ǵ tới nước Pháp, th́ khả năng
trước mắt của một chính phủ Cộng sản
Pháp cũng sẽ chỉ là giữ không lên tiếng
ủng hộ ông Hồ, huống chi là nói đến công
nhận và viện trợ.
Một người có đầu óc thực dụng như ông Hồ
thấy ngay được rằng Việt Nam chỉ đứng
hàng thứ hai trong chính sách đối ngoại
Mỹ và Việt Nam cũng không thể tranh thủ
được sự biệt đăi của mẫu quốc Nga khi
nước này c̣n đang phải đấu tranh giành
ưu thế khá rơ nét: “Chúng ta rơ rệt là
hoàn toàn đơn độc; chúng ta đấu tranh
quân sự ở Việt Nam tiếp tục và vị trí
của Pháp thường tỏ ra có vẻ mạnh, th́
vùng nông thôn rộng lớn vẫn không bị
chinh phục. Ưu thế của Pháp đă bị hạn
chế chặt chẽ chỉ có ở các thành phố và
đường giao thông”.
Sau năm 1947, t́nh h́nh chuyển biến ít
nhiều có lợi cho ông Hồ. Việc t́m kiếm
viện trợ Mỹ từ 1947 đến 1949 đă chẳng
mang lại được ǵ tốt đẹp và đến 1950 th́
hoàn toàn hết hy vọng. Nhưng ở Trung
Quốc, Mao Trạch Đông tiến những bước
nhảy vọt trong việc chống lại Tưởng Giới
Thạch và đến 1950, Mao đă ở trong thế có
thể giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới
phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không c̣n bị
cô lập như trước, ông đă có nhiều đồng
minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó
Liên Xô. Một cuộc đấu bóng mới đă bắt
đầu.
Chuyện ǵ đă xảy ra cho
Pháp ở Đông Dương từ khi cuộc ngừng bắn
đổ vỡ năm 1946? Vào năm 1947-1948, “bè
lũ Sài G̣n” bắt đầu thừa nhận khả năng
cho một số ít hạn chế người Việt Nam
tham gia Chính phủ Đông Dương nhưng
không phải là cho Việt Minh. D'Argenlieu
hống hách chủ trương không điều đ́nh với
ông Hồ và những người đi theo ông Hồ, và
đưa ra ư kiến chỉ có thể chấp nhận biện
pháp duy nhất là quay trở lại “chế độ
quân chủ cổ truyền”. Ông ta cho một phái
viên tới Hongkong để móc nối với cựu
hoàng Bảo Đại. Phản ứng đầu tiên của ông
này là ngờ vực và không muốn tiếp xúc
với D'Argenlieu, con người mà Việt Nam
kinh tởm. Nhưng Bảo Đại cũng chẳng muốn
bác bỏ Hồ Chí Minh, người mà ông ta ca
tụng là một nhà yêu nước chân chính, và
trên lư thuyết ông ta c̣n phục vụ với
danh nghĩa “cố vấn chính trị tối cao”.
Bảo Đại không phải hoàn toàn chỉ là một
“tay chơi đế vương”, một “Farouk Viễn
Đông”, hay là một “ông vua các hộp đêm”
như người Pháp thường thích gọi, mà ông
cũng c̣n là một nhà chính trị thận trọng
và có tính toán. Ông cũng không phải chỉ
là một tên bù nh́n sẵn sàng làm vừa ḷng
người Pháp chỉ v́ tiền tài và bổng lộc,
như người Pháp đă thấy v́ họ cũng phải
để mất hơn 2 năm mới thuyết phục được
Bảo Đại đồng ư làm theo mưu mô của Pháp.
Bây giờ mới rơ đó cũng là một cách để
Bảo Đại giũ sạch sự đô hộ của Pháp để
ông ta nổi lên, theo kiểu của ông, như
là một người dân tộc chủ nghĩa.
Vào đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu
hồi về nước và nhiều sự kiện mới xảy ra
đă làm cho Bảo Đại phải xem xét lại t́nh
h́nh. D’Argenlieu bị gọi về chính là do
bị người Việt Nam ở Đông Dương và những
người Xă hội - Cộng sản Pháp căm ghét
sâu sắc. Trong năm 1947, Chính phủ
Ramadier giữ lập trường là Pháp có ư
định thương lượng một cuộc hoà giải với
“những đại diện chân chính ở Việt Nam”.
Điều đó có vẻ thành thật, nhưng thực ra
chỉ là một sự thoả hiệp không hay ho ǵ
giữa những người Cộng sản cùng với một
số ít người Xă hội đ̣i phải mở lại một
cuộc điều đ́nh với ông Hồ; và cánh tả
đảng Cộng hoà B́nh dân Pháp không muốn
có quan hệ với ông Hồ. Trong lúc đó th́
sự việc diễn ra một cách không thuận lợi
cho ông Hồ lắm v́ ông đă không tranh thủ
được một sự đảm bảo về chiến lược và
chính trị nào. Ông đă phải vào ẩn náu
trong vùng rừng núi, c̣n người Pháp kiểm
soát các đô thị và thành phố. Ngày 21-3,
ông đưa ra một bản thông báo, trong đó
ông “trịnh trọng tuyên bố” là nhân dân
Việt Nam chỉ mong muốn được thống nhất
và độc lập “trong Liên hiệp Pháp” và đảm
bảo “tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn
hoá của Pháp ở Việt Nam”. Chưa bao giờ
lại có điều kiện thuận lợi cho một cuộc
hoà giải hơn như trong mùa xuân 1947
này.
Nhưng vào lúc đó, lại nổi lên một sự
kiện mới, Việt Nam Quốc dân Đảng thân
Trung Quốc, Đại Việt và Đồng minh Hội,
được Quốc dân Đảng của Tưởng, bọn quân
phiệt Trung Quốc và cả Mỹ khuyến khích
đă đi đến thành lập một tập đoàn chính
trị mới gọi là Mặt trận Liên hiệp Quốc
gia. Tổ chức này được mô tả như là một
liên minh lỏng lẻo của những phần tử hợp
tác cũ đă mất uy tín, những tên mưu mô
đầy tham vọng, bọn bè phái bất lực và
một số lănh tụ thành thật nhưng nông cạn
và không có quần chúng. Trong số sau này
phải kể đến Ngô Đ́nh Diệm, lần đầu tiên
và cũng là lần độc nhất tham gia vào một
đảng phái không phải do ông tự lập ra.
Mặt trận Liên hiệp Quốc gia đă bắt liên
lạc với một số phần tử bảo thủ và, “ly
khai” ở Nam Kỳ như Cao Đài, Hoà Hảo và
đảng Xă hội Dân chủ Nam Kỳ. Họ hội họp ở
Quảng Châu và thống nhất ư kiến thôi
không ủng hộ Bảo Đại. Mặc dù các phần tử
này gần như hoàn toàn mất uy tín trong
nhân dân Việt Nam nhưng người Pháp lại
cho việc khuyến khích họ là điều thích
đáng đối với quyền lợi của nước Pháp.
Người thay D'Argenlieu là E. Bollaert,
một nghị sĩ thuộc đảng Xă hội cấp tiến
và đă đến Sài G̣n ngày 1-4 để phải đối
phó với hai phe đối địch nhau, Chính phủ
“hợp pháp” Việt Nam đang hoạt động từ
vùng rừng núi, và các nhóm khác nhau đă
họp thành Mặt trận Liên hiệp Quốc gia.
Bảo Đại lánh mặt ở hậu trường, Hoàng
Minh Giám, Bộ trưởng Ngoại giao của ông
Hồ gặp Bollaert ngày 19-4 và đă đưa ra
một đề nghị hoà giải chính thức; nhưng
một lần nữa thời cơ thuận lợi cho một
cuộc thương lượng hoà b́nh lại tan biến
v́ các điều khoản cua Pháp chẳng khác ǵ
một đ̣i hỏi Việt Minh phải đầu hàng.
Giữa lúc đó, Mặt trận Liên hiệp Quốc gia
mới được các người Công giáo Việt Nam
ủng hộ đề xuất ra “giải pháp Bảo Đại”.
Người Pháp lúc bấy giờ, tuy hoàn toàn
biết rơ về “tên tay chơi” này nhưng lại
nghĩ rằng họ có thể sai khiến được ông
ta, cũng giống như thời 1933, khi ông ta
c̣n là một thanh niên rất trẻ. Theo quan
điểm của Pháp lúc đó, một Việt Nam thống
nhất và có “bộ mặt độc lập” do Bảo Đại
đứng đầu, sẽ là một trong hai điều ít
hại nhất và cũng là một giải pháp duy
nhất thiết thực. Họ lập luận rằng những
người đi theo Bảo Đại bao gồm những
người bảo thủ và những người Quốc gia
cánh hữu, cũng như những người thuộc
giai cấp quan lại sẽ tăng cường cho chủ
nghĩa tư bản Pháp và nhà băng Đông
Dương. C̣n ở Mỹ, điều đó sẽ giúp xoa dịu
các phần tử chống Cộng và đồng thời nó
cũng có thể xoá nhoà các thành kiến
chống thực dân bằng những lời hứa hẹn
của Pháp cho Đông Dương tự trị dần từng
bước.
Nhưng có một điều thường đă không được
biết tới, ngay cả đối với người Mỹ năm
1965, là về mặt quân sự không thể “b́nh
định” được Việt Nam nếu không có sự tăng
cường quân đội Pháp ở Đông Dương bằng
hàng trăm ngàn người. Ở Pháp, đảng Cộng
hoà B́nh dân đă nhầm lẫn khi cho rằng
đưa được Bảo Đại lên ngôi vua th́ cuộc
kháng chiến của Việt Minh sẽ nhanh chóng
bị tàn lụi, trong khi nhưng người đảng
viên Xă hội lại hy vọng rằng Bảo Đại có
thể hoạt động gần giống như mọi người
trung gian và sẽ lôi cuốn được Việt Minh
đi theo Mặt trận Liên hiệp Quốc gia.
Để chấm dứt cuộc xung đột kéo dài, người
Pháp đă làm áp lực với Mặt trận Liên
hiệp Quốc gia, kêu gọi Bảo Đại thành lập
một chính phủ trung ương. Họ đă cử phái
đoàn đến gặp cựu hoàng ở Hongkong vào
tháng 5-1947, nhưng Bảo Đại vẫn c̣n
lưỡng lự. Nhà “ái quốc” Bảo Đại đă không
coi Mặt trận Liên hiệp Quốc gia là đại
diện cho nhân dân và ông ta cũng không
muốn tán thành một chính phủ do Pháp đỡ
đầu. Có thể ông ta cũng muốn có một sự
hoà giải nào đó với Việt Minh mà ông cho
là một lực lượng thiết yếu nhất ở Việt
Nam. Nhà “chính trị” Bảo Đại, lại nhận
thức được rằng Đảng Cộng hoà B́nh dân ở
Paris, trong mùa hè 1947 đă kêu gọi nổ
súng, sẽ không bao giờ bắt tay với ông
Hồ. V́ vậy, ông ta quyết định đóng một
vai tṛ tích cực và tuyên bố ông ta
chống lại Việt Minh. Lúc đó, đă có dư
luận cho rằng Bảo Đại đă nghĩ rằng qua
hành động trên, ông ta đă tranh thủ được
sự ủng hộ của Mỹ để chống lại người
Pháp, như là Mỹ đă dùng ảnh hưởng của
ḿnh ở Indonesia để chống lại người Hà
Lan.
Cuối cùng, Bảo Đại trong thâm tâm vẫn hy
vọng vào sự ủng hộ của Mỹ, đă gặp
Bollaert trên một tàu chiến Pháp tại
vịnh Hạ Long. Hai người đă kư tắt một
bản hiệp định sơ bộ, hứa hẹn độc lập
bằng những lời lẽ mơ hồ; nhưng sau đó
Bảo Đại đă được báo cho biết là bản tài
liệu nói trên chỉ đơn thuần là một bản
“ghi chép” các cuộc thương lượng và
không ràng buộc ông ta vào bất cứ vấn đề
ǵ(3). Bản tài liệu đă buộc Pháp phải
trao cho Việt Nam quyền tự trị tối thiểu
ở mức mà Diệm cũng như phần lớn số cơ
hội chủ nghĩa trong Mặt trận Liên hiệp
Quốc gia đă phản đối ngay tức khắc.
Việc Bảo Đại cảm thấy Mỹ có thể nh́n ông
bằng một con mắt thiện cảm không phải là
không có căn cứ. Ba tuần lễ sau khi ông
ta kư bản hiệp định sơ bộ, tuần báo Life
của Mỹ đă đăng một bài của W.C. Bullit,
cựu đại sứ chúng ta ở Pháp, trong đó
Bullit bênh vực một chính sách nhằm kết
thúc cuộc “chiến tranh buồn thảm nhất”
bằng cách giành lại đa số những người
quốc gia Việt Nam từ phía Hồ Chí Minh để
chuyển sang một phong trào được xây dựng
chung quanh Bảo Đại. Ở Pháp, quan điểm
của Bullit được dư luận rộng răi coi như
một lời công bố chính sách Mỹ và cũng là
một sự tán thành và hứa hẹn trực tiếp Mỹ
viện trợ cho Bảo Đại.
Mặc dù h́nh như đă có được một sự đồng ư
của Mỹ, Bảo Đại cũng vẫn lo ngại v́ Mặt
trận Liên hiệp Quốc gia lên án hiệp định
ông đă kư là không có giá trị. Ông liền
tự tách ḿnh khỏi những mưu toan đang
h́nh thành và bay sang châu Âu ngao du
trong 4 tháng. Ở đây, dù cho ông ta có
ăn phải cái bả mà Bullit đă đưa ra hay
không, h́nh như Bảo Đại cũng cảm thấy Mỹ
trước sau cũng sẽ không tránh khỏi bị
lôi cuốn vào Đông Nam Á, và ông ta hy
vọng một cách mạnh mẽ rằng việc Mỹ can
thiệp sẽ dẫn theo việc Mỹ sẽ dựa vào
phong trào quốc gia chủ nghĩa Việt Nam
để làm áp lực với Pháp.
Người Pháp, mặc dù đối tượng vẫn lẩn
tránh, đă phái các nhà ngoại giao đuổi
theo “ông vua” đang du hành và công bố
quyết định chung của họ “cho xúc tiến,
ngoài Chính phủ Hồ Chí Minh, mọi hoạt
động và điều đ́nh cần thiết để khôi phục
lại hoà b́nh và tự do trên đất nước Việt
Nam”, có nghĩa là dĩ nhiên họ đă tự ràng
buộc ḿnh với một chiến thắng quân sự và
Bảo Đại.
Bollaert đă t́m gặp được Bảo Đại ở
Genève (tháng 1-1948) và hai bên đă hội
họp với nhau nhiều lần, qua đó Bảo Đại
phát biểu là nếu như Hiệp định Hạ Long
không được bổ sung thêm th́ ông ta sẽ
không trở về Việt Nam. Sau đó, ông ta đă
đi Cannes rồi về Paris để xem xét t́nh
h́nh. Ở Paris, ông ta thấy được Đông
Dương đă trở thành một vấn đề tranh căi
quan trọng giữa các Bộ khác nhau, các
đảng phái đối lập, các nhóm tài phiệt và
các nhà chính trị. Những người cực hữu
theo De Gaulle phản đối kịch liệt nhất
cho rằng bản hiệp định sơ bộ đă đi quá
xa. Bảo Đại bèn trở lại Hongkong vào
tháng 3, không để cho ḿnh bị ràng buộc
một lần nữa.
Trong khi đó, Pháp vẫn nài ép và Mặt
trận Liên hiệp Quốc gia làm áp lực bắt
Bảo Đại phải tiếp tục điều đ́nh với
Bollaert nên họ lại gặp nhau tại vịnh Hạ
Long ngày 5-6-1948. Lần này, bản hiệp
đ́nh đă được “bổ sung” và nước Pháp
“trịnh trọng công nhận nền độc lập của
Việt Nam”, nhưng đặc biệt họ chỉ giữ lại
quyền kiểm soát công tác đối ngoại và
quân đội, c̣n việc chuyển giao các chức
năng khác của chính phủ th́ sẽ được giải
quyết ở các cuộc thương lượng sau. Thực
tế người Việt Nam chẳng được trao cho
quyền hành ǵ.
Ở Đông Dương, phản ứng nổ ra dữ dội.
Việt Minh la lối cho là xấu xa tội lỗi
v́ Bảo Đại đă nài xin được người Pháp
chữ “độc lập” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đă
cố gắng giành giật ở Fontainebleu không
được và bây giờ th́ điều đó có thể đào
phá sự ủng hộ của quần chúng đối với
Việt Minh. Đối với “bè lũ Sài G̣n” và
đám thực dân, họ cũng cho là đă chẳng
mang lại điều ǵ có ư nghĩa cho những
người “A nam mít”,nhưng báo chí của họ
vẫn lớn tiếng chống lại việc “đầu hàng”
của Bollaert, yêu cầu cắt Nam Kỳ ra khỏi
miền Bắc và cho trở lại chế độ của một
xứ bảo hộ. Các chính trị gia ở Paris ra
sức trấn an đám thực dân và đảm bảo với
họ rằng sẽ không có ǵ thay đổi - cuộc
chiến tranh cũng không chấm dứt. Các
lănh tụ Cộng hoà B́nh dân và nhiều người
thân cận với Cộng hoà B́nh dân lại cho
rằng kéo dài chiến tranh sẽ hết sức có
lợi và đă đi đến quyết định không để cho
cuộc chiến tranh kết thúc sớm.
Bảo Đại một lần nữa lại rút lui khỏi sân
khấu và sang châu Âu, trong khi ở Hà
Nội, Pháp chuẩn bị để đưa ra một chính
phủ người bản xứ thể hiện rơ ràng là bất
lực. Từ Saint Germain, ngày 25-8, Bảo
Đại báo cho Bollaret biết ông ta sẽ
không trở về Việt Nam nếu như chế độ
thuộc địa ở Nam Kỳ không bị huỷ bỏ, và
ông ta không nhận được sự đảm bảo cho
Việt Nam độc lập. Ngày hôm sau đă thấy
các Bộ trưởng ở Paris phát biểu “thực sự
hắn đă bắt đầu bất chấp cả chúng ta”
(tiếng Pháp). Ở đây đă có khá nhiều điều
cho thấy Bảo Đại không phải chỉ là một
tên bù nh́n và “vua hộp đêm” như mọi
người vẫn tưởng.
Nhưng cuối cùng (ngày 8-3-1949), Bảo Đại
đă nhân nhượng và kư bản Hiệp định
Auriol - Bảo Đại, rất-được-hoan-nghênh,
hiệp định mà người ta c̣n gọi là Thoả
hiệp Élysée, trong đó các bộ phận chủ
chốt trong chính phủ vẫn do Pháp nắm giữ
và cơ cấu thuộc địa cũ vẫn c̣n nguyên
vẹn. Tại sao Bảo Đại phải nhượng bộ cho
người Pháp? H́nh như là nếu ông ta kéo
dài thêm sự chống đối th́ Pháp sẽ t́m
một biện pháp thay thế khác, và Đông
Dương sẽ măi măi vẫn c̣n là một thuộc
địa của Pháp. Ảnh hưởng của Việt Minh sẽ
không suy giảm và cơ hội cuối cùng để đi
đến một hoà b́nh không có Cộng sản đă
sớm tiêu tan. Cuộc viếng thăm Paris của
Bảo Đại năm trước đă cho ông ta thấy rơ
đường lối cứng rắn của cánh hữu Pháp
quyết tâm theo đuổi cuộc chiến tranh lâu
dài khi nào mà điều đó vẫn có lợi. Để
tránh được điều đó, Bảo Đại đă liều kư
thoả hiệp Élysée để nhằm một khi nắm
được chính quyền, ông ta có thể sẽ chơi
một ván bài quốc tế theo kiểu cách của
chính ông. Ông ta đă kư gửi rất nhiều
ḷng tin vào sự ủng hộ của Mỹ mà ông hy
vọng sẽ ḱm giữ được Pháp và cung cấp
cho Việt Nam một sự viện trợ tối cần
thiết về kinh tế.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy Bảo Đại
vừa là một nhà chính trị, vừa là một
người dân tộc chủ nghĩa. Sau khi đă kư
thoả hiệp Élysée, Bảo Đại cố gắng t́m
cách thanh toán với ông Hồ. Vào tháng 5,
có tin tung ra nói ông Hồ có thể cũng
không bị mất quyền ưu tiên trong một
chính phủ mới của Bảo Đại. Trong điệu
nhảy rất chi là tưởng tượng vừa với
người Pháp vừa với người Mỹ của ḿnh,
Bảo Đại vẫn nghĩ rằng sẽ không thể có
một chính phủ thực sự đại diện nếu như
không có được sự tham gia, hay ít ra
cũng phải là một sự tán thành ngầm của
Việt Minh mà dù sao đi nữa th́ ông ta
cũng vẫn c̣n ngưỡng mộ. V́ vậy, một khi
trở về Việt Nam, ông ta đă từ chối không
tuyên bố ḿnh chống đối lại với cái gọi
là “kháng chiến”.
Công việc đầu tiên đặt ra trước mắt cựu
hoàng (ông tự phong cho ḿnh nhiệm vụ
phải giành được địa vị quốc tế) là thành
lập một chính phủ, một việc đầy những
khó khăn: sự ngoan cố của Pháp, sự thờ ơ
của quần chúng và sự chống đối về chính
trị. Nhưng người Pháp đă tính toán và
cho hoăn việc thi hành thoả hiệp Élysée.
Quân đội của họ đóng lại, nhân viên hành
chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính
quyền; người Việt Nam chẳng được trao
cho một chút quyền hành thực sự nào, như
bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam
chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị
của Pháp.
Khi Bảo Đại cố nài Pháp
phải có một hành động tích cực th́ Léon
Pignon, Cao uỷ mới và là người của
D'Argenlieu đă cho biết Pháp chỉ trao
trả chủ quyền cho “một chính phủ được
Pháp tin cậy nhất”. Mùa hè 1949, Bảo Đại
đă thất bại trong việc thành lập một
chính phủ đáng tin cậy chỉ v́ thiếu sự
tín nhiệm của những người trung thực và
v́ các tham vọng cá nhân. Những người
Quốc gia ngay thẳng đă không tham gia v́
họ thấy nguyện vọng độc lập dân tộc
không được đáp ứng. Khi Ngô Đ́nh Diệm
không được chấp nhận làm Thủ tướng; ông
này đă phê phán những người không liêm
chính ra nhận việc lúc đó như sau:
“Nguyện vọng dân tộc của nhân dân Việt
Nam sẽ chỉ được thoả măn khi ngày mà đất
nước chúng ta đạt được một chế độ chính
trị giống như Ấn Độ và Pakistan đă được
hưởng… Tôi cho rằng chỉ có một cách duy
nhất đúng là phải dành những chức vụ tốt
nhất trong nước Việt Nam mới cho những
người xứng đáng nhất của đất nước. Tôi
muốn nói đó là “những người kháng
chiến”.
Thay v́ cho “những phần tử kháng chiến”,
Bảo Đại đă chọn thủ lĩnh các cấp của ông
ta trong những người đồng hoá sâu sắc
với Pháp, những người giàu lớn đáng ngờ
hoặc có dính líu chặt chẽ với giới mại
bản xấu xa của Việt Nam và không một ai
được quần chúng ủng hộ.
Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu
trưởng quân đội Pháp, được phái sang
Việt Nam để nghiên cứu t́nh h́nh (tháng
5, 6 năm 1949) và sau đó đă viết:
“Hồ Chí Minh đă có khả năng chống cự lại
với sự can thiệp của Pháp lâu đến như
thế, chính là v́ nhà lănh đạo Việt Minh
đă biết tập hợp chung quanh ḿnh một
nhóm những người thực sự có năng lực…
Ngược lại, Bảo Đại đă có một chính phủ
gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng
phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng
khó mà đếm một được 25 đảng viên”.
Nhưng lúc đó ở Pháp, chính phủ Henri
Queille đă cho ra một bản tuyên bố công
khai (8-9-1949) tán dương việc “đă giải
quyết xong vấn đề Đông Dương bằng cách
thiết lập được chế độ Bảo Đại. Thực chỉ
là câu chuyện phiếm. “Giải pháp Bảo Đại”
đă chẳng đạt được một cái ǵ lâu dài, và
cuộc chiến tranh Đông Dương vẫn cứ tiếp
tục, càng ngày càng đào xới sâu thêm vào
nền kinh tế Pháp và có nguy cơ phát
triển từ một cuộc chiến tranh xâm chiếm
thuộc địa thành một cuộc chiến tranh có
tầm cỡ thế giới.
Bản thân Bảo Đại gần như không làm ǵ để
cho chính phủ của ông ta thành đại diện
và có hiệu lực hơn. Ông ta tiêu phí thời
gian trong các cuộc vui chơi ở các thành
phố nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang và Ban Mê
Thuột; sống ngoài lề các hoạt động của
chính phủ. Có lẽ để bào chữa cho hành
động và thái độ của ḿnh, ông ta đă có ư
kiến về t́nh h́nh năm 1950 như sau: “Cái
mà người ta gọi là một giải pháp Bảo
Đại, nay đă không c̣n thực sự là một
giải pháp của Pháp nữa… T́nh h́nh Đông
Dương mỗi ngày một trở nên tồi tệ”.
Nhưng vào đầu năm 1950, chính phủ Bảo
Đại lại biểu thị hoan nghênh Hồ Chí Minh
v́ việc Trung Cộng và Liên Xô công nhận
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đă mang lại
cho Pháp và cho chế độ của ông ta viện
trợ Mỹ và đă quốc tế hoá cuộc chiến
tranh ở Đông Dương.
Trong t́nh huống đó, Pháp đă bị đặt vào
trong một địa vị khó xử đối với Mỹ. Nếu
phải chứng minh mục đích của Pháp là đấu
tranh nhằm bảo vệ chính phủ Bảo Đại
chống lại những người Cộng sản, th́
không có ǵ khác hơn là Pháp phải thông
qua thoả hiệp Élysée, nhờ đó mà chính
phủ Bảo Đại mới tồn tại. Chỉ lúc đó Pháp
mới có thể đ̣i hỏi chúng ta viện trợ
trực tiếp về quân sự cho chiến tranh
Đông Dương. Như vậy là sau khi đă kéo
dài gần một năm, cuối cùng Pháp mới chịu
thông qua Thoả hiệp vào ngày 16-2-1950.
***
Trong khi nước Mỹ có thể sử dựng một ảnh
hưởng quyết định để thúc đẩy một cuộc
thanh toán những nỗi cơ cực của người
Việt Nam vào năm 1945-1946, và khi người
Pháp có thể điều đ́nh một cách khá thuận
lợi với người Việt Nam trong mùa xuân
1947, cuối năm 1949 và suốt trong năm
1950, th́ đă có một số trường hợp dần
dần phát triển ra và có tác dụng ḱm hăm
sự tiến triển của t́nh h́nh qua một phức
hợp các vấn đề quốc tế nan giải.
Trong thời kỳ này, nền kinh tế Mỹ đang
mục kích một sự biến đổi hoàn toàn từ
sản xuất chiến tranh sang cung ứng cho
các yêu cầu thời b́nh. Hạ tầng cơ sở
công nghiệp cũng đă thay đổi. Khối dự
trữ lao động đă bị quân đội hút đi mất
khá nhiều nhân lực từ 1941 đến 1945,
phải bổ sung bằng lực lượng phụ nữ,
trước đây vẫn tách rời với công việc
ngoài xă hội. Sau chiến tranh, sức sản
xuất được mở rộng hết sức của chúng ta
đă được dùng để thoả măn các nhu cầu đă
bị gạt đi trong thời chiến và đưa đến
một mức sống cao hơn cho cả đất nước.
Trong đại bộ phận các ngành công nghiệp,
mức sản xuất phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và viện trợ kinh tế cho nước ngoài,
đă đạt tới những đỉnh cao chưa từng có
như trong năm 1947-1948. Nhưng bắt đầu
từ cuối 1948 và sang 1949, đă cần phải
có một sự điều chỉnh để giảm bớt số các
nhà máy thu nhập kém không đảm bảo định
mức. Mặt thay đổi khác của nền kinh tế
sau chiến tranh của chúng ta là hiện
trạng kinh tế xă hội thu nhập bằng tiền
lương kép trong xă hội Mỹ. Cả chồng lẫn
vợ đều làm việc nên sức mua của họ tăng
nhanh một cách rất không cân đối với thu
cầu b́nh thường của họ, dẫn đến lạm phát
gay gắt và làm giảm sức mua của đồng
dollar. Các diều kiện này đă gợi ra
trong tiềm thức người ta ư muốn quay trở
lại với một nền kinh tế chiến tranh “hạn
chế”. Đó chính là t́nh trạng kinh tế
nước Mỹ trước khi nổ ra cuộc chiến tranh
Triều Tiên.
Có thể như Mỹ đă tính toán trong việc
cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho
Đông Dương vào đầu 1950, các quốc gia
liên hiệp và Pháp đă mở cuộc điều đ́nh ở
Pau (Pháp) để ấn định thời gian và mức
độ trao quyền tự trị cho chế độ Bảo Đại.
Cuộc thương lượng lúc đầu dự tính vào
tháng 1-1950, nhưng măi đến 29-6 mói
tiến hành được và kéo dài cho đến khi
kết thúc vào tháng 11. Bảo Đại đến Pháp
để chờ Hiệp định Élysée được thông qua,
chỉ đóng vai một “quan sát viên” suốt
trong thời gian hội nghị, trước sự phiền
ḷng của Pháp v́ họ chỉ muốn ông ta ở
lại Việt Nam có lợi hơn và đừng can
thiệp vào công việc ở Pau.
Tuy các hiệp định Élysée và Pau đă đưa
lại dược ít nhiều kết quả cụ thể cho
chính phủ tự trị, nhưng người Pháp vẫn
giữ quyền kiểm soát về quân sự, ngoại
giao và thương mại, hệ thống tài chính
và toà án. Và dù cho nhượng bộ ít ỏi,
nhưng nhiều người Pháp lại cho Hội nghị
Pau là một sự từ bỏ quyền hành tai hại
cho Pháp và cũng có nghĩa như là một sự
cáo chung của Pháp ở Đông Nam Á. Phái
đoàn quốc gia Việt Nam lúc đó lại quan
niệm các kết quả đạt được cũng là một
bước tiến bộ. Họ cảm thấy muốn giành
được cái ǵ từ người Pháp th́ cũng phải
“rỉa mồi” dần, do đó cần phải có thời
gian và kiên nhẫn. Tất nhiên họ đă lầm,
không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập
để mất Đông Dương. Bảo Đại trở về Việt
Nam và cho rằng ông ta đă làm hết sức
ḿnh để người Pháp phải giữ lời cam kết.
Ông sẽ chờ và xem. Có thể người Mỹ sẽ
khích lệ giúp đỡ. Nhưng sau một ngày ở
Sài G̣n, thấy Pháp từ chối không cho ông
sử dụng dinh Norodom, trụ sở chính quyền
thuộc địa Pháp, Bảo Đại liền rút lui về
nhà ở Đà Lạt. Sự việc này cho thấy rơ
t́nh h́nh chẳng có ǵ thay đổi cả.
Giá như cuộc thương lượng đă mang lại
một nền độc lập thực sự cho chế độ Bảo
Đại, th́ mối quan hệ tiếp theo sau giữa
Mỹ và Pháp cũng có thể ít phức tạp hơn
và cũng ít cay đắng một cách có ư nghĩa
hơn. Không những thế, việc Pháp miễn
cưỡng nhận phải trao trả quyền hành về
chính trị và kinh tế cho Bảo Đại c̣n
được các viên tư lệnh ngoan cố có khuynh
hướng hiếu chiến khuyến khích thêm; họ
nghi ngờ người Mỹ, quyết tâm giành chiến
thắng quân sự, và khinh thường “giải
pháp Bảo Đại”. Khi Pháp xin viện trợ,
tướng Marcel Carpentier, Tổng tư lệnh
quân Pháp, đă trả lời báo New York Times
(9-3-1950) như sau: “Tôi sẽ không khi
nào đồng ư cấp trang bị trực tiếp cho
người Việt Nam. Nếu việc đó cứ được làm,
tôi sẽ từ chức trong ṿng 2 tiếng đồng
hồ. Người Việt không có tướng, không có
tá, không có tổ chức quân sự để có thể
sử dụng một cách có hiệu quả các trang
thiết bị được giao. Đó sẽ là một sự lăng
phí, mà Mỹ ở Trung Quốc đă phải gánh
chịu khá nhiều”.
Cuối cùng chính phủ Pléven đă phải thay
Pignon (tháng 12-1950) và cử tướng Jean
De Lattre De Tassigny làm Cao uỷ và Tổng
tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông
Dương, người đầu tiên và duy nhất được
trao cả hai nhiệm vụ trong tay. De
Lattre đă kích động được quân Pháp đang
mất tinh thần và tập hợp họ lại thành
lực lượng chiến đấu. Ông tự xưng là
người lănh đạo một đội thập tự quân
chống Cộng và sẽ giành thắng lợi quyết
định ở Việt Nam trong ṿng 15 tháng,
“cứu Việt Nam ra khỏi tay Bắc Kinh và
Mátxcơva”. Ông không thừa nhận ư kiến
cho rằng Pháp vẫn c̣n hành động theo chủ
nghĩa thực dân và đă từng nói với một kư
giả Mỹ: Chúng tôi không c̣n có nhiều
quyền lợi ở đó. Chúng tôi đă từ bỏ hoàn
toàn tất cả các đất đai thuộc địa của
chúng tôi. Ở đó, chúng tôi chỉ được một
ít cao su, than và gạo… Có ǵ có thể so
sánh được với máu của con em chúng tôi
đă phải đổ ra, và với số tiền 350 triệu
quan chúng tôi tiêu mỗi ngày ở Đông
Dương?
Việc mà chúng tôi làm là chỉ nhằm để cứu
vớt dân chúng Việt Nam. V́ vậy chiến
dịch tuyên truyền của Mỹ nói rằng chúng
tôi vẫn là thực dân chỉ gây ra những tai
hại ghê gớm cho chúng tôi, cho tất cả
chúng ta: người Việt Nam, bản thân các
ông và chúng tôi”.
Hơn thế nữa, De Lattre, c̣n tin tưởng
rằng người Việt phải được đưa vào tham
gia chiến đấu. Qua lời phát biểu trong
“Lời kêu gọi các thanh niên Việt Nam”,
ông tuyên bố:
“Cuộc chiến tranh này, dù các anh muốn
hay không th́ cũng vẫn là một cuộc chiến
tranh của Việt Nam, cho Việt Nam. Và
nước Pháp sẽ chỉ theo đuổi nó v́ các anh
và nếu như các anh cũng theo đuổi cuộc
chiến đó cùng với nước Pháp… Thanh niên
Việt Nam mà tôi thân thương như đối với
thanh niên ở chính nước tôi, đă đến lúc
các anh phải tự bảo vệ lấy đất nước
ḿnh”.
Nhưng tướng De Lattre có nhiều điều nghi
ngại về chính sách Mỹ đối với Bảo Đại.
Ông ta cho rằng người Mỹ đau khổ v́
“nhiệt tâm cứu thế” của ḿnh, đă “làm
bùng lên ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc
cục đoan. Ở đây, truyền thống của Pháp
phải là chủ yếu. Không được và không thể
thủ tiêu nó. Không ai chỉ có thể đơn
giản qua một đêm mà xây dựng ngay được
một nước mới bằng cách duy nhất cung cấp
các viện trợ kinh tế và vũ khí!”. Cũng
như Carpentier, De Lattre kiên quyết
chống lại viện trợ trực tiếp của Mỹ cho
quân đội Việt Nam và trao cho giới quân
sự Việt Nam một chút ít quyền hành.
Edmund A. Gullion, Bí thư Cố vấn của
chúng ta ở Sài G̣n (từ 1950) đă nhầm lẫn
khi cho De Lattre không có khả năng động
viên một sự năng động mănh liệt trong
quân đội Quốc gia Việt Nam như ông ta đă
từng làm được với số c̣n lại của quân
viễn chinh Pháp:
“Thật khó mà truyền được một tinh thần
dân tộc hăng say vào một đội quân người
bản xứ mà trước đây sĩ quan và hạ sĩ
quan của họ đều là người Pháp da trắng…
Các đơn vị Việt Nam đi hoạt động rất ít
khi được người Pháp hỗ trợ… Có lẽ dấu
hiệu có ư nghĩa nhất và cũng là đáng
buồn nhất trong việc Pháp thiếu sót
không tổ chức được quân đội Việt Nam
thực sự độc lập và có thế chiến đấu theo
cách của De Lattre hiểu, là ở Điện Biên
Phủ đă vắng bóng mọi đơn vị chiến đấu
Việt Nam. Đó là một cuộc tŕnh diễn của
Pháp”.
Gullion đă ít nhiều sai lầm chung quanh
vấn đề Điện Biên Phủ; tỷ lệ thành phần
dân tộc trong số quân pḥng thủ cứ điểm
ngày 6-5-1954 cho thấy người Việt Nam
chiếm gần 3% số sĩ quan, 16,2% số hạ sĩ
quan, 39,2% số lính. Nhưng cơ bản
Gullion đă nói đúng. Quân đội Việt Nam
đă không hoặc có rất ít tiếng nói trong
việc quyết định về các vấn đề chiến lược
và chiến thuật và cũng có rất ít lư do
để chiến đấu một cách mănh liệt trong
một cuộc chiến tranh của người Pháp.
***
Ở Washinton đă h́nh thành nhiều nhận
định quan trọng làm cơ sở cho việc quyết
định các chính sách của chúng ta từ 1950
đến 1954; sự quan trọng ngày càng lớn
của châu Á trên chính trường thế giới,
khuynh hướng của ta nh́n nhận “mối đe
doạ Cộng sản” toàn cầu theo kiểu của một
khối thống nhất, và mưu đồ của chế độ
Việt Minh quyết tâm loại trừ người Pháp
ra khỏi Đông Dương. Vấn đề chót này đă
được giải quyết như là biểu hiện của một
bộ phận trong âm mưu thôn tính toàn cầu
ở Đông Nam Á của Cộng sản và nó cũng
biện minh cho một định kiến được chấp
nhận rộng răi trong giới quan chức
Washington cho rằng nếu Đông Dương “bị
mất” th́ toàn bộ c̣n lại của Đông Nam Á
sẽ không tránh khỏi bị rơi vào xâm nhập
của Cộng sản và sẽ bị chiếm qua một phản
ứng dây chuyền. Khái niệm chiến lược này
đă có trước khi nổ ra cuộc chiến Triều
Tiên tháng 6-1950. Chắc rằng nó đă trải
qua thời kỳ thai nghén trong khi Quốc
dân Đảng rút khỏi lục địa Trung Quốc
(12-1949). Sau khi Bộ trưởng Quốc pḥng
Louis Johnson bày tỏ lo ngại đối với sự
tiến triển t́nh h́nh tại Đông Nam Á và
đề cập tới việc mở rộng các chủ trương
trước đây đối với từng nước một sang một
kế hoạch cho từng khu vực.
Vào năm 1949 th́ Nga, chứ
không phải Trung Quốc, được coi như là
nguồn gốc chính của mối đe doạ Cộng sản
ở châu Á, mặc dù mọi người cũng nhận
thức rằng Trung Quốc, Nhật và cả Ấn Độ
cũng có thể mưu đồ thống trị châu Á
trong quá tŕnh thời gian. Nhưng trong
năm 1949, Hội đồng An ninh Quốc gia của
chúng ta đă giữ lập trường cho Mỹ là một
nước lớn phương Tây, nên sẽ phải ḱm chế
không để cho bị lôi kéo vào Đông Nam Á;
thay v́ điều đó sẽ khuyến khích các dân
tộc Ấn Độ, Pakistan, Philippin và các
nước châu Á khác tích cực chủ động việc
ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản.
Hội đồng đă đặc biệt nêu ra Đông Dương,
nhấn mạnh ở đó “phải có hành động làm
cho người Pháp thấy rơ được sự cấp bách
phải gạt bỏ các chướng ngại đă ngăn trở
không cho Bảo Đại giành được sự ủng hộ
của phần lớn những người Việt Nam”. Đông
Dương có một tầm quan trọng đặc biệt v́
đó là vùng độc nhất tiếp giáp với Trung
Quốc và ở đó đang có một đội quân người
Âu to lớn chiến đấu chống lại các lực
lượng “Cộng sản”. Các nguồn tin chính
thức Pháp vẫn tiếp tục báo cáo với các
nhà ngoại giáo của ta ở Paris, Sài G̣n,
Hà Nội và Washington là “có một số đội
quân Trung Quốc ở Bắc Kỳ, và một số lớn
khác đang chuẩn bị hoạt động” chống lại
người Pháp trên biên giới phía Trung
Quốc. Cả hai Bộ Ngoại giao và Quốc
pḥng, với những báo cáo (không đầy đủ)
này lại có đầy đủ lư do để yêu cầu Hội
đồng An ninh Quốc gia xem xét t́nh h́nh
và nghiên cứu các biện pháp để bảo vệ
các quyền lợi Mỹ ở Đông Dương.
Căn cứ vào t́nh h́nh đó, Bộ Ngoại giao
đă đưa ra một văn bản với đầu đề “lập
trường của Mỹ đối với Đông Dương”. Vấn
đề được nêu ra là “để quyết định biện
pháp thực tế của Mỹ nhằm bảo đảm an ninh
của Mỹ ở Đông Dương và ngăn chặn không
cho sự xâm lược của Cộng sản bành trướng
trong vùng này”. Sau khi đă phân tích
vấn đề một cách rộng răi dựa trên các
nhận định như “mối đe doạ của Cộng sản
xâm lược Đông Dương chỉ là một bước
trong kế hoạch đă có sẵn của Cộng sản để
chiếm lấy tất cả vùng Đông Nam Á” và
việc Trung Quốc và Nga công nhận Chính
phủ Hồ Chí Minh mới đây đă đe doạ nghiêm
trọng chế độ Bảo Đại do Pháp đỡ đầu, các
tác giả văn kiện nói trên đă kết luận
“điều quan trọng đối với quyền lợi an
ninh Mỹ là phải cho thi hành mọi biện
pháp thiết thực để ngăn chặn sự bành
trướng sau này của Cộng sản ở Đông Nam
Á”. Văn kiện đă được đệ tŕnh Hội đồng
An ninh Quốc gia ngày 27-2-1950 để được
“xem xét một cách khẩn cấp”.
Hội đồng An ninh Quốc gia khôn ngoan đă
đồng ư với các kết luận của tác giả văn
kiện, đặc biệt đối với khái niệm cho
rằng cần phải thấy Thái Lan và Miến Điện
sẽ có thể bị rơi vào ṿng thống trị Cộng
sản nếu như Đông Dương bị kiểm soát bởi
một Chính phủ do Cộng sản “cầm đầu” và
“lúc đó th́ cán cân lực lượng ở Đông Nam
Á sẽ bấp bênh nghiêm trọng”. Văn kiện đă
được ghi dưới kư hiệu NSC- và được tŕnh
cho Tổng thống kèm theo lời đề nghị của
Hội đồng “yêu cầu Tổng thống chấp nhận
các kết luận và ra lệnh cho các Bộ và
các Tổng cục có liên quan trong Chính
phủ Mỹ thi hành dưới sự hiệp đồng của Bộ
Ngoại giao”. Tài liệu đă được Tổng thống
thông qua ngày 27-3-1950 và được chấp
nhận là chính sách của Mỹ.
Cũng cần phải thấy rằng bản tài liệu
NSC-64 đă được chuẩn bị và được chính
quyền Truman thông qua trước khi nổ ra
cuộc chiến tranh Triều Tiên. Lời tuyên
bố kết luận của nó mà người ta thường
gọi là “thuyết domino” được coi là có
liên quan nhiều đến Triều Tiên, nhưng
thực ra nó bắt nguồn từ cuộc đấu tranh
Đông Dương. Cuộc chiến Triều Tiên bùng
nổ vào tháng 6 chỉ củng cố thêm quan
điểm của chính quyền về “thuyết domino”,
và làm các học thuyết Truman về vành đai
ngăn chặn trở thành mục tiêu của quốc
gia.
Cả các nhà chiến lược và các nhà làm
chính sách đều thống nhất một ư nghĩ -
giữ vững được tuyến Đông Nam Á là điều
cần thiết cho quyền lợi an ninh nước Mỹ.
Cuộc đấu tranh của Pháp ở Đông Dương,
hơn bao giờ hết, được coi như là một bộ
phận cấu thành của chiến lược ngăn chặn
Cộng sản trong vùng này của thế giới, và
chúng ta đă tăng cường và mở rộng các
chương tŕnh viện trợ của chúng ta cho
Đông Dương. Việc chuyên chở viện trợ
quân sự cho Pháp để tiến hành chiến
tranh Đông Dương đă đạt mức ưu tiên thứ
hai trong năm 1951, ngay sau Chương
tŕnh viện trợ chiến tranh Triều Tiên.
Ở Paris, người ta tiếp nhận tin tức về
việc bùng nổ cuộc chiến tranh Triều Tiên
với nhiều nỗi lo lắng và ác cảm lớn.
Phản ứng đầu tiên cho đó chỉ là một sự
kiện địa phương, một cuộc chiến không
liên quan ǵ tới Pháp và không trở thành
một vấn đề quốc tế quan trọng. Nhiều
người lại sợ rằng việc tham gia vào đó
sẽ làm Mỹ xao lăng vấn đề kinh tế châu
Âu và các chương tŕnh pḥng thủ chung.
Người khác lại nghi ngờ Mỹ có những động
cơ ích kỷ và vụ lợi, chỉ nhằm mở rộng
tuyến ngăn chặn của Mỹ sang phía tây của
một nước Triều Tiên “thống nhất”, bảo vệ
những quyền lợi của Mỹ ở Nhật và Đài
Loan chống lại “mối đe doạ đỏ”, một hành
động có thể dễ dàng đưa Mỹ và Liên Xô
vào một cuộc đối đầu công khai và Thế
chiến thứ ba.
Có thể thấy một thí dụ về quan điểm của
Pháp trong bài của báo Le Monde ngày
27-6, nói rằng nếu Triều Tiên bị mất th́
ít ra cũng có lợi là dạy cho Mỹ một bài
học. Điều đó sẽ bắt buộc chúng ta phải
điều chỉnh lại chính sách đối với chân Á
và phải xét xem một t́nh huống giống như
thế có thể xảy đến cho Đông Nam Á không.
Bài báo đ̣i hỏi chúng ta phải chấm dứt
các thất bại ở Triều Tiên và Đài Loan
bằng mọi cách giúp đỡ cho Pháp chống đỡ
được ở Đông Dương.
Nó cũng cho biết quan điểm của Pháp là
Đông Dương cũng đă khá loạn rồi, tại sao
làm rối thêm bằng cách để cho bị lôi
cuốn vào Triều Tiên nữa?
Thực ra, cuộc chiến Đông Dương đă trở
thành một gánh nặng về tâm lư và kinh tế
cho người Pháp. Nó đă trở thành “La sale
guerre”(4) và có vẻ cứ tiếp tục không
bao giờ dứt. Vào năm 1949-1950, chỉ có
một vài nhà chính trị và kinh doanh lớn
có nói đến “cuộc thập tự chinh chống
Cộng sản” và việc bảo vệ “danh dự Pháp”
ở Viễn Đông. Tinh thần chống chiến tranh
ở Pháp, Trung Cộng thắng lợi ở phía Bắc,
có khả năng có thể xảy ra một cuộc thất
bại quân sự của Pháp, tất cả đă tạo ra
một cảnh tượng u buồn.
Nỗi lo ngại chung sợ rằng cuộc chiến mới
ở Triều Tiên có thể không có ǵ ḱm hăm
được nữa và đ̣i hỏi Pháp phải đóng góp
nhiều hơn để phục vụ quyền lợi Mỹ ở Viễn
Đông, đă tiêu tan trước lời tuyên bố
ngày 27-6 của Tổng thống Truman, nói
rằng ông đă chỉ thị “gia tăng việc cung
cấp viện trợ quân sự cho quân đội Pháp
và các quốc gia liên hiệp ở Đông Dương
và gửi đến đó một phái đoàn quân sự”.
Mặc dù việc mở rộng viện trợ đă được
quyết định trước khi nổ ra chiến tranh
Triều Tiên, và cũng chỉ được công bố sau
đó 2 ngày, nhưng cũng đủ là một phát
súng lệnh cho giới tư bản kinh doanh
kếch xù đang hoạt động trên một quy mô
lớn ở Đông Nam Á và rất mong muốn cho
cuộc chiến ở Đông Dương tiếp tục kéo
dài.
Với sự tham gia tích cực của Mỹ vào châu
Á, cuộc chiến Đông Dương đă đạt tới một
quy mô mới. Nó đă được “quốc tế hoá” và
trở thành một bộ phận của cuộc thập tự
chinh chống Cộng của Mỹ. Mỹ đă mang lại
sức sống cho cuộc chiến Đông Dương đúng
ngay giữa lúc dư luận công chúng Pháp
đang nghiêng về phía muốn gói ghém nó
lại. Quy mô mới này của cuộc chiến đă là
một nguồn kích thích mạnh mẽ cho tất cả
những thế lực chính trị và thương mại ở
Pháp đang theo đuổi cuộc chiến tranh cho
đến “thắng lợi cuối cùng”. Nhưng nó cũng
làm cho nước Pháp càng phụ thuộc thêm
vào Mỹ, ngay cả trên các lĩnh vực mà
Pháp đă cố gắng giành giật lấy một sự
độc lập tương đối trong chính sách của
ḿnh. Kết quả là ở Pháp, số người Pháp
kiếm được lời lớn nhờ việc kéo dài cuộc
chiến đă tăng lên rất nhiều.
Ở tầm cỡ quốc tế, cuộc chiến không chỉ
đă đưa lại quy mô mới đă nói ở trên mà
c̣n cả một vấn đề ư thức trách nhiệm,
thậm chí là ư thức phạm tội, mà điều này
đă trở thành lư lẽ cho người Pháp cũng
như người Mỹ sử dụng làm đ̣n bẩy để thực
hiện những mục tiêu cuối cùng của họ. Đă
có ư kiến là trong khi cuộc chiến Đông
Dương, đă và tiếp tục sẽ c̣n là một cuộc
chiến của Pháp, do người Pháp điều khiển
để nhằm đạt được một mục tiêu của Pháp
(chủ nghĩa thực dân) th́ “hành động cảnh
sát” của Mỹ ở Triều Tiên chủ yếu lại là
một cuộc chiến của Mỹ, do các tướng Mỹ
điều khiển, người và tài chính do Mỹ
cung cấp và chỉ nhằm phục vụ cho một mục
tiêu của Mỹ ở châu Á (ngăn chặn chủ
nghĩa Cộng sản). Qua sự chống đối cố hữu
về các mục tiêu nói trên (“thuyết
domino” chống với chủ nghĩa thực dân),
người ta cũng có thể giải thích được khá
nhiều về những bất đồng đă nảy sinh ra
giữa Mỹ và Pháp trong thời kỳ 1950-1954.
Một sự thật hiển nhiên là nếu không có
viện trợ Mỹ, Pháp đă không thể theo đuổi
được cuộc chiến tranh ở Đông Dương,
nhưng chúng ta đă thiếu sót trong việc
sử dụng cái đ̣n bẩy to lớn đó để ép Pháp
phải có những bước đi tích cực hơn nữa
trong việc trao hoàn toàn độc lập cho
các quốc gia liên hiệp. Xem xét các mối
quan hệ Pháp - Mỹ trong thời gian từ
1950 đến 1954, cho thấy rơ đ̣n bẩy của
Mỹ đă được sử dụng một cách hết sức hạn
chế và chính v́ ưu tiên trong chính sách
Mỹ lại đặt ở vấn đề ngăn chặn Cộng sản ở
châu Á, nên giữa hai nước với nhau th́
áp lực của Pháp đối với Mỹ lại mạnh hơn.
Điều này cũng chẳng bao hàm ư nghĩa là
nếu các quan điểm của Mỹ thắng thế th́
vấn đề Cộng sản ở Đông Dương cũng sẽ
được giải quyết. Cuộc đấu tranh của Việt
Minh để giành độc lập hoàn toàn đứng
trên một b́nh diện Xă hội chủ nghĩa vẫn
cứ tiếp tục, nhưng nó cũng có khả năng
được các giới tư bản phương Tây chấp
nhận nhiều hơn.
Đúng là áp lực của Pháp thực ghê gớm.
Trong thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh,
Pháp tương đối yếu và phụ thuộc vào Mỹ
qua khối NATO và Kế hoạch Marshall để có
an ninh quân sự và phục hồi lại nền kinh
tế. Trong cả hai lĩnh vực đó đều có
những điểm tựa có thể sử dụng để tác
động đến chính sách Pháp ở Đông Dương.
Cả NATO và Kế hoạch Marshall đều được
Chính phủ chúng ta và công chúng đánh
giá là hết sức quan trọng đối với quyền
lợi quốc gia Mỹ, trong khi đă được xác
nhận rơ ràng là có một mối đe doạ của Xô
viết đối với Tây Âu. Việc Cộng sản nắm
chính quyền ở Pháp là một khả năng hiện
thực (Lúc đó đảng Cộng sản Pháp là một
đảng chính trị lớn nhất và đấu tranh
mạnh nhất ở Pháp). Do đó, một sự đe doạ
của Mỹ về việc rút viện trợ quân sự
chính trị cho Pháp nếu Pháp không chịu
thay đổi chính sách ở Đông Dương, là
điều không thể chấp nhận được và sẽ gây
nguy hại cho quyền lợi Mỹ ở châu Âu,
quan trọng hơn rất nhiều so với bất cứ
cái ǵ ở Đông Dương.
Chỉ có nguồn duy nhất khác để gây ảnh
hưởng là chương tŕnh viện trợ quân sự
cho Đông Dương. Ở đây, đ̣n bẩy của chúng
ta lại bị các viên chỉ huy mặt trận của
Pháp ràng buộc một cách ngặt nghèo.
Tướng H.E. Navarre cho rằng ngoài công
việc kế toán ra th́ mọi chức năng của
US-MAAG(5) ở Sài G̣n đều là can thiệp
vào công việc nội bộ của Pháp. Ngay cả
khi đă nhận thức được rằng không có viện
trợ Mỹ th́ thực khó mà tiếp tục được
cuộc chiến tranh, nhưng người Pháp cũng
không bao giờ cho phép người Mỹ tham gia
vào công tác đặt kế hoạch chiến lược
hoặc định các chính sách. Hơn thế nữa,
như trong năm 1945, người Pháp đă nghi
ngờ viện trợ kinh tế Mỹ nhằm lôi kéo
những người quốc gia Việt Nam và đă yêu
cầu chúng ta cung cấp viện trợ “không có
ràng buộc kèm theo” và thực sự không có
sự kiểm soát về mặt sử dụng các hàng
viện trợ đó. Qua thái độ này, cũng vào
năm 1945, là một sự nghi ngờ ngấm ngầm
cho rằng Mỹ muốn thay thế hoàn toàn
người Pháp ở Đông Dương, về mặt kinh tế
cũng như về mặt chính trị.
Nỗi sợ hăi quá mức đối với cái bóng ma
Cộng sản đă là một điều làm hại chúng
ta. Không có lúc nào chúng ta đă xem xét
tới khả năng khối Trung - Xô lại có thể
là thực sự đáng sợ đối với chúng ta như
chúng ta đă sợ họ.
Cũng chẳng bao giờ các chiến lược gia và
các nhà quyết định chính sách của chúng
ta đă xác định được những mục tiêu thiết
thực và có khả năng đạt được hơn với
những định mức nhất định cho sự phát
triển kinh tế và chiến lược của chúng
ta, và đưa ra được một chính sách quốc
gia dựa trên tham vọng toàn cầu, để có
thể v́ thế mà sự chung sống với thế giới
Cộng sản đă được trả giá ít đắt đỏ và
mang lại hiệu quả nhiều hơn. Như trước
đây và bây giờ cũng vẫn c̣n ít nhiều như
vậy để đối phó với mỗi “mối đe doạ của
Cộng sản”, chúng ta chỉ bước được theo
điệu nhảy của người Xô viết mà thôi và
rất ít khi đứng được trên một lập trường
sức mạnh đưa vào những kế hoạch đă được
chuẩn bị sẵn sàng và vững vàng. V́ sợ,
không có quyết tâm và hám lợi, chúng ta
đă phải chịu khuất phục trước những doạ
nạt của cả bạn bè và kẻ thù.
Trong những năm đầu thập kỷ 1950, Pháp
đă có khả năng làm áp lực với Mỹ, chính
v́ ở Washington người ta đă quá tin ở
điều cho việc bảo vệ một Đông Dương
không Cộng sản là sống c̣n đối với quyền
lợi của phương Tây và đặc biệt là của
Mỹ. Điều cơ bản nhất là Pháp đă tiến
hành một cuộc chiến mà chúng ta cho là
rất cần thiết. Do đó, người Pháp bao giờ
cũng có thể, chỉ bằng cách đe doạ rút
lui khỏi Đông Dương, cũng giành được
nhân nhượng và giúp dỡ thêm. Khi nước
Pháp thấy đă mệt mỏi về “cuộc chiến bẩn
thỉu”, th́ đó cũng chẳng phải là một
điều không được đông đảo quần chúng
trong nước Pháp tán thành. Năm 1953, khi
chính phủ Laniel yêu cầu gia tăng mạnh
mẽ viện trợ Mỹ, đại diện của Bộ Ngoại
giao trong buổi họp của Hội đồng An ninh
Quốc gia đă phân tích “nếu chính phủ
Pháp này đang đề nghị chúng ta tăng
cường viện trợ cho Đông Dương mà không
được chúng ta giúp đỡ trong lúc này, th́
đó cũng là chính phủ cuối cùng đă có một
sự cố gắng thật sự để giành thắng lợi ở
Đông Dương”.
Thành công của những thủ
đoạn này là ở chỗ viện trợ của chúng ta
đă được sử dụng để tăng thêm ít nhiều
hiệu quả và quyết tâm chiến đấu của
Pháp, chúng ta cũng đă có thể thúc đẩy
Paris đặt ra kế hoạch Navarre điển h́nh,
nhưng chúng ta đă không ảnh hưởng ǵ
được tới cách điều khiển chiến tranh của
Pháp hoặc đưa Pháp tới giải quyết vấn đề
tranh chấp bằng chính trị..
Điều cám dỗ phải “đi cùng” với người
Pháp cho tới khi nào Việt Minh bị đánh
bại là hấp dẫn nhất v́ hy vọng thắng
trận vẫn lan tràn trong giới chính quyền
Washington. Trước Điện Biên Phủ, tướng
J.W. O'Daniel, chỉ huy MAAG ở Sài G̣n,
đă báo cáo cụ thể là có thể giành chiến
thắng nếu như Mỹ tiếp tục chi viện. Vào
tháng 11-1953, ông ta lại đệ tŕnh một
bản báo cáo về Kế hoạch Navarre, nói
rằng quân đội Liên hiệp Pháp nắm quyền
chủ động và sẽ mở các chiến dịch tấn
công vào giữa tháng 1-1954; đồng thời sẽ
ḱm giữ và phá lợi thế của Việt Minh ở
đồng bằng Bắc Kỳ cho tới tháng 10-1954,
để khi đó Pháp sẽ mở một cuộc tiến công
quyết định trong vùng bắc vĩ tuyến 19.
O'Daniel kết luận kế hoạch Navarre cơ
bản là tốt và sẽ được ủng hộ, v́ nó sẽ
đưa lại thắng lợi quyết định.
O'Daniel đă không biết được ông và chính
phủ ông đă bị lừa. Trong một bản báo cáo
mật gửi chính phủ Pháp vào cuối năm 1953
(đă được đưa ra trong bản hồi kư của
ḿnh năm 1956), chính Navarre đă tuyên
bố là không phải giành lấy thắng lợi
trong chiến tranh theo đồng nghĩa quân
sự của nó một cách đơn giản, mà tất cả
những ǵ có thể hy vọng được chỉ là một
“coup nul”(6) - một đ̣n tháo gỡ ra ngoài
cuộc. Cả O’Daniel và các quan chức Bộ
Ngoại giao chúng ta đều không biết về
những chỉ thị tuyệt mật của Hội đồng
Quốc pḥng Pháp gửi cho Navarre, ra lệnh
cho ông ta phải pḥng thủ Lào, nếu có
thể được, nhưng “trước hết, phải bảo đảm
an toàn cho đội quân viễn chinh Pháp” và
chuẩn bị, bằng những điều kiện quân sự
tốt nhất mà ông ta có thể làm được, để
đi đến thương lượng.
Một vấn đề quan trọng khác giúp làm đ̣n
bẩy cho Pháp là t́nh h́nh ở châu Âu. Một
mục tiêu ưu tiên trong chính sách đối
ngoại Mỹ năm 1953-1954 là việc thành lập
một cộng đồng pḥng thủ châu Âu (EDC) để
“trùm lên” một quân đội Tây Đức mới được
đặt trong một lực lượng liên kết Đồng
minh để pḥng thủ Tây Âu. Pháp không
nhiệt t́nh tham gia EDC do Mỹ bảo trợ,
v́ một mặt Pháp sợ một nước Đức vũ
trang, mặt khác Pháp không đồng t́nh với
Mỹ về một cuộc xâm lược của Xô viết vào
châu Âu. Nhưng Pháp tham dự EDC lại là
cần thiết để 5 nước tham dự khác chấp
thuận vào cộng đồng, do đó Mỹ phải ra
sức thuyết phục Pháp. Chính v́ sự ưu
tiên cao đối với EDC trong kế hoạch của
Mỹ, nên chúng ta đă phải miễn cưỡng rất
nhiều trong việc chống chọi với Pháp ở
Đông Dương, đă không thấy ngay được một
sự mâu thuẫn ngầm trong chính sách của
chúng ta thúc ép Pháp cùng một lúc vừa
phải chấp nhận vào EDC, vừaa phải có cố
gắng lớn hơn nữa ở Đông Dương đang đ̣i
hỏi Pháp tăng cường lực lượng sang Viễn
Đông. Nhưng Quốc hội Pháp sẽ không chấp
nhận EDC nếu như, ít nhất, Pháp không
được bảo đảm là quân đội Pháp ở châu Âu
sẽ được cân bằng với quân đội của Đức.
V́ thế, Pháp đă viện cớ là việc tham gia
EDC có khả năng ngăn trở Pháp đưa thêm
lực lượng sang Đông Dương.
Lại c̣n một đ̣n bẩy khác thể hiện trong
khả năng Pháp có thể đưa vấn đề Đông
Dương ra bàn ở Hội nghị Genève. Điều đó
đă xảy ra trong cuộc họp của các Ngoại
trưởng Tứ cường tháng 2-1954 ở Berlin.
Hội nghị Genève sẽ họp bàn để t́m một
giải pháp chinh trị cho cuộc chiến Triều
Tiên. Bộ trưởng Ngoại giao J. Foster
Dulles không muốn thương lượng về Đông
Dương nếu như chưa có được một sự cải
thiện rơ rệt trong t́nh h́nh quân sự của
Pháp để họ phải điều đ́nh trên một thế
mạnh hơn rất nhiều.
Nhưng chính phủ Laniel, dưới áp lực ngày
càng mạnh của dư luận công chúng Pháp
muốn kết thúc chiến tranh Đông Dương,
mặc dù đă có sự phản dối của chúng ta,
nhưng vẫn cố nài đưa vấn đề Đông Dương
ra bàn ở Hội nghị Genève. Có tin nói Bộ
trưởng Ngoại giao Bidault đă báo cho
biết là nếu chúng ta không chấp thuận
th́ EDC chắc chắn sẽ bị nhấn ch́m.
Tổng hợp các nhân tố đó lại, thấy thực
tế chúng ta đă để cho chúng ta bị kẹt
trong việc đưa ra một đường lối hợp lư
đối với Việt Nam từ 1950 đến 1954. Chúng
ta đă bị giam chặt bởi chính ngay
“thuyết domino” của chúng ta, bởi những
hy vọng lạc quan của chúng ta về một
chiến thắng quân sự của Pháp, bởi sự
thiếu sót trong việc đưa ra các định mức
thực tế trong các chính sách chống Cộng
được dựa vào các kế hoạch vững chắc và
v́ đă để cho các nhu cầu kinh tế trong
nước của chính chúng ta đóng một vai tṛ
quá lớn. Về phía Pháp, trong cuộc đấu
tranh, đồng thời nhưng hoàn toàn khác,
để nhằm giữ lại thuộc địa Đông Dương cũ
của họ, Pháp đă sẵn sàng ngăn chặn mọi
chủ trương khác bằng cách chối từ không
cho Bảo Đại bất kỳ một sự tự trị thực sự
nào, ḱm hăm sự phát triển của quân đội
Quốc gia Việt Nam, và sử dụng đ̣n bẩy to
lớn của họ trong các khó khăn ở châu Âu
để thủ tiêu các cố gắng chống thực dân
Pháp của chúng ta ở Việt Nam.
***
T́nh h́nh chiến tranh Việt Nam càng ngày
càng tồi tệ đă nói lên rất rơ những thất
bại về chính trị của chúng ta suốt trong
4 năm đó. Cuối năm 1949, quân Pháp dưới
quyền của tướng M. Carpentier đă mất
quyền chủ động, và tháng 1-1950, tướng
Giáp đă mở một loạt các chiến dịch chống
lại người Pháp. Qua cuộc tấn công đầu
tiên Giáp không uy hiếp trực tiếp vùng
chiến lược đồng bằng sông Hồng và từ
tháng 2 đến tháng 4 đă xúc tiến những
chiến dịch quy mô lớn nhằm đảm bảo cho
Việt Minh kiểm soát cả miền đông bắc Bắc
Bộ. Trong mùa hè 1950, khi quân Liên hợp
quốc đánh đi đánh lại xuyên qua bán đảo
Triều Tiên, Giáp lại bồi thêm thất bại
cho quân đội Carpentier trên hành lang
Lạng Sơn - Cao Bằng. Vừa bị đánh bại
trong các cuộc hành quân với Giáp, người
Pháp c̣n bị chính phủ trong nước họ làm
mất tinh thần v́ quyết định giảm đi
9.000 quân ở Đông Dương. Quốc hội Pháp
đă bày tỏ t́nh cảm của ḿnh tiếp tục ủng
hộ cuộc chiến đấu bằng cách yêu cầu
chính phủ không được đưa lính mới gọi
nhập ngũ sang bổ sung cho Đông Dương.
Sau hơn 3 năm chiến đấu không mang lại
được kết quả ǵ, người Pháp vẫn đánh giá
thấp quyết tâm của Việt Minh và đánh giá
quá cao ḷng dũng cảm của chính ḿnh.
Khi mà lính thuỷ đánh bộ của chúng ta đổ
bộ ở Inchon, Triều Tiên giữa tháng 9,
th́ Giáp cũng mở trận tấn công vào thị
trấn chiến lược Đông Khê (20 dặm đông
nam Cao Bằng). Đồn quân của Pháp ở Cao
Bằng đă hoảng sợ bỏ chạy về phía Nam và
bị tổn thất nặng nề trên đường rút lui.
Ngày 17-10, Pháp rút bỏ Lạng Sơn và đến
cuối tháng th́ toàn bộ nửa phần Bắc Bộ
đă lọt vào tay Việt Minh, và không bao
giờ quân Pháp c̣n đặt chân tới đó được
nữa. Như một nhà văn đă viết “Khi đám
khói tan đi, người Pháp mới thấy đă phải
chịu một thất bại ở thuộc địa lớn nhất
kể từ khi Montcalam chết ở Quebec”(7).
Ở chính quốc Pháp là một t́nh h́nh không
thể chịu đựng được nữa. Thua trong nhiều
trận đánh là điều có thể tha thứ được,
nhưng thua cuộc chiến Đông Dương sẽ là
một tai hoạ cho số thực dân và những
người cầm đầu buôn bán chiến tranh ở
Pháp. Trước đó mấy tháng, Pháp đă yêu
cầu sự viện trợ của chúng ta dựa trên cơ
sở hứa hẹn cuộc chiến phải được tiến
hành một cách thắng lợi. Mấy tuần sau đó
(tháng 5-1950), Tổng thống Truman đă cho
mở một ngân khoản và đặt ra một Phái
đoàn Viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) để đến
tháng 6 chúng ta chỉ c̣n việc ra sức cổ
vũ người Pháp. Nhưng đến tháng 11 th́
cuộc chiến Đông Dương đă chuyển thành
một cuộc tháo lui nhục nhă. Đó là một sự
bối rối không thể nào chịu được đối với
người Pháp kiêu hănh và làm dấy lên
những hoài nghi nghiêm trọng ở Pháp cũng
như ở Mỹ về việc quân Pháp có thể giành
dược thắng lợi quân sự đang mong muốn.
Bộ chỉ huy tối cao Pháp trong một thời
gian đă tỏ ra rất lo lắng về t́nh trạng
cuộc chiến không thể tiến triển được:
thực tế nó đă trở thành bế tắc. Sau lần
đi thanh tra về, tướng G. Revers đă đề
nghị phải có một số thay đổi về chính
trị và quân sự, nhưng tất cả những điều
đó đều không được bộ máy chỉ huy quân sự
và chính phủ Pháp ưa chuộng. Nhiều phần
trong bản báo cáo tối mật của Revers đă
“được tiết lộ” cho những người Cộng sản
Pháp biết, và vào tháng 4-1950, trước sự
kinh ngạc của người Pháp, nhiều đoạn
nguyên văn trong báo cáo đă được phát đi
từ Đài phát thanh Việt Bắc (đài phát
thanh Việt Minh).
Nguy hại hơn nữa là phần chính trị trong
báo cáo Revers cũng lại “bị tiết lộ” và
được mọi người biết và gọi là “vụ án các
tướng”, một vụ bê bối của quốc gia phản
ảnh mặt trái hành vi của một số tướng
Pháp.
Vụ bê bối các thất bại quân sự đặt ra
vấn đề lại phải có thay đổi trong chỉ
huy và “điệu nhảy valse cho các tướng”
lại tiếp tục. Từ Leclerc năm 1945 đến
Valluy, Blaizot, rồi Carpentier, nay
thêm De Lattre tháng 12-1950 và tiếp
theo nữa là Salan, Navarre và cuối cùng
là Ély. Tướng De Lattre nắm quyền chỉ
huy thay tướng Carpentier và cũng thay
Pignon để làm Cao uỷ Pháp. Trước mắt ông
ta là một quân đội mất tinh thần, bại
trận, bị sứt mẻ, tháo chạy từ vùng đông
bắc Bắc Kỳ về Hà Nội đầy những thường
dân hoảng loạn đang chuẩn bị trốn chạy
trước cuộc đột kích của Việt Minh. Họ đă
nghe đài phát thanh Việt Bắc nói chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sắp trở
lại Hà Nội, và cộng đồng người Pháp cũng
đang ở trong t́nh trạng hết sức hoang
mang. Lại có tin đồn Giáp đă hứa với Hồ
Chí Minh là ông sẽ vào Hà Nội trong ngày
Tết âm lịch, tháng 2-1951.
Dưới áp lực của công chúng; chính phủ
Pháp đă phải cho đưa tàu Pasteur, chiếc
tàu khách to nhất c̣n lại lúc đó sang
Đông Dương để di tản tất cả thường dân
Pháp đi khỏi Bắc Việt Nam. Nhưng De
Lattre, một con người nổi tiếng về mọi
phương diện, đă không nói đến chuyện rút
lui, mà cũng chẳng muốn chịu thua mà
không chiến đấu. Ông ta đă cho chuyển
xuống tàu Pasteur toàn những binh lính
bị thương tới 2/3 chuyến tàu và cho chở
về Pháp, mặc cho nghị viện ở Paris la ó
và bất b́nh.
De Lattre, một trong những viên tướng có
năng lực của Pháp trong Thế chiến thứ
hai, được đánh giá cao là một viên tư
lệnh chiến trường và nhà chiến lược.
Nhưng cá tính độc đoán của ông, thường
được so sánh chẳng kém ǵ D'Argenlieu,
sẽ làm cho các giới giao tiếp cá nhân và
tập thể với ông hết sức khó khăn. Tính
kiêu kỳ và tính khí của ông làm cho các
người dưới quyền khiếp đảm và họ đă gọi
(sau lưng) ông ta là “Vua Jean”. Không
nói đến đặc điểm cá tính th́ phải nhận
rằng De Lattre là một người lănh đạo và
gây được tin tưởng. Khi được hỏi tại sao
lại nhận lấy một sự nghiệp nhiều phần
được coi như là thất bại rồi, ông đă trả
lời là chưa thất bại và ông đang chiến
đấu trong một đội Thập tự quân chống lại
Cộng sản. Trái với quan điểm của nhiều
người lúc bấy giờ, cho rằng Bộ chỉ huy
tối cao Pháp đă đề cử ông cốt để làm dịu
những lời chỉ trích của Bộ Tổng Tham mưu
trong vụ bê bối của các tướng và để chủ
tŕ cho sự cáo chung một cách có hệ
thống Đế quốc Pháp ở Viễn Đông, De
Lattre lại cho thấy nhiều dấu hiệu ông
không có ư định rút lui. Như đă nói ở
trên, ông ta hy vọng sẽ chiến thắng
trong ṿng 15 tháng.
Việc đầu tiên ông ta thực hiện là chuyển
từ hỗn loạn sang trật tự, từ thất vọng
sang hy vọng, từ lănh đạm sang chủ động
và không phải chỉ ở trong quân đội của
ông mà trong cả thường dân Pháp và những
người Việt không Cộng sản. Ông hứa hẹn
ít: không cải tiến, không tăng cường,
không có thắng lợi dễ dàng mà chỉ có
nhiều hy sinh hơn nữa. Và, với quân đội,
ông nói “Không có vấn đề ǵ cả, các
người sẽ được chỉ huy”. Đối với những
người lính trước đây đă rất ít khi hiểu
được họ làm ǵ ở Đông Dương, th́ đây là
một lời tuyên bố tích cực đầu tiên của
Bộ chỉ huy tối cao. C̣n với danh nghĩa
là Cao uỷ, ông đă đặt ra nhiệm vụ pḥng
vệ cho các thường dân Pháp ở Đông Dương,
và đă trưng dụng mà không cần báo trước
các máy bay dân sự cua Pháp khi hạ cánh
xuống Sài G̣n để chuyên chở lực lượng
tăng viện ra mặt trận.
De Lattre chưa có mặt ở Đông Dương một
tháng trước khi Giáp thực hiện “giai
đoạn cuối cùng” cuộc tổng tiến công để
đẩy người Pháp ra khỏi đồng bằng và
chiếm lại thủ đô Hà Nội. Giáp đă tấn
công vào quân đội De Lattre ở chung
quanh Vĩnh Yên ngày 16-1. Sau thắng lợi
ban đầu của Việt Minh, hoả lực của Pháp
có bom napall không quân hỗ trợ, đă giúp
giành lại được ban ngày, và bộ đội của
Giáp rút khỏi chiến trường ngày 17.
Không hề nản sau trận thất bại đầu, Giáp
tập hợp lực lượng và lại đánh vào Mạo
Khê (15 dặm bắc đông bắc Hái Pḥng).
Trận đánh bắt đầu từ đêm 23-24 tháng 3
và kéo dài đến chiều ngày 28. Một lần
nữa, Giáp lại không phá được tuyến pḥng
thủ của Pháp; Pháp chỉ bị 40 người chết
và 150 người bị thương.
Một cuộc tấn công thứ ba, ít tham vọng
hơn, đă xảy ra ngày 29-5, dọc bên bờ
sông Đáy, khoảng 60 dặm nam Hà Nội. Mặc
dù đă giành được ít nhiều thắng lợi ban
đầu, nhưng trận đánh đă kết thúc ngày
18-6.
Giáp chưa chuẩn bị đầy đủ cho “giai đoạn
cuối cùng” và mùa mưa tới đă làm gián
đoạn các chiến dịch của ông.
Nhưng De Lattre thấy ông ta không thể
bảo vệ 7 triệu dân và 7.000 dặm vuông
đất đai đồng bằng Sông Hồng v́ thiếu
binh lực nên đă vội vàng cho xây một
loạt các cứ điểm mạnh từ Móng Cái tới
Vĩnh Yên (45 dặm bắc Hà. Nội) rồi về
phía nam tới bờ biển. Hệ thống cứ điểm
pḥng ngự này được gọi là “pḥng tuyến
De Lattre” và cũng giống như pḥng tuyến
Maginot nổi tiếng.
Các tuyến pḥng thủ cố định này luôn
được tuần tiễu, nhưng Việt Minh cũng vẫn
dễ dàng xâm nhập qua được.
“Tuyến De Lattre” và các đơn vị cơ động
tuần tiễu đ̣i hỏi phải có khoảng 1 vạn
lính mà De Lattre khó ḷng cung cấp đủ
nếu ông c̣n muốn để quân t́m đánh Việt
Minh. Nhưng Bộ Tổng Tham mưu Pháp đă
đồng ư cho xây dựng pḥng tuyến do tướng
Revers đề ra từ tháng 5-1949, mà lại
không cho tăng thêm quân số. Sự chống
đối chính trị ở Pháp không cho gửi lính
mới nhập ngũ sang Đông Dương nên đă tước
bỏ mọi hy vọng có thêm quân tăng viện từ
chính quốc. Chỉ c̣n có một giải pháp
khác: quân đội Quốc gia Việt Nam.
Với tư cách là quốc
trưởng, Bảo Đại có thể gọi một đội quân
quốc gia, nhưng ông ta đă cưỡng lại
không làm. Ông ta không có những nhà
lănh đạo quân sự. Người Pháp cũng đă
không đào tạo ra được người Việt Nam nào
có cấp bậc cao hơn những người chỉ huy
các đơn vị nhỏ hoặc thông thạo các vấn
đề chiến lược. Bảo Đại c̣n bị các quan
chức cai trị Pháp chống đối mạnh mẽ, số
này vốn là tay chân của Pignon, người
được De Lattre thay thế, và đi theo
đường lối của đảng Cộng hoà B́nh dân và
Tập hợp Dân chúng Pháp chống lại việc có
một đội quân người bản xứ không do Pháp
trực tiếp kiểm soát. Sau cùng là Bảo Đại
cũng lo một đội quân như thế rất có thể
sẽ chạy hàng loạt sang phía Việt Minh.
Chính De Lattre (khi đó c̣n ở Pháp) đă
gạt bỏ được sự chống đối đó và thuyết
phục người Pháp là cần có một quân đội
quốc gia do người Việt Nam chỉ huy để đỡ
gánh nặng quân sự cho Pháp. De Lattre đă
tác động đến thái độ của Pháp và sau đó
một học viện quân sự đă được mở ra vào
tháng 11-1950. Nhưng các sĩ quan tốt
nghiệp học viện lại chỉ được phục vụ
trong đội quân viễn chinh Pháp, được đưa
vào các đơn vị “da vàng” của quân viễn
chinh, có nghĩa là họ không phải là quân
nhân Việt Nam, mà là quân nhân Pháp. Đó
không phải là đúng như ư định của De
Lattre và càng thúc bách Bảo Đại và thủ
tướng Trần Văn Hữu của ông ta phải lập
một quân đội quốc gia.
Cuối cùng, đến tháng 7-1951, Bảo Đại cho
tiến hành cuộc gọi quân đầu tiên, nhưng
chỉ có một số ít người đáp lại. Các nhà
chức trách quốc gia cũng như địa phương
đă không nhiệt t́nh hưởng ứng v́ sợ có
ảnh hưởng không hay về chính trị. Nhiều
thanh niên, để trốn bị động viên đă đi
theo các đơn vị dân binh Cao Đài hoặc
Hoà Hảo. De Lattre nổi cáu, đă nói với
một toán tân binh “Hăy chiến đấu cho đất
nước các anh như những con người. Nếu
các anh là Cộng sản th́ hăy đi theo Việt
Minh. Ở đó cũng có người đang say mê
chiến dấu cho một lư tưởng tồi tệ!”(8).
De Lattre đă làm được nhiều việc trong
thời gian ngắn ngủi khi ông ở Đông
Dương, tuy chẳng có việc ǵ tác động
được đến bước kết thúc cuối cùng của
cuộc chiến tranh. Hoạt động của ông ta
đă bị chững lại v́ bị bệnh nguy kịch; vị
Thống chế tương lai của nước Pháp c̣n
phải chịu đựng cái chết bi thảm của
người con trai độc nhất, thiếu uư Bemard
De Lattre, hy sinh ở trận sông Đáy trong
đợt chiến dịch thứ ba không thành công
của Giáp nhằm chiếm lại đồng bằng và Hà
Nội.
Ông ta đă đến Washington (tháng 9-1951)
dể thảo luận vấn đề viện trợ Mỹ cho
Pháp, mà ông đánh giá cao, nhưng khi trở
về Paris th́ t́nh trạng sức khỏe bị suy
sụp. Nhưng ông ta vẫn cho rằng viện trợ
trực tiếp cho các quốc gia liên hiệp là
“có hại” và vẫn muốn viện trợ phải do
Pháp phân phối và qua con đường của
Pháp. Ông nói với Robert Blum, lúc đó
phụ trách chương tŕnh viện trợ kinh tế
Mỹ, “với tư cách là một người nghiên cứu
lịch sử, tôi có thể hiểu được điều đó
(viện trợ Mỹ), nhưng là người Pháp th́
tôi không thích”.
Blum (vào năm 1952) đă nói về cái tam
giác Bảo Đại - Pháp - Mỹ như sau:
“Một mặt là những lời tuyên bố chính
thức được nhắc đi nhắc lại là Pháp không
hề có quyền lợi vị kỷ ở Đông Dương, chỉ
mong muốn thực hiện độc lập cho các quốc
gia liên hiệp và ngăn chặn được sự xói
ṃn ghê gớm nguồn tài nguyên của Pháp.
Mặt khác lại là vô số các tỉ dụ về sự cố
t́nh kéo dài nền cai trị của Pháp, việc
can thiệp vào các vấn đề chính trị chủ
yếu, việc đầu cơ, thường xuyên căi vă và
nói xấu sự chuyến giao quyền lực và giải
quyết vấn đề độc lập…
Rơ ràng là có mâu thuẫn trong hành động
của Pháp giữa sự mong muốn rút ra khỏi
cuộc chiến không được dân chúng ủng hộ,
tốn kém và chắc chắn là không có kết
quả, với ư định được thấy nó kết thúc
trong danh dự, thoả măn được niềm tự hào
của Pháp, đồng thời lại bảo toàn được
quyền lợi. Sự khác biệt này đă thể hiện
một cách khá sâu sắc trong thái độ với
tướng De Lattre ở Đông Dương, nơi ông
được ca tụng như một thiên tài chính trị
và là một vị cứu tinh về quân sự… và đối
với ông, ở Pháp, bị người ta nghi ngờ
cho rằng chỉ v́ danh vọng cá nhân mà đem
tài nguyên của Pháp tiêu phí trong một
cuộc phiêu lưu nguy hiếm.
Về vấn để tham gia của Mỹ, Blum nói
tiếp:
“Thực khó mà đánh giá được kết quả của
gần 2 năm (1950-1952) Mỹ tích cực tham
gia vào công việc ở Đông Dương. Mặc dù
chúng ta đă lao vào một cuộc hợp tác
không dễ dàng, một mặt, với người Pháp
sặc mùi “thực dân” nhưng không thể tránh
khỏi, và mặt khác, với những người Việt
Nam yếu đuối và chia rẽ, nhưng chúng ta
cũng đă không có đầy đủ khả năng hoà
giải hai bạn đồng minh đó trong một cuộc
đấu tranh có xu hướng đặc biệt chống
Cộng”.
Và Blum kết luận:
“T́nh h́nh ở Đông Dương không làm cho
chúng ta hài ḷng và thể hiện không có
triển vọng tiến bộ có thể, không thể
giành được một chiến thắng quân sự quyết
định, chính phủ Bảo Đại có rất ít hứa
hẹn phát triển được tài năng và giành
được sự trung thành của dân chúng, và
việc đạt tới được các mục tiêu của Mỹ
thực là xa xôi”.
Phân tích và kết luận của Blum về thực
chất không khác ǵ các nhận xét của
thượng nghị sĩ John F. Kennedy khi ông
tới thăm Việt Nam tháng 11-1951 và đă
tuyên bố:
“… tự chúng ta đă ĺên minh với sự cố
gắng tuyệt vọng của chế độ Pháp nhằm duy
tŕ những tàn dư của một đế quốc. Nhưng
chính phủ Việt Nam bản xứ đă không có
được một sự ủng hộ rộng răi trong nhân
dân của vùng này”.
Tuy De Lattre đă làm cho Pháp được thảnh
thơi chút ít trước cuộc tiến công mănh
liệt nhưng không có kết quả của Việt
Minh, nhưng cuộc thương lượng đ́nh chiến
ở Triều Tiên bắt đầu từ tháng 7-1951 đă
làm cho cả Pháp và Mỹ lo ngại về khả
năng một cuộc xâm lược qui mô lớn của
Trung Quốc đối với Đông Dương. Điều đó
không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ đă có một
số lớn quân Trung Quốc tập trung ở biên
giới Bắc Kỳ và nhiều đồ viện trợ đă được
cung cấp cho Việt Minh.
Pháp đă nhận định về mối đe doạ mới đó
với một nỗi hoảng sợ và thất vọng. Các
nhà làm chính trị của họ đă bắt đầu nghĩ
tới thương lượng và thoả hiệp với Việt
Minh khi mà lực lượng so sánh, theo họ
nghĩ, sẽ nghiêng về phía Pháp. Nhưng Mỹ
lại nhận định khả năng xâm lược của
Trung Quốc trong điều kiện địa vị quân
sự của Pháp tiếp tục suy sụp, nặng về
phía coi đó là một mối đe doạ của sự
bành trướng Cộng sản hơn là về việc mất
mát một thuộc địa của Pháp.
Sau các cuộc thất trận của Việt Minh vào
đầu 1951, Giáp đă phải xem xét lại chiến
lược của ḿnh và quyết định cho lui về
“giai đoạn hai” theo lư luận về chiến
tranh cách mạng, áp dụng trở lại các
chiến thuật du kích, quấy rối, tiêu hao
và làm suy yếu các cơ cấu pḥng thủ cố
định của Pháp. Trong khi De Lattre trở
về Pháp (1-12-1951), phó của ông ta,
tướng Raoul Salan, đă nắm quyền chỉ huy,
quyết đưa quân đi đánh Việt Minh. Nhưng
Giáp đă không tiếp chiến, trừ khi ông
thấy có thể đánh theo kiểu của ḿnh.
Quân Pháp đă đánh vào những chỗ trống
không và thường xuyên bị tổn thất nặng
nề. Các chiến sĩ Việt Nam đă làm cho
quân Pháp phải bộc lộ, đánh rồi biến mất
vào trong rừng. Hoặc họ có thể tiềm nhập
vào một vị trí của Pháp, đánh phá rồi
rút, gây thiệt hại, làm gián đoạn giao
thông liên lạc, gây thương vong nghiêm
trọng mà họ chẳng phải chịu tổn thất
nào.
Mùa thu năm 1951, các chính trị gia Pháp
cần một cách khốn khổ phải có được một
trận thắng ở Đông Dương. Quốc hội Pháp
chuẩn bị thảo luận ngân sách Đông Dương
tài khoá 1952-1953 và các nhà ngoại giao
Pháp ở Washington đang cố gắng thuyết
phục nhân dân chúng ta tăng thêm phần Mỹ
gánh vác các chi phí của cuộc chiến
tranh. Do đó, một “chiến thắng vang dội
ở Đông Dương, ngược lại với sự bế tắc ở
Triều Tiên, sẽ có một tác động mạnh đến
phái bồ câu ở Paris và gây xúc động cho
Quốc hội Mỹ ở Washington”.
De Lattre, trong khi chỉ c̣n ở lại Đông
Dương ít tuần lễ nữa, đă chọn giành một
thắng lợi dễ dàng bằng cách cho chiếm
thủ đô yên tĩnh của dân tộc Mường, Hoà
B́nh (khoảng 40 dặm tây nam Hà Nội).
Quân Pháp chiếm đô thị này chiều ngày
14-11-1951 mà không gặp một sự đề kháng
nào. Cho rằng Việt Minh sẽ không thể
phản kích, trong những lần tiếp sau,
Pháp đă đưa thêm một số lớn thiết giáp,
pháo binh và binh lính vào thung lũng
sông Đà bên cạnh, dự định tiến vào trung
tâm căn cứ của Giáp ở vùng đông bắc (?).
Đó là một quyết định tồi! Giáp đă không
chịu tiếp chiến vào lúc đó, theo cách
đánh của Pháp, nhưng ông đă không bỏ lỡ
khả năng đánh tiêu hao quân Pháp trong
lúc họ nghỉ ngơi.
Pḥng ngự của Pháp dựa vào một loạt các
đồn bốt ngoại vi dọc sông Đà và đường 6,
bắc và đông Hoà B́nh. Giáp đă tấn công
vào đồn chính ở Tu Vũ (độ 20 dặm bắc Hoà
B́nh) ngày 9-12 và chưa đến 24 giờ sau,
đă đuổi được quân Pháp chạy qua sông Đà.
Trận Tu Vũ chỉ là một điềm dữ. Các cuộc
chiến đấu giằng co để giành kiểm soát
sông Đà đă diễn ra suốt trong tháng 12,
trong khi người Pháp ngoan cố tăng cường
người và trang bị cho các vị trí của họ.
Và Giáp đă đánh theo luật lệ của ông ta.
Việt Minh ẩn nấp trong vùng núi đá vôi
gần đó, lại xuất hiện vào tháng 1-1952
để dùng chiến thuật của Giáp đánh tiêu
hao quân Pháp. Đến cuối tháng, thấy rằng
nỗ lực cũng không mang lại kết quả ǵ,
Salan cho rút toàn bộ mũi tấn công Hoà
B́nh, cứu thoát binh lực và trang bị để
chuẩn bị cho các trận đánh sau này ở
đồng bằng và vào vùng cao nguyên người
Thái (bắc Bắc Kỳ từ phía tây sông Hồng
tới biên giới Lào).
Trận “chiến thắng vang dội” đă không
h́nh thành được mà quân đội và trang bị
của Pháp lại bị hao tổn thảm hại. T́nh
trạng suy sụp của quân Pháp đă trở thành
mối lo ngại chủ yếu cho chính phủ Pháp,
cũng như cho những người hoạch định
chính sách Mỹ. Khả năng có thể xảy ra
một cuộc xâm lăng của Trung Quốc đè nặng
lên sự suy nghĩ của Bộ tham mưu Liên
quân và các nhà ngoại giao chúng ta.
Đầu năm 1952, Hội đồng An ninh Quốc gia
đă kết luận là sự can thiệp của Mỹ sẽ
được hạn chế trong việc đối phó với một
cuộc xâm lăng trực tiếp của Trung Quốc.
Trong khi không xảy ra t́nh huống đó,
nhưng lại phải đương đầu với t́nh h́nh
đang diễn ra, Hội đồng An ninh Quốc gia
đă khuyến cáo chúng ta phải gia tăng mức
viện trợ cho quân đội Liên hiệp Pháp
nhưng “không được làm giảm nhẹ trách
nhiệm cơ bản về quân sự của các nhà chức
trách Pháp trong công cuộc pḥng thủ
Quốc gia Liên hiệp”.
Tổng thống Truman đă thông qua một bản
Tuyên bố chính sách về “các mục tiêu và
phương hướng hoạt động của Mỹ đối với
Đông Nam Á”, do Hội đồng An ninh Quốc
gia đệ tŕnh ngày 25-6-1952, trong đó có
đoạn viết
“Cho thực hiện các phương hướng tối
thiểu sau đây về hành động quân sự, hoặc
dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc hoặc
là cùng với Pháp và Anh, và chính phủ
bạn nào khác:
1) Một sự pḥng thủ kiên quyết bản thân
Đông Dương, trong đó Mỹ sẽ cung cấp sự
hỗ trợ về đường không và đường biển ở
mức độ có thể thực hiện được.
2)Cắt đứt các đường giao thông của Trung
Cộng, bao gồm cả các tuyến trong đất
Trung Quốc.
3) Mỹ hy vong sẽ cung cấp được các lực
lượng chủ yếu để thực hiện công tác trên
mục 4)…
Thất bại của Pháp đầu năm 1952 này đă
làm đảo lộn quyết định của các nhà hoạch
định chính sách của chúng ta; họ sợ sự
bành trướng của Cộng sản đến mức đă cam
kết đưa quân đội của chúng ta tham gia
vào một cuộc chiến tranh thực dân của
Pháp. Chim Hải âu, điềm lành trời mang
lại cho nước Mỹ, đă vỗ cánh lên đường
bay qua biển cả.
***
Vào lúc này, Đông Dương đă có một vị Cao
uỷ mới, Jean Letourneau. Ông là một
người Công giáo cánh hữu, đảng viên
phong trào Cộng hoà B́nh dân có đường
lối thực dân, trước là Bộ trưởng Pháp
quốc Hải ngoại rồi trở thành Bộ trưởng
các Quốc gia Liên hiệp. Tháng 4-1952,
khi ông thay De Lattre làm Cao uỷ th́
ông vẫn giữ chức Bộ trưởng. Sự kiêm
nhiệm đó đă mang lại cho ông những quyền
hành lớn lao ở Việt Nam “độc lập” hơn
bất kỳ một viên cựu toàn quyền nào trong
thời buổi chế độ thực dân. Đ̣n chính trị
của Letourneau được sử dụng để ḱm hăm
chế độ Bảo Đại vào tháng 6-1952 là thủ
tướng Trần Văn Hữu đă phải trao quyền
cho thủ trưởng cơ quan mật thám chính
trị của ông ta là Nguyễn Văn Tâm, tuy cả
hai đều là công dân Pháp.
Một Phái đoàn điều tra của Quốc hội Pháp
sau này (tháng 5-1953) đă lên án
Letourneau thực hiện “một chế độ độc tài
thực sự, không bị hạn chế hoặc kiểm
soát”. Phái đoàn gồm có một đảng viên Xă
hội, một Độc lập, một Cộng hoà B́nh dân,
và một Xă hội cấp tiến, đă phát biểu:
“Bè lũ trong dinh Norodom” tự cho ḿnh
cái hào nhoáng là cai trị theo kiểu cách
Pháp và trị v́ trên một đất nước mà
phong trào cách mạng đang âm ỉ… Sài G̣n
mà nạn cờ bạc, truỵ lạc, say mê tiền tài
và quyền thế, cuối cùng dẫn đến thoái
hoá về tinh thần và huỷ hoại ư chí…, và
chính quyền Bảo Đại, là nơi mà các Bộ
trưởng… hiện ra dưới con mắt đồng bào
của họ chỉ là những công chức Pháp…”
Báo cáo của Phái đoàn đă
chỉ trích Pháp về sự suy đồi của Việt
Nam:
“Thực là nghiêm trọng v́ sau 8 năm để
buông trôi và vô chính phủ, sự có mặt ở
Đông Dương của một Bộ trưởng tại chỗ vẫn
không có khả năng chấm dứt những vụ bê
bối hàng ngày trong đời sống của xứ
thuộc địa như việc ban cấp các giấy
phép, chuyển tiền, đền bù thiệt hại
chiến tranh, và trao đổi buôn bán. Dù
cho chính quyền của chúng ta không hoàn
toàn chịu trách nhiệm về những tệ đoan
này đi nữa, th́ cũng thật đáng chê trách
là chính quyền đă được khẳng định là đă
không biết tới hoặc đă dung túng những
cái đó”.
Một chủ bút có thế lực người Pháp, b́nh
luận về báo cáo của Phái đoàn đă phê
phán “khuynh hướng tự nhiên của vị thống
đốc quân sự là muốn ḿnh tồn tại măi
măi” và “một số các nhóm chính trị Pháp
đă sống nhờ vào nguồn thu nhập chính của
họ trong chiến tranh… qua các vụ trao
đổi hối đoái, tiếp tế cho quân đội viễn
chinh và việc đền bù chiến tranh”. Ông
kết luận:
“Sự thật là các việc này đă được biết,
càng giúp thêm cho thấy đă có một kế
hoạch rơ ràng được xây dựng từng bước
nhằm loại trừ mọi khả năng thương lượng
ở Đông Dương đế đảm bảo kéo dài không
thời hạn cuộc xung đột và việc chiếm
đóng về quân sự”.
Trong khi mà cả t́nh h́nh quân sự và
chính trị ở Đông Dương chuyển biến một
cách khốn khổ trong nửa cuối năm 1952;
th́ ở Mỹ, cuộc vận động bầu cử Tổng
thống đang tiến triển và chính quyền
Eisenhower sắp nhận chức nên càng làm
cho sự cam kết của chúng ta ở Đông Dương
sâu sắc thêm. Trong một thời gian dài,
phe đối lập đă không ngừng lên án chính
quyền Truman phải chịu trách nhiệm đă để
“mất” Tmng Quốc cho Cộng sản. Phát biểu
của John Foster Dulles trong cuộc vận
động tuyển cử đă không nghi ngờ cho thấy
ông coi Đông Nam Á là một vùng then chốt
trong cuộc xung đột với “đế quốc” Cộng
sản, và điều quan trọng là phải kéo
tuyến ngăn chặn lên phía bắc Bát Gạo của
châu Á - tức là bán đảo Đông Dương.
Tổng thống Eisenhower trong bản Thông
điệp gửi quốc dân đầu tiên của ông (ngày
3-2-1953) đă hứa sẽ có “một chính sách
đối ngoại tích cực và mới” và đă đi tới
gắn liền cuộc xâm lăng của Cộng sản ở
Triều Tiên và Malaysia với Đông Dương.
Dulles, Bộ trưởng Ngoại giao mới, đă
tuyên bố Triều Tiên và Đông Dương là hai
cạnh sườn của kẻ thù chủ yếu là Trung
Cộng ở giữa. Chính quyền của đảng Cộng
hoà đă rơ ư đồ muốn ngăn ngừa không để
mất Đông Dương bằng cách có một thái độ
chống Cộng thẳng thừng hơn.
Cuộc thương lượng kéo dài ở Triều Tiên
đă gây ra sự lo ngại là Trung Cộng có
thể chuyển sự chú ư của họ sang phía
Đông Dương và Tổng thống Eisenhower ngày
16-4-1953 đă cảnh cáo rằng nếu cuộc đ́nh
chiến ở Triều Tiên chỉ đơn thuần giải
phóng cho các đội quân để họ tiến hành
một cuộc tấn công vào một nơi nào khác
th́ đó sẽ chỉ là một sự bịp bợm. Và sau
cuộc đ́nh chiến ở Triều Tiên được kư
kết, Dulles tiếp tục luận điểm nói trên
đă có nhận xét (trong diễn văn ngày
2-9-1953) “một mặt trận duy nhất của
Cộng sản xâm lược kéo dài từ Triều Tiên
đến bắc Đông Dương ở phía Nam”. Ông nói
tiếp:
“Trung Cộng đă và hiện c̣n đang huấn
huyện, trang bị và tiếp tế cho lực lượng
Cộng sản Đông Dương. Ở đây cũng có nguy
cơ, giống như ở Triều Tiên, Trung Quốc
sẽ có thể đưa quân đội của họ vào Đông
Dương. Trung Cộng sẽ thấy rằng một cuộc
xâm lược thứ hai như vậy sẽ không thể
xảy ra mà không mang lại những hậu quả
nghiêm trọng, không phải chỉ hạn chế vào
cho Đông Dương. Tôi nói điều đó một cách
không màu mè… với hy vọng ngăn ngừa sự
tính toán sai lầm mới của kẻ xâm lược”.
Những lời cảnh cáo với Trung Quốc này có
bao hàm một ư muốn phân biệt giữa sự
thành công và thất bại trong việc ngăn
chặn Hồ Chí Minh giành được một thắng
lợi hoàn toàn dựa trên khả năng Trung
Quốc tăng cường sự viện trợ hoặc trực
tiếp can thiệp. Cảnh cáo Trung Quốc chắc
chắn c̣n là nhằm mục đích răn đe thêm
đối với sự can thiệp của người Trung
Quốc và ngầm mang theo một sự đe doạ là
nếu Trung Quốc nhảy vào cuộc chiến tranh
Đông Dương th́ Mỹ bắt buộc phải có hành
động tiếp theo thích đáng, tốt nhất là
cùng với các nước đồng minh, nhưng cũng
có thể chỉ một ḿnh nếu cần. Ngoài ra,
chính quyền Eisenhower c̣n có ư cho
rằng, áp dụng chính sách đánh trả hàng
loạt, Mỹ sẽ đánh một đ̣n nguyên tử trừng
phạt đối với Trung Quốc mà không nhất
thiết phải đưa lục quân của chúng ta
tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu
Á.
*
Giáp, trong thời gian bầu cử chính quyền
mới của chúng ta, đă t́m ra được gót
chân Achille(9) của Pháp: thiếu cơ động
và hậu cần nặng nề cồng kềnh; và ông đă
cho thực hiện cách đánh “vận động chiến”
của ông để chuẩn bị chiến tranh với
những cuộc hành quân quy mô lớn, một
bước để đi tới “trận địa chiến” và giành
thắng lợi. Mục tiêu đầu tiên ông chọn là
đánh chiếm cao nguyên Thái và chiếm đóng
Lào. Ngày 11-10-1952, Giáp cho 3 đại
đoàn vượt sông Hồng trên một tuyến 40
dặm, lướt quét các tiền đồn Pháp trên
đường tiến về sông Đà. Ngày 30-11, các
đơn vị đi đầu của Việt Minh đă tới biên
giới Lào. Trong quyển “Hai Việt Nam”,
Bernard Fall đă viết về t́nh h́nh đó như
sau: “các sư đoàn Cộng sản, ngay trước
mắt người Pháp đang làm chủ trên không,
đă vượt qua 180 dặm trong 6 tuần chiến
đấu mà chẳng phải dùng đến một con đường
bay, một xe cơ giới nào”. Đến ngày 1-12,
người Pháp đă rút lui tương đối an toàn
về sau pḥng tuyến De Lattre ở phía bắc
Hà Nội, nhưng cũng không phải không
thiệt hại nặng về người và trang bị.
Trong đầu xuân 1953, Giáp đưa cuộc “vận
động chiến” của ông từ đất Thái sang
Lào. Rồi Giáp tiến về phía nam cho đến
khi Pháp quyết định né tránh bằng cách
chuyển sang phía đông về Cánh đồng Chum,
nhưng Giáp vẫn đuổi theo và bao vây họ ở
đó. Đến ngày 7-5, quân đội của Giáp rút
về Việt Bắc, để lại phía sau một lực
lượng nhỏ để cầm giữ người Pháp, đồng
thời tăng cườg nhiều cố vấn chính trị
cho Pathet Lào dưới quyền của Hoàng thân
Souphanouvong.
Tháng 5-1953 cũng là tháng đă nổ ra cuộc
khủng hoảng mới trong nội các Pháp và J.
Laniel, một đảng viên Độc lập được đưa
vào ghế thủ tướng. Laniel thay
Letourneau bằng M. Dejean và cử làm Công
sứ Tổng uỷ viên, một chức vụ có nhiều
quyền hạn khác trước. Việc chấn chỉnh bộ
máy Cao uỷ cũ cũng giúp loại trừ được
một số lộng hành này nhưng lại đẻ ra một
số mới khác. Các chức năng dân sự của
Cao uỷ cũ được chia ra cho Công sứ Tổng
uỷ viên và ba Cao uỷ Pháp ở Việt Nam,
Lào và Cambodia. Các quyền hành quân sự
trước đây nằm trong tay Cao uỷ Pháp nay
được chuyển cho Công sứ Tổng uỷ viên là
sĩ quan duy nhất chịu trách nhiệm về
pḥng thủ và an ninh ở Đông Dương. Như
thế là Công sứ Tổng uỷ viên đă nắm được
toàn bộ quyền phân phối viện trợ cho các
quốc gia Liên hiệp. Cách tổ chức mới này
đă làm cho người thủ trưởng dân sự trở
thành một người trọng tài thực sự về các
vấn đề quân sự. Đó cũng là một điều nổi
bật c̣n giữ lại từ thời của các viên
Toàn quyền; quân đội chỉ có một nhiệm vụ
nhỏ là duy tŕ trật tự.
Tướng Henri-Eugène Navarre là người chỉ
huy đầu tiên và cũng là người cuối cùng
đă cảm thấy sự kiểm soát mới của bên dân
sự ràng buộc đối với các hoạt động quân
sự. Ông ta đă đưa ra một kế hoạch nhằm
đánh bại Việt Minh một cách quyết định
vào năm 1955 và đă được Mỹ, đặc biệt là
tướng O’Daniel và Bộ trưởng ngại giao
Dulles ủng hộ.
Kế hoạch Navarre đó, c̣n được gọi là
“Quan niệm của Navarre về các cuộc hành
quân ở Đông Dương” đă đưa ra một công
thức giành thắng trận có thể thành công
mà không phải đưa quân Mỹ vào tham gia
trực tiếp và chỉ cần dựa vào một sự viện
trợ đại quy mô của Mỹ về quân sự.
Từ tháng 5-1953, Mỹ đă tuôn hàng tiếp tế
vào Lào và Thái Lan và cung cấp cho Lào
6 máy bay C-119 cùng với các tổ lái dân
sự. Quốc hội đă đồng ư cho cấp 400 triệu
dollar viện trợ cho Pháp trong tài khoá
1954, nhưng sau khi Pháp đưa ra kế hoạch
Navarre, Quốc hội đă chuẩn cho thêm một
khoản phụ 385 triệu. Tuy đă có đủ viện
trợ, nhưng tướng Navarre vẫn thấy ḿnh
bị hạn chế trong việc mở rộng các cuộc
hành quân chống lại Việt Nam v́ quyền
quyết định cung cấp các nguồn tài nguyên
nói trên của Công sứ Tổng uỷ viên. V́
tất nhiên là Dejean phải theo chính sách
Pháp - không được tung ra thêm nhiều lực
lượng hơn nữa mà phải chuẩn bị cho cuộc
điều đ́nh - và Navarre đă bị chỉ trích
là kế hoạch của ông có thể thất bại.
Những thắng lợi của Việt Minh trong thời
kỳ này đă cho thấy rơ thêm t́nh trạng
nguy ngập của Pháp; các chiến dịch mới
nhất của Giáp chứng tỏ lực lượng Việt
Minh đang lên, một phần do tác động của
việc Nga và Trung Quốc tăng cường viện
trợ quân sự. Lực lượng chiến đấu Pháp đă
tụt xuống thấp một cách nguy hiểm, và
không hy vọng có sự bổ sung nhanh từ
Pháp. Đó là một bức tranh ảm đạm. Trong
một số giới chính trị ở Paris lại xôn
xao về “một giải pháp danh dự”, trước sự
bực bội của các quan chức Washington.
Bộ Tổng chỉ huy Pháp và cánh hữu thực
dân quan niệm “giải pháp danh dự” phải
là một chiến thắng quân sự, và về điểm
này họ được sự ủng hộ của chính phủ Mỹ,
mặc dù với những động cơ khác nhau. Để
tạo được một t́nh h́nh quân sự cho phép
đạt được “giải pháp danh dự” th́ nhất
thiết cần phải xây dựng một lực lượng
chiến đấu mạnh hơn Việt Minh, và nhất
định phải cơ động hơn. Đó cũng là bài
học tướng Salan đă tiếp thu được trong
một năm đối đầu với Giáp. Và việc t́m
kiếm “một giải pháp danh dự” vẫn cứ được
tiếp tục.
Ở Washington, thượng nghị sĩ J.F.
Kennedy đă thấy giải pháp Bảo Đại không
đi tới đâu và Pháp th́ ngoan cố đối với
việc trao trả độc lập cho Việt Nam, đă
viết:
“Độc lập chân chính… chưa có được ở Đông
Dương, chức năng cua chính phủ bản xứ bị
bó hẹp…; Chính phủ nước Việt Nam, một
quốc gia quan trọng bậc nhất trong vùng,
thiếu sự ủng hộ của quần chúng…, chúng
ta sẽ nhấn mạnh tới vấn đề độc lập chân
chính… Tôi tin tưởng mạnh mă rằng người
Pháp không thể thành công ở Đông Dương
nếu không có những nhân nhượng cần thiết
để làm cho quân đội bản xứ trớ thành một
quân đội đáng tin cậy và đánh lớn được”.
Sau đó Kennedy phê phán người Pháp:
“Năm nào chúng ta cũng nhận được 3 điều
bảo đảm. Thứ nhất là nền độc lập của các
quốc gia Liên hiệp hiện nay đă được thực
hiện; thứ hai, nền độc lập đó sẽ sớm
được hoàn thiện trên cơ sở những bước
“nay” đă đạt được; và ba, quân đội Liên
hiệp Pháp đảm bảo sẽ giành được chiến
thắng quân sự, hoặc đúng là cơ bản giành
được chiến thắng đó”.
Suốt trong thời kỳ chúng ta giúp đỡ cho
người Pháp, các nhà lănh đạo Mỹ vẫn có ư
kiến thấy cần thiết phải khuyến khích
Pháp trao trả cho người Việt quyền tự
trị rộng răi hơn. Áp lực của Mỹ đă thể
hiện rơ trong bản tuyên bố công khai của
thủ tướng Laniel (ngày 3-7-1953) nói
rằng chủ quyền của các quốc gia Liên
hiệp sẽ “được hoàn thiện” qua việc
chuyển giao cho các nước này các chức
năng hiện vẫn c̣n nằm trong tay người
Pháp, nhưng lại không đưa ra được thời
hạn cuối cùng cho việc hoàn thành độc
lập. F. Mitterand(10) (thuộc cánh tả
trung tâm) đă b́nh luận như sau:
“Từ năm 1949 đến nay, chúng ta đă 18 lần
trao trả “độc lập hoàn toàn” cho Việt
Nam. Nhưng đă có lần nào chúng ta làm
thực đúng được điều đó đâu?”(11)
Trong câu chuyện riêng, Bảo Đại cũng
nêu:
“Hoàn thiện” là cái ǵ? Đối với người
Pháp, bao giờ cũmg chỉ có vấn đề họ phải
trả chúng tôi độc lập. Tại sao họ lại
không thể trao trả một lúc và tất
cả?”(12)
Ngày 6-8, chính quyền mới của Eisenhower
đă đưa ra những điều kiện đặc biệt để
đảm bảo có viện trợ tiếp tục của Mỹ cho
Pháp; một trong các điều kiện đó là Pháp
công khai cam kết có “một kế hoạch nhằm
gây được sự ủng hộ và hợp tác của người
bản xứ Đông Dương”. Điều gay go đối với
Pháp là khoản 385 triệu dollar chúng ta
đă hứa để giúp thực hiện kế hoạch
Navarre và Eisenhower cũng nắm chắc vấn
đề này. Ông đă chỉ thị cho Đại sứ
Douglas Dillon của chúng ta ở Paris báo
cho Thủ tướng Laniel và Bộ trưởng Ngoại
giao Bidault là chúng ta mong rằng Pháp
“tiếp tục theo đuổi một chính sách nhằm
hoàn thiện nền độc lập các quốc gia Liên
hiệp theo đúng như bản tuyên bố ngày
3-7”.
Mỹ lo ngại nếu không có một sự ràng buộc
nào của chính phủ Pháp với một nước Việt
Nam không Cộng sản th́ áp lực chính trị
trong nội bộ nước Pháp có thể đẩy chính
phủ họ t́m kiếm một giải pháp thương
lượng thay v́ cho giải pháp quân sự.
Người ta cho rằng (trước trận Điện Biên
Phủ) nếu kế hoạch Navarre thất bại hoặc
tỏ ra phá sản, người Pháp có thể điều
đ́nh ngay với những điều kiện tốt nhất
có thể được, mà không cần tính toán xem
những điều kiện đó có đảm bảo ngăn ngừa
được cho một Đông Dương không Cộng sản
hay không. Đó là một điều các nhà chiến
lược và làm chính sách của chúng ta
không thể tưởng tượng nổi. Mong muốn của
họ là nước Pháp chống dỡ được và phá tan
dược mọi mưu đồ của Việt Minh muốn chiếm
chính quyền bằng bất cứ cách nào. Theo
chiều hướng đó, chính quyền Eisenhower
đă sớm cho triển khai chính sách của
chúng ta nhằm tác động đến người Pháp
chống lại việc kết thúc cuộc chiến tranh
trong những điều kiện “không thoả đáng”
đối với các mục tiêu cơ bản của chúng
ta. Theo đường lối Hội đồng An ninh Quốc
gia vạch ra ngày 16-1-1954, Tổng thống
đă chỉ thị cho các nhà ngoại giao chúng
ta báo cho Pháp biết:
“1- Trong khi t́nh h́nh quân sự chưa có
một sự cải tiến rơ rệt, th́ không có cơ
sở cho một cuộc thương lượng với những
điều kiện có thể chấp nhận được.
2- Chúng tôi (Mỹ) dứt khoát phản đối mọi
ư kiến về một cuộc ngừng bắn, coi đó là
một bước đầu để đưa tới thương lượng; v́
một cuộc ngừng bắn (như thế) sẽ dẫn đến
một sự suy sụp không thể nào cứu văn
được về vị trí quân sự (của Pháp - Việt
ở Đông Dương); một chính quyền được gọi
là Liên hiệp không Cộng sản sẽ có thể
trao đất nước vào tay Hồ Chí Minh trong
t́nh h́nh không thuận lợi cho việc thay
thế Pháp bởi Mỹ hoặc Anh.
Chỉ lệnh nói trên cho
thấy một cách chắc chắn là các nhà hoạch
định chính sách của chúng ta đă sẵn sàng
ngả theo việc Mỹ tiếp quản Đông Dương
nếu người Pháp bị sa lầy ở đó.
Thập kỷ đầu cuộc chiến tranh lạnh đă dần
từng tí một đẩy chúng ta vào vũng lầy
Đông Nam Á. Quan niệm cứng nhắc chẳng
hay ho ǵ của chúng ta về một khối Cộng
sản xâm lược thuần nhất cũng như nhận
thức theo cảm tính của chúng ta về việc
“mất” Trung Quốc đều là những con đường
dẫn chúng ta tới chỗ bị trơn tuột.
Thuyết “domino” lại đẩy chúng ta lao vào
con đường đó nhanh hơn một chút nữa. Rồi
việc thiếu hiểu biết một cách sâu sắc về
các đặc tính riêng của các nước Đông Nam
Á và sự khác biệt giữa các xă hội các
nước này đă che mắt không cho chúng ta
thấy được những nỗi hiểm nghèo dọc trên
đường chúng ta đi. Sau hết, mọi người
đều cho rằng chúng ta đă được giao cho
giữ một địa vị lănh đạo trong những vùng
xa xăm hẻo lánh này. Rất ít người có thể
nhận thức được sự dính líu dă càng ngày
càng sâu thêm.
Nhưng vào đầu năm 1954, với trận Điện
Biên Phủ và các cuộc hội nghị quốc tế ở
Genève đă hiện ra ở chân trời, th́ chúng
ta đă bị ngập quá sâu trong vũng lầy và
trong một cuộc xung đột vừa với các mục
tiêu của Pháp, vừa với của Việt Nam. Đó
cũng là một năm của những quyết định đầy
hiểm nghèo, và chim hải âu đă bay lượn
quanh trên con tàu quốc gia chúng ta.
***
Cuối mùa xuân 1953, bộ đội của Giáp đă
hành quân ṿng qua đồng bằng sông Hồng,
Bắc Bộ, sang phía Tây vào cao nguyên
Thái, vượt biên giới Lào rồi chuyển về
hướng Nam đến đóng trong vùng rộng lớn
từ Cánh đồng Chum, Trung Bộ; ở đó họ đă
đánh phá tiêu hao quân của Salan một
cách thắng lợi. Trong cuộc hành quân,
Giáp đă tránh các cứ điểm pḥng ngự
mạnh, tràn qua hoặc chiếm các tiền đồn
ít quan trọng của Pháp. Một trong số đó
là vị trí sân bay nhỏ Điện Biên Phủ gần
biên giới Lào, bị Pháp chiếm từ ngày
30-11-1952.
Để ngăn chặn áp lực ngày càng tăng của
Việt Nam và mở ra một cục diện quân sự
thuận lợi cho Paris giành “giải pháp
danh dự”, Salan cho rằng ông ta cần phải
có thêm binh lực. Kế hoạch của ông nhằm
tăng cường sức chiến đấu của quân đội
bằng cách rút họ ra khỏi các chốt pḥng
ngự cố định để làm cho họ cơ động thêm
lên. Ông ta biết rằng không có hy vọng
chờ đợi sự giúp đỡ của chính quốc Pháp,
nhưng các quốc gia Liên hiệp có thể cung
cấp cho ông ta số binh lực cần thiết để
thay vào số quân rút khỏi các đồn trại
pḥng ngự cố định nếu như Paris chấp
nhận lời đề nghị của ông. Tất nhiên, ông
cũng cần được tăng cường một số lượng
lớn về vũ khí và trang bị, nhưng có thể
do Mỹ sẽ đảm nhiệm cung cấp.
Chính phủ Pháp chấp nhận kế hoạch của
Salan và đề nghị với Mỹ tăng thêm viện
trợ. Yêu cầu của Pháp thật đúng lúc.
Việc Giáp tiến quân vào Lào trong tháng
4, đi đôi với việc suy giảm trong nỗ lực
chiến tranh của Pháp được tuyên truyền
khá rộng răi, đă gây nhiều lo ngại cho
chính quyền Washington, làm họ sợ một sự
sụp đổ hoàn toàn của Pháp, nên đă cho
tuôn mạnh đồ viện trợ tiếp tế vào Lào và
Thái Lan từ tháng 5-1953. Nhưng viện trợ
chỉ được cung cấp với điều kiện kế hoạch
mới của Salan phải mang lại được những
thắng lợi về quân sự; và vũ khí trang bị
phải chủ yếu được dùng cho quân đội do
các quốc gia Liên hiệp tuyển mộ.
Viện trợ mới và kế hoạch sửa đổi đặt ra
cho chính phủ Pháp vấn đề phải có một ê
kíp lănh đạo quân sự mới, và đến lúc đó
th́ Salan được thay thế bởi nhà chiến
lược cừ khôi, tướng Henri Eugène
Navarre, nắm quyền chỉ huy từ 20-5-1953.
Như đă nói ở trên, Hội đồng Quốc pḥng
Pháp đă chỉ thị cho Navarre phải hạ thấp
yêu cầu pḥng thủ Lào và trước hết “phải
đảm bảo an toàn cho đội quân viễn chinh
Pháp”. Nhưng sau khi nhậm chức, Navarre
đi kiểm tra t́nh h́nh tại chỗ và đă định
ra một chiến lược riêng của ông ta. Ông
chấp nhận một phần các khái niệm của De
Lattre và Salan để sử dụng và đưa ra một
kế hoạch cừ khôi nhưng tai hại, mang tên
ông. Nó đă được Washington đề cao nhưng
lại bị Paris kết tội. Kế hoạch đ̣i hỏi
phải có một lực lượng tấn công cơ động
mạnh dể giành lại thế chủ động vào mùa
thu năm 1954. Trong thời gian quá độ,
Navarre cho thực hiện một chiến lược
pḥng ngự (như Paris đă chỉ thị) ở bắc
vĩ tuyến 18, nhưng sẽ tích cực tiêu diệt
đối phương ở miền trung Trung Bộ và Nam
Bộ (trái với các chỉ thị của Paris)
trong nửa đầu năm 1954. Rồi đến mùa thu
1954, ông sẽ tung ra cuộc tổng tiến công
(như đă thoả thuận với O’Daniel và
Dulles) ở bắc vĩ tuyến 19 với mục đích
tạo ra một điều kiện thuận lợi mong muốn
cho một sự dàn xếp về chính trị của cuộc
chiến tranh.
Trong khi đó th́ cuộc đ́nh chiến ở Triều
Tiên rốt cục đă được kư kết ngày 26-7.
Sau những buổi hội đàm dài nhất trong
lịch sử - 2 năm và 17 ngày, bao gồm 575
cuộc gặp gỡ riêng. Một cuộc hội nghị đă
được xúc tiến 90 ngày sau khi hoàn thành
việc trao đổi tù binh, để thảo luận
“tương lai của Triều Tiên và các vấn đề
có liên quan”. Việc trao đổi tù binh kết
thúc ngày 6-9. Cuộc đ́nh chiến đă được
Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và
số lớn các nước “khối” châu Âu hoan
nghênh, nhưng không được Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà chào mừng như là một báo
hiệu của hoà b́nh thế giới.
Hồ Chí Minh trong một bức điện gửi cho
Mao Trạch Đông (ngày 4-8) chỉ bày tỏ một
sự phấn khởi to lớn của nhân dân Việt
Nam về việc cuộc chiến tranh Triều Tiên
đă kết thúc. Phải chăng người Việt Nam
đă phấn khởi v́ họ thấy trước là Trung
Quốc sẽ chú ư nhiều hơn đến những nhu
cầu của Việt Minh? Hay là họ phấn khởi
v́ cuộc thương lượng hoà b́nh ở Triều
Tiên đă đặt ra khuôn mẫu của một giải
pháp chính trị cho cuộc chiến tranh ở
Đông Dương?
Có thể có cả hai vấn đề. Chắc chắn rằng
Trung Quốc có xu hướng thiên về chiến
tranh, chỉ cần cố gắng ít nhiều để phân
tán bộ máy quân sự của họ không c̣n cần
thiết ở Triều Tiên nữa để đáp ứng nhu
cầu của ông Hồ, cũng đủ làm cho ông đối
phó được với Pháp - thậm chí cả với Mỹ -
từ một thế mạnh. Các nhà hoạch định
chính sách ở Washington và Paris nh́n
một cách lo lắng và chờ đợi hành dộng
sắp tới của Bắc Kinh, và Dulles đă báo
cho Trung Quốc biết qua bài phát biểu ở
Saint Louis (2-9-1953), về “những hậu
quả nghiêm trọng của một cuộc xâm lược
sai lầm khác”. Trong cuộc họp báo ngày
hôm sau, người ta đă hỏi Dulles xem có
phải bài diễn văn của ông có bao hàm ư
Mỹ muốn đưa vấn đề khôi phục hoà b́nh ở
Đông Dương ra bàn ở Hội nghị chính trị
của Triều Tiên đă được dự kiến không.
Dulles đă đáp lại:
“Chúng tôi đă nói là cuộc hội nghị như
dự kiến đă định lúc ban đầu… sẽ chỉ hạn
chế vào vấn đề Triều Tiên. Nhưng… (nếu)
Trunng Cộng tỏ ra có ư muốn giải quyết
một cách hợp lư vấn đề Đông Dương, th́
về phương diện kỹ thuật, chúng tôi không
thể trả lời “Không”, chúng tôi cũng
không muốn nói đến vấn đề đó”.
Mùa thu, được tướng O'Daniel và Bộ
trưởng Dulles khuyến khích, Navarre cho
thực hiện kế hoạch của ông ta. Trong
thời gian ngắn, ban đầu h́nh như mọi
việc đều tốt, nhưng chỉ đến cuối năm,
mặt trận trở thành tai hoạ. Rơ ràng là
người Pháp cũng như người Mỹ đă không
thể không công nhận là quân Pháp dă đánh
vào những khoảng trống ở Đông Dương. Chỉ
mới tiếp xúc là quân đối phương đă tan
biến vào trong rừng để rồi lại xuất hiện
ở nơi khác.
Buộc phải rút lui khỏi miền Nam xứ Thái
cuối tháng 9, Navarre liền quay trở về
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với một lực lượng
20 tiểu đoàn, ông ta định tiêu diệt một
trung đoàn quân chính quy Việt Minh
trong tỉnh Thái B́nh (khoảng 40 dặm đông
nam Hà Nội). Như đă đoán trước, lực
lượng của Giáp lại biến đi; song cuối
tháng 10, Pháp hănh diện báo cho tướng
O’Daniel về một “chiến thắng mới” làm
ông này xúc động báo cáo ngay về Tham
mưu trưởng Liên quân ở Washington. Với
hy vọng kéo Giáp vào bẫy, Navarre cho 3
tiểu đoàn dù chiếm lại Điện Biên Phủ
ngày 20-11. Giáp đă không cắn mồi; trái
lại ông đă để cho Pháp tăng cường pḥng
thủ đồn ngoại vi đó và xúc tiến chuẩn bị
bao vây cứ điểm của Navarre.
***
Những lời phát biểu của Dulles với báo
chí ngày 3-9 về khả năng thương lượng
với Trung Cộng chung quanh vấn đề Đông
Dương, đă gợi cho Laniel con đường phải
giải quyết vấn đề với Hồ Chí Minh. Ngày
19-9, Chủ tịch Hồi đồng Bộ trưởng Liên
Xô Georgi Malenkov, một người chủ trương
mạnh mẽ hoà dịu, nhấn mạnh vào đ̣i hỏi
của “nhân dân yêu chuộng hoà b́nh thế
giới” phải làm cho cuộc đ́nh chiến Triều
Tiên thành một khởi điểm để “làm giảm
nhẹ căng thẳng quốc tế ở khắp mọi nơi,
bao gồm cả Viễn Đông”. Ngày 21, Andrei
Vishinsky, đại diện Liên Xô tại Liên hợp
quốc, đề nghị tiếp “một cuộc giảm binh
bị và tuyên truyền nhằm đẩy lùi nguy cơ
một cuộc chiến tranh mới”. Chu Ân Lai
liền ủng hộ đề nghị của Liên Xô (ngày
8-10) và nêu lên vấn đề ghế của Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc;
ông nhắc lại lập luận của Malenkov về
việc làm giảm t́nh h́nh căng thẳng quốc
tế nhằm củng cố hoà b́nh ở Viễn Đông.
Những người Cộng sản trong quốc hội Pháp
nắm lấy đường lối của Mátxcơva, Bắc
Kinh, liền tiếng yêu cầu thương lượng
hoà b́nh với Hồ Chí Minh, giống như Mỹ
đă làm với Kim Nhật Thành ở Triều Tiên.
Sau thất bại tháng 9 của Navarre, tâm
trạng ở Pháp trở nên u ám. Dân chúng
ngoài đường và một số các nhà làm chính
trị trong quốc hội đă cho rằng Pháp đưa
binh lính ra trận để phục vụ cho cuộc
Thập tự chinh chống Cộng của Mỹ. Họ đă
đi đến một nhận thức ác nghiệt về cuộc
chiến tranh Đông Dương, nói đó chỉ là
một cái địa ngục không có ǵ khác hơn là
để Pháp chôn vùi thuộc địa, và đối với
Pháp đấy là một cuộc chiến tranh không
thắng.
Đáp lại những yêu cầu đó, ngày 27-10,
Laniel công bố ư định của ông muốn
thương lượng. Nhưng với ai? Không với Hồ
Chí Minh mà cũng không phải v́ “Bộ tham
mưu” của ông ta tỏ ra muốn có một cuộc
đối thoại nào đó. Ngày 12-11, trước quốc
hội, Laniel nhắc lại quan điểm của ông
ta, tuyên bố chính phủ ông không cứ nhất
định giành đạt cho được một “giải pháp
quân sự”, mà sẽ thu xếp để có một “giải
pháp ngoại giao”; mang theo ngụ ư “giải
pháp quân sự” là của Mỹ, c̣n Pháp không
phải thế. Cuộc tranh căi tại quốc hội
Pháp đă chia đất nước ra thành hai phái:
phái muốn thương lượng và phái muốn kéo
dài công cuộc béo bở này của họ. Phái
sau này, thường là thuộc giới tư bản
kinh tế tài chính, chịu ảnh hưởng của
phong trào Cộng hoà B́nh dân, kiêu hănh
bám lấy “danh dự” của nước Pháp và cho
rằng không thể chấp nhận việc quan hệ
với Hồ Chí Minh Cộng sản - ít ra th́
cũng cho đến khi ưu thế quân sụ của Pháp
đặt người Pháp trong một thế lợi để ra
các điều kiện.
Trong khi ưu thế quân sự trên chiến
trường chưa thấy đâu và ở Pháp tranh căi
nhau, th́ Navarre, vào giữa tháng 11,
vẫn lên tiếng biện minh cho những thất
bại của ông ta bằng những lời ca cẩm cũ
- v́ không có đủ quân. Yêu cầu tăng viện
của ông ta bị Uỷ ban Quốc pḥng dứt
khoát gạt bỏ; ông ta phải bằng ḷng với
những cái đă có. Cũng trong thời gian
đó, Laniel lo xúc tiến các cuộc điều
đ́nh hoà giải, nên đă đưa một phái đoàn
bí mật do Phó đô dốc Cabanier cầm đầu
đến Sài G̣n để hỏi ư kiến Navarre xem đă
đến lúc thuận lợi để mở các cuộc diều
đ́nh ngừng bắn chưa. Navarre phát biểu
(ngày 20-11) là hăy c̣n sớm quá, và t́nh
h́nh quân sự Pháp sẽ thuận lợi hơn vào
mùa hè tới (1954).
Trong thời gian Navarre chiếm Điện Biên
Phú, tờ nhật báo Thuỵ Điển Expressen, đă
cho đăng (ngày 29-11) những câu trả lời
của Hồ Chí Minh cho một loạt các câu hỏi
do Sven Lôfgren, phóng viên của báo ở
Paris đặt ra. Trả lời của ông Hồ đề ngày
26-11 và cho biết ư định của Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà muốn điều đ́nh một cuộc
ngừng bắn với điều kiện chính phủ Pháp
công nhận và tôn trọng nền độc lập hoàn
toàn của Việt Nam vào năm 1955.
Chính phủ Pháp đă phản ứng một cách tiêu
cực. Laniel quan tâm theo dơi “ư định
muốn thương lượng” của ông Hồ, nhưng đa
số ngoan cố phản động trong chính phủ
quyết định coi như không biết đến lời đề
nghị đó. Lập trường của chính phủ Pháp
là ông Hồ phải đưa ra đề nghị bằng những
đường chính thức, chứ không phải qua các
“lời rao mật trên báo chí”. Ngày 12-12,
thông tấn xă của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà lại nhắc lại lời đề nghị thương
lượng của ông Hồ trên cơ sở như đă nêu.
Rồi, lần nữa, ngày 19, ngày kỷ niệm 7
năm cuộc chiến tranh, trong thông điệp
gửi Quân dội Nhân dân Việt Nam, ông Hồ
cho phát thanh lời tuyên bố cho thả hàng
trăm tù binh Pháp và thêm một lần nữa đề
nghị thương lượng.
Tuy những cuộc thăm ḍ hoà b́nh này
chẳng trực tiếp mang lại được điều ǵ
nhưng gián tiếp đă làm tăng thêm t́nh
cảm chính trị công chúng ngày càng mạnh
ở Pháp đ̣i chấm dứt cuộc chiến tranh
dường như vô tận và rất tốn kém. Trong
khi đó, các báo cáo lạc quan của Navarre
vẫn đưa ra hy vọng là chiến thắng đang ở
trong tầm tay. Laniel và các quan chức
Pháp khác đă nói với Đại sứ quán chúng
ta là họ coi đề nghị của ông Hồ chỉ là
tuyên tuyền, nhưng cũng phải thừa nhận
là nó đă tác động sâu sắc đến công chúng
và các giới quân sự ở Pháp và ở Đông
Dương. Laniel c̣n cho biết tổng thống
Auriol đă bị kích động đến mức ông đă
nói với Laniel phải hỏi ư kiến các đại
diện ba quốc gia Liên hiệp ngay tức khắc
để nắm lấy khả năng sớm nhất nhằm mở các
cuộc điều đ́nh với đại diện của Hồ Chí
Minh. Nhưng Laniel đă dứt khoát từ chối.
Các quan chức Mỹ th́ hoài nghi; báo cáo
của Đại sứ quán cho thấy trong diễn văn
ngày 24-11 của Laniel c̣n có khoảng rộng
răi dành cho cuộc điều đ́nh, và các đề
nghị của ông Hồ đă tăng thêm áp lực cho
việc hoà giải.
Chính sách kiên định của Mỹ là lái cho
Pháp tránh xa khỏi bàn hội nghị trong
khi chưa giành dược những thắng lợi quân
sự quan trọng trên chiến trường. Dulles
đă nhiều dịp nói với Bidault rằng Mỹ
thấy kết thúc cuộc chiến tranh Đông
Dương trong điều kiện thuận lợi cho Cộng
sản là một điều không nên. Ông muốn
người Pháp tiếp tục cuộc chiến v́ ông
tin tưởng một cách sâu sắc rằng Đông
Dương là một mắt xích chủ yếu trong
pḥng tuyến ngăn chặn Cộng sản, nhưng
cũng v́ chúng ta đă bị các báo cáo của
Pháp về sự tiến bộ của chiến tranh làm
mờ mắt. Từ Sài G̣n, O’Daniel đă báo về
là chiến thắng của Pháp có thể chắc chắn
nếu được chúng ta giúp đỡ về vật chất,
và chính quyền Washington đă vui vẻ đổ
vào đó càng nhiều đồ viện trợ.
Trong cuộc hội nghị tại
Bermuda (tháng 12-1953), Tổng thống
Eisenhower, thủ tướng Laniel đă bị t́nh
h́nh mặt trận Đông Dương làm cho bối
rối. Các vị đă kín đáo biểu thị mối lo
lắng của họ trong bản thông cáo ngày
7-12, nói rằng họ đă xem xét t́nh h́nh
Viễn Đông và có kế hoạch triệu tập một
cuộc hội nghị chính trị để đi tới được
“một cuộc hoà giải về vấn đề Triều Tiên”
và khôi phục lại “các điều kiện b́nh
thường hơn ở Viễn Đông và Đông Nam Á”.
Trong khi Pháp c̣n đang bận rộn t́m một
cách điều đ́nh có thể chấp nhận được và
Navarre cố gắng làm chuyển biến t́nh thế
quân sự của ông ta, th́ Giáp đă sẵn sàng
thận trọng cho bật cái bẫy ở Điện Biên
Phủ. Ngày 22-12, ông mở cuộc tấn công 5
ngày, cắt đứt Đông Dương ở chỗ hẹp nhất
và xuyên qua cả Việt Nam và Lào. Cuộc
tiến công chấm dứt khi Giáp tới sông
Mékong trên biên giới Thái Lan.
Kế hoạch Navarre rơ ràng là không thực
hiện được. Các quan chức cao cấp ở
Washington do Phó Tổng thống Nixon cầm
đầu, “nhóm ủng hộ Trung Quốc” ở Quốc
hội, và toàn thể cánh cực hữu bảo thủ
đảng Cộng hoà đă lên tiếng cảnh cáo quốc
dân về mối đe doạ của Trung Cộng ở Đông
Dương. Trong bài phát biểu trên đài phát
thanh và truyền h́nh ngày 23-12, Nixon
đă thẳng tay gạt bỏ nguyên nhân thực sự
của cuộc chiến Đông Dương và nhận xét
“Nếu Trung Quốc không phải là Cộng sản,
th́ có thể đă không có cuộc chiến Đông
Dương…”. Song ư kiến của Nixon cũng có
thể là một phản ảnh xác đáng trong dư
luận công chúng lúc đó cũng như sau này.
Quan điểm của họ vẫn là nếu như thủ tiêu
được nhân tố Cộng sản th́ mọi cái ở Việt
Nam sẽ tốt đẹp. Giới quan chức của Mỹ đă
được thông báo kém đến mức càng làm cho
sự rối rắm kéo dài thêm.
Bộ trưởng Dulles, trong cuộc họp báo 6
ngày sau, nói đến sự thất bại ở Đông
Dương. Ông đă cho biết là ư nghĩa quân
sự trong hoạt động của Cộng sản đă được
“thổi phồng lên một cách quá đáng”, và
“chẳng có lư do ǵ… để mọi người phải
hoảng sợ”. Ông nói thêm, ông “chẳng khi
nào nghĩ rằng có nhiều sự chân thật”
trong các hoạt động thăm ḍ hoà b́nh của
Hồ Chí Minh. Và Dulles đă cảnh cáo là
một sự can thiệp của Trung Cộng vào Đông
Dương có thể gây ra một phản ứng của Mỹ
“không nhất thiết hạn chế vào khu vực
đặc biệt mà Cộng sản đă chọn làm chiến
trường xâm lược mới của họ”.
Vào mùa thu 1953, giữa Mỹ, Anh, Pháp và
Liên Xô có nhiều vấn đề nghiêm trọng
phải giải quyết, trong đó Đông Dương chỉ
là một, v́ c̣n có vấn đề tương lai của
nước Đức và Áo. Mỹ lo đối phó với sự
bành trướng của Cộng sản, đă sáng chế ra
kế hoạch Cộng đồng Pḥng thủ châu Âu
(EDC) mà nội dung chủ yếu chỉ là nhằm
tái vũ trang nước Đức. Pháp kịch liệt
chống lại một nước Đức mới được phục hồi
về kinh tế và quân sự, nhưng Pháp lại
cần tới những lợi ích thu lượm được từ
EDC do Mỹ đỡ đầu, để xây dựng địa vị của
ḿnh ở châu Âu. V́ những lư do nhất
định, Liên Xô cũng chống lại EDC và ủng
hộ những sự dè dặt của Pháp trong việc
tham gia Cộng đồng. Mỹ mong muốn giải
quyết được vấn đề, đă đưa ra đề nghị họp
hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao nhưng
Liên Xô thoái thác. Phản đề nghị của
Liên Xô nêu ra yêu cầu trước hết Phương
Tây phải từ bỏ EDC và tiến hành triệu
tập một cuộc hội nghị 5 nước lớn, tức là
có bao gồm cả Trung Cộng. Cuối cùng,
những người Xô viết cũng thoả thuận một
cuộc hội nghị chỉ có 4 nước lớn ở Berlin
vào tháng 1-1954.
Hội nghị khai mạc ngày 25-1 trong khu
vực Mỹ ở Berlin. Dẫn đầu các đoàn đại
biểu là Dulles (Mỹ), Eden (Anh), V.
Molotov (Liên Xô), và Bidault (Pháp).
Vấn đề đầu tiên trong chương tŕnh nhằm
giải quyết việc thống nhất nước Đức và
các đồng minh nhưng rồi các vấn đề khác
xen vào. Thậm chí, trước khi hội nghị
họp, Malotov đă đề nghị với Bidault là
người Nga sẵn sàng giúp đỡ thu xếp một
cuộc đ́nh chiến ở Đông Dương để đánh đổi
lấy việc Pháp rút khỏi EDC. Nhưng
Bidault, với tư cách đại diện của Pháp,
tỏ ra kiên quyết ủng hộ Cộng đồng và lập
trường của ông ta không lay chuyển. Tuy
vậy đối với ông, Đông Dương cũng thành
một vấn đề; xu hướng chính trị và cá
nhân ông thiên về một “giải pháp quân
sự”, nhưng ông ta lại được chỉ thị phải
t́m kiếm một sự “giàn xếp về ngoại giao”
đủ cho điều đó, có nghĩa là phải giao
dịch với Việt Minh. Do đó, Bidault cần
và tích cực sự tranh thủ giúp đỡ của
Liên Xô. Trong những ngày tiếp theo,
Bidault đă gặp riêng Molotov, Eden và
Dulles để mong đưa được vấn đề Đông
Dương vào chương tŕnh nghị sự Hội nghị
Genève sắp họp. Nhưng Dulles vẫn cứng
rắn dù cho lúc đó ông cũng đồng ư. Nói
cho cùng th́ đây là một cuộc chiến tranh
của Pháp và chính phủ Laniel không thể
nào hoàn toàn tránh không chịu thương
lượng mà không bị dư luận dân chúng ghét
bỏ và làm cho bản thân chính phủ sụp đổ
trước các đảng phái đối lập chống chiến
tranh.
Hội nghị đă kết thúc ngày 18-2 mà chẳng
đi tới được một sự thoả hiệp nào về việc
thống nhất nước Đức hay một hiệp định về
Áo. Nhưng trước khi kết thúc, những
người tham dự hội nghị đă đồng ư chấp
nhận đề nghị của Molotov, mở cuộc đàm
phán hoà b́nh ở Viễn Đông của 5 nước lớn
tại Geneve vào ngày 26-4 để thảo luận về
cách thức và biện pháp đi tới một cuộc
hoà giải về vấn đề Triều Tiên và bàn
việc văn hồi hoà b́nh ở Đông Dương.
Dulles đă thành công trong việc chống
lại những cố gắng của Liên Xô muốn dành
cho Trung Cộng quy chế của một cường
quốc đỡ đầu hội nghị và đă đ̣i phải ghi
trong thông cáo Berlin lời tuyên bố là
việc mời hoặc tham dự Hội nghị Genève
không bao hàm một sự công nhận về ngoại
giao. Tuy vậy, khi Dulles trở về
Washington ngày hôm sau, ông đă gặp
không ít khó khăn trong việc thuyết phục
các lănh tụ Quốc hội là việc Trung Cộng
ngồi với đại diện của Mỹ tại bàn hội
nghị sẽ không có nghĩa là Mỹ công nhận
chế độ Bắc Kinh.
***
Cũng vào thời gian đó (tháng 12-1953 -
tháng 1-1954), lực lượng của Giáp bắt
đầu chiếm lĩnh trận địa chung quanh Điện
Biên Phủ, đồng thời tiếp tục xâm nhập
vào Lào. Các cố gắng của Navarre nhằm
chặn đứng làn sóng đỏ đă không dạt kết
quả, quân đội lại bị tổn thất nặng, bị
phân tán nhất là không quân. Ngày 6-2,
Lầu Năm góc công bố tin gửi 40 máy bay
B.26 và 200 nhân viên kỹ thuật dân sự Mỹ
sang Đông Dương. Đô đốc A.W. Radford,
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên
quân, khi điều trần về việc này trước Uỷ
ban Đối ngoại Hạ nghị viện một tháng
trước khi Điện Biên Phủ bị bao vây, đă
nói rằng kế hoạch Navarre là “một khái
niệm chiến lược quy mô lớn, chỉ trong
một vài tháng sẽ tạo ra một sự chuyển
biến thuận lợi cho tiến tŕnh phát triển
cuộc chiến tranh”.
Báo chí Mỹ b́nh luận nhiều về lời công
bố 6-2 cho rằng việc phái các chuyên
viên có thể chỉ là một tiền đề cho việc
gửi quân chiến đấu sang Đông Dương để
bảo lănh cho người Pháp đang bị lung
lay. Hai ngày sau khi có công bố, thượng
nghị sĩ M. Mansfield đă chất vấn ở
Thượng viện có phải v́ người Pháp không
thể chống đỡ được nữa nên chúng ta bắt
buộc phải đưa Không quân và Hải quân
sang chi viện giúp họ? Phải chăng điều
đó có nghĩa là nếu t́nh h́nh đ̣i hỏi th́
quân chiến đấu Mỹ cũng sẽ được phái sang
đó? Để làm giảm nhẹ những sự lo ngại này
và cũng là để hỗ trợ cho lập trường của
Radford, 3 ngày sau, Bộ trưởng Quốc
pḥng C.E. Wilson tuyên bố sẽ không có
phi công và bộ binh chiến đấu Mỹ ở Đông
Dương, và c̣n nói thêm là không hề có kế
hoạch chi viện nào đă được vạch ra “ở
mức cao hơn như hiện nay”. Wilson bác bỏ
ư kiến cho rằng Đông Dương có thể trở
thành một Triều Tiên khác đối với Mỹ.
Ông nói theo quan điểm chúng ta và của
người Pháp “cuộc chiến tranh đang có khả
năng và có thể đưa đến một thắng lợi
quân sự đúng như chúng ta dự kiến trong
giai đoạn này”.
Yêu cầu tăng viện của Pháp và lời trấn
an của các quan chức Mỹ nói rằng “mọi
việc tiến triển tốt” đă không có nghĩa
ǵ đối với người dân b́nh thường. Tại
cuộc họp báo của Tổng thống ngày 10-2,
Marvin Arrowsmith, thuộc hăng thông tấn
A.P đă hỏi Eisenhower có phải “việc gửi
các chuyên gia sang Đông Dương sẽ có thể
dẫn đến việc chúng ta tham gia vào một
cuộc chiến tranh nóng ở đó không?”. Tổng
thống chỉ trả lời: “… Không ai có thể
chống đối gay gắt hơn tôi trong việc để
cho Mỹ dính líu vào một cuộc chiến tranh
nóng trong vùng này; v́ vậy mọi hành
động tôi cho phép đều được tính toán… để
không thể xảy ra chuyện đó”. Daniel
Schorr của đài CBS nắm ngay lấy điều đó
và chất vấn có phải nhận xét của Tổng
thống có nghĩa là “ngài quyết tâm không
để cho bị lôi cuốn vào chiến tranh hay
có lẽ là vào sâu hơn trong chiến tranh
Đông Dương, bất kể cuộc chiến tranh sẽ
diễn biến ra sao?”. Tổng thống đă đáp
lại, “Tôi không muốn tiên đoán xu hướng
phát triển t́nh h́nh thế mới trong lúc
này… Tôi nói là tôi không thể tạo ra một
thảm kịch lớn hơn nữa cho nước Mỹ để bị
lôi kéo sâu hơn nữa với những đơn vị lớn
vào một cuộc chiến tranh toàn diện,
trong bất kỳ nơi nào trong vùng này”.
Tổng thống kết thúc nhận xét với Schorr
bằng cách biện minh cho sự can thiệp của
Mỹ cho “v́ đây là trường hợp của các
nước độc lập và tự do chống lại sự lấn
chiếm của Cộng sản”. Nhưng Tổng thống đă
bỏ qua một quan điểm quan trọng: chỉ có
nước Pháp mới “độc lập và tự do”, c̣n
Việt Nam là một xứ bán thực dân thuộc
địa, đang nửa chừng tham gia vào một
cuộc chiến tranh giành độc lập, chẳng
phải là một nước “độc lập và tự do” cho
tới khi có Hội nghị Genève, nghĩa là c̣n
hơn 5 tháng nữa.
Trong khi ở Mỹ c̣n đang sôi nổi tranh
căi về sự tham gia của quân đội Mỹ, dư
luận công chúng Pháp lại mong muốn có
một sự “rút ra” nhanh chóng khỏi cuộc
chiến tranh vô tận này. Lào đang bị đe
doạ nên Bộ trưởng Quốc pḥng Pleven nóng
ḷng muốn biết ở đó có được pḥng vệ
không. Hội đồng Quốc pḥng Pháp đă báo
cho ông biết phải chỉ thị cho Navarre
rút lui khỏi Thượng Lào nếu cần, nhưng
phải nhớ là việc bảo đảm an toàn cho
quân viễn chinh Pháp vẫn là vấn đề ưu
tiên số một. Pléven sang Đông Dương
tháng 2-1954 để trực tiếp thanh tra t́nh
h́nh tại chỗ. Đi cùng c̣n có tướng Paul
Ély, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng,
tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân và
tướng C. Blanc Tham mưu trưởng lục quân.
Đoàn thanh tra đă gặp tướng Navarre và
tướng Ély đă tỏ ra lo ngại cho chiến
lược “cứ điểm con nhím” sẽ chỉ là “một
thứ bày cỗ sẵn cho Việt Minh xơi”.
Navarre biện bạch cho chiến lược hoàn
chỉnh của ông ta, vừa cách ly được Việt
Minh, lại vừa nắm được lực lượng cơ động
trong tay. Ngay như đối với Điện Biên
Phủ, một trong các “cứ điểm” ngoại vi,
Navarre nói chưa chắc đối phương đă chịu
dành lực lượng bao vây cứ điểm đó. Ông
ta cho rằng mặc dù Việt Minh có ư định
tấn công cứ điểm nhưng đă phải bỏ chỉ v́
cứ điểm đă được bố pḥng khá mạnh. Lúc
đó, tướng Fay có hỏi về việc sử dụng sân
bay Điện Biên Phủ sau các trận mưa lũ.
Navarre đáp lại là không ai báo cáo cho
ông biết có nhược điểm ǵ đặc biệt ở đây
nhưng ông cũng sẽ xem xét vấn đề này.
Đoàn thanh tra trở về Pháp ngày 1-3. Báo
cáo quân sự và chính trị đă vẽ ra một
h́nh ảnh bi đát. Các tướng kết luận
“Không giải pháp quân sự nào có thể thực
hiện được”; dù cho có tăng viện mạnh mẽ
đến đâu chăng nữa và bằng bất kỳ cách
nào cũng không thể tác động giúp cho có
lối thoát. Pléven cho t́nh h́nh chính
trị hoàn toàn không thuận lợi cho người
Pháp. Ông nhận định Việt Minh có thể
không được người ta ưa chuộng nhưng lại
được người ta sợ và tôn trọng. Số các
làng xă trước đây do chính phủ Bảo Đại
kiểm soát nay giảm sút dần theo chiều
thuận với sự mở rộng vùng của Việt Minh.
Pléven đề nghị phải hết sức cố gắng ở
Genève để tranh thủ được một giải pháp
có thể chấp nhận được. Nhưng ông cũng
khuyên phải chống lại sự giao thiệp trực
tiếp với ông Hồ v́ như thế sẽ bị phe Bảo
Đại coi như là một sự phản bội. Do đó
lời giải đáp duy nhất là phải lợi dụng
Hội nghị Genève làm con đường danh dự để
kết thúc chiến tranh.
Chính phủ Paris hoảng sợ. Người ta cảm
thấy không c̣n thời gian nữa và phải làm
ngay một cái ǵ thật dữ dội để cứu văn
lấy cái thuộc địa cũ kia. Sau các cuộc
vận động thường diễn ra giữa phái diều
hâu và phái bồ câu, ngày 5-3 Lamel đưa
tŕnh trước Quốc hội các điều khoản cho
một cuộc ngừng bắn:
1- Tất cả quân đội Việt Minh rút khỏi
Lào.
2- Vạch “một tuyến không người” chung
quanh đồng bằng sông Hồng và tất cả lực
lượng Việt Minh, dưới sự kiểm soát, phải
rút ra ngoài.
3- Ở Trung Bộ, tập trung các lực lượng
Việt Minh vào một khu vực sẽ được ấn
định sau.
4- Tước vũ khí hoặc cho rút lui tất cả
quân đội Việt Minh ở Cambodia và Nam Bộ.
Người kém thông thạo nhất cũng thấy ngay
được các điều kiện của Laniel đ̣i hỏi
một sự đầu hàng của Việt Minh và thể
hiện chỉ là một hy vọng ngây ngô qua một
hành động tuyệt vọng trong giờ chót để
kết thúc cuộc chiến tranh mà 7 năm chiến
đấu ṛng ră cũng đă không đạt được.
Rơ ràng là họ không chịu điều đ́nh với
những người “bồi” của thời đại thực dân
cũ. Ông Hồ và các cố vấn của ông cũng
không non dại ǵ trong các cuộc vận động
chính trị quốc tế, nhưng dù sao th́ ngày
10-3, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng cho
biết là sẵn sàng xem xét đề nghị của
Pháp. Thực ra, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
cũng đă nghiên cứu đề nghị đó một cách
nghiêm chỉnh, không phải là trong khuôn
khổ các mục tiêu của Pháp, mà dưới ánh
sáng của tất cả những ảnh hưởng của Hội
nghị Genève sắp diễn ra.
Trong 6 tháng, ông Hồ và
các cố vấn của ông đă theo dơi một cách
chặt chẽ sự tham gia của Mỹ vào cuộc
chiến tranh. Các tin tức từ Mátxcơva,
Delhi và Bắc Kinh đă chỉ ra mối đe doạ
là Mỹ càng ngày càng tích cực đứng vào
bên cạnh Pháp. Lời tuyên bố mới nhất của
Eisenhower trong cuộc họp báo ngày 10-3
làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lo
ngại v́ nó đă gợi ra vấn đề Mỹ có kế
hoạch trực tiếp tham gia vào Việt Nam,
sẵn sàng đến mức có thể thực hiện điều
đó bất cứ lúc nào. Trước ngày Eisenhower
gặp nhà báo, thượng nghị sĩ J.C. Stennis
trong Uỷ ban Quân vụ đă yêu cầu chúng ta
cho rút các chuyên gia không quân ra
khỏi Đông Dương. Ông nói “chúng ta đang
từng bước đưa một cách trực tiếp người
của chúng ta tham gia vào cuộc chiến
đấu. Sớm muộn rồi chúng ta cũng phải
hoặc chiến đấu hoặc tháo lui”. J.J.
Patterson, báo New York News, đă chộp
lấy điều đó và hỏi Tổng thống cho biết
“chúng ta sẽ làm ǵ nếu như một trong số
người của chúng ta ở đó bị bắt hoặc bị
giết?”. Tổng thống đáp lại “Tôi muốn nói
điều này “sẽ không có sự tham gia của Mỹ
vào cuộc chiến tranh, nếu đó không phải
là kết quả của một hành động hợp hiến
được Quốc hội chấp thuận và cho tuyên
bố”. Thực rơ như ban ngày, và do đó Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có thể nhận thức
được dễ dàng là chiều hướng đang đi tới
một sự tham gia tích cực, và Eisenhower
đă lựa chọn một sự can thiệp trực tiếp
công khai của Mỹ.
Rơ ràng là đối với vấn đề Mỹ nhúng tay
vào Việt Nam cuối năm 1953 chẳng một ai
lại đồng t́nh cho chúng ta đi sâu vào
cuộc xung đột Pháp - Việt đến mức như
thế. Bộ Lục quân đă tỏ ư nghi ngờ đối
vối ư kiến của một số người hoạch định
chính sách cho rằng chúng ta cần phải
tiếp tục viện trỡ quân sự và giúp đỡ cho
Pháp để cuối cùng sẽ không phải đưa bộ
binh chiến dấu vào. Họ đă lập luận là
nếu như vùng này thực sự quan trọng đối
với lợi ích an ninh của Mỹ như Hội đồng
An ninh Quốc gia đă xác nhận th́ vấn đề
cần phải được giải quyết một cách dứt
khoát hơn bằng cách đi tới một sự hoà
giải đặc biệt. Cục tác chiến Bộ Tổng
tham mưu Lục quân đă đề ra một cách ít
kiên quyết hơn là Lục quân không có khả
năng đưa quân lính tham gia chiến đấu
trên đất liền ở Đông Dương trong khi Mỹ
phải xúc tiến đồng thời các chương tŕnh
quân sự ở châu Âu và Viễn Đông. Họ gợi ư
đánh giá lại sự quan trọng của Đông
Dương và Đông Nam Á so với cái giá phải
trả để cứu văn các khu vực này.
Nhưng do t́nh h́nh Pháp suy sụp nhanh
chóng vào tháng 12 và tháng 1, Bộ Quốc
pḥng đă phải xét đến vấn đề can thiệp
vào Đông Dương để đảm bảo đất nước này
không bị rơi vào tay Cộng sản. Lần này,
chẳng ai có ư kiến ǵ khác. Trưởng pḥng
tác chiến Hải quân, đô đốc R. Anderson
đề nghị với Bộ trưởng Wilson (ngày
6-1-1954) cho chúng ta đưa các đơn vị
chiến đấu ngay tới Đông Dương chỉ dựa
trên “sự đảm bảo ủng hộ mạnh mẽ, hợp lư
của dân bản xứ đối với quân đội của
chúng ta “dù có được chính phủ Pháp đồng
ư hai không đồng ư”. Phó đô đốc A.C.
Davis, Giám dốc Nha quân vụ đối ngoại Bộ
Quốc pḥng lại nhận xét vấn đề với những
lập luận vững chắc hơn:
'Việc quân Mỹ tham chiến ở Đông Dương
phải được tránh bằng mọi giá. C̣n nếu
như lúc đó, chính sách quốc gia quyết
định không thể có biện pháp thay thế nào
khác th́ Mỹ không nên tự dối ḿnh, cho
rằng có khả năng chỉ cần tham gia một
phần thôi, như “chỉ sử dụng đơn vi không
và hải quân”. Chẳng ai có thể vượt được
thác Niagara chỉ bằng một cái thuyền
con”.
Và Davis nói tiếp:
“Chú ư: Nếu việc đưa các lực lượng không
quân và hải quân vào tham chiến ở Đông
Dương được xác định là thuận lợi th́ khó
có thể mà nghĩ rằng có thể làm thế nào
để tránh không phải đưa lục quân vào v́
nhất định là phải có căn cứ, mà việc bảo
vệ các căn cứ và bến cảng này tất nhiên
sẽ đ̣i hỏi phải có lực lượng mặt đất của
Mỹ và… cũng cần phải có đơn vị chiến đấu
mặt đất để hỗ trợ cho việc di tán khi bị
uy hiếp. Điều đó bắt chúng ta phải hiểu
rằng một khi đă lao vào th́ không có
biện pháp rẻ tiền nào để tiến hành một
cuộc chiến tranh”.
Sự khác biệt quá rơ ràng giữa một bên là
sự đánh giá cao về quan trọng chiến lược
của chúng ta đối với Đông Dương và một
bên là sự bất lực của chúng ta để đi đến
một quyết định dứt khoát về việc sử dụng
quân đội ở Đông Dương cần cho việc bảo
vệ vùng đất này, đă đ̣i hỏi Hội đồng An
ninh Quốc gia phải họp bàn (ngày
8-1-1954). Đại diện Bộ Ngoại giao và Bộ
Quốc pḥng đă có nhiều ư kiến về việc
khi một trong hai t́nh huống sau đây sẽ
xảy ra: một, người Pháp bỏ cuộc; và hai,
Pháp yêu cầu phải có số lớn quân đội Mỹ.
Bộ Ngoại giao cho rằng t́nh h́nh Pháp đă
quá nguy hiểm đến mức “bắt buộc Mỹ phải
quyết định ngay việc sử dụng quân đội Mỹ
trong cuộc chiến đấu ở Đông Nam Á”.
Nhưng đại diện Bộ Quốc pḥng đă từ chối
không dám đảm bảo cho việc Mỹ can thiệp.
Cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia
đă để trống vấn đề hành động của Mỹ
trong trường họp cần thiết không thể
chối căi được phải có quân đội để ngăn
ngừa không để “mất” Đông Dương. Nhưng
vấn đề này, các tham mưu trưởng Liên
quân đă có thái dộ thẳng thắn. Các Tham
mưu trưởng liên quân cho rằng kế hoạch
Navarre cơ bản là tốt, nhưng dứt khoát
đă bị thất bại v́ hố ngăn cách chia rẽ
giữa người Pháp và người Việt, v́
Navarre thiếu sót không chịu thực hiện
những lời khuyên bảo của chúng ta, và v́
Paris chần chừ trong việc cần thiết phải
có nhân nhượng chính trị đối với chính
phủ Bảo Đại. Do đó các Tham mưu trưởng
Liên quân đă từ chối cả việc dùng quân
chiến đấu Mỹ cũng như sự ủng hộ việc sử
dụng đó một cách dứt khoát.
V́ không giải quyết được một cách rơ
ràng vấn đề cơ bản của sự can thiệp Mỹ,
Bộ Quốc pḥng và Hội đồng Tham mưu
trưởng Liên quân đă đi đến một “giải
pháp” liên tịch - chỉnh đốn lại những
chỗ suy yếu của Pháp. Họ giữ lập trường
là sẽ có biện pháp quân sự thay thế ở
mức vừa đủ để Pháp không đ̣i hỏi phải có
sự can thiệp trực tiếp của Mỹ. Đại diện
Bộ Quốc pḥng nêu ra ba lư do đă làm
t́nh h́nh Pháp xấu đi: thiếu tinh thần
quyết thắng, sự ngoan cố không chịu giải
quyết yêu cầu độc lập thực sự của người
Đông Dương, và việc họ từ chối không
chịu đào tạo các sĩ quan chỉ huy người
bản xứ. Bộ Quốc pḥng cho rằng trước khi
Mỹ can thiệp th́ vấn đề cơ bản phải được
giải quyết là Mỹ có sẵn sàng làm áp lực
một cách mạnh mẽ trước hết là trong
khuôn khổ Cộng đồng pḥng thủ châu Âu
(EDC) bắt Pháp ở Paris cũng như ở Đông
Dương phải có những biện pháp thích đáng
để sửa lại các thiếu sót của họ. Theo Bộ
Quốc pḥng, chỉ khi nào các biện pháp đó
được xúc tiến th́ Mỹ mới chịu xem xét
một cách nghiêm chỉnh việc đưa lục quân
chiến đấu vào bảo vệ quyền lợi của Pháp
và các quốc gia Liên hiệp. Tác dụng thực
sự của lập trường Bộ Quốc pḥng và Hội
đồng Tham mưu trưởng Liên quân là nhằm
đối phó với ư kiến cho rằng một hành
động quân sự nhanh chóng của Mỹ ở Đông
Dương là vừa có thể làm được lại vừa cần
thiết.
Nhận thức rơ t́nh h́nh hết sức bấp bênh
của Pháp ở Đông Dương, điều mà Mỹ chỉ
phỏng đoán mà không biết đích xác,
Pléven đă đề nghị (ngày 11-3) với Hội
đồng Bộ trưởng để tướng Ély nhận lời mời
của đô đốc Radford sang tham Washington.
Ông ta có nhiệm vụ trao đổi với các nhà
lănh đạo Mỹ sự thật về t́nh h́nh quân sự
để Mỹ sẽ không đến Genève với tư tưởng
là sắp giành được chiến thắng quân sự.
Điều lo lắng trước hết của Pháp cũng như
Mỹ là mối đe doạ Trung Cộng can thiệp.
Không ai lạ ǵ việc Việt Nam nhận được
những phi cơ MiG-15 của Liên Xô sản xuất
và do phi công Trung Quốc lái sẽ có thể
gây tai hoạ cho đội không quân bé nhỏ và
yếu ớt của Pháp ở Đông Dương. Pleven
cũng không hài ḷng là đă không có một
hiệp định được kư kết với Mỹ về hành
động của chúng ta phải làm ǵ trong
những trường hợp tương tự. Bidault cho
biết chỉ có một sự thoả thuận miệng của
chúng ta và chỉ nói là sẽ xem xét lại
vấn đề khi t́nh h́nh có ǵ xảy ra.
Bidault đă đảm bảo với các Bộ trưởng
rằng, theo ư riêng ông ta, Mỹ sẽ trân
trọng thực hiện điều đă nói. Nhưng
Pleven không thoả măn: ông ta muốn có sự
cam kết cụ thể hơn và Ély đă nhận được
chỉ thị phải làm mọi cách để đạt được
điều đó.
***
Ngày 13-3, Quân đội Nhân dân Việt Nam,
dưới quyền chỉ huy trục tiếp của tướng
Giáp, khởi đầu cuộc tiến công vào Điện
Biên Phủ. Cái pháo đài mới được tăng
cường này đă có tầm quan trọng về một
chính trị và tâm lư hơn hẳn giá trị
chiến lược thực tế của nó v́ Hội nghị
Genève sắp khai mạc. Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đă thấy được một cách đúng đắn
đây là một trận đánh có tính chất quyết
định, không phải chỉ nhằm giành dược một
chiến thắng vang dội, mà sẽ làm cho họ
mạnh hẳn lên, họ đă chuẩn bị bao vây cứ
điểm này.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng c̣n nhằm
đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp một đ̣n
chí tử để gây tác động tâm lư đối với
nước Pháp, làm nhân dân Pháp và những
người Việt chống Cộng mất ư chí tiếp tục
cuộc đấu tranh.
Trong khi Laniel đưa ra với Việt Minh
những điều kiện phi lư về một cuộc ngừng
bắn, th́ người Việt Nam cũng đă chuẩn bị
xong cho trận Điện Biên Phủ. Sự chuẩn bị
đă được bắt đầu từ cuối tháng 11-1953,
khi Navarre quyết định đánh chiếm lại
cái tiền đồn nhỏ này mà Việt Minh th́
lại quyết tâm “giải phóng” nó.
Việt Minh đă cho xúc tiến những cố gắng
ghê gớm về công tác hậu cần và tác
chiến, có phần nào giống như những biện
pháp của thế kỷ XVIII, nhưng đến thế kỷ
XX này vẫn c̣n phát huy tác dụng rất
lớn. Trung Cộng đă viện trợ cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà về mặt vật chất và sau
đ́nh chiến Triều Tiên đă gửi thêm tới
nhiều cố vấn quân sự. Một viên tướng cao
cấp Trung Quốc đă được phái tới hành
dinh của Giáp(13 ); nhiều sĩ quan khác
được đưa vào công tác ở các cấp khác
nhau của quân Việt Minh. Trung Cộng cũng
đă cung cấp cho Việt Nam khoảng 60 súng
cao xạ 35 ly do Nga chế tạo, các thiết
bị ra đa và nhiều khẩu đội Kachiusa
(súng phóng rocket nhiều ṇng) do người
Trung Quốc điều khiển để bảo vệ cho 100
pháo 105 ly (của Mỹ sản xuất) bố trí ở
các sườn núi bao quanh Điện Biên Phủ.
Người Trung Quốc c̣n góp thêm 1.000 xe
vận tải Môlôtôva đưa qua đường bí mật từ
Mông Tự, Trung Quốc, tới Điện Biên Phủ.
Nhưng kỳ công chủ yếu trong công tác hậu
cần quy mô khổng lồ của Việt Minh chính
là sự vận chuyển do họ tổ chức từ các
nguồn cung cấp địa phương. Nó đă đảm bảo
duy tŕ được một luồng tiếp tế và nhân
lực đầy đủ, vững chắc cho các đại đoàn
của Giáp đang bao vây quân Pháp ở Điện
Biên Phủ.
Rơ ràng là cuộc tấn công đă làm cho
người Pháp hoàn toàn bị bất ngờ. Khởi
đầu là một trận pháo kích bất ngờ dữ
đội, chứng minh cụ thể hoả lực phản pháo
và các cuộc đánh phá bằng đường không
của Pháp là không có hiệu quả. Người
Pháp đă mất ưu thế về binh lực (mặc dù
họ có 12 tiểu đoàn trong căn cứ) và mất
cả ưu thế về hoả lực. Trận đánh ác liệt
kéo dài bắt đầu từ ngày 13, đến ngày 18
th́ cứ điểm cuối cùng trong 3 cứ điểm
trên núi bảo vệ phía bắc Điện Biên Phủ
bị mất. Cứ điểm đầu tiên, Béatrice, bị
chiếm trong đêm 13 - 14 tháng 3; cứ điểm
thứ hai, Gabrielle mất ngày 15; và 3
ngày sau là Anne Marie, cứ điểm thứ ba
phải bỏ. Chi tiết trận đánh đă được mô
tả đầy đủ trong nhiều sách, đại loại như
cuốn “Con đường không vui” của Fall. Nếu
Giáp cứ tiếp tục phát triển tháng lợi
như những ngày đầu này th́ chắc chắn
rằng căn cứ chính cũng sẽ bị mất trong
ṿng 2 tuần lễ. Nhưng thực tế là cuộc
tấn công cuối cùng chỉ được phát động
vào ngày 7-5-1954.
Trong quá tŕnh diễn biến trận đánh,
những lời tuyên bố, riêng cũng như trước
công chúng, đầy lạc quan của Mỹ đă được
thay thế bằng luận điệu cho rằng nếu
không có những bước đi mới để đối phó
với sự viện trợ của Trung Quốc th́ Pháp
sẽ bị suy sụp. Tướng Ély đă đến
Washington ngày 20-3. Dulles và Radford
tỏ ra hết sức lo ngại về sự biến chuyển
đột ngột của t́nh h́nh. Họ muốn được
nghe Ély nói cho biết việc ǵ đă xảy ra
với kế hoạch Navarre và t́nh h́nh nghiêm
trọng đến mức nào. Ély đưa ra một nhận
định lạc quan và đảm bảo với người của
chúng ta là Điện Biên Phủ có thể chống
trả được khi đă được Mỹ cung cấp các máy
bay ném bom B.26. Tiếp đó Ély bàn đến
vấn đề can thiệp của Mỹ nếu như Tnmg
Quốc tham chiến, nhưng Dullẹs đă nói là
ông không thể trả lời về việc này. Ély
xem câu trả lời của Dulles là một sự
thay đổi lập trường của Mỹ, nhưng ông
không thất vọng v́ Eisenhower đă đồng ư
sẽ trực tiếp gặp ông ta.
Eisenhower đă tiếp Ély ở Nhà Trắng vào
sáng ngày 22-3. Đô đốc Radford cũng có
mặt trong buổi tiếp. Tổng thống cho biết
chúng ta sẽ thoả măn các yêu cầu xin
tăng thêm viện trợ của Pháp và nói
riêng, chúng ta sẽ tiếp tế với mọi khả
năng của chúng ta để cứu Điện Biên Phủ.
Tướng Ély được yêu cầu nán ở lại, để bàn
với Radford về các việc phải làm. Trong
cuộc họp ngày hôm sau, Radford đă đề
nghị dùng máy bay của Không quân và Hải
quân Mỹ tiến hành các cuộc tập kích lớn
ban đêm vào quân Việt Minh ở Điện Biên
Phủ và gọi đó là “Operation Vulture”(14
), sử dụng khoảng 60 máy bay ném bom
B.29 cất cánh từ căn cứ Clark Field ở
Phillippin và được 150 máy bay chiến đấu
của Hạm đội 7 Mỹ yểm hộ.
Trong khi Radford và Ély thảo luận về
Cuộc hành quân Chim Ó, Dulles họp báo
vào ngày 23 và tuyên bố một cách lạc
quan: “Tôi không cho rằng sắp tới Cộng
sản sẽ thắng trận ở Đông Dương”. Ông bỏ
qua các câu hỏi về vấn đề tăng thêm viện
trợ cho Pháp và nói không hay biết ǵ về
việc các yêu cầu đó có được đặt ra hay
không, nhưng ông lại thêm “nếu họ có yêu
cầu viện trợ vật chất và thực sự điều đó
là cần th́ chúng ta sẽ đáp ứng theo khả
năng nhanh chóng nhất của chúng ta”.
Trước khi Ély rời Mỹ, ông
ta đă nói chuyện một cách hoàn toàn
thẳng thắn với các quan chức của chúng
ta ở Lầu Năm góc và Bộ Ngoại giao. Thay
v́ cho mối lạc quan ngoài mặt đêm trước
là một sự nghi hoặc nghiêm trọng. Ít
nhiều Ély đă hở cho biết là Pháp sắp
điều đ́nh một cuộc ngừng bắn dù với
những điều kiện không thuận lợi nhất.
Cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền
(Mỹ) vào cuối tháng 3 đă đưa đến chỗ cho
người ta thấy:
1. Sự can thiệp một chiếu của Mỹ sẽ
không có hiệu quả nếu như không có lục
quân tham gia,
2. Việc sử dụng lục quân Mỹ là điều
không thể chấp nhận được xét trên phương
diện tiếp tế hậu cầu và chính trị,
3. Sự can thiệp để cứu nguy vùng này tốt
hơn hết là nên tiến hành dưới h́nh thức
một hành động tập thể của các quân đội
đồng minh.
Đó là ư nghĩa cuộc thảo luận của Hội
đồng An ninh Quốc gia, ư tổng quát các
báo cáo đặc biệt của tnmg tướng M.B.
Ridgway và Thứ trưởng Ngoại giao W.B.
Smith và của Tổng thống Eisenhower. Theo
đó, trong cuộc thảo luận với tướng Ély,
Dulles đă đi xa hơn vấn đề viện trợ
trước mắt ngay cho quân đội đóng ở Điện
Biên Phủ và vạch ra việc có thể thành
lập một tổ chức pḥng thủ khu vực cho
Đông Nam Á.
Đó chính là lúc mà chính quyền
Eisenhower bắt đầu xem xét lại lập
trường của ḿnh và từ bỏ việc đơn phương
can thiệp. Bất kỳ một sự can thiệp nào
của chúng ta sẽ chỉ là một bộ phận trong
hành động tập thể với các đồng minh châu
Âu và châu Á của chúng ta. Trong bài
diễn văn đọc tại Câu lạc bộ Báo chí nước
ngoài, ngày 29-3, Dulles đă báo động cho
công chúng biết t́nh h́nh nguy ngập của
Đông Dương và kêu gọi “hành động thống
nhất” - nhưng cũng không giải thích thêm
ư ông muốn nói ǵ. Khái niệm không được
xác định đó đă làm cho người Anh và
người Pháp và cả đến người Trung Quốc
phải kinh hoàng - Để làm giảm bớt nguy
cơ gây ra một sự phản ứng quá mức hay
một sự tính toán sai lầm, trong t́nh
trạng lộn xộn đó, Bộ Ngoại giao đưa ra
một lời giải thích mật là “hành động
thống nhất” can thiệp sẽ không nhằm mục
đích lật đổ hoặc tiêu diệt chế độ Bắc
Kinh. Thế rồi trong nội bộ chính quyền,
Bộ ngoại giao đề nghị:
1- Không có can thiệp quân sự Mỹ trong
lúc này, và không hứa hẹn ǵ điều đó với
người Pháp
2- Tiếp tục làm kế hoạch can thiệp bằng
quân sự,
3- Và thảo luận với các đồng minh có
tiềm năng về khả năng thành lập một khối
địa phương trong trường hợp xảy ra một
sự hoà giải không thể chấp nhận được ở
Genève.
Tất nhiên là t́nh h́nh của đồn quân bị
bao vây không cải tiến được. Giáp mở một
cuộc tấn công lớn ngày 30-3 làm cho sân
bay thường xuyên bị khống chế bằng hoả
lực và trở nên vô dụng cho người Pháp.
Ba ngày sau, quân đội Việt Minh tiến vào
chỉ c̣n cách trung tâm Điện Biên Phủ một
dặm trước khi dồn quân địch rút lui để
tập hợp lại.
Ngày 3-4, Tổng thống quyết định Mỹ sẽ
không can thiệp đơn phương. Bất kỳ sự
can thiệp nào của Mỹ cũng phải dựa trên
cơ sở của việc thành lập một lực lượng
liên minh với các đồng minh của Mỹ để
tiến hành “hành động thống nhất”, việc
Pháp công khai tuyên bố nhanh chóng thực
hiện độc lập cho các quốc gia Liên hiệp,
và phải được Quốc hội thông qua (mà điều
này sẽ phụ thuộc vào hai điều kiện ở
trên).
Tuy đă có những phương châm đường lối
chính trị như vậy nhưng Hội đồng An ninh
Quốc gia trong phiên họp ngày 6-4 lại
đưa ra một cách khá kỳ quặc những mục
tiêu trái ngược là Mỹ “nếu cần sẽ can
thiệp để tránh việc mất Đông Dương, và
chủ trương không từ một biện pháp nào để
làm cho người Pháp kết thúc thắng lợi
cuộc chiến tranh của chính họ”, và cũng
ủng hộ, coi như là phương thúc tốt nhất
thay thế cho việc Mỹ can thiệp, một tổ
chức địa phương trong đó người châu Á sẽ
tham gia ở mức tối đa.
Eisenhower đă chấp nhận ư kiến đề bạt
của Hội đồng nhưng dựa vào đó lại xác
định nỗ lực đầu tiên của chính quyền sẽ
hướng vào việc thành lập một tổ chức
pḥng thủ tập thể địa phương chống lại
sự bành trướng của Cộng sản, tranh thủ
sự ủng hộ của Anh đối với các mục tiêu
của Mỹ ở Đông Nam Á và làm áp lực với
Pháp để họ nhanh chóng thực hiện việc
cho Đông Dương độc lập.
Trong khi đó, Tổng thống ra sức t́m kiếm
ở hậu trường Quốc hội một sự ủng hộ cho
việc Mỹ tham gia vào một tổ chức địa
phương, và nếu có thể được th́ đồng thời
cũng bí mật khởi sự vạch kế hoạch động
viên quân đội.
Trong khi Tổng thống đi đến quyết định
ngày 3-4 chống lại việc can thiệp đơn
phương của Mỹ th́ tướng Ély trở về Paris
ngày 27-3, đă báo cáo lại cho Pleven
cuộc đối thoại của ông ở Washington, đặc
biệt là lời đề nghị phi thường của
Radford về việc xúc tiến cuộc hành quân
Chim Ó. Laniel cho triệu tập một cuộc
họp bí mật bất thường của các quan chức
cầm đầu nước Pháp để thảo luận về ư kiến
của Radford. Phản ứng của nhũng người
tham gia dự hội nghị, trong đó có
Pleven, Bidault và các nhà lănh đạo quân
sự, cùng nhiều người khác, rất hỗn độn.
Họ cảm thấy sự can thiệp của Mỹ lúc đó
sẽ gây ra một phản ứng dữ dội của người
Trung Quốc và sẽ mở rộng cuộc chiến
tranh (điều mà Bidault và nhóm diều hâu
không phải là không vừa ḷng) nhưng cũng
sẽ quốc tế hoá cuộc xung đột và làm cho
Pháp mất quyền chủ động (điều mà Lamel
không muốn). Một sĩ quan liên lạc được
phái đến Sài G̣n ngay 1 tháng tới để hỏi
ư kiến Navarre. Trả lời của ông này là
bằng mọi cách, nước Pháp phải chấp nhận
sự giúp đỡ để cứu Điện Biên Phủ và “ổn
định được t́nh h́nh”. Không hay biết ǵ
về quyết định của Eisenhower chống lại
việc can thiệp đơn phương, các quan chức
cầm đầu nước Pháp trong một phiên họp bí
mật khác ngày 4-4, đă đồng ư chấp nhận
đề nghị của Radford. Laniel cho mời đại
sứ Dillon tới gặp và đưa ra một đề nghị
chính thức để Mỹ can thiệp. Dillon thận
trọng nói phải chờ và trả lời của Dulles
cũng tới ngay lập tức nhưng không làm
cho người Pháp phấn khởi: Mỹ không thể
làm ǵ được v́ không có sự chấp thuận
của Quốc hội và không có sự hợp tác của
các nước đồng minh của Mỹ, đặc biệt là
Anh, và không có tuyên chiến th́ tất cả
mọi sự đều không thể thực hiện được. Như
thế là yêu cầu của Pháp đă bị gạt bỏ và
Điện Biên Phủ phải tự thu xếp lấy số
phận của ḿnh.
Khi những cố gắng của Pháp ở Điện Biên
Phủ đă bắt đầu chững lại và vấn đề Mỹ sẽ
làm ǵ đă tới một điểm cấp bách th́
chính quyền Eisenhower đă từ bỏ sự can
thiệp đơn phương.
Bộ Quốc pḥng vẫn tỏ ra miễn cưỡng trước
việc Lục quân nhấn mạnh rằng chỉ riêng
có hoạt động của Không quân, Hải quân
th́ chẳng làm được chuyện ǵ và nhất
định cần phải có quân bộ. Kinh nghiệm
Triều Tiên vẫn c̣n sống động và ư nghĩ
đến một cuộc chiến tranh trên bộ khác ở
châu Á đă làm cho mọi người phải ngập
ngừng. Hơn nữa, Eisenhower không muốn
lao vào một cuộc phiêu lưu mà không có
sự đồng ư của Quốc hội, c̣n thái độ của
Quốc hội lại tuỳ thuộc vào sự tham gia
của các đồng minh. Do đó, Dulles đă ra
sức thuyết phục Anh, Pháp và các đồng
minh châu Á tham dự vào một liên minh
“thống nhất hành động”.
Thái Lan và Philippin đă đáp ứng một
cách thuận lợi đối với lời kêu gọi “hành
động thống nhất”, nhưng Anh th́ tỏ ra
thận trọng và ngập ngừng. Churchill chấp
nhận gợi ư của Eisenhower phái Dulles
tới London để hội đàm. Nhưng người Anh
cảm thấy nguy hiểm trong việc nóng vội
đi đến một liên minh pḥng thủ trước khi
có hội nghị Genève, Eden quyết không để
cho bị “xô đẩy vội vàng vào những quyết
định quân sự ngu dại”.
Dulles bay tới London rồi lại tới Paris
(11-14 tháng 4). Tại London, ông đă bị
cả Churchill và Eden phản đối kịch liệt.
Trong ư nghĩ, Dulles chỉ muốn buộc người
Anh vào một liên minh mà sau này đă phát
triển thành Tổ chức pḥng thủ Đông Nam Á
(SEATO). Ông cho rằng điều đó sẽ răn đe
không cho Trung Quốc can thiệp sâu thêm
nữa vào Đông Dương và nhờ có đoàn kết mà
địa vị các nước phương Tây sẽ được củng
cố thêm. Eden không chịu, ông phản đối
mọi hành động quân sự hay một sự cảnh
cáo nào trước khi có hội nghị Genève.
Ngoài ra, Pháp lại không được mời dự vào
liên minh đó. Eden tin rằng Pháp muốn
đến Genève với một thái độ tự do hành
động hoàn toàn và không bị điều ràng
buộc ǵ có thể hạn chế họ trong việc
thực hiện được hoà b́nh. Dulles nhận
định lập trường của Anh là một thứ nhằm
đi đến thoả hiệp, sợ sự tham gia của Mỹ
sẽ làm tăng thêm nguy cơ Trung Quốc can
thiệp và là một sự mở rộng chiến tranh.
Sau những cuộc hội đàm này, mối quan hệ
giữa Dulles và Eden đă hoàn toàn trở nên
căng thẳng. Dulles tức giận về cách của
Eden bỏ rơi Đông Dương; c̣n Eden, ông
rất bi quan về ư đồ quân sự của Dulles
trong một vùng giá trị không chắc chắn
nhưng Mỹ lại có những kế hoạch mập mờ và
hết sức phiêu lưu. Hơn thế nữa, người
Anh lại nghĩ rằng Đông Dương không thể
bị mất hết hoàn toàn ở hội nghị Genève
v́ thiếu chưa có “hành động thống nhất”.
Họ đă bị người Mỹ làm cho bối rối về câu
chuyện “mất” Đông Dương; ở Bộ Ngoại giao
Anh, người ta cho rằng Pháp không thể
thua trận trong thời gian từ nay (tháng
4-1954) cho đến khi bắt đầu mùa mưa dù
cho họ đánh nhau có kém đi chăng nữa.
Dulles cũng chẳng thu được ǵ tốt hơn ở
Paris. Người Pháp đang t́m kiếm một hành
động nhanh chóng để tránh cho Điện Biên
Phủ bị thất trận đến nơi. Nhưng Dulles
lại không muốn cho ḿnh bị lôi kéo xa
rời khỏi phương thức liên minh tập thể
để giải quyết cuộc chiến tranh. Pháp
cũng sợ rằng một tổ chức liên minh, tất
nhiên là quốc tế, sẽ nắm lấy quyền kiểm
soát cuộc chiến tranh từ tay họ; nên họ
chỉ muốn có một sự giúp đỡ trong khu vực
ở Điện Biên Phủ theo kiểu “Hành quân
Chim ó”. Người Pháp c̣n phản đối v́ cho
không cuộc vận động cho “hành động thống
nhất” sẽ chỉ ngăn trở hoặc làm chậm lại
các cuộc thương lượng hoà giải mà họ
càng ngày càng mong đợi. Mục tiêu của
người Mỹ chúng ta lại nhằm làm cho người
Pháp giữ vững quyết tâm tiếp tục cuộc
chiến đấu.
Thủ tướng Laniel khẳng định với Dulles
là chính phủ của ông sẽ không làm ǵ để
trực tiếp hoặc gián tiếp trao Đông Dương
cho Cộng sản. Nhưng ông c̣n nhắc nhở
Dulles về ḷng mong muốn mănh liệt của
người Pháp để rút khỏi Đông Dương bằng
bất cứ giá nào. Laniel nhấn mạnh sự cần
thiết phải chờ kết quả của hội nghị
Genève và người Pháp không cho thấy
trước cảm giác họ cho Genève sẽ không
thành công.
Cố gắng đến cùng, Dulles ở Paris và
Bedell Smith ở Washington ra sức thuyết
phục Pháp là chỉ có kêu gọi Anh can
thiệp, như họ đă kêu gọi Mỹ, mới có thể
cứu nguy được cho Điện Biên Phủ. Nhưng
người Anh vẫn không lay chuyển.
Churchill đă bác bỏ đề nghị của đại sứ
Pháp René Massighi muốn Anh tuyên bố Anh
sẽ liên kết với Mỹ và Pháp trong việc
phong thủ Điện Biên Phủ. Ngày 15-4,
Dulles đă trở lại Washington chỉ với
những lời hứa của Anh và Pháp “sẽ nghiên
cứu khả năng pḥng thủ tập thể” cho Đông
Nam Á và Tây Thái B́nh Dương, mà chẳng
có ǵ đáng phấn khởi cho một hành động
phối hợp.
Điện Biên Phủ tất nhiên đă đi đến bước
đường cùng vào cuối tháng 4. Giáp đă đào
hầm hào bao vây lấy người Pháp và khoá
chặt mọi đường rút lui. Ngày 21-4, tướng
Christian De Castries, tư lệnh quân Pháp
yêu cầu tăng viện người và vũ khí tiếp
tế “bằng bất cứ giá nào”. Trong khi đó,
đă có thêm 45.000 quân Việt Minh đến bổ
sung cho 4 sư đoàn đang bao vây khoảng
16.5 00 người trong cứ điểm Pháp. Đến
ngày 23, lực lượng của Giáp đă tiến sâu
vào chỉ cách trung tâm Điện Biên Phủ gần
700 thước.
***
Trong khi cuộc đấu tranh vô vọng ở Điện
Biên Phủ tiếp tục th́ ngày 26-4, khởi
đầu phần một hội nghị Genève. Phần này
chỉ hạn chế vào vấn đề Triều Tiên, song
Chu Ân Lai, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc, lại yêu cầu Mỹ và
các cường quốc phương Tây khác không
được tham dự vào các vấn đề của Viễn
Đông. Dulles đưa lư do là quyền của Mỹ
là một điều đă được khẳng định. Nhưng
Chu đáp lại Triều Tiên là một vấn đề của
châu Á và phải do những người châu Á
giải quyết “bằng cách t́m kiếm những
biện pháp chung để bảo đảm hoà b́nh và
an ninh ở châu Á”. Bộ trưởng Ngoại giao
Liên Xô Molotov ủng hộ ư kiến của Chu và
thêm vào “các dân tộc châu Á có toàn
quyền để giải quyết công việc của chính
phủ họ”.
Dulles trở về Washington ngày 4-5 và
ngày 7 công khai tuyên bố theo kế hoạch
đă định trước, ông đă uỷ cho Thứ trưởng
Ngoại giao, tướng W. Bedell Smith đại
diện cho ông ở Hội nghị Genève. Ông chê
trách người Pháp đă không trao trả độc
lập cho các quốc gia Liên hiệp mà theo
ông cách đó sẽ tước bỏ được lư do đ̣i
lănh đạo cuộc đất tranh giành độc lập
của nhũng người Cộng sản. Rồi ông tiên
đoán về sự thất thủ không thể tránh khỏi
của Điện Biên Phủ, nhưng lại trấn an
“việc mất Điện Biên Phủ sẽ củng cố, chứ
không làm suy yếu đi, mục tiêu của chúng
ta là đoàn kết lại với nhau”. Ông đưa ra
một câu hỏi hùng hồn: “Chúng ta sẽ làm
ǵ chung quanh cuộc xung đột ở Việt
Nam?”. Ông cảnh báo về nguy cơ “Cộng sản
nắm chính quyền và sẽ cố xâm lược mới
thêm”. Ông nói “Nếu việc đó xảy ra, yêu
cầu cấp bách hơn hết là phải tạo điều
kiện để tiến hành hành động thống nhất
để pḥng thủ khu vực”. C̣n về vấn đề
trực tiếp can thiệp và tuyên chiến,
Dulles nhấn mạnh là Eisenhower sẽ không
có hành động ǵ mà không có sự chấp
thuận của Quốc hội.
Ở Điện Biên Phủ, tiếng
súng cuối cùng im lặng vào khoảng 2 giờ
sáng, giờ dịa phương, ngày 8-5-1954. Và
đến 4 giờ chiều hôm đó, giai đoạn hai
Hội nghị Genève được triệu tập để thảo
luận vấn đề Đông Dương. Đó là một cuộc
gặp gỡ giữa nhiều thế lực chính trị và
kinh tế khác nhau, có Pháp và Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà thủ vai tṛ chính nhưng
đồng thời cũng có những mối quan hệ
khách và chủ đối với các cường quốc.
Cuộc hội nghị mở đầu một cách gay cấn
trong một bầu không khí ảm đạm, không
chắc chắn và đầy nghi ngờ. Khối Cộng sản
nắm toàn bộ các chủ bài.
Tất cả những người tham dự hội nghị đều
mang theo những động cơ riêng của ḿnh,
không có ai tỏ ra vị tha v́ người khác:
Pháp đă mất hết ư chí chiến đấu và mong
muốn có một cuộc hoà giải nhanh chóng;
Mỹ đă thất bại trong việc cố buộc Pháp
vào hoạt dộng quân sự thống nhất nhằm
đấu tranh chống lại sự bành trướng của
Cộng sản ở Đông Nam Á nhưng vẫn theo
đuổi nục đích ngăn chặn Cộng sản; Anh
mong thiết lập lại hoà b́nh và làm giảm
căng thẳng quốc tế đang tác động tai hại
đến quyền lợi Anh trong vùng; Trung Cộng
lại muốn nắm lấy thời cơ để đối phó với
Mỹ trên một thế b́nh đẳng trong các vấn
đề quốc tế; c̣n Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà th́ mong muốn và hy vọng được công
nhận như là một thực thể có chủ quyền để
được đối xử một cách tương xứng với các
giá họ đáng phải được.
Trong số các bên tham dự hội nghị, chỉ
có Mỹ là nước ít bị rắc rối nhất về
phương diện lư tưởng. Từ lâu, chúng ta
đă lên tiếng về mối quan tâm của chúng
ta đối với qui chế tương lai của Đông
Dương, mà chúng ta quan niệm như là một
quốc gia độc lập dưới những h́nh thức và
mức độ khác nhau. Với thời gian, khái
niệm tự quyết đối với Đông Dương đă trở
nên lẫn lộn và nhất thời đă thoái hoá
thành một câu chuyện chỉ ở đầu lưỡi mặc
dù vẫn c̣n dược coi là một cao vọng lư
tưởng.
Chính sách của chúng ta tại Genève được
xác định dựa trên những nhận thức giả
tạo. Khi chúng ta cho rằng chúng ta phải
giúp cho người Đông Dương chống lại Cộng
sản để giành lấy tự do và độc lập th́
những lời tuyên bố chính thức của Mỹ và
thực tế lại không chứng minh được điều
đó. Trước hết là Acheson rồi sau đến
Dulles chỉ một mực nói về việc “ngăn
chặn Cộng sản”, chứ không nói ǵ đến tự
do khỏi ách thống trị của người Pháp,
điều mà Việt Minh đang chiến đấu điên
cuồng. Rồi trong các nhà hoạch định
chính sách của chúng ta c̣n có nhận định
sai trái cho rằng chính phủ Bảo Đại tham
nhũng và mất hết uy tín, vẫn được sự ủng
hộ mạnh mẽ trong nhân dân. Chúng ta đă
không chịu chấp nhận một sự thật là nó
đă có một quá tŕnh lịch sử nặng tính
chất cơ hội chủ nghĩa và hai mặt, và nó
đă được người Pháp dựng lên ở bên ngoài
để thủ tiêu các nguyện vọng tự quyết của
người Đông Dương và bảo vệ quyền lợi
thực dân Pháp.
Các tài liệu chính thúc ghi nhận sự tham
gia của chúng ta vào Đông Dương hoàn
toàn không có chứng cứ ǵ là chính phủ
Mỹ đă xúc tiến một sự cố gắng nào để
điều tra về thực chất của Hồ Chí Minh và
phong trào giành độc lập của ông ta. Nó
đă được bác bỏ một cách chiếu lệ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ v́ coi như là
“thiên Cộng sản” và quyết tâm bắt tay
với thực dân Pháp để xúc tiến một cuộc
chiến tranh ác liệt chống lại Việt Nam.
Chưa một lúc nào Mỹ có ư định t́m hiểu
và tranh thủ t́nh hữu nghị của nhân dân
Việt Nam, mà trái lại vẫn tiếp tục kiên
tŕ cung cấp mọi thứ cần thiết cho chính
phủ Pháp ở Đông Dương nhằm tiêu diệt
những cố gắng đă có cội rễ sâu rộng để
hoàn thành độc lập dân tộc.
Sau chót, chính sách của chúng ta đă
được xác định dựa trên cơ sở một nhận
thúc hoàn toàn không có căn cú - cho là
Pháp ủng hộ mục tiêu chống Cộng của Mỹ,
địa vị quân sự Pháp vững vàng và ngày
càng được cải thiện. Về vấn đề này chúng
ta không thể tự trách ḿnh, nhưng cũng
phải gánh phần trách nhiệm. Rốt cuộc,
trong gần 8 năm, các nhà ngoại giao và
lănh đạo quân sự của chúng ta đă tin
tưởng một cách mù quáng vào tất cả những
cái thất thường và thất vọng của người
Pháp đưa ra để giành lấy sự ủng hộ của
Mỹ cho sự nghiệp thực dân của họ, mà
không bao giờ chúng ta nghi ngờ và chỉ
muốn ra ơn. Các quan chức Mỹ đă không
chịu nh́n một cách lạnh lùng, khắt khe
về vấn đề Đông Dương; lúc nào cũng mang
kính hồng trên mắt. Ngay khi kết cuộc
vào ngày 8-5, Dulles vẫn c̣n không chịu
công nhận phần của chúng ta trong sự sụp
đổ mà chỉ muốn gán điều đó một cách
không chính đáng cho người Pháp. Đúng là
người Pháp cũng rất miễn cưỡng phải thú
nhận đă thất bại trước người Mỹ, nhưng
chúng ta cũng chẳng phải quá u mê trước
một sự thật đă hiển nhiên. Cái hố ngăn
cách rộng lớn giữa sự việc người Pháp
chuyển dần đến việc điều đ́nh ngừng bắn
và sự đ̣i hỏi của đất nước chúng ta muốn
tiếp tục cuộc chiến tranh cho đến một
“kết thúc thắng lợi” mà không có sự tham
gia của Mỹ, đă càng sâu sắc thêm trước
khi bắt đầu các cuộc bàn luận.
Khi hội nghị khai mạc, bên cạnh những
sai khác biệt nhau về động cơ, và chính
sách sai lầm của Mỹ, giữa các nước đồng
minh c̣n tồn tại nhiều mâu thuẫn sâu sắc
khác. Một trong những mâu thuẫn đó là
với người Anh. Người Pháp đă khai thác
một cách khá thông minh chương tŕnh
viện trợ của Mỹ mà không cần phải kéo
toàn bộ lực lượng Mỹ tham gia nhưng cũng
bất lực trong việc cứu nguy cho Điện
Biên Phủ. Người Anh lại bị Mỹ cho là trở
ngại chủ yếu đầu tiên cho một “hành động
thống nhất” và đă bị lên án là để cho
những quyền lợi ích kỷ của bản thân Anh
trong các vùng khác của Đông Nam Á che
mắt nên đă không đánh giá hết tầm quan
trọng chiến lược lớn lao đối với thế
giới tự do trong việc “cứu thoát” Đông
Dương.
Ngược lại, sự đoàn kết của khối Cộng sản
về cuối Hội nghị thể hiện không những
chỉ ở sự thống nhất Trung - Xô trong
việc mong muốn điều đ́nh mà c̣n ở chỗ họ
hoàn toàn có sự nhất trí với trong cả ba
phía. Sau khi Stalin chết, chính sách
của Liên Xô dưới thời Malenkov đă dịu đi
rất nhiều. Không c̣n nghi ngờ ǵ là các
vấn đề ưu tiên trong nước đă tác động
đến chế độ mới phải công bố mong muốn có
một sự giảm căng thẳng trong t́nh h́nh
quốc tế. Bắc Kinh tham gia một cách sâu
hơn vào sự nghiệp của Việt Minh, đă xúc
tiến viện trợ cho quân đội của Giáp từ
tháng 2 đến tháng 4-1954, nhưng cũng
đồng t́nh với Mátxcơva về việc mong muốn
triệu tập một cuộc hội nghị quốc tế, mà
Trung Quốc sẽ tham gia để kết thúc cuộc
chiến tranh. Những tin tức hạn chế có
giá trị cho thấy trong ba phía, chỉ
riêng có Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi
việc thương lượng lúc đó c̣n quá sớm và
đă chủ trương, trước khi điều đ́nh, phải
gia tăng mạnh mẽ nỗ lực quân sự. Đề nghị
đối thoại của ông Hồ với Pháp được công
bố rộng răi tháng 11-1953 nhằm tác động
đến t́nh h́nh nội bộ và dư luận chính
giới nước Pháp và làm mất tinh thần quân
đội Việt - Pháp nhiều hơn là thể hiện
thực ḷng muốn đi tới một cuộc hoà giải
thoả đáng. Những lời tuyên bố của Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà phát đi trong các
tháng sau chứng minh điều quan tâm lớn
nhất trước tiên của Việt Nam là thực
hiện được một thắng lợi nhanh chóng ở
đồng bằng sông Hồng và trên các vùng của
Lào hơn là đi vào bàn hội nghị trong khi
mà quân Pháp c̣n đang bị phân tán ra
khắp Đông Dương.
T́nh h́nh trên, nói một cách khái quát,
đă tác động đến Hội nghị Genève. Thế
mạnh và thế yếu có thể là đặc điểm riêng
của lập trường Cộng sản và lập trường
phương Tây. Tuy vậy các nhăn hiệu trên
h́nh như cũng chưa phải là hoàn toàn
thích đáng trong ảnh hưởng qua lại giữa
và trong nội bộ hai bên; điều đó lại
càng cho ta thấy rơ Hội nghị Genève
trong phải là để đưa đến một thắng lợi
của hoà b́nh.
***
Một trong những điều kiện thoả đáng đầu
tiên ở Hội nghị Genève đă đạt được trong
quá tŕnh cuộc trao đổi giữa Molotov và
Eden ngày 5-5 là khi Bộ trưởng Ngoại
giao Liên Xô tán thành nhận định của
Eden cho đây là một trong những cuộc
điều đ́nh khó khăn nhất mà ông đă gặp.
Thực tế, mới thoáng nh́n người ta thấy
ngay h́nh như có ít nhiều điều ngược đời
khi mà giai đoạn bàn về Đông Dương (8-5
- 21-7) trong điều kiện khó khăn đă
thấy, chỉ trong 12 tuần lễ đă đi đến
được một cuộc hoà giải.
Các vấn đề then chốt đă được hoăn lại
cho đến giờ phút cuối cùng trong khi
cuộc thảo luận kéo dài liên miên về
những việc tương đối ít quan trọng. Sự
tiếp xúc giữa các phái đoàn với nhau lại
bị hạn chế v́ thành kiến tư tưởng, chính
trị đối lập, làm cho một số đoàn viên
phải hoạt động như những người trung
gian hoà giải trong khi vẫn phải đại
diện cho quyền lợi quốc gia ḿnh; và các
quyết định chủ yếu cuối cùng đă đạt được
nhưng ngoài những khuôn khổ đặc biệt mà
những người tham dự hội nghị đă phải mất
một tháng để xây dựng nên.
Chester L. Cooper, một nhân viên trong
phái đoàn Mỹ, tác giả cuốn sách “Cuộc
thập tự chinh thất bại: Mỹ ở Việt Nam”,
đă cho thấy mùi vị của những sự phi lư
chi phối các quan hệ cá nhân các nhà
thương lượng:
“Ư đồ của phái đoàn khá lớn của Mỹ muốn
coi phái đoàn Trung Quốc to lớn hơn như
là không tồn tại - và ngược lại - đă làm
cho t́nh h́nh bốc thêm nhiều hương vị.
Nhiều người Trung Quốc và Mỹ đă quen
biết nhau từ trước trong những vai tṛ
khác… Bản thân tôi cũng đă có lần đứng
một ḿnh trong thang máy đối diện với
một thanh niên Trung Quốc mà tôi đă biết
khi c̣n ở trường trung học… Nhưng chẳng
ai trong chúng tôi lên tiếng, mà chỉ
nh́n nhau bắt đầu mỉm cười rồi cười. Đến
trước pḥng họp chúng tôi càng cười
ngất. Nhưng khi cửa pḥng mở, chúng tôi
vội vàng nghiêm chỉnh lại và từ lúc đó,
tránh không dám nh́n ngó tới nhau nữa”.
Cái chướng ngại quan trọng đầu tiên vấp
phải là sự kèo nài của Cộng sản cho các
lực lượng Kampuchia tự do (Khmer Issark)
và Lào tự do (Pathet Lào), do Việt Minh
lănh đạo, được quyền có ghế ngồi bên
cạnh các chính phủ Vương quốc Kampuchia
và Lào. Phải đến tận ngày 16-6, khi Chu
Ân Lai và phái đoàn của ông, báo cho
Eden biết quân đội Việt Minh sẽ rút lui
khỏi Kampuchia và Lào th́ cuộc tranh
luận về việc này mới chấm dứt.
Những sự bàn luận mất thời giờ về quyền
hạn chính thức của các “lực lượng kháng
chiến” Cộng sản ở Lào và Kampuchia cũng
khá hay ho, nhưng c̣n kém việc phải xác
định qui chế của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Tại Hội nghị Berlin, đă thoả thuận
với nhau rằng việc mời các chính phủ
khác tham gia hội nghị sẽ chỉ do các bên
tham dự hội nghị Berlin, có nghĩa là do
Tứ cường, mà không có Bắc Kinh. Nhưng,
Molotov đă xác nhận ngay từ phiên họp
toàn thể đầu tiên (ngày 8-5), Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đă được Bắc Kinh cũng
như Mátxcơva mời, đó là một hành động đă
bị Pháp và Mỹ đả phá mạnh mẽ. Song cũng
chẳng có mưu toan nào được đưa ra để gạt
bỏ sự tham dự của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Mặc dù có sự chống đối của chính
phủ Bảo Đại đ̣i hỏi phải được coi là
chính phủ duy nhất hợp pháp ở Việt Nam,
nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại được
toàn thể nh́n nhận là một trong những
người chiến đấu chủ yếu mà sự đồng ư
ngừng bắn của họ là không thể thiếu
được, do đó đ̣i hỏi phải có họ tham gia.
Hơn thế nữa, Liên Xô đă báo cho Pháp
biết là sẽ không chấp nhận sự có mặt của
các phái đoàn các quốc gia liên kết nếu
như Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được
chấp nhận dự Hội nghị. Giữa lúc đó, Điện
Biên Phủ thất thủ, tất cả các bên đều
đồng ư là sẽ có 9 đoàn đại biểu (không
phải là quốc gia) thảo luận về vấn đề
Đông Dương.
Cả 9 đoàn ngồi chung quanh một cái bàn
tṛn để trao đổi ư kiến trong suốt ngày
thứ hai, che lấp một thực tế là cuộc
điều đ́nh thực sự không phải ở chỗ đó.
Tất nhiên là có đề nghị, tranh luận, đệ
tŕnh… nhưng việc mặc cả thời sự đă được
dành cho cuộc thảo luận riêng, thường
vắng mặt các bên Đông Dương thân phương
Tây. Tuy vậy, các cuộc đối thoại ở
Genève cũng bị chi phối gắt gao bởi các
âm mưu, của các cường quốc lớn; những
xung đột về chính trị và tư tưởng, đặc
biệt giữa Mỹ và Trung Quốc, đă gay gắt
đến mức là lối ngoại giao phải được xúc
tiến theo một kiểu đi ṿng, do Eden và
Molotov thường xuyên hoạt động như người
trung gian và chuyển tin giữa các đại
biểu các đoàn không muốn cùng ngồi với
nhau. Một điển h́nh trong thái độ của
Mỹ, như Dulles đă nói với các nhà báo
trước khi họp phiên đầu tiên là chỉ có
một cách làm ông có thể gặp Chu Ân Lai
nếu như hai xe của họ đụng nhau.
Việt Minh đă đưa tới một phái đoàn 4
người và 3 trong số dó không xa lạ ǵ
với người Pháp. Họ do Phạm Văn Đồng dẫn
đầu, Đồng là người phát ngôn chính của
Việt Minh trước đây tại Hội nghị
Fontainebleau (tháng 7-1946) và mới được
nâng lên làm Phó Thủ tướng kiêm quyền Bộ
trưởng Ngoại giao. Người khác là Phan
Anh, Bộ trưởng Kinh tế; Tạ Quang Bửu,
Thứ trưởng Quốc pḥng; và Hoàng Văn
Hoan(15), thân Trung Quốc, Đại sứ đầu
tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại
Bắc Kinh. Cả bốn đều là những cái tên
quen thuộc trong những ngày đầu tiên của
chế độ ông Hồ tại Hà Nội.
Phải đến hạ tuần tháng 6, các đại diện
cấp cao của Pháp và Việt Minh mới gặp
nhau mặt đối mặt; các nhà lănh đạo quân
sự Việt Minh họp với đại diện của Lào và
Kampuchia; các người cầm đầu phái đoàn
Pháp và Trung Quốc trao đổi ư kiến với
nhau trong các cuộc gặp gỡ riêng. Cho
đến tháng cuối cùng của hội nghị, những
người Cộng sản và chống Cộng Việt Nam
vẫn từ chối không chịu nói chuyện với
nhau. Điều quan trọng hơn cả là phái
đoàn Mỹ theo chỉ thị nghiêm ngặt, phải
tránh các cuộc tiếp xúc với người Trung
Quốc nên chỉ dùng được những thông tin
hạng nh́ do các đại diện Anh, Pháp và
Liên Xô cung cấp; đối với Việt Minh, Mỹ
cũng phải chịu theo một thể thức như
vậy.
Vấn đề tiếp xúc cũng là
một vấn đề làm cho đoàn đại biểu Quốc
gia Việt Nam cảm thấy nhức nhối. Mặc dù
cuối cùng họ cũng đă được Pháp trao trả
hoàn toàn độc lập (4-6-1954), nhưng Việt
Nam cũng vẫn không có quyền thương lượng
về số phận của chính ḿnh. Người Pháp
rất sợ các cuộc nói chuyện riêng và tế
nhị của họ với Việt Minh bị phá vỡ; họ
tránh gặp đại diện của Bảo Đại, t́m cách
lợi dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Mỹ và
Việt Nam để chỉ báo cho phía Bảo Đại
biết sau khi đă đạt được những sự thoả
thuận với Việt Minh. Kiểu đối xử cách
biệt này của Pháp đối với đoàn Bảo Đại
kéo dài đến tận tháng 7. Mặc dù là vấn
đề phân chia ranh giới ở Việt Nam đă
được đưa ra thảo luận trong các cuộc gặp
riêng của người Pháp, Việt Minh, Trung
Quốc, Liên Xô và Mỹ, chỉ đến cuối hội
nghị, “Chính phủ” Bảo Đại mới được báo
cho biết về khả năng lớn sẽ có vấn đề
phân chia trong cuộc hoà giải, về vấn đề
này cũng như nhiều chuyện khác, người
Việt Nam không được biết ǵ cả, và đó
cũng là một điều có thể làm cho sự chống
đối của họ cứng rắn thêm và tách họ khỏi
các điều khoản kết thúc cuối cùng. Như
thế có phải chứng thực sự là “độc lập”?
Đến giữa ngày 18 và 21 tháng 7, những
người tham dự hội nghị đă gạt bỏ được
các xung đột đến mức có thể đưa ra những
điều thoả thuận được gọi chung là “Hiệp
định” Genève. Nó bao gồm các Hiệp định
quân sự riêng cho Việt Nam, Kampuchia,
và Lào để bổ sung cho nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của hội nghị là văn hồi
hoà b́nh ở Đông Dương và một Bản tuyên
bố cuối cùng nhằm thiết lập các điều
kiện để giải quyết tương lai chính trị
của toàn Đông Dương. Chỉ riêng có các
Hiệp định quân sự được kư kết(16). Bản
tuyên bố cuối cùng là những lời phát
biểu của những người tham gia hội nghị
không có đại diện nước nào kư vào đó mà
chỉ được chấp thuận thông qua biểu
quyết. Như các nhà văn Pháp La Couture
và Devillers đă nói rất đúng: “Hội nghị
Genève đă t́m ra được một h́nh thức mới
cho chung sống hoà b́nh - đó là kết quả
của sự đồng ư ngầm giữa các bên muốn
thương lượng và cũng là một h́nh thức
cam kết chính thức mới giữa các quốc gia
- một hiệp định không có kư kết”(17).
Đại cương, các Hiệp định quân sự quyết
định vấn để chấm dứt các cuộc xung đột
(một cuộc ngừng bắn) lúc đó đang tiến
triển; việc chia cắt Việt Nam dọc theo
đường giới tuyến gần vĩ tuyến 17, có một
vùng đệm phi quân sự rộng 5 cây số mỗi
bên. Việc tập kết quân đội giải phóng
Việt Nam và các lực lượng Việt Minh về
miền Bắc, và quân đội Liên hiệp Pháp về
miền Nam đường giới tuyến; việc cấm tăng
cường quân đội, tiếp tế vũ khí và dụng
cụ chiến tranh vào các vùng hai bên
đường giới quyến; việc cấm không xây
dựng căn cứ mới ở Việt Nam, Lào và cấm
thiết lập các căn cứ quân sự của nước
ngoài ở Việt Nam, Lào, Kampuchia; và
việc thiết lập một Uỷ ban Kiểm soát Quốc
tế để theo dơi và đốc thúc thi hành các
điều khoản và quyết định của Hiệp định.
Sự “thoả hiệp” chính trị trong Bản tuyên
bố cuối cùng không có kư kết chỉ đặt
nhiệm vụ với 7 trong 9 nước có liên quan
(Anh, Pháp, Kampuchia, Lào, Liên Xô,
Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà). Nước Mỹ và Quốc gia Việt Nam
(chính phủ Bảo Đại) chỉ đơn giản “ghi
nhận” Bản Tuyên bố. Thay mặt cho Mỹ,
Bedell Smith tuyên bố là chúng ta sẽ
“không kiềm chế trước sự đe doạ hoặc
việc sử dụng bạo lực để phá rối” các
Hiệp định. Đối với các vấn đề “tuyển cử
tự do ở Việt Nam”, nhận xét của Smith
chỉ giới hạn trong việc nói lên ư nghĩa
“Bản Tuyên ngôn Potomac” của Eisenllower
và Churchill cùng đưa ra ngày 29-6. Điều
đó cũng đă được nói tới trong Bản Tuyên
bố cuối cùng như sau:
“Trong trường hợp các nước hiện nay đang
c̣n bị chia cắt ngược lại với ư muốn của
họ, chúng tôi sẽ tiếp tục t́m cách thực
hiện sự thống nhất qua tuyển cử tự do,
dưới sự kiểm soát của Liên hợp quốc để
đảm bảo các cuộc tuyển cử đó được tiến
hành một cách xác đáng”.
Vấn đề chủ chốt trong Bản Tuyên bố cuối
cùng là ở chỗ tiến hành cuộc tổng tuyển
cử vào tháng 7-1956; việc rút lui quân
đội Pháp theo yêu cầu của các chính phủ
Việt Nam, Lào và Kampuchia; cấm đàn áp
trả thù; bảo vệ nhân quyền và tài sản;
tự do lựa chọn vùng ḿnh muốn cư trú; và
tôn trọng độc lập của ba quốc gia và giữ
không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau.
***
Cuộc hoà giải không vững chắc ở Genève
đă chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương
nhưng không loại bỏ được điều ám ảnh của
Pháp là phải bám giữ lấy “ḥn ngọc Viễn
Đông”. Thất bại quân sự nhục nhă trước
Việt Minh và “đám nông dân Anamít đói
khổ” là một điều vượt quá sự chịu đựng
của ḷng tự hào dân tộc Pháp. Việc mất
Bắc Kỳ, đặc biệt là vùng đồng bằng, là
cả một sự thất vọng và chán nản sâu sắc
của thực dân ở Việt Nam và những người
cánh hữu bảo thủ chính quốc Pháp. Bắc Kỳ
tượng trưng cho một thế kỷ nỗ lực tốn
kém của Pháp để cải hoá và phát triển
văn hoá kinh tế đất nước này theo phương
Tây. Chính đây là nơi nhà Ngân hàng Đông
Dương có cơ sở để bảo vệ các quyền lợi
tài chính của Pháp ở phương Đông, nơi mà
các khoa trưởng Đại học Hà Nội gieo rắc
nền văn hoá và tư tưởng chính trị Pháp,
và Thiên chúa giáo nảy nở lan tràn trong
quần chúng nông thôn. Bỏ Bắc Kỳ theo
hiệp định Genève là một sự mất mát không
thể sửa lại được. Nước Pháp bị suy yếu
đi.
Pháp c̣n phải chịu đựng một sự nhục nhă
lớn hơn nữa khi phải chấp nhận rút lui
khỏi Đông Dương v́ Mỹ, theo sự khẩn
khoản của Mỹ, mà không có được một biện
pháp gỡ sĩ diện bằng cuộc tổng tuyển cử
để xúc tiến một cuộc rút lui thứ hai,
triệt để hơn. Việc Mỹ thay thế người
Pháp ở miền Nam Việt Nam và sự thất bại
của thoả hiệp Genève được tiên đoán từ
giữa 1956, đă bác bỏ những hy vọng của
cánh tả Pháp muốn cộng tác với ông Hồ
theo một kinh nghiệm trước về chung
sống, và cũng làm cho những người ôn hoà
chán nản v́ họ đă hy vọng bảo tồn được
nền văn hoá và cứu văn được tư bản Pháp.
Điều đó cũng làm các người cánh hữu điên
đầu cho chính sách Mỹ ở Việt Nam là khả
ố. Không một ai trong các giới này, sẵn
sàng bênh vực cho Pháp ở lại mà tất cả
đều chỉ cố gắng tranh thủ được sự ủng hộ
chính trị cho ḿnh bằng cách có thái độ
gay gắt đối với Mỹ.
Trong phạm vi quốc tế, kinh nghiệm bệnh
tật của việc Pháp rút lui đă làm cho
quan hệ liên minh phương Tây, đă chẳng
vững vàng ǵ trong quá tŕnh Hội nghị
Genève, nay trở nên hết sức căng thẳng.
Việc Mỹ tách ḿnh ra khỏi Bản Tuyên bố
cuối cùng và Dulles lao một cách thiếu
suy nghĩ vào việc thành lập Tổ chức Hiệp
ước Đông Nam Á (SEATO) - gây ra một sự
chia rẽ trong khối Liên hiệp Anh, đă làm
cho cả Pháp và Anh xúc động và nghi ngờ.
Điều tồi tệ nhất làm cho họ lo ngại và
chỉ được nói đến một cách dè dặt vào
1944-1946, nay đă thành hiển nhiên: Mỹ
đang xâm chiếm Đông Nam Á.
Tuy các điều khoản trong hiệp định là
dứt khoát, nhưng tất cả trừ một trong số
các bên tham dự hội nghị đều dự đoán là
Pháp sẽ tiếp tục có mặt ở Việt Nam.
Ngoại lệ duy nhất đó là Quốc gia Việt
Nam dưới quyền một Thủ tướng mới, viên
quan lại Công giáo thân Pháp Ngô Đ́nh
Diệm. Mặc dù đă được Bảo Đại cử ra
(15-6-1954) nhưng Diệm muốn Nam Việt Nam
hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc Pháp
mà cũng không phụ thuộc Bảo Đại. Diệm
cho rằng Pháp đă thất bại trong một cuộc
chiến tranh kéo dài, tàn phá và làm mất
tinh thần chống lại những người Cộng sản
cũng như những người Quốc gia Việt Nam,
chế độ thuộc địa đă chấm dứt, những lời
hứa hẹn độc lập trước đây của Pháp đă bị
phá vỡ. Tại sao lại tin tưởng vào những
lời phát biểu về thiện chí của Pháp
trong năm 1954? Chúng khác ǵ những điều
mà Pháp đă nói trước đây? Cộng thêm vào
sự ngờ vực đó là mối liên hệ mơ hồ của
Pháp đối với Nam Việt Nam và Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Một số người Nam Việt
Nam nh́n trước thấy Pháp sẽ tích cực
hoạt động để thoả hiệp với Việt Minh và
thực hiện sự thống nhất dưới quyền lănh
đạo của Việt Minh. Nhiều người cảm thấy
sự tiếp tục có mặt của Pháp chỉ làm hại
cho Nam Việt Nam. Diệm đă lập luận như
sau: “Muốn thuyết phục được nhân dân
Việt Nam là chính quyền này độc lập th́
cần thiết về mặt chính trị phải tỏ ra là
chống thực dân và đặc biệt là chống
Pháp”.
Địa vị của Pháp ở Việt Nam gặp rất nhiều
khó khăn. Và hơn cả Diệm, hơn cả sự tổn
thương về tâm lư do những năm tháng của
chế độ thực dân gây ra, Mỹ cũng đă làm
nảy sinh thêm khó khăn cho Pháp. Trước
hết, chính sách Mỹ hướng tới một sự cộng
tác chặt chẽ, cùng tham gia với Pháp,
thực hiện một sự liên đới bảo lănh cho
Diệm được Mỹ hỗ trợ. Chúng ta hết sức
mong muốn tăng cường Việt Nam, và yêu
cầu, đ̣i hỏi sự hợp tác của Pháp, nhưng
chúng ta đă trả giá cho họ rất ít. Chính
sách của chúng ta nhấn mạnh vào việc
phải cải tạo một cách cấp tốc sự suy
nghĩ của Pháp. Nhưng chúng ta không
thông cảm được với Pháp ở điểm này,
không biết được sẽ gây cho Pháp những ǵ
trong chính sách đối nội, đối ngoại, và
cũng chẳng rơ những nhân nhượng của Mỹ
có thể giúp ích ǵ cho Pháp không.
Mỹ đă bắt đầu xem xét lại chính sách đối
với Đông Dương ngay từ khi Hội nghị
Genève kết thúc. Công tác này được xúc
tiến cấp bách với ư nghĩ cho rằng Hội
nghị Genève là một tai hoạ cho thế giới
tự do. Các bản Hiệp định đă mang lại cho
Trung Cộng và Bắc Việt Nam một căn cứ
mới để khai thác trong vùng Đông Nam Á.
Nó đă tăng thêm uy tín của Bắc Kinh làm
cho Washington tổn thất và kinh hoàng.
Nó thu hẹp phạm vi cơ động của thế giới
tự do tại Đông Nam Á. Việc đưa lại vùng
đất đai Việt Nam trên vĩ tuyến 17 cho Hồ
Chí Minh là một sự nhắc nhở đau xót đến
sự thua trận đă mang sẹo của Pháp, sự
thua trận đầu tiên của một cường quốc
châu Âu với người châu Á - mà là những
người Cộng sản châu Á - mà cũng là một
sự thất trận Mỹ phải góp phần gánh chịu
với khoảng hơn 1,5 tỷ dollar về viện trợ
kinh tế và quân sự cung cấp cho người
Pháp và các nước Liên hiệp.
Bước đầu tiên để chống lại tai hoạ này
là việc thành lập khối SEATO. Đó cũng là
“một sáng kiến mới ở Đông Nam Á” để bảo
vệ quyền lợi Mỹ ở Viễn Đông và ổn định
“t́nh trạng hỗn loạn…” để ngăn chặn
những sự mất mát thêm cho Cộng sản qua
việc lật đổ hoặc trắng trợn xâm lược -
Hiệp ước SEATO (kư ngày 8-9-1954) đă thể
hiện cũng chẳng phải là một sáng kiến
hay là một cái khiên chống Cộng mạnh mẽ
như Dulles mong muốn - khuyết điểm phần
lớn là do Mỹ tạo ra. Khi Dulles muốn
cảnh cáo cho Cộng sản biết là xâm lược
sẽ bị chống đối th́ Hội đồng tham mưu
liên quân vẫn giữ lập trường chống lại
và từ chối không chấp nhận việc Mỹ cam
kết tham gia về mặt tài chính, quân sự
và kinh tế vào một hoạt động đơn phương
ở Viễn Đông.
Và trong những trường hợp khác, để đối
phó với “t́nh h́nh cấp bách về quân sự”,
Mỹ đă thay đổi thiện chí, chuyển từ vai
tṛ cùng hội sang vai tṛ lănh đạo chủ
chốt ở Việt Nam. Trong thời gian hội
nghị Genève đang họp, đề án về Cộng đồng
pḥng thủ châu Âu (EDC) cũng được đưa ra
nghiên cứu để xét ở Brussels nhưng cuối
cùng đă bị Pháp bác bỏ ngày 30-8-1954;
đó là một điều thất vọng lớn cho Mỹ. Một
số người có ư cho rằng sở dĩ Pháp có
thái độ bỏ rơi có thể là v́ để đền đáp
lại sự ủng hộ của Molotov - đối với
Mendès France ở Genève. Đến khi SEATO
trở thành hiện thực, Dulles trong cái
hăng hái “chặn đứng bành trướng Cộng
sản” đă đẩy SEATO tới thành lập một
tuyến ngăn chặn ở Đông Nam Á và đi tới
cải tạo Nam Việt Nam thành một pháo đài
chống Cộng chủ yếu.
Muốn thế, nhất thiết phải đảm bảo có
được sự ủng hộ trung thành của chính phủ
Nam Việt Nam. Cách thức của Mỹ là thuyết
phục Pháp đối xử với Nam Việt Nam như
một nước độc lập và có chủ quyền, thúc
đẩy Diệm tổ chức một chính phủ dân chủ,
sau đó, sẽ triệu tập Quốc hội Lập hiến
thảo ra Hiến pháp, truất ngôi Bảo Đại,
lập nền dân chủ; và yêu cầu Pháp và Mỹ
mạnh mẽ ủng hộ Diệm. T́nh h́nh đó, cộng
với một nền độc lập hoàn toàn và sự ủng
hộ và khuyến khích của Pháp - Mỹ để tiến
hành cải cách rộng răi, cuối cùng sẽ dẫn
đến một Nam Việt Nam mạnh và chống Cộng.
Và, ít ra th́ Mỹ cũng đă tưởng như vậy.
Quyết tâm của Mỹ ủng hộ Diệm đă được
thực hiện với sự nhận thức rằng Pháp rất
không phấn khởi trong việc hỗ trợ cho
Diệm. Lúc đó là lúc nước Pháp đang bị
rối rắm về sự chia rẽ chính trị nội bộ,
và gặp khó khăn nghiêm trọng về vấn đề
Algeria (nổ ra chiến tranh công khai với
Pháp tháng 11-1954) nên cũng rất miễn
cưỡng trong việc giúp đỡ cho Quốc gia
Việt Nam. Sự chống đối Diệm trong những
người theo thuyết “chung sống hoà b́nh”
của Mendès France cũng rất mạnh. J.R.
Leygues, Cố vấn Liên hiệp Pháp, được coi
như là một nhân viên trong “nhóm tham
mưu” về Đông Dương của Mendès France, đă
nói với Đại sứ Dillon là những vụ tiếp
xúc của Pháp ở Hà Nội cho Paris thấy Nam
Việt Nam đă suy vi và biện pháp duy nhất
có thể cứu văn được ǵ đó là phải chịu
chơi với Việt Minh và lôi kéo họ khỏi sự
ràng buộc của Cộng sản với hy vọng tạo
ra được một Việt Minh theo kiểu Tito có
thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả
năng tham gia Khối Liên hiệp Pháp. R.
Leygues cho biết Pháp đă tŕ hoăn không
đáp lại những sự mong muốn của Mỹ về
việc ủng hộ chính phủ ở Sài G̣n, chẳng
qua là chỉ nhằm để moi thêm tiền cho đội
quân viễn chinh Pháp và gán cho Mỹ trách
nhiệm về việc có thể để mất Nam Việt
Nam.
Những ư nghĩa này đă làm náo động các
nhà làm chính sách của chúng ta và ngày
23-10-1954, Tổng thống Eisenhower đă gửi
cho Diệm một bức thư, báo Mỹ sẽ cung cấp
việc trợ kinh tế và quân sự trực tiếp
cho ông, chính phủ ông và quân đội của
ông.
Việc chuyển nguồn tài chính hỗ trợ to
lớn của chúng ta từ hệ thống của Pháp
sang cho người Việt Nam đă làm cho Pháp
suy vi và ảm đạm, và làm cho người Pháp
phải lớn tiếng kêu ca về vai tṛ mở rộng
của Mỹ. Nước Pháp đă chẳng chịu chấp
nhận bị loại trừ ra ŕa một cách vui vẻ,
nên qua mùa thu 1954, quan hệ Mỹ Pháp đă
xấu đi thậm tệ. Chúng ta đă bắn rơi Chim
hải âu đang lượn ṿng trên đầu.
Đại sứ Bonnet ở
Washington đă trách Dulles là bức thư
của Tổng thống đă quá nới lỏng cho Diệm
mà không bắt như là điều kiện tiên
quyết, trước hết phải lập được một chính
phủ mạnh và ổn định. Ông nói thêm, bức
thư có thể là một sự vi phạm cuộc đ́nh
chiến và Việt Minh sẽ lợi dụng điều đó.
Đến khi đại sứ Dillon nêu ra vấn đề ở Bộ
Ngoại giao Pháp là Pháp đă chẳng có ǵ
tạo ra là ủng hộ Diệm như cần thiết phải
có, Bộ trưởng các nước Liên hiệp, Guy la
Chambre liền nổi nóng. Ông nói, đây
không phải chỉ là một sự xuyên tạc, mà
là một lời phỉ báng trực tiếp đối với
tướng Ély (lúc dó là Cao uỷ Pháp ở Việt
Nam), Chính phủ ở Paris, và danh dự của
nước Pháp. Ông La Chambre nói, cá nhân
ông tin rằng Diệm đang đưa Nam Việt Nam
tới thảm hoạ nhưng ông vẫn ủng hộ Diệm:
“Chúng tôi muốn chịu thất bại ở Việt Nam
cùng với người Mỹ hơn là thắng ở đó mà
không có họ… Chúng tôi sẽ ủng hộ Diệm,
dù cho biết rằng Diệm đang đi tới thất
bại, và qua đó ǵn giữ sự đoàn kết Pháp
- Mỹ hơn là gây chuyện với ai đó có thể
giữ Việt Nam lại trong thế giới tự do
nếu điều đó có nghĩa là phải phá vỡ mối
đoàn kết Pháp - Mỹ”.
Nhưng một lần nữa, các ư kiến về quân sự
lại được đề cao. Hội đồng Tham mưu Liên
quân Mỹ trước đây phản đối việc chúng ta
đảm nhiệm huấn luyện cho Quân đội Quốc
gia Việt Nam th́ nay lại bằng ḷng gửi
một phái đoàn huấn luyện tới Phái đoàn
viện trợ Quân sự Mỹ (MAAG) ở Sài G̣n và
nhấn mạnh vào điểm phải bảo vệ chống lại
sự can thiệp của Pháp. Khi quân viễn
chinh Pháp (khoảng 150.000 người) c̣n ở
Đông Dương, th́ việc triển khai các
chương tŕnh huấn luyện đ̣i hỏi việc gửi
người đến Việt Nam đều phải theo một thể
thức ngoại giao. Do dó, tướng J. Lauton
Collins đă được lựa chọn và được phong
cấp đại sứ.
Có lẽ theo sự gợi ư của Mendès France,
Coliins tỏ ra dè dặt trước hết về khả
năng của Diệm để ổn định Chính phủ và
ông đă đề xuất (16-12-1954) việc gọi Bảo
Đại từ nước ngoài trở về. Nếu điều đó
không được chấp nhận, ông sẽ đặt vấn đề
Mỹ rút lui khỏi Việt Nam. Pháp cho đó là
một biện pháp kiên quyết và yêu cầu
Collins cùng với Cao uỷ Ély nghiên cứu
vấn đề. Dulles giữ một quan điểm ngược
lại, cho Diệm là nhà lănh đạo duy nhất
thích đáng đă được biết, và nói rơ rằng
Quốc hội chắc sẽ không cấp ngân khoản
cho Việt Nam nếu không có Diệm. Sự đối
đầu Pháp - Mỹ lại sôi lên, nhưng cuối
cùng Collins đă đồng ư với Dulles, Mike
Mansffled, Kennedy, Hồng y Spellman và
các người khác, là không ai có thể thay
Diệm. Và, có thể là để làm yên ḷng
người Pháp, Collins cho biết Mỹ tiếp tục
viện trợ quân sự cho Pháp. Collins đă
thanh minh v́ Việt Nam “có thể bị tràn
ngập bởi một cuộc tấn công của quân thù
trước khi Hiệp ước Manila (SEATO) có thể
hành động”. Và để khuyến khích người
Pháp duy tŕ một quân đội có “hiệu lực”,
Collins đưa ra một khoản viện trợ tài
chính ít nhất là 100 triệu dollar cho
tới tháng 12-1955. Tướng Ély đồng ư.
Trong thời gian đó th́ t́nh h́nh Việt
Nam tỏ ra ủng hộ những người như Hội
đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đă tiếp
tục có nhiều dè dặt đối với tương lai
của Ngô Đ́nh Diệm và Chính phủ của ông.
Diệm đă khéo léo chống đỡ, vượt qua được
các mưu toan đảo chính của các nhà lănh
đạo quân sự và đă thành công trong việc
duy tŕ dược một cuộc hoà b́nh chẳng hay
ho ǵ với các phái vơ trang ở Nam Kỳ.
Nhưng tương lai của ông vẫn c̣n là điều
đáng ngờ nhất. Cùng lúc đó, phái đoàn
Pháp ở Hà Nội cũng cố gắng bảo toàn các
quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Bắc
Việt Nam. Nhưng vang vọng của 1945 lại
nổi lên. Các nhà lănh đạo chính trị Pháp
ở Paris đă nói một cách hùng hồn về một
cuộc hợp tác ngừng bắn với Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đang trở thành kiểu mẫu cho
các mối quan hệ Đông - Tây. Một thông
tin gây băn khoăn lo lắng cho Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ và những ai trong và ngoài
chính quyền cùng quan điểm với ông ta.
Sau hết, đi đôi với sự phát triển của
t́nh h́nh trên, Hoàng đế Bảo Đại, đă
tích cực t́m cách thay Diệm để trả đũa
những chiến dịch chính trị mạt sát của
Diệm chống lại ông ta.
Tất cả những sự căng thẳng này qui tụ
vào hai vấn đề trung tâm trong quan hệ
giữa Mỹ và Pháp. Vấn đề thứ nhất là việc
huấn luyện cho quân đội Việt Nam sẽ do
ai đảm nhận và làm như thế nào. Vấn đề
thứ hai, gay go hơn, là xem Diệm có c̣n
ở lại đứng đầu Chính phủ hay phải thay
thế bằng một lănh tụ Quốc gia khác có
cảm t́nh với Bảo Đại và Pháp hơn. Vấn đề
thứ nhất đă được giải quyết tương đối
nhanh chóng. Tướng Collins đă dạt được
một sự thoả thuận với tướng Ély, qua đó
tuy Paris c̣n có nhiều điều lo ngại,
nhưng Pháp đă đồng ư trao việc huấn
luyện quân đội Việt Nam cho Mỹ và rút
các cán bộ của Pháp về. Ngày 12-2-1955,
Mỹ đảm nhiệm việc huấn luyện quân đội
Việt Nam và Pháp cũng bắt đầu rút bỏ.
Cuộc tranh luận chính trị về Diệm đă
được giải quyết một cách không dễ dàng.
Diệm đă làm cho vấn đề gay cấn thêm bằng
cách tăng cường chỉ trích thô bạo người
Pháp và Bảo Đại. Về phần ḿnh, Mỹ rất
nhạy cảm với những tác động trong nước
Pháp của chủ nghĩa chống Cộng chiến đấu
của Diệm - những tác động thường do cánh
tả Pháp điều khiển - và sự thù hằn dấy
lên do những lời tuyên bố của Mỹ, miêu
tả Mỹ là người bạn duy nhất của chủ
nghĩa Quốc gia Việt Nam. Nhưng Mỹ đă
không tiếp thu những lời cảnh cáo của
Pháp cho Diệm dứt khoát bất lực trong
việc thống nhất những người Quốc gia
Việt Nam. Lời khuyên của Pháp đối với
Mỹ, được Collins ủng hộ, cho rằng v́ thế
cần phải thay Diệm. Suốt mùa đông và
xuân 1955, Collins, Bộ Ngoại giao nói
chung, tỏ ra sẵn sàng xem xét một cách
thuận lợi những gợi ư muốn có một lănh
đạo thay thế được đặt vào chính quyền.
Nhưng đă chẳng có ai có đủ đức tính cần
thiết (chống Pháp, chống Bảo Đại) để
cạnh tranh được với Diệm.
Nhưng ở đây Mỹ và Pháp đă bị lôi cuốn
vào một loạt sự kiện. Tướng Nguyễn Văn
Hinh, người của Pháp, Tham mưu trưởng
quân đội Việt Nam, có nguyện vọng lên
làm Thủ tướng, đă âm mưu lật đổ Diệm,
thân Công giáo. Nhờ vào sự giúp đỡ của
các phe phái chống Thiên Chúa giáo (Cao
Đài, Hoà Hảo, và B́nh Xuyên), Hinh đă
tiến hành nhiều vụ âm mưu chống Diệm,
nhưng không thành. Đến tháng 9, Diệm
khám phá một vụ mới, cho bắt một số
người của Hinh, chuyển viên tướng này
khỏi cơ quan chỉ huy và ra lệnh cho ông
phải ra nước ngoài. Nhưng Hinh đă không
chịu đi và tiếp tục các cuộc vận động
chống lại Chính phủ. Kế hoạch cho một
cuộc đảo chính vào tháng 10-1954 đă bị
huỷ bỏ v́ người ta đă cho Hinh biết rằng
nêu có nổi loạn, lập tức viện trợ Mỹ sẽ
bị cắt đứt. Một cuộc khác dự định làm
vào ngày 26-10 đă bị đại tá E.G.
Lansdale (sau là thiếu tướng), người của
CIA chúng ta, khôn khéo đánh lạc hướng.
Cuối cùng, vào tháng 11-1954, Bảo Đại bị
Mỹ và Pháp ép dùng danh nghĩa của Diệm,
mời Hinh sang Cannes (Pháp) và ngày
19-11, tướng Hinh đă rời Việt Nam đi
Pháp.
Lúc đó các giáo phái hùa nhau trực tiếp
đấu lại quyền lực của Diệm nhưng ông ta
đă đáp lại mạnh mẽ bằng bạo lực. Khó
khăn lắm mới thực hiện được một cuộc
ngừng bắn sau vụ xung đột đầu tiên vào
tháng 3-1955 và giữa t́nh h́nh đang căng
thẳng lên, vào tháng 4, Mỹ, Pháp và Bảo
Đại, tất cả đă phải tích cực t́m cách
thực hiện một sự thay đổi trong Chính
phủ Việt Nam. Ngày 28-4, chống lại lời
khuyên nhủ của Mỹ, Pháp và cả của chính
nội các của ông ta, Diệm lại cho tấn
công các phe phái. Khi B́nh Xuyên chống
cự lại ở Sài G̣n, Diệm đă đưa quân đội
Việt Nam đến đàn áp. Quân đội của Diệm
đă giành thắng lợi và cùng lúc đó, Ngô
Đ́nh Nhu, em của Diệm, đă tập hợp một uỷ
ban gồm các nhân vật Quốc gia quyết định
hạ bệ Bảo Đại và chuyển mọi quyền lực
quân sự và dân sự sang tay Diệm.
Được thắng lợi của Diệm khích lệ, Mỹ
tuyên bố một cách không mập mờ ủng hộ
của ông ta và chống lại Bảo Đại. T́nh
h́nh làm cho Pháp hết sức khó khăn.
Chính phủ Pháp lại tin rằng “Uỷ ban Cách
mạng” của Nhu chịu ảnh hưởng của Việt
Minh và cảm thấy một cách mạnh mẽ cuộc
vận động của chính phủ Việt Nam chống
lại sự có mặt của người Pháp lại tái
diễn trở lại.
Tháng 5-1955, Pháp, Mỹ và Anh họp ở
Paris để thảo luận vấn đề pḥng thủ châu
Âu, nhưng Pháp đă nhanh chóng đưa ra vấn
đề Việt Nam thành vấn đề chính trong
chương tŕnh nghị sự. Pháp cho rằng bằng
cách ủng hộ Diệm, Mỹ đă buộc Pháp phải
rút toàn bộ khỏi Việt Nam. Bộ trưởng
Ngoại giao Pháp, Edgar Faure nhận định
Diệm “không những là bất lực mà c̣n điên
dại,… nhưng Pháp sẽ không c̣n phải chia
sẻ nguy hiểm với Diệm”. Dulles đáp lại,
Mỹ cũng biết rơ những nhược điểm của
Diệm nhưng cho rằng những thành công của
ông vừa qua chứng tỏ ông ta có những đức
tính có thể đền bù lại được. Rồi Dulles
thêm “Việt Nam không đáng giá cho một sự
tranh chấp với Pháp” và nói Mỹ có thể
rút lui c̣n hơn là làm mất đoàn kết với
đồng minh.
Nhưng đă chẳng có quyết đinh ǵ ngay
được. Trong khi nghỉ họp, Dulles đă được
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân
khuyến cáo rằng Diệm sẽ là biện pháp có
hứa hẹn nhất để giành được các mục tiêu
của Mỹ và nếu như việc rút lui quân viễn
chinh Pháp là một biện pháp “cuối cùng
phải làm”, th́ nên tránh một cuộc rút
lui vội vă để “không thể gây ra một t́nh
h́nh ngày càng không ổn định và bấp
bênh” và có thể làm mất Nam Việt Nam cho
Cộng sản. Dulles liền đề nghị với người
Pháp để họ tiếp tục ủng hộ Diệm cho đến
khi bầu xong được Quốc hội. Anh cũng tỏ
ra ủng hộ Diệm và do đó h́nh như đă làm
cho Faure lung lay nên ông đă chấp nhận
đề nghị của Dulles. Cuộc hội nghị tay ba
đă kết thúc trong một bầu không khí
thống nhất, nhưng thực chất bên trong
rất khác nhau: cộng tác Mỹ - Pháp đă hết
thời và từ nay về sau Mỹ sẽ hành động
một cách độc lập với Pháp ở Việt Nam.
Được Mỹ nâng đỡ, Diệm đă chối từ việc
thảo luận với miền Bắc Việt Nam về vấn
đề tổng tuyển cử khi tới thời hạn đă
định vào tháng 7-1955. Lợi dụng được sự
thắng thế về quân sự chống các phe phái,
ông ta đă xúc tiến việc củng cố địa vị
chính trị ở Nam Việt Nam. Vào tháng 10,
Diệm giành được một thắng lợi nổi tiếng
trong cuộc thăm ḍ dân ư; tuy đó chỉ là
một thắng lợi nông cạn v́ người đi bỏ
phiếu chỉ được chọn một trong hai người:
Diệm và Bảo Đại. Thế chính trị của Diệm
càng lớn th́ quan hệ giữa ông ta và Pháp
càng tồi tệ đi. Tháng 12-1955, Diệm đột
nhiên xoá bỏ các thoả hiệp kinh tế và
tài chính đang được thi hành với Pháp và
yêu cầu Pháp phải bác bỏ Hiệp định
Genève và cắt đứt quan hệ với Hà Nội.
Sau đó, Diệm cho rút đại diện của Nam
Việt Nam khỏi Liên hiệp Pháp. Nhưng cũng
phải thấy rằng thế lực chính trị của
Diệm không nhất thiết phản ảnh một khối
quần chúng cử tri rộng răi. Vẫn c̣n
nhiều bất măn trong một số giới và đâu
đâu cũng hờ hững thờ ơ.
Ngày 2-1-1956, tổng tuyển cử ở Pháp đă
dẫn đến một chính phủ của đảng viên Xă
hội Guy Mollet với 1/3 thành viên là
Cộng sản hay tự xưng là trung lập. Đầu
tháng ba, Bộ trưởng Ngoại giao của
Mollet là Pineau, trong bài diễn văn đọc
tại Hội Nhà báo Anh-Mỹ ở Paris đă tuyên
bố nước Pháp sẽ tích cực đi theo một
chính sách đóng vai tṛ bắc cầu giữa
Đông và Tây, và như thế là không có sự
thống nhất về đường lối chính trị giữa
Mỹ, Anh và Pháp nữa. Ông đă đặc biệt chú
ư nêu lên trường hợp chính sách Trung
Đông của Anh và sự ủng hộ của Mỹ đối với
Diệm là trái với quyền lợi Pháp và c̣n
lên án hai cường quốc trên là đă kích
động thế giới Ả Rập làm thiệt hại cho
Pháp ở Bắc Phi. Mấy hôm sau, tại hội
nghị khối SEATO họp tại Karachi, Pineau
tuyên bố kết thúc “thời đại xâm lược”,
và kêu gọi thực hiện một chính sách
“chung sống”.
Tiếp theo là hành động, Pháp thoả thuận
với Diệm (22-3-1956) cho rút lui toàn bộ
quân viễn chinh Pháp và Bộ chỉ huy tối
cao Pháp ở Sài G̣n cũng giải thể ngày
26-4. Đến ngày đă được ấn định cho tổng
tuyển cử, Pháp không c̣n quân đội ở Việt
Nam. Và ngày định cho ciệc thực hiện các
điều khoản chính trị của cuộc hoà giải,
tháng 7-1956, lại trùng hợp với ngày nổ
ra cuộc khủng hoảng Suez.
Như trong bài thơ “Người thuỷ thủ già”
của Coleridge, nước Mỹ đă bị bỏ lại một
ḿnh trên con tàu Việt Nam chao đảo với
Chim hải âu bị thương bay lượn quanh
trên mũi.
***
THÁNG TƯ 1980
Ba
thập kỷ đă trôi qua kể từ khi các sự
kiện Đông Dương khởi động. Trong những
năm tháng đó, thế giới đă được chứng
kiến một thời kỳ buồn thảm nhất trong
lịch sử nước Mỹ. Bị trừng phạt và làm
nhục v́ câu chuyện phiêu lưu sai đường
lạc lối này nên h́nh ảnh Chim hải âu vẫn
c̣n có mặt măi măi trên sân khấu chính
trị của Mỹ - một sân khấu bị bao trùm
bởi sự lạc quan ấu trĩ về sự thống trị
thế giới của chủ nghĩa tư bản mà không
ǵ hơn là sẽ chỉ cô lập nước Mỹ và tồi
tệ hơn nữa sẽ đẩy nhân loại nhanh đến
một Thế chiến mới. Thật khó mà nghĩ được
rằng sau tất cả những ǵ đă xảy ra trước
đây, những kỷ niệm đau buồn của chúng ta
ở Viễn Đông (Trung Quốc) và Đông Nam Á
(Việt Nam, Kampuchia), các nhà lănh đạo
đất nước chúng ta vẫn tiếp tục đáp lại
những vang vọng của quá khứ mà quên mất
những hậu quả không thể tránh khỏi. Và
trong buổi ban đầu của thập kỷ mới này,
chúng ta lại sắp sửa lao vào cuộc đua
giống như trước nhưng c̣n nguy hiểm hơn.
Nhiều sự so sánh thực quá rơ ràng. Cuộc
khủng hoảng ở Iran mà nhiều người cho là
Mỹ đă nhúng tay vào, và việc Liên Xô xâm
nhập vào Afghanistan được coi giống như
một sản phẩm của cuộc nổi dậy của Iran,
làm cho người ta nghĩ tới một sự dập
khuôn lại chiến lược dài hạn của chúng
ta, một chiến lược trong đó đă một lần
nữa mưu toan cung cấp một chiếc dù pḥng
thủ cho một vùng mà ở đó sự tranh giành
địa phương và xung đột tôn giáo là những
trở ngại quan trọng nhất cho bất kỳ ảnh
hưởng của phương Tây nào. Thực ra đó chỉ
là một sự sắp xếp lại “học thuyết
Truman” cũ, cái kế hoạch 1947 nhằm đẩy
lùi làn sóng Cộng sản ở Thổ và Hy Lạp.
Cái được gọi là chủ nghĩa Cater, với
tham vọng lớn hơn nhiều so với các kiểu
cũ, hy vọng đối phó không những đối với
“mối de doạ của chủ nghĩa bành trướng
Xôviết” cổ điển mà c̣n cả với những vấn
đề địa phương phức tạp có liên quan đến
việc các tập đoàn Mỹ kiểm soát các vùng
sản xuất dầu lửa. Giống như trong thời
Truman - Acheson, học thuyết mới cũng
vẫn dựa vào sự cần thiết phải “bảo vệ
quyền lợi Mỹ”. Duy chỉ có lần này, khu
vực đă thay đổi từ Đông Nam sang Tây Nam
châu Á, cũng như các vùng Trung Đông,
vịnh Pecxic, và Nam Á như bây giờ thường
gọi. Cũng giống như các học thuyết cũ
trước đây, vấn đề vẫn là một “thống nhất
hành động” bây giờ được kêu là “hợp tác
địa phương” với những đồng minh bướng
bỉnh, thiết lập các căn cứ quân sự trên
những vùng không ổn định về mặt chính
trị; đưa tới một lực lượng quân sự đầy
đủ về người để bảo vệ các căn cứ đó, và
khả năng có thể xung đột công khai.
Trong khi trước đây Mỹ phải đương đầu
với một vấn đề độc nhất là “ngăn chặn
chủ nghĩa Cộng sản” ở Đông Nam Á, th́
ngày nay các vấn đề ở Tây Nam Á lại
nhiều hơn và khác nhau hơn, rất khó giải
quyết hơn và vô cùng giả dối trong kết
cuộc. Bên cạnh mối đe doạ chiến lược của
Xôviết, các vấn đề như sự bế tắc A Rập -
Israel, cuộc cạnh tranh Ấn Độ -
Pakistan, việc lôi kéo các nước sản xuất
dầu vào khối thân phương Tây chống lại
ảnh hưởng của Xôviết, và nguy cơ tối hậu
của một cuộc đụng độ toàn diện với Liên
Xô, đều là những trở ngại không thể vượt
qua được để giành thắng lợi của chủ
nghĩa Cater mới.
Dưới ánh sáng kinh nghiệm mới đây thật
đă quá rơ là quyền lợi của Mỹ có thể
được phục vụ một cách tốt nhất bằng cách
rút lui khỏi sự lănh đạo thế giới và
điều chỉnh lại vai tṛ của ḿnh trong
công việc quốc tế. Đă lâu Mỹ không c̣n
giữ được ưu thế tuyệt đối về quân sự và
kinh tế nữa. Tây Âu và Nhật cũng không
cần đến sự giúp đỡ của Mỹ nữa và tỏ ra
muốn t́m kiếm một sự độc lập thích nghi
với các nước khối Hiệp ước Vácsava và
Liên Xô. Các quan hệ kinh tế, quân sự cũ
không c̣n gắn bó với các mục tiêu thế
giới của Mỹ nữa. Bằng cách từ bỏ chủ
nghĩa biệt lập, Mỹ có thể sẽ làm tốt hơn
việc tập trung sức lực sử dụng các nguồn
tài nguyên của đất nước phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng trong nước và chỉ giao
dịch buôn bán với các nước khác trên cơ
sở có đi có lại, không nhằm chỉ v́ lợi
ích chiến lược. Sau hết, Mỹ sẽ phấn đấu
để thực hiện được sự cân bằng chủ yếu về
quân sự mà không phải là giành ưu thế
hơn Liên Xô. Đó chính là bài học mà
chúng ta phải rút ra từ lịch sử quá khứ
của chúng ta.
Chú thích
(1)
Một quan chức quan liêu lộng quyền ở Nga
(2) Fourth Point
(3) Bản Hiệp định sơ bộ kư ngày 7-12-1947
(4) Cuộc chiến bẩn thỉu -
tiếng Pháp
(5) Phái đoàn Viện trợ quân sự Mỹ
(6) Trận đấu không mang
lại kết quả
(7) B. Fall, “Con đường không vui”
(8) B. Fall, “Hai Việt Nam”
(9) ư chỉ chỗ yếu nhất -
ND
(10) sau này là Tổng thống Pháp
(11) B. Fall, “Hai Việt Nam”
(12) Shaplen, “Cuộc cách mạng thất bại”
(13) tức Vi Quốc Thanh,
về sau được Trung Quốc phong hàm Thượng
tướng năm 1955
(14) Cuộc hành quân Chim Ó
(15) Đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Trung Quốc (1951-1958). Bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị và các chức vụ khác năm 1978 và đă bỏ trốn sang Bắc Kinh ngày 3-7-1978 trên đường đi Berlin.
(16) Kư tại Genève lúc 4
giờ ngày 20-7-1954, do thiếu tướng Henri
Delteil thay mặt Tổng tư lệnh quân viễn
chinh Pháp tại Đông Dương và Tạ Quang
Bửu, Thứ trưởng Quốc pḥng Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà.
(17) La Couture và Devillers, “Kết thúc
một cuộc chiến tranh: Đông Dương 1954”
Phụ lục 1
Bảng ghi theo niên đại các sự kiện quan trọng
- 1858-1884:
Pháp tấn công Đà Nẵng (1858), Sài
G̣n (1859), sát nhập Nam Kỳ (1867), đánh Hà Nội (1873), và đặt chế độ thuộc
dịa trên toàn cơi Đông Dương, tháng 8-1884.
- 1890
19 tháng 5: Ngày sinh Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh)
- 1911
5 tháng 6: Nguyễn Tất Thành, lấy tên là “Ba” lên tàu từ
Sài G̣n sang Pháp
- 1919
Tháng 1: Nguyễn Tất Thành, với tên là “Nguyễn Ái Quốc”
gửi kiến nghị đến các đại biểu Hội nghị Hoà b́nh Versailles về vấn đề giải
pháp “14 điểm” của tổng thống Wilson.
- 1920
25-30 tháng 12: Tại Đại hội “Tours”, Nguyễn Ái Quốc tán
thành đảng Xă hội Pháp tham gia Quốc tế Cộng sản 3 (Comintem), và từ đó trở
thành đảng viên sáng lập đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản Việt Nam
đầu tiên.
- 1925
Tháng 6: Nguyễn Ái Quốc lập Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội ở Quảng Châu, tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương
- 1927
Tháng 12: Thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng
- 1930
3 tháng 2: Theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản (Comintem
Moskva), Nguyễn Ái Quốc thống nhất ba nhóm Cộng sản riêng biệt thành một
đảng chính thức ở Cửu Long (Hongkong); và trong Đại hội I vào tháng 10, lấy
tên là Đảng Cộng sản Đông Dương.
9-10 tháng 2:
Khởi nghĩa Yên Bái - Các lănh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng trốn sang Trung
Quốc.
Tháng 9: Thành lập Xô viết Nghệ Tĩnh ở Bắc Việt Nam
- 1931
5 tháng 6: Nguyễn Ái Quốc, dưới cái tên Tống Văn Sơ, bị
cảnh sát Anh bắt giữ ở Hongkong
- 1932
Nguyễn Ái Quốc được giải thoát khỏi nhà tù Hongkong và
lên đường đi Maxcơva.
- 1942
14 tháng 6: Pháp thất thủ
20 tháng 7: Đô đốc Jean Decoux được cử làm toàn quyền Đông Dương thay
Georges Catroux
22 tháng 9: Quân đội Nhật chiếm Bắc Đông Dương với sự chấp thuận của Pháp
Tháng 12: Hồ Chí Minh trở lại biên giới Trung Việt và bắt đầu mở một lớp đào
tạo cán bộ
- 1941
8 tháng 2: Ông Hồ về Pắc Bó Việt Nam.
10-19 tháng 5: Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 ở Pắc Bó; Việt Nam Độc lập
Đồng minh (Việt Minh) được thành lập.
14 tháng 8:
Tổng thống Roosevelt và Thủ tướng Churchill gặp nhau, thống nhất về mục tiêu
chiến tranh và đưa ra Hiến chương Bắc Đại Tây Dương.
7 tháng 12: Trân Châu Cảng (Pearl Harbour) bị Nhật tấn công
- 1942
15 tháng 2: Anh đầu hàng ở Singapore
8 tháng 3: Hà Lan đầu hàng ở Java
9 tháng 4: Quân đội Mỹ ở Bataan đầu hàng
28 tháng 8: Hồ Chí Minh vượt biên giới vào Trung Quốc và bị các nhà chức
trách Trung Quốc bắt giữ
15 tháng 5: Quốc tế cộng sản III (Comintem) ở Moskva giải tán.
10 tháng 9: Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê thả khỏi nhà tù và ở lại Trung
Quốc để làm việc với Đồng minh Hội.
- 1944
6 tháng 6: Đồng minh đổ bộ chiếm Normandy (Pháp)
25 tháng 8: Giải phóng Paris
6-8 tháng 9: Tướng Hurley đến Trùng Khánh làm Đại diện cho Tổng thống cạnh
Chính phủ Trung Hoa.
12 tháng 9: Tướng Mordant được bí mật làm Tổng đại diện ở Đông Dương
31 tháng 10: Wedemeyer thay Stilwell làm Tư lệnh quân đội Mỹ ở Trung Quốc.
1-17 tháng 11: Gauss từ chức và tướng Hurley dược cử làm đại sứ Mỹ ở Trung
Hoa
22 tháng 12: Việt Minh tăng cường hoạt động chống Pháp và chống Nhật ở Bắc
Bộ và lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, sau này thành Quân đội
Nhân dân Việt Nam
4-12 tháng 2: Hội nghị Yalta
9 tháng 3: Nhật giải tán Chính phủ Pháp ở Đông Dương, bắt giữ mọi lực lượng
quân sự và chính trị Pháp và tuyên bố Việt Nam “Độc lập”
11 tháng 3: Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập và cộng tác với Nhật
24 tháng 3: Bộ trưởng thuộc địa thay mặt Chính phủ lâm thời Pháp ra “Tuyên
bố về chính sách Pháp đối với Đông Dương”
12 tháng 4: Tổng thống Roosevelt chết, Phó Tổng thống Truman được cử làm
Tổng thống
25 tháng 4: Hội nghị Liên hợp quốc khai mạc ở San Francisco
27 tháng 4: Lần đầu tiên tác giả (Patti) gặp Hồ Chí Minh
9 tháng 5: Ngày chiến thắng (V.E Day)
16 tháng 7: Khai mạc Hội nghị Potsdam - Toán “Deer” (Con Nai) của OSS đến
hành dinh của Hồ Chí Minh ở trong rừng Bắc Kỳ
24 tháng 7: Tổng thống Truman ở Hội nghị Potsdam thông qua quyết định quân
sự phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 16 dể phục vụ kế hoạch tác chiến.
6 tháng 8: Bom nguyên tử đầu tiên thả xuống Hiroshima
8 tháng 8: Liên Xô tuyên chiến với Nhật
9 tháng 8: Quả bom nguyên tử thứ hai thả xuống Nagasaki
13-15 tháng 8: Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ở Tân Trào
15 tháng 8: Nhật nhận đầu hàng vô điều kiện
16-17 tháng 8: Đại hội Quốc dân ở Tân Trào; Hồ được “bầu” làm Chủ tịch Chính
phủ Lâm thời.
19 tháng 8: Hà Nội khởi nghĩa
22 tháng 8: Toán “Mercy” của OSS đổ bộ xuống Hà Nội - Tổng thống Truman và
tướng De Gaulle gặp nhau ở Washington. - Cao uỷ Messmer và Cédile được thả
dù xuống Bắc Kỳ và Nam Kỳ nhưng cả hai đều bị Việt Minh bắt.
23 tháng 8: Trần Văn Giàu thành lập Uỷ ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ (gọi
tắt là Lâm uỷ) ở Sài G̣n.
24 tháng 8: Tưởng Giới Thạch công khai tuyên bố Trung Quốc không có tham
vọng đất đai ở Đông Dương thuộc Pháp.
25 tháng 8: Sài G̣n tổ chức lễ độc lập
26 tháng 8: Giáp đến chào Phái bộ Mỹ ở Hà Nội - Cuộc gặp gỡ đầu tiên ở Hà
Nội giữa tác giả (Patti) và ông Hồ.
27 tháng 8: Sainteny gặp Giáp ở Hà Nội. - Cédile gặp Giàu ở Sài G̣n.
28 tháng 8: Quân đội Trung Quốc vượt qua biên giới vào Đông Dương
29 tháng 8: Bà Tưởng Giới Thạch và Tổng thống Truman gặp nhau ở Washington
30 tháng 8: Công hàm đầu tiên của ông Hồ gửi Truman - Bảo Đại thoái vị
2 tháng 9: Nhật kư đầu hàng trên tàu chiến Mỹ Missouri ở vịnh Tokyo - Ngày
Độc lập ở Hà Nội - Hỗn loạn nổ ra ở Sài G̣n - Những người Mỹ đầu tiên tới
Sài G̣n
3 tháng 9: Đội tiền trạm quân đội Trung Quốc đến Hà Nội
4 tháng 9: Trung tá Dewey (OSS) tới Sài G̣n.
6 tháng 9: Toán quân Đội Anh và Pháp đầu tiên đến Sài G̣n
9 tháng 9: Quân Lư Hán vào Hà Nội - Cải tổ Lâm uỷ Nam Bộ
11 tháng 9: Người Trung Quốc đuổi toán người Pháp (Sainteny) ra khỏi dinh
Toàn quyền ở Hà Nội
12 tháng 9: Các đơn vị đi đầu của sư đoàn thứ 20 Ấn Độ và của trung đoàn 5
RIC Pháp đáp phi cơ xuống Sài G̣n.
13 tháng 9: Tướng Gracey đến Sài G̣n với đại bộ phận quân đội của ông ta.
14 tháng 9: Tướng Lư Hán tới Hà Nội
16 tháng 9: Gặp gỡ đầu tiên giữa Lư Hán và ông Hồ - Mở đầu “Tuần lễ vàng” -
Tướng Gallagher (Mỹ) tới Hà Nội
17 tháng 9: Việt Nam kêu gọi tổng đ́nh công ở Sài G̣n
19 tháng 9: Cédile bỏ cuộc nói chuyện với người Việt Nam ở Sài G̣n - Tướng
Alessandri và Pignon đến Hà Nội
20 tháng 9: Gracey ra lệnh kiểm duyệt báo chí ở Sài G̣n
21 tháng 9: Gracey tuyên bố thiết quân luật vùng Sài G̣n, Chợ Lớn
22-23 tháng 9: Cédile cấp vũ khí cho tù binh Pháp và tiến hành một cuộc đảo
chính ở Sài G̣n - Đại sứ Hurley và Wedemeyer đi Washington để họp ở Bộ Ngoại
giao. - Tướng Gallagher gặp ông Hồ, Alessandri gặp Lư
Hán. - Công giáo hội họp ở Hà Nội
24 tháng 9: Ông Hồ gửi công hàm thứ hai cho Tổng thống Truman
25 tháng 9: Vụ tàn sát ở khu “Cité Hérault” (Sài G̣n)
26 tháng 9: Trung tá Dewey bị giết hại ở Sài G̣n
28 tháng 9: Gracey và Cédile bị gọi về Singapore để gặp Mounbatten và nhận
lệnh phải nối lại cuộc đối thoại với người Việt Nam
30 tháng 9: Tác giả gặp ông Hồ lần cuối cùng
1 tháng 10: OSS kết thúc nhiệm vụ - Gracey mở lại cuộc đối thoại với người
Việt - Tướng Hà Ứng Khâm tới Hà Nội - Mounbatten được lệnh sử dụng quân đội
của Gracey để giúp đỡ người Pháp.
3 tháng 10: Trung đoàn 5RIC (Pháp) đổ bộ vào Sài G̣n.
5 tháng 10: Tướng Leclerc đến Sài G̣n - Thống đốc Long Vân bị Tưởng Giới
Thạch gạt bỏ trong “Sự kiện Côn Minh”
6 tháng 10: Cuộc đối thoại giữa Cédile và Phạm Văn Bạch ở Sài g̣n bị băi bỏ
9 tháng 10: Kư hiệp định về sự vụ dân sự Anh - Pháp ở London, cho Pháp toàn
quyền cai tŕ Nam Đông Dương từ vĩ tuyến 16
10 tháng 10: Việt Minh đánh không cảng Sài G̣n và mở đầu cuộc chiến đấu.
16 tháng 10: Chống cự cuối cùng của Việt Minh trước khi rút lui để đánh du
kích.
11 tháng 11: Ông Hồ giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương và lập ra Hội Nghiên
cứu Marxism Đông Dương.
26 tháng 12: Việt Minh, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội đồng ư thống
nhất trong một Chính phủ Liên hiệp lâm thời dể tiến hành tổng tuyển cử.
- 1946
6 tháng 1: Thực hiện cuộc tổng
tuyển cử đầu tiên - Hồ Chí Minh (Việt Minh) được bầu làm Chủ tịch; Nguyễn
Hải Thần (Đồng minh Hội) phó Chủ tịch; và Nguyễn Tường Tam (Việt Nam Quốc
dân Đảng) được cử làm Bộ trưởng Ngoại giao.
28 tháng 2: Kư hiệp ước Pháp - Hoa ở Trùng Khánh, qui định cho rút tất cả
quân đội Trung Quốc khỏi Việt Nam vào ngày 31 tháng 3 năm 1946, để đổi lấy
việc Pháp từ bỏ mọi đặc quyền ở Trung Quốc.
6 tháng 3: Sainteny kư một bản thoả hiệp với Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh ở
Hà Nội, trong đó Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước độc
lập trong Liên bang Đông Dương của Liên hiệp Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đồng ư không chống lại việc quân đội Pháp trở lại Đông Dương để thay thế
quân Trung Quốc trong việc cho hồi hương quân đội Nhật Bản (trong một thời
gian không quá 10 tháng) và để giúp cho người Việt Nam giữ ǵn trật tự
(trong một thời gian không ngoài 1952)
18 tháng 3: Leclerc vào Hà Nội - Bảo Đại rời Hà Nội đi Hongkong
18 tháng 4 - 11 tháng 5: Hội nghị Đà Lạt (lần thứ nhất)
1 tháng 6: Pháp công bố việc thành lập một nước Nam Kỳ “độc lập” trong Liên
bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.
6 tháng 7 - 10 tháng 9: Hội nghị Fontainebleau.
14 tháng 9: Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Marius Moutet kư
một tạm ước trao cho Pháp nhiều quyền không có giới hạn ở Việt Nam và không
có triển vọng tự do và độc lập cho người Việt Nam
28 tháng 10 - 14 tháng 11: Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp, thông qua
Chính phủ mới, thông qua một bản Hiến pháp, bầu ra một Uỷ ban thường vụ và
hoăn họp
20 tháng 11: Xung đột vũ trang nghiêm trọng giữa người Pháp và Việt Nam ở
Lạng Sơn và Hải Pḥng. Tàu chiến Pháp bắn vào Hải Pḥng
làm 6.000 thường dân chết.
19 tháng 12: Pháp đ̣i tước vũ khí tự vệ Việt Nam và giành lại mọi quyền đảm
bảo an ninh cho người Pháp.
Người Việt Nam bác bỏ yêu sách của Pháp và nổ ra cuộc xung đột qui mô lớn.
Cuộc chiến tranh Đông Dương bắt đầu (1946-1954)
- 1947
Năm đầu cuộc chiến tranh Đông Dương là một thời kỳ đấu
tranh giành quyền lực và lôi kéo Đồng minh. Thất vọng về sự ngoan cố của
Việt Minh đ̣i công nhận hoàn toàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và độc lập hoàn
toàn cho Việt Nam, người Pháp đă lựa chọn chính sách giành thắng lợi quân sự
và loại trừ mọi cuộc điều đ́nh có ư nghĩa với Hồ Chí Minh. Những người Quốc
gia chống Cộng Việt Nam cũng đ̣i hỏi độc lập và ép Pháp phải dùng biện pháp
thay thế ở những người Quốc gia Việt Nam và từ năm 1947 về sau đă đưa ra
“giải pháp Bảo Đại”
Tháng 3: Emile Bollaert thay đô đốc D'Argenlieu làm Cao uỷ.
Tháng 5: Paul Mus, cố vấn chính trị của Bollaelt được Bảo Đại ở Hongkong cho
biết ông đ̣i hỏi chẳng kém ǵ Hồ Chí Minh, ông không cai trị Việt Nam cho
Pháp nhưng nếu dân chúng của ông muốn th́ ông sẵn ḷng xem xét lại vấn đề
này trong những hoàn cảnh thích đáng.
11 tháng 5: Mus gặp gỡ với Hồ Chí Minh nhưng ông Hồ từ chối đầu hàng trước
những yêu cầu của Pháp.
Tháng 7: Với ư đồ muốn gạt bỏ nhăn hiệu Cộng sản cho Chính phủ của ông ta,
Hồ Chí Minh chấn chỉnh lại nội các để có sự tham gia rộng răi của những
người không Cộng sản, cho nghỉ hai trợ tá thân cận là Vơ Nguyên Giáp và Phạm
Văn Đồng và chỉ một Bộ trưởng Quốc dân đảng là Trương Đ́nh Tri - Nội các mới
gồm 3 Cộng sản, 3 Xă hội, 3 độc lập, 2 Dân chủ và một Công giáo.
18 tháng 9: Theo đề nghị của những người Quốc gia ôn hoà chống Cộng, Bảo Đại
ra tuyên bố “đáp ứng” lại yêu cầu của nhân dân Việt Nam muốn ông đứng làm
trung gian hoà giải trong cuộc xung đột nên ông tỏ ư muốn “nói chuyện” với
người Pháp.
Tháng 10: Tướng Valluy cho mở cuộc tiến công đầu tiên của quân viễn chinh
chống lực lượng của Giáp ở Việt Bắc. Cuộc hành quân khổng lồ này là một sự
thất bại to lớn.
7 tháng 12: Hiệp định vịnh Hạ Long thứ nhất. Bảo Đại và Bollaert kư một bản
Hiệp định kết hợp Bảo Đại vào phong trào Quốc gia do Pháp đỡ đầu. Pháp hứa
một cách mơ hồ cho Việt Nam độc lập
29 tháng 12: Cựu đại sứ Mỹ W.C. Bullitt viết bài trong tạp chí Life, chủ
trương chính sách giành thắng lợi trong chiến tranh Đông Dương bằng cách lôi
kéo người Việt Nam rời bỏ Hồ đi theo một phong trào ủng hộ Bảo Đại ở Pháp, ư
kiến của Bullitt được coi như là Mỹ tỏ đồng t́nh với “giải pháp Bảo Đại” đă
được đưa ra lúc đó.
- 1948
Sau khi kư Hiệp định Hạ Long lần thứ nhất, Bảo Đại nghi
ngờ sự trung thực của Pháp nên lại tách ḿnh khỏi Pháp. Ông bỏ sang châu Âu
4 tháng trong khi các nhà ngoại giao Pháp vẫn cố gắng bám
theo.
Tháng 3: Bảo Đại về Hongkong và Pháp lại cố gắng phá vỡ sự bế tắc.
20 tháng 5: Tướng Xuân nhờ vào sự giúp đỡ của Bollart và sự ủng hộ của một
số đi theo Bảo Đại thành lập một Chính phủ Lâm
thời.
27 tháng 5: Xuân đưa chính phủ của ông ra mắt Bảo Đại ở Hongkong, nhưng Bảo
Đại từ chối không chấp nhận v́ Pháp không đảm bảo cho Việt Nam độc lập thống
nhất.
5 tháng 6: Bollaert và Xuân, với sự có mặt của Bảo Đại (để chứng kiến) gặp
nhau lần thứ hai ở Hạ Long. Lại kư một Hiệp định mới, trong đó nước Pháp
“công khai và trịnh trọng” công nhận nền độc lập của Việt Nam - nhưng đặc
biệt giữ lại quyền kiểm soát công tác đối ngoại và quân đội và sẽ chuyển
giao các chức năng khác của Chính phủ trong những cuộc điều đ́nh sau này -
nhưng thực tế Việt Nam chẳng được trao cho quyền hành ǵ.
7 tháng 6: Hồ Chí Minh tố cáo Chính phủ của Xuân là bù nh́n của Pháp.
11 tháng 7: Bảo Đại lại giận dỗi bỏ đi châu Âu và trước đó, ngày 5 tháng 6
báo cho Bollaert biết ông ta không gắn bó với Hiệp định Hạ Long lần thứ hai.
Tháng 10: Léon Pignon thay Bollaert làm Cao uỷ
- 1949
31 tháng 1: Bắc Kinh rơi vào tay
Trung Cộng, làm dấy lên hy vọng của Việt Minh có được một đồng minh hết sức
hữu nghị ở giáp biên giới phía bắc.
8 tháng 3: Hiệp định Elysée được kư kết. Pháp khẳng định một lần nữa qui chế
Việt Nam là một quốc gia liên hiệp trong Liên hiệp Pháp, đồng ư việc thống
nhất Việt Nam và đặt Việt Nam dưới quyền cai trị
của người Việt. Nhưng Pháp vẫn nắm quân đội và công tác
đối ngoại, và chỉ hứa có thể điều đ́nh về các mặt khác của nền tự trị.
13 tháng 6: Bảo Đại về Sài G̣n và nhận chức Quốc trưởng
14 tháng 6: Chính phủ Nam Kỳ đề nghị với Bảo Đại xin giải thể để về nguyên
tắc thống nhất vào quốc gia Việt Nam mới
1 tháng 7: Bảo Đại chính thức tuyên bố thành lập Quốc gia Việt Nam.
Như vậy, lúc đó có hai nước Việt Nam, của Hồ Chí Minh
(Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) và của Bảo Đại.
21 tháng 9 - 1 tháng 10: Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc
ở Bắc B́nh tuyên bố thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Bắc B́nh đổi
thành Bắc Kinh và trở thành Thủ đô của Trung Quốc và Mao Trạch Dông làm Chủ
tịch.
Tháng 11: Quân đội Trung Cộng đến sát biên giới Trung - Việt.
Lư Hán (ở Vân Nam) đầu hàng quân đội Mao ngày 9 tháng
12. 3 vạn quân Quốc dân đảng Trung Quốc rút sang Việt Nam và đề nghị
chiến đấu chống lại “mọi lực lượng Cộng sản” bên cạnh người Pháp, nhưng đă
bị từ chối.
- 1950
18 tháng 1: Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và hai bên kư một Hiệp định thương mại Bắc Kinh về viện
trợ vật chất và quân sự.
30 tháng 1: Liên Xô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
4 tháng 2: Mỹ mở rộng sự công nhận ngoại giao đối với Chính phủ Quốc gia
Việt Nam (Bảo Đại)
16 tháng 2: Pháp đề nghị Mỹ viện trợ quân sự và kinh tế để tiếp tục theo
đuổi cuộc chiến tranh Đông Dương.
21 tháng 2: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra lệnh “tổng động viên”
Tháng 2: Việt Minh lần đầu tiên tấn công qui mô lớn cứ điểm Pháp ở Lào Cai
và đánh bại Pháp.
19 tháng 3: Việt Minh biểu t́nh ở Sài G̣n chống lại sự có mặt của hai tàu
chiến Mỹ ở cảng đến để biểu thị sự ủng hộ Chính phủ Bảo Đại.
1 tháng 5: Tổng thống Truman chuẩn chi 10 triệu dollar viện trợ các đồ quân
dụng cấp tốc cho Đông Dương
8 tháng 5: Mỹ gửi viện trợ kinh tế và quân sự cho Đông Dương nhưng trao cho
Pháp quản lư, không đưa qua “Chính phủ” Bảo Đại.
25 tháng 5: Quân đội Giáp tấn công và chiếm đồn Đông Khê trên đường số 4 (14
dặm nam Cao Bằng)
27 tháng 6: Sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Triều Tiên, Truman ra lệnh nhanh
chóng tăng cường viện trợ quân sự cho Pháp và các nước Liên hiệp ở Đông
Dương. Ông đă cho phép gửi một đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) sang Đông
Dương.
29 tháng 6: Khai mạc hội nghị Pau ở Pháp để giải quyết việc chuyển giao một
số công sở và kiểm soát tài chính cho người Việt. Hội
nghị tiếp tục đến tháng 11.
2 tháng 8: Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (US-MAAG) gồm 35 người đến Sài
G̣n
16 tháng 9 - 2 tháng 11: Việt Minh đánh cho quân Pháp phải rút lui khỏi miền
bắc Bắc Kỳ
7 tháng 12: Tướng De Lattre de Tassigny thay tướng M. Carpentier làm Tổng tư
lệnh quân viễn chinh và thay Léon Pignon làm Cao uỷ
- 1951
13 tháng 1 - 29 tháng 5: Giáp mở ba cuộc tấn công lớn
chống Pháp nhưng không thành công, bị tổn thất 9.000 người và nhiều vũ khí,
trang bị. Ông rút về Việt Bắc tháng 6 để xem xét lại vấn
đề chiến lược và chiến thuật.
11-19 tháng 2: Tại Đại hội thống nhất Việt Minh và Hội Liên hiệp Quốc dân
Việt Nam (lập ra từ tháng 5-1946), thành lập một mặt trận rộng răi gọi là
Liên Việt.
3 tháng 3: Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh giải tán tháng 11-1945
xuất hiện trở lại với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam
Tháng 4: Hoàng Văn Hoan được cử làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
7 tháng 9: Mỹ kư hiệp định hợp tác kinh tế song phương với Việt Nam, Lào,
Campuchia ở Sài G̣n.
Tháng 11: Thượng nghị sĩ John F. Kennedy sau một cuộc viếng thăm ngắn đến
Sài G̣n đă tuyên bố nhân dân Đông Dương rất ít ủng hộ Chính phủ Việt Nam
thân Pháp.
Tháng 4: Jean Letoumeau được cử làm Cao uỷ Pháp thay tướng De Lattre de
Tassigny chết v́ ung thư ngày 11-1-1952 - Nguyễn Lương Bằng được cử làm Đại
sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên ở Liên Xô
Tháng 6: Mỹ cam kết dính líu sâu vào việc ủng hộ cuộc chiến tranh Đông Dương
và đă chịu gánh 1/3 chi phí về cuộc chiến tranh.
Tháng 7: Hiệp định trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc được kư kết
ở Bắc Kinh. Mỹ nâng qui chế Phái bộ ở Sài G̣n lên thành
Đại sứ quán. Đại sứ Donald Heath tŕnh uỷ nhiệm
thư với Bảo Đại. Việt Nam cũng đặt Đại sứ quán ở Washington
Tháng 10: Bảo Đại sau khi mất sự ủng hộ về chính trị, rút lui khỏi chính
trường
Tháng 11: Áp lực của Việt Minh buộc Pháp phải rút lui khỏi vùng Việt Bắc và
Việt Minh đă chiếm lại một khu vực rộng lớn trước kia do Pháp kiểm soát
- 1953
5 tháng 3 Stalin chết
13-30 tháng 4: Giáp mở cuộc tấn công lớn ở Lào, buộc Pháp phải rút lui khỏi
Sầm Nưa (13-4), bao vây Cánh đồng Chum (23-4), chiếm Luang Prabang (30-4) và
thành lập Chính phủ kháng chiến Pathet Lào.
28 tháng 5: Tướng Navarre thay tướng Salan làm Tổng tư lệnh và cho thực hiện
“Kế hoạch Navarre” tai hại.
27 tháng 7: Đ́nh chiến ở Triều Tiên
Tháng 7: Trung Quốc gia tăng viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Minh
4 tháng 8: Tổng thống Eisenhower nhấn mạnh nhu cầu phải ngăn chặn xâm lược
của Cộng sản để “cứu lấy phần c̣n lại của châu Á”
Tháng 9: Ngô Đ́nh Nhu (em Ngô Đ́nh Diệm) thất bại trong âm mưu hạ uy tín của
Bảo Đại, lật đổ Chính phủ Nguyễn Văn Tâm và công khai chống lại người Pháp.
20 tháng 11: Pháp cố thủ ở Điện Biên Phủ trong khi Giáp tiến hành cuộc bao
vây.
29 tháng 11: Hồ Chí Minh đề nghị một lần cuối cùng hoà hoăn với người Pháp
17 tháng 12: Bảo Đại thay Thủ tướng Tâm bằng người chú của ông ta: Hoàng
thân Bửu Lộc.
- 1954
4 tháng 1: Trong một nỗ lực cuối cùng nhằm phá vỡ t́nh
trạng bế tắc về quân sự, tướng Navarre cho thực hiện “kế hoạch” của ông ta
nhằm càn quét quân của Giáp khỏi vùng duyên hải Trung Kỳ - Kế hoạch thất bại
và đầu tháng 3, Navarre cho rút quân về để tăng cường củng cố cứ điểm Điện
Biên Phủ.
25 tháng 1 - 19 tháng 2: Hội nghị Berlin (Mỹ, Pháp, Anh, Liên Xô) họp để
thảo luận giải quyết vấn đề chiến tranh Triều Tiên và cũng đồng ư triệu tập
hội nghị ở Genève để t́m biện pháp giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương.
13 tháng 3 - 7 tháng 5: Việt Minh mở một loạt các cuộc tấn công qui mô lớn
đánh Điện Biên Phủ.
8 tháng 5: Điện Biên Phủ thất thủ
7 tháng 7: Ngô Đ́nh Diệm được Bảo Đại chỉ định làm thủ tướng của Quốc gia
Việt Nam, c̣n Bảo Đại vẫn được công nhận là Quốc vương chính thức hợp hiến.
21 tháng 7: Kư kết Hiệp định Genève, trong đó có điều khoản chia Việt Nam
dọc theo vĩ tuyến 17 thành Bắc và Nam trong khi
chờ đợi tổng tuyển cử thống nhất
9 tháng 10: Toán quân cuối cùng của Pháp rời Hà Nội.
24 tháng 10: Tổng thống Eisenhower đồng ư viện trợ kinh tế trực tiếp cho Nam
Việt Nam.
- 1955
12 tháng 2: Mỹ tiếp quản việc huấn luyện cho quân đội Nam
Việt Nam.
19 tháng 2: Việt Nam, Lào, Campuchia được đặt thuộc phạm
vi của khối SEATO
23 tháng 10: Trưng cầu dân ư ở Nam Việt Nam phế truất Bảo Đại.
26 tháng 10: Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố lập Cộng hoà Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng
hoà) và Diệm trở thành Tổng thống.
12 tháng 12: Lănh sự quán Hoa Kỳ ở Hà Nội đóng cửa
- 1956
20 tháng 7: Không có tổng tuyển cử như Hiệp định Genève
qui định
3 tháng 1: Uỷ ban kiểm soát quốc tế báo cáo cả Bắc và Nam không nơi nào thực
hiện các lời cam kết trong Hiệp định Genève
22 tháng 10: Cơ quan Mỹ ở Sài G̣n bị các phần tử Cộng sản đánh bom
- 1958
Tháng 1: Du kích Cộng sản bắt đầu hoạt động tại Nam Việt
Nam
Tháng 2: Uỷ ban kiểm soát quốc tế chuyển từ Hà Nội vào Sài G̣n
- 1959
Tháng 4 - tháng 7: Những người chống Chính phủ Diệm được
Cộng sản miền Nam hỗ trợ tiến hành chiến dịch phá hoại và khủng bố.
Hai cố vấn quân sự Mỹ ở Biên Hoà bị chết một trận khủng
bố. Đây là lần thứ hai thương vong, lần thứ nhất là Trung tá Dewey bị
giết hại ngày 26-9-1945
- 1960
17 tháng 4: Chính phủ Hồ Chí Minh phản đối với Liên Xô và
Anh về việc mở rộng Phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US-MAAG).
5 tháng 5: Mỹ tuyên bố đến cuối năm sẽ tăng thêm nhân viên US-MAAG từ 327
lên 685 người
Tháng 6 - tháng 10: T́nh trạng khủng bố phát triển mạnh ở Nam Việt Nam
11-13 tháng 11: Một cuộc đảo chính quân sự chống Diệm bị thất bại trong khi
Mỹ thúc giục Diệm phải mở rộng cơ sở chính trị của chính phủ, thực hiện cải
cách triệt để, và phải có hành động tích cực chống lại nạn tham nhũng.
20 tháng 12: Thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và
thường được gọi là Việt Cộng.
- 1961
28 tháng 1: Tổng thống Kennedy chấp thuận kế hoạch chống
bạo loạn tại Nam Việt Nam
29 tháng 1: Đài Hà Nội hoan nghênh việc thành lập Mặt trận Giải phóng Dân
tộc
12 tháng 6: Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng gặp nhau ở Bắc Kinh, lên án Mỹ can
thiệp và xâm lược vào Nam Việt Nam.
12 tháng 8: Tổng thống Mỹ nói sẽ làm hết sức ḿnh để cứu Việt Nam khỏi Cộng
sản.
25 tháng 9: Tổng thống Kennedy tại Đại hội đồng Liên hợp quốc, cảnh cáo về
những mây mù chiến tranh trên bầu trời Việt Nam.
18 tháng 10: Diệm tuyên bố t́nh trạng khẩn cấp ở Nam Việt Nam
14 tháng 12: Tổng thống Kennedy hứa tăng viện cho Nam Việt Nam
1 tháng 12 Lực lượng quân sự Mỹ ở Việt Nam đạt tới 3.200 người.
- 1962
8 tháng 2: Mỹ đặt Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Việt Nam
(MACV)
18 tháng 2: Robert Kennedy đến Sài G̣n tuyên bố quân đội Mỹ sẽ ở lại Việt
Nam cho tới khi nào Việt Cộng bị đánh bại.
24 tháng 2: Đài Bắc Kinh đưa tin “Mỹ đang theo đuổi một cuộc chiến tranh
không tuyên bố ở Nam Việt Nam” và yêu cầu Mỹ rút quân và trang bị khỏi miền
Nam.
17 tháng 3: Hăng thông tấn TASS Liên Xô lên án Mỹ
đang tạo ra “Một nguy cơ nghiêm trọng đe doạ hoà b́nh” và yêu cầu quân đội
Mỹ rút ngay khỏi miền Nam.
Tháng 4: Quân số Mỹ ở Nam Việt Nam lên tới 5.400 người
15 tháng 5: Tổng thống Kennedy đưa quân Mỹ tới Thái Lan
v́ t́nh h́nh Lào trở nên xấu.
20 tháng 8: Sihanouk đ̣i hỏi Tổng thống Kennedy đảm bảo nền trung lập của
Campuchia, nếu Mỹ từ chối ông sẽ yêu cầu Trung Cộng.
31 tháng 12: Lực lượng Mỹ ở miền Nam lên tới 11.300 người.
- 1963
2-3 tháng 1: Hai trăm quân Việt Cộng đă đánh bại một cách
thảm hại 2.000 quân Nam Việt Nam tại Ấp Bắc trong vùng châu thổ sông Mekong,
3 người Mỹ chết, đưa tổng số lên thành 30 kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ hai.
8 tháng 5 - 16 tháng 6: Quân đội Việt Nam Cộng hoà bắn vào quần chúng trong
một buổi lễ Phật giáo ở Huế. Nổ ra biểu t́nh của tín đồ
Phật giáo ở Huế và Huế thiết quân luật (3-6). Sư
Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài G̣n (11-6). Quân Diệm dùng vơ lực đàn
áp các cuộc nổi loạn (16-6)
4 tháng 8: Một nhà sư thứ hai tự thiêu chết
20-21 tháng 8: Cảnh sát Diệm tấn công chùa Xá Lợi và thiết quân luật trong
toàn quốc (miền Nam)
25 tháng 8: Sinh viên biểu t́nh ở Sài G̣n, hàng trăm người bị bắt.
27 tháng 8: Campuchia cắt đứt quan hệ ngoại giao với Nam Việt Nam.
16 tháng 9: Băi bỏ thiết quân luật
Tháng 10: Quân số Mỹ tổng cộng 16.500 người
1 tháang 11: Diệm và Nhu bị giết trong một cuộc đảo chính quân sự. Nhóm lănh
đạo quân sự do tướng Dương Văn Minh cầm đầu biểu thị sự tin cậy ở Mỹ và hứa
tiếp tục cuộc chiến tranh chống Việt Cộng.
7 tháng 11: Mỹ công nhận Chính phủ Lâm thời do cựu phó tổng thống Nguyễn
Ngọc Thơ làm Thủ tướng.
22 tháng 11: Tổng thống Kennedy bị ám sát. Tổng thống kế
nhiệm Johnson đảm bảo Mỹ tiếp tục ủng hộ Nam Việt Nam.
- 1964
30 tháng 1: Pháp đặt quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa. - Tướng Nguyễn Khánh lật đổ nhóm lănh đạo
quân sự.
8 tháng 2: Tướng Khánh cử tướng Dương Văn Minh mới bị truất làm Quốc trưởng
và tự phong là thủ tướng.
2-3 tháng 5: Những người khủng bố đánh ch́m tàu chở máy bay Mỹ Card ở cảng
Sài G̣n và ném bom vào toán Mỹ đến thăm tàu.
20 tháng 6: Tướng Westmoreland nắm quyền chỉ huy MACV
27 tháng 7: Quân số Mỹ đạt mức 21.000
2 tháng 8: Tàu chiến Mỹ Maddox và Turner Joy báo cáo bị pháo thuyền Bắc Việt
Nam tấn công.
7 tháng 8: Theo yêu cầu của Tổng thống Johnson, Quốc hội Mỹ chấp nhận Nghị
quyết về “Vịnh Bắc Bộ” (Nghị quyết Đông Nam Á)
16 tháng 8 - 13 tháng 9: Tướng Khánh gạt tướng Minh khỏi chức Quốc trưởng.
Sinh viên biếu t́nh buộc Hội đồng Cách mạng thành lập bộ
ba độc tài gồm tướng Khánh, Minh, và Trần Thiện Khiêm để lănh đạo đất nước.
21 tháng 12: Rạn nứt nghiêm trọng giữa nhóm lănh đạo quân sự và chính quyền
Mỹ. Khánh tuyên bố quân đội Việt Nam không chiến đấu “để thực hiện chính
sách của bất kỳ nước ngoài nào”
24 tháng 12: Việt Cộng đặt bom khu cư xá sĩ quan Mỹ ở Sài G̣n, giết chết 2
và làm bị thương 52 người Mỹ và 13 người Việt Nam.
- 1965
1 tháng 1 - 7 tháng 2: Du kích Việt Cộng tấn công và mở
nhiều trận đánh làm thiệt hại nặng nề cho quân đội Việt Nam Cộng hoà và các
căn cứ Mỹ ở B́nh Giă và căn cứ không quân ở Pleiku. Tổng
thống Johnson ra lệnh đánh trả đũa vào Bắc Việt Nam.
9 tháng 2: Mỹ và Nam Việt Nam ném bom các căn cứ của Bắc Việt Nam trong khi
Thủ tướng Kossigin (Liên Xô) đang ở Hà Nội và hứa tăng cường viện trợ cho
chính phủ Hồ Chí Minh.
30 tháng 3: Việt Cộng tập kích Đại sứ quán Mỹ ở Sài G̣n, giết 20, làm bị
thương 175.
Tháng 2 - tháng 6: Trong cuộc điều tra của Viện Gallup vào tháng 2, 60% số
người được hỏi muốn giải quyết vấn đề Đông Nam Á qua con đường của Liên hợp
quốc
Tháng 3: Quân số Mỹ đạt
27.000
Giữa tháng 4: Liên Xô và Bắc Việt Nam đề nghị một chương tŕnh 4 điểm để
thương lượng, trong đó có vấn đề rút quân đội nước ngoài và thống nhất hai
miền Nam Bắc bằng tuyển cử tự do. Mỹ đă đáp 1ại bằng cách tăng thêm quân số
thành 46.500 người vào giữa tháng 5.
Sau một loạt các cuộc đấu đá nhau giữa tướng Khánh và
tướng Minh để giánh ưu thế, tướng Nguyễn Văn Thiệu nắm quyền kiểm soát Hội
đồng Quân sự (tháng 2). Đến tháng sáu (12-18), thủ tướng Phan Huy
Quát bị buộc phải từ chức, Tư lệnh không quân Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng,
Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Pháp
(24-6).
8 tháng 7: Henry Cabot Lodge thay tướng Taylor làm đại sứ ở Nam Việt Nam.
15 tháng 7: Đại sứ W.A. Harriman bắt đầu những cuộc đàm thoại không chính
thức về Việt Nam với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Kossigin.
28 tháng 7: Mỹ tiếp tục ném bom Bắc Việt Nam đặc biệt mạnh mẽ chống lại các
căn cứ tên lửa SAM. Mac Namara đưa ra vấn đề tăng cường hoạt động mặt đất
của Mỹ ở Nam Việt Nam.
Tháng 10-11: Các cuộc biểu t́nh chống chiến tranh bắt đầu nổ ra tại các
thành phố Mỹ. Washington tuyên bố quân số Mỹ ở Việt Nam là 148.000 (23-10).
Hai chiến sĩ hoà b́nh tự thiêu trước cửa Lầu Năm Góc và trụ sở Liên hợp quốc
(2 và 9 tháng 11)
3 tháng 12: Mỹ tăng cường ném bom Lào để chặn sự xâm nhập qua đường ṃn Hồ
Chí Minh.
24-25 tháng 12: Mỹ và Việt Cộng thoả thuận ngừng bắn 36 giờ ngày lễ Noel và
Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam.
- 1966
Tháng 1: Hồ Chí Minh tuyên bố Mỹ phải chấp nhận kế hoạch
hoà b́nh của Hà Nội th́ chiến tranh mới chấm dứt. Một
tuần sau, Tổng thống Johnson công bố ư định ném bom trở lại sau thời gian
ngừng 37 ngày.
Tháng 2: Tổng thống Johnson, Thiệu và Kỳ họp tại Honolulu (6-8 tháng 2) và
chủ trương tiếp tục cuộc chiến tranh. Tướng Taylor điều trần trước Uỷ ban
Đối ngoại Thượng nghị viện nói Mỹ có ư định tiến hành chiến tranh hạn chế ở
Việt Nam (17-2). Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy gợi ư
Việt Cộng có thể được mời tham gia vào một chính phủ liên hiệp ở Nam Việt
Nam (19-2).
1-5 tháng 3: Tổng thống Johnson nhắc lại lời kêu gọi hoà b́nh và một lần nữa
đề nghị viện trợ cho Hà Nội. Mac Namara thông báo số
quân nhân Mỹ ở Việt Nam là 215.000 người và yêu cầu ném bom các kho dầu ở
Bắc Việt Nam. Tướng Taylor đề nghị thả ḿn phong toả cảng Hải Pḥng
10 tháng 3 - 6 tháng 4: Chính phủ Nam Việt Nam gặp khủng hoảng chính trị.
Tướng đă bị cách chức Nguyễn Chánh Thi phát động chống chống đối và đấu
tranh ở Huế, Đà Nẵng và Sài G̣n, yêu cầu thành lập Chính phủ dân sự.
Thủ tướng Kỳ cho sử dụng vũ lực đối phó ở Đà Nẵng, tranh
thủ thoả hiệp với những người Phật giáo chống đối và đồng ư tiến hành trưng
cầu dân ư về Hiến pháp mới.
12-20 tháng 4: Mỹ bắt đầu cho B.52 ném bom Bắc Việt Nam. Mac Namara nói số
quân Mỹ là 245.000 người, cộng với 50.000 nhân viên hải quân ngoài khơi
Tháng 5: Tiếp tục rối loạn chính trị ở Nam Việt Nam do Phật giáo và sinh
viên nổi dậy ở Huế và Đà Nẵng chống lại chế độ quân phiệt của Kỳ và việc Mỹ
ủng hộ Chính phủ Kỳ. Thư viện và trung tâm văn hoá thông tin Mỹ (USIS) ở Huế
bị đập phá và đốt cháy (26-5). Lănh sự quán và cơ quan Mỹ ở Huế bị đốt (31-5)
Tháng 6: Mỹ tiếp tục tăng cường quân sự. Tổng thống
Jonhson kêu gọi đàm phán hoà b́nh không điều kiện. Mỹ
leo thang chiến tranh, ném bom ngoại ô Hà Nội và
Hải Pḥng
Tháng 7: Tướng Thiệu yêu cầu tăng cường hoạt động không quân đánh Bắc Việt
Nam và đề nghi xâm lược miền Bắc để giành chiến thắng. - Được báo cáo là Hà
Nội có ư định đưa các tù binh chiến tranh ra xử là tội phạm chiến tranh, nên
Tổng thư kư Liên hợp quốc U Thant đă cấp tốc báo cho hai bên biết phải tuân
thủ Hiệp ước Genève 1949 về đối xử với các tù binh chiến tranh. - Trả lời
điện của Giám đốc hăng CBS, Hồ Chí Minh tuyên bố “Không có vấn đề xử án các
tù binh chiến tranh Mỹ trong lúc này” (23-7)
1 tháng 9: Tổng thống De Gaulle phát biểu khi đến thăm Campuchia, báo cho Mỹ
biết cần phài tiến hành rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam trước khi có thể đi đến
thương lượng hoà giải và đề nghị với Mỹ đưa ra một chương tŕnh rút lui quân
sự để làm tiền đề cho các cuộc thương lượng quốc tế.
5 tháng 9: Tổng thống Jonson đáp lại ông sẽ công bố chương tŕnh của Mỹ khi
mà Cộng sản cũng đưa ra một chương tŕnh tương tự.
Tháng 10: Mac Namara, sau một cuộc viếng thăm Việt Nam, tuyên bố rằng “công
việc b́nh định đă thụt lùi” và việc ném bom đă không “tác động mạnh mẽ đến
tinh thần của Hà Nội”
Tháng 11: Nhà Trắng chấp thuận cho mở rộng danh sách các mục tiêu ném bom.
- Việt Cộng đề nghị ngừng bắn 48 tiếng trong các ngày lễ
Noel, năm mới và Tết (8-12 tháng 2). Nam Việt Nam đồng ư.
Tháng 12: Máy bay ném bom Mỹ bắt đầu các cuộc đánh lớn vào các mục tiêu khu
vực sát Hà Nội. Đồng thời có đối thoại ở Vacsava đữa Đại sứ Mỹ Gronouski và
Bộ trưởng ngoại giao Ba Lan Rapacki với mục đích đặt quan hệ trực tiếp với
các nhà ngoại giao Bắc Việt Nam ở Vacsava. Hội đàm đă
ngừng sau khi Mỹ ném bom thành phố Hà Nội vào tháng 12.
Mỹ muốn tiếp tục nói chuyện nên đă đồng ư không cho ném
bom trong ṿng 10 dặm quanh trung tâm Hà Nội. Harrison Salisburry của
báo New York Times, có mặt ở Hà Nội trong ngày lễ Noel, xác định phi cơ Mỹ
đă ném bom vào khu vực dân thường. - Lực lượng quân Mỹ lên tới 389.000 người
- 1967
1-8 tháng 1: Mặc dù có ư kiến của Mac Namara muốn xuống
thang trong việc Mỹ dính 1íu quân sự vào Việt Nam (tháng 10-11 năm 1966),
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và Đại sứ Lodge nài với Tổng thống
Jonhson chấp thuận đề nghị xin tăng thêm quân của Westmoreland
10 tháng 1: Tống thống Johnson (trong Thông điệp gửi quốc dân) bênh vực cho
sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam và nói ông sẽ tiếp tục cuộc chiến tranh dù
cho phải “trả giá đắt hơn, mất mát nhiều hơn và khổ năo nhiều hơn nữa”.
Các quan chức sứ quán Mỹ bắt đầu một loạt các cuộc gặp
gỡ với đại biện lâm thời Bắc Việt Nam ở Mátxcva.
6 tháng 2: Chủ tịch Kossygin (Liên Xô) đến London để hội đàm với các quan
chức Anh
8-12 tháng 2: Ngừng bắn nhân dịp Tết
14 tháng 2: Kossygin trở về Mátxcơva. - Mỹ tiếp tục hoạt động không quân
chống Bắc Việt Nam.
15 tháng 2: Mac Namara lại lên tiếng không thể thắng trận chỉ bằng cách ném
bom không thôi
27 tháng 2 - 10 tháng 3: Tổng thống Johnson ra lệnh thực hiện những hoạt
động quân sự kiểu mới để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh và cho phép
ném bom các mục tiêu công nghiệp Bắc Việt Nam mà trước đây vẫn phải tránh.
15 tháng 3: Ellsworth Bunker thay Lodge làm đại sứ tại Nam Việt Nam
Tháng 4: Khoảng chừng 10 vạn người biểu t́nh chống chiến tranh ở New York và
San Francisco
Tháng 5: Lần đầu tiên quân đội Mỹ và Nam Việt Nam tiến vào khu phi quân sự,
và Mỹ cho oanh tạc nhà máy điện Hà Nội cách trung tâm thành phố một dặm về
phía bắc.
22 tháng 6: Lực lượng quân Mỹ đạt 463.000. Lực lượng
Cộng sản được phỏng đoán là 294.000, bao gồm 50.000 quân chính quy Bắc Việt
Nam.
12 tháng 7: Tướng Thiệu nói đất nước ông cần có thêm quân đội Mỹ và không
chịu ra lệnh tổng động viên ở Nam Việt Nam v́ sợ tác hại đến nền kinh tế
Tháng 8: Tổng thống Johnson thông báo tăng quân ở Việt Nam lên đỉnh cao là
523.000 (3-8). Tổng thống cũng thông qua việc oanh tạc
các mục tiêu mới (8-8). Trong bản thuyết tŕnh tại Uỷ ban Liên lạc
Đối ngoại Thượng nghị viện, N.B. Kazenbatch, thứ trưởng ngoại giao, nói là
Nghị quyết vịnh Bắc Bộ cho Tổng thống quyền sử dụng quân đội Mỹ mà không cần
phải có tuyên chiến chính thức (17-8). Mac Namara phát biểu tại tiểu ban
Thượng nghị viện là Bắc Việt Nam không thể “bị ném bom tại bàn hội nghị” và
lập luận chống lại việc mở rộng chiến tranh (25-8) nhưng Uỷ ban vẫn đề nghị
với Tổng thống gia tăng hơn nữa cuộc chiến tranh trên không (31-8)
1 tháng 9: Việt Cộng tuyên bố mục tiêu chính trị của họ là lật đổ chế độ Sài
G̣n và thiết lập một “Chính phủ dân chủ đoàn kết quốc gia” gồm các đại diện
của nhiều đảng phái.
3 tháng 9: Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng thống. Trương D́nh Dzu, ứng cử
viên hoà b́nh, bị xếp sát nút thứ hai.
29 tháng 9: Tổng thống Johnson tuyên bố Mỹ sẽ chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam
ngay “nếu điều đó đưa đến được những cuộc thảo luận xây dựng”
31 tháng 10: Các tướng Thiệu và Kỳ nhậm chức Tổng thống và Phó Tổng thông;
Thiệu cử Nguyễn Văn Lộc làm Thủ tướng.
11 tháng 11: Tổng thống Johnson đề nghị gặp các nhà lănh đạo Bắc Việt Nam
trên một tàu của nước trung lập ở biển trung lập. Bắc Việt Nam bác bỏ đề
nghị (14-11)
16 tháng 11: Uỷ ban Đối ngoại Thượng nghị viện thông qua hai nghị quyết về
“Tinh thần Thượng nghị viện”: 1 - Nhắc nhở Tổng thống sau này không được đưa
quân đội Mỹ hoạt động mà không có “thái độ chấp thuận” của Quốc hội theo
đúng qui định của Hiến pháp; 2- Đề nghị Tổng thống đưa vấn đề Việt Nam ra
trước Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
30 tháng 11: Tổng thống Johnson cử Mac Namara làm Chủ tịch Ngân hàng Thế
giới. - Thượng nghị viện nhất trí thông qua quyết định của Thượng nghị sĩ
Mansfield yêu cầu Tổng thống đưa vấn đề Việt Nam ra trước Liên hợp quốc.
27-29 tháng 12: Sihanouk doạ sẽ yêu cầu quân t́nh nguyện từ Trung Quốc và
các nước Cộng sản khác, nếu quân đội Mỹ vượt biên giới vào Kampuchia, trừ
trường hợp Mỹ phải đuổi theo sát các quân đội thù địch đă xâm nhập vào
Kampuchia một cách bất hợp pháp và ở các vùng hẻo lánh. Trung Quốc tỏ sẵn
sàng ủng hộ Kampuchia nếu Mỹ mở rộng chiến tranh vào đất nước này.
- 1968
1-2 tháng 1: Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên
bố Hà Nội “sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề thích đáng” sau khi Mỹ đă
ngừng “không điều kiện” ném bom Bắc Việt Nam. Mỹ lại tiếp tục cho không quân
đánh vào Bắc Việt Nam ngày hôm sau
29-31 tháng 1: Các nước đồng minh băi bỏ cuộc ngừng bắn đă định vào ngày Tết
và Cộng sản đă mở nhiều cuộc tấn công lớn vào các đô thị Nam Việt Nam.
Việt Cộng một lúc đă tràn vào chiếm khu vực Đại sứ quán
Mỹ ở Sài G̣n và Tổng thống Thiệu đă ra lệnh thiết quân luật.
3 tháng 4: Bắc Việt Nam đề nghị gặp gỡ với Mỹ “nhằm quyết định với phía Mỹ
ngừng không điều kiện cáo cuộc oanh tạc và các hoạt động chiến tranh khác để
cuộc thương lượn về hoà b́nh có thể bắt đầu tiến hành được
3-13 tháng 5: Mỹ chấp nhận đề nghị của Hà Nội để gặp nhau ở Paris hội đàm sơ
bộ. Mỹ và phái đoàn Cộng sản họp phiên ở Parỉs (16-5)
8 tháng 8: Nixon, ứng cử viên Tổng thống, đại diện đảng Cộng hoà, tuyên bố
sẽ đưa ra một chương tŕnh phi Mỹ hoá dần cuộc chiến tranh và thực hiện hoà
b́nh trong danh dự.
31 tháng 10: Tổng thống Johnson tuyên bố “Mỹ sẽ ngừng mọi cuộc bắn phá của
hải quân, không quân và pháo binh” chống Bắc Việt kề từ ngày 1-11. Tổng
thống Thiệu nói Mỹ đă hành động một cách đơn phương.
6 tháng 11: R.M. Nixon được bầu làm Tổng thống
- 1969
Tháng 1: H.C. Lodge thay Harriman
làm trưởng đoàn điều đ́nh (5-1) và bắt đầu buổi họp có chất lượng đầu tiên
trong hội đàm ở Paris (25-1)
23 tháng 2: Quân đội Cộng sản mở một cuộc tổng tấn công ở Nam Việt Nam.
6 tháng 3: Bộ Quốc pḥng thông báo quân đội Mỹ có 541.000 người, đỉnh cao
nhất của việc tham gia của Mỹ vào Việt Nam
8 tháng 6 Tổng thống Nixon gặp Thiệu tại đảo Midway và thông báo sẽ rút
25.000 quân Mỹ vào cuối tháng 8.
23 tháng 7: Tại Guam, Tổng thống Nixon chỉ ra rằng trong tương lai, Mỹ sẽ
tránh các trường hợp như ở Việt Nam bằng cách hạn chế sự giúp đỡ của Mỹ vào
viện trợ kinh tế và quân sự hơn là tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu. Đó
là “học thuyết Nixon”
2 tháng 9: Chủ tịch Hồ Chí Minh chết
16 tháng 9: Tổng thống Nixon tuyên bố cuộc rút quân lần hai. 35.000 người
15 tháng 11: Phong trào chống chiến tranh tập hợp một số rất lớn quần chúng
về Washington và các thành phố quan trọng khác, yêu cầu kết thúc cuộc chiến
đấu và rút nhanh quân đội Mỹ về nước.
15 tháng 12: Tổng thống Nixon tuyên bố cuộc giảm quân lần thứ ba 50.000
người vào tháng 4-1970, số quân lúc đó là 479.500.
- 1970
18 tháng 3: Sihanouk bị lật khỏi ghế Quốc trưởng do thống
chế Lonnol làm đảo chính. Tất cả các bến cảng Kampuchia
đều cấm không cho Quân đội Nhân dân Việt Nam và lục lượng Việt Cộng ra vào.
13 tháng 4: Quân đội Mỹ c̣n lại 429.000 người
30 tháng 4: Tổng thống Nixon tuyên bố ông cho quân chiến đấu Mỹ vào
Kampuchia để tiêu diệt các vùng đất thánh của địch.
24 tháng 6: Thượng nghị viện nhắc lại Nghị quyết vịnh Bắc Bộ.
30 tháng 6: Thượng nghị viện thông qua tu chính án Cooper - Church ngăn
không cho Mỹ mở các hoạt động quân sự mới ở Kampuchia và viện trợ cho Lon
Nol mà không được Quốc hội phê chuẩn.
7 tháng 10: Tổng thống Nixon đề nghị kế hoạch ngừng bắn trên khắp Đông Dương.
Tháng 12: Quân số Mỹ c̣n 339.200. Kết thúc năm thứ hai
cuộc hội đàm hoà b́nh Paris mà không đạt tiến bộ ǵ.
- 1971
Tháng 1: Cuộc hội đàm hoà b́nh ở Paris tiếp tục vào ngày
7, 14 và 21 (phiên họp thứ 100)
12 tháng 6: Báo New York Times trích đăng tài liệu mật của Bộ quốc pḥng:
Quan hệ Việt Nam 1945 - 1967 - thường đượv gọi là tài liệu Lầu Năm góc.
1 tháng 7: Trong một phiên họp bí mật ở Paris, Bắc Việt Nam đưa ra cho
Kissinger một đề nghị hoà b́nh, yêu cầu quân Mỹ rút hết trong thời hạn 6
tháng, thả các tù binh chiến tranh và tuyển cử tự do.
3 tháng 10: Tổng thống Thiệu “thắng” trong cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử
viên, không có đối lập cho một nhiệm kỳ 4 năm nữa
Tháng 12: Mỹ tăng cường ném bom miền Bắc Việt Nam nhằm phá các cơ sở xây
dựng dọc đường ṃn Hồ Chí Minh. - Quân Mỹ ở Việt Nam c̣n
160.000.
- 1972
25 tháng 2: Phái đoàn Hà Nội và Mặt trận Giải Phóng bỏ
cuộc hội đàm Paris để phản đối Mỹ tiếp tục ném bom Bắc Việt Nam
23 tháng 3: Mỹ bỏ cuộc hội đàm chính thức ở Paris, tuyên bố v́ Cộng sản từ
chối thương lượng một cách nghiêm chỉnh
Tháng 4: Bắc Việt Nam mở một cuộc tấn công lớn vào miền Nam, vượt qua khu
phi quân sự với xe tăng và pháo binh (2-4). Cộng sản bao
vây quân Nam Việt Nam ở Bắc Sài G̣n (9-4). B.52 Mỹ ném bom lân cận Hà
Nội và Hải Pḥng (15-4), chấm dứt 4 năm xuống thang dùng không quân đánh vào
các mục tiêu quan trọng ở Bắc Việt Nam. - Mỹ tuyên bố muốn họp lại cuộc hội
đàm Paris (25-4)
Tháng 5: Quảng Trị bị Bắc Việt Nam chiếm, đó là tỉnh ở cửc bắc Nam Việt Nam
bị Bắc Việt Nam kiểm soát (1-5). Mỹ và Nam Việt Nam
tuyên bố vĩnh viễn bỏ cuộc hội đàm hoà b́nh chính thức ở Paris. Tổng
thống Nixon ra lệnh đánh ḿn cảng Hải Pḥng và 6 cảng khác ở Bắc Việt Nam và
phong toả mọi đường tiếp Bắc Việt Nam (8-5)
Tháng 6: Kết thúc vai tṛ chiến đấu trên mặt đất của quân Mỹ ở Việt Nam; Mỹ
chỉ c̣n để lại gần 60.000 cố vấn, kỹ thuật viên và các phi công trực thăng
13 tháng 7: Hội đàm hoà b́nh lại tiếp tục ở Paris
11 tháng 8: Mỹ rút đơn vị chiến đấu mặt đất cuối cùng khỏi Việt Nam: 92
người ở tiểu đoàn 3, sư đoàn 21 bộ binh
Tháng 9: Quân đội Nam Việt Nam chiếm lại Quảng Trị (15-9). Hà Nội thả ba tù
binh chiến tranh (19-9)
Tháng 11: Tổng thống Nixon được bầu lại. Hà Nội đồng ư gặp gỡ hội đàm thêm,
Kissinger quay trở lại Paris nhiều lần để gặp Lê Đức Thọ.
Tháng 12: Cuộc hội đàm hoà b́nh tan vỡ (15-12).
Kissinger trở lại Washington. Tổng thống Nixon ra
1ệnh ném bom trở lại, bao gồm việc đánh phá khu vực Hà Nội - Hải Pḥng.
- 1973
Tháng 1: Hội đàm hoà b́nh tiếp tục trở lại (8-1).
Lệnh ngừng mọi hoạt động tấn công Bắc Việt Nam (15-1).
Kư các Hiệp định (27-1) do Bộ trưởng Ngoại giao Rogers, các Bộ trưởng Ngoại
giao Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Cộng.
Cuộc ngừng bắn bắt đầu (28-1)
Tháng 2 - tháng 3: 590 tù binh Mỹ được Bắc Việt Nam thả. Toán quân Mỹ cuối
cùng rời Việt Nam, chính thức kết thúc vai tṛ quân sự trực tiếp của Mỹ
(29-3)
Tháng 7: Graham Martin thay Bunker làm Đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam
- 1974
Tháng 1 - tháng 5: Quân Việt Nam Cộng hoà mở các chiến
dịch tấn công đánh vào các căn cứ của Mặt trận Giải phóng và Quân đội Nhân
dân Việt Nam chung quanh Sài G̣n. Cuộc ngừng bắn tháng
1-1973 tanvỡ nhưng cuộc xung đột không dính ǵ đến quân Mỹ một cách công
khai. Các cuộc chiến đấu xảy ra giữa Bắc và Nam Việt Nam gia tăng ở
vùng cao nguyên và tây Sài G̣n.
3 tháng 6: Mỹ rút các cố vấn Mỹ khỏi Lào, sau khi Chính phủ Liên hiệp Lào
thành lập (5-4)
9 tháng 8: Tổng thống Nixon từ chức
Tháng 12: Chính phủ Hà Nội (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) quyết kết thúc các
cuộc hoạt động quân sự và thống nhất đất nước, cho phép Quân đội Nhân dân
Việt Nam mở một cuộc tổng tiến công chống quân đội Thiệu vào năm 1975.
- 1975
17 Tháng 1: Cộng sản bắt đầu tiến về hướng Sài G̣n và
chiếm tỉnh ly tỉnh Phước B́nh, khoảng 75 dặm Bắc Sài G̣n.
8 tháng 1 - 16 tháng 4: Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến đánh các đô thị chủ
yếu từ Quảng Trị (nam khu phi quân sự) đến Phan Rang (160 dặm đông bắc Sài
G̣n)
16 tháng 4: Lon Nol đầu hàng Khơmer đỏ, kết thúc 5 năm chiến tranh ở
Kampuchia.
20 tháng 4: Thị trấn Xuân Lộc (30 dặm đông bắc Sài G̣n) bị mất vào
tay Quân đội Nhân dân Việt Nam, đó là vị trí ngăn
chặn cuối cùng trên đường tiến vào Sài G̣n. Trực thăng
Mỹ bắt đầu cho di tản công dân Mỹ và Việt Nam khỏi Sài G̣n.
21 tháng 4: Thiệu từ chức, trao Chính phủ cho Trần Văn Hương.
27 tháng 4: Quốc hội Nam Việt Nam bầu tướng Dương Văn Minh (Minh lớn” làm
Tổng thống với nhiệm vụ t́m cách văn hồi hoà b́nh
28 tháng 4: Tổng thống Minh nhận chúc, ra lệnh cho quân đội “ở đâu đóng đó”
và pḥng vệ cho đất đai khỏi bị mất.
30 tháng 4: Tổng thống Minh đầu hàng không điều kiện Cộng sản và Quân đội
Nhân dân Việt Nam. Mặt trận Giải phóng tiến vào chiếm
Sài G̣n. - Nhà chức trách quân sự Mỹ di tản số 1.000 người Mỹ c̣n lại
và bắt đầu cuộc di tản khoảng 130.000 người Việt Nam khỏi Nam Việt Nam.
- 1976
2 tháng 7: Chính thức công bố thống nhất Việt Nam thành
Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam, Thủ đô ở Hà Nội.
20 tháng 12: Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng Sản Việt Nam
Phụ lục 2
Lư lịch tóm tắt các nhân vật chọn lọc
Bản phụ lục này chỉ nhằm giúp cho
người đọc xác định một số nhân vật chủ yếu có liên quan.
Nguồn tài liệu chủ yếu, lấy ở hồ sơ của OSS
và các tài liệu chính thức, cộng với các trích dẫn báo chí, sách
vở dă được coi là có giá trị.
Thiếu tướng Alessandri
(1893-1968)
Làm phó cho tướng Sabattier trong thời gian
quân Pháp rút lui sang Trung Quốc sau cú đảo chính Nhật 9-3-1945
- Tham mưu trưởng của tướng Martin 1940; chỉ huy đội quân Lê
đương thời kỳ Catroux và Decoux, theo Mordant thuộc phe De
Gaulle 1944. Chống Mỹ và chống Trung Quốc - Trở lại Đông Dương
ngày 19-9-1945; được cử làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Campuchia
tháng 10-1945; lănh đạo quân đội Pháp tiến vào Lào để thay thế
người Trung Quốc vào tháng 3-1946. Sau thất
bại của Pháp nhằm đánh quị quân Giáp trên đường số 4, Alessandri
bị huyền chức tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Kỳ và bị gọi về Pháp.
Bảo Đại (1913-1992)
Hoàng đế An Nam (1932-1945 ), Quốc trưởng
Việt Nam (194 9-1955), tên là Hoàng thân Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ,
con vua Khải Định, lên ngôi kế vị từ 1926 nhưng không chính thức
cho đến 1932. Trong Thế chiến thứ hai cộng tác với chế độ Decoux
theo Vichy và Nhật. Bị ép phải thoái vị vào tháng 8-1945, phục
vụ cho Chính phủ thiên Cộng Hồ Chí Minh như là một “công dân
Vĩnh Thuỵ”, giữ chức “Cố vấn chính trị tối cao”.
Sau khi người Pháp chiếm lại Đông Dương, Bảo
Đại trở lại làm Quốc trưởng năm 1949. Bất lực trong việc
dựng lên một Chính phủ có hiệu lực và ổn định và sau khi Pháp
thất bại phải rời khỏi Việt Nam năm 1954, Bảo Đại cử Ngô Đ́nh
Diệm làm Thủ tướng và rời khỏi Việt Nam
Birch John - đại uư (1918-1945)
Cố đạo ḍng Tên, thông thạo nhiều thổ ngữ
Trung Quốc, hành đạo ở Hàng Châu đến 1943 th́ đi theo Đội Không
quân thứ 14 của Chennault, đến giữa 1944 chuyển sang hoạt động
t́nh báo cho OSS. Trong khi hoạt động để giải thoát tù binh Đồng
minh ở vùng Thanh Đảo do Nhật kiểm soát, định vào thành phố
nhưng đă bị một toán tuần tra của Cộng sản bắn chết.
Sau đó tướng Wedenmeyer có phản kháng với
Mao Trạch Đông ở Trùng Khánh, Mao hứa sẽ điều tra và trùng trị
thủ phạm gây ra vụ này. Nhưng cuối
cùng, không có kết quả ǵ.
Mặc dù Birch không có tư tưởng chống Cộng và đă 2 năm công tác
với quân đội Mao để thu thập t́nh báo, trong những năm sau
(1958) người ta đă dùng tên của Birch để gọi một nhóm cực đoan
Chống cộng (công ty John Birch)
Bose Subhas Chandra
(1897-1945)
Nhà Quốc gia Ấn Độ, thân Nhật và chống người
da trắng, ủng hộ Gandhi và theo đảng Quốc Đại từ 1920, lănh đạo
cánh tả của đảng nhưng đă phải từ chức v́ chủ trương bạo lực
chống Anh và trái với chính sách đề kháng thụ động của Gandhi.
V́ có thiện cảm với phe Trục nên bị Anh bắt giữ nhưng đă trốn
sang được năm 1941. Đến Singapore 1943, và lănh đạo Chính phủ
Lâm thời Ấn Độ tự do” và “Quân đội Quốc gia Ấn Độ” do Nhật bảo
trợ. Năm 1945, bị Anh truy lùng như là một tội phạm chiến tranh
và có lẩn trốn ở Hà Nội, nhưng giữa tháng 9, OSS được tin Bose
đă chết ở Đài Loan trong một tai nạn máy bay Măn Châu Lư trên
đường đi Moskva định để yêu cầu sự ủng hộ của Liên Xô đối với
phong trào giải phóng của ông.
Dewey A. Peter - trung tá
(1917-1945)
Sĩ quan chỉ huy “Kế hoạch Embankment” của OSS
đột nhập vào Nam Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử Pháp ở trường
Yale, thạo tiếng Pháp; phóng viên ở Paris của báo Chicago Daily
News (1930-1940); vào quân đội Ba Lan ở Pháp (xuân 1940); sau
khi Pháp thua trận, trốn sang Lisbon và trở về Mỹ, vào làm ở cơ
quan điều chỉnh công tác Liên - Mỹ, vào quân đội Mỹ với cấp
thiếu uư (từ 1942), hoạt động t́nh báo ở châu Phi và Trung Đông.
Được OSS tuyển mộ ở Alger (1943) và phái sang công tác ở hậu
phương Đức tại Pháp. Đầu 1945 quay trở lại
OSS Washington và được phái tới công tác ở hành dinh SEAC tháng
7-1945 với cấp Thiếu tá. Bị du kích
Việt Minh giết ở ngoại ô Sài G̣n 26-9-1945.
Được truy phong Trung tá.
Tướng G. Catroux (1877-1969)
Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp (tháng
8-1939 - tháng 7-1940). Bị Thống chế Pétain gọi về và thay bởi
Đô đốc Decoux, do Đô đốc Darlan che chở, Catroux sang London và
nhập vào Quân đội Pháp tự do của De Gaulle, phục vụ trong hội
đồng tối cao của Chính phủ Lâm thời De Gaulle và làm Đại sứ Pháp
ở Moskva từ 1945 tới 1948
Jean Cédile (1908-)
Là một trong số các nhà cai trị được Bộ
trưởng Pháp hải ngoại chọn đi theo Phái đoàn thuộc địa Pháp của
Raymond đến Calcutta chuẩn bị cho việc chiếm lại Đông Dương.
Được D'Argenlieu cử làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Bộ, được
SLFEO cho thả dù đêm 22-23 tháng 8-1945 xuống vùng Tây Ninh
(khoảng 50 dặm tây bắc Sài G̣n). Bị một toán
tuần tra Nhật bắt và đưa về Sài G̣n và được phép tiếp xúc với
người Pháp khác, trong đó có trùm thực dân nổi tiếng Mario
Bocquet. Không thông thạo t́nh h́nh chính trị lúc đó nên
lúc đầu Cédile theo quan điểm của Bocquet về “mối đe doạ
An-nam-mít” đối với người Pháp - Nhưng sau đó cũng đă nhận thức
được một cách nghiêm túc phong trào độc lập dân tộc - Cédile
tiếp xúc với các nhà lănh tụ Lâm uỷ Nam Bộ và có cố gắng để đi
đến một sự thông cảm với họ nhưng lại bị chỉ thị chính thức của
Bộ thuộc địa qua “Tuyên bố 24-3” chặn lại. Giữa tháng 9-1945 và
tháng 10-1946 khi ông rời Nam Kỳ, Cédile ủng hộ chính sách của
D'Argenlieu -Pignon nhằm làm thất bại mọi nỗ lực Pháp và Việt để
đưa lại cho Nam Kỳ dù chỉ là một sự độc lập tối thiểu ngoài quỹ
đạo của Pháp. Đóng góp quan trọng của Cédile vào quan hệ Pháp -
Việt là cú đảo chính nổi tiếng ngày 22-23 tháng 9-1945 ở Sài G̣n
và việc ông kư Hiệp định phi pháp ngày 3-6-1946 đặt ra “Cộng hoà
tự trị Nam Kỳ” với bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thân Pháp làm Thủ
tướng.
Trương Phát Khuê - Thống chế
(1896 -)
Tư lệnh quân đội Quốc dân đảng (Trung Quốc)
Đệ tứ Chiến khu (gồm miền tây tỉnh quê ông ở Quảng Đông và toàn
bộ tỉnh Quảng Tây) - Quan hệ đầu tiên của ông với Đảng Cộng sản
Trung Quốc ở Quảng Châu (1924-1927) là một sự hợp tác ngắn ngủi
với một người Cộng sản Việt Nam trong bộ tham mưu của tướng
Vasili Blyukher (gọi là “tướng Galin”) thuộc phái đoàn Borodin
của Liên Xô ở Trung Quốc. Người Việt Nam này hoạt động như là
“một người phiên dịch” cho phái đoàn với tên là Lư Thuỵ, đồng
thời tham gia vào các hoạt động cách mạng ở Đông Dương và thực
tế chính là Hồ Chí Minh. Hai người lại gặp
nhau trong một hoàn cảnh khác vào 1942-1944. Giữa những
năm 1920 trong cuộc hợp tác Quốc - Cộng đầu tiên ở Trung Quốc,
Trương Phát Khuê đă cùng hoạt động với nhiều nhà lănh đạo quân
sự nổi tiếng của Đảng Cộng sản Trung Quốc (Diệp Kiếm Anh, Lâm
Bưu, Diệp Lương, Hạ Long v.v…). Tuy được coi là người cánh tả
trung tâm về mặt chính trị nhưng Trương chưa bao giờ đi theo
Trung Cộng và đến năm 1949 th́ rút lui về ở Hongkong, vẫn ủng hộ
Quốc dân đảng nhưng tách khỏi chính phủ Đài Loan từ 1968. Trương
có viếng thăm Mỹ vào mùa thu 1960 sau
khi họp Hội nghị tái vũ trang tinh thần ở châu Âu. Trong cuộc
nói chuyện ở nhiều nơi trên đất Mỹ, Trương chủ trương người
Trung Quốc phải tiếp tục chiến đấu chống lại Đảng Cộng sản Tnmg
Quốc và khôi phục lại Cộng hoà Trung Hoa.
Phó Đô đốc Jean Decoux
(1884-1963)
Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp (tháng
7-1940 - tháng 3-1945). Tổng Tư lệnh Hạm đội Viễn Đông Pháp
1939, được Đô đốc Darlan đỡ đầu, theo
Vichy, làm Toàn quyền thay Catroux. Một
người độc đoán kiêu kỳ, có quan điểm hữu mạnh mẽ và tính khí
giống như De Gaulle. Decoux không
thân thiện được với De Gaulle sau khi ông trở về Pháp tháng
10-1945. Bị kết án cộng tác
với Chính phủ Vichy nhưng đă được xoá án vào 1949. Nguồn: F.
Buttinger.
Trương Bội Công (1900-1945)
Một người Quốc gia Việt Nam trốn sang Trung
Quốc trong phong trào khởi nghĩa Yên Bái 1930 và tham gia chi
nhánh Việt Nam Quốc dân đảng ở Nam Kinh, được sự che chở của một
người Quốc dân đảng Việt Nam khác là Hồ Học Lăm lúc đó là sĩ
quan trong quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc. Công được nhận vào
học khoá II Học viện Quân sự Bảo Định, Trung Quốc và sau đó được
phong cấp sĩ quan phục vụ trong quân đội Quốc dân đảng với chức
vụ chỉ huy trung đoàn và sĩ quan tham mưu cao cấp Học viện quân
sự Nam Ninh và được Trương Phát Khuê chú ư. Năm 1941, Trương
Phát Khuê giao cho Lăm và Công đứng ra tổ chức và huấn luyện một
số lớn những người di cư Việt Nam lúc đó trốn sang Trung Quốc.
Trương chỉ định Công chỉ huy khoá huấn luyện đặc biệt Việt Nam ở
Tŕnh Tây nhằm thu nạp và đào tạo
những người di cư để phục vụ cho các cuộc hành quân vào Việt Nam
sau này. Hồ Chí Minh lúc đó ở Trung Quốc, cử Vơ Nguyên Giáp và
một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đến làm việc với Công
để tổ chức các nhóm Quốc gia khác nhau vào một mặt trận thống
nhất gọi là Việt Nam Giải phóng Dân tộc Đồng minh, tiền thân của
Đồng minh Hội vào 1942.
Mặc dù theo chủ nghĩa Quốc gia, Công thân Trung Quốc và chống
Cộng. Ông cộng tác với Hồ Chí Minh trong việc đối phó với Việt
Nam Quốc dân đảng nhưng chưa bao giờ chấp nhận sự lănh đạo của
Việt Minh.
De Gaulle, Charless A.J.M
(1890-1970)
Tướng và chính khách đứng đầu Chính phủ Lâm
thời Cộng hoà Pháp (1945), Tổng thống đầu tiên của nền Đệ ngũ
Cộng hoà Pháp (1959-1969). Một sĩ quan
chuyên nghiệp Quân đội Pháp dă công khai phê phán chiến lược và
chiến thuật lỗi thời của Bộ Tổng Tham mưu Pháp, chủ trương hiện
đại hoá và cơ giới hoá quân đội Pháp.
Khi chiến tranh với Đức bùng nổ, đại tá De Gaulle chỉ huy sư
đoàn 4 thiết giáp, được thăng thiếu tướng.
Tháng 6-1940 làm Thứ trưởng Quốc pḥng trong
Nội các Paul Reynaud. Chống đối kịch liệt cuộc đ́nh chiến
Pháp - Đức, De Gaulle trốn sang London (tháng 6-1940) để tiếp
tục cuộc kháng chiến. Nhờ Anh giúp đỡ, De Gaulle tổ chức ra Quân
đội Pháp tự do. Dưới áp lực của Anh, Mỹ ông phải cộng tác với
tướng Giraud trong Uỷ ban Giải phóng Quốc gia Pháp ở Alger cho
tới tháng 6-1944 rồi gạt Giraud khỏi ghế đồng chủ tịch Uỷ ban và
chuyển Uỷ ban thành Chính phủ Lâm thời Pháp do ông lănh đạo.
Ngày 26-8-1944, ông trở về Paris và dược bầu
làm Tổng thống lâm thời tháng 11-1945.
Bị chống đối mạnh mẽ về chính trị, ông buộc
phải rút lui tháng 1-1946. Đến cuộc
khủng hoảng 1958 (nổi loạn ở Algerie) ông trở lại làm Thủ tướng.
Theo Hiến pháp mới, ông làm Tổng thống đầu tiên của Đệ
ngũ Cộng hoà Pháp tháng 1-1959, sau
ông lại xin từ chức và rút lui hoàn toàn khỏi đời sống chính trị
vào năm 1969.
Donovan, William Joseph (“Wild
Bill) Trung tướng (1883-1958)
Giám đốc Nha công tác Chiến lược (OSS) trong
Thế chiến thứ hai. Luật gia, chính trị gia,
quân nhân, nhà ngoại giao. Sinh ở
Buffalo, New York. Donovan đỗ Tiến sĩ luật 1907 tại
trường đại học Columbia, tham gia hoạt động chính trị và quân
đội ở New York. Năm 1905 được cử vào Uỷ ban Ba
Lan cứu trợ nạn nhân chiến tranh ở Ba
Lan và vùng Bancan. Năm 1917 sang Pháp, chỉ huy tiểu đoàn thuộc
Trung đoàn 69 cận vệ Quốc gia New York và ba lần bị thương. Cuối
Thế chiến thứ nhất, Donovan được cử vào trong một phái đoàn sang
Sibéria. Năm 1922 trở lại hoạt động trong
ngành luật làm luật sư, rồi hoạt động chính trị phục vụ của cả
hai đảng. Tổng thống Roosevelt phái Donovan sang Ư và
Ethiopia (1935) và Tây Ban Nha (1937) để điều tra về xu hướng
phát xít và sự nổi dậy ở châu Âu. Ông đă báo cáo về việc thay
đổi trong kỹ thuật chiến tranh, vấn đề các vũ khí mới và chiến
thuật dùng “đội quân thứ năm” của các nhà độc tài châu Âu. Năm
1940 được phái sang Anh để xem xét giúp chống lại bọn Quốc xă và
đă góp phần tác động đến Roosevelt trong việc cho Anh mượn các
khu trục hạm Mỹ đă quá thời. Sau chuyến đi thăm vùng Bancan lần
thứ hai (1941) Donavan được cử làm người điều chỉnh các tin tức
t́nh báo (COI) của Roosevelt. Sau trận Pearl Harbor, COI được tổ
chức lại thành OSS và do Donovan điều khiển. Năm 1946 ông được
Nhà Trắng mời làm công tác chuẩn bị cho toà
án Nuremberg. Đến 1953 Donovan được Tổng thống Eisenhower
lại gọi ra làm Đại sứ Mỹ ở Thái Lan và 1956 tổ chức quỹ cứu trợ
cho người tị nạn Hungari. Bị chảy máu năo
1957 và chết 8-2-1958.
Matusita (c̣n gọi là
Matsushita)
Một gián điệp Nhật thuộc quyền chỉ huy của
Tổng lănh sự Minoda. Năm 1930 chủ yếu hoạt
động ở Nam Kỳ và Kampuchia dưới b́nh phong là một kỹ nghệ gia
(Giám đốc hăng Dainan Koosi). Bị người Pháp trục xuất
khỏi Đông Dương năm 1938 v́ hoạt động chống Pháp và phân biệt
chủng tộc trong những người Quốc gia Việt Nam ở miền Nam,
Matusita trở lại Đông Dương với quân đội Nhật năm 1941 và tiếp
tục điều khiển Dainan Koosi. Ông đặt liên lạc cộng tác với trung
tâm văn hoá của Yokoyama, với Yasu Butai và Hiến binh Nhật. Bạn
thân và người ủng hộ mạnh mẽ Cường Để, Matsusita năm 1942 tiếp
cận với các lănh đạo phong trào Quốc gia thân Nhật, đặc biệt là
với trí thức, để khuấy động lại phong trào. Ông đă trợ cấp cho
Phục Quốc ở miền Nam và Đại Việt ở miền Bắc những khoản tiền
không hạn chế lấy từ quĩ của CICEI và Dainan Koosi - năm 1944
Matusita đă thành công trong việc lôi kéo được giáo phái Cao Đài
và Hoà Hảo di theo phong trào quốc gia thân Nhật
Gracey Douglas D., Thiếu
tướng (1894-1964)
Người Anh, chỉ huy Lục
quân Đồng minh ở Đông Dương, nam vĩ tuyến 16, cầm đầu Phái đoàn
kiểm tra Đồng minh của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á và Đông Á
(SEA-SAC); tư lệnh sư đoàn 20 Ấn Độ. Đến Sài G̣n ngày 13-9-1945;
đi ngày 28-1-1946.
Helliwel Paull, Đại tá
(1914-1976)
Trưởng pḥng điệp báo OSS-Côn Minh, trưởng
Nha T́nh báo OSS-Trung Quốc, Luật sư nổi tiếng, nhà ngân hàng và
Tổng lănh sự cho Chính phủ Thái ở Miami, Flonda,
Heppner, Richard Pinkerton, Đại tá (1908-1958)
Sĩ quan OSS-Trung Quốc, Luật sư và cộng tác viên pḥng luật sư
của Donovan; vào quân đội 1940 thuộc cơ quan Ban điều chỉnh tin
tức của Donovan (1941); học Trường t́nh báo Anh ở Canada của W.
Stephenson và Trung tâm huấn luyện biệt kích ở Scotland; công
tác ở OSS-London (1942), tham gia việc đặt kế hoạch OSS đổ bộ
Bắc Phi (TORCH). Cuối 1942 được Đại sứ W. Phillips cho đi theo
làm phụ tá sang Ấn Độ. Được cử làm sĩ quan biệt phái của OSS ở
cạnh Bộ tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) 1943; chuyển sang chiến trường
Trung Quốc 1944 và đảm nhiệm phụ trách mọi hoạt động OSS dưới
quyền tướng Wedemeyer cho đến tháng 10-1945 rồi trở về hoạt động
trong ngành luật. Năm 1957, Tổng thống Eisenhower cử ông làm phó
trợ lư quốc pḥng về công tác an
ninh. Chết 14-5-1958.
Dương Đức Hiền (1916-1963)
Vào khoảng 30 tuổi, năm 1945, lúc đầu Hiền
hoạt động tích cực cho Việt Nam Quốc dân đảng.
Khi Đại Việt được thành lập vào năm 1941,
Hiền với Nguyễn Tường Tam và em là Nguyễn Trường Long cùng tham
gia lănh đạo. Là một trí thức, lănh
tụ sinh viên, Hiền được bầu làm Chỉ tịch Tổng hội Sinh viên Việt
Nam ở Hà Nội. Tháng 6-1944, Hiền lôi kéo một số lớn sinh
viên ra lập Việt Nam Dân chủ đảng và trở thành Tổng Bí
thư đầu tiên. Chịu ảnh hưởng của
người bạn thân là Vơ Nguyên Giáp, Hiền sát nhập đảng Dân chủ vào
Mặt trận Việt Minh, vừa là chỗ nguỵ trang cho các đảng viên Cộng
sản trong những lúc bị khủng bố vừa đóng vai một thiểu số trung
thành trong Mặt trận Việt Minh. Tại Đại hội ở Tân Trào, Hiền
được cử vào Uỷ ban Giải phóng Dân tộc và sau đó làm Bộ trưởng
Thanh niên trong Nội các đầu tiên của ông Hồ - Nguồn: OSS-SI hồ
sơ nhân sự 10-1945
Wainwright, J.M, Tướng
(1883-1953)
Tướng Mỹ, tốt nghiệp Học viện Quân sự Mỹ
(1906), phục vụ ở Pháp (1918), thiếu tướng (1940) đóng ở
Philippin và bị Nhật tấn công (tháng 12-1941), chỉ huy mặt trận
bắc cho tới khi được Mac Arthur thay làm tổng chỉ huy; đă pḥng
ngự anh dũng Bataan và Corregidor (1942); bị bắt làm tù binh
(1942-1945); được thưởng Huân chương Danh dự và đề bạt Đại tướng
(1945), Tư lệnh Tập đoàn quân 4 (1946), về hưu 1947). Tướng
Wainwright là người tù binh chiến tranh cao cấp nhất trong
tay Nhật dă được toán Mercy OSS (Công
tác Cardinal) do thiếu tá R.F. Lamar phụ trách giải thoát.
Ngày 16-8, toán nhảy dù xuống ngoại ô Mukden
và đi bộ tới trại tù binh Hoten mà ở đó hy vọng sẽ t́m thấy
Wainwright. Bị một đội tuần tra Nhật
(không biết có đầu hàng) bắt tước vũ khí và đánh đập.
Hành dinh quân Nhật tại Mukden, Lamar được sĩ quan trực ban Nhật
cho biết “Vừa mới kết thúc chiến tranh”.
Lamar và cả toán được khôi phục lại danh dự, được xin lỗi và
được biết là Wainwright bị giữ ở một trại nhỏ tại Sian cách
Mukden 110 dặm về phía đông bắc. Người Nhật nói là phải
có phép của Liên Xô th́ toán mới hoạt động được v́ Sian ở trong
khu vực do Cộng sản kiểm soát. Sau nhiều chậm trễ, người Nga cho
phép toán đi và đă đến Sian (19-8) t́m thấy Wainwright và một
nhóm tù binh nổi tiếng, trong đó có tướng E.M. Percival, cựu tư
lệnh Anh ở Malay, ngài Benton Thomas cựu toàn quyền Malay, ngài
Mark Young cựu toàn quyền Hongkong; Tjarda Van Starkenhorgh
Stachouver, cựu toàn quyền Ấn Độ Hà Lan; Smith cựu toàn quyền
Bornéo; thiếu tướng Callaghan, của Úc, và các quan chức cao cấp
khác. Sau đó, đến ngày 24-8, một sĩ quan cao cấp Liên Xô đă đề
nghị cho áp giải các tù binh về Mukden để Wainwrihgt tự t́m lấy
phương tiện chuyên chờ vào sự giúp đỡ của sĩ quan Nhật phụ trách
trại. Ba ngày sau, 1 giờ 30 ngày 27, nhóm cao cấp này lên tầu từ
Mukden đi 1.200 dặm đến Hsian. Từ đó họ bay đi Trùng Khánh và
sau đó, tại vịnh Tokyo, tướng Wainwrihgt đă ngồi cạnh tướng Mac
Arthur trong buổi lễ tiếp nhận đầu hàng ngày 2-9 trên tàu chiến
Missouri của Mỹ.
Gallagher, Philip E. Thiếu
tướng (1897-1976)
Chỉ huy đoàn Cố vấn và Viện trợ quân sự Mỹ
(US-MAAG), Thiếu tướng biệt phái tại Đệ nhất Chiến khu, Bộ tư
lệnh chiến dấu Trung Quốc. Tháng 8-1945 được cử làm cố vấn cho
Bộ tư lệnh Quân đội Trung Quốc chiếm đóng Đông Dương về các vấn
đề tước vũ khí và hồi hương quân Nhật ở bắc
vĩ tuyến 16.
Terauchi, Thống chế, Bá tước
Hisaichi (Juichi) (1879-1946)
Sinh tại huyện Yamaguchi, Nhật, con của trung
tướng Bá tước Masataki, cựu Bộ trưởng Chiến tranh (1902) và Thủ
tướng Nhật (1919), Hisaichi được phong cấp từ Học viện Quân sự
Hoàng gia (1900), Viện Tham mưu Quân sự Nhật (1909) và sau đó
theo học ở Đức. Thiếu tướng (1924) đă chỉ huy ở Chosen, Măn Châu
Lư và ở Đài Loan (1932), được đề bạt tướng (1935), làm Bộ trưởng
Chiến tranh (lục quân) (1936-1937), tư lệnh Quân đội Nhật ở Bắc
Trung Quốc (1937-1938), được cử làm Uỷ viên Hội đồng Chiến tranh
tối cao vào năm 1938; đại diện cho quân dội Hoàng gia Nhật tại
Hiệp định quốc xă Nuremberg (1939); Tổng Tư lệnh quân đội Nhật
Tây Nam Thái B́nh Dương (tháng 12-1941 - tháng 8-1945). Trong
Thế chiến thứ hai, ông chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Phương Nam gồm
4 tập đoàn quân gồm 1 triệu người có nhiệm vụ pḥng thủ vùng Tây
Nam Thái B́nh Dương từ Miến Điện đến New Guine. Bộ Tư lệnh Tập
đoàn quân Phương Nam của Terauchi đóng ở Sài G̣n từ ngày
6-11-1941, chuyển sang Singapore tháng 5-1942, sang Manila cuối
năm 1942, rồi trở về Sài G̣n ngày 17-11-1944, ở đó cho đến khi
người Nhật đầu hàng Anh ngày 30-11-1945.
Hisaichi Terauchi nổi tiếng là độc đoán, bài
ngoại và đầu óc phân biệt chủng tộc.
Tinh thần kỷ luật tàn nhẫn của ông đă góp phần làm suy sụp tinh
thần vơ sĩ đạo của Nhật trong những năm chiến tranh. Được
sự giúp đỡ của một tài phiệt Trung Quốc chống Quốc dân đảng nổi
tiếng, Bang Keh-min, Terauchi đă dựng lên một chính phủ “Cộng
hoà Trung Hoa Lâm thời” bù nh́n ở Bắc Kinh tháng 12-1937. Sự
chiếm đóng miền Bắc Trung Quốc của Terauchi đă được ghi bằng
những cuộc hành h́nh dă man hàng ngàn người thân Quốc dân Đảng
và Trung Cộng. Trong Thế chiến thứ hai, Terauchi công khai
khuyến khích và ủng hộ những hoạt động bài ngoại “không được
phép” của tên trung tá tàn ác Masanobu Tsuji, chịu trách nhiệm
một phần về những sự tàn nhẫn đối xử với tù binh chiến tranh Úc
và Ấn độ (ở Singapore), Mỹ và Philippin (ở Bataan). Sau khi
Corregidorr mất, Terauchi mâu thuẫn với người chỉ huy cao cấp
của ông ở Philippin, tướng Nasaharru Homma, và đối với chính
sách khoan hồng của Homma dối với người Mỹ và người Philippin.
Từ Sài G̣n, Terauchi gửi một báo cáo chống lại thái độ của Homma
về Tokyo. San đó Homma bị thay thế, phải trở
về Nhật và bị ép phải rút lui gần như bị mất hết chức vị.
Nguyễn Hải Thần (1879-1955)
Con quan lại, sinh tại Hà Đông, gần Hà Nội,
theo Phan Bội Châu, tham gia phong trào Quốc gia Bắc Kỳ
(1907-1909), tản cư sang Trung Quốc (1912) và ở đó cho đến 1945.
Được bầu vào Uỷ ban chấp hành và bí thư
của Đồng minh Hội trong hội nghị thành lập (tháng 8-1942).
Thần đă bất lực trong việc thống nhất các
đảng phái chính trị khác nhau và không xứng đáng là một lănh tụ.
Sau khi biển thủ quĩ của đảng, ông rời Liễu Châu, trung tâm hoạt
động của Đồng minh Hội và chỉ quay trở lại khi Đồng minh Hội họp
lần thứ hai vào tháng 3-1944. Lúc đó, ông
được bầu àm Uỷ viên Kiểm tra trong Đồng minh Hội mới được cải tổ
lại. Năm 1945, Thần đi theo quân đội của Tiêu Văn trở về
Việt Nam, hy vọng sẽ nắm được Chính phủ nhưng lại xung đột với
Hồ Chí Minh và Việt Minh. Sau một loạt các cuộc thương lượng với
Hồ, Thần “được bầu” làm Phó Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Lâm
thời (tháng 1-1946). Không bằng ḷng với
chức vụ “vinh dự” đó, Thần từ chức và rời Hà Nội đi Quảng Châu.
Đến tháng 3-1947, ông lại xuất hiện ở Hongkong để thành lập một
liên minh mới chống Việt Minh và chống Pháp, đó là Mặt trận
Thống nhất Quốc gia, chủ trương đưa Bảo Đại trở lại Việt Nam.
Không được dân chúng ủng hộ và thiếu sự giúp
đỡ về quân sự của Trương Phát Khuê, người đỡ đầu cũ của ông,
phong trào của Thần sụp đổ. Trở lại Quảng Châu cuối mùa
thu 1947, Thần rút lui khỏi mọi hoạt
động chính trị.
Tsuchihashi, Yuitsu -Trung
tướng (1885-)
Tư lệnh Tập đoàn quân 38 quân đội Hoàng gia
Nhật. Tsuchihashi đảm nhiệm chỉ huy tập đoàn quân chiếm đóng mới
được tổ chức lại thay cho Trung tướng Kajumoto Machijiri ngày
4-12-1944. Tsuchihashi tốt nghiệp trường
Tham mưu Quân sự Nhật (1920), nói thạo tiếng Pháp và làm tuỳ
viên quân sự ở Pháp và Bỉ (1937-1940). Đầu 1939,
Tsuchihashi đến Hà Nội để thảo luận với Toàn quyền Jules Brévié
về khả năng ngăn chặn đường tiếp tế của Mỹ cho quân đội Tưởng
Giới Thạch theo đường qua Đông Dương. Người Pháp từ chối. Tháng
3-1945, Tsuchihashi cho tiến hành cú đảo chính người Pháp và cầm
giữ toàn bộ quân đội Pháp ở Đông Dương. Ông cho quân của ông từ
bắc vĩ tuyến 16 đầu hàng người Trung Quốc ngày 28-9-1945 ở Hà
Nội.
Wedemeyer A.C., Trung tướng
(1897-)
Tư lệnh Quân đội Mỹ trên Chiến trường Trung
Quốc, đồng thời là tham mưu trưởng của Thống chế Tưởng Giới
Thạch (tháng 10-1944 - tháng 4-1946). Tốt nghiệp Học viện Quân
sự Mỹ (1919), phục vụ ở Trung Quốc, Philippin và châu Âu
(1920-1935), tốt nghiệp trường Chỉ huy và trường tham mưu
Leavenworth (1936), học trường chiến tranh Đức (1936-1938), tham
mưu phó (SEAC) cho huân tước Mounbatten (1943-1944).
Phái đoàn thanh tra của Tổng thống ở Trung
Quốc và Triều Tiên (1947-1948); Tư lệnh tập đoàn quân 6
(1949-1951). Về hưu năm 1951.
Nguyễn Tường Tam (1910-1963)
Nhà văn - nhà báo ở Hà Nội, Tam là một đảng
viên Việt Nam Quốc dân đảng. Đảng này dựa
vào Trung Quốc như một đồng minh để giành độc lập dân tộc, chống
lại sự kiểm soát quốc gia của Trung Quốc. Khi thế lực của
Nhật bắt đầu thống trị Đông Dương (1940), Tam chuyển sang nhờ sự
viện trợ của Nhật để chống Pháp và lập ra đảng Đại Việt Dân
chính (tắt là Đại Việt). Pháp đàn áp và bắt
giam các lănh tụ của đảng này. Tam trốn thoát sang Trung
Quốc năm 1942 và đi theo Việt Nam
Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh ở Côn Minh.
Đây là Việt Nam Quốc dân đảng thứ hai. Mặc dù Tam không
lộ rơ mặt ở Trung Quốc nhưng Tam và đảng Đại Việt đă được xác
định là những người Quốc gia thân Nhật. Trương Phát Khê quyết
định bắt giam Tam một thời gian vào năm 1944 để “dạy cho ông một
bài học”. Ngay trước khi họp Đại hội lần thứ hai Đồng minh Hội
(tháng 3-1944), Trương thả Tam và mời làm đại biểu dự Đại hội ở
Liễu Châu và ở đó Tam gặp Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và Phạm
Văn Đồng. Mùa thu 1945, Hồ tranh thủ sự ủng hộ của Tam và sau đó
trao cho ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên
hiệp Lâm thời tháng 1-1946. Với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao,
Tam cầm đầu đoàn tham gia Hội nghị Đà Lạt
tai hại (tháng 4-1946). Khi được mời để cầm đầu đoàn dự
Hội nghị Fontainebleau, Tam đă cáo ốm và với Vũ Hồng Khanh, đă
bay sang Trung Quốc rồi sau đó sang Hongkong. Tháng 2-1947, Tam,
Khanh và một số lănh tụ Đồng minh Hội khác đă tham gia các hội
nghị ở Nam Kinh và Quảng Châu để lập ra Mặt trận Dân tộc Thống
nhất nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ ông Hồ và thuyết
phục Bảo Đại làm người phát ngôn cho họ.
Nhưng họ đă thất vọng với người Pháp và Bảo Đại đă từ chối đứng
giữa hai bên - Việt Minh và Pháp. Tháng 10-1947, Tam rút
lui khỏi phong trào ủng hộ Bảo Đại và mọi hoạt động chính trị
tích cực nhưng vẫn tiếp tục viết bài từ nước ngoài chống lại sự
can thiệp của Pháp và Mỹ vào Việt Nam. Trong
cuộc nổi dậy của Phật giáo 1963, Tam đă tự vẫn (tháng 7-1963) để
phản đối chế độ đàn áp của Ngô Đ́nh Diệm.
Hurley R.J., Thiếu tướng
(1883-1963)
Sinh tại Choctaw Indian Territory, làm luật ở
Tulsa (1912-1917); Đại tá trong Thế chiến thứ nhất, Thứ trưởng
chiến tranh (1929), Tổng trưởng chiến tranh (1929-1933).
Đă phục vụ trong nhiều phái đoàn ngoại giao.
Năm 1942, được Tổng thống Roosevelt cử làm
Bộ trưởng Mỹ tại New Zealand rồi sau đó (1942-1943) làm đại diện
Tổng thống ở Trung Đông. Thăng thiếu tướng và được
Roosevelt cử làm Phái viên của Tổng thống tại Trung Quốc (tháng
8-1944 - tháng 2-1945) rồi thành Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc (tháng
1 - tháng 11-1945).
“Leclercs” Jacques Phillppe,
Thống chế (1902-1947)
Bá tước De Hautecloque, dùng tên “Leclerc”
trong Thế chiến thứ hai để bảo vệ cho gia đ́nh trong thời gian
Đức quốc xă chiếm đóng Pháp. Chỉ huy Quân đội Pháp tự do ở Phi
Châu xích đạo (1942-1943). Tư lệnh sư đoàn 2
Thiết giáp tham gia chiến dịch Tunisie (1943) với tập đoàn quân
8 của Anh. Tướng Bradley trao cho sư
đoàn ông vinh dự dẫn đầu vào Paris (tháng 8-1944) để hoàn thành
việc chiếm lại Thủ đô. Được De Gaulle cử làm Tư lệnh Quân
dội Pháp ở Viễn Đông (tháng 8-1945), Leclerc đại diện cho người
Pháp trong lễ tiếp nhận đầu hàng Nhật tại vịnh Tokyo. Tháng
10-1945, ông chỉ huy quân Pháp đầu tiên chống lại những chiến sĩ
Việt Nam đấu tranh giành độc lập, với mưu toan chiếm lại Đông
Dương. Được cử làm Tổng Thanh tra lục quân Pháp ở Bắc Phi
(1946). Leclerc chết trong một tai
nạn phi cơ (1947) và được truy phong Thống chế Pháp năm 1952.
Lee, Duncan - Trung tá
(1915-).
Trưởng ban Nhật - Trung
Quốc, Pḥng Viễn Đông, Nha T́nh báo OSS-Washington (1944-1945),
sau đó làm trợ lư cố vấn OSS. Đẻ ở Trung
Quốc. Học ở Oxford; cộng tác luật của
Donovan. Sau Thế chiến thứ hai, Lee
làm Phó Chủ tịch Nhóm Bảo hiểm C.V. Starr.
Lư Hán - Trung tướng (1891-)
Người gốc Vân Nam, miền giáp Tây Tạng, thường được gọi là “tên
Lolo mọi rợ” v́ Lư Hán là dân bộ tộc Lolo độc lập chống Trung
Quốc ở Bắc Vân Nam. Được “người cậu”, là Thống đốc (tướng) Long
Vân che chở, Lư Hán được phong cấp từ Học viện quân sự Vân Nam
và giữ nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1932
làm Trưởng Uỷ hội quân sự Chính phủ quốc gia Nam Kinh.
Lư Hán giúp tổ chức và làm cho Quốc dân đảng
(Trung Quốc) ủng hộ các nhà cách mạng Việt Nam (Việt Nam Quốc
dân Đảng) ở Nam Kinh. Đầu năm 1940,
Lư Hán chỉ huy Phương diện quân 1 ở chiến khu 9. Tháng
8-1945, Tưởng Giới Thạnh chỉ định ông và quân đội của ông làm
lực lượng chiếm đóng Đông Dương và Lư Hán là người đại diện cho
Tưởng để chấp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật ở bắc vĩ tuyến
16. Ngày 15-10-1945, Tưởng cử ông làm Thống
đốc tỉnh Vân Nam thay cho Long Vân. Sau đó (tháng
12-1949), Lư Hán bỏ theo Trung Cộng
và được giao nhiều chức vụ danh dự như Phó chủ tịch Uỷ ban Quốc
gia Thể dục và Thể thao. Tháng 4-1959, ông
lại được cử vào một chức vụ không có quyền hành trong Hội đồng
Quốc pḥng ở Bắc Kinh.
Long Vân (1888-1962)
Người gốc miền Bắc Vân Nam, thuộc dân tộc
Lolo, Long Vân thuộc ḍng dơi quân phiệt làm nên nhờ việc trồng
thuốc phiện và cướp bóc dọc theo con đường giao thông phong phú
Tây Tạng - Miến Điện - Trung Quốc. Năm 1928 được cử làm Thống
đốc tỉnh Vân Nam và cai trị ở đó một cách gần nhu độc lập đối
với Chính phủ trung ương Tưởng Giới Thạch. Trong những năm 1940,
Long Vân chỉ huy 3 trong số 5 tập đoàn quân của quân đội Vân Nam
thuộc Chính phủ trung ương, về danh nghĩa là dưới quyền của
Tưởng. Trong thời gian 1940-1945, việc Long Vân kiểm soát hoàn
toàn quăng đường đi Miến Điện thuộc địa phận Trung Quốc đă mang
lại cho ông nhiều của cải cướp đoạt từ đồ viện trợ Vay-Mượn Mỹ
gửi cho quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc. Những đ̣i hỏi để
cưỡng đoạt các đồ tiếp tế của viện trợ Vay-Mượn vào giữa năm
1945 và việc bất chấp trắng trợn đối với quyền lực của Chính phủ
Trung ương đă buộc Tưởng phải gạt bỏ Long Vân.
Ngày 5-10-1945, trong cái gọi là sự kiện Côn
Minh, Tưởng đă dùng vơ lực để đoạt lại quyền thống đốc và chỉ
huy quân sự của Long Vân. Bằng một mưu mẹo nhằm để giữ
thể diện; Long Vân được triệu về Trùng Khánh và sau đó về Nam
Kinh và được giao cho giữ chức Giám đốc Viện Cố vấn Quân sự
không có quyền hành ǵ. Người cháu của ông,
Lư Hán được cử thay làm thống đốc tỉnh và chỉ huy quân đội ở Vân
Nam.
Năm 1948, Long Vân bay đi Hongkong và 1949 lại trở về Bắc Kinh
và đi theo Trung Cộng. Nhờ sự đào ngũ của ông, Long Vân được giữ
chức không có nghĩa lư ǵ là Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc Pḥng,
và Phó chủ tịch Uỷ ban quân quản Tây Nam cho đến năm 1957, th́
bị thanh trừng trong thời kỳ “trăm hoa đua nở”.
Whitaker J.Th., Đại tá
(1906-1946)
Trưởng Nha Điệp báo (SI-OSS) ở Trùng Khánh.
Tác giả, nhà báo và phóng viên chiến tranh cho nhiều báo Mỹ. Đă
dự các phiên họp quan trọng của Hội Quốc Liên ở Genève
(1931-1932) ở Vienne và Berlin, trong cuộc nổi loạn và thanh
trùng của Hitler (1933-1934), tham gia các trận ở Ethiopia
(1935), cuộc nổi loạn Tây Ban Nha (1936-1937), suưt bị thiệt
mạng khi Đức chiếm Tiệp (1938). Bài báo
chống phát xít của Whitaker năm 1940 đă làm phật ḷng Mussolini
và đă bị Mussolini trục xuất khỏi Ư (1941). Qua sách đă
viết, thể hiện t́nh cảm sâu sắc, say mê chống chủ nghĩa phát xít
của Hitler và Mussolini. Năm 1942, Donovan
mời Whitaker gia nhập OSS và ông đă phục vụ như một sĩ quan t́nh
báo dân sự ở tiền tuyến chiến dịch Bắc Phi và Sicile.
Phong hàm Trung tá 1943, Whitaker được giao làm Trưởng ban Tâm
lí chiến (OSS-MO). Chuyển đến chiến trường Trung Quốc, Whitaker
phụ trách Nha Điệp báo OSS (1944), trực tiếp hoạt động t́nh báo
ở Trung Quốc, Nhật và Triều Tiên. Năm 1945
bị ốm phải về Mỹ và chết ngày 11-9-1946.
Tiêu Văn, Trung tướng (1890-)
Sĩ quan chính trị Đệ tứ chiến khu của Trương
Phát Khuê. Quê tỉnh Quảng Đông, Tiêu Văn
được coi như là một chuyên gia về vấn đề Việt Nam. Khi
làm phó cho Trương, phụ trách Ban Ngoại vụ (1943), Tiêu gặp ông
Hồ, lúc đó là một tù chính trị ở Đệ tứ chiến khu và trở thành
người quân sư Trung Quốc cho ông Hồ. Tháng 1-1944, Trương giao
cho Tiêu việc theo dơi các hoạt động của Đồng minh Hội và gây
dụng tinh thần thân Quốc dân đảng trong người Việt Nam. Khi
chiến tranh kết thúc, Tiêu được chuyển sang Hành dinh của Lư Hán
(tháng 9-1945) ở Hà Nội; được Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trao
cho trông coi quyền lợi của Trung Quốc ở Đông Dương. Lúc đó,
được cử phụ trách Ban Hoa kiều hải ngoại, Tiêu đă trở thành
chống đối với chính sách của ông Hồ và của Lư Hán về vấn đề vai
tṛ của những người Quốc gia chống Việt Minh trong Chính phủ của
ông Hồ. Những năm sau, Tiêu có bắt mối với Trung Cộng, trong dó
có Diệp Kiếm Anh, bạn của ông Hồ từ khi ở Diên An, và tỏ ra có
xu hướng tả - trung tâm. Do đó, năm 1950, Tiêu được Trương khích
lệ và được giao cho giữ chức cố vấn ở mức thấp trong tỉnh Quảng
Đông, thuộc quyền của tỉnh trưởng (tướng) Diệp Kiếm Anh (Yet
Chien Ying)
Messmer, Pierre (1916-)
Một trong số các quan chức cai trị được Bộ
Pháp quốc Hải ngoại chọn để tham gia Phái đoàn thuộc địa Pháp
của Raymond và đưa đến Calcutta để chuẩn bị chiếm lại Đông
Dương, Messmer được De Gaulle cử làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại
Bắc Kỳ. Được SLFEO thả dù đêm 22-23 tháng 8-1945 xuống gần Phúc
Yên (độ 15 dặm tây bắc Hà Nội), Messmer bị du kích Việt Minh tóm
được, giam giữ mấy ngày và được thả ra ở gần biên giới Trung
Quốc, Messmer không thực hiện được nhiệm vụ, đă trở về Sài G̣n
rồi sau đó trở về Pháp. Thiếu tá Sainteny đă
thay nhiệm ở Bắc Kỳ. Messmer có tham dự vào các cuộc đàm phán
Pháp - Việt ở Đà Lạt và Fontainebleau năm 1946. Một người
theo De Gaulle cứng rắn, Messmer đă làm chánh văn pḥng cho Bộ
trưởng Pháp quốc Hải ngoại và cố vấn cho Toàn quyền Emile
Bollaert ở Đông Dương (1947-1948); Bộ trưởng quốc pḥng
(1960-1969) cho đến khi De Gaulle từ chức; Bộ trưởng các công
tác hải ngoại (1971-1972). Năm 1972, được
Tổng thống Pompidou cử làm Thủ tướng và giữ chức này cho đến năm
1974 rồi được Jacques Chirac thay.
Mordant Eugène, tướng (1885-)
Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương
(1940-1944). Mordant chuyển từ chỗ theo Pétain sang đi với De
Gaulle năm 1943 và bí mật phục vụ cho người Pháp tự do ở Alger.
De Gaulle thu nạp và trao cho ông nhiệm vụ tổ chức cuộc kháng
chiến của Pháp tự do ở Đông Dương. Ông được cử làm tổng đại diện
của Chính phủ Pháp ở Đông Dương và được trao chức Phó Chủ tịch
Hội đồng Đông Dương bí mật. Hoạt động sơ hở
của ông năm 1944-1945 đă báo động cho người Nhật và họ đă làm cú
đảo chính 9-3-1945 và bắt cầm tù Mordant ở Hà Nội.
Mordant đă được người Trung Quốc thả ra vào cuối 1945.
Pechkov Zinovi, đại tá (c̣n
tên là Pechkoff) (1895-)
Pechkov được De Gaulle cử làm trưởng phái
đoàn quân sự Pháp ở Trung Quốc (1943). Tưởng Giói Thạch đă tiếp
và coi ông như một đại sú và gọi ông là “Đại sứ” nhưng những
người theo phe Giraud ở Côn Minh thường chế diễu nói “tướng
Pechkov, Đại sứ Pháp ở Trung Quốc không phải là tướng, không
phài Pechkov, không phải Đại sứ, mà cũng chẳng phải là người
Pháp”. Thực ra Pechkov chỉ là một đại tá
trong quân đội lê dương và được De Gaulle gọi là tướng trong
thời gian Pechkov ở Trung Quốc. Ông
là con nuôi của Maxim Gorki và dùng tên gia đ́nh là Pechkov.
Chức Đại sứ là do Tưởng đặt ra cho ông, không phải do Chính phủ
Pháp trao. Ông không vào dân Pháp, mà chỉ là
phục vụ trong lính lê dương Pháp.
Con nuôi của Gorki, nhưng đời ông thật khó khăn, vật ṿ nhưng
không phải cay đắng. Pechkov đă theo
Gorki sang ltaha, nhưng cuộc sống dễ dàng ở Capri không thích
hợp với ông. Khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, ông vào đội Lê dương
Pháp, bị thương mất cánh tay phải,
lại bị thương trong chiến tranh Riff ở Maroco. Rất khôn ngoan và
kín đáo, Pechkov h́nh như được sinh ra để cho các cuộc âm mưu,
đă được Chính phủ Pháp trao làm nhiều nhiệm vụ tin cậy trước Thế
chiến thú hai.
Pechkov theo De Gaulle sau khi Pháp
mất và một thời gian đă ở Mỹ và có nhiều bạn bè ở đây.
Đặc biệt rất thân với Donovan và đi lại
nhiều lần với tướng này. Trước khi đi
Trùng Khánh, Pechkov làm đại diện cho De Gaulle cạnh Thống chế
Smuts ở Nam Phi.
Ở Trung Quốc, Pechkov đă tranh thủ được cảm
t́nh và sự công nhận của Tưởng với danh nghĩa là đại sứ, đă gián
tiếp nâng cao được uy tín của De Gaulle. Do đó đă được De
Gaulle tin cậy. Nhờ có ảnh hưởng và mối quan hệ tốt giữa Pechkov
với Tưởng nên rơ ràng là đă có được một sự hoà hoăn giữa Tưởng
và De Gaulle mà việc phái đoàn Maynier bất chợt tới đă không đạt
được và khơi lại những tranh chấp của người Pháp và đẩy tới sự
phản đối của Taili.
Pignon, Léon (1908-)
Là một viên chức cựu trào của cơ quan thuộc
địa Pháp trong nhũng năm 1930 ở Đông Dương. Tháng 7-1945, Pignon
được Bộ Pháp quốc Hải ngoại chọn làm phụ tá cho Trưởng Phái đoàn
thuộc địa Pháp ở Calcutta (Jean De Raymond) về các hoạt động
chính trị ở Đông Dương. Tiếp theo cuộc đầu hàng đột ngột của
Nhật và việc Đông Dương bị chia cắt ở vĩ tuyến 16, De Raymond
phái Pignon sang Trung Quốc để giúp cho tướng Alessandri chỉ đạo
các vấn đề chính trị. Ngày 19-9-1945, Pignon đi cùng Alessandri
sang Hà Nội và mở cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh ngày 28-9. Được
cử làm Giám đốc chính trị và hành chính sự vụ ở Đông Dương; cố
vấn chính trị cho đô đốc D'Argenlieu từ ngày 6-10, Pignon đi
theo “bè lũ Sài G̣n”, ra sức tái lập chế độ cai trị Pháp và tiêu
diệt Hồ Chí Minh và Chính phủ của ông. Bất chấp thiện chí của
Sainteny và Leclerc muốn đi đến một sự thoả hiệp với ông Hồ và
Chính phủ của ông, D’Argenlieu theo ư
kiến của Pignon, đại diện cho phe thực dân, đă đi theo một đường
lối cứng rắn đối với ông Hồ và ngăn cản mọi nỗ lực nhằm đi tới
một cuộc hoà giải. Khi cuộc thương lượng sụp đổ ngày 19-20 tháng
12-1946, ông Hồ lên rừng chiến đấu, và D'Argenlieu bị gọi về
Pháp (tháng 2-1947), Pignon ở lại Sài G̣n làm cố vấn chính trị
cho Emile Bollaert, Cao uỷ mới. Trong nhiệm kỳ của Bollaert
(tháng 3-1947 - tháng 10-1948), Pignon đă vận động Bảo Đại làm
việc cho Pháp và kéo dài cuộc chiến tranh với Việt Minh, phục vụ
lợi ích của Cộng hoà B́nh dân (MRP) và bọn đầu cơ chiến tranh.
Pignon thay Bollaert làm Cao uỷ tháng
10-1948. Dưới thời Pignon, không những nhiều chức vụ quan
trọng đă được trao lại cho những phần tử xấu xa nhất của thời
đại Decoux, mà nạn tham nhũng, cướp đoạt đă phát triển đến mức
chưa từng có trong lịch sử của Đông Dương. Pignon đă bị cách
chức tháng 12-1950 v́ có dính vào vụ bê bối Peyres c̣n gọi là
“vụ án các tướng lĩnh”
Sabattier, Gabriel, Trung
tướng (1892-)
Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Bộ (1945). Sau cú
đảo chính của Nhật, Sabattier trốn được cùng với khoảng 2.000
quân sang Trung Quốc, ở đó ông trở thành người đại diện quân sự
cao cấp nhất của Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Pháp trong 3 tháng.
Sainteny, Jean R., thiếu tá
(1907-1978)
Trưởng đoàn t́nh báo Pháp M.5 ở Côn Minh,
Trung Quốc, một đơn vị thuộc quyền của SLFEO Calcutta, và là một
phần tử của cơ quan t́nh báo chiến lược DGER, Paris (tháng 4 -
tháng 10-1945). Con rể của Albert Sarraut, hai lần làm Toàn
quyền Đông Dương, có công ty với tư bản ngân hàng ở Đông Dương
(1929-1931) và ở Paris (1932-1939). Đặt chân tói Hà Nội cùng với
toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp
tại Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, thay cho Messmer (1945-1947) và làm
Tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1954)
Sarraut, Albert (1872-1962)
Nhà lănh đạo Pháp, đảng viên đảng Xă hội cấp
tiến. Nghị viên Hạ viện từ 1902, hai lần làm Toàn quyền Đông
Dương (1911-1914 và 1916-1919), từ 1920 đến 1940 gần như liên
tục là thành viên Nội các Pháp. Thủ tướng
năm 1933 và 1936. Sarraut ủng hộ hành
động quân sự chống lại sự chiếm đóng của Đức ở vùng sông Rhin
(1936) nhưng không có khả năng thực hiện được chủ trương này.
Trong Thế chiến thứ hai, bị bắt (1944) và bị đày sang Đức nhưng
được Đồng minh giải thoát năm 1945. Sau
chiến tranh, làm nhà xuất bản cho tờ báo của người Anh “La
Dépêche de Toulouse” và chủ tịch Liên hiệp Pháp (1959-1960).
Sự cai trị của Saraut ở Đông Dương đă
được các nhà viết sách người Pháp và người Việt đánh giá là
“những năm sáng sủa và có cách tân lớn”. Ngay Hồ Chí Minh năm
1945 cũng đă nói với tôi “Sarraut là người Pháp duy nhất thông
cảm với số phận của người An Nam và có ư định làm ǵ dó về điều
này”. Sự thật về truyền thuyết một nền cai
trị tự do và khoan hồng của Sarraut chỉ là những lời hứa hẹn
không được thực hiện và những nhượng bộ nhỏ nhặt. A. Sarraut là
bố vợ của Sainteny.
Taili, tướng (1895-1946)
Cầm đầu cơ quan công an
và t́nh báo bí mật Trung Quốc. Một nhân vật
được truyền tụng, nghe nói quê Chiangshan, tỉnh Triết Giang.
Học quân sự với các cố vấn quân sự Đức ở
Trung Quốc đầu những năm 1920. Taili được Tưởng chú ư
trong cuộc biểu t́nh của học sinh tháng 5-1925 ở Thương Hải, lúc
đó là một sĩ quan sơ cấp trong đội cảnh sát quân sự Quân đội
Trung Quốc và cũng là hội viên trong hội bí mật của Tưởng, tổ
chức Ching Hong Pang; được thăng đại uư và thuộc quyền Trần Lập
Phu, bí thư riêng của Tưởng (1925-1929). Taili có nhiệm vụ phát
triển Ban điều tra và Thống kê Trung ương (CIBIS) thành một tổ
chức có hiệu lực và cực mạng, có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu về
quân sự của Tưởng. Năm 1937, Taili cho lập Ban điều tra và Thống
kê Quân sự (MBIS) và đề nghị với Tưởng cho đặt cơ quan này dưới
quyền bảo trợ của Quân uỷ hội Quốc dân Đảng, do đó Giám đốc
(Taili) có toàn quyền hành động với danh nghĩa của Quốc dân
Đảng. Đến đầu những năm 1940, MBIS được chấn chỉnh lại và trở
thành một cơ quan độc lập trực tiếp chịu trách nhiệm với Tưởng
Giới Thạch và mang tên là Ban Trung ương điều tra và thống kê
(CISB). Taili có nhiều quyền hành với chức
Đại tướng và lănh đạo cơ quan này cho đến khi chết năm 1946.
Thế lực rất mạnh của Taili dựa vào sự ủng hộ
cá nhân Tưởng và tài tổ chức và kiểm soát hàng loạt các hội bí
mật Tnmg Quốc. Trong số tổ chức có thế lực nhất phải kể
đến “Hội tam điểm” (Triad Society), bắt đầu từ thế kỷ XIX chỉ là
một tổ chức tương tế ở miền Nam và Trung Trung Quốc, sau lan ra
nước ngoài vào các người Hoa ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, và
Đông Nam Á. Đặc điểm của tổ chức này là một thứ hỗn hợp của Hội
Tam điểm chống Thiên Chúa giáo và bọn cướp Mafia ở Sicilue.
Luật lệ bất khả xâm phạm về giữ ǵn bí mật
và những kư hiệu và nghi lễ bí mật làm cho hội viên trở thành
những mạng lưới t́nh báo khép kín chủ yếu là để “bảo vệ cho gia
đ́nh”. Đến giữa những năm 1920, các
tổ chức này biến thành những ổ tội phạm, như trường hợp của hội
“Ṿng xám” ở đám hạ lưu Thượng Hải. Cuối những năm 1930,
Ṿng xám do Tu Yu Sung cầm đầu, tên này có nhà ở và bản doanh
trong vùng tô giới Pháp, ngoài ṿng truy nă của cảnh sát Trung
Quốc - Taili đă tuyển mộ số này để tổ chức hệ thống t́nh báo
chống Cộng và thân Quốc dân Đảng.
Một tổ chức khác do Taili sử dụng là nhóm Nam Hoa, c̣n gọi là
“Ṿng đỏ”, do Ming The cầm đầu, hoạt động trong vùng Quảng Đông
- Hongkong - Quế Lâm. Hoạt động chủ yếu của họ là cướp đoạt,
Taili sử dụng họ như là một nguồn cung cấp tài chính và hoạt
động du kích chống Nhật.
Nhóm thú ba mà Tưởng Giới Thạch có danh nghĩa là người đứng đầu,
thường được gọi là “Ko Lao Hội” dưới quyền trực tiếp của Feng
Yu-hsiang, bí danh “tướng Công giáo” - Taili dùng nhóm này để do
thám Trung Cộng và người Nga. Tính chất của
Ko Lao Hội là phát xít.
Nhóm thú tư các tổ chức bí mật trong bộ máy của Taili là hội
“Lam Y”, một tổ chức theo kiểu phát xít châu Âu, gồm khoảng
10.000 cốt cán, phần lớn là các sĩ quan trường Hoàng Phố, theo
kiểu tổ chúc “Sơmi nâu” của Hitler. Số này được Taili sử dụng để
tra khảo theo kiểu Gestapo, ám sát chống Cộng và hoạt động phá
hoạt vừa chống Trung Cộng vừa chống Nhật.
Với mạng lưới tay chân rộng răi đó, Taili đă có quyền lực và khả
năng linh hoạt vô bờ bến để quyết định sống chết đối với kẻ thù
của Tưởng. Thoạt đầu đó chỉ là một tổ chức t́nh báo có mục đích,
chống lại kẻ thù chung thời cuối Thế chiến thứ hai, nhưng sau đă
trở thành một ngành cảnh sát quốc gia bí mật kiểm soát nhân dân
Trung Quốc. Có lúc, vào năm 1944-1945, theo chỉ thị của Tưởng,
Taili đă đặt quan hệ bí mật với các tư lệnh Nhật ở Trung Quốc,
Miến Điện và Đông Nam Á và đă bảo vệ cho cá nhân Koruda, người
cầm đầu tổ chức t́nh báo mật của Nhật ở Trùng Khánh. Taili chết
đột xuất ngày 17-3-1946 trong chuyến bay từ Thanh Đảo đến Thượng
Hải khi máy bay “'bị nổ” trên không gần Nam Kinh.
HẾT
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.