MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record v CBO
v US Government vCongressional Record
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News
v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian v Political Insider v Law v Media
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart Interceipt
v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic
v National Public Radio v ForeignTrade v Slate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
PHẦN II
CÔN MINH
Chương 7
Điều mà
Washington đă không biết
HỖN LOẠN
Chuyến bay của tôi đến Côn
Minh lúc đó mất khoảng độ một tuần, qua chừng 13.000 dặm từ
New York. Chiếc phi cơ C.47 lăn
bánh vào sân bay Côn Minh chiều tối ngày 13-4-1945, không ai
nghênh đón và cũng chẳng ai biết đến. Một lái
xe người Hoa đến gặp và đưa tôi
về nhà nhân viên OSS. Ở đó người quản ly chia cho tôi một
mảnh giấy của trung tá Paul L.E.
Helliwell(1) “Hoan nghênh dă đến Trung Quốc, sẽ gặp ở
buổi điểm tâm”. Sáng hôm sau, ở Câu lạc bộ sĩ quan, một sĩ
quan người cao, dáng dễ coi, đă nhẹ nhàng đi qua pḥng ăn và
giơ tay chào đón tôi.
Ông tự giới thiệu là “Paul” với một nụ
cười gượng trên môi. “Tôi sung sướng được gặp anh”,
và ông nói thẳng cho tôi biết rằng mọi việc ở đây đều “rối
tung lên” và Washington đă “chẳng
được giúp đỡ ǵ cả”.
Sau bữa ăn, chúng
tôi về khu vực của OSS, một khu có sáu hay bảy nhà cao tầng
chung quanh sân và có tường bao quanh.
Cơ quan treo cờ rủ - Tổng thống
Roosevelt đă mất trước đây hai hôm.
Chúng tôi đến thẳng dăy nhà hai tầng dài
và vào nhiệm sở của đại tá Heppner. Thông thường
Heppner điều khiển công việc từ cơ quan đóng ở Trùng Khánh,
cạnh hành dinh của Wedemeyer, Đại sứ quán Mỹ và chính phủ
Trung ương Tưởng Giới Thạch. Nhưng khi tôi tới th́ Heppner
cũng đến Côn Minh chủ tŕ một cuộc hội nghị hoạch định kế
hoạch cho các hoạt động của OSS ở Đông Dương.
Cuộc đảo chính mới nổ ra của Nhật và các cuộc chuyển quân
làm cho người ta phải tính đến khả năng người Nhật tiến về
phía Côn Minh và các điểm khác dọc sườn phía nam quân Tưởng,
Bộ tư lệnh của Wedemeyer đă chỉ thị cho OSS phải ngăn chặn
cuộc tiến quân của Nhật và hội nghị phải làm sáng tỏ các
quan hệ Mỹ - Pháp và quyền hạn của OSS được hoạt động ở Đông
Dương. Heppner muốn tôi tham dự hội nghị và cuộc gặp mặt đă
chuyển thành buổi giới thiệu tôi tham gia vào giới hoạt động
ở Trung Quốc, liền ngay sau khi tôi mới chân ướt chân ráo
rời khỏi cái bầu không khí đầy cao thượng và thanh khiết của
Washington. Cứ như là một cuộc nhảy ào
vào nước lạnh. Heppner mở đầu hội nghị và nói rằng
t́nh h́nh đ̣i hỏi phải có hành động cấp bách nhưng chính
sách Mỹ th́ không rơ ràng. Đặc biệt là OSS không biết phải
giúp cho người Pháp đang rút lui ở Bắc Kỳ chống cự lại Nhật
hay chạy trốn sang Trung Quốc.
Người
phát ngôn của Đại sứ quán cũng như của Chiến trường có mặt ở
đó đều không ai có thể trả lời được câu hỏi này.
Đại diện của tướng Chennault giữ lập
trường là cả hai việc đều cần được xúc tiến và đưa ra hai
bức công điện để hỗ trợ cho quan điểm của ḿnh.
Bức thứ nhất của tướng Marshall
gửi
cho Chennanlt đề ngày 19-3, trong đó có một đoạn nói: “thái
độ mới của Chính phủ là giúp đỡ cho người Pháp với điều kiện
là không được để cho sự viện trợ đó ảnh hưởng đến các chiến
dịch đă được hoạch định.
Đội không quân
thứ 14 có thể tiến hành các trận đánh vào quân Nhật ở Đông
Dương để chi viện cho người Pháp trong khuôn khổ đă định của
chính sách nói trên”.
Bức thứ hai, mới hơn, của Tham mưu trưởng Liên quân gửi cho
Wedemeyer và đề ngày 9-4, yêu cầu Wedemeyer “nghiên cứu việc
thả dù một số hàng tiếp tế nào đó (v́ những mục đích nhân
đạo) nhưng việc thi hành th́ vẫn do chiến trường Trung Hoa
quyết định”. Rơ ràng là Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân
muốn tránh không đi thẳng vào vấn đề và muốn chuồi cho
Wedemeyer trách nhiệm quyết định ra lệnh: đó là điều mà
Heppner muốn được thấy chiến trường chấp nhận trước khi ông
ta quay về Trùng Khánh. Hội nghị ngừng
họp vào buổi trưa.
Trong khi tôi vắng mặt, Helliwell đă nắm lấy chồng hồ
sơ tài liệu trong cơ quan tôi, và
với một niềm thích thú độc ác, đă ghi lại cho tôi mấy chữ:
“Để đánh giá tốt hơn nữa đối với tổ Đông Dương sự vụ (FIC
Affair) lộn xộn”. Các tập hồ sơ này mang những cái tên cũng
nói lên được một cách không úp mở: “Chính sách Mỹ - Đông
Dương thuộc Pháp”, “kế hoạch Quail”(2), “người Pháp ở Đông
Dương”, “phái đoàn quân sự Pháp - M.5”, “Người An Nam trong
các hoạt động của SI – SO” và v.v... Khi xem lại các tài
liệu, tôi mới thấy rơ rằng nhiều vấn đề chính sách c̣n rất
mù mờ và trong các quan hệ quốc tế về địa phương của chúng
tôi th́ đầy rẫy những cuộc đấu tranh chính trị nội bộ tương
tàn và xung đột về mục tiêu chiến tranh và các vấn đề về tác
chiến đ̣i hỏi phải có sự quyết định của cấp cao nhất.
Trước khi khởi sự hoạt động, tôi thấy
cần phải có một cuộc thảo luận sâu sắc, đưa ra quyết định
cuối cùng về các vấn đề nói trên và nó phải được đưa tới các
cấp ở Trùng Khánh và Washington.
Ngày hôm sau, Helliwell triệu tập các sĩ quan tham mưu, chủ
yếu để bàn về “kế hoạch Quail”, một hoạt động quan trọng của
SI ở Đông Dương mới được trên thông qua. Trong những người
có mặt, tôi thấy có đại uư (sau là thiếu tá) Robber E.
Wampler, thủ trưởng pḥng SO, ông R. Dulin, đại diện cho
pḥng Mountbatten, một đại diện của X2 (phản gián), một báo
cáo viên của cơ quan R&A(3), và
thiếu tá (sau là đại tá) A.R. Wichtrich thay mặt cho AGAS.
Ngay từ lúc tôi phụ trách kế hoạch “Quail”, Helliwell đă
giúp tôi cho kiểm điểm lại t́nh h́nh từ khi ông đến chiến
trường (vào ngày 25 tháng Giêng trước) và nghiên cứu các vấn
đề phải đối phó, các tiến bộ đă đạt được trước khi đi vào
thảo luận các vấn đề mới.
Báo cáo viên của R&A nêu tóm tắt về các hoạt động t́nh báo ở
Đông Dương. Theo ông, từ những ngày Nhật chiếm Đông Dương,
các giới liên quan người Pháp, Anh và Trung Hoa thỉnh thoảng
cũng đặt được những trạm thu tin, đường giao liên và mạng
lưới điện đài để nhằm đáp ứng các yêu cầu riêng của họ,
nhưng những hoạt động đó thường không kết hợp với các mục
tiêu của Đồng minh và nhiều khi lại cạnh tranh với nhau.
Chỉ có nhóm GBT là ngoại lệ và đă cung
cấp được nhiều tin tức quân sự cho Bộ chỉ huy Đồng minh.
Nhưng cả nhóm này cũng chỉ là một tổ chức không có h́nh thức
rơ rệt, theo đuổi những mục đích
khả nghi, và chỉ được đặt dưới một sự kiểm tra mơ hồ của
Đồng minh. Dẫu sao đi nữa th́ từ khi có cuộc đảo chính của
Nhật, mọi nguồn tin t́nh báo từ Đông Dương, bao gồm cả nhóm
GBT đều im lặng.
Báo cáo của R&A lại cho biết là ngay từ đầu tháng 11-1944,
tướng Wedemeyer đă quyết định cho tiến hành mạnh mẽ một
chương tŕnh hoạt động bí mật ở chiến trường Trung Quốc và
đă yêu cầu tướng Donovan xúc tiến thực hiện vấn đề này.
Trước sự phản ứng của Nhật đối với thắng lợi của Đồng minh ở
Thái B́nh Dương và hoạt động của Pháp ở Đông Dương,
Helliwell, ngày 1-3 (trước cú Nhật Bản) đă phải vội vă xin
chỉ thị hướng dẫn của Bộ tư lệnh chiến trường. Helliwell đă
được trả lời là ông không được làm việc với “người bản xứ
hoặc các nhóm cách mạng” và “trong bất kỳ trường hợp nào
cũng không được gửi tiếp tế cho bất kỳ ai ở Đông Dương...(cũng
như) không được làm việc với người Pháp nếu không thông qua
những tiếp xúc cấp cao ở Trùng Khánh”.
Helliwell lại c̣n được Hepper nhắc thêm “theo lệnh trực tiếp
của Tổng thống, OSS bị cấm không được ra những quyết định về
chính sách đối với Đông Dương thuộc Pháp”.
Cú mồng 9-3 đă gây ra một t́nh trạng cực
kỳ hỗn độn ở Trung Quốc.
Giữa lúc
đó, cả tướng Wedemeyer lẫn đại sứ Hurley đều ở Washington
họp với Tổng thống, Tham mưu trưởng liên quân và người cầm
đầu Bộ Ngoại giao và Bộ Chiến tranh.
Tướng Chennault thay Wedemeyer khi vắng
mặt và đại diện lâm thời Atcheson điều khiển đại sứ quán.
V́ không có tin tức cụ thể từ Đông Dương nên không thể lường
được những ư đồ về chiến lược của Nhật. Tưởng lo sợ một cuộc
tiến quân lên phía bắc vào đất Trung Quốc.
Người Pháp kêu la xin được tiếp cứu và
Chennault th́ không nhận được chỉ thị ǵ.
Chennault tuy là người thú hai sau
Wedemeyer nhưng thường không biết tới các cuộc thảo luận về
đường lối chính sách ở cấp cao.
Theo quan điểm của các nhà chính trị th́ vai tṛ sĩ quan
không quân cao cấp của ông ở Trung Quốc là chiến thuật hơn
là chiến lược. Do đó khi nổ ra cú 9-3, Chennault đă
bị đặt vào t́nh thế khá tế nhị.
Chennault đă không được hay biết ǵ về cuộc thảo luận ngày
26-1 giữa Clarac, cố vấn Đại sứ quán Pháp, Wedemeyer và
Hurley về vấn đề quan hệ Nhật - Pháp “đang đi đến một cuộc
khủng hoảng” và cả vấn đề người Nhật yêu cầu Pháp bố trí một
sư đoàn mới ở biên giới Bắc Kỳ và Trung Hoa v.v....
Chennault cũng chẳng được báo cho biết việc Wedemeyer có
liên lạc trực tiếp với trung tướng J.F. Hull(4) ở Hội nghị
Yalta, cũng như việc Wedemeyer đă được Hull thông báo cho
biết là tướng Marshall đă trao đổi với Tổng thống về vấn đề
các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương. Đặc biệt là: “Tổng
thống đă cho Marshall biết rằng ông không có ǵ phản đối
việc (Wedemeyer) cho tiến hành các hoạt động t́nh báo và lật
đổ ở Đông Dương. Tổng thống đồng ư với bất cứ điều ǵ làm để
chống lại người Nhật nhưng với điều kiện là chúng ta không
đuợc sắp cùng hàng với người Pháp.
Tổng
thống cũng không thay đổi thái độ trong việc đối xử với các
nhà chức trách Pháp về vấn đề công nhận chính thức quyền lợi
của Pháp ở Viễn Đông”.
Những thông tin cơ bản này đă không có
giá trị ǵ đối với Chennault và sau ngày 9-3, khi người Pháp
lên tiếng cầu cứu, Chennault đă dùng quyền chỉ huy của ḿnh
để đáp lại lời kêu gọi của Pháp. Chennault đă dựa vào
một bức điện mơ hồ của Bộ Ngoại giao cho phép Wedemeyer
“giúp đỡ người Pháp” trong trường hợp họ phải tới Trung Quốc
để “xin viện trợ về thuốc men”, miễn là có thông báo cho
người Trung Hoa biết.
Chennault đă gặp Tưởng Giới Thạch vào sáng 10-3 cùng với
tướng Hà Ứng Khâm. Chennault hỏi Tưởng xem người Pháp có thể
bị tước vũ khí không nếu như họ kéo vào Trung Quốc và không
nghiêm chỉnh chống cự lại người Nhật. Tưởng chỉ đáp lại là
người Pháp “có thể ở lại Trung Quốc trong một khu vực
riêng..”. Đối với câu hỏi phải làm ǵ nếu như người Pháp
tiến hành một cuộc chống cự kiên quyết, họ có bị phó mặc cho
số phận của họ hay chúng ta sẽ đưa quân sang hỗ trợ cho họ;
Tưởng đáp “nếu có chống cự kiên quyết th́ cũng có thể được
giúp đỡ”.
Trong khi thiếu một chính sách rành rọt,
Chennault đă quan niệm chỉ thị mập mờ của Bộ Ngoại giao và
những lời phát ngôn nước đôi của Tưởng là ngọn đèn xanh cho
phép ông giúp Pháp. Chennault đă phái các cơ quan
t́nh báo của ḿnh (OSS/AGFRTS) đột nhập vào Đông Dương để
tiếp xúc với các nhân viên hàng không người Pháp và thu xếp
việc thả dù tiếp tế vũ khí, đạn dược, thuốc men và lương
thực. Nhưng đến ngày 20-3, Bộ Chiến tranh đă ra lệnh cấm
Chennault cung cấp vũ khí và đạn dược, mà chỉ cho phép thả
bom và bắn phá quân Nhật ở Đông Dương.
Bốn năm sau tướng Chennault đă đánh giá t́nh h́nh của ông
như sau:
“Chính phủ Mỹ rất quan tâm đến việc người Pháp bị đánh bật
ra khỏi Đông Dương, v́ việc đó sẽ làm dễ dàng hơn vấn đề
tách người Pháp ra ngoài thuộc địa của họ sau chiến tranh.
Lúc đó, người Anh lại ra sức phục hồi lại hệ thống các thuộc
địa của họ ở Viễn Đông và coi việc thất bại của người Pháp ở
Đông Dương là vô cùng tai hại cho uy tín của chính đế quốc
ḿnh. Khi các máy bay vận tải Mỹ tránh không đến Đông Dương
th́ các phi đội hàng không Anh có nhiệm vụ tiếp tế mọi mặt
cho người Pháp từ Calcutta, thả dù cho họ súng tiểu liên,
lựu đạn và súng cối.
Tôi đă nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh cấp trên đúng từng
chữ, nhưng thực sự tôi đă chẳng thích thú ǵ với cái ư nghĩ
phải để mặc cho người Pháp bị tàn sát trong rừng sâu khi mà
tôi chính thức bị buộc không được biết đến cảnh ngộ của họ”.(5)
Trở lại cuộc hội nghị, các vấn đề của Helliwell đặt ra rất
khác với tướng Chennault.
Trong khi
Chennault nhận được chỉ thị phải đ́nh chỉ gửi vũ khí đạn
dược cho người Pháp ở Đông Dương th́ OSS lại nhận được lệnh
phải xây dựng những mạng lưới t́nh báo mới ở đó.
OSS đă nhận được hai bản chỉ thị.
Cả hai bản đều do tướng Marvin E. Grose, quyền tham mưu
trưởng, kư thay cho tướng Chennault, tư lệnh chiến trường
Trung Hoa.
Bản chỉ thị thứ nhất cho phép thành lập các lưới t́nh báo ở
Đông Dương và cho phép viện trợ bất kỳ “nhóm kháng chiến nào
mà việc chống đối tích cực với quân đội Nhật sẽ làm tăng
thêm thuận lợi cho các hoạt động của Mỹ và Trung Quốc”. Ở
đây có hai điểm quan trọng: sự viện trợ được hạn chế trong
những việc không được gây trở ngại cho các cuộc hành quân đă
được hoạch định và đang được xúc tiến trên chiến trường
Trung Hoa; phải hết sức thận trọng trong khi hoạt động để
làm sao cho “tất cả các nhóm đều được phân phối công tác một
cách không thiên vị, bất kể họ có nguồn gốc chính trị hay sự
liên kết với một Chính phủ riêng biệt nào”.
Bản chỉ thị thứ hai đ̣i OSS phải thành
lập nhiều trạm vô tuyến điện để phục vụ cho cả OSS và Phái
đoàn quân sự Pháp. Các bản chỉ
thị nói trên đă thúc đẩy OSS hoạt động nhưng đồng thời cũng
đặt OSS vào một t́nh thế khá tế nhị và dễ gây lúng túng cho
Pháp. Helliwell giải thích là
người Pháp đă nài ép để xin được tiếp viện nhiều vũ khí và
trang bị chiến đấu, mà làm như thế th́ chỉ gây trở ngại cho
các kế hoạch tác chiến của chiến trường v́ phải giảm bớt đi
không ít khả năng của không lực và, “khối lượng hàng tiếp
vận của Hump”. Theo các chỉ thị
mới th́ cũng trong thời gian này, OSS lại được giúp đỡ người
Việt Nam quốc gia. Những người này cũng đ̣i hỏi vũ
khí và trang thiết bị chiến đấu nhưng với một khối lượng nhỏ
bé, không cần đến một sự bảo đảm
hậu cần quan trọng hoặc phải điều chỉnh lại các kế hoạch
hoạt động đă được vạch ra.
Tôi nêu vấn đề là trong tháng qua không
biết đích xác là Pháp đă có tiến hành một cuộc chống cự có
tổ chúc nào không. Helliwell xẵng giọng đáp lại ngay:
“Chết tiệt! Không có ǵ hết!
Chúng ta đă
thả dù hàng tấn vũ khí và đạn dược, nhưng không đâu báo là
có cuộc chống cự của Pháp.
Thực
tế chúng ta nghĩ rằng Nhật đă tóm hết mọi thứ của chúng ta
trong khi Pháp rút chạy gấp về phía biên giới”.
Helliwell nói, với hai bản chỉ thị mới, ông
ta thấy rằng cần bắt đầu phái các t́nh báo viên xâm nhập vào
Đông Dương, mặc dầu ngày hôm sau ông nhận được một bức điện
của Bộ Chiến tranh ra lệnh cho OSS “không được làm ǵ cả đối
với Đông Dương thuộc Pháp”.
Bức điện cấm Chennault không được tiếp
tục thả dù vũ khí cho nhân viên hàng không Pháp và hai chỉ
thị của chiến trường cho phép triển khai các hoạt động t́nh
báo ở Đông Dương đều được ghi cùng một ngày – 20-3.
Giữa t́nh h́nh lộn xộn gây ra do mớ điện tín nói trên th́
Helliwell nhận được sự đồng ư của chiến trường về “phương án
Quail” mà người ta phải nóng ḷng chờ từ nhiều tuần nay.
Nhưng ngày hôm sau, Helliwell lại nhận được một bức điện của
đại tá Willis S. Bird, phó của Heppner, nói “không được làm
ǵ cả trong việc thành lập các đài vô tuyến” định để phục vụ
cho cả OSS và Pháp. Lại một chuyện kích
động nữa trong quan hệ gay cấn giũa Mỹ và Pháp.
Helliwell tỏ ra rất bực ḿnh v́ không có sự phối hợp giữa
các yêu cầu cấp bách về tin tức hoạt động của Nhật ở Đông
Dương với mớ lệnh và phản lệnh quá hỗn độn của cấp trên. Ông
đă phái nhiều sĩ quan Mỹ và hiệu thính viên người Việt tới
biên giới để t́m gặp đội quân đang rút lui của tướng
Sabattier(6) và thu lượm tin tức về Nhật. Tất cả điều mà
những người này đă có thể báo cáo về được là “người Pháp
đang bị Nhật đuổi chạy sát nút”. Và
theo
Helliwell, người Pháp cũng chẳng có thể cung cấp được tin
tức ǵ về các đơn vị Nhật đang săn đuổi họ.
Helliwell cũng rất chán ngán bởi câu
chuyện rắc rối mới đây xảy ra giữa Pháp, Anh, Mỹ và Trung
Hoa. Câu chuyện đă được nhóm GBT
báo cáo cho đại tá Bird ở Trùng Khánh rồi chuyển đến chỗ
Helliwell. Theo GBT th́ nhà đương cục ở Đông Hưng(7)
ngày 20-3 đă thấy hai phi cơ Đồng minh lượn trên vùng trời
Móng Cái và thả dù vũ khí cùng với đạn dược của Anh. Nhưng ở
đó không có ai thu nhận nên người
Trung Hoa đă ra thu nhặt tất cả. Vài phút sau GBT nhận được
tin điện của Pháp nói rằng người Pháp đă rút lui hết sang
đất Trung Quốc và Nhật đă chiếm Đông Hưng, Móng Cái và Tiên
Yên. Pháp yêu cầu cho ném bom vào cả ba
vị trí nói trên.
Rơ ràng là người Pháp không muốn mạo hiểm quay trở lại Móng
Cái v́ sợ đụng phải Nhật nhưng cũng không muốn cho người
Trung Hoa thu lượm được món hàng
thả dù khá quư giá nên đă yêu cầu cho thả bom ngay vào chỗ
người Trung Hoa. Thật hiển nhiên là người Pháp đă t́m cách
đánh lừa người Mỹ trong việc thả bom xuống các khu vực có
quân đội Trung Quốc, và cũng may mắn mà nhóm GBT c̣n có liên
lạc bằng điện đài với những nạn nhân mà đă được người ta
nhắm sẵn.
Helliwell nói rằng Gordon đă cảm thấy
người Pháp “hoàn toàn không đáng tin cậy” và mỗi hành động
của Mỹ sau này đối với họ đều được xem xét kỹ lưỡng.
Gordon cũng lại cảnh báo rằng
theo
ư kiến riêng của y th́ “người Anh đă cắn chặt được một miếng
và tự ḿnh lao vào Đông Dương mà không có sự phối hợp của
chiến trường”.
CÓ TIN G̀ VỀ “ÔNG HỒ” KHÔNG?
T́nh
h́nh đă dẫn đến việc phải thảo luận xem sẽ làm
ăn ra làm sao đây trong một t́nh
huống chắp vá giữa cái được làm và không được làm. Qua các
cuộc gặp gỡ và qua những điều mà tôi được biết ở Washington
th́ quả nhiên trong lúc này người ta rất ít mong chờ được ǵ
ở người Pháp nên tôi đă phải tự hỏi: “Thế c̣n người Việt
Nam? Đă có ai đó tiếp xúc với họ chưa?”.
Thiếu tá Wichtrich cho biết AGAS đă có
khá nhiều cuộc tiếp xúc với họ và cũng đă đạt được kết quả
tốt. Ông Dulin đồng ư với Wichtric và nêu ư kiến là
trái với những người Pháp không chịu công nhận giá trị của
người Việt Nam và quan điểm của Chiến trường về “những sự
rối rắm chính trị”, người Việt Nam có một tổ chức đang hoạt
động và nếu được trực tiếp tiếp xúc với họ để làm việc th́
sẽ rất có ích. Nhưng ông nói thêm “cánh ở Đại sứ quán lại
không thích làm ăn với họ.
V́ người ta cho họ là Cộng sản và chống
Pháp”. Helliwell đáp lại: “Bậy!
Nếu họ có một tí ǵ là tốt th́ ta cũng t́m cánh dùng họ.
Chúng ta đă được sự đồng ư của
Washington và Trùng Khánh cho sử dụng tất cả mọi nhóm kháng
chiến”.
Đại diện cơ quan R&A chủ động cho biết có nhận được những
báo cáo mới về sự chống cự kịch liệt của người Việt Nam với
quân Nhật trong vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc
Cạn và các cuộc chiến đấu của họ mang tính chất bán quân sự.
Nhiều báo cáo của người Việt Nam cung
cấp cho OSS/AGFRTS và GBT có giá trị làm cơ sở cho mệnh lệnh
chiến đấu. Dulin, một chuyên gia về chiến tranh chính
trị, nói rằng OWI đă sử dụng nhiều người của Việt Minh do
một “ông già” tên là Hồ Chí Minh lănh đạo và trong thực tế
th́ ông Hồ cũng đă tiến tŕnh inột số công tác chiến tranh
tâm lư cho cơ quan tuyên truyền Trung Quốc, cùng với OWI.
Lúc đó Wichtrich mới công nhận là AGAS đă thực hiện một công
tác đối với ông Hồ để tổ chức cứu thoát phi công ở Đông
Dương. Wichtrich gượng cười nói với Helliwell: “Fenn, người
của anh đă làm om ṣm về con người ấy trong nhiều tuần đấy”.
Helliwell không chịu kém, đă đáp lại: “Tôi biết! Tôi đă cấp
cho ông ta một số vũ khí để tự vệ”.(8)
Tôi kể cho họ là tôi đă bắt gặp tên của “ông Hồ” trong các
hồ sơ của Washington đề ngày tháng từ 1942 và cả trong các
hồ sơ mới đây của Sprouse và Langdon thuộc Đại sứ quán và
của Powell thuộc OWI. Thực tế chỉ trước
đó một ngày, tôi cũng đă đọc bản báo cáo của Fenn nói về một
cuộc điều đ́nh với ông Hồ để tổ chức một mạng lưới t́nh báo
khắp Đông Dương để hỗ trợ cho OSS và AGAS. Ư định của
tôi nếu như không ai phản đối, là đi sâu vào tổ chức của
người Việt Nam nhằm để họ phục vụ cho “phương án Quail”,
nhưng trước hết tôi lại muốn biết ư kiến có cơ sở của mọi
người về phản ứng có thể của người Pháp.
Helliwell không nghĩ rằng chúng ta sẽ
phải thảo luận với người Pháp và ngay cả với Đại sứ quán của
ta, và cũng không hề thấy rằng sự hợp tác của Heppner đối
với chúng ta là rất cần. Wichtrich bị bối rối ra mặt
và đă trả lời tôi là anh ta không quan tâm ǵ đến người Pháp
hay nhân viên ngoại giao nhưng anh ta muốn được có sự đảm
bảo rằng SI sẽ không làm ǵ để gây trở ngại cho AGAS.
Helliwell đă nói để Wichtrich yên tâm là sự cộng tác của ông
Hồ phục vụ cho AGAS sẽ được SI chúng ta hỗ trợ cả về mặt tài
chính và phương tiện thông tin liên lạc.
Hội nghị đă kết thúc với ư kiến thống nhất rằng tôi có thể
càng sớm càng hay, thực hiện một cuộc thanh tra trên bộ tới
Szemao(9) và dọc theo biên giới
Đông Dương, cho khởi sự việc khôi phục lại nguồn t́nh báo,
xác định t́nh trạng quân sự của Pháp và có khả năng thu xếp
để tiếp xúc với các lănh tụ Việt Minh.
Về các mặt khác, trong số ít ngày đầu tiên của tôi ở Côn
Minh, đă thể hiện ra một cách không được sáng sủa lắm.
Tôi đă chẳng có tin tức ǵ về số nhân
viên đă được đặc biệt chọn lọc mà tôi đă tuyển dụng tại
Washington.
Cuộc viếng thăm đầu tiên của tôi đến
phái đoàn quân sự Pháp (M.5) (10) cũng chỉ mang lại cho tôi
một sự thất vọng.
Phái đoàn đang
thay đổi bộ máy chỉ huy và trong một t́nh trạng hoàn toàn
rối loạn. Trưởng phái đoàn mới
th́ vắng mặt, c̣n những người có mặt th́ chẳng ai tỏ ra có
trách nhiệm ǵ cả. Những ngày tiếp
theo, tôi trở lại thăm th́ t́nh
h́nh cũng chẳng có ǵ khác hơn trước.
Tại trụ sở BIS của tướng Tai Li ở Côn
Minh th́ sự tiếp đón hoàn toàn thân mật nhưng cũng không có
ǵ đáng được tưởng lệ.
Khá nhiều
nước trà, nhiều nụ cười lịch sự và câu chuyện nói bằng tiếng
Trung Hoa giữa những người phiên dịch cũng nhiều hơn.
Và các vị khách của tôi chỉ nói rằng họ mới ở Tú Xuyên về và
không hay biết ǵ về các hoạt động t́nh báo ở Vân Nam và
Đông Dương.
Helliwell và Dulin đă cấp cho tôi một bản danh sách các Việt
kiều di cư do Cha Jean Tống, một thầy tu Thiên chúa giáo
người Hoa d́u dắt. Nhưng sau nhiều cố
gắng để t́m kiếm họ mà không có kết quả nên tôi đă bỏ qua.
Suốt trong thời gian đó, Bộ Tư lệnh chiến trường vẫn tiếp
tục đ̣i tin tức t́nh báo và nhấn mạnh việc OSS phải tiến
hành quấy rối người Nhật dọc
theo
hành lang Hà Nội, Nam Ninh, Quảng Đông.
Trong t́nh huống hỗn loạn lúc đó, nhiều toán OSS ở phía nam
Trung Quốc và bắc Đông Dương đang bị mất liên lạc với Côn
Minh, và đó cũng là một nguồn đẻ ra nhiều điều lo ngại
nghiêm trọng.
PHÁI VIÊN CỦA “TƯỚNG” HỒ
Nhưng cũng đă có một sự kiện có tính chất
tích cực đă xảy ra trong ngày đầu tiên tôi ở Côn Minh này.
Việc tôi sục t́m các con chiên của Cha Tống chắc đă được bàn
tán nhiều trong giới Việt kiều ở Côn Minh và tôi đă được một
người là Vương Minh Phương t́m đến thăm.
Giữa những lời xin lỗi quá thừa v́ đă quấy quả tôi vào một
chiều thứ bảy, Phương tự giới thiệu là hội viên Mặt trận Độc
lập Đông Dương. Tên ông ta cũng không phải là mới lạ ǵ đối
với tôi. Tôi đă bắt gặp cái tên
đó trong bản báo cáo của Langdon nói về cuộc nói chuyện với
các hội viên của Mặt trận vào tháng 8-1944.
Phương mới ngoài 30 tuổi và nói tiếng
Pháp lưu loát. Theo Phương kể th́ Phương vốn là sinh
viên trường Đại học Hà Nội và đă tới Trung Quốc vào mùa thu
năm l943, sinh sống cạnh cơ quan OSS, trong khách sạn Quảng
Lạc, 39 Tai Ho Gai. Phương có quen ông Glass ở OSS, đă từng
cộng tác với Powell thuộc OWI và đă gặp thiếu tá
Stevens(11) ở Trùng Khánh và ông
Langdon ở Lănh sự quán Côn Minh có biết. Rơ ràng là Phương
quen biết toàn là những người đúng đắn nên tôi cũng thích
thú chờ biết lí do cuộc viếng thăm.
Phương giải thích là cần phải làm cho tôi biết rơ rằng nhũng
người mà tôi đang t́m kiếm không phải là “những người Việt
Nam tốt nhất” ở Côn Minh mà họ đều là nhân viên của hai công
ty do Pháp đỡ đầu(12) liên kết Hoa Việt Cách mạng Đồng minh
Hội. Họ đă được định cư ở Trung Quốc và
tự coi ḿnh là người dân Trung Quốc. Phương nói, c̣n
những người Việt Nam tha thiết đánh “phát xít Nhật” th́ đều
thuộc mặt trận của Phương, được nhiều người biết với cái tên
là Việt Minh mà lănh tụ là “tướng” Hồ Chí Minh.
Phương mặc âu phục, tỏ ra là một người có học thức tốt và
hoàn toàn thông thạo về vấn đề chiến tranh nói chung, và tất
nhiên là giỏi về vấn đề Đông Dương. Phương quen thuộc với
OSS và AGAS hơn là tôi đối vối Mặt trận Việt Minh của ông và
ông ta cũng biết về tôi nhiều hơn là tôi biết về ông ta. Tôi
lắng nghe ông lái một cách tài t́nh câu chuyện sang mục đích
thực sự của cuộc viếng thăm.
Với một chút tự hào, Phương đă kể lại về các đồng sự của ông
ở Đông Dương và Trung Quốc đă làm việc một cách rất chặt chẽ
với một số người Mỹ của tướng Chennault và OSS, đă cung cấp
tin tức về đội h́nh chiến đấu của quân Nhật và về các mục
tiêu t́nh báo. Phương có nói đến hoạt động t́nh báo của OSS
- AGAS mà Việt Minh có góp phần giải thoát “nhiều” phi công
của Mỹ qua việc cung cấp chỗ trú ẩn và hướng dẫn họ đến nơi
an toàn.
Sau đó Phương trượt nhẹ sang lĩnh vực chính trị, b́nh luận
rằng người Việt Nam rất biết ơn người Mỹ về sự thông cảm đối
với quyền lợi các dân tộc, sự quan tâm của họ đối với vấn đề
thuộc địa và đă ghi nhận rằng cố Tổng thống Roosevelt trong
nhiều dịp đă công khai ủng hộ độc lập chính nghĩa của họ.
Tôi đă ngắt lời và nhắc với ông là tôi
không phải là một nhà ngoại giao, cũng chẳng phải là một nhà
chính trị mà chỉ là một quân nhân.
Với nụ cười thông cảm, Phương chống chế
là đă quá phấn khởi v́ đă có cơ hội để diễn đạt trước một
quan chức Mỹ về những t́nh cảm tốt đẹp của nhân dân ông ta
đối với nước Mỹ. Rồi sau đó Phương lại nói về các khả năng
quân sự của Việt Minh.
Theo Phương, Việt Minh mặc dầu là một mặt trận chính trị
nhưng cũng đồng thời là một lực lượng vũ trang, tổ chức
thành những đơn vị du kích và đă tích cực tiến hành một cuộc
chiến tranh không chính thống chống lại Nhật. Phương nói
rộng ra là bên cạnh những trận ném bom của Đội không quân
thứ 14 th́ không c̣n có một lực lượng nào khác ngoài Việt
Minh đă chống cự lại với “kẻ thù chung”. Người Pháp “chưa
bao giờ đánh lại bọn phát xít ở Đông Dương và đă từ lâu họ
không c̣n ở đó nữa”. C̣n Việt Minh lại có lực lượng trên đất
liền, đă quyết tâm và có khả năng “chiến đấu sát cánh” với
Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ.
Trưa đến, tôi mời Phương dùng cơm ở nhà ăn OSS rồi sau đó sẽ
tiếp tục câu chuyện. Phương tỏ ra vui ḷng được nói chuyện
thêm nhưng đề nghị đến
ăn ở một
khách sạn địa phương Trung Quốc cho đỡ lộ liễu.
Chúng tôi liền đến một quán cơm b́nh
thường ở gần trường Đại học Vân Nam và các toà lănh sự Mỹ,
Anh. Trong bữa ăn, tôi khuyến khích Phương nói về
Việt Minh, lập trường, mục đích của Mặt trận và
theo ư họ th́ làm thế nào để có
thể giúp cho Đồng minh đánh Nhật và họ có thể mong đợi ǵ ở
các nước Đồng minh. Theo lời phát biểu của Phương (mà tôi đă
tóm tắt lại để ghi vào băng ngay hôm đó): Việt Minh là một
liên minh các đảng phái của những người quốc gia Việt Nam
dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức
theo đường lối của Đảng nhằm mục đích trước mắt là đánh đuổi
người Nhật và ngăn ngừa Pháp quay trở lại.
Cuối cùng, Việt Minh hy vọng thành lập
được một “Cộng ḥa Đông Dương độc lập, dân chủ”.
Phương tin rằng mặt trận có thể cung cấp cho Đồng minh những
tin tức có ích về người Nhật, người Pháp và bọn bù nh́n ở
Đông Dương. Họ có thể cộng tác với người Mỹ trong các hoạt
động phá hoại, biệt kích và các trận đánh khác chống Nhật;
họ sẽ hướng dẫn và giáo dục cho người Việt tiếp tục giúp đỡ
cho các nhân viên hàng không Mỹ bị hạ và đưa họ đến những
nơi an toàn. Đổi lại, Việt Minh chỉ yêu cầu Mỹ công nhận
Liên minh Độc lập Đông Dương là tổ chức duy nhất hợp pháp và
được phép đại diện cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh chống bọn phát xít và yêu cầu Mỹ cung cấp cho họ
phương tiện để chiến đấu bên cạnh các nước Đồng minh. Khi
tôi hỏi lại họ cần ǵ th́ Phương đáp: “Vũ khí, đạn dược, cố
vấn, huấn luyện viên và phương tiện thông tin liên lạc với
Bộ Tư lệnh Đồng minh”.
Phương chờ trả lời nhưng tôi đă cảm ơn và nói rằng đề nghị
của họ thật phong phú và rất hay nhưng tôi c̣n cần phải bàn
với các cộng sự của tôi.
Trong khi đó
th́ làm thế nào có thể gặp được “tướng” Hồ? Phương
nói là trước đây mấy hôm ông có đến Côn Minh, nhưng nay đang
trên đường trở về Việt Nam và có thể đang dừng lại ở Tŕnh
Tây. Phương có thể báo tin cho ông Hồ và
tin chắc rằng ông sẽ vui ḷng gặp tôi. Ông nói với
Phương là tôi có thể đến Tŕnh Tây nhưng phải đợi đến sáng
hôm sau mới khẳng định chắc chắn được điều đó.
Chúng tôi rời khách sạn khá muộn.
Ngay chiều hôm đó, tôi bàn với Helliwell và Wampler về cuộc
gặp gơ với Phương. Kế hoạch chung nhằm cộng tác với người
Việt Nam mà chúng tôi đồng ư tiến hành mấy hôm trước nay lại
có thêm một khía cạnh mới qua lời phát biểu khá đặc biệt của
Phương. Sự khẩn khoản của họ đối với vấn đề công nhận chính
thức là một vật chướng ngại quan trọng. Helliwell đồng ư với
quan điểm được Heppner ủng hộ là không có vũ khí nào do OSS
cung cấp lại được sử dụng để chống lại người Pháp. Nhưng
Helliwell vẫn giữ quan điểm của ḿnh là trong khi AGAS sử
dụng Việt Minh vào các hoạt động của họ th́ chúng ta cũng có
thể mở rộng mạng lưới đó ra để bao gồm cả việc
thu thập t́nh báo và đánh du
kích.
Đêm đó, Heppner đă từ Trùng Khánh đến và
chúng tôi đă đề đạt ngay ư kiến với Heppner. Thoạt
đầu Heppner đă gạt bỏ và cho rằng ư kiến đó không thể thực
hiện được về phương diện chính trị; ông đă gặp rất nhiều khó
khăn với tướng Hurley(13) chung
quanh việc những người Cộng sản Trung Quốc. Ông nói riêng
cho chúng tôi hay rằng người phụ tá của ông, đại tá
Bird(14), lúc đó đang công tác ở
Diên An với đại tá David D. Barrett(15) để thu xếp một sự
liên minh giữa những người Quốc dân đảng của Tưởng với nhũng
người Cộng sản của Mao; và Hurley đă rất phẫn nộ với OSS,
cho rằng OSS đă chen vào một việc mà ông cho đó là của Bộ
Ngoại giao. Heppner tin chắc rằng người Trung Hoa sẽ đưa ra
mọi sự phản đối về bất cứ một sự cộng tác nào với những
người Cộng sản Việt Nam.
Mà cả đến Đại
sứ quán của chúng ta nữa cũng vậy.
Và chúng ta cũng không được quên Phái
đoàn Quân sự Pháp, chắc chắn là họ sẽ không hài ḷng nếu họ
thấy được là chúng ta đang điều đ́nh với Việt Minh.
Nhưng khi Heppner đă biết được người
Pháp và người Trung Hoa tiếp đón tôi như thế nào th́ ông
cũng chấp nhận lập trường của chúng tôi, không có ǵ thay
đổi thêm. Ông căn dặn tôi không được làm ǵ chống đối
với người Trung Quốc cũng như với người Pháp v́ ông và
Whitaken cũng sẽ phải làm việc với họ ở Trùng Khánh, c̣n
tướng Donovan th́ đă được Nhà Trắng chỉ thị cho phải hợp tác
với cả đôi bên. Chính v́ thế mà vấn đề
làm việc với Việt Minh đă được để lại sau này sẽ xem xét khi
t́nh h́nh phát triển thêm.
Sáng hôm sau, Phương, rất đúng giờ, đến cơ quan của tôi và
cho biết đă gửi thư báo cho
“tướng” Hồ nhưng không chắc là thư sẽ đến kịp trước khi ông
Hồ rời đi biên giới. Phương gợi ư là nếu tôi có đến Tŕnh
Tây th́ tôi nên dừng lại ở một quán trà nào đó và t́m một
người Trung Hoa nói thạo tiếng Anh tên là Wang Yeh Li, người
này có thể giúp tôi gặp được ông Hồ nếu ông c̣n ở đó.
Chú
thích :
(1)
trưởng ban mật vụ SI, OSS Côn Minh
(2) Kế hoạch hoạt động của OSS ở Bắc vĩ tuyến 16 Đông
Dương
(3) Cơ quan nghiên cứu và phân tích, OSS
(4) Trợ lư Tham mưu trưởng, Cục tác chiến, VVD
(5) Chennault, “Con đường của một chiến sĩ”
(6) Tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ và Tổng đại diện
Pháp ở Đông Dương sau khi Aymé và Mordant bị bắt.
(7) Thị trấn biên giới Trung Hoa, giáp với thị trấn Móng Cái
(8) Đầu tháng 3, Helliwell đă cho phép lấy ở kho OSS 6 khẩu
Colt 45 và nhiều đạn giao cho AGAS để chuyển cho ông Hồ
(9) c̣n gọi là Fu Hsing Chen, một thị trấn cổ, cách Côn Minh
200 dặm về phía nam.
(10) Đây có sự nhầm lẫn. Chỉ có một phái đoàn quân sự Pháp
bên cạnh chính phủ Trung Quốc ở Trùng Khánh, dưới quyền
tướng Pechkov; c̣n M.5 ở Trùng Khánh chỉ là một đơn vị của
SLFEO/Calcutta, phụ trách về các hoạt động bí mật ở Đông
Dương
(11) đại diện OSS ở Đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh
(12) Hội tương tế và Hội thể thao của người An Nam ở Vân Nam
(13) Đại sứ mới thay cho Gauss từ tháng 1-1945
(14) đại diện OSS/Chiến trường Trung Hoa
(15) thủ trưởng Nhóm quan sát Mỹ (DIXIE) ở hành dinh Cộng
sản Trung Quốc ở Diên An
Chương 8
Vấn đề mới của Pháp
CUỘC ĐẢO CHÍNH MỒNG 9-3
Trước khi rời Szemao, tôi may
mắn được đọc một bản báo cáo thảo ra dựa trên cơ sở của cơ quan
R&A thu lượm những mẩu chuyện của những người Pháp dân sự và
quân sự tị nạn và của OWI rút ra từ các bản tin phát nhanh của
Nhật. Bản báo cáo tổng hợp những tin tức về “coup de force”(1)
ngày 9-3 và hậu quả của nó, đă giúp cho tôi được rất nhiều trong
khi tôi đi thị sát chiến trường. Qua bản báo cáo, tôi được biết
là chiều ngày 9-3, đại sứ Nhật Shunichi Matsumoto và Tổng lănh
sự Kono đă triệu Toàn quyền Decoux đến để ép Pháp phải có một sự
cộng tác nhiều hơn và chân thành hơn với người Nhật. Kono đ̣i
hỏi một sự gia tăng quy mô lớn của Pháp vào “quỹ chiến tranh”
của Nhật, giảm bớt các biện pháp hạn chế việc thu mua thóc gạo
của quân đội Nhật và bảo đảm sẽ không huỷ bỏ thoả hiệp Liên minh
pḥng thủ Pháp - Nhật ở Đông Dương. Decoux chần chừ nói rằng cần
phải có thời gian để trao đổi với Chính phủ của ông ở Hà Nội.
Cho rằng Decoux t́m cách lảng tránh, đến 6 giờ chiều ngày hôm
đó, Đại sứ Nhật gửi cho viên toàn quyền một tối hậu thư. Lần này
yêu cầu của người Nhật được nêu rơ ràng: người Pháp phải cùng
với người Nhật pḥng thủ Đông Dương trong trường hợp có cuộc xâm
lăng của Anh - Mỹ; tất cả các lực lượng quân sự và cảnh sát của
Pháp phải đặt dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của quân đội Nhật;
Pháp phải giao cho Nhật tất cả các hệ thống thông tin liên lạc,
vận tải, hệ thống ngân hàng và các cơ quan hành chính. Các điều
khoản trong tối hậu thư phải được
chấp nhận vô điều kiện trong ṿng 2 giờ.
Đến 10 giờ 15 tối, quá hạn 2 giờ ấn định trong tối hậu thư,
người Nhật nhận được công hàm của Decoux báo cho biết ông cần
nhiều thời gian hơn nữa để c̣n “trao đổi ư kiến”, Matsumoto liền
ra lệnh cho quân đội nắm quyền và đặt Decoux dưới sự “canh giữ
bảo trợ” của quân đội.
Đến 2 giờ sáng (giờ Tokyo) ngày 10-3, Tổng hành dinh Thiên hoàng
ở Tokyo ra thông báo về việc tiếp quản ở Đông Dương và nói rơ đó
là do Bộ chỉ huy quân đội Nhật ở đó chủ động tiến hành. Tiếp đó,
vào 9 giờ sáng (giờ Tokyo), sau một buổi họp nội các đặc biệt ở
Hoàng cung, Chính phủ Tokyo công khai thừa nhận quyết định quân
sự nói trên và đề xướng ra chính sách ủng hộ nền độc lập của
Việt Nam:
“Ngay sau khi Đông Duơng tỏ ra có dấu hiệu đang tiến lên thành
một nước độc lập th́ Chính phủ Nhật nhất định giúp đỡ cho các
dân tộc này đạt được “sự độc lập chủng tộc chân chính” dựa trên
cơ sở những nguyên tắc đă được nêu lên trong bản tuyên ngôn
chung của các nước Đại Đông Á”.
Khi người Nhật trong buổi chiều ngày 9 đang làm áp lực để người
Pháp gia tăng sự ủng hộ cho Nhật th́ Hoàng đế Bảo Đại của An Nam
trong bản thông điệp nhân dịp năm mới (Tết) ca ngợi Pháp và nêu
lên rằng: “Nước Pháp đă phải chịu rất nhiều đau khổ để khôi phục
lại đất nước và sự phục hưng đó là điềm báo hiệu của một thời kỳ
hoà b́nh và thịnh vượng mà trong đó tất cả các dân tộc sống dưới
sự bảo hộ của Pháp sẽ được thừa hưởng”. Ông ta c̣n nói: “Chúng
ta tha thiết cảm ơn đô đốc Decoux, người đă lái con tàu Đông
Dương qua cơn băo táp của thế giới. Nhờ đô đốc mà Đông Dương
được hưởng hoà b́nh và an ninh”.
Hai ngày sau, trong một cuộc trở mặt vô liêm sỉ, Bảo Đại đă bác
bỏ Hiệp ước Bảo hộ Pháp - An Nam 1884, tuyên bố độc lập của
Vương quốc An Nam và tham gia khối các nước Đại Đông Á. Hoàng đế
hứa đem tất cả quyền lực của nhà vua ra để cộng tác với người
Nhật, tin tưởng ở sự thành thật và thiện chí của đế quốc Nhật.
Đến ngày 13-3, Hoàng thân Norodom Shihanouk ở Kampuchia cũng
chuyển theo t́nh h́nh và tuyên bố đất nước ông độc lập. Ông ta
công khai phát biểu: “Vương quốc Kampuchia đă lâu không c̣n cần
đến sự bảo hộ của nước Pháp, v́ vậy tuyên bố Hiệp ước Bảo hộ kư
kết với nước Pháp là không c̣n hiệu lực... đặt sự tin tưởng
tuyệt đối vào Đế quốc Nhật... Kampuchia quyết tâm hợp tác với
Nhật…”.
Một tháng sau, vua Sisavang Vong của Luang Prabang ở Lào cũng đi
theo các vị Hoàng thân láng giềng, tuyên bố nước Lào không chấp
nhận sự ràng buộc của người Pháp nữa và hoan nghênh người Nhật
như là bạn bè và Đồng minh.
Ở Đông Dương, người Nhật đă nhanh chóng tuyên bố thiết quân
luật, tước vũ khí và giam giữ các lực lượng quân đội và cảnh
sát, bắt giữ các nhà cầm quyền quân sự và dân sự chủ yếu, đặt
lệnh giới nghiêm, kiểm soát giao thông và tiếp quản toàn bộ cơ
cấu bộ máy hành chính. Ngày 11-3, Bộ Tư lệnh tối cao Nhật công
bố tên một số người đă bị bắt gồm Decoux, các tướng Aymé,
Mordant và chánh sở mật thám Đông Dương nổi tiếng Louis (Paul)
Amoux, người đă truy nă Hồ Chí Minh từ 1919.
Các sĩ quan nghiên cứu của OSS cho rằng sự sụp đổ của Pháp là do
kế hoạch tổ chức kháng chiến của Mordant tồi, do họ không hoàn
toàn coi trọng nguyên tắc hoạt động bí mật, và do thiếu một sự
phối hợp giữa các phần tử quân sự và dân sự của cái gọi là phong
trào kháng chiến. Điều đó quá rơ ràng v́ trong ngày 8-3 đă có
một viên chức cảnh sát Việt Nam, mật vụ của SLFEO, đă báo cho
Mordant biết là người Nhật có kế hoạch vô hiệu hoá quân đội Pháp
vào một lúc nào đó giữa ngày 8 và ngày 10 tháng 3.
Ở Hà Nội, Mordant và Aymé đă đánh giá thấp
tin báo của người mật vụ SLFEO. Mordant cho rằng dù sao
đi nữa th́ cơ quan quân sự t́nh báo cũng chẳng có tín hiệu ǵ về
vấn đề này, c̣n bên dân sự lại thường có xu hướng khuếch đại sự
việc. Chỉ có tướng Gabriel Sabattier, chỉ huy quân đội Pháp ở
Bắc Kỳ và là thủ lĩnh của phong trào kháng chiến miền Bắc, đă
coi tin báo đó một cách nghiêm túc. Ông không hỏi ư kiến của
Mordant hay Aymé, phát lệnh “t́nh trạng báo động thực sự” vào
ngày 8-3 và rời khỏi Hà Nội để đến hành dinh dă chiến của ông.
Sáng ngày 9, khi biết tin có cuộc “báo động” thật sự, Aymé liền
quyết định băi bỏ lệnh của Sabattier, cho là không cần thiết và
chỉ làm cho người Nhật hoảng sợ không đúng lúc. Nhưng hành động
của Sabattier đă làm cho Alessandri cảnh giác, ông rút ra ngoài
doanh trại và cho quân vượt sông Đà và sông Hồng, di chuyển về
núi phía bắc và tây Bắc Kỳ.
Đến đêm ngày 9, khi người Nhật tấn công vào nơi có người Pháp ở
th́ Mordant và Aymé đều bị bắt làm tù binh và quân đội của họ đă
không sẵn sàng để chống cự lại. Ngoài số khoảng chừng 99.000 sĩ
quan và binh lính người Pháp ở Đông Dương, chỉ có gần 5.000 quân
(thuộc quyền Sabattier và Alessandri) được bố trí theo kiểu để
đánh chặn hậu ở phía sau là được rút về bên giới Lào và Trung
Quốc(2).
Suốt trong các ngày 10 và 11 tháng 3, đài phát thanh báo về tin
cuộc đầu hàng “hoà b́nh” của các cứ điểm quan trọng của Pháp.
Ngay ở các đồn xa xôi như Quảng Châu Loan (một nhượng địa của
Pháp ở phía nam Trung Quốc) và Thượng Hải, với một đội quân
thường trú 1.000 lính và 797 cảnh sát người Pháp, quân đội Pháp
đă bị tước vũ khí mà không chống cự.
Nhưng cũng có những ngoại lệ. Ở đó
nổi lên những hành động dũng cảm và anh hùng.
Ở đồn Lạng Sơn, độ 1.200 quân đă quyết chiến
suốt trong 2 ngày. Bị áp đảo về số lượng, thiếu nước và
đạn dược, vài trăm người sống sót đă phải đầu hàng Sư đoàn 37
Nhật, nhưng chỉ huy đơn vị này tức giận v́ những tổn thất đă
phải gánh chịu do sự ngang bướng của đồn quân Pháp gây ra nên đă
ra lệnh tàn sát cho bằng hết số quân đầu hàng. Ở Đồng Đăng, quân
Pháp cũng phải chịu một số phận tương tự, khi cũng bị chính viên
tư lệnh nói trên sau khi đă được thêm một trung đoàn của Sư đoàn
22 tăng cường, đă tiến đánh và trừng phạt.
Ở Hà Nội, quân Pháp ở trong Thành cũng chống
cụ chút ít sau nhiều giờ nổ súng rời rạc.
Cũng có người chết và bị thương, nhưng Nhật
coi đó chỉ là một hành động để giữ thể diện. Ở Hoàng
thành Huế, đội Bảo an Pháp đóng ở doanh trại trung đoàn 10
RIC(3) cũng cầm cự được đến nửa đêm
ngày 10. Suốt miền trung Trung Kỳ và Nam Kỳ chỉ có một vụ chống
cự nhỏ đối với Nhật.
Trước cảnh ngộ đáng buồn của người Pháp, báo cáo của R&A nhận
xét rằng với một sự chuẩn bị kháng chiến đă khá lâu năm và tất
cả các đồn trại, kho tàng đều đầy ắp người và súng đạn như mọi
người đều biết rơ, th́ sự giải thích duy nhất có thể chấp nhận
được về một cuộc đầu hàng nhanh chóng đó của Pháp là do thiếu sự
thống nhất tổ chức và lănh đạo. Một lư do phụ thêm vào đó nữa là
có thể thiếu sự ủng hộ quần chúng, của những người Việt bị áp
bức.
Báo cáo của R&A thêm vào những đoạn trích trong công điện của
Tổng Lănh sự quán Langdon nói rằng người Pháp ở Côn Minhh đồng ư
với luận điệu của Nhật, cho rằng người Nhật sở dĩ phải có hành
động chống Pháp v́ họ sự Pháp và Mỹ hợp tác với nhau trong
trường hợp Mỹ đổ bộ vào Đông Dương. Langdon đă ghi: “...Nếu
người Pháp cũng có một kế hoạch nào đó th́ hiển nhiên họ đă
không phối hợp với kế hoạch của người Mỹ và người Trung Quốc, và
chờ đợi để sớm muộn cũng có lúc đưa ra thực hiện.
Người Nhật đă chơi trội hơn người Pháp”.
Trước khi tôi tới vùng biên giới, tin tức
cuối cùng tôi nhận được là một trong những toán SI được nhảy dù
xuống chỗ người Pháp đang rút lui. Quân của Sabattier và
Alessandri đi theo hướng tây Hà Nội về phía Sơn La và Điện Biên
Phủ. Sau khi sục t́m các tướng nói trên, một sĩ quan của chúng
tôi đă bắt gặp Alessandri ngày 3-4 ở Phong Saly thuộc Lào, nhưng
không thấy tung tích Sabattier. Viên sĩ quan
đă báo cáo là quân Pháp trang bị nghèo nàn và bị mệt mỏi, tinh
thần thấp; để giảm bớt gánh nặng, họ đă bỏ lại nhiều vũ khí nặng
và nhiều tấn đạn dược mà cũng không buồn phá huỷ đi nữa.
NHỮNG H̀NH ẢNH ĐANG THAY ĐỔI
Báo cáo của
R&A chứa đựng một số nhận xét về mối quan hệ giữa người Pháp với
người Việt, Trung Hoa và Mỹ. Các nhận xét đó rất đáng được b́nh
luận v́ chỉ dựa trên cơ sở một số sự kiện lúc đó chưa được hoàn
toàn bộc lộ rơ với một khoảng thời gian ngắn ngủi vài tuần hay
vài tháng.
Về người Việt Nam:
- Một mặt: theo Langdon: “Phản ứng
của dân chúng An Nam đối với cú của Nhật h́nh như đă làm cho
người Pháp hoang mang, chán nản. Mặc dù một bộ phận lớn quân đội
c̣n tỏ ra trung thành, nhưng nhiều người trong số họ đă đi theo
người Nhật, c̣n thường dân th́ vẫn giữ thái độ nói chung là thụ
động và thờ ơ.
- Mặt trái lại: Trong thực tế hơn 90% lính Việt Nam đă vứt bỏ vũ
khí và trở về nhà khi họ biết rơ là phải sang Trung Quốc. Nhiều
người đă đi theo phong trào chính trị giành độc lập ở Đông Dương
và chỉ có một số rất nhỏ, chắc chắn không quá vài trăm, chạy
theo Nhật. Rất nhiều nhà hoạt động chính trị trong giới quân sự
đă chia xẻ số phận của họ với phong trào chống Pháp, chống Nhật.
Ở Hà Nội, Huế và Sài G̣n thấy có một số ít người Việt Nam mang
băng tay “mặt trời mọc” và hợp tác với quân cảnh Nhật ở địa
phương. Phần lớn họ là người thuộc các tổ chức bí mật thân Nhật
bao gồm Cao Đài, Hoà Hảo và các phần tử tôn giáo và bảo hoàng ở
Đông Dương.
Những người hoạt động chính trị Việt Nam thuộc ba phong trào
quốc gia chủ yếu: Việt Nam Quang phục Hội, một tổ chức bí mật
thân Nhật, chủ trương bảo hoành, Việt Nam Quốc dân đảng dựa vào
Chính phủ Trùng Khánh và được Trung Quốc ủng hộ và Đông Dương
Độc lập Đảng, một mặt trận cộng sản theo Matxcơva.
Điều người Pháp thất vọng đối với người Đông
Dương không phải ở chỗ họ tỏ ra thờ ơ mà ở chỗ người Pháp cho là
họ bội bạc. Trong hơn 80 nam, thực dân Pháp đă cho lan
truyền câu chuyện thần thoại gán cho người Pháp vai tṛ của nhà
khai hoá, ân nhân và là người bảo hộ vĩ đại của nhân dân Việt
Nam “nghèo túng, bơ vơ và thấp hèn”. Trong câu chuyện đó, người
Pháp ở Đông Dương có quyền đ̣i hỏi phải được người dân “bản xứ”
lệ thuộc yêu quư và phục dịch và đồng thời lại có quyền xử phạt
khi người “bản xứ” không làm được những việc hèn hạ của ḿnh.
Qua thời gian, câu chuyện thần bí đă biến
thành sự thực trong đầu óc của người Pháp và chi phối cuộc sống
hàng ngày của họ. Điều đó đă quá ăn
sâu vào tính nết của người Pháp nên đă không gạt bỏ đi được ngay
cả sau các sự kiện ngày 9-3.
Trong những giờ “bi thảm” của cuộc đấu tranh chống Nhật, mặc dù
người Pháp bối rối bởi thái độ gia trưởng và bề trên của ḿnh
đối với người “bản xứ”, nhưng những người này vẫn tỏ ra nhă nhặn
và không gay gắt ǵ đối với người Pháp. Người Việt đă giúp đỡ
cho các ông chủ cũ của họ trốn tránh trước sự truy lùng của kẻ
thù, chỉ dẫn cho họ vượt rừng rậm để sang Trung Quốc và có khi
c̣n cho họ ẩn nấp ngay trong nhà ḿnh một thời gian. Rơ ràng đối
với người Pháp đang chạy trốn th́ đây không phải là do ḷng
trung thành hay v́ sợ sệt mà chính là trên cơ sở nhận thức được
rằng họ, người Việt Nam, đang bước vào một thời đại mới.
Vai tṛ của họ bất chợt đă được đảo ngược.
Người Việt Nam không c̣n là dân thuộc địa lệ thuộc mà là người
công dân tự do và độc lập của chính đất nước họ.
Họ đă không hành động với tinh thần trả thù
trong những ngày đầu tiên đó mà chỉ với động cơ mong muốn giải
thoát cho đất nước họ khỏi gánh nặng người Pháp.
Trong tháng 4-1945, người Pháp đă không thể
hiểu nỗi được phản ứng của người Việt Nam; họ chỉ có thể cảm
thấy chán ngán.
Về người Trung Hoa.
- Một mặt: quan hệ Pháp - Hoa đă không phải là hoàn toàn thân
thiết. Nhiều lắm th́ cũng chỉ có thể coi các
quan hệ đó là vừa phải và đúng đắn. Langdon đă báo cáo
rằng phản ứng của người Trung Quốc đối với cú mồng 9-3 của Nhật
“được coi như là một lời cảnh cáo đối với sự an ninh của Vân
Nam, do đó những biện pháp được thi hành (tháng 3-1945) phản ảnh
một thái độ thụ động”.
- Mặt trái lại: Tưởng đă rất phiền ḷng trước sự xoay chuyển
t́nh h́nh ở Đông Nam Á, v́ nó làm tổn hại đến địa vị quân sự của
ông ở Miến Điện và Trung Quốc. Ông ta đặc biệt bực ḿnh với
người Pháp về chỗ sau khi đă đẩy cho Nhật tiến hành cú 9-3, họ
đă không gây được cái ǵ coi như một cuộc kháng chiến đáng tin
cậy để có thể buộc Nhật rút bớt đi một số lực lượng từ các mặt
trận của người Trung Hoa ở Miến Điện và Trung Quốc. Không những
thế, họ lại không giữ được nguyên t́nh trạng ở đó và làm cho
quân đội Tnmg Quốc bị uy hiếp một cách vô ích bởi một cuộc tiến
công của Nhật vào phía sườn đă yếu hướng tây nain. Hơn nữa,
người Pháp đă làm cho vấn đề phúc tạp thêm qua việc rút quân
sang đất Trung Quốc và tạo nguy cơ để Nhật rượt đuổi theo vào
Vân Nam và Quảng Tây, gây ra những vấn đề khó khăn về chính trị
và tiếp tế hậu cần.
Quan hệ Pháp - Hoa c̣n bị những sự chống đối
nhau trong cấp cao nhất của Quốc dân đảng Trung Quốc làm cho
nghiêm trọng thêm. Nhiều người Trung Quốc quyền thế đă va
chạm vào quyền lợi với các nhân viên trong bộ máy cai trị của
Decoux suốt trong những năm chiến tranh, họ cũng xung khắc với
sự hoạt động của các phần tử theo De Gaulle ở Trung Quốc và Đông
Dương. Tỷ dụ như tướng Hà Ứng Khâm đă tỏ ra bực bội v́ quân đội
nước ngoài vào đất Trung Quốc và đă xem việc người Pháp rút lui
là một điều đă có ảnh hưởng xấu đến mối bang giao giữa ông Hồ và
Wedemeyer mà ông ta cho là có cảm t́nh với Pháp. Mặc dù bề ngoài
tướng Hà đóng vai tṛ của một nhà bác ái và đă tự ḿnh cấp tất
cả “giấy phép và giấy thông hành để cứu trợ cho những người Pháp
tị nạn, ḷng tốt của ông chỉ làm chậm lại một quá tŕnh và cung
cấp cho cảnh sát, mật vụ có cơ hội để phân hóa và sàng lọc các
phần tử xấu”.
Tướng Long Vân ở Vân Nam, tỉnh mà người Pháp đi qua, cũng có
nhiều va chạm từ trước với Pháp.
Tướng Lư Hán, “cháu” của ông, đặc biệt ghét tướng Alessandri,
người được nhiều người Trung Quốc gán cho là phải chịu trách
nhiệm như là một trong những cố vấn chủ chốt của Catroux (và sau
là Decoux) cho phép quân đội Nhật vào Đông Dương. Trong một thời
gian dài, Tai Li đă xung đột với người Pháp ở Trung Quốc và Đông
Dương về vấn đề hoạt động bí mật và buôn lậu.
Các nhân viên OSS ở biên giới đă báo cáo về
một điển h́nh người Trung Quốc chống lại người Pháp. Một
đơn vị quân Pháp bị mất tất cả số lính người Việt, khoảng 3.000,
bị tan ră hoặc chạy theo Việt Minh và
bỏ mặc cho các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp tự xoay sở lấy. Cuối
cùng người Pháp cũng đến được điểm kiểm soát ở biên giới Trung
Quốc gần Lào Cai nhưng phải chờ ở
ngoài rừng cho đến tận khi được phép cho vào đất Trung Quốc.
Về ngươi Mỹ:
- Một mặt: Trong những tuần lễ đầu tiếp sau cú 9-3, người Pháp
đă phê phán mạnh mẽ việc Mỹ đáp ứng lại những yêu cầu giúp đỡ
của họ. Họ đă xin tiếp tế đạn dược.
Nhưng đạn dược của chúng ta không thích hợp
với vũ khí của họ. Họ đă yêu cầu vũ
khí th́ vũ khí của chúng ta lại chỉ dể dành riêng cho người
Trung Quốc.
Họ đă yêu cầu chi viện đường không và mặc dù
điều đó không có trong kế hoạch của Đồng minh ở Trung Quốc.
Đội không quân thứ 14 đă tiếp tế nhiều hơn
mức phải làm. Họ đă yêu cầu được vận chuyển đến Trùng
Khánh bằng máy bay quân sự nhưng người Trung Quốc đă không cho
phép.
- Mặt trái lại: Về sau cả thường dân lẫn nhân quân Pháp ít nhiều
cũng đă đánh giá được quan điểm tiếp viện của Mỹ, cũng như những
khó khăn thực tế của việc giúp đỡ các đồng bào của họ ở Đông
Dương. Họ cũng đă thấy chúng ta đă cấp một số lớn chăn, mền,
giường, thuốc và quần áo. Họ cũng công nhận không quân của chúng
ta phối hợp với AGAS để sơ tán hàng trăm phụ nữ và trẻ em sang
Ấn Độ, đă táo bạo cứu vớt những người thường dân Pháp bị rớt lại
trong vịnh Hải Pḥng.
Nhưng ở các giới chính quyền vẫn c̣n rơi rớt
lại một sự hằn học dân tộc. Thí dụ như khi tổ chức
UNRRA(4) giúp đỡ cho khoảng 24.000 dân Pháp tị nạn rải rác tại
các trạm tại Vân Nam, tướng Pechkov đă phản đối, cho là một điều
sỉ nhục v́ được cứu trợ bởi một cơ quan từ thiện chứ không phải
được đối xử như một đồng minh quân sự hào hoa.
Nhân viên Đại sứ quán chúng ta đă bắt buộc phải giải thích cho
ông rằng UNRRA là một tổ chức quốc tế do Liên Hợp Quốc đỡ đầu,
trong đó Pháp là một nước hội viên, nên nhận sự giúp đỡ qua
UNRRA tức là Pháp chỉ tự giúp ḿnh mà thôi.
Tuy vậy, qua những lời kêu ca của Pháp, điều mà người Pháp ở cấp
cao cảm nhận thấy bực bội nhất vẫn là việc tướng Wedemeyer kiên
quyết đặt ra những hoạt động của Đông Dương và người Pháp ở
Trung Quốc, công khai cũng như bí mật, dưới quyền kiểm soát của
người Trung Quốc.
Chú
thích :
(1) cuộc đảo
chính - tiếng Pháp
(2) Trong đó chỉ có 2.100 người Pháp, c̣n lại là người Đông
Dương thuộc địa
(3) Trung đoàn bộ binh thuộc địa
(4) Tổ chức cứu trợ Liên Hợp Quốc
Chương 9
Một chuyến đi
đến biên giới Trung Quốc
T̀NH TRẠNG LỘN XỘN
Chuyến đi ṿng mở đầu
của tôi ở miền nam Trung Quốc bắt đầu ở Szemao, ở sân
bay bận rộn của ḿnh(1), trung uư William A. Pye, người
của trạm chúng tôi ở đây, đă đón tôi với nhiều chuyện
phiền muộn về chủ trương phá rối của Trung Quốc, về
những lời phàn nàn của người Pháp và về một cuộc tấn
công “trước mắt” của Nhật Bản. Anh ta hoàn toàn thất
vọng v́ không thấy tiến bộ trong việc xây dựng một mạng
lưới t́nh báo và gán vấn đề này cho thái độ không cộng
tác của người Trung Quốc dưới sự lănh đạo của Tai Li và
cho sự thờ ơ của những người lánh nạn Pháp, họ đang cần
giữ một khoảng cách giữa họ với người Nhật ở biên giói
Đông Dương, cách đó chừng 40 dặm về phía nam.
Chúng tôi lái xe đến trạm OSS, ở đó một người Pháp là
thiếu tá De Monpezat(2) đang
đợi chúng tôi. Ông ta mô tả t́nh
h́nh ở Szemao như là một sự hỗn loạn cực độ.
Những đội quân “Annamite” bỏ ngũ
hàng đoàn. Người Trung Quốc không hề có một sự cố gắng
nào để quan tâm đến điều đó hay để di tản những người
Pháp lánh nạn sang Ấn Độ; nhiều người trong số đó thiếu
ăn, rách rưới, mắc bệnh kiết lị, sốt rét và bị kiệt sức
và hết sức cần đến một sự chăm sóc y tế. Dân lánh nạn đă
đạt tới “con số vô cùng lớn là 3.500 người hay hơn nữa”.
De Monpezat muốn biết xem chúng tôi
có thể làm được ǵ về vấn đề này.
Điều duy nhất mà tôi có thể làm được
là xem xét qua và báo cho Trùng Khánh biết, nhưng tôi đă
gợi ư cho ông ta cùng với Pye chuẩn bị một bản báo cáo
dễ hiểu nêu lên những nhu cầu và nói chi tiết về số
người lánh nạn và các loại yêu cầu nổi bật.
Thiếu tá có vẻ hài ḷng.
Viên quan ṭa nhăn nheo ở Szemao,
Chao Cha Fung, cũng chờ đợi dể gặp tôi. Ông ta
biết tin 400 người Pháp lánh nạn khác và nhân viên quân
sự sẽ đến trong 4 ngày tới và bày tỏ nỗi lo sợ của ông
ta là họ có vũ khí. Ông ta yêu cầu tôi khuyên các nhà
chức trách Pháp thu vũ khí
của những người lánh nạn ấy trước khi họ tới và đặt họ
dưới sự bảo vệ của giới quân sự Trung Quốc. Tôi đă báo
tin cho ông ta rằng đó là vấn đề của Pháp và Trung Quốc,
không có liên quan ǵ tới người Mỹ. Tuy nhiên tôi nói
thêm rằng theo tôi hiểu th́ giới quân sự Pháp không bị
giải giáp và đă được người Trung Quốc đưa đến những khu
vực tập trung để chờ đợi quyết định của Trùng Khánh.
Viên quan toà rơ ràng không thích thú với tin tức ấy và
đoán trước về t́nh trạng rắc rối giữa giới quân sự Pháp
và Trung Quốc nếu vấn đề không được giải quyết.
Ông ta phàn nàn rằng người Pháp kéo
đến đông đảo sẽ gây những thiếu thốn về nhà ở và lương
thực, t́nh h́nh đă trầm trọng hơn v́ ngôn ngữ bất đồng.
Lính tráng đe doạ những người buôn
bán địa phương v́ khó mua hàng hóa hơn và giá hàng lên
cao. Đối với tất cả những vấn
đề ấy, tôi gợi ư ông ta nên hỏi ư kiến Trùng Khánh.
Ông ta cảm ơn tôi v́ sự “thông cảm”
của tôi và rút lui.
Những vấn đề ở trạm OSS thật hỗn
độn. Nhiều sĩ quan OSS đă đến
biên giới một tháng, nhưng không ai biết chính xác ḿnh
đến đâu. Những yêu cầu cấp
bách của các tiền đồn OSS khác nhau đă bị chất đống ở
Szemao mà không được giải quyết.
Tôi yêu cầu Pye đưa công việc vào
trật tự đến mức cao nhất và điện cho Helliwell phái thêm
một người nào đó đến để giúp thêm cho Pye để cho anh ta
có thể về Côn Minh báo cáo về t́nh h́nh người Pháp và về
công việc của trạm.
Sáng hôm sau, tôi lên máy bay đến
Tŕnh Tây (Ching Hsi) cách đó 300 dặm.
Dọc đường chúng tôi dừng lại ở tiền
đồn của chúng tôi tại Mương Sinh, một làng thuộc vùng
núi Đông Dương, cách Szemao chừng 125 dặm. Chúng
tôi dừng xuống đường băng một lát để xác định nó là một
sân bay và đă gặp trung uư Charles D. Ambelang. Ba tuần
nay, anh ta đă di chuyển từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi
khác theo một con đường ṃn
đầy bụi, đặt các trạm nghe và sẵn sàng tháo gỡ ngay khi
thấy quân Nhật di động. Đó là một
nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Người Pháp không ở lại và người Việt Nam ở địa phương
không thể được huấn luyện nhanh chóng để làm những thao
tác vô tuyến điện. Tôi yêu
cầu ông ta rời bỏ khu vực này, đến móc nối với nhóm của
tướng Sabattier ở Phong Saly, và sau đó cùng với họ về
Szemao, ở đó tôi sẽ gặp anh ta.
Chỗ dừng sau đó của tôi là Mông Tự (Meng Tzu), thuộc
Trung Quốc, một tiền đồn OSS khác, ở đó công việc kém
sôi nổi hơn. Đội này đă thành công trong việc thu lượm
một khối lượng khá lớn những thông tin về mệnh lệnh
chiến đấu của Nhật và một ít tin tức t́nh báo chính trị
về những liên hệ Pháp - Nhật ở Hà Nội và Hải Pḥng.
NGÔI NHÀ AGAS
Cuối cùng, một giờ
trước lúc hoàng hôn, tôi hạ xuống Tepao, phía bắc Tŕnh
Tây, và đi tới ngôi nhà AGAS.
Chúng tôi dự một bữa ăn do
một sĩ quan Pháp mời, những người đó đang làm việc với
GBT và cộng tác với AGAS. Nóng người lên v́ rượu cognac
tuyệt vời của Pháp, câu chuyện của chúng tôi t́nh cờ
đụng tới chuyện nghề nghiệp, người Pháp phàn nàn về
những điều rủi ro của họ và trách móc “các nhà chính
trị”. Là một người khách, tôi tránh tranh căi khi một
người nào đó nhắc tới những người “Annamites” như những
người “không thể tin cậy” được và nói chung đó là một
“vấn đề”. Để giữ câu chuyện dừng lại ở đề tài này, tôi
nói với họ là tôi đă gặp một thành viên của Liên minh
Độc lập Đông Dương, người đó nói tổ chức này không phải
là một tổ chức chống Pháp, mà chỉ chống phát xít.
Điều đó gây ra một sự tranh căi, tôi
ngồi lùi ra và lắng nghe.
Người Mỹ giữ lập trường cho rằng
người Việt Nam có thể cực kỳ có ích.
Họ biết rơ địa h́nh, họ kín đáo và
họ dễ huấn luyện. Họ tuyệt nhiên không phải là
những người chống Pháp, bằng chứng là nhiều người Việt
Nam phục vụ trung thành trong hàng
ngũ quân đội thuộc địa Pháp.
Dù sao, khi c̣n cần thiết, họ không có sự lựa chọn nào
ngoài việc tuyển mộ người Việt Nam và điều đó có thể làm
được.
Các sĩ quan Pháp chỉ thừa nhận đó là những
tay chân riêng biệt, được M.5
của Pháp sàng lọc, có lẽ chỉ một số ít được sử dụng dưới
sự giám sát của Pháp nhưng phải theo một sự hoạch định
thận trọng và được bảo đảm hết sức an toàn. Họ khuyên
tôi nên thận trọng hơn với Liên minh và tổ chức
theo xu hướng Matxcơva của nó
là Việt Minh. Tôi rất chú ư tới một điều người ta nói là
“một số người Lê dương Nga trong sư đoàn Alessandri đă
bị kết án v́ những hoạt động
nổi loạn trong phong trào độc lập của người An Nam trong
nấy năm vừa qua”. Ông nói rằng Việt Minh ở Đông Dương cổ
động dân chúng bản xứ đă lâu rồi và đám dân chúng rộng
lớn th́ theo “chủ nghĩa chủng
tộc và thân Nhật”. Nếu họ giành được chỗ đứng ở Đông
Dương, th́ điều đó báo hiệu sự kết thúc ảnh hưởng của
người da trắng ở Đông Nam Á. Họ nhắc nhở tôi rằng nếu
không có gần 80 năm sống dưới sự “nhân từ” của người
Pháp th́ người An Nam đă phải quỳ gối xuống trước người
Trung Quốc mà không hưởng dược cái lợi của nền văn hoá
phương Tây và Pháp.
Không cần phải làm cho các vị khách người Pháp phải nổi
giận, tôi đồng ư là nước Pháp chắc chắn đă góp phần vào
việc phương Tây hoá Đông Dương, nhưng vấn đề sắp tới là
làm thế nào để khôi phục một cách tốt nhất sự tiếp xúc
với bên trong và đưa họ tới chỗ chống lại kẻ thù chung
của chúng ta là người Nhật. Một người AGAS trở lại ư
kiến lúc đầu của ḿnh là có thể sử dụng người Việt Nam
và nước Pháp thừa nhận đó là một biện pháp, nhưng vẫn
giữ ư kiến là điều đó có thể gặp nguy hiểm. Sau đó câu
chuyện chuyển sang những đề tài khác.
Khi các vị khách đi khỏi, đội AGAS
hỏi tôi suy nghĩ như thế nào đối với Việt Minh.
Tôi chỉ nói rằng SI và AGAS có thể xem xét một hành động
chung với Việt Minh và tôi hy vọng sẽ gặp được một người
của Việt Minh không để cho người Pháp biết, và cần AGAS
giúp t́m cho một người Trung Quốc.
Họ đồng ư.
Hôm sau tôi đi sâu vào xem xét nhóm GBT. Với sự
giúp đỡ của đại tá Emblanc và một số sĩ quan khác thuộc
phái đoàn quân sự Côn Minh, Gordon đă lập được một vài
đường vô tuyến điện ở biên giới Đông Bắc. Ông ta cũng
thành công trong việc tổ chức một số “hệ thống liên lạc”
giữa Hải Pḥng và Hà Nội, và thỉnh thoảng đă cung cấp
được thông tin OSS - Côn Minh và hạm đội Mỹ ở Trung
Quốc.
ÔNG WANG YEH LI
Công việc tiếp đó của
tôi là đi t́m Wang Yeh Li. Một người cộng tác với AGAS
biết nói tiếng Trung Quốc đă giúp tôi t́m ra cho một
quán trà tối tăm mà tôi đang cần t́m.
Nó nằm trên một đường phố chật hẹp có những cửa hiệu
đang mở của buôn bán và đầy những người có cả những đứa
trẻ con ở trần mỉm cười chào thân mật “ting hao”.
Bà Wang chào đón chúng tôi; chồng
bà, như bà nói, đang đi ra đâu đấy một lát.
Chúng tôi chờ đợi và gọi nước chè,
thấy có một số người Trung Quốc đi vào. Họ không
ăn cũng không uống ǵ mà đi
thẳng vào cái pḥng gần đó. Một vài
người trở ra sớm và đi khỏi đây; nhưng người khác th́
hoặc là những người trong nhà hoặc là đi ra bằng lối
khác. Chúng tôi suy xét điều đó và kết luận rằng
quán trà này c̣n là một cái ǵ hơn nữa ngoài một nơi
uống trà và ăn bánh bao.
Một người Trung Quốc khá trẻ bước
vào, đi thẳng tới bàn chúng tôi và không ngần ngại tự
giới thiệu bằng tiếng Anh.
Ông ta nói tên của ông ta là Wang và ông ta đang đợi gặp
tôi. Tôi giới thiệu người bạn
của tôi là trung uư “Karl” (nhân viên AGAS hiếm khi để
lộ tên thật của họ). Wang không có cung cách xă
giao phương Đông thường thấy và bằng tiếng Anh Hongkong
của ḿnh, ông ta hỏi có tính chất thăm ḍ về những cảm
tưởng của tôi đối với Trung Quốc và về việc Quốc dân
đảng sẽ ra sao khi Mỹ có một Tổng thống mới. Ông ta
không tin chắc rằng nước Nhật sẽ bị đánh bại trong mấy
năm tới, có thể là chưa phải năm 1947 hay 1948, và lúc
đó chắc là nước Nga sẽ tham chiến.
Ông ta cho rằng tôi cùng với tướng Chennnault đang tiến
hành một công việc t́nh báo nào đó.
Ông ta như muốn đánh giá tôi, muốn
biết những xu hướng chính trị của tôi và muốn biết xem
mục đích của việc tôi đến thăm là ǵ. Chậm răi,
tôi giúp ông ta nắm được những thông tin mà tôi thấy
rằng cần để ông ta nắm được. Vâng,
tôi làm t́nh báo với OSS.
Dưới quyền của Wedemeyer, chứ không phải của Chennault.
Không, tôi không quan tâm đến chính trị Trung Quốc mà
chỉ quan tâm đến hoạt động của Nhật ở Đông Nam Á. Tôi
cần tổ chức một mạng lưới những người hoạt động bí mật ở
Đông Dương, tốt hơn cả là với sự giúp đơ của người Việt
Nam. Cuối cùng, Wang nhận xét rằng
chỉ có người Trung Quốc và người Việt Nam mới có thể
thành công trong một công việc như vậy và có thể ông ta
sẽ nói đúng cái người có thể giúp cho chúng ta.
Liệu tôi có muốn gặp người đó không?
Có, tôi trả lời, nhưng đó là người
nào? Ông ta chỉ nói đó là
“một người An Nam có ảnh hưởng và khoáng đạt”.
Sau mọi chuyện tôi cảm thấy dường như ông ta nói đến ông
Hồ, nhưng không một ai trong chúng tôi nhắc tới cái tên
đó, và theo một ư nghĩa nào
đó, đó là cách kiểm tra sự bí mật. Tôi muốn tin vào Wang
và Wang sẽ có thể giới thiệu cho tôi đúng con người ấy.
Tôi muốn liều một chuyến và đồng ư
sẽ đến gặp Wang về mục đích này chiều hôm sau.
Tôi sẽ tới một ḿnh.
“Karl” không tin đến như vậy.
Trở về chiếc xe của chúng
tôi, anh ta bày tỏ vẻ khó chịu của ḿnh.
Tay chân của Tai Li ở khắp nơi và
không ai chắc được về người Trung Quốc như ông ta.
Tôi chợt nghĩ phải chăng ông ta đă
biết ít nhiều về Wang? Tôi nói cho “Karl” biết ai
bố trí cho tôi gặp Wang và tại sao, anh ta cảm thấy yên
tâm nhưng vẫn thuyết phục tôi rằng có thể Wang là một
người Cộng sản Trung Quốc, phải hết sức thận trọng, và
đó là người có thể tin được. Tuy vậy
anh ta nói là sẽ xem xét kỹ hơn nhóm của Wang.
Chiều tối hôm ấy tôi nhận được bức
điện vô tuyến của Helliwell cho tôi biết đang xảy ra một
chuyện cấp bách. G-2(3) hỏi
về những hoạt động OSS ở Hà Nội và Sài G̣n. Bộ
chỉ huy muốn biết tin tức về những đơn vị chiến đấu Nhật
mới tới và xác nhận những sân bay và những căn cứ quân
sự mới theo cách nh́n từ trên không. Bộ chỉ huy cũng đ̣i
hỏi phải tiến hành cấp tốc một chiến dịch tuyên truyền
chống lại quân đội Nhật thuộc sư đoàn 37 để làm giảm
tinh thần và gây đào ngũ.
Bộ chỉ huy muốn biết mọi điều và tất
nhiên là họ có quyền làm như vậy. Rơ ràng là
chúng tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai - người
Trung Quốc, người Việt Nam hay người Pháp - để bắt đầu
tiến hành hoạt động.
Để cho chắc chắ, tôi t́m quán trà nằm giữa những con
đường hẻm rối rắm kia, và
chúng tôi lại đến đó một lần nữa vào buổi chiều ngày hôm
sau lúc c̣n sớm. “Karl” nói cho tôi
biết rằng Wang đúng là một người Cộng sản Trung Quốc đă
hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội, tổ chức của
những người lưu vong ở Liễu Châu và Quế Lâm.
Tối hôm trước Wang bị nghi ngờ là có
hướng chống Quốc dân đảng v́ sự liên hệ mật thiết của
ông ta với Việt Minh, nên ông ta đă bị Đồng minh Hội
khai trừ và hiện nay ông đang chờ cơ hội để lên phía bắc
với nhóm của Mao ở Diên An.
MỘT QUÁN TRÀ TRONG LÀNG
Mặt trời đă lặn khi
tôi và Wang đi vào một cái làng nhỏ gọi là Chiu Chow
Chich. Phải mất 45 phút để
đi xe qua 6 dặm từ Tŕnh Tây,
trên một con đường hẹp (và chỉ có con đường đó). Cuối
ngày, tất cả đều đi ngược lại chúng tôi - người, gia súc
và xe ḅ - khiến chúng tôi
phải dừng lại không biết bao nhiêu lần v́ bị trâu ḅ và
xe chở lặc lè ngăn cản. Làng này chỉ là một cụm nhỏ 15
hay 20 ngôi nhà nhỏ bé có tường thấp và vôi gạch đổ nát
bao quanh. Wang chỉ một ngôi nhà
thấp nằm ở giữa.
Khi chúng tôi vừa đỗ xe gần đó, hai người ra gặp chúng
tôi(4).
Họ không phải là người Trung Quốc.
Wang đi lên trước và nói mấy câu mà
tôi tin đó là tiếng Trung Quốc. Người lớn tuổi
hơn trong hai người đó là một người mảnh khảnh, thâm
thấp, 50 hay 60 tuổi ǵ đó; ông ta đến gặp tôi với nụ
cười niềm nở và ch́a tay ra.
Ông ta nói tiếng Anh rất thành thạo.
“ Xin chào!
Người bạn tốt của tôi”. Tôi
nắm lấy bàn tay gần như mỏng
mảnh của ông Hồ và bày tỏ sự vui sướng của tôi v́ gặp
được một người có nhiều người bạn Mỹ ở Côn Minh. Sau đó,
ông Hồ giới thiệu người Việt Nam khác, ông Lê Tùng Sơn,
như là một người cộng tác gần gũi của ḿnh trong Liên
minh.
Wang dẫn mọi người vào một căn pḥng sáng lờ mờ, dường
như có một cái bệ nhỏ. Ông Sơn vào
sau cùng và cài cửa ra vào cũng như cửa sổ thật cẩn
thận. Ông Hồ bước tới chiếc
bàn duy nhất và mời chúng tôi ngồi.
Vừa rót nước chè cho chúng tôi, ông
Hồ vừa giải thích rằng ông Sơn không nói được tiếng Anh
và tiếng Pháp, nhưng hiểu được tiếng Pháp đôi chút.
Ông Hồ nói ḿnh thích dùng tiếng Anh
v́ cần phải luyện tập.
Wang đi thẳng vào vấn để. Chi
nhánh Côn Minh của Việt Minh hy vọng cộng tác với Đồng
minh và chúng ta đến đây để thu
xếp công việc. Không do dự, ông Hồ đáp lại rằng có thể
cộng tác được, rằng ông Phạm Viết Tự đă tiếp xúc với
Lănh sự quán Mỹ từ tháng 8 trước và ông Langdon đă có
thái độ tốt đối với người Việt Nam (đó là một lời cường
điệu về lập trường của Tổng lănh sự, như tôi đă biết).
Thật ra, ông Hồ nói tiếp, AGAS và Việt Minh đang tổ chức
một hoạt động bí mật ở trong nước để giúp những phi công
bị rơi, nhưng ông coi điều đó có một ư nghĩa khác.
Ông Hồ nói ông cần nói trước hết tới
những người bạn thân của chúng tôi.
Ông rất muốn biết làm thế nào tôi
biết đến Việt Minh và hơn nữa, tới ông. Tôi nói
thẳng thắn nhưng chỉ nêu bật lên những điểm chính rằng,
ở Washington tôi đă nghe nói ông bị Quốc dân đảng “bắt
giam”, rằng ông làm việc trong Đồng minh Hội, rằng ông
cộng tác với Đồng minh để cứu những phi công bị rơi, và
tất nhiên nói đến cả cuộc chuyện tṛ của tôi với Phương.
Tôi thấy ông Hồ rất quan tâm đến những điều tôi để lộ
ra, và trong một thoáng, thấy ở ông một ánh mắt ngạc
nhiên và hài ḷng khi biết rằng cái tên Hồ Chí Minh
không phải không được giới chính thức ở Washington biết
tới, nhưng ông trở lại b́nh thường rất nhanh. Ông hỏi
tôi có biết thiếu tá Glass không; tôi nói với ông, Glass
đă gợi ư cho tôi đi t́m một người “An Nam thân thiết” ở
Bắc Kỳ và tôi ngạc nhiên thấy rơ ông có thể là người đó.
Con người mảnh khảnh, nhỏ bé và kỳ lạ ấy cười rộng miệng
và dành mấy phút để ca ngợi Austin Glass, “người Mỹ Việt
Nam”. Ông Hồ nhắc lại với một cảm t́nh rơ ràng là thật
sự rằng người Việt Nam ở Hải Phong đă quư trọng Glass
như thế nào, ông ta đă lấy một phụ nữ Việt Nam và đă
sống ở Đông Dương hơn 30 năm. Theo
ông Hồ, Glass biết tiếng Việt rất thạo, hiểu những vấn đ
xă hội, kinh tế và chính trị của Việt Nam vớ một thái độ
thân thiết và có thiện cảm. Ông nhắc lại trong
khi người Nhật chiếm Bắc Kỳ năm 1940, Glass là một trong
những người phương Tây đầu tiên bị Kempeitai(5) giám sát
một cách khó chịu, không phải v́ ông ta thân Pháp mà v́
ông ta tán thành mạnh mẽ tinh thần độc lập và chống phát
xít của người Việt Nam. Ông Hồ nhắc lại một cách sinh
động những lời kể của nhiều người bạn Việt Nam của Glass
ở Hải Pḥng đă từng lên tiếng chào Glass khi ông ta rời
khỏi Hải Pḥng trong một cuộc trao đổi nhũng người dân
sự Mỹ - Nhật. V́ chưa bao giờ gặp Glass cả, ông Hồ đă kể
lại ở cương vị một người thứ ba.
Ông Hồ hút thuốc lá liên tục, ông hút thứ thuốc lá địa
phương rất mạnh và hăng. Khi ông
cuốn thứ thuốc lá ấy và hỏi ḿnh cuốn đă khá hơn chưa,
tôi bèn mời ông một điếu Chesterfield. Mắt ông
ánh lên thích thú khi ông đưa những ngón
tay nhỏ nhắn và dài ra cầm
lấy một điếu và nói thêm với một vẻ tự bào chữa rằng hút
thuốc là một tật xấu khá nặng của ông.
Về sau tôi thấy điều đó là sự thật.
Khi sức khoẻ ông gặp gay go trong những ngày căng thẳng
tháng 8 và tháng 9, ông rất thích hút thuốc Chesterfield
của tôi. Ngay cả khi ông ho rung
cả người lên, ông cũng hút. Dường
như đó là một niềm vui thích của ông và tôi chưa bao giờ
thấy thích thú nhưu khi thấy ông ưa những điếu thuốc lá
của tôi.
Nhưng để trở lại với câu chuyện của chúng tôi, tôi cảm
thấy một vài sự dè dặt của ông Hồ đối với tôi đă được
xua tan, nhưng ông là một nhà cách mạng lăo thành, một
bậc thầy về những âm mưu và bí mật, nên ông vẫn tiếp tục
đi sâu vào câu chuyện với một vẻ thăm ḍ dễ mến và tế
nhị. Tôi hiểu ông muốn biết những động cơ của tôi và cố
khám phá thái độ của tôi đối với nhân dân Việt Nam và
nói riêng để xem tôi là người đại biểu cho những quyền
lợi thực dân hay đại biểu cho thái độ chống thực dân của
Roosevelt. Tôi cần phải giành lấy sự tin cậy của ông và
sẵn sàng tham gia cuộc đấu trí biện chứng của ông.
Ông Hồ cũng mô tả khá dài về đời
sống khó khăn mà người Việt Nam phải chịu trong mùa đông
trước ở Bắc Việt Nam. Vụ lúa
tháng 10 bị băo tàn phá, đê bị vỡ, nước lụt tràn ngập.
Những thiếu thốn về thuốc men, lương
thực, áo quần và vận tải hồi mùa đông lại cộng thêm với
việc không có những biện pháp đặc biệt nên đă đưa đến
kết quả cuối cùng là nạn đói kinh khủng nhất trong toàn
bộ lịch sử dân tộc đă xảy ra.
Những thiếu hụt về lương thực, cộng thêm nạn đầu cơ tích
trữ tha hồ về thóc gạo, đă trở nên hết sức gay go hồi
tháng Giêng khi sức khoẻ của người Bắc Kỳ và bắc Trung
Kỳ xấu đi nhanh chóng. Nhiều người ốm đau hay quá yếu
nên không thể làm việc được. Gia súc
chết trên nhũng cánh đồng v́ không được chăm sóc và
thiếu ăn. Hệ thống đê điều phức tạp do người Pháp
phát triển và duy tŕ đă bắt đầu rơi vào t́nh trạng
không được sửa sang trong suốt mùa đông v́ ngân sách
công ích bị cắt đi. Nhân viên người
Pháp ngừng làm việc và những người Việt Nam không được
huấn luyện không thể thay thế họ.
Những đường sá lớn ở đồng ruộng cuối
cùng bị ngập lụt.
Khi tôi hỏi chính quyền Pháp đă làm ǵ dể giảm bớt t́nh
h́nh ấy, ông Hồ xua rộng hai tay
và thở dài. “Những ǵ họ làm bao giờ cũng là
theo đuổi quyền lợi riêng của
họ”. Ông coi chế độ Decoux là chế dộ của những quyền lợi
tham lam, bám lấy những quyền lợi bất di bất dịch và hờ
hững với cảnh ngộ của dân chúng Việt Nam. Đáng lẽ phải
vạch ra một kế hoạch phân phát những kho lương thực lớn
ở phía nam, Chính phủ Decoux lại áp đặt những h́nh phạt
nặng nề, kể cả cái chết, cho những người đang cố sống
sót.
Việt Minh đă nắm lấy vai tṛ lănh
đạo trong cuộc khủng hoảng ấy. Các đơn vị du kích
Việt Minh đă đánh vào những kho tàng ở nông thôn Trung
Kỳ và Bắc Kỳ(6), chiếm lấy lương thực, đặc biệt là thóc
gạo, để phân phát cho những người đang thiếu.
Nhiều người đă được cứu giúp, những
nạn đói vẫn tăng lên. Chỉ trong mấy tháng, từ 1,5
đến 2 triệu người Việt Nam đă chết đói. Không một người
Pháp hay người Nhật nào bị chết đói cả, chỉ có người
Việt Nam mà thôi. Các thành phố của người Pháp vẫn sống
sót; chỉ có những làng xóm đầy rẫy những xác chết trên
các ngả đường, các kênh mương, các cánh đồng, c̣n những
người sống th́ rất yếu và hốc hác, vẫn cứ phải đi nhặt
nhạnh và chôn cất người chết. Nhiều
làng mất từ một phần ba tới một nửa số dân.
Ông Hồ mô tả tai họa của dân
ḿnh bằng một giọng đầy xúc động và khi gần kết thúc,
trông ông buồn rầu và mệt mỏi. Ông Hồ hứa sẽ gửi cho tôi
một “tập ảnh bằng chứng” và một sự tường thuật chi tiết
nhan đề “Sách trắng”, do một vài người của ông soạn ra.
Tôi nói với ông là tôi muốn có một
bản sao và tin chắc rằ nó sẽ được Bộ chỉ huy của tôi
quan tâm đặc biệt.
Ông Hồ bày tỏ ư kiến là mọi việc sẽ
khác đi sau chiến tranh. “Chúng tôi đang chuẩn bị
cho một Chính phủ dân chủ độc lập, do người Việt Nam
điều hành v́ người Việt Nam”. Với
một vẻ trầm ngâm, ông Hồ thừa nhận rằng đó là một nhiệm
vụ to lớn. Người Pháp chắc
chắn sẽ chống lại một hoạt động như vậy. Người
Trung Quốc có những lư do của họ để ủng hộ người Pháp,
nhưng cũng có thể đứng về phía người Việt Nam.
C̣n người Anh th́ chắc chắn không để
cho cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á bị sụp đổ; và sẽ là
một vấn đề nghiêm trọng nếu họ giúp sức cho người Pháp.
Mặc dù tôi đă tỏ ra khách quan và thận trọng một cách cố
ư, không để ḿnh dính líu vào những khía cạnh chính trị
của vấn đề Đông Dương, nhưng sự chân thành, thái độ thực
dụng và sự hùng biện của ông Hồ đă gây cho tôi một ấn
tượng khó phai mờ được. Ông Hồ không hiện lên đối với
tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một người
cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn,
hét to những đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại
mà không có những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con
người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước
ḿnh, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm
thấy có thể tin cậy ông như một bạn Đồng minh chống
Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được
sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự
do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính
sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt
Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt
của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương.
Đă gần nửa đêm, Wang nhắc tôi trở về Tŕnh Tây, nhưng
ông Hồ khẩn khoản mời chúng tôi ở lại để tiếp tục câu
chuyện, ông nói thêm- nếu như tôi không cảm thấy mệt hay
phải trở về ngay. Chúng tôi ở lại.
Tôi hỏi về những nơi đóng của Bộ chỉ
huy Việt Minh và những chi tiết về bộ máy của nó.
Wang cắt ngay, theo kiểu
Trung Quốc, và ra lệnh cho ông Hồ phải thận trọng. Nhưng
ông Hồ giơ tay lên tỏ ư không
tán thành những chỉ thị của Wang và trả lời những câu
hỏi của tôi.
Bộ chỉ huy đóng ở một số hang tự nhiên phía ngoài gần
Cao Bằng. Việt Minh không phải là một đơn vị đặc biệt có
thể di chuyển đây đó, mà là một bộ phận rất rộng của
người Việt Nam. Nó có mặt khắp nơi,
trong công nhân công nghiệp và trong nông dân ở nông
thôn. Những đơn vị công nhân và nông dân được tổ
chúc thành những nhóm cơ động nhỏ dưới sự chỉ huy của
một cán bộ được huấn luyện; mỗi đơn vị có thể hoạt động
độc lập hay tập thể tuỳ theo
nhu cầu. Chẳng hạn, nếu cần có tin tức về quân Nhật đóng
ở Biên Hoà (gần Sài G̣n), th́ các đơn vị ở khu vực này
sẽ được yêu cầu cung cấp tin tức, tin tức này sẽ được
chuyển qua Đà Nẵng (Tourane) và cuối cùng đến Cao Bằng.
Phải nhận rằng đó là quá tŕnh chậm chạp và những tin
tức đến Côn Minh th́ đă cũ rồi. Cũng thế, nếu có lệnh
tấn công theo lối biệt kích một đơn vị Nhật ở Sơn Tây
(tây bắc Hà Nội), th́ tổ chức bán quân sự của Việt Minh
ở vùng có thể thực hiện cuộc hành quân ấy.
Ông Hồ cho rằng đó là vấn đề thời
gian và khoảng cách. Người của ông được trang bị
nghèo nàn, gồm đủ thứ súng ống của Pháp, Bỉ, Anh và
Nhật, với ít đạn dược, không có xe
cộ và chỉ có rất ít máy vô tuyến điện.
Họ bị phụ thuộc vào những vũ khí lấy
được, đó là điều chủ yếu nhưng lại đ̣i hỏi một sự huấn
luyện đặc biệt và những người huấn luyện. Nếu thu
xếp được với Đồng minh để có những thiết bị liên lạc và
một số hạn chế những vũ khí nhỏ để trang bị cho một số
đơn vị nhỏ, và sử dụng được những huấn luyện viên Mỹ th́
t́nh h́nh sẽ thay đổi hẳn đi.
Trong sự tŕnh bày rất ngắn ấy, ông
Hồ nói với tôi những ǵ ông có thể làm đuợc với những ǵ
ông có và những ǵ ông đang cần có thêm.
Bằng những lời lẽ thận trọng, ông
nhắc đi nhắc lại đề nghị hấp dẫn của ḿnh mà ông cảm
thấy chắc chắn sẽ được chúng ta chú ư một cách nghiêm
túc. Với sự khôn khéo của
ḿnh, ông không yêu cầu ǵ cả; ông chỉ tŕnh bày cho tôi
nghe giá trị tiềm tàng của tổ chức quân sự - chính trị
của ḿnh. Và ông muốn đợi
thời cơ nên không yêu cầu một lời hứa nào cả.
Tuy nhiên khi chúng tôi đi vào những
chi tiết ấy, tôi thấy ḿnh bắt buộc phải nói rằng tôi
không chuẩn bị để cam kết một điều ǵ.
“Ông già” kín đáo, giả vờ ngạc nhiên
trước nỗi lo lắng của tôi, mỉm cười một cách ranh mănh
và nói rằng ông không yêu cầu ǵ hết, ông chỉ trả lời
những câu hỏi của tôi về Việt Minh mà thôi.
Ông nói là ông hoàn toàn thông cảm,
không sao hết. Ông sẵn sàng đi với người Mỹ khi
nào người Mỹ thấy sẵn sàng. Tất cả
nhũng ǵ tôi phải làm là làm thế nào để cho người của
ông ở Côn Minh biết đang cần những ǵ và ông mong muốn
những thứ đó sẽ được cung cấp.
Đă quá khuya khi Wang và tôi trở về,
nhưng đường về vắng vẻ nên đi rất nhanh.
Khi đi đường, Wang nói với tôi những
lời bông đùa, nhưng tôi có cảm giác ông vẫn c̣n nh́n tôi
với thái độ nghi ngại.
Về tới chỗ trú, tôi thấy rơ sự tương
phản giữa cuộc gặp gỡ ấy và cung cách tiến hành những
cuộc họp như vậy trong chiến tranh ở châu Âu và châu
Phi. Ở đó, những đại diện bí
mật thường đưa ra những lời xác nhận to lớn về những ǵ
họ có thể thực hiện (thường là thổi phồng), chỉ cần họ
được cung cấp vũ khí và tiền (những khoản tiền lớn).
Ông Hồ thậm chí không nhắc ǵ đến
chuyện tiền cả. Và ông đă
thẳng thắn cho biết là người của ông đă lấy được vũ khí.
Ở Nam Tư, các sĩ quan OSS biết rằng
những người hoạt động bí mật đă chôn đi nhiều vũ khí lấy
được của Đức và kêu ca thiếu vũ khí.
Đó là một phương châm để khi kết
thúc chiến tranh, họ muốn giải quyết những sự tranh chấp
nội bộ của họ vơớ những kho vũ khí càng nhiều càng tốt.
Về chuyện này, những điều như vậy
cũng xảy ra ở Trung Quốc, khiến cho những viên chỉ huy
Mỹ rối trí lên. C̣n ông Hồ
th́ lại cho biết những vũ khí của ḿnh như hiện có và
không yêu cầu ǵ về tiền nong cả.
OSS thường quen trả tiền cho t́nh
báo. Kết luận của tôi là cuộc
gặp gỡ đêm nay sẽ mang lại nhiều điều tốt lành.
QUÂN ĐỘI CỦA SABATTIER
Sáng hôm sau, tôi đáp
máy bay đi Poseh, cách Tŕnh Tây về phía bắc chừng 30
phút bay.
Một người tiền trạm của chúng tôi
đang làm việc với những nhân viên của GBT và của Hạm đội
Mỹ và làm việc tốt. Poseh là một điểm tập trung
khác của những lực lượng Pháp vừa rút lui nhưng v́ không
cần nấn ná ǵ ở đây nên tôi lại bay trở về Szemao vào
ngay chiều hôm ấy.
Khi tôi xuống khỏi máy bay, tôi được biết một trong hai
đội SO của chúng tôi được gửi tới cho các lực lượng của
tướng Sabattier ở Đông Dương đă bị một đơn vị tiền duyên
Nhật phục kích, do lỗi của t́nh báo Pháp. Dưới lửa đạn
nặng nề của người Nhật ở Don Chai (gần Mong Ou Tay), đội
của thiếu tá Summers giữ được
vị trí của họ nhưng những máy vô tuyến điện, mật mă và
những thiết bị đặc biệt đă bị phá huỷ và sau đó đă chạy
về phía bắc. Helliwell và Davis yêu cầu tôi
theo dơi họ. Tôi t́m thấy họ
ngày 2-5, sau nhiều lần bắn pháo sáng trên các đường núi
và rừng rậm. Họ đă ở biên giới Cheng Tung (hay Keng
Tung) bên phía Trung Quốc và c̣n nguyên vẹn sau những
thử thách ngặt nghèo khi lang
thang xuyên rừng rậm. Tôi đă thu
xếp cho họ chuyển tới Côn Minh.
Tướng Sabattier, đang trên đường đến
Szemao, đă phái De Monpezat tới trước báo cho tôi biết
ông ta cần thảo luận với tôi về cuộc kháng chiến của
người Pháp. Tôi báo cho
Helliwell và được chỉ thị là “không cam kết ǵ cho đến
lúc nào việc giải quyết mối quan hệ của Pháp với chiến
trường được sáng tỏ”. Tuy
nhiên, nếu các kế hoạch xem ra là tốt, Helliwell nói,
th́ ông ta sẽ “thúc giục để có hành động ngay 1ập tức”.
Chúng tôi gặp nhau ngày 2-5 ở Szemao, và tướng Sabattier
bày tỏ ḷng biết ơn về việc ủng hộ mà người Pháp đă nhận
đuợc của OSS và của Đội không quân thứ 14 trong “giờ
phút bi thảm” của họ và tỏ ư hy vọng người Mỹ tiếp tục
sự giúp đỡ “hào hiệp và có thiện cảm” ấy. Ông ta cho tôi
biết để khỏi bị hiểu sai rằng ông ta là “chỉ huy tối cao
của tất cả các lực lượng Pháp ở Viễn Đông” và ông ta
hành động theo những chỉ thị
trực tiếp của chính phủ lâm thời Pháp.
Ông ta định đóng sở chỉ huy của ḿnh
ở Côn Minh, ở đó ông ta sẽ chỉ huy tất cả những hoạt
động sau này của Pháp “trong sự hợp tác” với Đồng minh.
Kế hoạch của ông ta là cải tổ những lực lượng của ông ta
ở Trung Quốc dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri và đại
tá Seguin(7) và đặt họ dưới
quyền điều khiển của tướng Wedemeyer.
Về những hoạt động bí mật, ông ta c̣n nắm trong
tay vài trăm sĩ quan và binh
lính đă được huấn luyện đặc biệt; những người này muốn
và sẵn sàng trở lại Đông Dương và thiết lập lại những
mối liên lạc với những nhân viên Pháp đă rời khỏi đó.
Tôi hỏi những nhân viên ấy có phải
là một bộ phận của mạng lưới của tướng Mordant không, và
viên tướng này bày tỏ ngạc nhiên v́ tôi biết tổ chức bí
mật của họ. Phần nào bối rối, ông ta nói rằng
đúng như thế và nói thêm rằng ông ta c̣n có một mạng
lưới riêng trong người Mán(8)
, những người này “tuyệt đối trung thành” với ông ta.
Sau đó chúng tôi thảo luận về những
chi tiết trong kế hoạch của ông ta mà ông ta đă phác vẽ
lên trên nhiều bản đồ và đồng ư tiếp tục những cuộc thảo
luận ở Côn Minh. Viên tướng này mong muốn được
dựa vào người Mỹ để được ủng hộ về hậu cần và huấn
luyện, và muốn việc huấn luyện ấy sẽ được tiến hành ở
Szemao để khỏi lộ những cán bộ Pháp - An Nam cho người
Trung Quốc biết.
Thời tiết ở Szemao đă thay đổi.
Mây đen phủ kín bầu trời và những trận mưa liên tiếp đổ
xuống làm cho việc bay không thể thực hiện được và việc
vận chuyển bằng đường bộ trở nên nguy hiểm và chậm chạp.
Điều đó làm tăng thêm sự nguy khốn của những người lánh
nạn. Ḍng người Pháp vào Trung Quốc
ở trong t́nh trạng thê thảm.
Mệt mỏi, đói khát, ốm đau, không giày dép, họ đă thiếu
kiên nhẫn với bất cứ người chức trách nào.
Họ yêu cầu những khu đóng quân thậm
chí cũng không thể kiếm được cho quân đội Trung Quốc.
Họ cố tịch thu xe cộ và các
kho thực phẩm riêng mà không qua các nhà chức trách, kết
quả là đă xảy ra những cuộc va chạm gay gắt. Khi họ biết
là có người Mỹ đang ở trong khu vực này, th́ cơ quan của
chúng ta bị bao vây với những yêu cầu của các sĩ quan
trẻ tuổi để chúng tôi “ra lệnh” cho người Trung Quốc
giải quyết những yêu cầu của họ.
Chúng tôi giải thích rằng chúng tôi không có quyền hành
ǵ cả, và đại sứ Pháp có thể cung cấp cho họ.
Họ cho rằng đó là một sự trả ḷi rất
không thoả măn.
Tôi xúc động sâu sắc trước t́nh cảnh khốn khổ của một
đội quân phương Tây bại trận, bị người Nhật sỉ nhục và
đang rời rạc đi vào cửa Trung Quốc để được bảo vệ và
lánh nạn. Tôi đă từng trông thấy
những đám lớn người Đức và Ư, tù binh chiến tranh cũng
như dân sựu, rút về phía sau những chiến tuyến của chúng
ta ở châu Phi và châu Âu; nhưng đó là những người phương
Tây ở thế giới phương Tây.
C̣n ở châu Á, t́nh h́nh lại mang những kích thước khác,
không diễn tả được nhưng lại là có thật.
Những sự khác nhau về chủng tộc và
văn hoá hàng chục năm nay bị che đậy dưới những sự tế
nhị ngoại giao và xă hội bỗng nhiên nổi rơ bề mặt.
Người Pháp, tượng trưng cho văn hoá và sức mạnh quân sự
châu Âu ở châu Á đă bị đập tan bởi một cường quốc phương
Đông và đang chịu sự ơn huệ đầy khó chịu của một dân
chúng phương Đông khác. Bề ngoài người Trung Quốc tỏ ra
có thiện cảm, muốn giúp đỡ và nhân từ; ở phía trong họ
lại theo đ̣i một thói quen đáng kinh tởm là chần chừ một
cách lễ độ, rạch ṛi về chính trị và tôn trọng chặt chẽ
những tập quán địa phương có thật hay tưởng tượng cũng
như những hiệp nghị quốc tế. Đây là
tinh thần “ngược đời của người châu Á, mà chúng ta phải
gánh chịu”.
Về phía người Pháp, cũng có những vấn đề có liên quan
với chủng tộc: những khó khăn về ngôn ngữ, những nhu cầu
cá nhân và t́nh trạng mất mặt, tất cả đều góp phần tăng
thêm nỗi thất vọng của người Pháp, thể hiện ra ở những
yêu cần không hợp lư và tâm trạng kiêu ngạo quá mức của
họ đối với tất cả nhũng người châu Á. Kết quả là những
cuộc va chạm thường xuyên với những ngụ ư chủng tộc âm
ỉ.
MỘT CHÂN DUNG THỰC DÂN
Trong 8 ngày từ khi
tôi đặt chân lần đầu đến Szemao, nơi đây trở thành trại
tập trung người Pháp. Tôi
có một cơ hội tốt để thu lượm tin tức từ những người
lánh nạn và tuyển mộ người Pháp cho những hoạt động bí
mật, do đó tôi yêu cầu Helliwell cử đến một sĩ quan nói
tiếng Pháp giỏi với một bộ phận giúp việc.
Ông ta gửi trung uư John P.
Spaulding và một số nhân viên mới tuyển, và tôi quyết
định lưu lại ở đó một thời gian nữa. Suốt trong
10 ngày, tôi phỏng vấn có lẽ tới hơn một chục sĩ quan và
gấp đôi số ngưuời ấy gồm có hạ sĩ quan và những nhân
viên cấp thấp hơn, cả người Pháp lẫn người Việt Nam,
cộng với những viên chức dân sự và những nhà kinh doanh.
Nhưng cuộc nói chuyện ấy cho thấy
một bức tranh không có ǵ hấp dẫn của thái độ hững hờ,
tinh thần trả thù và quyền lợi ích kỷ.
Những thái độ của những người lánh nạn về căn bản phản
ánh chính sách quốc gia của Pháp cũng như những kinh
nghiệm của họ về tổ chức dân sự hay quân sự dưới chính
phủ Decoux từ năm 1940. Họ cảm thấy
cảnh ngộ hiện nay của họ sẽ sớm kết thúc và họ trở về
Đông Dương để lấy lại những ǵ mà họ đă để lại.
Sẽ không có ǵ thay đổi.
Tôi cảm thấy hầu hết những người
lánh nạn đă sống những năm tháng của ḿnh ở Đông Dương
mà không hề rời khỏi môi trường Pháp của ḿnh.
Sự hiểu biết của họ về dân bản xứ,
về những đặc trưng dân tộc và những nguyện vọng chính
trị giống như sự hiểu biết của một người đi qua ngẫu
nhiên. Họ coi những nhân viên Việt Nam trong quân
đội của họ như “những binh lính và cu-li tầm thường” mặc
dù nhiều người Pháp đă nhận được một sự ủng hộ trung
thành của những đội quân và những người dân thường “bản
xứ” trong những cuộc xung đột với người Nhật. Điều đó
được coi là “b́nh thường và là bổn phận của họ”. Đối với
những người đó, “cuộc kháng chiến bản xứ” không phải là
một phong trào có xung lượng riêng mà là một bằng chứng
thành công của chủ nghĩa tự do và của sự lănh đạo của
Pháp.
Gần như nhất trí, những người Pháp
mà tôi phỏng vấn đều cho rằng người Việt Nam không đủ
sức gánh trách nhiệm chính trị. Họ thừa nhận
những kẻ theo chủ nghĩa quốc gia đang tồn tại, nhưng “đă
tỏ ra hèn kém khi đụng phải Sureté(9)
hay Quân đội”. Thái độ của người
Pháp tốt lắm cũng chỉ là thái độ cha chú.
C̣n thái độ tệ hại nhất thấy có ở
một số ít người là thuần tuư khinh miệt, được cô đọng
lại trong thái độ của một sĩ quan cho rằng “không có một
người An Nam chân thành nào”.
Đối với những Đồng minh phương Tây,
tôi thấy có những thái độ rất khác nhau, nhưng số đông
nhất có thái độ nghi ngờ những ư định của Đồng minh.
Cá nhân tôi đă thấy những thành viên
trong Phái đoàn quân sự Pháp ở Szemao tự ḿnh truyền cho
những người mới tới sự nghi ngờ ấy, trước khi họ tiếp
xúc với bộ phận của tôi. Sự bảo vệ quyền lợi
người Pháp chống lại ḷng thèm khát đượcc gán cho người
Anh và người Mỹ rơ ràng là cái cớ để biện hộ cho sự hợp
tác vừa qua của họ với người Nhật.
Rất ít sĩ quan Pháp tỏ ra thẳng thắn như người cuối cùng
đă hỏi tôi “có phải người Mỹ định sẽ sử dụng những con
đường sắt Đông Dương sau chiến tranh không?”. Sau khi
lẩn tránh những câu hỏi của tôi về vận tải Đông Dương,
một số ít người bào chữa cho chủ trương gây trở ngại của
giói cầm quyền và tỏ ra sẵn sàng cộng tác về những vấn
đề t́nh báo nếu sự cộng tác của họ không bị những nhà
chức trách Pháp biết. Một nhà kinh doanh bày tỏ ư muốn
được thấy xứ này(10) phát
triển lên bằng tư bản và tính năng nổ của nước ngoài nếu
những nguồn tư bản của Pháp không thể đáp ứng với nhu
cầu. Nhưng ông ta là người duy nhất
nói ra điều đó với tôi.
Mặc dù thái độ của người Pháp đối
với những Đồng minh phương Tây có vẻ lạ lùng đối với
nhiều người Mỹ ở Trung Quốc, nhưng tôi không thấy thế.
Trái lại, tôi hiểu đó là sự mở rộng
tự nhiên của lập trường chính thức ở Paris, dưới chính
quyền mới của De Gaulle. Người phát ngôn của
Chính phủ Pháp đă công nhiên khiển trách những sự hoang
tưởng nặng nề về chính trị của người Pháp ở Syria và
Lebanon trước những hoạt động của người Anh và cũng lên
án người Anh mưu toan thay thế người Pháp ở những thuộc
địa ở Trung Đông của họ. Các Bộ trưởng Pháp khi tŕnh
bày với Hội đồng tư vấn đă lên án Mỹ âm mưu chiếm
Nouvelle Calédonie và những căn cứ ở Đông Dương. Sự phê
phán của báo chí Mỹ về chính sách thuộc địa của Pháp đă
bị Bộ trưởng Ngoại giao Bidault gạt bỏ một cách khinh bỉ
với sự nhấn mạnh rằng “nước Pháp không cần phải học ai
về những vấn đề này”. Thái độ xấu đối với Mỹ do chính
sách chống thực dân của chúng ta có thể hiểu được, nhưng
công kích người Anh, bạn Đồng minh mạnh mẽ duy nhất
trong việc chống đỡ cho lư tưởng “đế quốc” bị nghiêng
ngả, là một thái độ thiển cận và u uất.
Dù sao, tôi vẫn báo cáo cho cơ quan
Chiến trường và Đại sứ về việc tôi từ Côn Minh trở về
với thái độ nghi ngại và bực bội của Chính phủ Paris và
của các nhà chức trách thuộc địa.
Cả hai đều nhằm phục vụ mục tiêu của
các giới cầm quyền Pháp là khôi phục vị trí của Pháp
trước chiến tranh mà không chịu chấp nhận một sự thoả
hiệp nào. Họ có thể dùng đến
những phương pháp chắc chắn sẽ gây ra sự phê phán và làm
suy yếu việc phối hợp nỗ lực chiến tranh của Đồng minh.
Sự chống đối của Đồng minh tỏ ra
không hiệu lực v́ Đồng minh đă có thái độ thiếu ngay
thẳng và một quyết định giải quyết các vấn đề một cách
quá nhanh và trọn vẹn bằng việc sử dụng những đội quân
của Pháp ngay trước khi các vấn đề được hỏi đến.
Như các sự kiện về sau này chứng tỏ, việc giao phó cho
các nhà chức trách Pháp thực hiện chính sách đó nôn nóng
đă bị hạn chế, và mức độ ủng hộ cần phải có của những
người dân trong nước họ cũng đáng ngờ.
Nhưng họ lại cần phải đặt nước Pháp
và phần c̣n lại của thế giới trước một việc đă rồi - đó
là một nhiệm vụ không thể làm được.
Những cuộc thảo luận của tôi trong những ngày ban đầu ấy
với tướng Sabattier, tướng Alessandri, đại tá Emblanc và
thiếu tá De Monpezat cũng cho thấy một vấn đề ít lộ ra
công khai trong nội bộ Đồng minh mà chỉ có một số ít
người Pháp hiểu được. Điều đó có liên quan đến nhiều
cuộc tiếp xúc công khai và bí mật giữa Trung Quốc và
Đông Dương.
Hoa Kiều ở Đông Dương nói chung đối địch với người Nhật.
Sự hợp tác công khai của họ với với giới quân sự Nhật
hồi đó không được người Pháp coi là không trung thành -
đó chỉ là một yêu cầu của chiến tranh, một sự thu xếp
thực dụng. Nhưng người Pháp mà tôi đă nói chuyện với họ,
cho rằng cộng đồng người Trung Quốc ở Đông Dương sẽ chào
đón sự cai trị của người Pháp quay trở lại, không phải
v́ lư do nào khác ngoài lư do ổn định kinh tế.
Tuy nhiên các nhà chức trách Pháp
lại rất quan tâm đến thái độ của Quốc dân đảng Trung
Quốc. Họ lo ngại về những bài phát ra trên báo
chí Trung Quốc, đă thông qua sự kiểm duyệt của Trùng
Khánh, đang kêu gọi nhập lại Đông Dương vào Trung Quốc,
trong khi những tờ báo bán chính thức của Trung Quốc th́
lại khuyến khích các nhóm cách mạng Việt Nam khác nhau.
Những người cách mạng đă ủng hộ một
cách khác nhau mọi chủ trương đoàn kết với Trung Quốc để
hoàn thành nền độc lập của Việt Nam. Dù con số
những người cách mạng ấy c̣n ít, nhưng họ họp thành
những trung tâm tuyên truyền chống Pháp, điều duy nhất
mà những người cách mạng đồng ư với nhau, và đó là nguồn
rối loạn ở “thuộc địa”. Chính phủ
Trung Quốc ít phân biệt những nhóm cách mạng ấy, dung
nạp tất cả, nhưng cộng tác chặt chẽ nhất với chi nhánh
An Nam của Quốc dân đảng. Hơn nũa, các nhà chức
trách Pháp c̣n biết rằng Tai Li đang nắm giữ một mạng
lưới tay chân khắp Đông Dương và mạng lưới này đang
tránh né cả “Sureté” cũng như “Kempeitai”.
Các thủ lĩnh quân sự Pháp sẵn sàng thừa nhận rằng Decoux
cũng giống như những người tiền nhiệm của ông ta, đă
không thể đè bẹp được những đảng bí mật khác nhau ở Đông
Dương hay ngăn ngừa được sự thâm nhập bí mật của Trung
Quốc, cả hai đều được chỉ đạo từ Trung Quốc. Hơn nữa,
sau cuộc đảo chính, người Nhật lại ban hành quy chế
chính thức cho một nhóm quốc gia ở Đông Dương. Nhưng các
thủ lĩnh quân sự Pháp vẫn thấy Việt Minh là mối đe doạ
lớn nhất đối với chủ quyền của Pháp.
Việt Minh đang tiếp tục những hoạt động ngấm ngầm chống
lại người Nhật và người Pháp trong suốt cuộc chiến
tranh, nhưng bị tất cả các phần tử chống Cộng ở Việt Nam
khinh rẻ.
Chính quyền Decoux không có mấy cố gắng để tranh thủ sự
ủng hộ của những người dân thường, do đó không có ǵ
ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam ít tôn trọng nó.
Tuyên truyền của Pháp vẫn hoàn toàn giữ lối nói rằng nền
văn minh Pháp đă ban cho Đông Dương những điều may mắn
về văn hoá. Những quy định cải cách thuộc địa khác nhau
do chính phủ De Gaulle đưa ra trong những cuộc thương
lượng Pháp - Anh - Mỹ được công bố rất ít. Khá lạ lùng
là chính người Nhật đă dùng những quyết định ấy để đối
chiếu với những cải cách ít ỏi được hứa hẹn và với mối
đe doạ được giả định về sự bóc lột của Anh - Mỹ sau
chiến tranh, với những mối lợi phi thường mà người Việt
Nam có thể t́m thấy ở chương tŕnh của Nhật Bản về khối
thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Sau đảo chính, đường lối tuyên truyền của Pháp, trước
kia cũng tỏ ra vô hiệu, bây giờ chỉ tập trung vào quyết
định của Pháp giải phóng Đông Dương khỏi ách áp bức Nhật
Bản. Sự tan ră của bộ máy tuyên truyền Pháp và sự kiểm
soát của người Nhật đă làm cho người Pháp không đến được
Việt Narn, là những người bất kể thế nào cũng không tin
vào họ nữa. Tuy nhiên, vào tháng 4, người Pháp lại đặt
hy vọng của ḿnh vào sự phản ứng thù địch của Việt Nam
đối với sự chiếm đóng của Nhật, trái với điều mà họ từng
thấy khi c̣n sự cai trị rộng lượng của họ. Họ tin chắc
là người Nhật rốt cuộc sẽ đưa người Việt Nam trở lại
những cánh tay của người
Pháp. Hy vọng ấy được duy tŕ bằng một ảo tưởng về thiện
chí bẩm sinh của các nhà vua ở An
Nam, Cambốt và Lào. Đó là một sự tin
tưởng sai lạc v́ không tính đến những người Việt Nam
b́nh thường và nguyện vọng độc lập hoàn toàn của họ.
Trong khi tất cả những người Pháp hân hoan với sự chào
đón mà người Việt Nam sẽ dành cho sự cai trị trở lại của
người Pháp, vẫn có một số sĩ quan Pháp quyết định phải
khôi phục sự cai trị của người Pháp, bằng cách sử dụng
những đội quân Pháp ở châu Âu. Không
một người Việt Nam nào được đại diện trong các hội đồng
của những thủ lĩnh thuộc địa lưu vong.
Những hạn chế có chủ tâm được áp đặt
cho việc tham gia của những đội quân “bản xứ” vào việc
giải phóng nước ḿnh. Người Việt Nam vẫn bị đặt
ra ngoài ŕa những hoạt động bí mật của Langlade -
Mordant - Sabattier, và các thủ lĩnh quân sự Pháp đă
phản đối việc phát vũ khí cho cái họ gọi là “du kích bản
xứ”. Họ vẫn thi hành chính sách tôn trọng những đội quân
“bản xứ” đang chiến đấu trong quân đội Pháp với những
cam kết mới đây mà ḷng trung thành tiếp tục của họ
không có ǵ đáng nghi ngờ cả.
Chính sách khai trừ ấy rơ ràng không phải do yêu cầu
chiến thắng nước Nhật mà được vạch ra v́ quyền lợi phiến
diện của Pháp. Nó phải đảm bảo cho các lực lượng Pháp
những cánh tay hoàn toàn rảnh rang để đối phó với hậu
quả nổi lên sau khi đuổi được người Nhật. Nó phải đảm
bảo chỉ có những đội quân người Âu dưới quyền chỉ huy
của các sĩ quan Pháp giữ được quyền kiểm soát về tiếp tế
và vũ khí để người Pháp sử đụng khi họ trở lại “thuộc
địa” bằng sức mạnh vũ khí.
Tôi đưa tất cả những điều đó vào bản báo cáo về người
Pháp ở nam Trung Quốc, nói chung
chúng được tiếp nhận tốt, nhưng có ai đó trong Đại sứ
quán chúng ta cho rằng tôi đă giải thích quá nghiêm khắc
về những động cơ của Pháp. Điều đó
làm cho Côn Minh và Trùng Khánh tưởng rằng tôi là một
người chống Pháp. Tuy nhiên
sự cộng tác sau này của tôi với các nhà chức trách Pháp
ở Trung Quốc đă chứng tỏ tôi không chống Pháp mà chỉ tán
thành Đồng minh mà thôi.
Chúng tôi, những người Mỹ ở châu Á - Thái B́nh Dương, có
một mục tiêu vượt lên tất cả - đánh bại nước Nhật ngay
cả khi phải làm điều đó một ḿnh, biết rằng trong những
Đồng minh của chúng tôi có những kẻ sẵn ḷng để cho
người khác giành thắng lợi trong chiến tranh trong khi
họ chuẩn bị để hái những trái quả chiến thắng.
“NƯỚC PHÁP TỰ DO” THỌC SÂU VÀO
Tôi gửi kế hoạch của
tướng Sabattier cho Côn Minh ngày 2-5.
Helliwell đă giành được một sự tán
thành hạn chế của chiến trường nhằm tiến hành những hoạt
động phối hợp Pháp - Mỹ và ngày 6-5 đă điện vô tuyến
rằng “O.K! Hăy thử thách
Sabattier trước tiên ở Szemao”.
Nhưng ông ta cũng cẩn thận dặn tôi
nhớ tới “những giới hạn của chúng ta về trang bị và nhân
sự” và hăy “tỏ ra kiên quyết để người Pháp bảo đảm rằng
trong mọi trường hợp không được để chúng ta dính líu tới
bất cứ chuyện ǵ có tính chất chính trị”. Ông ta
c̣n nhắc nhở nghiêm khắc rằng “không được cung cấp vũ
khí và đạn dược” cho người Pháp, ngoại trừ để tự vệ một
cách có hạn chế và chỉ trong trường hợp “OSS nắm đầy đủ
quyền kiểm soát hành động”.
Cho rằng sự cộng tác chặt chẽ của các tướng Sabattier và
Alessandri là điều dĩ nhiên, tôi không ngạc nhiên khi
Alessandri mời tôi đến vào chiều ngày 6-5 để hỏi về các
kế hoạch của OSS cho những người Pháp hoạt động bí mật.
Tôi nhiệt thành nói với ông ta rằng
tôi vừa nhận được những tín hiệu từ Côn Minh về kế hoạch
của Sabattier. Đứng phắt lên
và với thái độ bực bội không cần che đậy, ông ta nói
rằng “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương là một việc
không dính ǵ đến Bộ chỉ huy tối cao cả”.
Tôi hiểu sai ư của ông ta, tưởng là
ông ta nói đến Bộ chỉ huy tối cao của Mỹ, nên sau đó tôi
có nói rơ những mệnh lệnh của tôi đều từ đại bản doanh
chiến trường đến. Alessandri lập tức lấy lại
thăng bằng và nói: “Naturellement!”(11). Tất nhiên ông
ta muốn ám chỉ tới Sabattier và sự
thu xếp chỉ huy “tạm thời” của Pháp, và đây là sự
ám chỉ đầu tiên khiến cho tôi hiểu là về mặt này mọi cái
chưa phải là tốt đẹp.
Alessandri đột nhiên bỏ qua vấn đề những hoạt động bí
mật, quay sang nói về vấn đề cấp bách hơn là vấn đề tiếp
tế cho những đội quân của ḿnh. Ông ta chuyển sang một
chuyện dàn hoà khi bày tỏ mối lo ngại của ḿnh về việc
tập trung các đội quân đó lại, hiện đang đóng rải rác ở
nam Trung Quốc, từ Szemao đến Fanch'eng.
Ông ta tỏ ư hy vọng người Mỹ cung
cấp cho những khu vực tập tnmg, những phương tiện vận
chuyển và những đồ tiếp tế để phục hồi lại những đội
quân của ông ta. Tôi bày tỏ sự thông cảm hoàn
toàn của tôi đối với những vấn đề của ông ta nhưng buộc
phải nói với vị tướng này rằng OSS không có thẩm quyền
giúp đỡ và vấn đề này phải được giải quyết ở Trùng Khánh
giữa Đại sứ Pháp và Tưởng Giới Thạch. Ông ta kiên nhẫn
nhắc lại cho tôi rằng ông ta biết rất rơ những thủ tục
thông thường, nhưng đây chỉ là những cố gắng để làm dễ
dàng hơn cho một chức năng chỉ huy cấp bách của Đồng
minh - những yêu cầu khẩn cấp của các đội quân của ông
ta, “một thành phần các lực lượng Đồng minh ở Trung
Quốc. Hy vọng làm cho ông ta yên tâm, tôi gợi ư rằng tôi
sẽ lấy làm sung sướng hơn nếu thu
xếp được cho ông ta hay cho đại diện ông ta gặp ông
Snyder thuộc UNRRA, hiện đang ở Szemao; ông này đă được
Mỹ uỷ quyền giúp đỡ người Pháp.
Nhưng Alessandri lại hết sức cáu tiết v́ tôi nhấn đi
nhấn lại rằng ông ta phải giải quyết các vấn đề này ở
những nơi khác và rơ ràng không bao giờ quên được cuộc
gặp gỡ này. Về sau ông ta bị bắt
buộc phải ngồi ở các cuộc hội nghị cấp chiến trường mà
tôi cũng thỉnh thoảng tham gia với tư cách đại diện cho
những quyền lợi của OSS ở Đông Dương, nhưng ông ta không
bao giờ trực tiếp nói chuyện với tôi trong những cuộc
gặp ấy. Tháng 9, ở Hà Nội, ông ta bày tỏ sự giận
dữ của ḿnh đến mức từ chối tham dự một cuộc họp mặt với
tướng Lư Hán(12) mà bản thân
ông ta được mời đến, nhưng tướng Gallagher(13) cũng lại
mời tôi đến cuộc gặp mặt ấy với tư cách đứng đầu Phái
đoàn quân sự Mỹ; với lư do, theo lời ông ta, “thiếu tá
Patti không thân thiện với người Pháp”.
Tướng Sabattier đă lên Côn Minh, đoán trước sẽ được một
cuộc tiếp đón nồng nhiệt với tư cách là viên chỉ huy cao
cấp của các lực lượng Pháp ở Trung Quốc và Tổng đại diện
ở Đông Dương. Ông ta đă thất vọng khi không thấy người
nào ngang hàng ra đón ḿnh. Côn Minh
chỉ là bản doanh của cấp gần nhất. Nơi chỉ huy
này cách Trùng Khánh 400 dặm; ở Trùng Khánh, ông ta sẽ
có thể gặp Tưởng Giới Thạch và những cố vấn gần gũi của
Tưởng, Phái đoàn quân sự Pháp, tướng Wedemeyer và Bộ
tham mưu của ông, và Đại sứ Mỹ. Cái gọi là phái đoàn
quân sự Pháp ở Côn Minh thật ra là M.5 và đă bị SLFEO
của “những bàn tay Trung Quốc cũ”(14)
thanh trừng và trở thành trung tâm của phái De Gaulle ở
Trung Quốc. Sabattier ở đây không có bạn bè.
Những người theo De Gaulle ở Côn Minh hy vọng sẽ có một
nhân vật xuất sắc đại diện cho “nước Pháp mới” - một
người nào đó có bóng dáng cao lớn như Leclec, Catroux
hay thậm chí Blaizot. Sabattier chỉ
là một người giúp việc khốn khổ. Chính trị của
ông ta là chính trị của một sĩ quan điển h́nh của quân
đội chính quy Pháp, trung thành với nước Pháp, ủng hộ
chế độ đang cầm quyền và nghiêm ngặt tuân
theo luật lệ truyền thống về
danh dự nhà binh. Với việc Aymé bị bắt, Sabauier trở nên
người có cấp cao nhất trên sân khấu nắm giữ chức Tổng
chỉ huy tất cả các lực lượng Pháp ở Đông Dương. Sau đó,
với sự “biến mất” của Mordant, Sabattier đă được chỉ
định thay mặt cho ông ta.
Những người của SLFEO ở Côn Minh, rơ ràng chịu sự chỉ
huy từ Calcutta, đă tung ra một chiến dịch làm mất uy
tín của Sabattier trong con mắt của quân đội Pháp và của
Phái đoàn quân sự Pháp ở Trùng Khánh, bằng cách để hở ra
một phần bức điện ngày 10-4 của De Gaulle gửi Sabattier,
trong đó nói: “Rơ ràng ông sẽ tiếp tục kháng chiến trên
đất Đông Dương, bất chấp mọi khó khăn. Một điều cũng cần
thiết như vậy là cá nhân ông phải ở lại Đông Dương cho
đến giới hạn cùng tột...”(15).
Cũng như những người ấy lúc đó đă cho lưu hành những lời
lên án Sabattier rằng ông ta bao giờ cũng là người đầu
tiên rời bỏ khu vực của người Nhật đe doạ - là người đầu
tiên chạy khỏi Điện Biên Phủ 4 ngày trước khi quân của
ông ta di chuyển, khỏi Phong Saly 3 ngày trước khi người
Pháp tản cư khỏi khu vực và khỏi Muong Ou Tay 3 ngày
trước khi rút lui.
Những sự việc đi trước ấy là những biện pháp bảo đảm
an toàn b́nh thường đối với
một vị Tổng chỉ huy, nhưng những việc đó đă bị đẩy đi
quá mức và do đó đă đẻ ra một hiệu quả tự hạ thấp ḿnh
xuống. Những người theo De Gaulle coi Sabattier là một
“sự ngẫu nhiên trống rỗng của số phận”, nghi ngờ năng
lực của ông ta trong việc mang croix de
Lorraine(16) một cách lịch sự
tới vũ đài chính trị ở Trùng Khánh.
Mặc dù có sự chống đối do M.5 để lộ ra, Sabattier vẫn
quyết định thiết lập một sở chỉ huy ở Côn Minh cho các
lực lượng Pháp và đă ra lệnh cho Alessandri tiếp tục tổ
chức và huấn luyện trong khi ông ta đến Trùng Khánh để
thảo luận về việc sử dụng các đội quân của Pháp với
Wedemeyer và Hà Ứng Khâm. Sabattier
có vẻ tự tin và tỏ ra rất ủng hộ những mục tiêu của Đồng
minh, nhưng phái De Gaulle chỉ nh́n thấy có Đông Dương,
và những ngày của Sabattier ở Trung Quốc không được bao
nhiêu.
Chú
thích :
(1)
thuộc tổ liên lạc 19, đội không quân thứ 14
(2) chỉ huy chiến dịch Poitou để thu thập t́nh báo ở
vùng biên giới Cao Bằng
(3) Ban t́nh báo
(4) Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra ngày 27-4-1945
(5) Hiến binh Nhật
(6) Các kho dự trữ của quân Pháp và Nhật
(7) chỉ huy trung đoàn 9RIC
(8) chỉ người dân tộc thiểu số ở miền núi cực bắc Việt
Nam
(9) Sở mật thám Pháp
(10) tức Đông Dương
(11) Tất nhiên!
(12) khi đó là Tổng chỉ huy lực lượng chiếm đóng Đông
Dương phía bắc vĩ tuyến 16
(13) trưởng đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ cho quân
đội Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam
(14) từ ngữ mà De Gaulle dùng để nói về việc bắt cầm tù
Mordant tiếp sau cú 9-3
(15) G. Sabattier, “Số phận của Đông Dương”
(16) huân chương Loraine
Chương 10
Một phiên họp của “bộ
óc”
ĐỘI
OSS
Vào lúc tôi rời Szemao ngày
12-5, Spaulding cùng với một đội 20 người đang điều khiển sau
trạm thu tin dọc biên giới, tôi rất hài ḷng.
Trở về Côn Minh, tôi suy ngẫm làm sao để mở
rộng những hoạt động của chúng tôi ở bên trong bằng những phương
tiện của Sabattier và của ông Hồ có tại chỗ.
Hồi đó Ban tham mưu của tôi ở Côn Minh đă tăng thêm những người
mới từ Mỹ đến: trung uư (sau đó là đại uư) Roger P. Bernique,
thuộc Lục quân; trung uư (sau đó là đại uư) Carleton Swift Jr.,
thuộc Hải quân và nhiều lính nghĩa vụ có tŕnh độ cao được huấn
luyện về tiếng Pháp và tiếng Việt. Với đội ấy và với sự giúp đỡ
của những chuyên viên khác ở ban tham mưu OSS, chúng tôi bắt đầu
cuộc hoạt động SI đối với Đông Dương trên qui mô đầy đủ.
Ngay trước khi tôi bay trở về, một chỉ thị mới của chiến trường
đă chỉ thị cho OSS “ngăn cản sự vận chuyển và phá hoại đường bộ
và đường sắt từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội”. Chỉ thị có một giọng
cấp bách khác thường: “…trong trường hợp tất cả các đường sắt
nằm trong hoạt động này, những đường sắt nào có thể tháo dỡ được
th́… phá hủy, cả cầu và đường hầm cũng phá hủy.
Ít nhất phải có những khúc đường bộ hay
đường sắt dài 10 dặm sẽ không thể hoạt động được nữa.
Không để cho người Nhật sử dụng đuờng giao thông… tâấ cả các hầm
hố và các ụ đất (sẽ) được gài ḿn… (và
phải) tiến hành việc phá hủy các kho tàng tiếp tế của Nhật trong
hoặc gần Hà Nội… các đội quân phá hoại phải bắt tù b́nh khi nào
có thể đuợc”.
Helliwell và tôi thảo luận bức điện ấy.
Thật lạ lùng, chỉ thị quá chi tiết nhưng lại
không xác định được mục tiêu rộng lớn; và chúng tôi đều ngạc
nhiên về một anh chàng tài tử nào đó ở Bộ tham mưu đă vạch ra
chỉ thị đó.
Đây là một công việc thuộc SO/OG(1)
chứ không phải thuộc SI, nhưng chúng tôi cũng hỏi Helliwell xem
ông ta có chỉ thị ǵ cho tôi không. “Ngài đại tá hay nổi khùng”
ấy, như ở một vài cơ quan thường gọi Helliwell như vậy, cáu kỉnh
nói: “Đây là khu vực của anh, anh hăy tới đó”. Rơ ràng đó là lần
đầu tiên tôi được báo cho biết là sựu phân công của tôi đi xa
hơn việc t́nh báo bí mật. Với một giọng có
phần gay gắt, Heliiwell báo cho tôi biết rằng nhiệm vụ của tôi
bao hàm toàn bộ những hoạt động bí mật và chiến tranh chính trị.
Helliwell nói rằng những chỉ thị của tướng Donovan cho Heppner
đă đặc biệt nhấn mạnh rằng Whitaker và tôi sẽ chịu trách nhiệm
trước ông ta(2) về những hoạt động ở Đông Dương. Vào lúc tôi vừa
mới bắt tay vào hoạt động SI, tất cả những điều đó làm cho tôi
ngạc nhiên phần nào nhưng Helliwell tiếp tục bảo đảm với tôi là
tôi sẽ được tiếp xúc và được sự ủng hộ đầy đủ với tất cả các bộ
phận tham mưu và ông ta tin rằng họ sẽ cộng tác với tôi.
Ngày hôm sau, Heppner, Whitaker và Quentin
Roosevelt(3) từ Trùng Khánh đến ở lại đây một thời gian
ngắn. Họ cùng nhập bọn với Helliwell, Duncan Lee và tôi trong
một dịp hiếm có - một bữa ăn Trung Quốc được sửa soạn đặc biệt
với nhiều món ăn và chúng tôi ngồi nhắm rượu trắng Trung Quốc
với rượu mạnh Ecosse của Anh suốt đêm. Những chuyến đi thăm
thường xuyên lẫn nhau giữa cái nhóm nhỏ bé tin cậy nhau của
chúng tôi được coi như những phương tiện duy nhất để chúng tôi
quan hệ với nhau và trao đổi ngay thẳng với nhau những tin tức
và quan điểm về chính sách và những hoạt động của Mỹ và tăng
cường những liên hệ làm việc của chúng tôi bằng một mối quan hệ
cá nhân.
Heppner có một cái đầu lạnh và chúng tôi biết dựa một cách tin
cậy vào sự phán đoán vững chắc của ông ta. Ông ta rất lịch thiệp
và được ban tham mưu của ḿnh ủng hộ mạnh mẽ, nhưng khi cần có
thể cứng rắn được. Được tướng Donovan hoàn toàn tin cậy và được
biết riêng về những cuộc thảo luận của Nhà Trắng, ông ta thường
đụng phải vấn đề tế nhị nhất với các thủ lĩnh Trung Quốc, nhưng
ông ta không bao giờ tỏ ra một thái độ quá bận rộn với một sự
mệt mỏi khi nghe hay xem xét những vấn đề của chúng tôi, hoàn
toàn ngược lại, bao giờ ông ta cũng vui vẻ và sẵn sàng.
Whitaker dược Donovan giao cho thâm nhập các
giới của người Pháp ở Trùng Khánh để báo cho Washington những kế
hoạch của Pháp. Đối với công việc được giao ấy, ông ta có
lợi thế là đă trải qua 20 năm ở châu Âu như một nhà văn và nhà
báo Mỹ. Ông ta có bạn bè ở khắp châu Âu, đặc biệt trong những
người Pháp, và có một phong cách tao nhă, một nhân cách xuất sắc
và một sự hiểu biết sâu sắc về chính trị châu Âu. Ông ta có mặt
trên sân khấu với tư cách là một nhà báo khi Hội Quốc liên suy
tàn và chết, đă tới Matxcơva để t́m “sự thật” và trở về vỡ mộng,
và đă viết cả một loạt bài từ Ethiopia đến Tây Ban Nha và từ
cuộc thanh lọc của Hitler năm 1934 đến cuộc chính biến ở Viên
với tư cách phóng viên chiến tranh. Ông ta cảm thấy rằng ḿnh bị
ràng buộc một cách sâu sắc với cuộc chiến tranh chống nước Đức
và nước Nhật, và hy vọng nước Mỹ cuối cùng sẽ khắc phục được sự
yếu ớt của ḿnh là cái đă từng phá hoại Hội Quốc liên cũ.
Helliwell là một nhân vật quyết định và ông
ta đau khổ như một người đang ốm ở khi những quyết định chính
trị làm tŕ hoăn những kế hoạch và hành động của ḿnh.
Ông ta ít tỏ ra sôi nổi, nhưng thỉnh thoảng những cơn bực dọc
của ông ta làm cho ông ta trở nên giận dữ, ông ta không phải là
một người ưa những sự nhỏ nhặt hay những ác cảm. Khi khí sắc
tươi tỉnh, ông ta hăng hái thúc đẩy mọi hoạt động, ủng hộ và
khích lệ, lôi kéo mọi người theo ḿnh
và tự ḿnh lao vào việc một cách hăng hái nhất.
Quentin Roosevelt là cháu Tổng thống
Theodore Roosevelt. Chắc chắn anh ta được đặt tên
theo tên người chú đă bị giết trong
Thế chiến thứ nhất. Hồi ấy anh ta mới 25 tuổi hay vào khoảng đó,
và được bạn bè gọi là anh “Q”. Anh ta có vẻ
rất thoải mái trong môi trường Trung Quốc và nói tiếng Trung
Quốc khá thành thạo. Bố anh ta,
Theodore Roosevelt Jr., là một người bạn cũ và thân thiết của
Tưởng và vợ. Điều rất quan trọng đối
với chúng tôi là anh ta hiểu biết sâu sắc suy nghĩ của các cố
vấn của Tưởng, anh ta cũng là một người bạn tốt và là một người
kể chuyện tế thị.
Duncan Lee là một nhà Trung Quốc học; đẻ ở
Trung Quốc, bố mẹ là những nhà truyền giáo, nói thạo tiếng Trong
Quốc, có phần văn vẻ nữa. Trong đời
sống b́nh thường, ông ta là một luật sư cũng giống như những
luật sư khác và cũng đă từng tốt nghiệp trường Đại học Oxford.
Lee cũng đă từng làm trưởng chi nhánh Viễn
Đông của OSS ở Washington, nơi chúng tôi gặp nhau lần dầu tiên,
và kiến thức của ông ta rất có ích cho chúng tôi.
Ông ta là người dễ ưa và dễ làm quen.
CARBONADO
Những tin
tức quan trọng vào buổi chiều do Heppner cung cấp là tuyệt mật.
Wedemever (vừa mới từ Washington về) đang chuẩn bị một cuộc tấn
công đần tiên của Mỹ ở Trung Quốc, theo
tên mật mă là Carbonado. Đó là một cuộc tấn công trên đất liền,
dọc theo đường Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực
Quảng Châu - Hongkong, sau đó mở những cảng lớn ở phía nam Trung
Quốc để tiếp nhận quân đội từ châu Âu và Phillipine đến.
Ngày mở đầu cuộc hành quân được dự định chỉ
c̣n ba tháng rưỡi nữa, tức là vào ngày 1-9, và cuộc tấn công kết
thúc vào ngày 1-11-1945.
Để dạo đầu cho Carbonado, Wedemeyer cần mở một cảng nhỏ Fort
Bayard (Chanchiang) nằm trên bán đảo Lôi Châu, cách Quảng Châu
chừng 250 dặm về phía tây nam, như là một căn cứ tiếp tế sắp tới
để duy tŕ cuộc tấn công Carbonado.
Hepper nhấn mạnh tầm quan trọng của những hoạt động của OSS
chúng tôi, v́ Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông ta buộc chúng tôi
cung cấp rất nhiều tin tức t́nh báo và phải quấy rối người Nhật
ở khu vực tấn công được dự tính. Tướng Mc
Clure(4) cũng yêu cầu OSS mở đầu cuộc hành quân này bằng
cách đánh du kích (SO), phá hoại (OG) và hoạt động tâm lư (MO).
Điều đó đặc biệt quan trọng để ngăn quân Nhật ở Đông Dương tăng
cường những vị trí của họ nằm trên khu vực của những cuộc hành
quân Carbonado. Tất nhiên, đó là những điểm
đặc biệt trong bản chỉ thị mà Helhwell và tôi đă chế giễu.
Whitaker nói rằng khu Hà Nội - Trấn Nam Quan sẽ là “người yêu”
của tôi và tuyến Trấn Nam Quan - Nam Ninh sẽ bị hạm đội Mỹ cắt
đứt.
Khi báo cho tôi, Whitaker nói rằng ông ta đă gặp tướng Pechkov
và Sabattier, thấy rơ họ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi và hỏi ư
kiến của tôi. Helliwell nhăn mặt, tôi nhận
thấy thế, khi Heppner và Lee ngồi lùi ra với những bộ mặt nghiêm
trọng c̣n Q th́ nở một nụ cười sung sướng. Tôi suy nghĩ
một lát và nói: “Chắc chắn như vậy, sao lại không?
Chỉ cần chúng tôi có đủ thời gian và được
ủng hộ về hậu cần, và nếu như người Pháp không phản đối đánh
nhau ở Trung Quốc”. Nhưng tôi nói với ông ta rằng,
theo chỗ tôi biết về điều kiện của họ
và về những kế hoạch của họ, tôi hoài nghi việc đánh nhau ở
Trung Quốc được đặt lên một vị trí cao trong danh mục những ưu
tiên của họ. Hơn nữa, tôi cho rằng mục tiêu
duy nhất của họ lúc này là tránh khỏi người Nhật càng xa càng
hay. Thật ra nếu ông ta hỏi tôi, tôi
sẽ gợi ư là nên gửi họ đến một trung tâm hồi phục ít ra là 6
tháng nữa. Whitaker im lặng một lát
với một vẻ khổ sở, để lộ ra một sự thất vọng đối với tôi.
Sau đó ông ta hỏi: “Làm thế nào ông định hoạt động Đông Dương mà
không có người Pháp được?”. Tôi bắt
đầu mất kiên nhẫn và trong khi mọi người đều lặng thinh, tôi
nói: “Ta hăy xem John có thật nghiêm túc không?
Các ông đă nh́n thấy những người lánh nạn
chưa? Những đội quân ấy, thật ra,
không nh́n thấy bất cứ một thứ vũ khí hiện đại nào hay học những
chiến thuật mới nào từ năm 1940. Họ
vẫn c̣n sống trong Thế chiến thứ nhất”.
Whitaker không thể giữ măi tư thế cũ.
Mọi người phá lên cười v́ cái điều tôi đă phát hiện ra ấy, tôi
trở thành cái bia của một sự đùa cợt
nhỏ của Whitaker - ông ta giễu cợt tôi suốt buổi.
Điều đó đă làm cho tôi rụt lại một lúc.
Khi những tiếng la hét và những tiếng cười ha hả lắng đi, Q nói
với chúng tôi rằng Pechkov là một vấn đề nặng nề với tướng Hà
Ứng Khâm, v́ ông ta đ̣i hỏi mọi thứ cung cấp và vậnn chuyển, và
yêu cầu trang bị “4.000”(?) người Pháp chiến đấu để đánh người
Nhật ở Đông Dương. Ông Jean Daridan, đại diện của Đại sứ quán
Pháp ở Trung Quốc, đă khẩn nài Đại sứ quán Mỹ dùng ảnh hưởng của
ḿnh đối với Tưởng nhằm tổ chức những hoạt động bí mật của Pháp
ở Đông Dương. Tướng Cheng Cheng, Bộ trưởng chiến tranh Trung
Quốc, đă hai lần từ chối gặp Pechkov cũng như Sabattier để thảo
luận vấn đề về sử dụng các lực lượng Pháp ở Trung Quốc.
Ông ta lịch sự bảo họ đến gặp tướng Hà.
Heppner ước đoán về con số quân đội mà Sabattier có thể tập hợp
được trong thực tế. Ông ta nghe nói tới những con số khác nhau,
từ 1.000 đến 6.000người. Dù nhiều đến đâu, ư
kiến của ông ta là những số quân ấy có thể được sử dụng tốt nhất
như những đội quân yểm trợ ở các khu vực hậu phương của Cục quân
nhu (thuộc OSS). Whitaker nghĩ tới
việc có thể sử dụng một số ít vào công tác t́nh báo, miễn là OSS
giữ quyền kiểm soát các hoạt động. Helliwell gợi ư rằng
nếu Sabattier tổ chức được vài trăm người tự nguyện và có năng
lực th́ họ có thể sử dụng vào những hoạt động du kích và phá
hoại. Rơ ràng là có một vai tṛ dành cho một số đội quân người
Pháp trong các kế hoạch của Đồng minh nếu họ bằng ḷng chấp nhận
sự lănh đạo và kiểm soát của Đồng minh.
Theo sự gợi ư của Whitaker và Helliwell, tôi đă đề nghị đưa M.5
về gần Côn Minh để thu xếp việc tuyển lựa và huấn luyện một đội
quân nhỏ cho những hoạt động SI, SO và OG.
Heppner không đồng ư. Thay vào đó, ông ta yêu cầu tôi triển khai
một kế hoạch mà ông ta và Whitaker đă vạch ra với Sabattier ở
Trùng Khánh. Wedemeyer và Donovan rất
nhạy cảm với quan hệ với người Pháp và, ông ta nói, tốt hơn cả
là nên bàn luận vấn đề đó lúc đầu ở cấp Chiến trường và Đại sứ
quán. Mc Clure sẵn sàng thảo luận với tướng Sabattier về
khả năng sử dụng một số hạn chế quân Pháp phối hợp với người
Trung Quốc ở đông bắc Trung Quốc. Whitaker đồng ư rằng chúng ta
ở Côn Minh không nên dính vào chuyện này cho đến lúc mọi việc
được sáng tỏ ở Trùng Khánh. Đặc biệt về sự tranh chấp giữa những
người Pháp theo De Gaulle ở M.5 và Bộ
tham mưu Pháp ở Trùng Khánh. Ông ta cũng
thấy những cuộc xung đột cá nhân giữa Sabattier, Alessandri và
Pechkov. Hai người sau này đều là những sĩ quan lê
dương(5), đă từng cộng tác với phái
De Gaulle thuộc SLFEO/Calcutta trong một chiến dịch mà Sabattier
bị gọi về Pháp, theo ông ta nói.
Tôi nêu lên vấn đề người Việt Nam, mô tả lại
những cuộc tiếp xúc mới đây của tôi, và nói rằng tôi tán thành
sử dụng lực lượng dự trữ chưa đặt quan hệ ấy.
Phản ứng đầu tiên của những vị khách Trùng
Khánh của chúng tôi là tiêu cực.
Whitaker và Roosevelt đều cảm thấy người Pháp và người Trung
Quốc sẽ mếch ḷng với sự tiếp xúc của chúng ta với những người
Cộng sản Việt Nam. Heppner cũng thấy trước vấn đề ấy,
nhưng cho rằng lúc này chúng ta vẫn chưa có một sự lựa chọn nào,
và ông ta thấy không có ǵ gay go trong vấn đề ấy chừng nào
chúng ta tách khỏi chính trị và hành động êm thấm, ở cấp thấp.
Lee và Helliwell tán thành sử dụng người của
Hồ Chí Minh, nhưng rất thận trọng.
Với một vẻ hoài nghi, Lee muốn biết xem chúng tôi làm thế nào để
cho Tai Li không khám phá ra được việc này. Tôi nói: “Để
việc đó cho tôi”, và Whitaker hết sức ủng hộ tôi và nói với họ
rằng tôi đă từng thành công ở Ư, khi làm việc bên cạnh những
người Cộng sản, những người quân chủ và những kẻ phát xít Ư mà
không để họ khám phá ra những hoạt động đồng thời tiến hành ấy.
Cuộc nói chuyện chuyển sang những sự kiện ở Trùng Khánh.
Whitaker nói với chúng tôi rằng 6 tuần lễ trước khi xảy ra cuộc
đảo chính của Nhật, đại tá Jacques Guilermag(6) đă đích thân báo
tin cho Wedemeyer rằng người Nhật đang hoạt động mạnh mẽ ở Đông
Dương và hậu quả là người Pháp thấy trước ḿnh sẽ bị tước mất vũ
khí và quyền lực. Ấy thế mà, khi điều đó xảy ra, người Pháp đă
tỏ ra ngạc nhiên và kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ. Sau đảo chính,
Pechkov đă đưa ra những yêu sách vô nghĩa lư của một phong trào
kháng chiến không tồn tại và muốn trách cứ Mỹ về sự sụp đổ ấy,
đúng như Vichy và Catroux đă làm năm 1940. Việc họ thiếu nh́n xa
và thiếu kiên quyết chống lại đă để cho Nhật giành được một sự
kiểm soát chiến lược không chối căi được ở Đông Nam Á và đặt
Trung Quốc vào một thế nguy hiểm. Cả Tưởng
lẫn Wedemeyer đều tỏ ra hết sức thất vọng với người Pháp.
DE GAULLE VÀ QUỸ ĐẠO NƯỚC NGA
Ba ngày trước cuộc đảo chính, đại sứ Pháp ở
Washington, Henri Bonnet, đă vẽ lên cho Bộ Ngoại giao chúng ta
một bức tranh rực rỡ về “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương
và có một số đông những người bản xứ tham gia”.
Ông ta yêu cầu Mỹ giúp đỡ cho những người
maquisards(7) giúp thành lập một tổ chức dân sự hỗn hợp
và chấp nhận việc ủy nhiệm tướng Blaizot liên lạc với tướng
Wedemeyer. Bonnet được nói cho biết là không có những người
maquisards ở Đông Dương, những kế hoạch dân sự c̣n quá sớm và
tướng Weaemeyer khi được hỏi đă trả ḷi rằng lúc này ông ta
không cần đến một sĩ quan Pháp ở Bộ tham mưu của ḿnh.
Whitaker cũng được biết một sức ép nặng nề
vẫn đang được thực hiện. Tướng De Gaullle đă nói với đại
sứ chúng ta ở Paris, Jefferson Caffery, rằng người Pháp ở Đông
Dương đă tổ chức một “cuộc chiến đấu thực sự” nhưng không được
sự giúp đỡ của cả người Mỹ lẫn người Anh. De Gaulle cho biết
rằng người Mỹ được chỉ thị không giúp đỡ ǵ cả và người Anh cũng
đi theo sự lănh đạo của Mỹ. De Gaulle
nói rằng ông ta không hiểu được chính sách của Mỹ. Chúng tôi
phải làm thế nào đây, chẳng lẽ lại kéo nước Pháp vào quỹ đạo
nước Nga chăng? Nước Pháp không cần trở
thành Cộng sản, nhưng nếu như chính sách của chúng ta không thay
đổi th́ ông ta sợ sẽ xảy ra như thế, dù ngược lại với ư muốn của
ông ta.
Mườ́ ngày sau cuộc đảo chính, khi người Pháp đang vượt qua biên
giới Trung Quốc, Bonnet vẫn cố thuyết phục Nhà Trắng và Bộ Ngoại
giao rằng những người maquisards vẫn chống cự một cách anh dũng
ở Đông Dương, rằng chỉ v́ thiếu viện trợ của Mỹ nên họ không thể
chiến đấu tốt được. Whitaker nói với chúng ta đă gửi hàng trăm
tấn hàng cho người Pháp trong cuộc rút lui của họ, nhưng đă bị
người Nhật nhặt được. Tôi không thể nào không nói lên nhận xét
của ḿnh rằng khi nh́n thấy hoàn cảnh cơ cực của đội quân Pháp,
th́ người ta không thể nào tin được rằng chúng ta đă không thả
dù tiếp tế cho họ chút nào.
Sau đó Heppner báo cho chúng tôi rằng đă nghe được những tin đồn
từ các nguồn của Pháp nói rằng chính sách của Mỹ về Đông Dương
đă thay đổi và trong cuộc nói chuyện riêng với các nhân vật
chính thức cao cấp Pháp ở Hội nghị San Francisco ở Liên Hợp
Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao chúng ra đă nói rằng Mỹ không bao giờ
nghi ngờ về chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Heppner nói rằng
ông ta đă kiểm tra các nguồn tin ấy ở Hurley và Wedemeyer và
biết rằng chính sách của Mỹ không thay đổi. Quay sang tôi, ông
ta nói: “Những chỉ thị của Donovan cho ông vẫn giữ nguyên.
Chúng ta không được cộng tác bằng bất cứ
cách nào với kế hoạch trở về của Pháp.
Nói cách khác, cho đến lúc nào ông không
nghe thấy một cái ǵ khác từ 109 (tên mật mă của tướng Donovan),
th́ vẫn tiếp tục làm như đă đồng ư”.
Whitaker nói thêm rằng khi nào và nếu như chính sách thay đổi,
109 sẽ thay đổi sự phân công của tôi đối với bên nước.
Xen kẽ với những cuộc thảo luận ấy về Đông Dương, đă có những
cuộc nói chuyện về những vấn đề khác, bao gồm cả hoạt động của
Cộng sản Trung Quốc - OSS ở Diên An, dự án đặc biệt của Helliwel
(“Chim ưng”) để thâm nhập Triều Tiên và dự án SEAC-OSS ở miền
Nam Đông Dương và Thái Lan. Cuộc gặp mặt kết
thúc rất muộn.
BẢN BÁO CÁO ĐẦU TIÊN CỦA ÔNG HỒ
Tôi đă nhận được một báo cáo t́nh báo thú vị của
Hồ Chí Minh, cùng với hai bài viết chính trị gửi cho phái đoàn
Mỹ ở hội nghị Liên Hợp Quốc. Tôi
đưa hai bài ấy cho Whitaker, ông ta quyết định chuyển tiếp cho
Đại sứ quán Mỹ; một bài gửi cho giới lănh đạo Mỹ, Trung Quốc,
Anh và Liên Xô, và bài kia là một bức thư ngỏ cho Liên Hợp
Quốc(8) . Cả hai bài đều kêu gọi ủng hộ nền
độc lập của Việt Nam.
Những văn kiện ấy đều kư tên “Quốc dân đảng
Đông Dương (Annam)”. Cái tên ấy có nghĩa là một chi nhánh
của Quốc dân đảng (Trung Quốc); nhưng theo
tôi, nguồn gốc thật sự của nó là Việt Minh. Đảng quốc dân Đông
Dương là một nhóm gồm 5 đảng đă hợp nhất vào Đồng minh Hội năm
1942, nhưng sau đó đă lập thành Đông Dương Độc lập Đồng minh
Hội. V́ những văn kiện ấy là từ ông Hồ gửi
đến, nên tôi không nghi ngờ ǵ rằng ông đă dùng cái tên cũ để
không lộ ra chân tướng của Việt Minh. Ngay cả trong bản
viết bằng tiếng Anh, đường lối của đảng ông đă được tŕnh bày
mạnh mẽ và rơ ràng.
Bản báo cáo t́nh báo kèm theo những bài viết gồm một số trang
đánh máy có pha thêm những mẩu chuyện về những mối liên hệ thân
thiện Pháp - Nhật và sự đau khổ của người Việt Nam v́ cả hai đều
làm cho họ thất vọng; tất cả những điều đó chúng tôi đều trừ hao
đi v́ những lư do chính trị. Tuy nhiên, nó
cũng cho một thông tin có ích để nhận biết một vài đơn vị của sư
đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày
và tên của một vài sĩ quan cao cấp.
Mở đầu như thế không phải là xấu, Pḥng tác chiến của chúng tôi
đă xác nhận một phần của nó và c̣n tỏ ra muốn chấp nhận những
điều c̣n lại. Tôi lấy làm hài ḷng và
Whitaker cũng tỏ ra cảm kích.
Mấy ngày sau đó, tôi nhận được qua đường dây
một bản báo cáo thứ hai của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự
hơn. Lần này báo cáo đă cung cấp những chi tiết về việc
xây dựng công sự mới của Nhật và những cải tiến công sự hiện có
do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc
xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và
đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng
đă gây nên một hứng thú to lớn ở pḥng tác chiến của chúng tôi
cũng như ở cấp Chiến trường.
Ông Hồ đă gắn một mảnh giấy nhỏ viết bằng
tiếng Anh hỏi xem hai văn kiện chính trị có đáng gửi đi San
Francisco không. Tôi nói với người mang
thư đến - người này đợi tôi trả lời -
rằng những văn kiện ấy đă được gửi đến các nhà chức trách hữu
quan ở Trùng Khánh, nhưng tôi không thể chắc chắn là chúng đến
được với phái đoàn ở San Francisco. Về sau,
tôi đă có thể xác định rằng đó là lần đầu tiên ông Hồ có ư định
đưa sự nghiệp của ḿnh tới sự chú ư của Liên Hợp Quốc.
Tất nhiên, đó là 32 năm trước khi một Chính
phủ Việt Nam độc lập được thừa nhận là hội viên của nó.
Chú
thích ;
(1) Tổ công
tác đặc biệt, lực lượng biệt kích phá hoại
(2) Heppner
(3) Thiếu tá, sĩ quan liên lạc của OSS với Tưởng
(4) Trung tướng, tham mưu trưởng chiến trường Trung Hoa, tư lệnh
quân dă chiến Mỹ tại Trung Quốc
(5) Légions: lực lượng quân đội gồm những người nước ngoài mang
quốc tịch Pháp.
(6) Tuỳ viên quân sự Pháp tại Đại sứ quấn ở Trùng Khánh
(7) Du kích chiến khu - tiếng Pháp
(8) Lời kêu gọi được viết bằng 2 thứ tiếng Việt và Anh
Chương 11
Một
đồng minh miễn cưỡng
CUỘC XUNG ĐỘT ÂU – Á
Khi nh́n lại, một
điều nổi bật lên trên tất cả là cái ǵ đang tiếp
diễn ở châu Á: quan điểm về châu Á sau chiến tranh
rất khác nhau trong các nước Đồng minh, tùy theo
quyền lợi của mỗi nước. Mục tiêu của Mỹ chỉ đơn giản
là đánh bại Nhật Bản và, với một sự dè dặt, phục hồi
những quy chế “quo ante”(1)
ở Viễn Đông. Nước Đồng minh đáng
tin cậy nhất của chúng ta, nước Anh, lại quan tâm
chủ yếu đến việc giữ ǵn sự nguyên vẹn của đế quốc
Anh. Tham vọng của Pháp
là giành lại địa vị “chính đáng” của nó trong các
cường quốc lớn bằng cách đ̣i lại các thuộc địa đă
mất. Trung Quốc của Tưởng đứng trước một
nhiệm vụ hai mặt là giải quyết cuộc xung đột của nó
với bọn xâm lược Nhật Bản và giữ vững chế độ Quốc
dân đảng của ḿnh chống lại mối đe dọa Cộng sản của
Mao.
Vào giũa cuộc xung đột Âu - Á ấy, lợi ích của thế
giới thứ ba nổi lên làm mất thằng bằng “status quo”(2).
Người Việt Nam, được kích thích bởi những lời tuyên
bố cao quư của Hiến chương Đại Tây Dương hứa hẹn các
nước Đồng minh sẽ “tôn trọng quyền của các dân tộc
lựa chọn h́nh thức Chính phủ của ḿnh mà họ sẽ sống
dưới đó”, đă cảm thấy kỷ nguyên mới đang tới đối với
họ và đă bước vào cuộc xung đột.
T́nh trạng có nhiều mục tiêu ấy làm cho việc phối
hợp kế hoạch của các nước Đồng minh trở nên cực kỳ
khó khăn và đôi khi bị rối loạn - nhóm nước này hoài
nghi các nhóm nước khác, và mỗi nhóm trong nước cũng
ganh đua nhau với đảng phái đối lập của ḿnh như với
kẻ thù. Những thủ đoạn đấu tranh
dường như vô tận.
Người Mỹ ở Trung Quốc, mặc dù ít về số lượng, là
những người duy nhất thật sự quan tâm đến việc kết
thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Các cố vấn quân
sự của chúng ta ở các đội quân Trung Quốc phải dùng
hết sức mạnh lănh đạo của ḿnh để thuyết phục các
chỉ huy Trung Quốc bám giữ và chiến đấu.
Chennault dựa nhiều vào những
máy bay Mỹ để chặn các lực lượng bộ binh Nhật lại.
C̣n những hàng tiếp tế Vay - Mượn to lớn của Mỹ th́
được chuyên chở qua những vùng đồi núi và bằng những
tầu chở hàng theo con đường Miến Điện để giữ cho
Trung Quốc khỏi sụp đổ dưới sức mạnh của Nhật. Người
Anh cũng như người Pháp không hề đóng góp ǵ về vật
chất cho cố gắng chiến tranh ở Trung Quốc.
Trong lĩnh vực hoạt động bí mật
và chiến tranh không chính quy, chỉ có OSS của Mỹ có
một chương tŕnh tích cực và có hiệu quả.
Trong bối cảnh hoạt động của tôi ở Đông Dương, trong
thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945, chúng tôi
đă tổ chức được 5 mạng lưới chính và 12 mạng lưới
phụ, tất cả đều bí mật, từ đó chúng tôi thu lượm
t́nh báo, tiến hành những cuộc đột kích vào các cứ
điểm then chốt của địch, và tiến hành nhiều hoạt
động phá hoại ở các đường giao thông của Nhật.
Vào lúc chót, những hoạt động đó được thực hiện với
một sự giúp đỡ rất nhỏ bé của các Đồng minh Pháp,
Anh và Trung Quốc. Bất chấp
những ư đồ phá hoại, những cố gắng của Mỹ được lặp
đi lặp lại nhiều lần. Đặc biệt người Pháp,
với ḷng mong muốn cao nhất là nhanh chóng chiếm lại
thuộc địa cũ của họ nên đă theo
đuổi một hoạt động t́nh báo về chính trị và quân sự
rất quyết liệt. Họ chiếm đoạt những vũ khí và đồ
tiếp tế được dành cho những cuộc hành quân của Đồng
minh và họ cố ngăn cản những ư định hoạt động của Mỹ
bất cứ ở đâu trong xứ Đông Dương.
Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp
tục cho đến lúc này, một số người Pháp cố hết sức
ngăn cản cố gắng chiến tranh chống Nhật. Họ lớn
tiếng tuyên bố rằng họ đă bị ngược đăi, bị lạm dụng
và bị coi thường, và cho ḿnh là nạn nhân của một
“âm mưu” - hoàn toàn ăn khớp với đường lối chính trị
có chủ tâm của họ cho rằng quyền lợi chính đáng của
họ bị xâm phạm.
MỘT SỰ DÀN XẾP CÓ ĐI
CÓ LẠI
Chỉ thị ngày 10-5 yêu cầu OSS thực hiện nhiệm vụ
chặt đứt đường hành lang
của Nhật Bản từ Hà Nội đến Nam Ninh để chuẩn bi cho
Carbonado. Nó đ̣i hỏi phải sử dụng các đội phá hoại
và các đơn vị du kích đă quen thuộc ít nhiều với khu
vực này và đă hiểu biết khá rơ về người Pháp hay
người Việt Nam. Wampler đă có
một số người mới từ châu Âu đến đă được huấn luyện
cho những hoạt động SO và OG, nhưng chỉ có một số ít
nói được tiếng Pháp.
Trong khi Heppner và Whitaker gặp các tướng
Sabattier và Pechkov ở Trùng Khánh, th́ tôi tiếp xúc
với nhóm M.5 ở Côn Minh.
Sau khi tôi ghé lại lần đầu vào
cuối tháng 4, tôi mắc bận nhiều vấn đề cấp bách nên
không có ư định tiếp xúc cá nhân hay trở lại thăm
nơi đó. Tuy nhiên, Bernique và Ettinger đă
thiết lập được những mối liên hệ không chính thức,
nhưng thân mật, với nhóm này và được biết rằng trung
úy Flichy(3) đă bị thay thế bởi thiếu tá Jean
Sainteny trong chức vụ chỉ huy nhóm M.5(4).
Tôi ghé thăm M.5 ngày 18-5 và được Sainteny và những
người trong ban tham mưu của ông ta tiếp đón.
Thiếu tá là một người dễ chịu,
hơn 30 tuổi, rất đúng đắn, đă tỏ ra dè dặt và không
thoải mải lắm. Ông phân
trần về những thiếu sót của ḿnh v́ bị những nhiệm
vụ mới thúc bách nên chưa gặp được tôi sớm hơn.
Từ khi ông ta đến đây, cách đây một tháng, ông ta
phải cải tổ lại “Phái đoàn” và,
theo ông ta nói, mong đợi được làm việc với
OSS. Ông ta yêu cầu Flichy mô tả cho tôi nghe vai
tṛ của M.5, và lần đầu tiên ông ta được biết những
người tiền nhiệm của ḿnh đă thiết lập đúng một mạng
lưới những đơn vị t́nh báo đáng kể dọc theo biên
giói Trung Quốc và một đội tuần tiễu đường biển nhỏ
ở khu vực phía bắc Vịnh Bắc Bộ. Cuộc gặp gỡ diễn ra
tốt đẹp và chúng tôi đồng ư cộng tác với nhau trong
tương lai trước mắt.
Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, Sainteny nêu lên
rằng ông ta và trung tá Wichtrich thuộc AGAS đang
thảo một dự án chung để tiến hành những hoạt động
cứu giải ở khu vực Pakhoi(5).
Trong vài ngày nữa ông ta sẽ đáp máy bay hạ xuống
nơi đó và gợi ư rằng tôi có thể phái một sĩ quan của
tôi nói được tiếng Pháp đến xem xét khu vực này cho
những hoạt động hỗn hợp sau này.
Tôi cảm ơn ông ta và đồng ư sẽ báo cho ông ta rơ.
Trong thời gian đó, chúng tôi
chỉ định các sĩ quan liên lạc cho những hoạt động
hàng ngày.
Tôi báo cho Whitaker rằng M.5 vui ḷng hoạt động
chung với OSS trên có sở
có đi có lại, nhưng nghi ngại rằng họ đ̣i hỏi nhiều
hơn. Về bề ngoài, Sainteny tỏ ra thẳng thắn khi yêu
cầu vũ khí, trang bị và vận chuyển của Mỹ để đánh
đổi nhân lực Pháp - Annam, nhưng bên trong tôi phát
hiện ra rằng ông ta hy vọng giành được một sự thừa
nhận đặc biệt cho cơ quan người Pháp duy nhất đảm
nhận những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung
Quốc. Điều đó bao hàm một sự độc
lập của M.5 đối với Sabattier và Pechkov, và để cho
SLFEO/Calcutta chỉ huy và kiểm soát M.5. Tôi
nhấn mạnh rằng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi và
chúng ta cần thăm ḍ ư đồ của Sainteny hơn nữa.
Tuy nhiên, nếu những nghi ngại
của tôi là đúng, th́ chúng tôi có thể nh́n thấy
trước các vấn đề.
MỘT CUỘC CHẠY THỬ
Trong khi chờ đợi ư kiến từ Trùng Khánh về việc tiếp
tục quan hệ với M.5, tôi đơn phương khởi sự 2 hoạt
động do Chiến trường chỉ huy. Một hoạt động nhằm cắt
đứt đường sắt và đường bộ từ Trấn Nam Quan đến Hà
Nội, c̣n hoạt động kia là một cuộc tuần tiễu giám
sát bờ biển ở các cảng Hải Pḥng và Fort Bayard.
Hoạt động thứ nhất phải chờ đến lúc nào lấy được
người cho thiếu tá Gerald W.
Davis(6) để đi bộ vào Đông Dương và làm nhiệm
vụ. C̣n cuộc giám sát bờ biển th́ đ̣i hỏi phải có
những thủy thủ được huấn luyện và một đội thuyền
buồm nhỏ. Phải có thời gian tôi mới kiếm được những
thứ đó nhưng Wedemeyer th́ lại sốt ruột về những kết
quả nhanh chóng, và chỉ có một chiếc tàu thích hợp
trong khu vực này là của người Pháp, nhưng tôi không
có quyền sử dụng. Tôi nghĩ tới dự
án AGAS với M.5 và “hạm
đội” của nó ở vùng Pakhoi.
Tuân theo các quy tắc phần nào, tôi lập luận rằng
một khi AGAS đă được phép cộng tác với người Pháp
th́ không có lư do ǵ để tôi không được làm việc với
AGAS và cùng nhau sử dụng tàu thủy của Pháp. Khi
thảo luận điều đó với Whichtrich, chúng tôi đồng ư
với nhau rằng tôi sẽ cung cấp cho AGAS những phương
tiện vô tuyến điện của OSS để thực hiện những hoạt
động cứu thoát để đánh đổi những tin tức về hạm đội
Nhật mà nhân viên OSS - AGAS thu nhận được bằng
những phương tiện của các đơn vị hải quân Pháp.
Trong khi tôi thương lượng với AGAS, tôi nhận được
tin từ Trùng Khánh cho biết rằng Sabattier và Tưởng
đă thỏa thuận với nhau rằng: “Tất cả các đội quân
chính quy Pháp đang chiến đấu chống Nhật ở Đông
Dương thuộc Pháp được đặt dưới quyền chỉ huy của
Thống chế”, rằng Sabattier đă được thừa nhận là
“Tổng chỉ huy” của những đội quân ấy, và rằng tướng
Alessandri đă được bổ nhiệm là “chỉ huy địa phương
của Pháp”. Đó là một sự thỏa
thuận lạ lùng. Toàn bộ kháng chiến của Pháp ở
Đông Dương chống Nhật đă bị xóa bỏ từ lâu, khiến cho
Alessandri hiện nay đă trở thành viên chỉ huy tất cả
các lực lượng hiện có của Pháp ở Trung Quốc mà thôi.
Vậy th́, Sabattier chỉ huy cái
ǵ? Phải chăng đó là một
cách gạt êm thấm Sabattier ra khỏi dây chuyền chỉ
huy và trao cho Alessandri toàn bộ quyền kiểm soát
tác chiến chỉ của những đội quân Pháp chưa bị Nhật
bắt làm tù b́nh? Chúng tôi cảm thấy một sự
bối rối và băn khoăn mới trong những mối liên hệ của
ḿnh với Phái đoàn quân sự Pháp, DGER, SLFEO và M.5.
Ngày 24-5, khi chưa nhận được ư kiến của Heppner về
việc sử dụng các đội quân Pháp, chúng tôi nhận được
một bức điện của thiếu tá Davis nói rằng một đội
quân Pháp lớn đă đến Posech mà không báo trước, dưới
quyền chỉ huy của thiếu tá Revol; ông này nói rằng
họ được trang bị và huấn luyện bởi OSS cho những
cuộc hành quân ở Đông Dương.
Cuối cùng, ngày 26, Heppner nói cho chúng tôi rằng
ông ta đă kư một thỏa thuận có dụng ư với SLFEO.
Tôi lại đến gặp Sainteny để vạch
các chi tiết và, một lần nữa, sự đón tiếp của ông ta
tỏ ra nồng nhiệt và thân mật.
Giọng khó tính đầu tiên mà
Sainteny ném ra là khi ông ta bảo đảm với tôi rằng
chúng tôi có thể cùng nhau vạch ra một kế hoạch “có
lợi cho cả hai bên”. Nhận xét ấy không thích
hợp với tôi, và tôi trả lời rành rọt rằng “mối lợi”
duy nhất mà người Mỹ nghĩ tới là thu được t́nh báo
của Nhật và tiến hành những hoạt động riêng biệt
đằng sau các pḥng tuyến của họ. Tất nhiên, Sainteny
đồng ư, nhưng nhận xét của ông ta làm tôi phải “qui
vive”(7).
Những sự thỏa thuận của tôi với AGAS đă phù hợp với
sự tán thành của bản doanh cho phép làm việc với
M.5, và tôi được tự do bàn bạc với Sainteny về dự án
Pakhoi. Đầu tháng, tôi lại phái Ambelang tới
Maoming(8) để tiến hành những hoạt dộng giám sát ven
biển phối hợp với cuộc hành quân Ford Bayard. Ngày
27, tôi gửi Ettinger đến Pakhoi để nhập với trung úy
James W. Jordan(9). Với
Ettinger và Jordan ở Pakhoi và Ambelang ở Maoming,
tôi quyết định thiết lập một trạm căn cứ trong vùng
và gợi ư với Sainteny rằng dự án OSS - AGAS đang
tiến hành và với sự giúp đỡ của ông ta, chúng tôi có
thể cùng nhau mở rộng hoạt động để giành những kết
quả tối đa trong một thời gian tối thiểu. Ông ta
đồng ư và sẵn sàng vạch kế hoạch.
Ngày 30-5, dự án Pakhoi
được tiến hành. Đội tàu nhỏ của Pháp gồm hai chiếc
tầu tuần tiễu, Crayssac và Frézouls, được nhiều
thuyền máy yểm trợ, tất cả đều do thủy thủ Pháp điều
hành, bắt đầu chuyển (bằng các đài vô tuyến của OSS)
những tin tức có giá trị về hạm đội Nhật và giúp đội
tầu ven biển của chúng ta thăm ḍ những độ sâu dọc
vịnh Fort Bayard và vịnh Mandarin. Ettinger và
Jordan, với sự giúp đỡ của các nhân viên Pháp do M.5
cung cấp đă tiến hành một công việc tuyệt vời, không
những chỉ báo cáo về sự bố trí của quân Nhật và các
hoạt động của Hạm đội Nhật (đặc biệt từ vùng Fort
Bayard - Hải Pḥng), mà c̣n thu được một số tin tức
từ bên trong Đông Dương.
NGƯỜI PHÁP TỔ CHỨC
MỘT CUỘC BĂI CÔNG NGỒI
Một ngày sau khi Dự án PAKHOI được tung ra, chúng
tôi kư kết với người Pháp ở Trùng Khánh một thỏa
thuận thứ hai nhằm sử dụng 100 binh sĩ Việt Nam và
10 hay 12 sĩ quan Pháp. Sabattier và Pechkov đồng ư
để OSS có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nhóm này
và những tin tức t́nh báo thu
được sẽ chia nhau. Chúng tôi vạch kế hoạch huấn
luyện đơn vị ở Tŕnh Tây.
Wampler chọn đại úy (sau đó là thiếu tá) Charles M.
Holland và thiếu tá Allison K. Thomas đứng đầu hai
đội với mật danh là “Con Mèo” (“Cat”) và “Con Nai”
(“Deer”). Chúng tôi báo
cho Davis và Poseh biết và yêu cầu họ phái Holland
và Thomas đến Tŕnh Tây để đón nhận những người
Pháp, đến ngày 12-6 th́ bắt đầu huấn luyện.
Nhóm người Pháp mới(10)
đến đúng ngày giờ đă định nhưng lại từ chối huấn
luyện như đă thỏa thuận ở Trùng Khánh. Viên sĩ quan
cao cấp nhất của Pháp, thiếu tá Courthlac, yêu cầu
OSS trả tiền cho nhóm ông ta và cung cấp
ăn uống cho họ.
Điều đó không nằm trong sự thỏa
thuận. Người Pháp phải lấy khẩu phần của họ
từ Cục quân nhu Trung Quốc trước khi đến đây
theo thủ tục thông thường
và việc trả tiền cho đội quân người Pháp là trách
nhiệm của Chính phủ Pháp ở Trùng Khánh. Thiếu tá
Thomas không có quỹ để thỏa măn những yêu cầu của
người Pháp và báo cho thiếu tá Courthlac biết điều
đó; nhân đó người Pháp bèn tổ chức một cuộc băi công
ngồi cho đến lúc có chỉ thị của M.5. Do đó, từ ngày
4 đến ngày 17 tháng 6, chương tŕnh huấn luyện ở
Tŕnh Tây đă bị hoàn toàn đ́nh chỉ.
Một tia lóe lên sau đó vào sáng 12-6, khi Heppner
nhận được một bức thư không đề ngày tháng của
Sainteny, do Flichy kư tên, nói rơ ràng Sabattier đă
chỉ thị cho M.5 phải chịu trách nhiệm về hoạt động
du kích với sự cộng tác của các đơn vị Mỹ. “Do ưu
thế của lực lượng Pháp” và sự nguy hiểm sẽ xảy ra,
Sainteny yêu cầu được biết về mục đích của hoạt động
này, về những mệnh lệnh cho người Mỹ, và những ǵ đă
được thực hiện từ đây đến đó.
Cho đến khi nhận được trả lời cho những câu hỏi của
ông ta, Sainteny đă ra lệnh cho viên chỉ huy phân
đội Pháp ngừng các hoạt động. Heppner lập tức
không đồng ư với mệnh lệnh của Sainteny, coi đó là
một hành động đơn phương và độc đoán và là một sự
phá vỡ việc thỏa thuận Sabattier - Heppner ngày 31-5
và báo cáo điều đó cho tướng Wedemeyer. Rơ ràng đă
có một sự đứt quăng trong những liên lạc giữa M.5
của phái De Gaulle và “Bộ Tham mưu” ở Trùng Khánh.
Vấn đề đối với chúng tôi là phải
giao dịch với ai trong những người Pháp?
Giai đoạn thứ ba của t́nh trạng
này là sự bắt đầu một cuộc nổi dậy nhỏ của những
người Pháp mới đến ngày 14-6, khi toàn bộ những liên
lạc của mạng lưới PAKHOI im lặng. Tôi biết
khá sớm qua Jordan rằng người Pháp đă ra lệnh đ́nh
chỉ cung cấp luồng tin tức t́nh báo cho người Mỹ v́
bị đe dọa của “ṭa án quân sự”.
Khi mọi hành động Pháp - Mỹ ngừng lại và người Mỹ ở
trong tâm trạng bực túc, thiếu tướng Douglas L.
Weart(11) triệu tập một
cuộc gặp mặt ở Côn Minh ngày 15-6 để dàn xếp mọi
việc và đặc biệt đ̣i phải rút lại bức thư của
Sainteny và các hoạt động phải đặt dưới sự kiểm soát
của OSS. Weart mở đầu cuộc gặp mặt bằng việc nhắc
lại cho Alessandri rằng giới quân sự Pháp đặt dưới
quyền kiểm soát về tác chiến và cung cấp của tướng
Hà Ứng Khâm và của OSS, và việc sử dụng các đội quân
Pháp phải được cấp Chiến trường cho phép. Weart nói
rằng không thể hiểu được M.5 nằm ở vị trí nào trong
chuyện này, và nói cho Alessandri biết rằng “Sự kiểm
soát tác chiến của tướng Hà không thừa nhận Phái
đoàn quân sự Pháp như một nguồn liên lạc; mọi sự
tiếp xúc chỉ dược tiến hành trực tiếp với tướng
Sabattier...”. Tướng
Alessandri biện bạch rằng M.5 đă hành động mà không
biết ǵ đến thỏa thuận giữa Wedemeyer và Sabattier,
và bức thư của Sainteny
sẽ bị rút lại. Phân đội Pháp ở
Tŕnh Tây sẽ được lệnh hoạt động dưới sự kiểm soát
của OSS. Như vậy, đến ngày 17 mọi việc trở
lại b́nh thường, hay ít ra chúng tôi cũng nghĩ như
thế.
M.5 CỦA SAINTENY
Tại cuộc gặp mặt Weart - Alessandri, Flichy cố nhấn
mạnh vai tṛ của M.5 trong những hoạt động bí mật,
nhưng ông ta đă bị bác bỏ và Sainteny không gặp may.
Một ngày sau cuộc gặp mặt, Sainteny yêu cầu tôi ghé
lại ở một biệt thự Pháp: ông ta cần làm sáng tỏ
những sự hiểu lầm. Ông ta cho
rằng tôi hẳn đă biết tới việc SLFEO/Calcutta đă giao
cho M.5 chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hoạt
động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc; và ông ta,
với tư cách người cầm đầu M.5, đă được cho phép giao
dịch trực tiếp với OSS. C̣n về nhân lực, th́
ông ta đă được Calcutta giao cho sử dụng các đội
quân của Sabattier được bổ sung bằng những chuyên
viên của DGER lúc đó đang trên đường từ Pháp đến Ấn
Độ. Về vấn đề chỉ huy và kiểm soát M.5 ở Côn Minh,
Sainteny nhấn mạnh rằng ông ta chỉ nhận những chỉ
thị và hướng dẫn của tướng
Passy(12) ở Paris và đại tá Roos(13) ở
Calcutta, những người này chỉ chịu trách nhiệm trước
tướng De Gaulle.
Tôi hỏi Phái đoàn quân sự Pháp trực thuộc vào đâu,
và Sainteny nói rất rơ ràng tướng Pechkov không có
quan hệ ǵ với DGER cả. Ông ta
nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, c̣n DGER th́
hoạt động dưới những chỉ thị trực tiếp của cá nhân
De Gaulle.
Hoàn toàn không có dụng ư, Sainteny cho tôi biết
rằng SLFEO/Calcutta đă có một số thỏa thuận rơ ràng
với SOE của Anh về hoạt động ở Đông Dương. Những
thỏa thuận ấy được tiếp tục cả sau khi kư kết thỏa
thuận OSS - DGER. Đó là những thỏa thuận riêng rẽ và
khác nhau: Pháp - Anh, Pháp - Mỹ. Tôi b́nh luận rằng
đối với tôi, sự thỏa thuận ấy có vẻ cơ hội chủ nghĩa
và rơ ràng nhằm giành lấy phần tối đa từ hai phía
riêng rẽ. Sainteny đáp lại rằng người Anh đă đóng
góp nhiều về vũ khí và vận chuyển cho sự nghiệp của
Pháp ở Đông Dương, và nói thêm: “Vâng, chúng tôi là
những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong trường hợp này - mọi
cái đều nhắm tới cùng một mục đích, có phải thế
không?”. Tôi trả lời rằng
tôi không nghĩ thế, nhưng Sainteny nói tiếp rằng
người Anh đă giúp đỡ lâu trước người Mỹ và đă có
nhiều đội đang hoạt động tại chỗ, đă đem lại những
kết quả tốt đẹp và ông ta không muốn chấm dứt những
hoạt động của họ.
Sau đó, tôi đặt câu hỏi về quyền
hạn của Chiến trường.
Người Pháp ở Trung Quốc dù sao cũng nằm dưới sự chỉ
huy của Tưởng và Đông Dương th́ nằm trong Chiến
trường tác chiến Trung Quốc. Nhưng Sainteny
khoát tay tỏ ra không cần phải băn khoăn ǵ về tất
cả những điều đó và nói rằng chúng tôi không thể
thông qua sự thỏa thuận Tứ cường ở cấp chúng tôi,
khiến cho tôi gợi ư có lẽ ông ta nên nêu vấn đề này
với tham mưu trưởng và đại tá Heppner.
Chúng tôi không giải quyết được
ǵ và đặt những vấn đề quyền hạn cho những cuộc thảo
luận sau này.
Những hoạt động của Anh - Pháp
từ SEAC khiến cho tôi rất quan tâm. Tôi không
biết chắc rằng những hoạt động ấy có thể đưa vào kế
hoạch chung của tôi
không. Sainteny nói rằng ông ta
không biết được nhiều chi tiết và bảo đảm với tôi
rằng kết quả hoạt động của các đội ấy sẽ được chia
cho M.5, M.5 sẽ chuyển cho Sabattier, và ông ta sẽ
chuyển đi “theo những đường liên lạc t́nh báo”.
V́ tôi biết sự ngăn cấm bí mật
của người Pháp không cho người Anh giao tin tức cho
người Mỹ, nên tôi lại càng hoài nghi hơn.
Không để lộ việc tôi biết sự ngăn cấm bí mật ấy, tôi
lưu ư với Sainteny về thỏa thuận giữa Tưởng và
Sabattier nói rằng đường liên lạc duy nhất đối với
người Pháp ở Chiến trường Trung Quốc để tuyền đạt
tin tức t́nh báo là qua OSS, rồi OSS chuyển tới
Sabattier. Sainteny đáp lại điều đó: “Đúng thế!
Vậy th́ tôi sẽ chuyển tin tức
t́nh báo cho ông, nhưng với điều kiện không để tŕ
hoăn bởi nhũng thủ tục quan liêu thường thấy trong
trường hợp ở châu Âu”.
Chấp nhận câu trả lời dễ dăi của ông ta với một sự
miễn cưỡng lớn, tôi bảo đảm với ông ta rằng sẽ không
có những sự tŕ hoăn. Và, tất nhiên, những lo
lắng của chúng tôi đă được chứng thực: chúng tôi
không hề nhận được một tin tức nào cả.
Chúng tôi chuyển qua vấn đề cuối
cùng, kế hoạch hoạt động của ông ta.
Sainteny nói rằng kế hoạch đó sẽ
được ông ta thảo xong ngày 18-6. Khi tôi từ
giă, ông ta hỏi liệu có thể được thông báo cho biết
về các kế hoạch của Chiến trường cho Đông Dương với
những cuộc đổ bộ dự định được đặc biệt ghi rơ hay
không. Tôi gợi ư ông ta nên thảo
luận điều đó với Heppner.
M.5 GIÀNH ĐƯỢC QUY CHẾ CHÍNH THỨC
Kế hoạch Sainteny
thảo xong ngày 18 là một kế hoạch rộng lớn cho những
cuộc hành quân trên bộ và trên biển.
Nó bao gồm khoảng 1.000 sĩ quan
và binh lính Pháp - Việt, tất cả được trang bị bởi
OSS. Helliwell và tôi rất ngạc nhiên và đề
nghị Heppner chấp nhận kế hoạch ấy với những điều
kiện: Các đơn vị này được đặt dưới sự kiểm soát của
OSS; mỗi đơn vị có một sĩ quan cao cấp Mỹ chỉ huy;
chỉ sử dụng mật mă vô tuyến điện của OSS; mỗi đơn vị
chỉ hoạt động dưới sự đỡ đầu của OSS chống lại các
mục tiêu của Nhật.
Sainteny và Flichy phản đối tất cả những điều kiện
ấy Sainteny nói ông ta cảm thấy trái lương tâm khi
yêu cầu các sĩ quan Pháp phục vụ dưới sự chỉ huy của
những sĩ quan không phải người Pháp, dù cho đó là
những sĩ quan Đồng minh. Heppner
nói rằng đó không phải là một thủ tục ǵ khác
thường; phải chăng tất cả chúng ta đều không nằm
dưới sự chỉ huy của Thống chế (Tưởng) ở Chiến trường
Trung Quốc? Chúng tôi đi
tới một sự bất đồng.
Để khỏi mất th́ giờ hơn nữa, v́ ngày hạn định cho
Carbonado đă gần đến, tôi gợi ư chúng tôi cùng vạch
một dự án trước mắt và giải quyết vấn đề chỉ huy
trên cơ sở mục tiêu và khả năng hiện có về sĩ quan
có năng lực cho mỗi dự án.
Sainteny đồng ư một cách miễn cưỡng, nhưng ông ta
yêu cầu cung cấp vũ khí và trang bị cho tất cả 1.000
binh sĩ. Heppner nắm chặt
lấy điểm đó. Mỗi đơn vị sẽ được cung cấp
những ǵ cần thiết khi nó thật sự được giao cho một
phái đoàn OSS được phê chuẩn.
Sainteny nêu lên vấn đề những
cuộc đổ bộ của Đồng minh được dự tính và hỏi xem
liệu ông ta có được thông báo về những ǵ sẽ được
hoạch định không. Heppner
nói với ông ta rằng Sabattier sẽ được thông báo khi
tướng Hà Ứng Khâm thông qua để cho kế hoạch ấy có
hiệu lực.
Đó là một cuộc gặp mặt hoàn toàn
không thỏa măn. Người Pháp cảm thấy bị khước
từ và người Mỹ chúng tôi rời ra với một cảm giác rơ
ràng về tính mơ hồ của lập trường người Pháp.
Helhwell và tôi, cùng với
Heppner, biết rắng Sainteny không phải là một người
ngay thẳng. Quá nhiều
điều ông ta không nói ra và quá nhiều câu hỏi không
được ông ta trả lời.
Trong 4 tuần lễ sau đó, chúng tôi dành nhiều th́ giờ
để hội họp, hỏi han, bàn
bạc và thảo luận, mà không di tới một sự thỏa thuận
nào để có thể thực hiện được. Trong khi đó người
Pháp đánh nhau ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc
không có mục tiêu rơ ràng. Căn cứ của chúng tôi ở
Pakhoi được báo cáo rằng một đơn vị biệt kích Pháp
đang được tổ chức và huấn luyện trong vùng cho những
hoạt động mà chúng tôi chưa
biết. M.5 quấy phá các hệ thống t́nh báo của
lực lượng không quân thứ 14, AGAS, Bộ tư lệnh chiến
đấu Trung Quốc (CCC) và OSS bằng những loạt báo cáo
không được xác nhận về các bố trí và vận động của
quân Nhật. Khi ban kế hoạch của Chiến trường hỏi OSS
về tính xác thực của những báo cáo ấy, tất nhiên
chúng tôi không thể xác minh chúng được, cũng không
thể bảo đảm tính chính xác của chúng v́ chúng tôi
không được M.5 hỏi ư kiến.
Các báo chí địa phương của Trung Quốc ở Côn Ḿnh
công bố một bản báo cáo, nói là của phái đoàn quân
sự Pháp, cho biết một đơn vị Pháp ở Trung Quốc đă
“xâm nhập và chiếm đóng” đảo Weichow của Trung
Quốc(14). Vụ rắc rối ấy không có
ǵ đáng nêu lên, ngoại trừ tướng Hà Ứng Khâm và đại
bản doanh Chiến trường nổi cáu lên v́ hành động
không được phép ấy của người Pháp. Như câu
chuyện về sau được làm sáng tỏ ra, trong một kế
hoạch rút lui về lục địa Trung Quốc, người Nhật đă
bỏ ḥn đảo ấy. Khi biết tin người Nhật đă bỏ đảo
Weichow, M.5 ra lệnh cho các tàu tuần tiễu của họ
(Frézouls và Crayssac) chiếm lấy đảo này bằng một
đơn vị nhỏ của Pháp. Sainteny
kiêu hănh gửi một bức điện cho tướng Chennault báo
tin đă “phá hủy sân bay Nhật và chiếm đảo này nhân
danh Đồng minh”. Mấy ngày sau, Sainteny bị
Tổng chỉ huy Trung Quốc ra lệnh rút khỏi ḥn đảo và
phải chấm dứ cũng như chưa không được xúc tiến những
hoạt động không được cho phép sau này để khỏi gây
tổn hại lớn cho các kế hoạch của Chiến trường.
Trong khi gỡ M.5 ra khỏi hành động hoang toàng đáng
tức cười ở Weichow, Sainteny nói với trung úy
Fauchier - Magnon rằng ông ta đang chuẩn bị một đội
để “đánh chiếm” đảo Nightingale(15) với một đơn vị
t́nh báo và một máy vô tuyến điện được AGAS cung
cấp. Chính tướng Wedemeyer đă ra
lệnh đ́nh chỉ các kế hoạch ấy.
Tôi giải thích những tṛ cường điệu trẻ con ấy là
một cách mà Sainteny dùng để thu hút sự chú ư, v́
DGER và đặc biệt là M.5 của Sainteny vẫn chưa được
thừa nhận ở cấp Chiến trường Trung Quốc.
Hoàn toàn thất vọng v́ hành động
của người Pháp, tôi khuyên Heppner chấm dứt sự ủng
hộ đáng ngờ của DGER. Toàn bộ vấn đề này đă
được đặt ra ở một hội nghị tại Trùng Khánh ngày
29-6, giữa tướng Paul W. Caraway(16) đại tá Joseph
Dickey(17), Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi.
Tôi phác lên những thỏa thuận
OSS - DGER (M.5), những thành tựu và những thất bại
của nó. Tôi thừa nhận
rằng người Pháp có một tiềm năng to lớn cho những
hoạt động bí mật, miễn là chúng ta chấp nhận DGER
như một cơ quan b́nh đẳng trong Chiến trường và đưa
họ vào các kế hoạch của Chiến trường. Tuy
nhiên, tôi cảnh cáo rằng, nếu chúng ta đi theo con
đường đó, th́ vai tṛ của tướng Sabattier với tư
cách Tổng chỉ huy sẽ bị phụ thuộc vào quyền của DGER
và chúng ta sẽ bỏ mất quyền kiểm soát đối với những
hành động của Pháp trong Chiến trường.
Dickey và Whitaker đồng ư với sự đánh giá của tôi và
nêu rơ rằng tướng Alessandri đă gặp tướng Gross ở
Côn Minh ngày 22 và gặp tướng Ray T.
Maddocks(18) ngày 27 để
đi tới một thỏa thuận đúng về những điểm đó - thừa
nhận vai tṛ của DGER và của Sabattier trong những
hoạt động bí mật. Tướng Caraway nhận xét rằng: Mặc
dù đó là một vấn đề riêng của người Pháp, chúng ta
vẫn có trách nhiệm tinh thần và pháp lư đối với sự
ủng hộ viên chỉ huy đă được bổ nhiệm một cách hợp
thức là Sabattier.
Heppner, trước kia là một nhân viên tham mưu chủ
chốt của đại bản doanh của huân tước Mountbatten, đă
vạch rơ rằng sự thừa nhận chính thức DGER, bao hàm
SLFEO thuộc SEAC cũng sẽ được phép hoạt động ở Chiến
trường Trung Quốc; đó là một vấn đề quyền hạn nghiêm
trọng, đ̣i hỏi phải được sự đồng ư của Thống chế
(Tưởng). Heppner cũng nêu lên
rằng người Pháp không phải chỉ là nguồn duy nhất gây
hỗn loạn ở chiến trường Trung Quốc. Ông ta có
nhiều báo cáo cho biết Nhóm yểm trợ Quân đội Anh
(BAAG), dưới quyền chỉ huy của đại tá Ride đang hoạt
động ở khu vực Hongkong - Quảng Châu, trang bị vũ
khí cho du kích Trung Quốc nhằm sẵn sàng kiểm soát
Hongkong trong trường hợp Đồng minh đổ bộ. Những
hoạt động của cả Anh và Pháp ở chiến trường Trung
Quốc không được Thống chế đồng ư và do đó sẽ có
những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động của
OSS. Heppner đă báo cho tướng
Wedemeyer biết về những hoạt động của BAAG và ông ta
đă lưu ư trung tướng E.C. Hayes, Tổng chỉ huy quân
đội Anh ở Trung Quốc về điều này.
Hayes hứa sẽ điều tra vấn đề này
và sẽ cung cấp một báo cáo đầy đủ.
(Bảy tuần lễ sau đó, khi chiến
tranh kết thúc, tướng Hayes vẫn chưa làm xong công
việc này).
Chúng tôi kết luận rằng cần phải
có một lập trường kiên quyết.
Tuy nhiên, sự có mặt của Pháp ở
Trung Quốc không thể bị bỏ qua và cần được sử dụng,
mặc dù có những vấn đề khó khăn về chính trị và hậu
cần. Tướng Caraway báo cho Wedemeyer rằng ông
ra đă khuyến cáo với tướng Marshall “ngay khi những
lực lượng (của Pháp) ấy đă lại sung sức về thể chất,
họ sẽ được sử dụng như những người bảo vệ sân bay,
những đội tuần tiễu biên giới, những nhân viên t́nh
báo, và những đội SCS(?)”. Như
vậy, chúng ta đă cam kết thực hiện một cố gắng phối
hợp để sử dụng họ vào những mục đích nào đó.
Cho đến nay, họ đă được sử dụng
ở tất cả các khu vực đă nói trên, trừ t́nh báo ra.
Có lẽ, nếu chúng ta nêu ra một hay hai điểm, th́ M.5
có thể dễ chấp nhận một phần sự giám sát. Tướng
Caraway sẽ báo cáo với tướng Maddocks và tôi phải
chuẩn bị cho Heppner một giác
thư về những sự vi phạm của Pháp đối với thỏa
thuận DGER - OSS.
Ngoài những lư do đó, một thỏa thuận cụ thể mới với
người Pháp đă được vạch ra ngày 3-7, giữa tướng
Weart và tướng Alessandri. Mọi người có mặt đă biểu
lộ sự thông hiểu và hài ḷng với những điểm chủ yếu
sau đây:
- Hàng tuần phải báo cáo cho tướng Wedemeyer về mọi
hoạt động của DGER ở Chiến trường Trung Quốc;
- M.5 phải bảo đảm kiếm được những tin tức t́nh báo
do DGER đóng ở Ấn Độ và chuyển giao cho tướng
Wedemeyer;
- DGER phải nhận những chỉ thị trực tiếp từ Paris
hay từ Bộ thuộc địa, không nhất thiết qua Sabattier;
- DGER được thừa nhận là cơ quan t́nh báo Pháp về
Đông Dương, cần biết về tất cả các hoạt động bí mật
có liên quan với nhân viên người Pháp được tiến hành
như thế nào, ở đâu và tại sao;
- Sabattier không được bác bỏ bất cứ sự phản đối nào
do DGER nêu lên về những hoạt động t́nh báo đặc
biệt;
- Trong việc vạch kế hoạch và chỉ huy những hoạt
động t́nh báo về Đông Dương, OSS phải hành động
thông qua những đường liên lạc chỉ huy b́nh thường
của Pháp, đặc biệt là đối với những hoạt động t́nh
báo thông qua DGER và những hoạt động quân sự thông
qua Sabattier.
Chúng ta đă nêu lên một hay hai điểm thừa nhận chính
thức DGER như một cánh tay
của Chính phủ Paris và đồng ư một mức độ tự trị nào
đó của nó, nhưng chúng ta không từ bỏ sự kiểm soát
hay chịu để cho Sabattier có quyền cao nhất. Khi
chúng tôi hỏi Sainteny ông ta nghĩ như thế nào về
thỏa thuận mới này, ông ta nhận xét một cách thô lỗ:
“Mới ǵ?”.
MỘT TRƯỜNG HỢP CHƠI TR̉ ẢO THUẬT
Trong những tuần lễ thỏa thuận và không thỏa thuận
của chúng tôi, tôi đă yêu cầu M.5 khẩn cấp lấy bản
dự án mang tên COMORE. Đó
là một phần của việc chuẩn bị cho Carbonado để tăng
thêm những thông tin của chúng tôi về việc người
Nhật đă biết đến mức nào về các kế hoạch của Mỹ -
Trung Quốc, những lực lượng nào được tập trung ở khu
vực Hà Nội - Hải Pḥng và ở hành lang Lạng Sơn - Lào
Cai, những sân bay và hải cảng nào có những hoạt
động bất thường, và đang có những di chuyển quân đội
như thế nào.
Tôi giao nhiệm vụ cho một người Jedburgh cũ, đại úy
Lucien E. Conein(20), một chuyên gia về các chiến
thuật phá hoại và du kích, nói thạo tiếng Pháp, đáng
tin cậy, và không hoàn toàn đồng ư với chính sách
của Pháp đối với Đông Dương. Đội này có khoảng 100
binh sĩ Pháp - Việt và 5 sĩ quan và binh sĩ Mỹ.
COMORE thực hiện được những cuộc đột kích song song
vào các cứ điểm Nhật trong những hoạt động bắt đầu
đêm 28 rạng 29 tháng 7 và tiếp tục cho đến 8-8, chỉ
có một trường hợp thương vong.
Mặc dù người Nhật chống cự mạnh mẽ, nhân viên COMORE
đă đốt cháy và phá hoại các kho xăng và đạn dược,
một ban chỉ huy tiểu đoàn và một số doanh trại.
Họ bắt được hai tù binh Nhật (một là sĩ quan) về để
hỏi cung và những tài liệu có thể mang
theo được.
Thành công của COMORE là một thước đo của sự yên tâm
về triển vọng cộng tác với người Pháp, nếu không có
những khó khăn mới đồng thời tăng lên trong cùng
thời kỳ đó. Tôi hết sức ngạc nhiên khi Sainteny đang
trên đường về Paris th́ tôi nhận được của M.5 ngày
20-7 một kế hoạch hoàn toàn mới mang mật danh MAROC,
một cuộc hoạt động Hải quân nhằm thu lượm t́nh báo
từ lục địa Trung Quốc và những vùng ven biển. Nó đ̣i
hỏi một số đơn vị phụ thuộc, bao gồm một số binh sĩ
không hạn định của Pháp - đâu vào khoảng mấy trăm
đến mấy ngh́n. Theo người Pháp, MAROC được phục vụ
bởi một trạm vô tuyến điện của OSS, mà những đơn vị
phụ thuộc ấy sẽ gửi những tin tức của họ đến trạm
theo mật mă OSS. “Những đường
liên lạc hiện có của Pháp chỉ được dùng cho việc
buôn bán công khai”. Kế hoạch có vẻ nghe xuôi
tai khi mới đọc qua,
ngoại trừ việc OSS cấp vũ khí và trang bị cho binh
sĩ Pháp.
Tuy nhiên, một sự xem xét kỹ lưỡng kế hoạch MAROC
lại để lộ ra rằng vị trí chỉ huy của nó được đặt ở
lănh sự Pháp ở Pakhoi, chỉ do người Pháp đảm nhiệm.
Thủy thủ của hai chiếc thuyền
(Bluebird và Vieux Charles) được đặt dưới sự chỉ huy
của các sĩ quan Pháp.
Ngoài ra, hai đơn vị phụ (Oise và Bạch Long Vĩ) cũng
nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, có liên lạc với
người Trung Quốc và AGAS.
Nhân viên OSS sẽ chỉ tham gia với sự đồng ư hoàn
toàn của chỉ huy Pháp. Trung úy Jordan, lúc
đó ở Pakhoi, được cắt cử vào kế hoạch MAROC để nhận
những đồ tiếp tế của Mỹ thả dù xuống, do người Pháp
phân phối.
Tôi tức điên lên. Rơ ràng
OSS chỉ được trông đợi để cấp tiền và vũ khí cho
những hoạt động không hề chịu một yếu tố kiểm soát
nào của Mỹ. Về điểm này, tôi đă thật sự mệt mỏi với
sự “cộng tác” và những âm mưu của M.5, và ngay lập
tức tôi yêu cầu M.5 làm sáng tỏ vấn đề chỉ huy và
kiểm soát. Các bản sao bức thư của tôi gửi Heppner
và Helliwell có ghi chú: “Nếu có những thay đổi ấy,
th́ sự kiểm soát của OSS đối với những hoạt động ở
Đông Dương thuộc Pháp sẽ c̣n lại con số không, và
chúng tôi sẽ chủ yếu thành một cơ quan tiếp tế cho
những hoạt động độc lập của DGER”. Sự kết thúc đột
ngột của cuộc chiến tranh đă may mắn cứu tôi khỏi
một trong những điều bực ḿnh và tranh chấp mà kế
hoạch MAROC rơ ràng đă đẻ ra.
Binh sĩ Pháp tại chỗ đă bị bỏ
mặc trong suốt thời kỳ bất đồng và thương lượng kéo
dài ấy. Ở K’aiyuan, Posech, Tŕnh Tây và ở
những khu vực khác có người Pháp tập trung, họ được
cung cấp rất tồi tệ về áo quần, giày, thuốc men và
những khoản khác. Vấn đề huấn
luyện và sử dụng những binh sĩ ấy vào các hoạt động
của OSS c̣n tùy thuộc vào việc họ được trang bị bởi
Chiến trường như thế nào. Cứ mỗi lần chúng ta
trang bị cho một đơn vị để làm nhiệm vụ đặc biệt,
th́ một phần lớn nhân viên của đơn vị ấy lại bị
chuyển ra khỏi sự kiểm soát của OSS và một nhóm binh
sĩ mới không ai thừa nhận lại thay thế họ. Rơ ràng
là sự khôn ngoan tầm thường ấy đă làm cho nhiều
người hơn có áo quần mặc, nhưng chương tŕnh huấn
luyện tất nhiên phải bị tiến triển chậm lại. Một
khía cạnh nghiêm trọng hơn nhiều của cái lối láu cá
ấy, không đơn giản lắm, là khi chúng tôi biết được
rằng những đồ tiếp tế như vũ khí và đài vô tuyến
điện không phải bao giờ cũng được giữ lại ở những
đơn vị ấy mà lại bị cất giấu đi cho những hoạt động
sau này của Pháp để chiếm lại Đông Dương. Tôi đưa
cho Heppner một đanh sách những đồ tiếp tế, tất cả
đều được các sĩ quan Pháp nhận một cách hợp lệ, mà
không c̣n thấy ở những đơn vị Pháp được chỉ định làm
nhiệm vụ của OSS nữa, và Heppner đă báo cáo vấn đề
lên tướng Olmsted.
Một lần nữa, Alessandri gặp các
tướng Maddocks, Caraway và Olmsted. Tấn công
ngay lập tức, Alessandri hỏi chúng tôi đă nhận được
chỉ thị từ Washington về việc cung cấp cho người
Pháp những thứ hàng theo
luật cho Vay - Mượn vũ khí hay không. Olmsted trả
lời có, người Pháp có đủ tư cách để nhận sự viện trợ
ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bắt đầu lấy
được trang bị của Mỹ ngay, mà phải 6 tháng sau mới
có thể cung cấp trang bị ấy và chở đến Trung Quốc
được. Hơn nữa, Olmsted không thể đồng ư với tiền đề
của Alessandri là mọi đồ cung cấp hiện có để trang
bị cho quân đội Pháp không phải là để cho họ tách
khỏi những hoạt động do Chiến trường chỉ huy: “Chúng
tôi không có một sự bố trí riêng nào cho những lực
lượng chiến đấu tách biệt của Pháp cả”.
Alessandri tỏ vẻ ngạc nhiên v́ thông tin ấy: ông ta
đă được trả lời mọi điều mà ông ta phải hỏi. Olmsted
kiên tŕ giải thích rằng chỉ có một số ít hàng
ăn mặc đă có sẵn. C̣n
trang bị chiến đấu th́ phải đợi gửi từ Mỹ sang và
nói chung phải mất 6
tháng. Alessandri trông ỉu x́u.
Sáu tháng là quá dài, ông ta
nói. Caraway hỏi Alessandri đang chờ có bao
nhiêu binh sĩ ở Chiến trường Trung Quốc; ông ta trả
lời: “5.000!”.
Olmsted cố làm nguôi bớt sự
choáng váng của Alessandri, nhưng nói thẳng thắn
rằng ông ta không có cách nào để đẩy nhanh hơn quá
tŕnh này cả.
Lúc đó, tướng Alessandri đề nghị mua trang bị bất cứ
ở đâu và chuyên chở bằng máy bay Pháp. Và ông ta lại
được nhắc cho biết rằng các sân bay đều đang hoạt
động hết năng lực rồi. Alessandri cố gắng một lần
nựa: liệu ông có thể mua trang bị ở Ấn Độ và mua các
xe chở hàng để chuyển qua
con đường Miến Điện không? Ông ta được nói cho biết
rằng xăng dầu cho xe chở hàng bị hạn chế rất ngặt
nghèo và nhiều đoàn xe đang chờ đợi có đường để đi
và trong trường hợp ông ta không hiểu được điều đó
th́ ông ta sẽ yêu cầu tới 2.500 chiếc xe tải để duy
tŕ 5.000 binh sĩ bằng những nguồn tiếp tế lấy ở Ấn
Độ. Hoàn toàn thất vọng, Alessandri nhắc lại rằng
binh sĩ Pháp sẽ không thể tham gia các hoạt động nếu
như trang bị cho họ đến quá muộn.
Maddocks ghi nhận một cách lịch
sự rằng ông ta đă hiểu được những ǵ viên tướng này
cần phải làm. Mọi người đều thấy rơ ràng mối
lo lắng của Alessandri không phải là để đánh bại
Nhật, mà là để sẵn sàng giữ Đông Dương cho nước
Pháp. Vấn đề tiếp tế của OSS thậm chí cũng không
được nhắc đến tại cuộc gặp gỡ, nhưng điều muốn nói
đă toát lên rất rơ - binh sĩ Pháp chỉ được cung cấp
vũ khí và trang bị cho những hoạt động do OSS kiểm
soát và do Chiến trường chỉ huy.
Alessandri cố cứu văn t́nh h́nh
một cách tuyệt vọng bằng cách bày tỏ sự thất vọng
của ông ta đối với việc giao cho binh sĩ Pháp giữ
các sân bay và tham gia các hoạt động của OSS.
Ông ta nói rằng, ông ta muốn
thấy họ được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu.
Tướng Maddocks đă gợi ư một cách
lịch sự là sẽ nêu vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm,
và Hà sẽ có những đề nghị thích hợp của ḿnh cho
Thống chế. Tất cả chúng tôi đều biết rằng
người Pháp đă được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu ở
vùng đông bắc Trung Quốc, nhưng họ đă từ chối, bề
ngoài nói là do bộ đội của họ chưa thật khỏe mạnh để
làm nhiệm vụ chiến đấu. Sự thật
là người Pháp thích ở gần biên giới Đông Dương một
cách tiện lợi hợn là chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu ở
những nơi khác ở Trung Quốc.
Khoảng 10 ngày sau đó, trong khi
Sainteny vẫn tiếp tục vắng mặt, Flichy gửi cho tôi
những nhận xét và những sửa đổi riêng của ông ta đối
với kế hoạch MAROC và dường như chúng tôi có thể đạt
tới một bước tiến nào đó về vấn đề này.
Nhưng vào lúc đó có cả một ḍng
tin tức lại từ Pakhoi đến bất ngờ và chặn đứng bước
tiến ấy. Người Pháp giải
thích không đâu vào đâu rằng khi chúng tôi bàn bạc
về kế hoạch MAROC th́ việc phải có người và trang bị
để những công việc trùng lên nhau trong cùng một khu
vực là vô nghĩa. Sự giải
thích ấy hoàn toàn không thuyết phục.
MAROC vẫn chưa tồn tại và OSS
hoàn toàn chưa nhận được ǵ hết từ Pakhoi gửi đến.
Và thế là sự “cộng tác” OSS -
M.5, vốn đă chưa có, lại trở thành phá sản.
Chúng tôi may mắn có được những nguồn t́nh báo khác.
Ba hệ thống t́nh báo lớn dă tung
được người vào phạm vi hoạt động gồm những người
Pháp và Việt đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan
chính quy Pháp trung thành với Sabattier.
Chúng tôi c̣n có 5 nhóm có những
mục tiêu riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người
Pháp. Tất cả có chừng 300 đội t́nh báo và đơn
vị du kích, với một mạng lưới liên lạc rộng lớn hoạt
động không dựa vào DGER chút nào. Chúng tôi cũng
nhận được một luồng tin tức t́nh báo đều đặn và đáng
tin cậy từ bộ máy Hồ Chí Minh và từ những cá nhân ở
những địa phương khác nhau không gắn với bất cứ một
mạng lưới t́nh báo nào.
Với sự kết thúc chiến tranh đột ngột chỉ trước có
mấy ngày, nhiệm vụ bảo đảm t́nh báo về Đông Dương
của tôi để cung cấp cho những hoạt động quân sự của
chúng ta cũng đ́nh chỉ đột ngột, nhưng những cuộc
xung đột với Nhật vẫn chưa kết thúc hẳn v́ những
hoạt động của Sainteny: chiến dịch của ông ta chỉ
mới bắt đầu.
Chú
thích :
(1) trước đó - tiếng Pháp
(2) nguyên trạng - tiếng Pháp
(3) chỉ huy phó nhóm M.5
(4) Jean Roger Sainteny (1907-1978), chỉ huy nhóm
M.5 ở Côn Minh, con rể cựu Toàn quyền Đông Dương
Albert Sarraut (1872-1962); đến Hà Nội cùng với toán
Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng
ḥa Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1945-1947), là
người đại diện nước Pháp kư bản Hiệp định sơ bộ
6-3-1946 với Hồ Chí Minh; sau làm tổng đại diện Cộng
hoà Pháp tại VNDCCH (1954-1957)
(5) hay Bắc Hải, một cảng thuộc Quảng Đông cách Móng
Cái 60 dặm
(6) trưởng toán OSS/SO, mật danh là “Chow”, đóng ở
Posech, bắc Tŕnh Tây 60 dặm
(7) Cảnh giác - tiếng Pháp
(8) thuộc Quảng Đông, bắc Pakhoi 120 dặm
(9) thuộc Hải quân Mỹ, chịu trách nhiệm phối hợp với
AGAS để trinh sát bờ biển cho OSS
(10) Nhóm gồm 8 sĩ quan, 40 lính lê dương người Âu
và 60 lính người Việt
(11) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở
Chiến trường Trung Hoa
(12) Thủ trưởng DGER ở Paris
(13) Chỉ huy trưởng SLFEO/Cacutta
(14) nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách Pakhoi 25 dặm
(15) nằm trong vịnh Bắc Bộ, các Móng Cái 100 dặm
(16) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở
Chiến trường Trung Hoa
(17) Trợ lư Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở
Chiến trường Trung Hoa, phụ trách Ban t́nh báo G-2
(18) Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến
trường Trung Hoa
(19) sau là sĩ quan CIA tại miền Nam Việt Nam, đạo
diễn cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đ́nh Diệm 1-11-1963
Chương 12
“Quyền ủy trị” được xác định lại
Chỉ thị
gián tiếp của Roosevelt về Đông Dương là nhằm để giải quyết
vấn đề đó vào thời kỳ sau chiến tranh chứ không phải vào
giũa năm 1945, khi Mỹ đang phải đương đầu với t́nh h́nh thay
đổi nhanh chóng ở Đông Nam Á, hoặc đang ở trong một t́nh
trạng cấp bách của chiến tranh. Những chỉ thị của Washington
lúc đó chỉ gây thêm phức tạp và rối rắm cho các quyết định
cấp bách về chỉ huy và làm gây cấn thêm t́nh trạng tranh
chấp giữa Pháp, Trung Quốc và Mỹ.
Những điều bí mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng 2, cuộc
đảo chính tháng 3 của Nhật và cái chết của Roosevelt trong
tháng 4 ngay trước khi bước vào Hội nghị San Francisco đă
làm cho vai tṛ của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm
vóc của nó. Trong những kế hoạch tiến hành chiến tranh của
chung ở Trung Quốc dự kiến cho
đến năm 1946, chúng tôi không đặt vấn đề có sự tham gia của
Pháp. Tuy vậy đến đầu năm 1945 th́ Pháp
đă được coi như là thành viên của Chiến trường Đồng minh.
Do đó, Đại sứ Hurley, tướng Wedemeyer và đại tá Heppner đă
phải thường xuyên chất vấn Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và
OSS ở Washington xem có phải là đă có một sự thay đổi chính
sách hoặc ít ra th́ cũng phải có một sự giải thích để làm
sáng tỏ t́nh h́nh.
DE GAULLE ÉP TRUMAN
Trong
ṿng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle
đă tiến hành một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận
thế giới sang phía có lợi cho việc giữ nguyên t́nh trạng của
Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi ư một cách không có
cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương đă
thay đổi dưới chính quyền Truman. Đợt tuyên truyền đó đă
được triển khai đồng thời ở Trung Quốc và ở nước Mỹ vào ngày
25-4 khi tướng (đại sứ) Pechkov đọc một bài diễn văn tại
cuộc họp báo cùng lúc với việc mở đầu Hội nghị San
Francisco. Ông nói:
“Pháp đang chiến đấu ở Thái B́nh Dương, nơi có chiến hạm
Richelieu, một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới
đang tuần tiễu và ở Đông Dương, nơi những du kích Pháp đang
quấy rối người Nhật và ngăn chặn không cho họ tiến đánh Vân
Nam và Quảng Tây...
Trong cuộc xung đột này, người Đông Dương tỏ ra trung thành
với sự nghiệp của Pháp. “Quyền ủy trị” thực sự đă nằm trong
trái tim chúng ta…”.
Ở đây, có vấn đề được đặt ra là trên
thực tế tàu Richeheu phải chăng có mặt ở Thái B́nh Dương vào
thời điểm đó? Tôi chỉ có thể trả lời rằng, theo Hải
quân Mỹ cho biết th́ trong khoảng từ 15 đến 30 tháng 4 năm
1945, tàu đó đang có mặt ở Ấn Độ Dương. Nhưng luận điệu nói
là “du kích người Pháp” quấy rối Nhật ở Đông Dương và ngăn
chặn những cuộc tấn công vào phía nam Trung Quốc đă được xác
định rơ là cường điệu hoàn toàn. Người
Việt Nam đă sớm nói lên tiếng nói của họ.
Sau khi Roosevelt mất, người phát ngôn của Pháp ở San
Francisco đă t́m được những vũ khí tuyên truyền tốt nhất của
họ trong lời tuyên bố năm 1942 của Sumner Welles và trong
chương tŕnh về các dân tộc phụ thuộc của Mỹ đưa ra tại Hội
nghị Dumbarton Oaks năm 1944. Ngày 2-5, G. Bidault, Bộ
trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San
Francisco, đă tuyên bố một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng
quyết định về tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào nước
Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đă đề cập đến quyền ủy
trị như đă được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố
rằng nguyên tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào
đó chứ không phải cho Đông Dương.
Sau này Bonnet phàn nàn với Ngoại trưởng Stettinius rằng
“mặc dù Chính phủ Pháp hiểu lời tuyên bố của Welles năm 1942
có liên quan đến việc khôi phục lại chủ quyền của Pháp đối
với đế quốc Pháp trước đây là có bao gồm Đông Dương ở trong
đó, nhưng báo chí Mỹ vẫn cứ tiếp tục nói rằng một qui chế
đặc biệt vẫn dược dành cho khu vực thuộc địa này”. Để tránh
có sự bất đồng trong hội nghị, Stettinius khẳng định với
Bidault rằng “bất cứ lời tuyên bố chính thức nào của Chính
phủ nói đến chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, thậm chí… nhưng
trong dư luận công chúng Mỹ cũng có những ư kiến nào đó lên
án những chính sách và những điều thực hành của Pháp ở Đông
Dương”.
Sau bước thăm ḍ kết quả, De Gaulle tăng sức ép đối với
chính quyền mới ở Washington từ một hướng khác.
Trong một bức công hàm riêng, De Gaulle
yêu cầu Tổng thống Truman tiếp Bộ trưởng Ngoại giao của ông
ta để ông này thảo luận về sự tham gia của các lực lượng
Pháp “bên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến dịch quyết định
chống Nhật”.
Bidault thăm Nhà Trắng ngày 17-5.
Sau khi bày tỏ ḷng cảm kích đối với đề nghị được tham gia
chiến đấu của De Gaulle, Tổng thống nói với Bidault rằng
chính sách của ông ta là để cho Tổng tư lệnh Chiến trường
(Mac Arthur) quyết định nếu như có thể được và có cần thiết
phải để các lực lượng Pháp tham gia vào các cuộc hành quân
chống Nhật hay không. Bản thân Tổng thống cho rằng việc này
c̣n tùy thuộc khá nhiều vào điều kiện chuyên chở vận tải,
một vấn đề đ̣i hỏi phải có một lực lượng lớn gấp 3 lần trong
chiến tranh ở Đại Tây Dương.
Ngày hôm sau, Grew và Bidault cũng thống nhất với nhau sau
khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề nói trên. Nhưng Bidault lại
cho biết thêm là đă có hai sư đoàn của Pháp sẵn sàng để đưa
ngay sang Viễn Đông. Có thể là nhằm cho Grew yên tâm về
những động cơ của Pháp, Bidault nói ngay rằng các sư đoàn đó
có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào tại Viễn Đông và Pháp
không có ư định hạn chế sự đóng góp của họ chỉ ở trong việc
chống lại kẻ thù ở Đông Dương. Grew đáp lại là sẽ nêu ngay
vấn đề này với các nhà chức trách quân sự của chúng ta.
Trong khi bộ máy ngoại giao khuấy động th́ cơ quan đấu tranh
chính trị của DGER ở Calcutta và Trùng Khánh cũng cho tung
ra tin đồn là do “các nhân vật cao cấp” cho biết Washington
đă bỏ rơi quan niệm về quyền ủy trị và cũng không c̣n phản
đối việc Pháp quay trở lại Đông Dương nữa.
ĐIỀU G̀ ĐĂ XẢY RA Ở YALTA
Chiến trường Trung Quốc là “điểm chót tận
cùng” trong Thế chiến. V́ vậy
tin tức về những sự kiện ở Washington, London và Paris đến
đó được, chủ yếu là do con đường trao đổi
thư từ cá nhân giữa những người
bạn quen thuộc với nhau. Những đường thông tin liên lạc
chính thức giữa những người vạch ra quyết định ở các thủ đô
thế giới với các nhà lănh đạo ngoại giao và quân sự ở Trung
Quốc thường bị hạn chế trong những chỉ thị từng phần nhằm
ngăn ngừa việc giải thích theo ư cá nhân hoặc các hành động
có tính chất độc lập. Những chính sách cơ bản giao cho tướng
Wedemeyer và Đại sứ Hurley từ khi họ mới được chỉ định sang
Trung Quốc đă thay đổi liên tục ở Washington, nhưng những
thay đổi đó lại chỉ được nêu lên một cách rơ ràng sau khi sự
việc thực tế có liên quan đến sự thay đổi đó đă xuất hiện.
Cũng may mà t́nh trạng đó không phải chỉ riêng những người
Mỹ ở Trung Quốc mới có; trong những chừng mực nhất định, nó
c̣n tồn tại ở người Anh, người Pháp. Và
ngay cả trong các chính sách của người Trung Quốc cũng có
t́nh trạng tương tự.
Để đối phó với những yêu sách quá mức của người Pháp và đấu
tranh với các tin đồn đại về việc Mỹ thay đổi chính sách,
chúng tôi phải dựa vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Đại sứ
quán Mỹ. Đại sứ Hurley cũng khá thông thạo về vấn đề quyền
ủy trị của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944 và
cũng biết rằng vấn đề đó đang được “ba nước lớn” thảo luận
tại Yalta. Tuy vậy, ông cũng không được
thông báo là vấn đề đó đă được phê chuẩn hay đă bị sửa đổi.
T́nh huống nào cũng đều tác động đến mối
giao dịch của ông ta cũng như của giới quân sự đối với người
Pháp ở Trung Quốc. V́ vậy, Hurley muốn biết quyết
định cuối cùng của Washington và ngày 10-5, ông đă điện về
Mỹ, nhắc đến lời tuyên bố báo chí của Pechkov, như sau:
“V́ một thực tế là qui chế tương lai của khu vực đó chắc
chắn sẽ làm cho người ta ở đây quan tâm và thảo luận ngày
càng nhiều nên thật là bổ ích cho tôi nếu như Bộ ngoại giao
bí mật thông báo riêng cho tôi biết nội dung các quyết định
ở Yalta (hoặc bất cứ một quyết định nào khác về chính sách)
xung quanh vấn đề ấy. (Tôi biết rơ chính
sách của Roosevelt đối với Đông Dương nhưng muốn xác định
xem chính sách đó có ǵ thay đổi không)”.
Tám ngày sau, Hurley nhận được một trả lời ngắn gọn: “Không
có quyết định nào của Yalta (SFAMB) liên quan đến Đông Dương
mà Bộ Ngoại giao được biết (URTEL 750, ngày 10-5).
Các tài liệu về chính sách quân sự và
chính trị hiện đang nghiên cứu sẽ được chuyển đến để làm
thông báo một khi đă được phép.
Grew (điện).
Câu trả lời kín đáo của Grew làm tăng thêm sự lẫn lộn.
Nếu không có quyết định nào đạt được ở
Yalta, tại sao Bộ Ngoại giao lại không muốn tiết lộ ra.
Thư tín trao đổi giữa các nhân viên tham
mưu dự họp ở Yalta với Trùng Khánh nói rằng vấn đề Đông
Dương đă được thảo luận chí ít là giữa Roosevelt và tướng
Marshall, và có thể dưới một h́nh thức nào đó với cả
Churchill và Xtalin.
Vài ngày sau, Hurley gửi một bức điện cá nhân dài đến Tổng
thống Truman, đề cập đến quyền lợi và các cuộc vận động của
Anh ở châu Á. Với một ngôn ngũ rơ ràng, Hurley bày tỏ mối lo
ngại về việc Mountbatten đă sử dụng viện trợ Vay - Mượn và
các nguồn tài nguyên khác của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương,
nhằm làm thất bại cái mà Hurley cho là chính sách của Mỹ và
để thiết lập lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ta muốn tổng
thống hiểu rằng hiện nay ở châu Á có dư luận ngày càng tăng,
cho là ở đây Mỹ đang nghiêng về xu hướng đế quốc hơn là dân
chủ. Theo Hurley th́ đó là một điều phi
lư và cần uốn nắn. Từ vị trí xa xôi cách biệt của
ḿnh, ông có ấn tượng rằng đoàn đại biểu Mỹ ở San Francisco
h́nh như ủng hộ thuyết đặt các thuộc địa và các dân tộc phụ
thuộc dưới sự kiểm soát đế quốc với h́nh thức các nước đế
quốc riêng rẽ hoặc liên kết với nhau chứ không phải đặt dưới
sự ủy trị của Liên Hợp Quốc.
TRUMAN NÓI: KHÔNG THAY ĐỔI
Bức điện
của Hurley được Nhà Trắng chuyển cho Bộ Ngoại giao ngày 29-5
để phúc đáp lại một cách thích đáng vào 8 ngày sau, đồng
thời cũng nêu hai vấn đề là sự kiểm soát của Pháp ở Đông
Dương và nguyện vọng chiếm lại Hongkong của Anh.
“…Tổng thống yêu cầu tôi nói rằng không có thay đổi cơ bản
nào trong chính sách... Và lập trường hiện nay là như sau:
Tổng thống cho rằng ông thông hiểu lời phát biểu của Bộ
trưởng Ngoại giao ngày 3-4-1945, trong đó được sự đồng ư của
Tổng thống Roosevelt, Stettinius đă tuyên bố rằng kết quả
các cuộc thảo luận ở Yalta cho thấy, cơ cấu về quyền ủy trị
phải được xác định thế nào để cho phép đặt dưới nó những
lănh thổ nhất định chiếm được từ kẻ thù trong cuộc chiến
tranh này (như đă được thông qua vào một ngày sau đó) và cả
những lănh thổ khác nếu họ tự nguyện chấp nhận sự ủy trị.
T́nh h́nh vừa được công bố liền được
khẳng định bằng những cuộc trao đổi ư kiến hiện nay đang
diễn ra ở San Francisco bàn về các quyền ủy trị. Suốt
trong các cuộc thảo luận này, đoàn đại biểu Mỹ nhấn mạnh sự
cần thiết phải đưa ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc một
h́nh thức tiến bộ về Chính phủ tự quản để họ đi đến một kiểu
liên bang nào đó phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của các
dân tộc có thể loại trừ việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông
Dương, trừ khi Chính phủ Pháp đồng ư. Mà điều đó th́ h́nh
như không thể được. Tuy nhiên đó chỉ là ư định của Tổng
thống vào những thời điểm thích hợp nhằm đ̣i hỏi Chính phủ
Pháp có những biểu hiện tích cực tỏ rơ ư định muốn thiết lập
các quyền tự do công dân và nới rộng các biện pháp về Chính
phủ tự quản ở Đông Dương trước khi hoàn thiện hơn nữa tuyên
ngôn về chính sách trong lĩnh vực này”.
Sau đó, bức điện kể lại cuộc nói chuyện của Tổng thống với
Bidault và vạch ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng các tiêu
chuẩn về khả năng sử dụng các lực lượng Pháp:
“a/ Trong khi tránh để không đi tới phải làm một điều ǵ
không thiết thực, hay một cam kết dài hạn về khối lượng và
tính chất của viện trợ mà Mỹ có thể cung cấp cho lực lượng
kháng chiến của Pháp ở Đông Dương th́ Chính phủ (Mỹ) vẫn
tiếp tục giúp đỡ trong chừng mực không ảnh hưởng đến những
yêu cầu của các chiến dịch đă được hoạch định. V́ phải đáp
ứng nhu cầu tập trung mọi tiềm lực của chúng ta ở Thái B́nh
Dương cho các chiến dịch đă được vạch ra, do đó trong lúc
này không dự liệu những chiến dịch qui mô lớn nhằm trực tiếp
giải phóng Đông Dương. Quân đội Mỹ sẽ không được sử dụng ở
Đông Dương ngoài các chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại
Nhật.
b/ Lời đề nghị giúp đỡ được đánh giá về mặt quân sự như là
một hành động nhằm mục đích đánh bại Nhật Bản cũng giống như
trường hợp của Anh và Hà Lan.
V́ vậy không có ǵ ngăn trở việc cung cấp viện trợ cho các
lực lượg quân đội và Hải quân Pháp theo như quan niệm đă
được nêu ở trên, nhưng phải tính đến việc đừng để gây ra cho
Chiến trường, nơi phải cung cấp sự viện trợ đó, một sự phân
tán tiềm lực quân sự, kinh tế mà đáng lẽ Hội đồng tham mưu
trưởng phải tập trung cho các nơi khác”.
Vào quăng giữa thánh 6, Heppner đă có
dịp được đọc toàn văn bức điện nói trên và được phép phổ
biến một số đoạn cần thiết cho một số ít nhân viên trong cơ
quan, trong đó có tôi.
Cả Heppner và tôi đều cho là chính quyền
Truman đă đầu hàng trước yêu sách của De Gaulle, chấp nhận
chỉ chịu để cho Đông Dương thuộc quyền ủy trị nếu có sự đồng
ư của Pháp. Nhưng đối với giới
quân sự, th́ Đông Dương có được đặt thuộc quyền ủy trị hay
không lại là một việc không quan trọng.
Điều đáng quan tâm là vấn đề cung cấp
cho Pháp những sự hỗ trợ và tiếp tế hậu cần, và nhằm vào mục
đích ǵ. Chúng tôi hy vọng sẽ có những lời tuyên bố
dứt khoát hơn, một lời tuyên bố có thể làm tiêu tan những
mập mờ mà chúng tôi đang phải cố gắng khắc phục. Điều cơ bản
mà chúng tôi cần là những tiêu chuẩn chính trị cho phép OSS
có thể cộng tác với người Pháp, Anh và Việt Nam; các giới
hạn địa lư của khu vực hoạt động và việc mở rộng các hoạt
động phi quân sự của OSS.
Heppner đă triệu tập một hội nghị để hy vọng làm sáng tỏ
những điểm này. Hội nghị gồm các đại
diện Đại sứ quán, các nhà làm kế hoạch của Chiến trường và
các trưởng ngành của OSS.
BỐN CƯỜNG CUỐC TRỞ THÀNH NĂM
Theo báo cáo viên Đại sứ quán, mục tiêu chủ
yếu của Roosevelt là nhằm bảo đảm và duy tŕ ḥa b́nh bằng
một cơ chế tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc).
Ông đă phác họa ra cơ chế lănh đạo là một nền chuyên chính
tay tư, gồm những cường quốc tham
gia chủ yếu vào cuộc chiến tranh: Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung
Quốc. Nhưng sau các hội nghị Dumbarton Oaks và Yalta, rơ
ràng là Anh cần có sự cộng tác của Pháp ở châu Âu và
Roosevelt đă chấp nhận khái niệm “năm cường quốc”.
Cũng có thể là cuộc viếng thăm Mỹ vào
tháng 7-1944 của De Gaulle đă ảnh hưởng đến Roosevelt.
De Gaulle đă hứa là Pháp sẽ để cho Đông
Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh.
Roosevelt không nài ép ông về vấn đề ủy
trị. Roosevelt cũng rất biết sự
thù ghét của Churchill đối với việc xáo trộn cơ cấu thuộc
địa ở Đông Nam Á, mặc dù Xtalin và Tưởng đều tán thành thủ
tiêu nó. (Quentin Roosevelt đă
tiết lộ cho tôi biết là vào giữa tháng 3-1945, Tổng thống có
thể đă có một lập trường ôn ḥa hơn nhưng không phải là đă
hoàn toàn từ bỏ lư tưởng về quyền ủy trị. Theo “Q”
th́ Roosevelt đă nói rằng, nếu nước Pháp cam kết nhận cho
ḿnh vai tṛ của người được ủy nhiệm th́ ông sẽ không phản
đối việc Pháp giữ lại các thuộc địa của ḿnh với ư nghĩa là
một sự độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa đó sẽ được đảm
bảo thực hiện).
Theo báo cáo viên Đại sứ quán, lần đầu
Đông Dương đă trở thành một vấn đề nói trong các công hàm
của Tổng thống vào tháng 11-1944. Khi Wedemeyer báo
cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp
đang hoạt động mạnh mẽ nhằm khôi phục lại địa vị chính trị
và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á; Wedemeyer
nói về phái đoàn quân sự của Blaizot ở Ấn Độ đang chuẩn bị
xâm nhập vào Đông Dương và yêu cầu phải có chỉ thị chính trị
v́ theo Wedemeyer th́ Đông Dương thuộc Chiến trường Trung
Quốc. Ngày 16-11-1944, Tổng thống đă chỉ thị cho Hurley
thông báo cho Wedemeyer biết rằng chính sách của Mỹ đối với
Đông Dương không thể được xác định trước khi có sự tham khảo
với các đồng minh trong hội nghị Tham mưu hỗn hợp sắp tới và
Tổng thống yêu cầu Hurley cung cấp đầy đủ cho ông các tin
tức về hoạt động của Anh, Pháp và Hà Lan ở Đông Nam Á. Nhưng
Hurley đă chẳng có ǵ để báo cáo thêm với Tổng thống và Tham
mưu Trưởng Liên quân cũng chẳng rơ đồng minh của chúng ta
mưu toan làm ǵ, ở đâu.
Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng
3-1945, Tổng thống đă nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải
sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và
Pháp trong khu vực này, và chỉ được giúp đỡ họ những ǵ mà
các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đ̣i hỏi.
Người ta đă kể lại chuyện Churchill đă điện cho Tổng thống
rằng ông biết đang có những khó khăn nhất thời giữa
Wedemeyer và Mountbatten chung quanh các hoạt động ở Đông
Dương, và đề nghị có chỉ thị cho Hội đồng Tham mưu trưởng
Hỗn hợp Anh - Mỹ (CCS) tổ chức một cuộc trao đổi sâu sắc và
thẳng thắn về các ư đồ, kế hoạch và t́nh báo giữa hai tư
lệnh chiến trường. Ngày 22-3, Roosevelt
đă phúc đáp là ông và Churchill nên thống nhất với nhau để
quyền cho Wedemeyer được phối hợp mọi chiến dịch của Anh, Mỹ
và Trung Quốc.
Churchill đă không trả lời cho đến ngày
14-4, khi Wedemeyer trên đường từ Washington về Trung Quốc
và đă dừng lại để gặp Mountbatten ở Bộ Tổng hành dinh SEAC.
Lúc đó, giữa hai vị tư lệnh đă đạt được
một sự “thống nhất hiểu lầm”. Wedemeyer ra về và cứ
tưởng rằng SEAC sẽ không cho tiến hành các chiến dịch ở Đông
Dương trước khi chưa được ông ta thông qua với tư cách là
Tổng tham mưu trưởng của Tưởng. Mountbatten lại hiểu rằng
tất cả những ǵ mà ông phải làm theo như sự thỏa thuận đă
đạt được chỉ là thông báo cho Wedemeyer biết về những chiến
dịch được dự kiến ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu trong công
hàm của Churchill gửi cho Tổng thống sau đó đă phản ánh cách
nh́n của Mountbatten. Ngày 14-4, Tổng
thống Truman phúc đáp lại, đă chẳng có ǵ thống nhất với
Churchill, mà lại nêu lên một cách đầy đủ hơn quan điểm của
Wedemeyer về vấn đề thống nhất ư kiến.
Vào giữa tháng 5, sự bất đồng giữa hai
vị tư lệnh trở thành công khai. Mountbatten thông báo
cho Wedemeyer biết ông dự định cho 26 chuyến bay của không
quân vào Đông Dương để tiếp tế cho các toán “du kích người
Pháp”. Cho rằng Chính phủ Pháp đă đặt tất cả các đơn vị nói
trên dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của Tưởng, Wedemeyer
đ̣i Mountbatten phải bố trí để đảm bảo là tất cả đồ thiết bị
tiếp tế phải được sử dụng vào việc chống Nhật. Mountbatten
đă không đáp lại về vấn đề đó. Sau một đợt trao đổi tin tức
chớp nhoáng mà Momlbatten cũng chẳng cho biết số lượng và
địa điểm các đơn vị dự kiến được tiếp tế của Pháp,
Mountbatten đă bất chợt ra lệnh cho phi cơ bay mà không chờ
phải có sự đồng ư của Wedemeyer và Tưởng. Ngày 25-5,
Wedemeyer đă kịch liệt phản đối Mountbatten và báo cáo với
Hội đồng Tham mưu trưởng của chúng ta.
Quan hệ chỉ huy giữa hai tư lệnh trở nên căng thẳng.
Trở lại hội nghị, Heppner yêu cầu chúng tôi đánh giá t́nh
h́nh dưới ánh sáng của chỉ thị hiện hành, nhưng phải hết sức
thận trọng đừng để vi phạm chính sách đă được công khai
tuyên bố của Mỹ.
Helliwell mở đầu cuộc thảo luận bằng cách xem xét lại những
mối quan hệ của chúng ta với Anh, Pháp và Việt Nam. Chúng
tôi thống nhất ư kiến là OSS không cần quan tâm nhiều đến
những hành động phối hợp Mỹ - Anh, ngoại trừ trường hợp có
liên quan trực tiếp đến Đông Dương, và khi đó có thể phải
chờ có quyết định của cấp trên. Đối với
người Pháp và người Việt th́ vấn đề lại hoàn toàn khác.
Trong một công hàm dài của Bộ Ngoại giao, Grew đă tuyên bố
rơ ràng là ở đây không có ǵ thay đổi về cơ bản trong chính
sách. Do đó chúng ta cần phải duy tŕ một cách hợp lư một
nguyên trạng như trước đây. OSS chỉ việc không cần biết tới
những cố gắng của Pháp để chiếm lại Đông Dương, và sẽ không
làm ǵ để hỗ trợ hoặc ngăn chặn các cố gắng đó nhưng nếu có
thể được th́ sẽ dùng các đội quân Pháp vào các cuộc hành
quân bí mật. Những điều đó bao giờ cũng
phải là một bộ phận hoặc phải được gắn chặt với các kế hoạch
phối hợp của Chiến trường. C̣n
đối với người Việt, th́ có nhiều sự hạn chế không cho chúng
ta đóng góp vào việc thực hiện nguyện vọng chính trị của họ.
Một người trong hội nghị đă đặt câu hỏi xem phải làm thế nào
khi đă rơ ra là tổ chức của người Việt Nam thực chất là
chính trị, chống Pháp và chiến đấu giành độc lập dân tộc. Có
ư kiến nêu lên là việc sử dụng các cá nhân người Việt cho
các hoạt động bí mật do Chiến trường phối hợp không được coi
như là một sự ủng hộ về chính trị hay quân sự đối với họ.
Điều này đă gây ra một cuộc tranh luận
sôi nổi. Cuối cùng, một trong
những người thảo kế hoạch của Chiến trường đă kết luận là
trong chừng mực mà người Việt có đóng góp vào nỗ lực của
Đồng minh chống lại Nhật th́ chúng ta cũng không cung cấp
cho họ một số khí giới nhiều hơn số họ cần để tự vệ cho cá
nhân ḿnh. Như vậy, không ai có
thể phê phán chúng ta là đă hoạt động một cách thiên vị.
Điểm phải bàn tiếp theo là vấn đề SEAC thâm nhập vào Đông
Dương. Đă được khẳng định là Đông Dương tức là Việt Nam, Lào
và Kampuchia là một bộ phận của Chiến trường Trung Quốc và
thuộc quyền chỉ huy kiểm soát của Tưởng. Một người nào đó đă
nêu lên tính chất hợp pháp của các khu vực hoạt động v́ ở
đây thực ra chỉ có một thỏa thuận “lịch sử” giữa Mountbatten
và Tưởng. Những thỏa thuận không chính thức như vậy rất
không đáng tin cậy. Heppner ủng hộ ư kiến này và đưa ra
những công văn của OSS gửi SEAC nói về các hoạt động của lực
lượng 123 ở Lào và nam Đông Dương để làm chứng cứ.
Tất nhiên, đó là sự thiếu phối hợp trong
các kế hoạch hoạt động bí mật giữa SEAC và Chiến trường
Trung Quốc.
Lúc đó, một người thảo kế hoạch của Chiến trường báo cáo là
Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp có ư kiến như một phương
án chia Đông Dương làm hai phần,
một phần sẽ do SEAC có toàn quyền kiểm soát, bao gồm vùng
phía nam của vĩ tuyến 15 hoặc 16 bắc. Theo ông, đây mới chỉ
là đang giai đoạn chuẩn bị, và c̣n phải chờ có sự chấp nhận
của OSS và sự đồng ư của Tưởng. Nhưng ông gợi ư OSS cần phải
lưu ư đến vấn đề này để làm kế hoạch hoạt động tương lai ở
Đông Dương. Heppner đă đồng ư. Đó cũng là lần đầu tiên tôi
được nghe nói đến ư định cắt Việt Nam làm đôi và chúng tôi
đă coi vấn đề đó là một vấn đề quy định pháp lư giữa các
Chiến trường.
Hội nghị đă rất bổ ích cho những ai
trong chúng tôi đang chuẩn bị hoạt động.
Trong khi không có những chỉ thị hướng
dẫn chi tiết của Washington, chúng tôi cũng đă có thể dựa
vào một số điểm nói về cách giải quyết cấn đề ở cấp cao để
vận dụng ở cấp chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi chưa nhận
thức được đề án của Washington
cắt Đông Dương làm hai phần đă có một ư nghĩa xa đến thế,
nhưng đó cũng là một nhân tố quyết định t́nh h́nh của năm
đang đi tới.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.