MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record v CBO
v US Government vCongressional Record
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News
v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian v Political Insider v Law v Media
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart Interceipt
v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic
v National Public Radio v ForeignTrade v Slate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 25
Trước ngày lễ Độc lập
HẾT KHÓ KHĂN NÀY LẠI ĐẾN KHÓ
KHĂN KHÁC
Trong một
thời gian ngắn ngủi 8 ngày, các sự kiện ở Hà
Nội đă phá vỡ các kế hoạch của Đồng minh
nhằm chuyển sang một cách có trật tự từ thời
chiến sang thời b́nh. Một cuộc tiếp
thu đầu hàng về
quân sự theo như thường lệ, không có cảnh
báo trước, sẽ làm nảy sinh một cơn lốc chính
trị có tầm cỡ quốc tế.
Những sự xung đột về quyền lợi của nhiều
nước đă nhanh chóng bùng ra liên tục và đă
đặt ra cho cơ quan OSS chúng tôi nhiệm vụ
phải thỉnh thị, hoà giải hay quyết định.
Tôi cho rằng sự thay đổi trong những diễn
biến t́nh h́nh này là trực tiếp do sự chậm
trễ cố t́nh của Tưởng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chiếm đóng của ḿnh. Điều đó đă góp
phần gây ra t́nh trạng hỗn loạn và vô chính
phủ tiếp theo. Nó
đă giúp cho người Nhật có thời gian để
tung ra trận đấu
cuối cùng nhưng vô tích sự để nhằm giành ưu
thế về tư tưởng. Nó đă
cung cấp cho ông Hồ cơ hội để thiết lập cơ
cấu chính trị của ông mà không bị chống đối
từ bên ngoài. C̣n
đối với người Pháp th́ sự chần chừ của Tưởng
chỉ càng làm cho họ dễ bảo hơn nữa trong
cuộc thương lượng của Tưởng với Paris.
Hiến binh Nhật đă tiến hành một chiến dịch
bỉ ổi chống người da trắng trong người Việt
và người Hoa ở Đông Dương, nhằm vào các
cường quốc phương Tây ở châu Á. Người Pháp,
sau khi đă mất hết quyền kiểm soát thuộc địa
cũ của ḿnh, đă rơi vào một t́nh trạng thất
vọng tập thể, chửi bới thậm tệ người Việt
Nam, Trung Quốc và người Mỹ. Những tin đồn
đại về một cuộc chiếm đóng lâu dài của Quốc
dân Đảng đă làm cho dân chúng của ông Hồ và
thực dân Pháp kinh hoàng.
Họ mường tượng ngay đến
những tháng năm đầy áp bức độc đoán, cướp
đoạt, đói khát và chết chóc.
Vị trí của chúng tôi
trong OSS trở thành không thể chịu đựng được
nữa. Quyền hạn
của tôi bị bó hẹp trong các vấn đề quân sự
nhưng phần lớn các sự việc và vấn đề chúng
tôi phải đương đầu thực chất lại là chính
trị. Tôi báo cho
Côn Minh và Trùng Khánh biết rơ t́nh h́nh
phức tạp và rất dễ bùng nổ ở đây nhưng h́nh
như các nhà chức trách quân sự và ngoại giao
đều không quan tâm lắm. Tôi đă đề
nghị với Heppner gặp thảo luận với Đại sứ
Hurley và giục ông phái một viên chức ngoại
giao có thẩm quyền để đến đối phó với cái ḷ
lửa Hà Nội đang sôi sục này, nhưng chỉ dược
đáp lại “chuyển tất cả mọi vấn đề cho các
nhà chức trách đảm nhiệm việc chiếm đóng
ngay sau khi họ tới”.
Thế là hay, nhưng khi nào th́ người Trung
Quốc sẽ tới? Chúng tôi đă biết các
đơn vị tiền trạm đă vượt qua biên giới vào
ngày 27, nhưng không rơ Lư Hán và cơ quan
chính trị của ông ta ở đâu?
Thời gian ông ta đến có
thể đoán chừng là c̣n phụ thuộc vào sự thành
công của Tưởng trong việc vô hiệu hoá được
viên thống đốc Vân Nam và những thắng lợi
trong cuộc thương lượng của Tưởng với Pháp ở
Trùng Khánh và Paris.
Điều đó đ̣i hỏi phải có
thời gian. Trong
khi chờ đợi, chúng tôi làm được ǵ th́ làm
để biểu thị sự có mặt của nhà chức trách
Đồng minh và duy tŕ một cái có vẻ như là
một nền trật tự.
Những yêu cầu khẩn khoản
của tôi về chỉ đạo chính trị và sự giúp đỡ
để đối phó với t́nh h́nh bấp bênh của Hà Nội
đă làm cho Đại sứ quán chúng ta nổi cáu và
bức công hàm của ông Hồ gửi Tổng thống
Truman lại như đổ dầu thêm. Đại sứ
Hurley đă phật ư v́ ông vẫn cho rằng Hồ Chí
Minh và Việt Minh của ông Hồ chỉ là một sụ
mở rộng của “mối đe doạ đỏ ở phương Đông”
của Mao Trạch Đông. Sự bực tức của Đại sứ
lại được bồi thêm bằng những lời kết tội của
Pháp quy cho đại diện Mỹ ở Hà Nội là “chống
Pháp” và có cảm t́nh với “Cộng sản”. Hurley
đă điên lên về việc Heppner ngoan cố không
chịu gọi tôi về Trung Quốc và cho tôi xuống
tàu về Mỹ.
Ở cấp Chiến trường, cơ quan của Wedemeyer đă
chất vấn OSS về các “hoạt động chính trị của
tôi tại Hà Nội”. Sau này (vào tháng 10), Q.
Roosevelt cho tôi hay là Tai Li đă phàn nàn
với đại tá Dickey, thủ trưởng G-2(1) Chiến
trường Trung Quốc, là tôi đă thân thiện quá
với Việt Minh và không hợp tác với nhà đương
cục Trung Quốc.
Ngày thứ bảy 1-9, tôi
nhận được một bức điện khá nghiêm khắc của
Helliwell nhắc nhở tôi rằng hành dinh của
Wedemeyer “rất không bằng ḷng về hoạt động
của OSS ở Đông Dương”. Trong bức điện
có ghi: “ở đây nhận được báo cáo là Patti đă
tổ chức các cuộc gặp gỡ và đứng làm môi giới
cho người Pháp và An Nam”, như thế là trái
với các chỉ thị của Chiến trường và “Chiến
trường muốn bằng bất cứ giá nào, tránh các
hoạt động chính trị nếu các hoạt động đó đặt
Mỹ vào một thế đứng giữa”. Bức điện kết luận
bằng một lời cảnh cáo: “Chúng ta có nguy cơ
nghiêm trọng là cả phân đội có thể bị gọi
về”.
Tôi rất buồn phiền về
thái độ của những người chúng ta ở Trung
Quốc nhưng cũng không có ǵ phải ngạc nhiên.
Tôi biết họ đang phải
chịu áp lực của người Pháp và người Trung
Quốc, nhưng tôi cũng ư thức được trách nhiệm
trong nhiệm vụ của ḿnh. Wedemeyer,
Heppner và Helliwell đều biết rơ một cách
đầy đủ các mệnh lệnh Donovan chỉ thị cho tôi
không được giúp đỡ người Pháp trong mưu đồ
của họ trở lại Đông Dương. Họ cũng đă được
thông báo đầy đủ về việc lựa chọn tôi để đảm
nhiệm công việc này là trên cơ sở tôi thông
suốt các chính sách Mỹ đối với “các dân tộc
lệ thuộc”, như đă nhiều lần nói đến trước
đây. Tôi cảm thấy sâu
sắc rằng chính sách Mỹ đă thay đổi, tôi sẽ
được khuyên nhủ về vấn đề đó và bị gọi về.
Mặc dù các lư do đưa ra
đă được cường điệu lên (một cách khá khéo
léo), tôi vẫn muốn tŕnh bày cho OSS - Trung
Quốc biết rơ sự việc. Tôi điện báo
cho Heppner biết từ khi tôi đến, tôi chỉ
thu xếp có được
một cuộc gặp gỡ giữa Sainteny và Giáp, và đó
là một cuộc gặp gỡ do Sainteny yêu cầu.
Không hề có vấn đề làm môi giới chính trị,
tuy rằng gần như ngày nào chúng tôi cũng
phải can thiệp với các nhà chức trách địa
phương về việc đảm bảo
an ninh cho người Âu, nhất là đối với
người Pháp. Trong nhiều trường hợp chúng tôi
đă phải thay mặt người Pháp xin giùm cho một
số tay sai đi
khiêu khích bị bắt quả tang.
Tôi cũng nhắc lại cho Côn Minh những điều mà
tôi đă nêu ra trước đây…
Tôi đă yêu cầu Chiến trường và AGAS, ngay từ
khi tôi mới tới, cho một nhân viên chuyên
môn để phụ trách vấn đề tù binh chiến tranh
và để tôi chuyển về công tác của OSS.
Một tổ công tác nhỏ dưới quyền đại tá
Norlinger(2) đă
được đưa tới ngày 28-8. Nhưng thực không
may, Norlinger cũng chẳng có ǵ thành công
hơn tôi trong công tác đối với người Nhật về
vấn đề tù binh.
Chỉ ít lâu sau,
Narlinger và toán của ông cũng bị lôi cuốn
vào các vấn đề chính trị Pháp - Việt.
Norlinger thông thạo
tiếng Pháp và là người thân Pháp trong Thế
chiến thứ nhất nên đă dễ dàng trở thành một
mục tiêu cho Pháp làm áp lực để giải thoát
các tù binh người Pháp ra khỏi Thành.
Người Pháp đă nắm lấy những “người Mỹ mới”,
thuyết phục Norlinger rằng cộng đồng thường
dân Pháp tại Hà Nội đang bị bọn Cộng sản
Việt Nam “đe doạ giết” và chỉ có việc thả
các tù binh Pháp ra để tổ chức một “lực
lượng bảo vệ chống lại cuộc tấn công của
người An Nam” th́ mới có thể cứu được họ.
Tất nhiên, luận điệu đó
chỉ là một thứ cặn nước rửa bát dể cho lợn.
Chính phủ Lâm thời đă đảm bảo với tôi rằng
sẽ tránh dùng bạo lực đối với người Pháp
bằng mọi cách, do đó không có lư do ǵ để mà
hốt hoảng, mặc dù có những sự khiêu khích
của người Pháp.
Tôi thảo luận với Norlinger về cái thế cân
bằng mong manh về chính trị, trên cơ sở đó
người Nhật và Chính phủ Việt Nam mới đang
duy tŕ một nền trật tự công cộng hết sức
bấp bênh; và tôi đă mạnh mẽ nhắc nhở ông
đừng để mắc mưu vào các vấn đề chính trị.
Ông đồng ư t́nh h́nh có
độ nhạy cao và rất dễ dàng bùng nổ, nhưng
tôi lại thấy ở ông một cảm t́nh ngầm cho
những “người Pháp - các đồng minh cũ của
chúng ta đang bị đàn áp”.
Những người Pháp có quan
hệ với ông cũng cảm nhận được điều đó và họ
đă khai thác đến cùng, để cho người Mỹ phải
trả giá. Trước
mắt, người Pháp và người Trung Quốc đang
chống đối lại phái đoàn OSS th́ nhóm của
Norlinger đă trở thành một lực lượng thứ ba
trong vấn đề gây rối. Họ đă không hài
ḷng về những điều hạn chế của tôi đối với
các hoạt động thân Pháp chống Việt Minh của
họ và trong những tháng sau khi tôi c̣n đang
phụ trách phái đoàn OSS, th́ những thủ đoạn
chia rẽ của họ mặc dù có động cơ tốt, chính
là nguồn gốc của nhiều sự trao đổi chẳng hay
ho ǵ giữa Hà Nội và Côn Minh.
MỘT NHĂN HIỆU
ĐẶC BIỆT CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Sáng thứ bảy đó, tôi và Grélecki
đi một ṿng thành phố. Hôm sau, 2
tháng 9 là ngày lễ lớn, Ngày Độc lập, khắp
nơi tưng bừng
không khí ngày hội. Ai
cũng bận rộn, hớn hở, và vội vàng nhưng
không ai tỏ ra hấp tấp.
Trước cửa nhà, trên ban
công, ngoài cổng ra vào đầy các loại cờ đỏ
hoa, đèn. Nhiều toán người hăm hở
giăng lên ngang trên đường phố, những khẩu
hiệu hô hào “Độc lập và Tự do cho Việt Nam”,
và hoan nghênh Đồng minh, đặc biệt là Mỹ.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng xe
nhường đường cho một toán
Scout(3), một đội
nữ du kích hoặc một đơn vị vũ trang vượt
qua. Giữa một vườn hoa
nhỏ, một đội quân nhạc đang biểu diễn.
Người Việt Nam hướng dẫn chúng tôi giải
thích một cách trịnh trọng: “Ngày mai Chính
phủ mới sẽ ra mắt dân chúng và chế độ của
người Pháp đă bị băi bỏ”.
Tôi hỏi ai sẽ cầm đầu
Chính phủ mới, và anh ta trả lời ngay “Hồ
Chí Minh”. Anh ta
chưa hề trông thấy ông Hồ, mà cả ảnh cũng
không. Anh cũng chẳng rơ ông ở đâu
về, ngoài việc chỉ được nghe nói Hồ Chí Minh
đă “ở ngoại quốc lâu năm” nhưng cũng không
rơ ở đâu, Tôi hỏi anh ta có biết ǵ về xu
hướng chính trị của ông Hồ. “Ồ, có chứ, ông
Hồ là Việt Minh, một đảng của nhân dân”.
Có biết Việt Minh là
Cộng sản không?
Người hướng dẫn tỏ vẻ lúng túng rồi thú thật
rằng anh ta thực sự không hiểu tôi muốn nói
ǵ về Cộng sản.
Tôi không tiếp tục câu chuyện nhưng cũng
nhận thấy ngay được rằng khi nói đến Hồ Chí
Minh, giọng anh ta đượm vẻ tự hào cứ như ông
Hồ là một người thân thuộc trong gia đ́nh
ḿnh vậy. Tôi đă
gặp hiện tượng này nhiều lần trong các tuần
lễ sống ở Hà Nội.
Trong buổi sáng, tôi cũng có dịp nói chuyện
với một số thương gia. Nói
chung, họ tỏ ra
vui mừng trước triển vọng một Chính phủ gồm
toàn người Việt, nhưng một số cũng tỏ ra vô
thưởng vô phạt, c̣n một số ít th́ hoài nghi
không biết rồi sẽ có ǵ khác trước nhiều
không. Tôi cũng thường
gợi hỏi xem họ hiểu về Việt Minh và Cộng sản
thế nào. Nhưng
chỉ có ba hoặc bốn người có thể trả lời, các
câu trả lời của họ rất lộn xộn, từ “không
tốt” đến “tuyệt vời”, “bây giờ th́ nhân dân
sẽ chăm lo mọi việc”.
Trong chiến tranh tôi đă
sống với những người kháng chiến Pháp và Ư
(trong đó có nhiều người Cộng sản).
Giống như người Pháp,
người Ư có ít nhiều không giống với các dân
tộc khác về động cơ chính trị.
Cả hai dân tộc đă đấu
tranh để lật đổ một khái niệm tư tưởng mà
Hitler và Mussolini đă đặt lên đầu họ, ngoài
ra không có ǵ khác hơn.
Khi đă đạt được mục đích
đó, cả hai nước lại chuẩn bị để quay trở lại
nguyên t́nh trạng cũ, chỉ không có khái niệm
về chủ nghĩa quốc xă hoặc phát xít mà thôi.
Tôi thấy phải chờ đợi
một t́nh huống hoàn toàn khác ở Việt Nam.
Người Việt Nam sẽ không
thoả măn chỉ với sự đánh bại chế độ phát xít
của Vichy và Tokyo.
Họ không muốn quay trở
lại t́nh trạng trước chiến tranh của họ.
Họ muốn có thay đổi.
Họ muốn đ̣i lại đất nước họ và làm cho nó tự
do và độc lập đối với sự đô hộ của bên
ngoài. Đó cũng chính là
điều tôi đă thấu hiểu được từ các nhà hoạt
động chính trị trong 6 tháng trước đây ở
Trung Quốc.
Nhưng sáng nay tôi đă không bắt gặp cái động
cơ chính trị đó trong những người dân mà tôi
có dịp nói chuyện. Họ đă
cũng không phải là người Việt Nam mà mới chỉ
hai tuần lễ trước đây đă khuấy động Hà Nội
lên để chiếm lấy chính quyền.
Không, đây chỉ là những
người dân ngụ ở thành thị, số dân đô thị đă
được liên kết vào cộng đồng người Pháp, đă
quen với sự giàu có và lối sống đầy đủ tiện
nghi. Từ những
câu trả lời rối rắm của họ, tôi kết luận họ
không phản đối thay đổi. Đúng là họ
đă không được thực là sung sướng với người
Pháp hoặc các chúa tể Nhật, v́ dù sao th́ đó
cũng vẫn là người ngoại quốc và không thể
tin cậy được. Họ cảm thấy dễ chịu hơn với
những người đồng chủng của họ, dù cho nhưng
người đó là quan lại hay “chức dịch”, miễn
họ là người Việt Nam. Nhưng rơ ràng là số
dân chúng thực sự muốn có thay đổi không
phải là trong giai cấp tư sản ở Hà Nội.
Tôi nhớ lại điều ông Hồ đă nói với tôi hồi
tháng 4 tại một gian buồng nhỏ ở biên giới
Trung Quốc: Việt Nam là một nước nông
nghiệp, 90% dân chúng sống nhờ vào ruộng
đất, họ đă bị một chế độ phong kiến và quan
lại đàn áp bóc lột dă man như đối với những
người nô lệ; do đó, giống như các nước
phương Đông, sự thay đổi kinh tế - xă hội ở
Việt Nam phải do nông dân khởi xướng và được
sự ủng hộ của công nhân.
Nhưng muốn thắng lợi, phải có sự ủng hộ hoàn
toàn của nông dân.
Trên đường về biệt thự Gauthier, ngẫm nghĩ
về điều ông Hồ nói, cuối cùng tôi đă hiểu
sâu sắc rằng: quần chúng tiến hành cuộc cách
mạng là từ ở miền thôn quê, các làng xóm và
rừng núi - họ là nông dân.
Một vị khách đă đợi tôi
tại biệt thự. Đó là ông
Bửu(4), một người
Việt Nam dáng ưu tú, có thể khoảng gần 30.
Tôi nhớ h́nh như đă
trông thấy ông ở đâu nhưng không chắc chắn.
Tôi và Bernique bắt tay
và ông tự giới thiệu là do “Bộ Nội vụ cử
tới”, nhưng phát âm tiếng Anh hoàn hảo và
giọng Oxford không che lẫn được của ông làm
tôi sửng sốt, ngạc nhiên. Ông đưa cho tôi
một thư viết tay
trên hai mặt tấm danh thiếp của Giáp: Bộ
trưởng Bộ nội vụ gửi lời chào v.v… Ông Bửu
là đại diện cho cá nhân Bộ
trưởng(5) và mong
rằng phái đoàn sẽ làm dễ dàng cho công việc
của ông.
Bửu nói mục đích cuộc đến
thăm là để báo cho tôi biết một “t́nh h́nh
nguy hiểm” đang làm cho Hồ Chủ tịch rất
không yên tâm. Đó là
việc phải đối phó với các hoạt động bí mật
của Pháp được điều khiển từ Calcutta.
Tôi đă tóm tắt câu chuyện của ông trong bản
báo cáo gửi Côn Minh.
“Đă nhận được nhiều báo
cáo của Việt Minh tại chỗ nói rằng nhiều
nhân viên của Pháp đă được thả dù xuống
nhiều nơi và đă bị Việt Minh bắt giữ coi như
tù binh chiến tranh. Người mới nhất,
đại uư Dupré Louis, có mang theo mệnh lệnh
do De Raymond kư thay cho tướng De Gaulle,
nói rằng người cầm mệnh lệnh được Chính phủ
Cộng hoà Lâm thời Pháp uỷ nhiệm hoạt động ở
Đông Dương, chỉ thị cho các nhà chức trách
dân sự và quân sự hết sức giúp đỡ… và yêu
cầu tất cả người thuộc Nhóm Kháng chiến nội
địa của Pháp mà chưa bắt được liên lạc với
một phái đoàn nào khác, th́ phải tự đặt ḿnh
dưới quyền điều khiển của ông ta và phải
tuyệt đối tuân theo chỉ thị của ông…
Nhiệm vụ là chiếm lấy
tất cả các dinh thự và công sở dân sự cũng
như quân sự, cả của tư nhân nếu cần.
Ông sẽ thay mặt Chính
phủ Cộng hoà Lâm thời Pháp để giải quyết mọi
vấn đề dân sự, hành chính và quân sự trong
ṿng được uỷ nhiệm.
Tất nhiên, ông ta sẽ từ
bỏ chức trách của ḿnh ngay sau khi có các
đại diện chính thức có thẩm quyền của Pháp
tới”.
Bửu hỏi xem tôi có được
báo cho biết về các hoạt động này của Pháp
không và cần giải thích cho ông rơ về ư đồ
của người Pháp. Tất nhiên là tôi có
biết ư đồ của người Pháp mặc dù không được
báo riêng cho biết về kế hoạch cụ thể của họ
và tôi đă bảo thẳng Bửu là đă có nhiều quan
chức cai trị dân sự được phái tới Việt Nam
trong thời gian phái đoàn chúng tôi tới Hà
Nội. Tôi giải thích thêm, dựa vào kinh
nghiệm trước đây ở châu Âu, người Pháp đă
cho xúc tiến một thời kỳ quân dân quản trong
các vùng mới được giải phóng và các toán
được thả dù xuống Việt Nam h́nh như đúng là
những nhân viên cai trị để nhằm thực hiện
công việc đó. Tôi nói thêm là đă hỏi Giáp
chung quanh vấn
đề Messmer nhưng Bửu trả lời không biết ǵ.
(Giáp cũng đă không trả
lời ǵ khác).
Qua việc cử Bửu tới, Giáp cũng ngầm cho biết
Việt Minh đă ở khắp mọi nơi, nắm được chính
xác tất cả những ǵ xảy ra ở Việt Nam, và
Chính phủ Lâm thời sẽ không ngồi yên một
cách vô tích sự trong khi người Pháp âm mưu
quay trở lại bằng vũ lực.
Tôi cảm ơn Bửu đă thông
báo tin tức nhưng cũng không để lộ ra tôi sẽ
có làm ǵ hay không.
Bửu cũng chẳng hỏi tôi
xem có hành động ǵ không, nhưng cho rằng
(rất đúng) tôi sẽ báo cho Trùng Khánh.
Thực là không may, câu chuyện của Bửu đă
chẳng mang lại được điều ǵ để làm yên ḷng
cho Sainteny. Tôi cũng
chẳng rơ được các toán người Pháp ở đâu và
hoàn cảnh của họ bị bắt giữ như thế nào.
Ông Hồ mời Gréleki và
tôi đến dự bữa cơm chiều trước ngày Độc lập.
Đúng 4 giờ 30, lần đầu
tiên chúng tôi vào cổng cuốn Bắc Bộ phủ,
trước đây là dinh của Thống sứ Pháp.
Người gác chào một cách
lịch sự và một sĩ quan trẻ tuổi dẫn chúng
tôi đến một pḥng trên tầng hai. Một
pḥng rộng, thanh nhă nhưng bày biện đơn sơ,
chỉ có một đi văng, một số ghế thông thường
và một bàn trà. Rơ ràng trái ngược với nhũng
pḥng choáng lộn của Sainteny ở dinh Toàn
quyền.
Chủ tịch Hồ, có Giám và
Giáp bên cạnh, ra đón chúng tôi một cách sốt
sắng như là đă lâu lắm không gặp nhau.
V́ rằng chúng tôi chính đă họp với nhau chỉ
2 ngày trước đây trong một ngôi nhà cũ ở phố
Hàng Ngang, nhưng đây mới thật là lần đầu
tiên gặp nhau trong khung cảnh chính thức.
Ông Hồ giới thiệu với tôi những người có mặt
khác(6) rồi cũng
đi sang pḥng bên cạnh, ở đó đă có bày sẵn
bàn ăn. Tôi ngồi bên
phải ông Hồ, c̣n Grélecki ở bên trái.
Giám ở bên phải tôi và
Giáp bên trái Grélecki, đối diện vối tôi.
Các món ăn, như thường lệ, cũng giản đơn,
ngon và theo kiểu
Việt Nam.
Người ta thấy ngay, đây
cũng là một dịp mang nhiều ngụ ư chính trị.
Ông Hồ mở đầu câu chuyện và nói rằng cuộc đi
thăm phố phường của tôi buổi sáng đă gây ra
một sự “xôn xao nho nhỏ”.
Dân chúng đă vui sướng
khi thấy tôi quan tâm đến công việc chuẩn bị
của họ cho buổi lễ ngày mai và ông cũng muốn
được nghe tôi nói về đdiều đó.
Tôi có thoả măn về những
điều đă được nghe và thấy không?
Ông tỏ ra ṭ ṃ và quan
tâm một cách nghiêm chỉnh. Không phải
ông không biết những điều đă được phát biểu
ra đâu, v́ trong số những người ṭ ṃ ở dọc
đường nhất định có nhân viên cảnh sát và
chắc rằng họ đă báo cáo lại mọi câu chuyện
đă nói. Nhưng chính là
ông muốn thấy phản ứng cá nhân của tôi v́
ông biết rằnng những phản ứng đó sẽ được
phản ảnh trong báo cáo của tôi gửi về Trung
Quốc. Để tránh
khỏi dính líu vào các vấn đề chính trị và tư
tưởng, tôi phát biểu đă có ấn tượng mạnh mẽ
đối với công tác chuẩn bị cho ngày lễ và sự
cởi mở của dân chúng mà tôi đă bắt chuyện.
Tôi ca tụng tài tổ chúc
của nhũng người điều khiển các hoạt động
ngày hôm sau và sự hân hoan của quần chúng
trong việc thực hiện các nhiệm vụ của họ.
Các vị khách tỏ ra hài ḷng và Giám đă phấn
khởi nói xen vào là mặc dù quỹ để tổ chức
buổi lễ do Thành phố đài thọ, nhưng hiện nay
th́ chính bản thân nhân dân đă bỏ tiền ra
thanh toán các chi phí để sửa sang, làm sạch
và trang trí cho thành phố.
Ông nói thêm là không
phải sử dụng đến các quỹ của Chính phủ và
thực ra th́ Chính phủ cũng chẳng có.
Ngân hàng Đông Dương và các ngân hàng phụ
thuộc vẫn c̣n nằm trong
tay người Nhật và Chính phủ Lâm thời
cũng chẳng có cách nào để có được tiền.
Tôi hỏi xem có chuẩn bị
diễu binh không.
Với một giọng chán ngán, Giáp trả lời cũng
muốn có một số đơn vị đi diễu hành, nhưng bộ
đội “vừa mới ở rừng về” không có đủ thời
gian luyện tập, nên đành phải bằng ḷng với
những đơn vị “sắp hàng đứng tại chỗ” vậy.
Ông Hồ ngắt lời và nói điều đó không hề ǵ,
bộ đội sẽ đến đó để cho dân chúng xem, và
“quân đội nhân dân” cũng có thể xem Chính
phủ của họ mới được thành lập.
Chúng tôi trở lại gian
pḥng lớn để dùng trà.
Trừ ông Hồ, Giáp, và
Giám, c̣n những người Việt khác đều rút lui,
có thể phải đi chuẩn bị cho ngày mai.
Năm người chúng tôi quay
quần lại chung quanh bàn trà trong khi ông
Hồ rót cà phê nóng của Pháp vào trong những
tách nhỏ Trung Quốc xinh xắn. Với một
giọng thân mật, ông phát biểu mời chúng tôi
dự bữa cơm trước ngày lễ Độc lập của Việt
Nam, để tỏ ḷng biết ơn của cá nhân ông và
các đồng sự của ông trong Chính phủ đối với
Mỹ về sự ủng hộ vật chất và tinh thần mà
phong trào của ông đă nhận được trong những
năm gần đây. Ông đặc biệt cảm ơn OSS(7), về
sự cộng tác từ năm 1943 và mong rằng tinh
thần “hợp tác hữu ái” đó sẽ tiếp tục phát
triển trong những năm tới. Nhớ lại sự cộng
tác trước đây của ông với người Mỹ ở Trung
Quốc và sau này tại vùng núi rừng Bắc Kư,
ông đă nhắc tới tướng Chennault, đại tá
Helliwell, tới Glass với những lời lẽ đầy
nhiệt t́nh, và tới cả các “bạn chiến đấu”
của ông, các thiếu tá Thomas và Holland cùng
với những người khác trong các toán của họ.
Trong một lúc dừng chuyện tṛ, Giám nhận xét
rằng qua Hội nghị San
Francisco( 8 ) của Liên Hợp Quốc,
người ta có thể rút ra kết luận là Mỹ đă
không hiểu thấu một cách đầy đủ về cảnh ngộ
của người Việt Nam. Ông tự hỏi không hiểu
tại sao vấn đề “thực sự” của Đông Dương lại
không được nêu lên, ngoại trừ trong những
lời lẽ nói về vai tṛ của Pháp như là một
cường quốc thực dân. Chẳng phải rơ ràng là
người Việt Nam cũng rất thiết tha với cái mà
người Mỹ đă đấu tranh cho công cuộc cách
mạng của họ, “giải phóng khỏi ách áp bức của
ngoại quốc và giành độc lập dân tộc đó
sao?”, người Mỹ “từ năm 1776 đă mở đường cho
thế giói bước vào một kỷ nguyên độc lập dân
tộc”, hơn ai hết, cần phải đánh giá được cái
điều mà người Việt Nam đang ra sức làm cho
bản thân ḿnh. Và, chắc là để nhắc nhở tôi,
ông nói thêm rằng, “ngay cả nước Ư” năm 1848
cũng đă học tập một trang lịch sử của Mỹ.
Trong khi ông Hồ gật đầu tỏ vẻ bằng ḷng,
c̣n Giáp vẫn ngồi phớt lạnh th́ Giám làm một
tràng phê phán các tội lỗi xấu xa của người
Pháp. Người Pháp đă cho họ là những “người
cách mạng” và “dân An Nam vô ơn bạc nghĩa”.
Đúng, họ là những “người cách mạng”!
Họ đă nổi dậy chống thực
dân Pháp, các chúa tể ngoại quốc bóc lột họ.
C̣n “vô ơn”, th́ họ đă chịu những
ân huệ ǵ? Phải
chăng là quyền ưu đăi được làm
lao động khổ sai,
làm những con đường đẹp đẽ dẫn đến các dinh
thự nguy nga, những đồn điền trù phú của
người Pháp…
Giáp không thể ḱm chế được nữa và nói xen
vào là Pháp đă xây dựng nhiều nhà tù hơn
trường học, nhiều trại lính hơn nhà ở cho
dân… Tất nhiên Pháp cũng
lập ra một số trường tốt cho một số ít người
Việt Nam được ưu đăi, nhưng chỉ nhằm phục vụ
cho lợi ích thực dân của họ. Nếu có
người muốn ra nước ngoài du học, họ cũng
không được tự do, ngay cả sang Pháp.
Điều nhận xét trên gợi cho tôi cảm thấy h́nh
như ông quá gay gắt và tôi có phần dè dặt
trong việc nhận định chính ông cũng đă được
sự giáo dục của Pháp, giống như Giám, Phạm
Văn Đồng, Tạ Quang Bửu và nhiều người khác
nữa; họ đều là sản phẩm của hệ thống giáo
dục Pháp. Làm sao có thể dung hoà được điều
đó với những lời kết tội của ông đối với
Pháp trong lĩnh vực giáo dục? Giáp thừa nhận
có ngoại lệ và nói rằng một vài người trong
số cộng sự của ông xuất thân từ những tầng
lớp giàu sang, nhưng phần lớn th́ không phải
thế. Số đông này thường phải chịu đựng những
điều sỉ nhục tàn tệ và sự phân biệt đối xử
trong học tập…
Ông Hồ
nói chắc chắn là tôi đă rất thông thạo về
chế độ thuộc địa của Pháp nên cũng không cần
bàn luận về dĩ văng làm ǵ, và tốt hơn hết
là nên nh́n vào tương lai.
Ông nói ư nghĩ của ḿnh về những tháng sắp
tới sẽ có tính chất quyết định cho Việt Nam,
v́ vậy người Việt Nam có nhiệm vụ phải biểu
thị cho các nước Đồng minh biết ḷng tin
tưởng sắt đá và quyết tâm không ǵ lay
chuyển nổi để tự giải thoát ḿnh khỏi “mọi
sự cai trị của bên ngoài dù cho đó là người
Pháp, Nhật, Trung Quốc hay bất kỳ ai”, và
nhân dân Việt Nam đă đạt tới một “tŕnh độ
trung thành về chính trị” cho phép họ có
quyền được quản lư lấy ḿnh. Ông Hồ luôn
luôn nhắc tới “14 điểm” của Wilson và Hiến
chương Đại Tây Dương, và ông trích dẫn lời
hứa hẹn riêng cho Việt Nam của Mỹ.
Tiếp đó, ông nêu lên những lời đặt điều xung
quanh vấn đề xu hướng chính trị của ông, và
tôi chăm chú nghe. Ông nói có được biết
nhiều về những lời buộc tội của Pháp, Anh,
Trung Quốc cho ông là một “tay sai Xô viết”
và Việt Minh là sự bành trướng của “bộ máy
Moskva ở Đông Nam Á”.
Nhưng Mỹ, dưới “sự lănh đạo sáng suốt của
Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, đă công nhận
quyền của tất cả các đảng phái được cùng tồn
tại sẽ không bận tâm ǵ về cái nhăn hiệu
Cộng sản được người ra gắn cho phong trào
của ông. Ông Hồ
giữ vững quan điểm là trong lúc đặc biệt
này, Việt Minh là một “phong trào dân tộc,
bao gồm một cách dân chủ tất cả các đảng
phái cách mạng Việt Nam”.
Tất nhiên, ông công
nhận, Đảng Cộng sản Đông Dương là một nhân
tố lănh đạo trong phong trào giành độc lập
dân tộc, nhưng các đảng viên của họ “trước
hết phải là người dân tộc chủ nghĩa, sau đó
mới là đảng viên của đảng”.
Giáp, thường khó mà im lặng được lâu, đă
phát biểu một điều khá bất ngờ “Việt Minh đă
làm theo kỹ thuật và chiến thuật tổ chúc của
Cộng sản để lập ra các đảng chính trị khác
nhau nhằm đấu tranh cho một nền độc lập
trong một trật tự xă hội giống như chủ nghĩa
Cộng sản, nhưng không phải v́ thế mà nó có ư
định thay thế một cường quốc bên ngoài khác
vào chỗ của người Pháp của Việt Nam”.
Tôi đă có ư muốn hỏi
ngay xem ông có ư gồm Liên Xô vào lúc đó
không, nhưng cảm thấy khiếm nhă và vô vị,
nên thôi. Giáp
không phải chỉ là một người Cộng sản mà c̣n
là một người Việt Nam trung thực và thẳng
thắn.
Ông Hồ tiếp tục nói, riêng ông muốn Mỹ biết
các yêu cầu của ông cho nhân dân Việt Nam
rất “nhỏ nhặt và giản đơn”. Họ muốn có một
nền “độc lập hạn chế”, không có sự
cai trị của Pháp,
có quyền sống tự do trong gia đ́nh các nước.
Ở đây có một sự thay đổi
trong đường lối cứng rắn của đảng.
Việc ông Hồ nói tới một nền độc lập “hạn
chế” chứ không phải hoàn toàn, gợi cho thấy
trong suy nghĩ của ông có điều nghi ngờ
không biết có thể đạt được mục tiêu cuối
cùng ngay trong ṿng đầu này không.
Có thể ông cũng đang
muốn thoả hiệp với người Pháp, hay cũng có
khả năng với người Trung Quốc.
Tôi phân vân và chỉ biết
nghe.
Ông Hồ nói tiếp, dân chúng Việt Nam khao
khát được đi tham quan các nước ngoài, “đặc
biệt là sang Mỹ, như tôi đă làm từ lâu”. Họ
mong đợi đến ngày mà nước Pháp không c̣n chỉ
là nơi duy nhất để học tập, ngày mà học vấn
không chỉ hạn chế trong một số người được ưu
đăi, ngày mà các sinh viên cũng có thể tới
học tập tại nước Mỹ.
Ông Hồ muốn được các chuyên gia kỹ thuật Mỹ
giúp thiết lập một số công nghiệp mà Việt
Nam có khả năng đảm đương được.
Thấy Giám muốn nói, ông
Hồ dừng lại. Theo quan điểm của Giám
th́ Việt Nam cần và muốn trước hết là quyền
tự do buôn bán, các cảng tự do, và vốn của
nước ngoài - ngay cả vốn của Pháp, mặc dù
ông không tin rằng Pháp có khả năng cung cấp
được. Theo ư kiến ông, điều mong muốn trước
hết là vốn của Mỹ và việc buôn bán với Mỹ,
và khi Việt Nam đă có diều kiện, sẽ mở mang
các sân bay và bến tàu để có thể tiếp nhận
hàng hoá của Mỹ một cách điều hoà(9).
Giám tiếp tục nói dài về
vấn đề này, về tương lai của Việt Nam.
Ông Hồ nêu ngay lên một
vấn đề hết sức cấp bách, t́nh h́nh nguy ngập
về lương thực.
Ông nói về nạn đói khủng khiếp năm 1944.
T́nh h́nh lương thực năm
nay cũng không khá hơn v́ mưa lớn và lụt
lội. Thực tế th́ số thóc dự trữ để
làm giống cho vụ sau cũng đă mang ra
ăn hết.
T́nh h́nh lương thực
“vào đúng lúc này đă cực kỳ nguy hiểm”.
Nếu như quân chiếm đóng
Trung Quốc định tiếp tế bằng thị trường địa
phương tại chỗ, th́ “mọi người sẽ chết đói”.
Những báo cáo mới nhất
từ phía bắc gửi về cho ông Hồ đă chỉ ra rằng
quân đội Vân Nam “vô kỷ luật và không ai
kiểm soát được”.
Và ông Hồ e rằng họ tiến về Hà Nội và Huế
th́ t́nh h́nh lương thực ở đó đă khó khăn sẽ
trở thành không sao chịu nổi. Do đó
ông nói tôi cần phải kêu gọi sự chú ư của
Chính phủ Mỹ cho tiến hành kiểm tra đối với
quân chiếm đóng Trung Quốc và yêu cầu người
Trung Quốc mua bán chứ đừng trưng thu các
vật phẩm và lương thực trong thời gian họ
chiếm đóng “để tránh gây ra” t́nh h́nh người
Việt Nam bắt buộc phải tiến hành chiến tranh
đối với người Trung Quốc để bảo vệ cuộc sống
và gia đ́nh họ. Tôi đồng
ư chuyển lời yêu cầu của ông.
Đến 7 giờ 30, chúng tôi
cho là đă đến lúc phải cáo lui v́ ngày hôm
sau là một ngày nặng nhọc.
Ở cầu thang, Giáp nói
riêng với tôi về những mưu toan xâm nhập của
Pháp bằng cách thả dù một số “viên chức cao
cấp”. Tôi hỏi có
phải những người mà Bửu đă nói với tôi hôm
trước không.
“Phải”, ông trả lời và nói thêm là cũng có
những người khác nữa.
Ông nhắc tới “thiếu tá
Messmer từ Calcutta tới” cùng với 2 nhân
viên khác thuộc toán của ông.
Đến thứ hai, Bửu sẽ mang
tới cho tôi một bản báo cáo đầy đủ.
Giáp lắc đầu và b́nh: “Không biết đến bao
giờ họ mới hiểu được rằng họ không được hoan
nghênh ở Việt Nam, trong t́nh huống hiện
nay?”.
Chú thích
(1) Ban t́nh báo
(2) S.L. Norlinger, đại tá, thuộc G-5, Bộ
tham mưu chiến trường, cầm đầu đơn vị cứu tế
xă hội đối với tù b́nh Đồng minh ở Hà Nội.
(3) Hướng đạo sinh
(4) tức Tạ Quang Bửu, một nhà chính trị độc
lập
(5) tức Vơ Nguyên Giáp
(6) Tôi không nhớ được tên 3 trong 4 người
đă đến.
(7) tức muốn nói về những cố gắng của OSS
Trùng Khánh trong những năm 1943-1944 để xin
thả ông ra khỏi nhà tù của Trương Phát Khuê
( 8 ) tức Hội nghị Liên Hợp Quốc từ 25-4 đến
26-6-1945.
(9) Câu chuyện được các nhà viết sử
(Devillers, B. Fall…) nhắc lại nhiều lần là
cả ông Hồ và tôi đă thảo luận về các nhân
nhượng kinh tế sau chiến tranh hoặc sự điều
đ́nh để đồi lấy việc Mỹ bào đảm nền độc lập
của Việt Nam và những câu chuyện đồn đại ra
ngoài phạm vi của vấn đề, đều là bịa đặt do
các nhà văn Pháp đặt ra, giống như bài của
Dessinger đăng trong Le Monde ngày
14-4-1947.
Chương 26
Ngày lễ
Độc lập
TÔI NÓI ĐỒNG BÀO NGHE RƠ
KHÔNG?
Ngày chủ nhật đầu tiên trong tháng 9 là
ngày lễ các Thánh tử v́ đạo của riêng hơn một triệu
dân Thiên chúa giáo ở Bắc Việt
Nam(1). Có thể cũng chỉ
là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà ông Hồ đă chọn
ngày đó làm Ngày lễ Độc lập.
Tại các nhà thờ Thiên chúa giáo,
cũng như các chùa Phật giáo, buổi lễ vẫn tiến hành
long trọng, các bài thuyết pháp có thêm những ư
chính trị ủng hộ chính phủ mới thành lập và nền độc
lập của Việt Nam.
Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như các bầy ong,
từng đoàn lúc lớn lúc nhỏ, lũ
lượt dần dần kéo đến cạnh quảng trường Ba Đ́nh.
Ở nhiều chỗ là cả một khối dân chúng các làng ngoại
ô. Đi theo trong biển
người đó, có cả toán dân miền núi với y phục địa
phương của họ và nông dân trong những bộ khăn áo cổ
truyền.
Giữa các khối khác nhau, người
ta dễ dàng nhận ra các tổ chức của công nhân, sơ mi
trắng, quần dài hoặc quần soóc trắng hoặc xanh.
Phụ nữ mặc áo dài trắng hay màu sáng,
tay khoác nón.
Cho đến tận trưa, cả toán OSS chúng tôi lăn lộn ở
ngoài phố, chụp ảnh, ghi chép về các nhóm người, các
sự kiện, các khẩu hiệu, biểu ngữ, áp phích… Có nhiều
khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, Anh, một số bằng tiếng
Việt Nam: “Việt Nam của người Việt Nam”, “Hoan
nghênh Đồng minh”, “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”, “Thà
chết, không nô lệ”…
Khoảng trưa, Knapp, Bernique,
Grelecki và tôi đi về phía quảng trường Ba Đ́nh.
Tôi đă quyết định từ chối lời mời của ông Hồ đến khu
vực lễ đài dành cho quan khách, để đi xem buổi lễ
chỉ như một người quan sát trong quần chúng.
Chúng tôi chọn được một điểm
thuận lợi ngay trước lễ đài giữa đám viên chức địa
phương.
Trong khi chờ đợi ông Hồ và các quan chức tuỳ tùng
tới, tôi nh́n thấy một toán cố đạo Thiên chúa giáo
mặc áo thầy tu trắng và xanh den, có cả các chức sắc
mang khăn quàng và giải viền đỏ.
… Cách họ không xa, là các nhà sư Phật giáo khoác áo
cà sa màu da cam, rồi đến
các chức sắc Cao Đài, áo dài trắng có tua và khăn
quàng sặc sỡ.
Đội danh dự và công tác bảo vệ
được giao cho bộ đội của Giáp và Chu Văn Tấn, lực
lượng được huấn luyện, trang bị, có kỷ luật nhất của
họ. Mũ bấc, đồng phục kaki, quần soóc, tất
cao, họ trưng bày các vũ khí mới một cách hănh diện,
lúc trong tư thế “đứng nghiêm”, lúc “nghỉ” Ở đó c̣n
có các đơn vị “tự vệ”, dân quân mặc áo lẫn lộn quần
áo nhà binh Pháp hoặc Nhật hoặc quần áo ngắn xanh
hay đen, mang theo một loạt các vũ khí cũng lộn xộn,
từ súng kíp, gươm, dao rùa, mă tấu có cán gỗ dài và
cả gậy tày… Có thứ h́nh như họ
mới lấy từ các đ́nh, chùa ở làng ra. Tất cả
dựng lên một cảnh tượng sinh động và kinh
hoàng(2).
Mặt trời đă lên cao.
Không khí oi bức. Nhưng
đôi lúc cũng có cơn gió nhẹ thổi làm phất phới cả
cái biển cờ trên quảng trường.
Cao trên cột trước lễ đài, lá cờ đỏ với ngôi sao
vàng lớn phấp phới bay.
Bất chợt có tiếng c̣i và các
hiệu lệnh quân sự phát ra từ các đội h́nh.
Đội danh dự và các đơn vị bộ đội đứng thẳng và chăm
chú theo dơi có người đă
bắt đầu xuất hiện trên lễ đài. Mấy phút sau, nổi lên
tiếng hô “bồng súng, chào”, quần chúng bỗng im lặng
trong khi các vị chức quyền t́m chỗ đứng vào đằng
sau cái bao lơn được trang trí bằng màu trắng và đỏ.
Trên lễ đài, mọi người đều bận
đồ trắng, thắt cà vạt và để đầu trần, trừ một người
nhỏ nhắn, mặc áo kaki màu sẫm và có cái ǵ như là
cái khăn trùm đầu - đó là Hồ Chí Minh.
Lê Xuân, nguyên là người liên lạc của chúng tôi, đă
đến và sẵn sàng b́nh luận, nhận xét.
Anh ta cũng đă đi một ṿng và
cho rằng quần chúng hết sức ṭ ṃ và quan tâm đến vị
lănh đạo “mới” của Chính phủ.
Mọi người đều muốn biết “ông Hồ
Chí Minh bí ẩn” này là ai?
Ông ở đâu về?
Nhưng không phải chỉ có người
Việt Nam mới không quen thuộc với cái tên đó đâu.
Ngay cả đến cơ quan Bộ Ngoại
giao chúng ta ở Côn Minh và Trùng Khánh cũng không
biết ǵ về vấn đề này, mặc dù là đă có nhiều báo cáo
cụ thể của tôi. Một tháng
sau, khi đọc một công văn của Sprouse, lănh sự ở Côn
Minh, tôi ngạc nhiên thấy c̣n nói đến “Ho Chi Minh”.
Lúc đó ai cũng nghĩ rằng đă biết tên thật của ông Hồ.
Một tiếng trong loa phóng thanh nổi lên phá vỡ sự im
lặng, giới thiệu “ông Hồ là người giải phóng, vị cứu
tinh của dân tộc”. Quần chúng
được hướng dẫn của các đảng viên, lên tiếng hát và
trong mấy phút liền hô vang “Độc lập”. Ông Hồ
ngồi yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm cỡ, nhưng
vĩ đại trong sự hoan hô
của nhân dân ông. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt
đầu đọc bản Tuyên ngôn, nay thành nổi tiếng của ông
với những lời:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng.
Tạo hoá cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”.
Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: “Tôi nói
đồng bào nghe rơ không?”.
Quần chúng hô vang đáp lại: “Rơ!”.
Thực là một nghệ thuật diễn
thuyết bậc thầy. Từ lúc
đó, quần chúng lắng nghe, nắm lấy từng lời.
Chúng tôi không hiểu ông Hồ đă
nói ǵ. Lê Xuân phải cố
gắng lắm để dịch nhưng cũng rất khó khăn.
Nhưng cứ nghe giọng nói của ông Hồ, b́nh tĩnh và rơ
ràng, ấm cúng và thân mật, và nghe thấy được quần
chúng trả lời th́ chúng tôi không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa là ông đă thấu tới quần chúng.
Ông Hồ tiếp tục:
“Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm
1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là:
tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
Sau đó, quay về bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp
năm 1791, nói về quyền con người và quyền công dân,
ông Hồ nói:
“Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do
và b́nh đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự
do và b́nh đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải
không ai chối căi được”(3).
Đến khoảng 2 giờ, ông Hồ kết
thúc bản Tuyên ngôn. Tiếp
sau đó là Vơ Nguyên Giáp nói về vai tṛ của Việt
Minh, nhấn mạnh vào công tác của Đảng trong lĩnh vực
chính trị - quân sự, phát triển kinh tế xă hội,
chương tŕnh giáo dục và văn hoá.
Trong các vấn đề quan hệ đối
ngoại, Giáp đă vạch ra rằng Mỹ và Trung Quốc là
những đồng minh đặc biệt và liên tục ủng hộ đấu
tranh giành độc lập của Việt Nam.
Điều thú vị là không thấy nói ǵ
đến Liên Xô. Tôi không bao giờ bỏ không ghi
những lời Giáp nói, nhưng sáng ngày hôm sau, báo chí
Hà Nội lạl đăng tin Giáp đă phát biểu “Mỹ đă góp
phần lớn nhất cho sự nghiệp giải phóng của Việt Nam
và đă cùng với nhân dân Việt Nam đấu tranh chống
phát xít Nhật, v́ thế Cộng hoà Mỹ vĩ đại là một đồng
minh tốt của chúng ta”.
Sau bài diễn văn, các Bộ trưởng
mới được chỉ định, từng người một được giới thiệu ra
mắt nhân dân. Buổi lễ kết
thúc bằng việc các Bộ trưởng tuyên bố nguyện trung
thành và triệt để ủng hộ Chính phủ Dân chủ Lâm thời
Việt Nam.
Măi đến tận khuya hôm đó, báo
chí địa phương mới cung cấp cho chúng tôi một bản
nguyên văn lời tuyên bố của ông Hồ; chúng tôi dịch
và chuyển ngay bằng điện đài cho Côn Minh.
Tôi cũng gửi kèm theo
bằng đường hàng không bài tường thuật và nhận định
của tôi…
Sau khi các phần thủ tục kết
thúc, chúng tôi cũng phải mất đến 30 phút mới t́m
đường ra khỏi được nơi tập trung.
Nhờ đi tắt qua khu vực Thành
được dành riêng, tránh được những phố đầy người, nên
chúng tôi trở về nhà Gauthier đúng vào giờ cơm
chiều. Tôi đă mời tất cả các người Mỹ ở Hà
Nội đến cơ quan của OSS để tham dự ngày lễ “14-7”
lặng lẽ và không pháo hoa của người Việt Nam. Để đề
pḥng những chuyện xung đột có thể xảy ra giữa những
người Việt Nam vui mừng hớn hở và người Pháp tuyệt
vọng, và để giữ cho người Mỹ tránh khỏi các cuộc hỗn
loạn, tôi đă yêu cầu đại tá Nordlinger và đại uư
Mekay, thủ trưởng toán AGAS cùng với cả nhóm đến ăn
cơm cùng với chúng tôi…
MỘT NGÀY CHỦ NHẬT ĐEN TỐI Ở SÀI G̉N
Mọi việc trôi chảy
cho đến 9 giờ tối th́ tôi nhận được một bức
thư của Imai báo ở Sài
G̣n xảy ra rối loạn nghiêm trọng. Ngày Độc lập ở Hà
Nội đă biểu thị cho ḷng tự hào dân tộc, danh dự của
địa phương, và một sự biết kiềm chế đáng khen, nhưng
tại Sài G̣n th́ bạo lực và chết chóc đă kéo dài thêm
danh sách những người “Việt Nam hy sinh”. Theo báo
cáo của Imai th́ những người lănh đạo Việt Minh ở
Sài G̣n, hoặc các chỉ thị của Hà Nội hoặc muốn biểu
thị một sự đoàn kết với Hà Nội, đă tổ chức một cuộc
biểu t́nh khổng lồ nhân Ngày Độc lập.
Những người tổ chức đă mất nhiều
công sức để duy tŕ trật tự và tránh các cuộc xô xát
với người Pháp. Người ta đă nói với dân chúng
rằng các người đại diện Anh và Mỹ sẽ đến Sài G̣n vào
ngày hôm ấy(4) và đó cũng là một dịp rất tốt cho
người Việt Nam để biểu thị một cách hoà b́nh, trong
trật tự sự thống nhất dân tộc trước các nước Đồng
minh. Nhưng các lănh tụ Việt Minh đă kinh ngạc khi
thấy trong đám quần chúng khoảng 20 vạn người đi
diễu hành dọc phố Catinat, các đảng phái chính trị
hợp thành liên minh miền Nam, đă trương lên những
biểu ngữ, bích trương đầy tính chất tranh giành chia
rẽ đảng phái.
Khi những người biểu t́nh tiến đến trước cửa Nhà thờ
Lớn th́ nghe có tiếng súng nổ từ phía nhà Câu lạc bộ
Pháp ở phố Norodom. Cha Tricoire, một giáo sĩ Thiên
chúa giáo trong nhà thờ của trại giam và rất được
người Việt mến đă bị bắn gục trong khi đang đứng
trên bậc cửa nhà thờ. Nghe nói
ông bị thương nặng và nằm gục ở đó nhiều giờ.
Tin đồn người Pháp tấn công lan
ra hết sức nhanh chóng và tiếp đó là sự hoảng sợ.
Không điều tra xem nguồn phát súng ở đâu, cảnh sát
Việt Nam đă có bắt ngay hàng trăm người Âu và những
người thân Pháp. Bọn lưu manh
địa phương nắm ngay lấy cơ hội lộn xộn, xông vào một
số nhà và cửa hàng người Pháp và Hoa, cướp đi mọi
thứ mà chúng có thể mang được.
Cuộc biểu t́nh có trật tự đă
biến thành một sự điên loạn của quần chúng, nghi ngờ
lẫn nhau, đưa đến cho đất nước mới sinh một tương
lai chính trị không chắc chắn.
Những tin tức mà Hà Nội nhận được qua đài phát thanh
Delhi đă khơi cho t́nh h́nh bùng cháy to lên. Tin
nói về việc tướng Mac Arthur (trong buổi tiếp nhận
Nhật đầu hàng trên chiến hạm Missouri sáng hôm đó)
đă khuyến khích đại diện Pháp, tướng Leclerc, sử
dụng ảnh hưởng của ḿnh đối với Chính phủ Paris để
gửi quân đội sang chiến trường Thái B́nh Dương. Ở Hà
Nội người ta được tin rằng, sau khi kư hiệp ước, Mac
Arthur đă kéo Leclerc ra một chỗ và nói “Nếu tôi cần
phải khuyên ông th́ tôi sẽ nói với ông đưa quân tới,
nhiều quân hơn nữa, theo khả năng cao nhất của ông”.
Lời của Leclerc trên đài Delhi
cộng thêm với sự rối loạn ở Sài G̣n đă nâng niềm hy
vọng của người Pháp ở Hà Nội lên điểm cao mới.
Quá tin vào một cuộc quay trở lại của quân đội Pháp
đang giơ cao ngọn cờ tam tài có Đồng minh hỗ trợ, họ
cho là tin tức đă báo hiệu một sự sụp đổ nhanh chóng
của Việt Minh.
Một giờ sau, Imai tới để báo cho
tôi thêm những tin nhận được từ Bộ ch́ huy tối cao
Nhật và cho biết câu chuyện của Leclerc đă khuấy
động xôn xao và gây gổ nhỏ ở trong Thành.
Nhưng Bộ tư lệnh Nhật vẫn nắm
chắc được t́nh h́nh. Trong mấy tuần trước,
tướng Mordant, “lănh tụ” của những người “kháng
chiến” theo De Gaulle(5) và cũng là một tù binh
trong Thành, đă định làm một cuộc nổi dậy, hy vọng
để mở màn cho việc quân đội dưới quyền của Leclerc
quay trở lại. Chúng tôi đă có tin nhóm Mordant cất
những kho lớn vũ khí và đạn dược tại các nhà và cửa
hàng của người Pháp, chuẩn bị sẵn sàng cho lúc nổi
dậy.
Nhưng không phải chỉ có riêng tôi biết được kế hoạch
của Mordant: Giáp cũng có những nguồn tin của ông.
Như mọi lần, tin của ông bao giờ
cũng chính xác hơn của tôi.
Ông biết rơ người Pháp đă cất
dấu vũ khí ở đâu và tên tuổi của các người lănh đạo.
Cũng c̣n nguy cơ thực sự là một số Việt Minh nóng
đầu nào đó có thể tự động “thủ tiêu” số tù binh Pháp
ở trong Thành cùng với những lănh tụ Pháp ở bên
ngoài mà người ta đă biết. Tôi
trao đổi những mối lo lắng của tôi với Giáp và Imai,
tất nhiên là với riêng từng người.
Cả hai đều đảm bảo với tôi rằng
đă có những biện pháp đề pḥng cẩn thận, ít nhất
cũng cho tới khi các lực lượng Đồng minh tới.
Nhưng các sự kiện xảy ra ở Sài
G̣n đă cho thấy t́nh h́nh dễ bùng cháy đến chừng
nào. Rốt cuộc không có ai là thủ phạm của
phát súng đầu tiên - Người Pháp bị kết tội không có
chứng cớ, một số kẻ hiếu chiến trong phong trào liên
minh Việt Nam cảm thấy bị lợi dụng, chính người Nhật
hay những người thân Nhật, hay đơn giản chỉ là một
người mất trí. Ai mà biết được?
Tôi thực sự không muốn những
chuyện tương tự xảy ra ở Hà Nội.
Các rối loạn ở Sài G̣n, sự náo động trong người Pháp
tại Hà Nội, và lời công bố khiêu khích của Leclerc,
cộng với báo cáo của Bửu và mối lo lắng của Giáp
xung quanh vụ xâm nhập bí mật của một số quan chức
“cao cấp” Pháp, đ̣i hỏi chính sách Mỹ đối với Pháp
phải được làm sáng tỏ rơ ràng. Đêm đó tôi đă điện
báo cho Helliwell biết sự quan tâm của tôi đối với
t́nh h́nh náo động ở bên ngoài và t́nh h́nh
an ninh của chúng tôi.
Tôi nói nhiều về nguy cơ hai mặt
ở trong Thành và yêu cầu cho phép được thực hiện các
biện pháp đề pḥng đặc biệt. Tôi khuyên phải
ngăn ngừa việc thả sớm các tù binh Pháp đang chờ hồi
hương v́ sợ rằng, được thả ra, họ sẽ xúc tiến thực
hiện các kế hoạch “kháng chiến” của Mordant và sẽ
làm nổ ra cuộc xung đột trong thường dân. Đồng thời
tôi muốn gia tăng bảo vệ cho các quân nhân cũng như
các thường dân Pháp trong trường hợp người Việt trả
thù lại đối với sự việc đă xảy ra ở Sài G̣n hay khi
họ thấy bị đe doạ v́ quân đội Pháp quay trở lại. Đó
là những vấn đề sinh tử nhưng lại không thuộc phạm
vi nhiệm vụ của tôi và phải được giải quyết ở cấp
Chiến trường, v́ vậy tôi đề nghị phải có một cuộc
họp bàn ở Côn Minh vào ngày 5-9.
Quá nửa đêm, sự vật mới trở lại
yên ắng trong ngôi nhà Gauthier. Nhưng đèn
vẫn c̣n cháy sáng cho tới rạng đông trong mái nhà cũ
ở phố Hàng Ngang, trong căn buồng của Pháp tại dinh
Toàn quyền, và trong nhà một số lănh tụ chính trị
Pháp và Việt Nam. Đó quả là một
đêm không dễ dàng ở Hà Nội.
Chú thích
(1) Người Thiên chúa giáo ở Bắc Việt Nam
có khoảng chừng hơn 1 triệu. Dấu
hiệu tính chất quần chúng của ông Hồ thể hiện trong
lời kêu gọi của ông đối với các dân tộc thiểu số
Việt Nam, trong đó có nhiều nhóm tôn giáo khác nhau.
Người ta đồn rằng, năm 1945, ông Hồ v́ kính trọng
đối với Thiên chúa giáoViệt Nam nên đă cử một người
Công giáo nổi tiếng là Nguyễn Mạnh Hà làm Bộ trưởng
Kinh tế trong chính phủ đầu tiên của ông.
Thiên chúa giáo Việt Nam đă ủng
hộ chủ nghĩa Quốc gia của ông Hồ cho đến tháng
12-1946, khi bắt đầu nổ ra cuộc kháng chiến chống
Pháp. Trước đó, vào tháng 3-1946, Giám mục Lê
Hữu Từ, vùng Phát Diệm, đă được cử làm Cố vấn Tối
cao thay cho Bảo Đại đă bỏ trốn sang Hongkong.
(2) Ước lượng khoảng 50 đến 60 vạn người,
theo không ảnh của Mỹ
chụp ngày hôm đó.
(3) Đây là một bản dịch lời của ông Hồ do một phiên
dịch Việt Nam thông thạo tiếng Anh, có được nghe tại
chỗ.
(4) Điều này có liên quan đến toán OSS - AGAS dưới
quyền trung uư Mỹ, R. Counasse ngày 2-9 được đưa đến
sân bay Sài G̣n để giải phóng các tù binh Đồng minh,
trong đó có 214 người Mỹ.
(5) Trong bản tướng thuật này, vẫn giữ lại danh từ
“kháng chiến” mà người Pháp đă dùng. Nhưng cũng cần
nói rơ là từ khi đă có ngừng chiến với Nhật th́ hoạt
động của Pháp chỉ là nhằm mục đích đánh đổ Chính phủ
Lâm thời Việt Nam
Chương 27
Hậu
quả của ngày chủ nhật đen tối
NHỮNG SUY ĐOÁN
Sáng sớm ngày
thứ Hai, Hà Nội nhận được các báo cáo thiệt hại
đầu tiên qua đài phát thanh Sài G̣n.
Từ các nguồn không được xác nhận,
tung ra tin một cuộc
“thảm sát lớn” đă xảy ra trong “ngày chủ nhật
đen tối” ở khu vực Sài G̣n - Chợ Lớn, có tới
“một trăm người chết - hàng ngàn người bị
thương”. Nhưng theo tài liệu chính thức ngày hôm
sau th́: 3 người Pháp, cộng với Cha Tricoire, và
14 bốn người Việt chết, trong đó có một em gái
nhỏ. Cuộc “thảm sát” là như thế đó.
Các câu chuyện xuyên tạc mới và những tin đồn
dại lan nhanh ở Hà
Nội. Và trong người Pháp
người ta nghe thấy những lời bàn tán độc ác về
một cuộc trả thù đối với người “An Nam”.
Cũng có những sự ức đoán vô căn cứ rằng cảnh sát
Việt Minh phối hợp với Hiến binh Nhật đang chuẩn
bị một cuộc vây ráp để bắt những người Pháp
kháng chiến đă lộ mặt.
Tôi hỏi lại tướng Tsuchihashi, ông cũng nhận
được tin về những hoạt động của Pháp, nhưng
theo chỗ ông biết th́
không có một hành động bạo lực công khai nào xảy
ra và ông cũng không nhận được yêu cầu giúp đỡ
từ phía những người cảnh sát Việt Nam.
Sài G̣n cũng báo cho ông
biết số thiệt hại là 5 người chết, hàng tá người
bị thương và một số vụ cướp bóc. Bản
doanh thống chế Terauchi(1)
cho biết cảnh sát Sài G̣n đă bắt giữ độ 200
người Pháp, đă lộ mặt là “những kẻ gây rối”.
Sau khi trao đổi về phương hướng hoạt động, tôi
nêu lại lời căn dặn nhắc nhở trước đây là vấn đề
duy tŕ trật tự công cộng vẫn thuộc trách nhiệm
của ông ta và nói thêm, mặc dù tôi không có
quyền ra lệnh cho các chỉ huy Nhật ở phía Nam vĩ
tuyến 16, họ vẫn có trách nhiệm trong khu vực đó
giống như ở đây, cho tới khi lực lượng của Anh
tới. Tới đây, Tsuchihashi
gợi ư là tốt hơn hết, cả hai chúng tôi nên thảo
luận t́nh h́nh với Hồ Chí Minh. Trong khi
đó, trong chừng mực có thể ông sẽ chuyển ư kiến
của tôi cho Bộ chỉ huy Tập đoàn quân Nam và đảm
bảo với tôi rằng quân đội của ông ở phía Bắc sẽ
làm mọi cách để bảo vệ tính mạng và tài sản của
người Âu và Việt Nam.
Từ Hành dinh của Tsuchihashi
tôi đi thẳng tới Bắc Bộ phủ.
Ông Hồ tiếp tôi ngay và
chúng tôi nhận định về t́nh h́nh ở Sài G̣n và
các ảnh hưởng có thể của nó tới toàn quốc.
Ông Hồ cung cấp thêm một số
chi tiết về Sài G̣n nhưng không có ǵ quan
trọng, trong khi một số nhân viên tham mưu thân
cận của ông tới.
Trong số đó có Trần Huy Liệu, Bộ trưởng tuyên
truyền và Giáp. Theo
gợi ư của ông Hồ, Liệu nói lại cho tôi nghe ư
kiến của ông về sự việc đă xảy ra.
Theo Liệu, từ hội nghị ngày 13 - 16 tháng 8 ở
Tân Trào, tất cả các đại biểu đă thông suốt và
thống nhất ư kiến là cuộc cách mạng sẽ “dân
chủ”, cố gắng hết sức tránh không dùng bạo lực
và lập ra một mặt trận thống nhất và có kỷ luật
của tất cả các đảng phái chính trị đấu tranh cho
độc lập để ra mắt với Đồng minh. T́nh h́nh đó đă
thực hiện được ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng “một
số đồng bào miền Nam” đă không thấy hết sự quan
trọng của việc phải duy tŕ “trật tự xă hội và
kinh tế”, đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp
này.
Liệu có ư nói đến tính chất
mờ ám của một số phần tử chính trị ở Nam Kỳ và
Kampuchia, đặc biệt là các nhóm Quốc gia không
Cộng sản. Ông đă đưa
ra một thí dụ, đó là “bọn cướp” B́nh Xuyên.
Tôi không biết, nên hỏi cho
rơ thêm. Nhóm này được mô tả do một tướng
cướp nổi tiếng là Bảy Viễn chỉ huy, hoạt động từ
làng B́nh Xuyên trong vùng lầy phía nam Chợ Lớn,
có khoảng từ 500 đến 1.000 tên cướp, thường đánh
phá cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn và các nhà
giàu Pháp ở ngoại ô Sài G̣n. Có tin Bảy Viễn đă
đi theo với bọn Phục
Quốc sau cú 9-3, nhưng chỉ nhằm để xoay tiền và
tranh thủ được công nhận công khai hoạt động.
Tôi hỏi xem có phải cuộc rối loạn hôm trước là
do Bảy Viễn gây ra không. Có
người trả lời “h́nh như không phải”.
Bọn B́nh Xuyên đến sau, thủ
phạm chính là người Pháp. Sau đó, người
ta giải thích thêm là các phần tử khác cũng có
nhiều lư do cụ thể để gây rối trật tự và đặc
biệt là để làm mất uy tín của Việt Minh mà chính
sách ôn hoà đă làm cho họ không đồng t́nh. Nhóm
Troskism đang kiểm soát ngành cảnh sát là một
trong số những phần tử đó, ngoài ra c̣n có nhóm
chính trị tôn giáo Cao Đài và Hoà Hảo, cũng ác
cảm đối với Việt Minh.
Thấy tôi lúng túng trong
việc phân biệt Việt Minh và mục tiêu của những
người Troskism. Liệu giảng giải là cả hai
về căn bản đều thống nhất với khái niệm độc lập
dân tộc, nhưng đối lập nhau hoàn toàn trong việc
xác định các ưu tiên để hoàn thành giai đoạn
“dân chủ - xă hội chủ nghĩa”.
Nhóm Troskism chủ trương vũ
trang quần chúng, xoá bỏ mọi tàn dư của nền
thống trị ngoại quốc, chống lại các cố gắng của
Đồng minh nhằm phục hồi chủ quyền của Pháp và
cho thi hành ngay các cải cách xă hội.
C̣n Việt Minh th́ ít cực đoan hơn, vẫn ít nhiều
chấp nhận cơ cấu chính quyền cũ, và sẵn sàng
thương lượng với Đồng minh. Việt Minh ủng hộ một
sự chuyển tiếp từng bước - từ chế độ dân chủ
cộng hoà sang xă hội chủ nghĩa tiến bộ rồi chủ
nghĩa cộng sản, v́ thế tránh được va chạm của
một sự thay đổi đột ngột về kinh tế xă hội và
cuộc đấu tranh giai cấp gắn liền với nó.
Nhũng sự khác biệt này phản
ảnh chủ nghĩa thực dụng của Hồ Chí Minh.
Dưới ánh sáng một t́nh huống khá tế nhị, trong
đó người Việt Nam phải tự khẳng định ḿnh và
trong cuộc chiến tranh giành giữa các đảng phái
để nắm được quyền lănh đạo chính trị.
Thực tế, sự lănh đạo của ông
Hồ trong tháng 9-1945, ngoài Bắc Kỳ ra, th́ rất
mong manh. Sự kiểm
soát của ông đối với khu vực miền Nam có thể nói
đúng ra là không vững vàng.
Để làm giảm nhẹ nhược điểm thiếu kỷ luật của
Đảng trong sự việc xảy ra ở Sài G̣n, Liệu phát
biểu là Chính phủ Hồ ở Hà Nội chưa có dịp thuận
lợi để khích lệ chính quyền của Giàu.
Nhưng điều đó có nghĩa là
những tên quấy rối chưa bị Giàu trừng trị và
điều đó làm cho mọi người ở Hà Nội lo lắng.
Ông Hồ gật đầu tán thành và
nói với một cử chỉ nhẹ nhàng, ra hiệu cho mọi
người rút lui, trừ Liệu và Giáp.
Ông Hồ tỏ ra thấm mệt với sự
căng thẳng trong những tuần lễ vừa qua.
Ông trông già đi và mệt mỏi,
với những vết nhăn sâu ở trán.
Khi người khác nói, ông hơi
nhắm mắt lại và nhẹ nhàng ngả đầu ra thành ghế,
không hút thuốc. Khi những người khác đă
ra khỏi pḥng, ông ngả người trên ghế, hai
tay đan vào nhau, và
hỏi ư kiến tôi. Nhớ lại các
nhận xét của tôi lúc đó mạnh mẽ và quá tự tin,
nhưng điều lo lắng trước mắt của tôi là tránh đổ
máu. Tôi nêu ra vấn đề nghiêm trọng của
t́nh h́nh (lúc dó chưa biết cụ thể về sự thiệt
hại) và tôi sợ sẽ có những ảnh hưởng lớn trong
khắp nước, nếu như ông Hồ không làm một cái ǵ
đó để trấn an người Pháp, cho họ biết rằng hành
động ngày hôm qua không phải do Việt Minh gây
nên. Tôi báo cho ông Hồ biết là tôi đă trao đổi
với tướng Tsuchihashi và ông này nhận thức rơ
ràng được nhiệm vụ bảo đảm trật tự và an ninh
công cộng của ḿnh; cơ quan của ông sẽ tiếp xúc
với Chính phủ Lâm thời để phối hợp kế hoạch đối
phó với những sự bất ngờ. Giáp lại muốn biết có
sử dụng quân đội Nhật không, nếu có th́ phải
phối hợp kế hoạch với tướng Chu Văn Tấn. Tôi nói
tôi không biết nhưng cho rằng điều đó có thể nêu
trực tiếp với người Nhật.
Trở lại vấn đề ở Sài G̣n, ông Hồ muốn các nhà
chức trách Đồng minh biết rằng, bất chấp việc
đảng nào hay nhóm nào đă gây ra cuộc rối loạn,
Việt Minh sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo không để
cho t́nh h́nh tái diễn trở lại.
Tôi đă định hỏi xem ông làm
thế nào để giữ được lời hứa, nhưng lại thôi.
Ông Hồ lại hỏi tôi có ư kiến
ǵ cần nêu nữa không. Tôi gợi ư bước thứ
nhất là nên ra lệnh thả “hàng trăm” người Pháp
nghe nói đă bị bắt ở Sài G̣n.
Sau đó, phải có một chương
tŕnh giáo dục cho người Việt Nam về các mục
tiêu và mục đích trước mắt của Chính phủ mới.
Có như thế th́ mới có thể xua tan được những
nghi ngờ và các tin đồn đang
lan tràn trong dân chúng. Ông Hồ tỏ ư tán
thành, lần đầu tiên trong tối nay ông đă mỉm
cười và tuyêu bố đă cho họp phiên đầu tiên của
Chính phủ vào sáng nay và Hội đồng Chính phủ đă
thông qua một chương tŕnh 6 điểm.
Theo ông Hồ, điểm thứ nhất của chương tŕnh là
có kế hoạch tăng gia sản xuất lúa gạo để ngăn
chặn nguy cơ nạn đói. Trước
mắt, ông đề nghị mỗi gia đ́nh, bắt đầu từ bản
thân ông, cứ 10 ngày để dành ra một bát gạo rồi
tập trung lại mang chia cho những người thiếu
thốn. Các điểm khác trong chương tŕnh
gồm có: một cuộc vận động chống nạn mù chữ; tổng
tuyển cử; vận động phong trào cần, kiệm, liêm,
chính; huỷ bỏ thuế thân, thuế đ̣, thuế chó; cấm
hút thuốc phiện; cuối cùng là hoàn toàn tự do
tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo.
Có phần nào phấn khởi và cũng vui v́ đă nắm
trước được ư của tôi, ông mỉm cười một cách độ
lượng và hỏi: “C̣n ǵ nũa không?”.
Tôi nêu ra vấn đề nên cử một nhân vật nào nổi
tiếng của Việt Minh ở Hà Nội vào làm đại diện
cho cá nhân ông, đồng thời có cố vấn chủ chốt
cho Giàu trong thời kỳ quá độ này. Tôi cho rằng
như thế sẽ tăng thêm được uy tín cho Giàu.
Ư kiến của tôi đă được chấp
nhận và ông Hồ hứa sẽ xem xét vấn đề những người
Pháp bị bắt giữ ở Sài G̣n đă được thả ngay chưa.
Quay sang phía Liệu, ông hỏi về phương hướng
tuyên truyền cho công chúng. Liệu đáp lại là
sáng nay đă cho phép công bố tất cả các pháp
lệnh mới trên tờ công báo(2)
và ra tuyên bố công khai lên án những người phá
rối trật tự ngày hôm qua.
Giáp, Bộ trưởng Nội vụ đồng thời cũng là người
chịu trách nhiệm về an
ninh nội địa, tỏ ra lo lắng về giọng bài diễn
văn Leclerc đọc trên đài phát thanh Delhi. Ông
hỏi xem tôi có thể nói rơ thêm vê câu nói của
Mac Arthur với Leclerc cho phép “đưa quân đội”
đến Đông Dương. Tôi phân bua không rơ và cho
rằng nhận xét của Leclerc không có liên quan ǵ
đến vấn đề này hoặc đă bị người ta cố t́nh xuyên
tạc đi. Nhưng mọi người đều biết rằng Pháp đang
xúc tiến điều đ́nh với người Anh và Anh sắp vào
chiếm đóng Nam Việt Nam, và chắc chắn quân đội
Leclerc sẽ đi theo
cùng. Giáp tỏ ra ngán ngẩm trước sự phân tích
của tôi, nhưng cũng nhận ra là ông cũng đồng ư
với tôi, ông cảm thấy nếu người Anh cho phép
người Pháp tái chiếm lại Đông Dương th́ trước
sau rồi cũng sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh lâu
dài. Ông tin tưởng rằng phong trào độc lập nhất
định không thể từ bỏ sự nghiệp của ḿnh mà không
có đấu tranh.
CÁC ỦY VIÊN CỘNG H̉A PHÁP
Sau khi tôi từ
biệt ông Hồ, Giáp đi cùng tôi sang pḥng lớn và
kể cho tôi nghe về t́nh h́nh của Cédile và
Messmer. Trong đêm 22 - 23 tháng 8, sau khi toán
OSS của chúng tôi tới Hà Nội th́ hai phi cơ C.47
của không lực Hoàng gia Anh (RAF) từ Calcutta
tới cũng cho thả dù hai toán người Pháp, mỗi
toán 3 người, một toán gần Sài G̣n và một toán ở
phía bắc Hà Nội.
Toán vào Sài G̣n rơi xuống một ruộng lúa cạnh
Biên Hoà, đă bị nông dân bắt giữ và sau đó được
trao trả cho các nhà chức trách Nhật. Phụ trách
toán này là một nhân viên dân sự tự xưng là “đại
tá” J. Cédile, Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Kỳ.
Cédile đă được người Nhật đưa về giữ ở Sài G̣n
nhưng đă được thả ra ngày 24-8.
Từ đó, ông ta xúc tiến điều
đ́nh với Giàu và Lâm uỷ Nam Bộ nhưng không đạt
kết quả ǵ nhiều.
Toán thứ hai hạ xuống gần
thị trấn Phúc Yên, tây bắc Hà Nội. Thủ
trưởng toán này là thiếu tá Pierre Messmer, được
chỉ định làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kỳ và
Trung Kỳ. Trong toán c̣n có một dược sĩ, đại uư
Brancourt, đă sống ở Việt Nam trước cú 9-3, và
một nhân viên điện đài, đội Marmot, người đă đi
cùng Langlade trong các lần công tác đến gặp
Decoux và Mordant trước cuộc đảo chính. Messmer
và toán của ông đă bị du kích của Giáp bắt giữ
nhiều ngày, sau dó đă được thả ở gần biên giới
Trung Quốc để cho về với đồng bào của họ ở bên
đó.
Tôi hỏi Giáp tin tức về vụ
Dupré; ông cười và cho biết “Dupré” chỉ là bí
danh của Messmer. Khi tôi nói lại với
Sainteny về những điều Giáp kể về số phận của
Messmer, ông không tin và cho đó chỉ là một tṛ
đánh lừa độc ác của dân “An
nam mít”.
ĐỘI TIỀN TRẠM CỦA LƯ HÁN
Hội nghị Trung - Nhật ở Khai Viễn đă
kết thúc vào ngày 2-9 và phái đoàn Nhật, trừ
Imai, đă trở về Hà Nội ngày 3. Imai đă được giao
mang một bức thư chỉ
thị cho tướng Tsuchihashi nên đă đáp trên một
phi cơ liên lạc đặc biệt về Hà Nội ngay từ đêm
2-9. Đi cùng với bộ phận c̣n lại của phái đoàn
Nhật c̣n có đơn vị tiền trạm của bộ tham mưu Lư
Hán. Đây là những người Trung Quốc đầu tiên
trong số 150.000 người sẽ đặt chân tới Hà Nội và
phải một năm sau mới rời khỏi đất Việt Nam(3).
Chiều hôm đó, đại tá Sakai báo cho tôi biết
tướng Tsuchihashi đă nhận được bản giác
thư về việc đầu hàng
và yêu cầu tôi thông báo cho Trùng Khánh biết.
Đến đêm, máy bay chở các sĩ quan Mỹ thuộc cơ
quan của tướng Gallagher(4)
cũng tới. Họ bắt liên lạc với phái đoàn chúng
tôi và thu xếp chỗ ăn ở cho phái đoàn
USMAAG(5) của tướng
Lư Hán. C̣n tướng Gallagher
sẽ đến sau, trong tháng.
Sáng hôm sau, thiếu tá
Stevens trong. nhóm
tiền trạm, nói với tôi đi t́m trụ sở cho tướng
Gallagher và giúp kiếm một biệt thự thích đáng
cho tướng Lư Hán. Tôi đề
nghị lấy chỗ tôi ở, một toà nhà rộng răi của Bộ
Tài chính cũ. Nhưng Stevens, không rơ
được ai gợi ư, lại cho rằng phải đóng ở dinh
Toàn quyền mới xứng đáng với một sĩ quan cao cấp
Mỹ, nên đă định trưng thu
nơi đó mà không cho tôi biết.
Sau bữa cơm chiều, Stevens
điện cho tướng Gallagher: “Đă đến xem dinh Toàn
quyền, định lấy làm trụ sở.
Nhưng lại có vấn đề chính trị v́ thiếu tá ở đó
nói nhận được lệnh của De Gaulle phải ở lại
trong Dinh. Ông
nhường lại toà nhà nhưng giữ lại gian buồng đang
ở cho đến khi Bộ chỉ huy Tối cao Pháp đến tiếp
quản. Tôi có nên cho qua vấn đề này và
chấp nhận một vai tṛ thứ yếu không?”.
Tôi có thói quen chỉ kiểm tra điện tín muộn về
khuya nên chậm phát hiện sai sót này, nhưng đă
thảo luận ngay với Stevens và dứt khoát yêu cầu
t́m trú ở nơi khác v́ Sainteny chắc chắn đă phản
đối ầm ĩ cái âm mưu nham hiểm của Mỹ và Trung
Quốc nhằm đuổi Pháp ra khỏi dinh Toàn quyền.
T̀NH H̀NH CĂNG THẲNG TĂNG THÊM
Trong hai ngày, Hà Nội h́nh như bị
nén lại qua sự biểu thị lạc quan ôn hoà của Pháp
và sự chịu đựng gắng gượng của người Việt Nam
th́ những tin tức từ Sài G̣n tới vẫn c̣n rất
đáng lo ngại. Vẫn tiếp tục
xảy ra những sự thái quá như ngày 2-9, mặc dù
Giàu đă cố gắng ngăn chặn. Những tin phát
thanh của Anh, Pháp từ các đài Delhi và Sài G̣n
đă loan báo chính quyền Việt Minh đă không c̣n
kiểm soát được t́nh h́nh. Trái lại, Imai lại cho
tôi hay Tổng hành dinh Nhật ở Sài G̣n cho biết
Lâm uỷ Nam Bộ, và đặc biệt là Dương Bạch Mai,
viên cảnh sát trưởng địa
phương(6) vẫn làm chủ được t́nh thế.
Tôi có cảm tưởng như người
Nhật muốn lẩn tránh v́ họ hy vọng không bị bắt
buộc phải dính líu đến việc giữ ǵn trật tự.
Đài Sài G̣n cũng đă loan tin
những người bị bắt v́ phá rối trật tự trong ngày
lễ Độc lập đă được thả ra.
Nhưng trái với điều mong
đợi, người Pháp ở Sài G̣n và Hà Nội lại có thái
độ nghi ngờ và sợ sệt.
Họ ngại rằng những người
được tha có thể sẽ bị người Việt trả thù ngay
sau khi ra khỏi nhà tù.
Sở dĩ như vậy v́ họ cũng
được tin là Dương Bạch Mai cho tước vũ khí các
phần tử Cao Đài và Hoà Hảo nhưng không đạt kết
quả. Trong trường hợp đó, người Pháp lại
cảm thấy ở trong tù được an
toàn hơn.
Báo Dân chúng, cơ quan của
Việt Minh ở Sài G̣n cũng đưa ra những tin tức
gây lộn xộn. Với
những đầu đề chữ lớn, tờ báo kêu gọi nhân dân
giữ b́nh tĩnh, tái lập lại trật tự, và biểu thị
một sự trưởng thành về chính trị. Nhưng
nội dung bài th́ lên án
những người Quốc gia không phải Việt Minh đă gây
rối loạn trong ngày chủ nhật và phá hoại sự
nghiệp độc lập bằng cách tấn công vào các “người
Việt Nam yêu chuộng hoà b́nh”.
Chúng tôi hiểu rằng ở đây họ
muốn vạch mặt những người Troskism đă bán rẻ
ḿnh cho các phần tử cực đoan.
Các báo chí chống Cộng ở Sài G̣n, được nhóm
Troskism tiếp tay, liền phản kích lại, kết tội
Giàu và “đồng bọn” là thân Pháp, có mưu đồ khôi
phục lại nền cai trị cũ của Pháp và như thế là
phản bội sự nghiệp độc lập của dân tộc.
Triển vọng tỏ ra ác liệt.
Nếu cái tinh thần sôi sục chống Pháp đó
lan ra miền Bắc th́
tôi không dám chắc rằng Chính phủ của ông Hồ đă
có đủ khả năng để đối phó được.
Trên đường ra sân bay, tôi
dừng lại ở dinh Toàn quyền. Sainteny tiếp
tôi một cách rất thân mật và hỏi
han về “việc rắc rối
ở Sài G̣n”. Tôi đă kể lại
nhũng ǵ tôi biết nhưng Sainteny không đặc biệt
quan tâm lắm. Quan niệm của ông là Việt
Minh đă mất quyền kiểm soát t́nh h́nh và việc cả
đất nước sẽ trở nên hỗn loạn chỉ c̣n là một vấn
đề thời gian, không nhất thiết v́ chống Pháp mà
là giữa những người Việt Nam tranh chấp nhau. Rơ
ràng là những “người Pháp khốn khổ” sẽ bị kẹt
vào giữa, nhưng biết trách ai được?
Chắc chắn không phải là
những người Pháp “đă bị bỏ rơi”.
T́nh h́nh chỉ có thể cứu văn
được nếu như người Anh hoặc người Trung Quốc đến
kịp thời.
… Thái độ b́nh thản của
Sainteny trong lúc này đă gây cho tôi một cảm
giác rơ rệt là ông đă biết nhiều hơn những điều
ông đă nói với tôi.
Phải chăng ông đă lường trước được việc quân đội
của Leclerc sắp tới? Hay ông ta có thể đă
sẵn sàng chờ thấy cờ tam tài
tung bay trong tiếng quân nhạc?
Ngay cả đến việc sai sót dự
định trưng dụng dinh Toàn quyền, ông cũng bỏ qua
cho là nhỏ nhặt. Sự có mặt của người Mỹ
sẽ kết thúc chỉ sau vài ngày đi đường nữa, khi
quân đội Trung Quốc tới Hà Nội, do đó tôi cũng
rất lo lắng và cũng rất ṭ ṃ muốn biết về cuộc
rối loạn mà Pháp có thể đang trù tính.
Ở sân bay, tôi đă gặp Imai
và thiếu tá Miyoshi đang chờ ở đó. Họ đến
để thông báo cho tôi biết kế hoạch của Nhật
trong trường hợp có sự bùng nổ tại các đô thị
bắc vĩ tuyến 16. Bộ
tư lệnh Nhật yêu cầu tôi chuyển báo cho các nhà
chức trách Trung Quốc biết họ đă hoàn toàn sẵn
sàng thi hành trách nhiệm của họ trong việc giữ
ǵn an ninh và trật tự công cộng nếu được Chính
phủ Lâm thời yêu cầu giúp đỡ, hoặc nếu, theo ư
họ, Chính phủ tỏ ra bất lực hay hoạt động không
có hiệu quả. Chúng tôi đồng
ư là trách nhiệm về vấn đề trật tự vẫn thuộc
quyền viên tư lệnh Nhật cho tới khi họ được
chính thức thay thế.
C̣n về việc Nhật muốn dựa vào khả năng của Chính
phủ Lâm thời th́ đó là một vấn đề phải bàn bạc
thống nhất với Chính phủ này và không có liên
quan ǵ tới Đồng minh. Tôi chỉ nhắc lại
là Tưởng thống chế mong rằng tư lệnh Nhật thông
hiểu đầy đủ các điều khoản trong bản giác
thư về đầu hàng.
Tôi gợi ư cho Imai và
Miyoshi là các nhà đương cục Nhật nên chính thức
thông báo kế hoạch của ḿnh cho Chính phủ Lâm
thời biết. Họ cũng có
thể, nếu họ muốn, nói rằng họ đă thảo luận vấn
đề này với tôi.
… Chúng tôi lên máy bay vào khoảng 6 giờ 30 và
hạ cánh xuống Côn Minh trong đêm.
Helliwell dón tôi tại sân
bay, với một bộ mặt nhăn nhó. Rơ ràng là
Đông Dương đă thu hút
được sự chú ư của Trùng Khánh từ khi xảy ra các
sự kiện trong “ngày chủ nhật đen tối”.
Chú thích
(1) Thống chế Bá tước Hisaichi
Terauchi, Tư lệnh Tập đoàn quân Phương Nam Nhật
(2) Việt Nam Dân quốc Công báo
(3) Theo Hiệp định Pháp - Hoa 1946 th́ chậm nhất
là ngày 31-3-1946, quân Trung Quốc phải rút hết
khỏi Việt Nam. Nhưng sự thật th́ đơn vị Trung
Quốc cuối cùng (Sư đoàn 2 danh dự) rời Hải Pḥng
vào tháng 10-1946
(4) trong chuyến bay có các sĩ quan: trung tá
Stodter (t́nh báo), thiếu tá Stevens (hành
chính) và trung uư Unger (tuỳ tùng của tướng
Gallagher)
(5) US Military Assistance Nhóm Cố vấn Viện trợ
Quân sự Mỹ
(6) Một người Cộng sản cựu trào
Chương 28
Đi t́m
chính sách của Truman
TÂM TRẠNG LO ÂU Ở
TRUNG QUỐC
Đến tuần đầu
tháng 9 là sự tưng
bừng vui vẻ, phấn khởi v́ chiến thắng ở Côn Minh
đă phải nhường bước cho một bầu không khí đầy lo
âu, nghi kị và mưu đồ đen tối. Người Trung Quốc,
người Pháp và người Mỹ đều thất vọng, chán nản
và ở trong một trạng thái bực dọc. Nếu Đông
Dương là một ḷ lửa th́ Trung Quốc là ngọn núi
lửa đang sôi sục và sẵn sàng bùng nổ.
Trong khu vực của OSS, xuất
hiện nhiều bộ mặt mới. Một số là những
tay kỳ cựu đă hoạt
động lâu năm trong nội địa Trung Quốc.
Số khác mới toanh, mới từ Mỹ
đến, quá chậm để phục vụ chiến tranh nhưng lại
lợi hại cho các hoạt động hậu chiến.
Helliwell cho tôi biết đủ thứ chuyện đă xảy ra ở
Côn Minh, Trùng Khánh và Diên
An, hàng loạt vấn đề
mà OSS, Wedemeyer, Hurley và Tưởng đang phải
đương đầu. Các toán Mercy của chúng tôi đă gặp
vô vàn khó khăn với người Nga, Nhật và quân của
Mao, từ vụ t́m cứu thê thảm tướng Wainwright từ
một trại tù binh Nhật ở Măn Châu Lư cho đến cái
chết vô nghĩa của John M. Birch trong khi tiến
hành chiến dịch t́m cứu ở Suchow.
Một vấn đề hoàn toàn khác và t́nh h́nh rối loạn
ở Côn Minh, đang lan
tràn một cách nguy hiểm những tin đồn đại về nội
chiến. Thống đốc Long Vân đe doạ làm đảo chính
chống lại Quốc dân đảng và định bắt giữ tất cả
người Mỹ và các đồ viện trợ của Đồng minh ở Vân
Nam để làm con tin. Wedemeyer đă yêu cầu Heppner
bảo vệ tính mạng và tài sản người Mỹ trong
trường hợp có nổi loạn và trung tá A.T. Cox(1)
đă được lệnh bố pḥng các cơ sở của OSS, toà
Lănh sự Mỹ, trụ sở Hội Chữ thập đỏ và các quyền
lợi khác của Mỹ.
Nhưng vấn đề hàng đầu đối với Wedemeyer và
Hurley vẫn là họ đang bị Pháp và Anh làm áp lục
về việc kiểm soát Đông Dương. Heppner lại ở Côn
Minh nên ngay đêm hôm tôi tới, Helliwell và tôi
đă cùng ông bay về Trùng Khánh để gặp các đại
diện Đại sứ quán và Chiến trường thảo luận về
các hoạt động của tôi ở Đông Dương và về chính
sách của Mỹ.
Giữa lúc t́nh h́nh nóng bỏng th́ USS - Trung
Quốc lại phải cải tổ tổ chức.
Không c̣n cần đến nhũng tổ
phá hoại biệt kích và đánh du kích nữa, nên phải
đưa họ về nước. Nhiệm
vụ phái đoàn OSS sau chiến tranh ở Trung Quốc
hoàn toàn chuyên về công tác t́nh báo và phản
gián mà thôi.
Helliwell đă được chỉ định cầm đầu Nha Mật vụ
mới lập.
Đến trưa, Heppner cho chúng tôi biết c̣n có
nhiều vấn đề khác đă gây phiền toái cho người
Mỹ. Quentin Roosevelt đă được xem những lời
trích dẫn trong một bản giác thư của Bộ ngoại
giao do J.C Dunn(2)
viết. Bản giác thư nói về cuộc gặp gỡ ngày 29-8
giữa Tưởng phu nhân với Tổng hống Truman, trong
đó Tổng thống đă chỉ rằng “đă không đi tới một
quyết định nào” liên quan đến tương lai của Đông
Dương trong cuộc thảo luận mới đây của Tổng
thống với tướng De Gaulle(3). Tôi rất băn khoăn
về t́nh trạng mập mờ trong lập trường của Mỹ và
hỏi Heppner nhưng ông cũng lúng túng. Đại sứ
Hurley đă tỏ ra muốn thấy không có ǵ tốt hơn là
một “Đông Dương dân chủ”, và hay nhất là thuộc
quyền bảo trọ của Quốc dân Đảng. Trong các công
văn chính thức mới đây gửi về Nhà Trắng và Bộ
Ngoại giao, ông đă có nhiều dịp lên án “đế quốc”
Anh, Pháp và Hà Lan. Nhưng rơ ràng là ông không
vừa ḷng với Hồ Chí Minh và việc Cộng sản nắm
chính quyền nên đă muốn cho rút toán OSS về và
để Tưởng đối phó với mọi vấn đề. Đại sứ cũng đă
yêu cầu có một sự giải thích làm sáng tỏ chính
sách Mỹ nhưng chỉ nhận được của Washington một
câu trả ḷi ngắn gọn “không có ǵ thay đổi”.
Nhưng chính sách lại đang thay đổi, ít nhất cũng
trong phạm vi thi
hành. Mặc dù có điều xác nhận “không có quyết
định” của Tổng thống Truman và “không thay đổi”
của Bộ Ngoại giao, thực tế lại cho thấy chúng ta
không c̣n chống đối một cách tích cực những mưu
mô của người Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương bằng
vũ lực nếu cần.
Tôi nêu vấn đề có thể đă đến
lúc OSS nên rút lui khỏi hội trường.
Heppner không đồng ư - OSS nhất định sẽ vượt qua
được khi nào mà chúng ta có được một lập trường
dứt khoát rành mạch của Nhà Trắng.
ĐI BÊN R̀A CÁC LỐI THOÁT
Chúng tôi tới Trùng Khánh lúc khoảng
2 giờ 30 và đi thẳng ngay tới Đại sứ quán. Tướng
Olmsted(4) chủ tŕ
cuộc hội nghị và mở đầu nói rằng Đông Dương
trước đây phần nào đă bị lăng quên giữa nhiều
vấn đề cấp bách khác. Nhưng
những sự kiện mới xảy ra đă đ̣i hỏi Chiến trường
phải đi thẳng vào các vấn đề của khu vực này.
Heppner tỏ ư vừa ḷng và
giới thiệu tôi báo cáo cho hội nghị biết t́nh
h́nh mới nhất.
Tôi nêu ra nhiệm vụ chung đối với toàn Đông
Dương, nhấn mạnh vào chỉ thị đặc biệt tháng 4
của Nhà Trắng về hoạt động của chúng tôi ở Trung
Quốc, và các mối quan hệ với M.5 ở Côn Minh, sau
đó nói đến vai tṛ hiện nay của phái đoàn OSS ở
Hà Nội. Tôi báo cáo tổng hợp về các sự kiện xảy
ra từ khi chúng tôi đến Hà Nội, tả lại tóm tắt
sự xung đột của các thế lực chính trị và mối
quan hệ giữa người Mỹ, người Pháp và người Việt
Nam. Tôi vạch rơ vị trí
trung lập của chúng tôi đối với nguyện vọng của
nước Pháp và hoài băo của người Việt nhằm nắm
quyền kiểm soát Việt Nam.
Nhưng, tôi nói trên trường
chính trị chúng ta đă đạt tới một điểm, mà ở đó
chúng ta gặp cực kỳ khó khăn để tiếp tục giữ
được lập trường trung lập, v́ vậy vấn đề được
đặt ra là phải có một sự xem xét lại lập trường
này.
Tướng Olmsted đă hỏi một cách chính xác về những
chỉ thị công tác ban đầu của tôi và sau này đă
có ǵ thay đổi trong đó không? Tôi đáp lại là
tướng Donovan đă chỉ thị cho tôi một cách đơn
giản là tiến hành các hoạt động bí mật chống
Nhật ở Đông Dương, và thiết lập một mạng lưới
t́nh báo có hiệu lực để phục vụ cho tướng
Wedemeyer. Đáp lại câu hỏi của bí thư Đại sứ
quán Paxton(5) về
những chỉ thị sử dụng các lực lượng và phương
tiện của Pháp; tôi nói là hoàn toàn chính đáng
được sử dụng họ trong chừng mực mà điều đó không
phải là một cách để khuyến khích hay giúp đỡ
người Pháp thực hiện ư đồ muốn chiếm lại thuộc
địa cũ của họ bằng vũ lực.
Tôi lại nhắc lại rằng tướng Wedemeyer và Đại sứ
Hurley đều biết rơ về các chỉ thị công tác nói
trên và tôi đă được sự ủng hộ đầy đủ của Hành
dinh Chiến trường và ở một mức độ thấp hơn, của
Đại sứ quán.
Paxton phát biểu là nhiệm vụ
của tôi thuộc lănh vực quân sự nên Đại sứ quán
không có sự lănh đạo trực tiếp, trừ trường hợp
cố vấn về mặt chính trị nếu được hỏi ư kiến.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ư
về điểm này, nhưng vấn đề chính sách Mỹ là một
vấn đề của Đại sứ quán nên tôi hỏi là từ tháng
4, chính sách đă có ǵ thay đổi không.
Paxton trả lời là chỉ thị cuối cùng của Bộ Ngoại
giao đă được ghi trong công hàm ngày 7-6 của Thứ
trưởng Ngoại giao Grew.
Heppner và tôi xác nhận là có được biết công hàm
đó và hỏi thêm là như thế chúng tôi có thể hiểu
là chỉ thị tháng 4 vẫn c̣n có giá trị đối với
tôi. Lúc này, tướng
Olmsted xen vào, tỏ ư muốn biết bản công hàm
tháng 6 là ǵ.
Paxton tuyên bố bản công hàm
ghi “không thay đổi” trong chính sách nhưng cũng
thêm vào đó những điều nhập nhằng.
Thứ trưởng Grew đă vạch ra
rằng khái niệm của Roosevelt về vấn đề uỷ trị
đối với Đông Dương hầu như đă bị gạt bỏ ở hội
nghị San Francisco.
Lúc đó Mỹ đă nhấn mạnh vào việc phải có một biện
pháp tự trị tiến bộ cho tất cả các nước phụ
thuộc. Grew đă nêu rơ ư kiến của Tổng
thống Truman là vấn đề sẽ được giải quyết sau
khi chiến tranh kết thúc, nhưng vào thời điểm
thích hợp nào th́ phải hỏi chính phủ Pháp để có
được một “sự trả lời tích cực”. Theo ông, chính
qua những lời gián tiếp này mà Tổng thống muốn
nói là đă không đạt tới một quyết định nào về
tương lai của Đông Dương.
“Được!”, Olmsted lại hỏi, “Thế rồi sao?”. Trong
tuần lễ đó (tuần lễ từ 2-9), Đại sứ Hurley đă
phải thảo luận với Wedemeyer một dự án khá hóc
búa của Pháp ở Washington, đề đạt coi Đông Dương
như là một vùng đất đai của địch đầu hàng trong
khu vực của Anh dưới quyền đô đốc Mounbatten.
Người Pháp c̣n đề nghị thêm: đối với viên chỉ
huy Nhật, tướng Tsuchihashi th́ bản thân tướng
này sẽ đầu hàng với người Trung Quốc trên lănh
thổ Trung Quốc, nhưng c̣n việc đầu hàng của quân
ông ta th́ sẽ giao cho người Pháp thuộc quyền Bộ
chỉ huy Anh tiếp nhận.
Theo Paxton, đề nghị của Pháp đă đặt Đại sứ
chúng ta vào một vị trí rắc rối đối với Tưởng.
Thực may mắn là Washington đă không chịu khuất
phục hoàn toàn và đă giữ lập trường là nếu người
Pháp tranh thủ được sự đồng t́nh của Anh và
Trung Quốc về vấn đề đó th́ Mỹ cũng sẽ vui ḷng
chấp nhận hành động theo, và tướng Mac Arthur sẽ
không có ǵ bị phản đối trên các lănh vực quân
sự.
Olmsted ngắt lời, nói rằng rơ ràng là tướng Mac
Arthur sẽ khó mà biện minh được cho việc sửa đổi
lại Mệnh lệnh chung số 1 qua việc cắt xén các
nghị quyết của Hội nghị Potsdam và đưa người
Pháp vào số các nước Đồng minh đă được chỉ định
tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Nhưng ông thêm,
Tưởng sẽ không bao giờ đồng ư cho phép một nước
không tham gia vào cuộc chiến tranh châu Á -
Thái B́nh Dương - nước Pháp - đứng ra nhận sự
đầu hàng các lực lượng Nhật trên chiến trường do
ông phụ trách. Theo Olmsted, tướng Wedemeyer đă
thảo luận các vấn đề này với Thống chế và bác sĩ
K.C. Wu(6) và người Trung Quốc sẽ trả lời dứt
khoát là “không!”.
Đến đây, Heppner nhận xét vấn đề khó xử của Đông
Dương khi nào cũng là một điều rnâu thuẫn của Mỹ
trước những quyền lợi của Pháp và các nguyên tắc
về dân chủ của Mỹ. Qua việc trao đổi thư tín
riêng với một người nào đó trong Bộ chỉ huy Đông
Nam Á (SEAC), ông đă được biết vào khoảng 30-8,
Bộ Ngoại giao Mỹ đă báo cho Bishop, bí thư uỷ
ban Mỹ ở New Delhi, rằng Mỹ không có ư định phản
đối việc Pháp quay lại cai trị Đông Dương, và
nói rộng ra, không có vấn đề xem lại chủ quyền
Pháp đối với Đông Dương. Nhưng Bộ Ngoại giao vẫn
không ngớt nhắc lại đó không phải là chính sách
của Mỹ nhằm giúp Pháp chiếm lại Đông Dương bằng
vũ lực. Heppner nói tiếp: Bộ c̣n báo cho Bishop
biết Mỹ mong muốn Pháp phục hồi lại quyền cai
trị với danh nghĩa là yêu sách của Pháp đă được
nhân dân Đông Dương ủng hộ và sự ủng hộ đó đă
được chứng minh bằng những sự kiện tiếp sau. Nói
một cách khác đi, lập trường của chúng ta sẽ là
đứng ngoài và để cho Pháp chiếm lại quyền
cai trị, ngay cả bằng
vũ lực, miễn là chúng ta không giúp đỡ và chỉ
chờ xem kết quả.
Helliwell, vẫn ngồi yên từ đầu, bật lên nói là
điều mà tất cả chúng tôi thắc mắc: chính sách ǵ
mà như vậy? Chúng ta có giúp người Pháp chiếm
lại quyền hay không? Chúng
ta có giúp Hồ Chí Minh thiết lập một chế độ “dân
chủ” cho đồng minh Nga của chúng ta không?
Hay là chúng ta đă “hoá dại” và quên hết những
lời lẽ hào nhoáng trong Hiến chương Bắc Đại Tây
Dương, trong bản Tuyên ngôn Độc lập, và v.v…?
Tất cả chúng tôi chờ Paxton
trả lời, nhưng tướng Olmsted đă phá vỡ sự im
lặng kéo dài và tuyên bố là chúng ta không thể
thay đổi được chính sách cũ mà cũng chẳng làm ra
được chính sách mới, nhưng chắc là chúng ta có
đầy đủ khả năng để giải thích được chính sách
hiện hành. Cuối cùng,
Paxton đă gợi ư là chúng tôi nên xem xét đến một
điểm trong chính sách nói trên có liên quan cả
đến người Pháp và Việt Minh.
Đối với người Pháp, chúng ta ở trong một thế
không hay ho ǵ là không có khả năng hỗ trợ về
tiếp tế hậu cần để giúp họ từ Chiến trường Trung
Quốc trở lại Đông Dương. Do đó chúng ta phải để
cho người Trung Quốc, tuy không muốn, nhưng lại
là người duy nhất có điều kiện giúp đỡ cho người
Pháp. Không cần phải có
chúng ta xen vào giữa họ.
V́ vậy chúng ra sẽ không làm
ǵ cả.
C̣n về Hồ Chí Minh, ông đă
chiếm lại được vị trí của ḿnh, nhưng đang cưỡi
trên con ngựa rừng không yên, và chỉ cầm được
một dây chằng. Trong
khi Mỹ chưa có quan hệ ngoại giao chính thức với
Chính phủ lâm thời Việt Nam th́ không thấy có ǵ
phải cam kết giúp đỡ họ.
Tuy vậy, chúng ta cũng có
thể ủng hộ về mặt tinh thần, một cách không
chính thưc và kín đáo nhưng không có ǵ quan
trọng. Chúng ta sẽ
biến, khi người Nhật đă được giải giáp và hồi
hương.
Đó là quan điểm của Paxton và đó cũng là một ư
kiến giúp đỡ khá hay ho, đẹp đẽ của một nhân
viên Đại sứ quán. “Nhưng”,
tôi hỏi, “thế c̣n OSS”? Cảm thấy có ít
nhiều gay gắt nên Olmsted vội trả lời: “Trước đă
làm ǵ th́ các anh cứ đúng như thế mà làm. Nhiệm
vụ của các anh là thu
xếp với người Nhật và người Trung Quốc về việc
đầu hàng của người Nhật. Các anh c̣n phải làm hồ
sơ về các tội phạm chiến tranh.
Và sau hết là nhiệm vụ lâu
dài của các anh. Vấn
đề quan hệ quốc tế với Pháp, Trung Quốc và Việt
Nam là một vấn đề thuộc Bộ Ngoại giao giải
quyết”.
Chúng tôi chuyển sang các vấn đề khác. Cơ quan
tham mưu Chiến trường đă
theo dơi các báo cáo và đặc biệt chú ư
đến các sự kiện xảy ra mới đây ở Sài G̣n. Tướng
Wedemeyer lo lắng t́nh h́nh đó có thể vượt ra
ngoài vĩ tuyến 16 và
muốn thường xuyên nắm được tin tức. Theo gợi ư
của Heppner, tôi kể lại tất cả những điều mà tôi
đă được nghe nói ở Hà Nội: sự lo sợ của người
Pháp, phản ứng của người Việt và mối quan tâm
của người Nhật. Tôi cho rằng, mặc dù sự rối loạn
xảy ra trên khu vực của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á
(SEAC) nhưng nó cũng có thể tác động mạnh mẽ một
cách dễ dàng sang khu vực thuộc chiến trường
Trung Quốc. Lúc này, vấn đề được
thu hẹp trong sự
tranh chấp chính trị giũa những người Việt đang
t́m cách kiểm soát chính phủ và chỉ có những tác
động ngoài lề đối với dân chúng Pháp và Trung
Quốc. Nhưng với việc quân Anh sắp tới Sài G̣n để
tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và lại có người
Pháp theo đuôi người
Anh th́ có thể nổ ra rối loạn nghiêm trọng. Một
điều quan trọng cuối cùng tôi nêu lên là đă có
một toán chuyên gia OSS - AGAS Mỹ nào đó đi cùng
với đội tiền trạm Anh và chắc chắn rằng họ cũng
sẽ phải đối phó với những vấn đề mà chúng tôi đă
gặp ở Hà Nội.
Olmsted và nhiều sĩ quan đă ngạc
nhiên khi nghe nói một toán OSS đă được phái đi
theo các hoạt dộng
của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và đă yêu cầu
được biết rơ thêm. Heppner nói ngay đó là một
hoạt động quan trọng và ông chỉ được phép tiết
lộ rằng Uỷ ban hỗn hợp Bộ Ngoại giao, Chiến
tranh và Hải quân (SWNCC) đă ra lệnh tiến hành
hoạt động này và đă thông báo cho tướng
Wedemeyer và Đại sứ Hurley biết.
Olmsted muốn kết thúc hội
nghị và hỏi xem có ai hỏi ǵ thêm không.
Tôi đưa ra một câu hỏi cuối cùng: Nếu tôi tiếp
tục xúc tiến các hoạt động chiến tranh chính trị
ở Đông Dương th́ nhóm chúng tôi sẽ ra sao?
Mọi người im lặng.
Sau hết Olmsted hỏi lại tôi muốn nói ǵ qua danh
từ chiến tranh chính trị và
theo ông nghĩ th́ Paxton đă trả lời câu
hỏi đó trước rồi. Nhưng Paxton lại nói ngay là
ông không đả động ǵ đến vấn đề này mà chỉ làm
việc giải thích chính sách đă được công bố của
Mỹ.
Một cách bộc trực, Olmsted nhận là đă không hiểu
câu hỏi của tôi và nói rằng nếu chỉ thị mà tôi
nhận được là xúc tiến chiến tranh chính trị và
cái mà tôi làm trong chiến tranh chính trị đó
phù hợp với chính sách của Mỹ th́ tôi có thể
bằng mọi cách “cứ cho tiến hành”.
Mọi người đều cười, cuộc hội
nghị bế mạc.
Cũng như trong phần lớn các
cuộc hội họp ở cấp Chiến trường và Đại sứ quán,
mọi người đều vui vẻ và không phải cam kết điều
ǵ. Đối với tôi, các cuộc hội họp như vậy
chỉ có mỗi một mục đích để nói cho những người
làm quyết định biết rằng người chấp hành đă
quyết định làm việc này hay việc khác, tuỳ
theo vấn đề được đưa
ra thảo luận.
Chúng tôi được Walt
Robertson, Bộ trưởng cố vấn về các vấn đề kinh
tế, mời dự buổi cơm chiều và đêm đó ở lại Trùng
Khánh. Nhưng đại tá W.P.
Davis(7) bên cơ quan
OSS đă báo cho Heppner có công văn khẩn từ Côn
Minh gửi tới. Davis đưa ra 2
tin làm náo động mọi người.
Một là việc sơ tán các tù
binh chiến tranh Mỹ từ Sài G̣n.
Hai là lính của Long Vân đă
cướp phá các kho tiếp tế của Mỹ trong vùng Côn
Minh. Thiếu tướng
H.S. Aurand, chỉ huy hậu cần, yêu cầu OSS giúp
đỡ ngăn chặn không để cho các kho tàng khác của
Mỹ tiếp tục bị cướp đoạt.
Heppner đă điện trao đổi với
Aurand và sau 15 phút nói chuyện liên tục, đă
quyết định trở về Côn Minh ngay tức khắc.
Ông xin cáo từ Robertson và
chúng tôi chạy đi t́m toán lái máy bay.
Phải sau nhiều giờ nữa,
chiếc C.47 của chúng tôi mới cất cánh nổi.
Tiếp đó, chúng tôi được mời
ăn lương khô và nước lạnh. Tất nhiên trên
máy bay không có đá…
PHƯƠNG ÁN “EMBANKMENT”( 8 )
Trong lúc nghỉ
xả hơi sau một ngày kiệt sức, tôi hỏi Heppner
cho biết có điều ǵ không b́nh thường đă xảy ra
chung quanh chiến dịch của OSS trong Bộ Tư lệnh
Đông Nam Á (SEAC) và ở phía nam Đông Dương. Về
mặt này, tôi biết quá ít, ngoài tin Ed Taylor đă
ṛi Kandy đi hoạt động, tin ở đó chúng ta tham
gia vào việc giúp đỡ phong trào “Thái tự do”,
xúc tiến điều đ́nh với Chính phủ Giải phóng
Thái; và Heppner cũng c̣n có ít nhiều mối quan
hệ ràng buộc với các lợi ích của Mỹ trong khu
vực Đông Nam Á.
Heppner đă kể cho Helliwell và tôi nghe phần đầu
câu chuyện mà không đầy ba tuần lễ sau đă kết
thúc bằng tấn bi kịch và đưa đến người Mỹ nạn
nhân thương vong đầu tiên sau chiến tranh ở Đông
Dương.
Vào tháng Giêng, Bộ trưởng Stettinius đă báo cho
tướng Donavan biết về những cố gắng của Bộ Ngoại
giao để điều tra t́nh h́nh các tù dân sự Mỹ
(CIS) và tù binh chiến tranh ở Nhật và trên đất
Nhật chiếm đóng. Hội Chữ
thập đỏ quốc tế đă thực hiện được một số vụ cứu
trợ nhân đạo nhưng chỗ được chỗ không và c̣n tuỳ
thuộc vào ư thích nhất thời của người chỉ huy
Nhật tại chỗ. Stettinius thấy cần phải
báo cho Chính phủ biết các trại tù binh ở đâu,
số lượng và t́nh trạng các công dân Mỹ bị giam
giữ v.v…
Bộ Ngoại giao đă nhờ Marcel
Junod(9), F.B. James(10), và Camille
George(11) điều đ́nh lập một mạng lưới thông tin
giữa Mỹ và Nhật thông qua chính phủ Thuỵ Sĩ.
Đồng thời, Bộ Chiến tranh cũng đặt ra Ban MIS -
X trong Cục T́nh báo quân sự để giúp giải thoát
các quân nhân trốn tránh khỏi bị bắt giữ v.v…
Ở Chiến trường Trung Quốc,
nhiệm vụ này được giao cho AGAS.
Nhưng các tù nhân dân sự th́
không được tổ chức nào quản lư, nên chỉ c̣n nhờ
vào hoạt động của Hội Chữ thập đỏ Quốc tế.
Donovan được giao nhiệm vụ này và đă chỉ thị cho
Ban T́nh báo (SI) thuộc SEAC và Chiến trường
Trung Quốc đảm nhận việc xác định các trại, lập
danh sách tù binh chiến tranh và tù thường dân,
cộng tác chặt chẽ với AGAS. Trong những tháng
c̣n chiến tranh năm 1945, OSS đă rất thành công
trong các chiến dịch t́nh báo này mà đỉnh cao là
việc tung ra hoạt
động các toán “Mercy”.
Allen Dulles đă báo cho Donovan biết việc Nhật
thăm ḍ hoà b́nh qua các cuộc tiếp xúc với OSS,
Donovan cũng được biết về sự tiến triển của bom
hạt nhân và ít nhiều tin tức về kết quả thử
nghiệm ở New Mexico. Trong
thời kỳ Hội nghị Potsdam, Donovan đă lường trước
được việc đầu hàng sắp xảy ra của Nhật và đă
thông báo cho Taylor ở Kandy và Heppner ở Trùng
Khanh biết. Dựa vào các báo cáo của OSS
về sự ngược đăi, lộng hành trong một số trại của
Nhật, Donovan đă đề nghị với Tham mưu trưởng
Liên quân là phải có biện pháp bảo vệ các công
dân Mỹ trong các trại tù binh ở Đông Nam Á trong
trường hợp Nhật đầu hàng một cách đột ngột. Uỷ
ban phối hợp Bộ Ngoại giao, Chiến tranh, Hải
quân đă nghiên cứu vấn đề Mỹ tham gia công tác
hậu chiến ở Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và đă
đồng ư để các nhân viên người Mỹ sẽ phải ở lại
SEAC ít nhất cho tới khi có các sĩ quan Cục Đối
ngoại Mỹ đến làm việc tại Thái Lan và các nơi
khách chỉ có những người Mỹ, nhân viên của OSS
mới được miễn trừ.
Nhưng Bishop lại báo qua con đường không chính
thức, cho Heppner biết là Bộ Ngoại giao Anh đă
phân công cho các quan chức ngoại giao và lănh
sự ở nhiều Bộ chỉ huy các lực lượng ở Đông Nam Á
làm cố vấn chính trị dưới quyền Maberly Ester
Dening(12) của SOE(13). Theo Bishop th́ nhiệm vụ
của của số cán bộ này là điều tra bảo cáo về
t́nh h́nh kinh tế và chính trị vùng Nhật chiếm
đóng trước đây. Ngoài ra, Dening cũng nói cho
Bishop biết tự người Anh sẽ phụ trách vấn đề
“bảo vệ” quyền lợi của Đồng minh trong các vùng
đất chiếm đóng và các vấn đề liên quan đến quyền
lợi Mỹ th́ có thể giải quyết thông qua ông ta,
Dening, cho tới khi các cơ quan lănh sự Mỹ mở
cửa trở lại.
Đó quả là một t́nh h́nh
không thể chấp nhận được. Donavan đă chỉ
thị cho OSS - Đông Nam Á và Heppner ở Trung Quốc
cứ lặng lẽ theo gương người Anh, tổ chức ra các
toán OSS ở Đông Nam Á để đi theo quân đội chiếm
đóng Anh vào Thái Lan, Đông Dương, Nam Dương,
Malaysia và Bornéo. V́ vậy, vào cuối tháng 7,
phương án Embankment đă được đưa ra thực hiện
nhằm phái khoảng 50 sĩ quan, binh lính được huấn
luyện và trang bị cho những nhiệm vụ đặc biệt
của OSS, AGAS để đi cùng các “đơn vị xung kích”
đầu tiên của Anh vào Đông Dương.
Người Mỹ liền bị đơn vị đặc nhiệm 136 của SOE
coi như là những người cạnh tranh, và thực tế
đơn vị này đă đỡ đầu cho các toán SLFEO của Pháp
vào hoạt động ở Đông Dương, đồng thời chống lại
toán t́nh báo Mỹ. Người Mỹ vẫn được coi là chống
thực dân và bị người Pháp nguyền rủa, do đó càng
bị ghét cay ghét đắng.
Và trong một quyết định vào giờ chót, thiếu
tướng D.D. Gracey(14), Tư lệnh lực lượng chiếm
đóng Anh ở Đông Dương đă gạt bỏ hoàn toàn phương
án Embankment ra khỏi chiến dịch Đông Dương.
Heppner điện cho huân tước Mounbatten phản đối
hành động độc đoán này của Gracey và Mounbatten
đă phải bắt ông bạn ḿnh cho phép một toán t́nh
báo Mỹ đă bị thu nhỏ lại rất nhiều, chỉ có 17
người, được phép hoạt động vào ngày 2-9, đi
trước cả đội quân của Gracey.
Phụ trách phương án Embankment là một thiếu tá
nổi tiếng 28 tuổi (sau là trung tá) A. Peter
Dewey(15). Trước đó,
anh ta đă được Whitaker chọn, định để bổ sung
cho hoạt động của tôi ở Bắc Đông Dương. Chúng
tôi đă biết Dewey từ khi c̣n ở Bắc Phi, biết rơ
các thành tích nổi bật của anh trong công tác
t́nh báo và chiến tranh chính trị. Heppner,
Whitaker, Helliwell và tôi đều bằng ḷng, v́ có
Dewey ở miền Nam th́ toán Đông Dương của chúng
tôi sẽ được tăng cường rơ rệt, nên chúng tôi
đồng thanh yêu cầu giao nhiệm vụ cho anh ta.
Dewey đến hành dinh của SEAC
vào cuối tháng 7, và việc đầu tiên là bắt liên
lạc với tôi Chúng tôi thoả thuận cùng nhau phối
hợp hoạt động, trao đổi tin tức và nhận xét.
Tất cả công văn và báo cáo của chúng tôi dều
được chuyển theo hai
chiều qua Côn Minh.
Mặc dù tuyến công tác của chúng tôi bị hạn chế
bởi ranh giới quân sự ở vĩ tuyến 16, nhưng hoạt
động của OSS Đông Nam Á và OSS Chiến trường
Trung Quốc đă được phối hợp với nhau, theo tín
hiệu của Heppner.
Từ khi nổ ra sự kiện Ngày Độc lập, tôi không
theo dơi được t́nh
h́nh kế hoạch Embankment nữa, tôi phải nhờ đến
Heppner. Khi tướng Gracey bị
Mounbatten gạt bỏ th́ chỗ dựa của Dewey vào
người Anh cũng “bị suy yếu”. Dewey trở
thành con người không được hoan nghênh ở đó.
Gracey đă cho phối thuộc toán OSS nhỏ bé của anh
vào Ban Chỉ huy Đơn vị xung kích của SEAC vào
SàI G̣n, dưới quyền trung tá người Anh Cass.
Người ta cho Dewey biết phải
tự xoay xở lấy, không nên chờ đợi sự hỗ trợ về
tiếp tế quân sự của người Anh. Điều đó
cho phép Dewey tự do hoạt động mà không cần phải
có sự giải thích đối với Cass hoặc Gracey trong
vấn đề tù binh và tù thường dân của Đồng minh,
quyết định quy chế tài sản Mỹ, điều tra các tội
phạm chiến tranh và thực hiện các chỉ thị khác
của OSS.
Được hành động một cách độc
lập, Dewey đă không để phí thời gian.
Trong khi người Anh chuẩn bị một cách chu đáo
cho một cuộc hành quân “thực sự” để vào Sài G̣n,
dự kiến vào tuần lễ thứ hai trong tháng 9, th́
Dewey đă phái một tổ tiền trạm bốn
người(16) do trung uư
Counasse cầm đầu để tiến hành trước các hoạt
động về tù binh chiến tranh và tù thường dân.
Chiếc phi cơ C.47 của họ đă hạ cánh vào lúc 3
giờ chiều ngày chủ nhật 2-9, xuống một đường bay
nhỏ của Nhật gần sân bay chính Sài G̣n.
Sau bất ngờ của sự việc toán chúng tôi hạ xuống
Hà Nội ngày 22-8, người Nhật chắc cũng đă dự
đoán sẽ có nhiều khả năng nhiều toán khác của
Đồng minh tới nên họ không c̣n bị bất ngờ. Khi
phi cơ đỗ lại, nhiều xe quân sự đă lao tới để
gặp người Mỹ. Theo báo cáo của Counasse th́ một
toán Nhật khoảng 30 sĩ quan và lính do một đại
tá có sĩ quan tuỳ tùng đă ra đón toán t́nh báo
“một cách trịnh trọng”. Để
cho đoàn có một quy chế chính thức, Counasse đă
tự phong quân hàm cấp thiếu tá, các người khác
là đại uư, trung uư.
Ngày 4-9, trong khi tôi từ Hà Nội bay đi Côn
Minh, Dewey cùng với 4 người nữa đă đến tăng
cường thêm cho toán ở Sài g̣n(17). Chiều hôm đó,
Dewey đă điện cho hành dinh ở Candy là Counasse
đă phát hiện được 4.549 tù binh chiến tranh Đồng
minh(18) trong đó có 214 người Mỹ(19), bị giam
tại hai trại trong vùng Sài G̣n. Những người ốm
nặng đă được bắt đầu chuyển đi từ ngày 5: chính
là ngày mà chúng tôi đang hội họp ở Trùng Khánh;
tất cả người c̣n lại sẽ được sơ tán vào sáng
ngày 6. Bức điện Heppner
nhận được chiều hôm đó nói về việc người Anh
tranh giành với người Mỹ về việc sử dụng đường
không và các tù binh Mỹ đă không được ưu tiên
trước. Sợ rằng các tù binh của chúng ta
bị bỏ bê, tướng Wedemeyer ngay chiều hôm đó đă
ra lệnh cho máy bay Mỹ từ Côn Minh bay tới Sài
G̣n để giúp cho việc sơ tán người Mỹ.
Vào khoảng nửa đêm th́ phi cơ của chúng tôi tới
gần Côn Minh, chúng tôi đă nh́n lờ mờ thấy cái
hồ lớn ở đó và đến đúng 1 giờ sáng ngày 6 chúng
tôi về tới khu nhà vắng vẻ của OSS. Heppner và
Helliwell phải đối phó ngay với các vụ cướp phá
trụ sở OSS của quân lính Long Vân trong khi tôi
tiếp tục nghiền ngầm về những điều lộn xộn tối
nghĩa của cái gọi là hội họp “chính trị” mà
chúng tôi đă tiến hành ở Trùng Khánh.
Chú thích:
(1) Sĩ quan OSS phụ trách trung tâm
huấn luyện biệt kích Trung Quốc ở Côn Minh
(2) Trợ lư Ngoại trưởng
(3) Tổng thống Truman gặp tướng De Gaulle tại
Nhà Trắng ngày 22-8-1945 và sau đó đă nói với bà
Tưởng rằng De Gaulle đă đảm bảo với ông là nước
Pháp sẽ cho tiến hành ngay từng bước để cho Đông
Dương được độc lập. Tổng
thống cũng nói với bà Tưởng biết là không có vấn
đền “thảo luận về quyền uỷ trị”.
(4) Thiếu tướng J. Olmsted, G.5 Hành dinh quân
Mỹ ở Trung Quốc, thay mặt Hành dinh tại hội
nghị.
(5) J.H. Paxton, bí thư thứ hai Đại sứ quán Mỹ
ở Trùng Khánh, thay mặt Đại sứ quán tại hội nghị
(6) Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
(7) Đại tá Davis, Phó Ban OSS - Trung Quốc
( 8 ) “Đập ngăn sông”
(9) Trưởng phái đoàn của Uỷ ban Quốc tế Chữ
thập đỏ tại Nhật
(10) Đại diện Hội Chử thập đỏ Mỹ tại Genève
(11) Bộ trưởng Thuỵ Sĩ tại Nhật
(12) tức Sir Esler, Cố vấn chính trị Anh thuộc
Bộ Tổng tư lệnh tốc cao SEAC, Giám đốc SOE ở
SEAC
(13) Nha Công tác đặc biệt Anh, tương tự OSS
của Mỹ
(14) Thiếu tướng Douglas D. Gracey, sinh năm
1894, tư lệnh Lục quân Đồng minh ở Đông Dương
năm vĩ tuyến 16, cầm đầu phái đoàn kiểm tra Đồng
minh của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á và Đông Á (SEAC -
SAC), tư lệnh sư đoàn 20 Ấn Độ. Đến Sài G̣n ngày
13-9-1945, đi ngày 28-1-1946.
(15) Trung tá A. Peter Dewey (1917-1945), sĩ
quan chỉ huy kế hoạch Embankment của OSSNam.
Nghiên cứu lịch sử Pháp ở Yale, thạo tiếng Pháp,
phóng viên ở Paris của báo Chicago Daily News
(1930-1940), gia nhập quân đội Ba Lan ở Pháp mùa
xuân 1940, sau khi Pháp thua trận, trốn sang
Lisbon và trở về Mỹ, làm ở cơ quan điều chỉnh
công tác Xô Mỹ. Gia nhập quân đội Mỹ năm 1942,
hoạt động t́nh báo ở châu Phi và Trung Đông.
Được OSS tuyển mộ ở Alger 1943 và phái sang công
tác ở hành dinh SEAC tháng 7-1945.
Bị du kích Việt Minh giết
nhầm ở ngoại ô Sài G̣n ngày 26-9-1945.
đột nhập vào Nam Việt
(16) Nhóm tiền trạm gồm Trung uư Counasse,
thượng sĩ Nardella, thượng sĩ Hejna và trung sĩ
Paul
(17) gồm Đại uư Bluechel, đại uư Frost, trung uư
Bekker, trung uư Wicker.
Ngày hôm sau đến thêm 3 người nữa là các đại uư
White, Coolidge và Warner.
(18) gồm: trại BOBT
1.681 người (920 Anh, 592 Hà Lan, 194 Úc, 5 Mỹ),
trại 5E 2.686 người (1.394 Anh, 1.164 Hà Lan,
101 Úc, 209 Mỹ)
(19) gồm của sư đoàn 36 (120 người), Hạm tàu
Houston (86 người), VPB 117 (3 người), VPB 25 (2
người), trung đoàn phóng pháo cơ 308 (3 người)
Chương 29
Không ai chịu nghe
QUÁ NHIỀU VIỆC RẮC RỐI
Chuyến đi
Trung Quốc của tôi nhằm t́m kiếm một sự chỉ
dẫn về chính trị đă thất bại.
Wedemeyer và Hurley đang bận chuẩn bị đi
Washington để xin chỉ
thị(1) nên không thể hoặc không muốn
để th́ giở gặp tôi nữa.
Đáp lại yêu cầu của Heppner, Wedemeyer đă
trả lời: “Thấy thế nào tốt nhất th́ cứ làm!”
đối với những vấn đề không thuộc phạm
vi các chỉ thị
hiện hành - trừ phi bị Washington bác bỏ.
Thật chẳng khác ǵ nói
“Những cái anh làm đều đúng cả, nhưng đừng
có vượt qua Washington”.
Nhưng lại chẳng có ai
nói cho biết là Washington đang làm ǵ.
Ba ngày thảo luận, bàn
bạc đă chẳng mang lại được một kết luận đáng
giá nào.
Một trong các vấn đề cần
phải được chú ư là sự có mặt của các lănh tụ
Đồng minh Hội trong những người thân cận của
Lư Hán. Họ mà vào
Việt Nam dưới sai bảo trợ của Quốc đân Đảng
th́ chỉ gây ra hỗn loạn và nội chiến.
Chúng tôi yêu cầu thiếu tướng R.B. Mac
Clure(1) trao đổi vấn đề này với tướng Hà
Ứng Khâm và nhấn mạnh đến nguy cơ tiềm tàng
trong nhiệm vụ của Lư Hán. Tôi cho rằng nếu
nổ ra một cuộc xung đột quy mô lớn giữa Việt
Minh và Đồng minh Hội th́ quân lính của Lư
Hán có thể phải có nhiệm vụ chẳng hay ho ǵ
là đàn áp người Việt Nam bằng vũ lực, do đó
sẽ gây ra một tinh thần chống Trung Quốc
mạnh mẽ và làm tŕ hoăn công việc giải giáp
quân Nhật. Tướng Mac Clure hứa sẽ nói với Hà
Ứng Khâm nhưng cũng không tin là sẽ có hành
động ǵ được v́ tướng Hà c̣n phải đương đầu
với nhiều vấn đề quan trọng khác. Điều quan
ngại nổi bật của Quốc dân Đảng lúc bấy giờ
là phải đối phó với Cộng sản Trung Quốc đang
tiếp quản một cách êm thấm và rất có hệ
thống các vùng đất do Nhật chiếm trước đây ở
phía bắc. Hà Ứng Khâm và
bộ tham mưu của ông ta phải tập trung hết
tâm trí vào việc chuyển và điều động các đội
quân Quốc dân Đảng trung thành lên phía bắc
Trung Quốc. Đồng thời ông ta lại phải
ngăn chặn nguy cơ nổi loạn của Long Vân ở
phía nam, và chống đỡ với áp lực của người
Pháp và Anh đối với Thống chế trong việc
chiếm lại Đông Dương.
Trước khi tôi trở về Hà Nội, tướng Mac Clure
đă cho tôi biết ông đă đặt vấn đề Đồng minh
Hội ra với tướng Hà nhưng không có kết quả.
Hà đă không sẵn sàng can thiệp vào các cuộc
thu xếp của Lư
Hán. Đặc biệt là nếu chúng chống Cộng. Thảo
luận với Helliwell và các nhân viên OSS
khác, tôi cho rằng đứng về quan điểm của
Đồng minh th́ vấn đề này mang tính chất quân
sự hơn là chính trị, nếu cuộc nội chiến nổ
ra - và các nhân tố để gây ra đă có sẵn -
th́ sẽ có bắn giết và hỗn loạn, và có khả
năng một số lính Nhật vũ trang nào đó sẽ
tham gia. Sẽ là một t́nh trạng hỗn độn!
Nhưng tôi cũng thống
nhất với các đồng sự là chúng tôi đă làm hết
cách để báo động cho các nhà đương cục và
cũng không thể làm ǵ khác hơn.
SÀI G̉N -THEO CÁCH THUẬT LẠI CỦA
NGƯỜI MỸ
Ngày 7-9, Dewey điện bản tường
thuật đầu tiên của Mỹ về những việc đă xảy
ra ở Sài G̣n trong ngày Lễ Độc lập.
Nạn nhân người Pháp đă
được rút xuống chỉ có 3 người chết và nhiều
tá bị thương. Về
phía Việt Nam th́ khó mà tính được.
Theo cảnh sát, tất cả chỉ có 19 người chết
và 6 người bị đưa vào bệnh viện v́ nhiều
người Việt đă không đến xin thuốc, họ sợ bị
nghi có tham gia cùng với các người biểu
t́nh và sẽ bị trả thù.
Một báo cáo dễ hiểu của
Dewey đă giúp giải thích cho chúng tôi nhiều
hoạt động chính trị rối rắm ở miền Nam.
Anh ta khẳng định việc Cédile nhảy dù xuống
trong đêm 22 - 23 tháng 8, ngày 24 đă gặp
một số người Pháp cánh tả lúc đó ở Sài G̣n
và đến ngày 27 đă gặp Trần Văn Giàu(3).
Cũng là một sự t́nh cờ
mà cuộc gặp gỡ đă trùng thời gian với việc
Sainteny gặp Giáp và Hiền ở Hà Nội.
Ở Sài G̣n, Cédile có ư
định đi tới một cuộc điều đ́nh để cùng tồn
tại có thể chấp nhận được.
Điều đó không thành.
Cũng như ở Hà Nội, cuộc gặp gỡ ở Sài G̣n chỉ
cho thấy các quan điểm của Pháp và Việt Nam
về tương lai chính trị của Đông Dương hoàn
toàn đối lập nhau.
Cédile đă nhấn mạnh việc tương lai chính trị
của Đông Dương chỉ có thể được đưa ra bàn
sau khi người Pháp đă khôi phục lại được
quyền hành và phải được đặt trong khuôn khổ
của Bản tuyên bố ngày 24-3(4).
Giàu và các cộng sự của
ông giữ quan điểm là vấn đề quan hệ tương
lai với nước Pháp chỉ được thảo luận với
điều kiện Pháp trước hết phải công nhận nền
độc lập của Việt Nam. Rơ ràng hai bên
không đứng trên một lập trường
chung.
Những người Troskism đă sớm biết được tin
Giàu thương lượng với Cédile và ông đă không
thuyết phục được người Pháp chấp nhận Việt
Nam “đă độc lập trên thực tế”. Nhóm Troskism
thuộc Liên đoàn Quốc tế Cộng
sản(5) liền kết
tội Giàu bán ḿnh cho Pháp và tố cáo Giàu
cùng đồng sự của ông ta là “phản cách mạng”.
Trong những ngày tháng 8, nhóm này đă đưa ra
một chương tŕnh cách mạng xă hội trong công
nhân và nông dân Nam Kỳ. Ở Sài G̣n, trật tự
vẫn được duy tŕ cho đến ngày Chủ nhật đen
tối, nhưng các vùng nông thôn th́ xáo trộn
mạnh mẽ hàng ngày. Nhóm Liên đoàn Quốc tế
Cộng sản, kéo theo ở nhiều nơi các nhóm Cao
Đài, Hoà Hảo và B́nh Xuyên đă khuyến khích
nông dân các vùng quê lật đổ chế độ cũ - hệ
thống quan lại, chức dịch địa phương và công
chức - và thay vào đó bằng các uỷ ban nhân
dân. Nhiều địa chủ đă bị
tước đoạt tài sản và ruộng đất được đem chia
cho nông dân.
Nhiều người đă bị giết.
Sự phiến động này đă bị Việt Minh phản đối,
và theo Dewey th́ Nguyễn Văn Tạo đă nói:
“Tất cả những người nào đă xúi giục nông dân
chiếm tài sản của địa chủ sẽ bị trừng trị
nghiêm khắc” và “chúng tôi chưa làm cách
mạng Cộng sản chủ nghĩa nhằm giải quyết vấn
đề ruộng đất. Chính phủ
hiện nay chỉ là một chính phủ dân chủ, v́
thế mà không có nhiệm vụ nói trên.
Chính phủ của chúng
tôi”, Tạo nhắc lại, “là một chính phủ tư sản
dân chủ, mặc dù có những người Cộng sản hiện
nay đang giữ chính quyền”.
Sau ngày “chủ nhật đen tối”, tờ Tranh đấu,
cơ quan của nhóm Troskism, đă đăng một bài
xă luận ngày 7-9, tố cáo Lâm uỷ Nam Bộ đă
sai sót trong việc không có những biện pháp
bảo đảm an toàn cho cuộc biểu t́nh, mặc dù
lúc đó đă thấy có thể xảy ra một vụ hỗn
loạn.
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, một trong những
người tiếp xúc đầu tiên với Dewey ở Sài G̣n,
đă cho Dewey xem một bản kêu gọi dân chúng
Sài G̣n - Chợ Lớn của Lâm uỷ do Giàu kư,
trong lúc đó những kẻ phá trật tự và gây ra
chết chóc hôm “chủ nhật đen tối” đă bị vạch
mặt là bọn “khiêu khích” và c̣n nói thêm:
“Hiện nay, những người này đă tổ chúc một
cuộc mít tinh để yêu cầu vũ trang cho quần
chúng”. Dewey cho rằng: nói “những người đó”
là ám chỉ vào những phần tử Troskism thuộc
Liên đoàn Cộng sản Quốc tế và các đảng liên
kết với họ. Bản kêu gọi c̣n viết: “Người
Nhật và các nhà chức trách Đồng minh được
tin đó sợ rằng sẽ xảy ra nhiều chuyện rắc
rối đổ máu mới”, và:
“Căn cứ vào sự thoả thuận quốc tế, quân đội
Nhật có nhiệm vụ phải đảm bảo trật tự cho
tới khi quân đội chiếm đóng Đồng minh tới và
mọi người không nên quên rằng mặc dù phải
đầu hàng nhưng lực lượng quân đội Nhật vẫn
c̣n nguyên vẹn. Do đó Tổng hành dinh Nhật có
thể:
1. tước vũ khí quân đội quốc gia,
2. tịch thu các súng máy và các vũ khí khác,
3. cấm chỉ các phong trào chính trị nào làm
rối trật tự và an ninh,
4. cấm các cuộc biểu t́nh nếu không được
phép trước của Tổng hành dinh Nhật, và
5. tước vũ khí
quần chúng”.
Bản kêu gọi kết luận:
“V́ lợi ích của đất nước chúng ta, chúng tôi
kêu gọi mọi người hăy tin cậy ở chúng tôi và
đừng để bị lôi kéo bởi bọn phản bội Tổ quốc.
Chỉ có như thế chúng ta
mới có thể làm dễ dàng cho việc giao dịch
của chúng ta với các đại diện Đồng minh”.
Ngày hôm sau, 8-9, chúng
tôi được Dewey cho biết là bản kêu gọi của
Giàu đă đẩy sự tranh căi giữa Việt Minh và
phái đối lập phải bật ra công khai.
Nhóm Troskism, từ trước
vẫn hoạt động một cách ít nhiều hoà hợp, nay
ra mặt thách thức Lâm uỷ. Họ dùng
cuộc mít tinh để yêu cầu cấp vũ khí cho dân
chúng và kích động những người theo họ chống
lại quân đội Anh(6).
Các uỷ ban nhân dân ủng hộ yêu sách của họ
và ở các tỉnh đă xảy ra một số xung đột giữa
bộ đội Việt Minh và các đơn vị vũ trang Hoà
Hảo và Cao Đài.
Cũng trong khoảng thời gian chúng tôi nhận
được tin của Dewey, Quentin Roosevelt đă
trao đổi với Helliwell nhiều vấn dề mà người
Anh quan tâm và cũng đụng đến nhiệm vụ của
chúng tôi ở Đông Dương. Một trong những vấn
đề đó là bức điện của huân tước Mounbatten
gửi Wedemeyer báo động việc “dân chúng An
Nam gây phiến động và chuẩn bị phá rối trật
tự”. Ông có ngụ ư sẵn sàng tiếp quản phần
việc “trong Chiến trường Trung Quốc”.
Một tin khác có liên quan đến cuộc thương
lượng giữa Anh và Pháp đang được tiến hành.
đầu tháng 9. Báo
chí Pháp đă tiết lộ nhiều chi tiết về cuộc
điều đ́nh này và đại sứ Mỹ Caffery đă báo
cho Washington biết đó là vấn đề một “Bộ máy
cai trị dân sự Pháp” được xem như là chính
quyền duy nhất ở phía nam vĩ tuyến 16 của
Đông Dương. Sự có mặt nhất thời của quân Anh
chỉ là một vấn đề ngoại lệ chủ yếu nhằm xúc
tiến việc tiếp nhận đầu hàng của Nhật và đảm
bảo cho tù binh và tù thường dân Đồng minh
hồi hương. Các nhà chức trách Pháp ở Trùng
Khánh và Kandy hy vọng rằng điều thống nhất
dă được nêu lên đó sẽ sớm thành một “việc đă
rồi” vào tuần lễ đầu tháng 9.
Nhưng thực ra th́ đến
tận ngày 9-10, điều đó chưa được hai bên
thương lượng kư kết.
Những cuộc vận động mờ ám đó của người Anh
đă gây ra một bất đồng nguy hiểm giữa Anh và
Mỹ, một nguy cơ mà thực ra chúng tôi ở Trung
Quốc, không được chuẩn bị để đối phó. Đến
thời kỳ kết thúc chiến tranh, Mỹ đă tự đặt
ḿnh trên cương vị một người trung gian môi
giới giữa Pháp - Trung Quốc, giữa Anh -
Trung Quốc và giữa Pháp - Việt Nam.
Nếu đó quả thực là vai
tṛ của chúng tôi ở Trung Quốc th́ Bộ chỉ
huy Chiến trường cũng như Đại sứ quán đều đă
không nhận được chỉ thị nào như thế.
V́
vậy mọi nguười đều mong rằng Wedemeyer và
Hurley đến dự hội nghị ở Washington dự định
vào giữa tháng 9 sẽ giải quyết được bằng
cách này hay cách khác các vấn đề nói trên
của chúng tôi.
TÀI LIỆU CHO WEDEMEYER
Ở Côn Minh
tôi đă chuẩn bị một tập hồ sơ cho “quyển
sách đen” của Wedemeyer, một bản báo cáo
đánh giá tổng hợp của OSS - Trung Quốc về
t́nh h́nh Đông Dương khi kết thúc chiến
tranh(7). Theo tôi, bản báo cáo đă nêu lên
được nhiều điểm có giá trị trong khuôn khổ
các sự kiện và các quyết định đă xảy ra sau
đó và dẫn tới sự dính líu của Mỹ vào Việt
Nam…
… Sau này tôi được biết
là tập hồ sơ đă được trao cho tướng Tổng
tham mưu trưởng ngày 10-9 để ông đi
Washington. Tôi
không rơ ông có đọc hoặc dùng phần nào trong
cuộc họp không, nhưng dù cho có một cấp lănh
đạo chính trị nào đă ngó tới nó th́ tác dụng
của nó cũng đă phải bị gạt bỏ.
KẾ HOẠCH CHO OSS SAU CHIẾN TRANH
Khi tôi c̣n ở Côn Minh, Heppner
đă thông báo cho tôi biết về những sự thay
đổi có thể có trong cơ cấu tổ chức của OSS.
Từ sau hội nghị Potsdam, Donovan đă sang
phía Đông để gặp Taylor ở Kandy và Heppner ở
Côn Minh, báo trước cho hai thủ trưởng OSS ở
Viễn Đông về kế hoạch sau chiến tranh của
ngành t́nh báo. Donovan cho biết đă được xúc
tiến báo cáo thanh toán với Uỷ ban ngân
sách( 8 ) và sẽ
kết thúc nhiệm vụ thời chiến vào cuối tháng
12-1945… Đề án cải tổ OSS của ông đề đạt từ
1944 đă không thực hiện được v́ những xung
đột chính trị ở trong nước và sự tranh chấp
giữa các cơ quan t́nh báo quân sự và dân sự.
Nhưng Donovan đă dự định
cho OSS ngừng hoạt động ngay sau Ngày Chiến
thắng.
Ở Chiến trường Trung Quốc, sẽ có một tổ chức
giao thời là Nha T́nh báo(9) bao gồm tất cả
cơ sở các tổ chức OSS cũ ở Trung Quốc.
Vào cuối tháng 9, cả hai
tổng hành dinh OSS và Chiến trường đều
chuyển về đóng ở Thượng Hải. Nhân
viên c̣n lại ở Trùng Khánh đi
theo chính phủ
Tưởng về Nam Kinh, tiếp tục công tác t́nh
báo chính trị.
Đối với tôi đó là một việc cải tổ tất nhiên
và b́nh thường, nhưng người Pháp đă nắm lấy
cơ hội đó để tung
ra một chiến dịch chống Mỹ mới. Từ Hà Nội,
Bernique đă điện cho tôi hay là người Pháp ở
đây đă loan báo rộng răi tin tức nói là tôi
bị gọi về Washington v́ tội có “hoạt động
thân Việt Minh” và toàn bộ OSS ở Đông Dương
cũng sắp bị rút về.
Helliwell phát cáu lên, tôi nói phải trở lại
Hà Nội ngay tức khắc và phải chặn đứng những
điều xằng bậy đó.
Do đó, chủ nhật ngày 9-9, tôi đă trở lại Hà
Nội mà vẫn chưa nhận được một sự hướng dẫn
có tính chất quyết định nào về chính sách
của Mỹ nhưng vẫn ấp ủ hy vọng là sự có mặt
của Hurley và Wedemeyer ở Washington sẽ giúp
giải quyết các nghi ngại và lo lắng của
chúng tôi.
Chú thích
(1) Hai người rời Trung Khánh
ngày 19-9-1945
(2) tướng Robert B. Mc Clure, tham mưu
trưởng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Quốc,
kiêm Phó tư lệnh của Tổng tư lệnh Hồ Hán
Dân.
(3) Trong cuộc gặp cũng có mặt Bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Tạo
(4) của Bộ trưởng Thuộc địa, chính phủ lâm
thời Pháp, về chính sách đối với Đông Dương,
ngày 24-3-1945
(5) Nhóm tả khuynh của Troskism
(6) Trung tá Cass (Anh) đă đổ bộ vào Sài G̣n
ngày 6-9 cùng một đơn vị Ấn Độ thuộc sư đoàn
Ấn Độ thứ 20 và đội đặc nhiệm 136 của một
nhóm nhân viên SLFEO.
(7) R&A của OSS và các nhân viên sứ quán ở
Trùng Khánh đă giúp chuẩn bị bản báo cáo
này.
( 8 ) Cố vấn kinh
tế của Sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh đă lập nhóm
Kinh tế
(9) trước là Nha Mật vụ SI
Chương 30
Quân phiệt và bọn đầu cơ chính trị
NHỮNG CON
TẮC KÈ TRUNG QUỐC
C̣n 15
phút bay nữa th́ tới Hà Nội, khi phi cơ
bay dọc theo đường thuộc địa số 2, phi
công gọi chúng tôi phải chú ư đến một
ḍng người rất dài đang hỗn độn kéo về
phía Nam. Máy bay hạ xuống thấp hơn và
ḍng người đi hiện rơ ra trước mắt. Đó
là một mớ lẫn lộn nào
xe quân sự,
xe đạp, xe ḅ kéo xen lẫn vào những đám
đông người đi bộ chập chờn, khó tả.
Nhiều người gánh gồng hoặc đeo những bó
tướng trên lưng, lùa đi hoặc dắt
theo súc vật
chăn nuôi. Chúng tôi c̣n thấy cả lồng
gà, ngỗng, các đàn lợn, trâu và nhiều
con vật khác được kéo
theo đi trên
đường… Đó chính là đội quân chiếm đóng
của Tưởng Giới Thạch…
Máy bay chúng tôi hạ xuống Gia Lâm vào
sáng chủ nhật 9-9. Hôm đó cũng là ngày
đánh dấu buổi đầu của một chương mới
trong lịch sử Cách mạng tháng Tám, ngày
mà đám quân của Lư Hán đến Hà Nội, không
bị chống đối nhưng cũng chẳng được hoan
nghênh. Đó là những
người Trung Quốc đại diện cho các nước
Đồng minh châu Âu chiến thắng, tuy chưa
phải thật sự là những nước lớn.
Nhưng trước mắt
người Việt, họ chỉ là những tên đầy tớ
của thế giới phương Tây được phái đến để
ḱm giữ Việt Nam trong ṿng nô lệ phục
dịch cho quyền lợi của ngoại quốc.
Ba mươi năm sau, trong hồi kư “Những năm
tháng không bao giờ quên”, Vơ Nguyên
Giáp vẫn c̣n nhắc đến mối ác cảm của
nhân dân Việt Nam đối với quân đội Lư
Hán lúc đó…
Ở sân bay, tôi không thấy người Trung
Quốc mà chỉ thấy nhân viên phục vụ người
Nhật. Khi qua cầu Doumer (Long Biên), xe
tôi bắt gặp một đơn vị hậu tập của Sư
đoàn 93 Vân Nam Trung Quốc. Một sĩ quan,
nhận ra lá cờ Mỹ nhỏ ở đầu
xe, đă ra
lệnh cho lính dạt vào bên phải, nhanh
nhẹn chào và vẫy tay. Ở đầu hàng quân,
một số phân đội rất có kỷ luật đă chuyển
từ đi thường sang đi nghiêm
theo nhịp của
đội quân nhạc. V́ đă quá quen với các
đơn vị quân đội vô kỷ luật ở Trung Quốc,
tôi khá xúc động trước sự xuất hiện của
các đơn vị đặc biệt này.
Họ mang quân phục
màu xanh chững chạc và vác các vũ khí Mỹ
của họ một cách hănh diện.
Suốt ngày hôm đó,
quân đội Trung Quốc tiếp tục đến.
Và đến chiều tối, đoàn
xe tải và xe
Jeep của sĩ quan và nhân viên tham mưu
làm một cuộc diễu binh lớn để vào thành
phố. Lính Nhật đứng ở trong các ô cửa và
cố gắng không để mọi người dễ thấy trong
khi người Việt Nam nh́n một cách thèm
muốn những vũ khí và
xe cộ Mỹ ở trong tay của người
Trung Hoa. Người
Việt Nam như những người ṭ ṃ đứng
ngoài xem, dáng tự hào mà không kiêu
căng, tỏ ra quan tâm và chưa có ǵ chống
đối hoặc dễ bảo.
C̣n người Âu th́
vắng bóng.
MỘT SỐ NGƯỜI PHÁP TỰ DO
Khuya hôm đó, có nhiều người
Pháp “tự do” không ở trong số thân cận
Sainteny đă tới nhà Gauthier, mang đến
cho tôi những tin tức từ Sài G̣n và về
t́nh h́nh trong “Thành Mordant”, tên họ
gọi một cách châm biếm phong trào kháng
chiến của Pháp ở Hà Nội.
Hai người trong số
họ thuộc Đảng Xă hội Pháp, một người là
hội viên tích cực của phong trào Cộng
hoà B́nh dân Thiên Chúa giáo.
Họ từ Alger đến từ
tháng 1-1945 để công tác cho trường đại
học Hà Nội, sau khi đă tham dự vào cuộc
khởi nghĩa Paris (8-1944) trong lực
lượng kháng chiến nội địa Pháp.
Hoạt động chống Nhật cùng với số sinh
viên ở Việt Nam Học xá nhưng họ kín đáo
nên đă thoát chết sau cú 9-3 và đă cộng
tác với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và Tạ
Quang Bửu trong việc tổ chức sinh viên
Hà Nội thời kỳ Cách mạng tháng Tám.
Tôi và họ vẫn thường
gặp nhau để trao đổi tin tức và nhận xét
t́nh h́nh.
Chiều hôm đó, họ tỏ
rất quan tâm đến sự có mặt “kinh khủng”
của người Trung Quốc trong thành phố.
Họ sợ rất có thể nổ ra cuộc xung đột
tai hại giữa
người Trung Quốc và Việt Nam cường các
lực lượng của Pháp là c̣n cần thiết và
nên làm, ngay cả khi xảy ra rối loạn.
và sẽ là một
cái cớ cho những người theo De Gaulle
vin vào đó để dùng quân đội của Leclerc
can thiệp. Tôi phát biểu là sau khi đă
được thấy những đơn vị rất có kỷ luật
của Trung Quốc, tôi không tin là việc
tăng
Ông Gouin(1),
đảng viên Xă hội chuyển câu chuyện sang
nói về De Gaulle và nước Pháp, cho rằng
trong lúc này, mặc dầu đă mất Syrie(2)
nhưng Đế quốc Pháp vẫn c̣n nguyên vẹn.
Ở Pháp, có thể trừ
De Gaulle ra th́ chẳng ai quan tâm nhiều
đến những ǵ đang xảy ra ở Đông Dương.
Theo Gouin, đó cũng là một điều dễ hiểu.
Mùa đông 1944-1945, đời sống ở Pháp đă
trở nên cực kỳ khó khăn… Nội chính hoàn
toàn hỗn loạn và De Gaulle, một lănh tụ
tầm cỡ quốc tế đă phải chịu một đ̣n
tai hại không
thể tưởng được v́ đă bị gạt ra ngoài
cuộc hội nghị nguyên thủ các nước ở
Yalta và Potsdam. Điều đó là một thử
thách nghiêm trọng đối với toàn bộ
“chính sách cao siêu” của De Gaulle và
ông đă không chấp nhận điều sỉ nhục đó.
Người ta cũng đă phải làm một ít ǵ đó
để phục hồi lại cho nước Pháp vị trí
xứng đáng trong hàng
ngũ các cường quốc lớn thế giới.
Những người khác gật đầu tán thành và
ông bạn Lebrun(3),
phái Cộng hoà B́nh dân của chúng ta đă
nêu lên vai tṛ cứu thế mà “Charles vĩ
đại” (De Gaulle) đă tự gán cho ḿnh.
Lebrun nhắc lại việc De Gaulle đă rất
đau ḷng khi người Mỹ v́ lư do này khác
đă khước từ đề nghị của ông được tham
gia vào chiến tranh Thái B́nh Dương. Ông
cảm thấy sâu sắc rằng đó là một điểm
danh dự của nước Pháp v́ đă tỏ ra có đủ
tư cách để yêu cầu được dự phần trong
hoạt động ở Viễn Đông. Theo Lebrun, De
Gaulle quan niệm cú 9-3 của Nhật ở Đông
Dương lại là một điều may mắn hơn là
tai hoạ cho
Pháp.
Vài năm sau, khi đọc hồi kư của De
Gaulle(4), tôi đă nhớ lại những lời b́nh
luận này của Lebrun…
Các vị khách Pháp đă chất vấn tại sao
người Mỹ chúng tôi đă rộng tay để cho
Tưởng chiếm đóng bắc Đông Dương?
Tại sao chúng tôi
lại chia cắt nước này ra làm hai?
Phải chăng Mỹ và Anh
đă có mưu đồ chính trị, kinh tế ở Đông
Nam Á và muốn gạt nước Pháp ra khỏi kế
hoạch của họ? Họ có cảm t́nh với
các hoài băo của người Việt Nam nhưng họ
cũng c̣n là người Pháp và tin rằng Pháp
có đủ khả năng thực hiện một nền công
bằng xă hội. Một khi mà khối liên minh
Xă hội - Thiên Chúa giáo - Cộng sản lên
cầm quyền ở Pháp th́ Việt Nam sẽ được
công nhận như là một nước chị em trong
cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp.
Tôi tự nhiên cảm thấy họ có cái ǵ dó
rất giống với Sainteny và các bạn
theo De
Gaulle của ông ta.
Họ tỏ ra rất phẫn nộ và nói là chắc tôi
đă biết rơ hơn. Tôi trả lời là đă
nghe quá nhiều những lời xuyên tạc cho
rằng Mỹ có trách nhiệm trong việc chia
cắt Đông Dương và nói rộng ra, với hàm ư
là Mỹ có những động cơ đen tối về kinh
tế. Gouin đồng ư với
tôi và hỏi cho biết sự thật là như thế
nào? Ông thấy
khó mà bảo vệ được lập trường của Đồng
minh nếu như không nắm được thực chất
của vấn đề.
Tôi đă tŕnh bày một cách tỉ mỉ quyết
định, trước khi có hội nghị Potsdam, của
tham mưu trưởng Liên quân Mỹ nhằm điều
chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy ở Đông
Nam Á và Tây Nam Thái B́nh Dương và giải
thích sự cần thiết phải tập trung lực
lượng Mỹ vào cuộc tấn công chủ yếu vào
chính nước Nhật. Chính v́ thế Mỹ không
cần thiết và không có lợi lộc ǵ trong
việc tiếp tục ngăn chặn hoặc đánh đuổi
Nhật trong các vùng đất đai c̣n lại của
thuộc địa Anh, Hà Lan, Pháp ở Đông Nam
Á. Và sau các cuộc thảo luận trong giới
lănh đạo quân sự Đồng minh, th́ chỉ đi
đến một quyết định hoàn toàn quân sự;
không có một cái ǵ khác. Sau này, người
ta cũng có thể nói rằng trong khi người
Mỹ chỉ chú tâm đến vấn đề quân sự th́
người Anh lại lo lắng nhiều hơn đến việc
bảo vệ quyền lợi thực dân của ḿnh và họ
vui mừng trước thái độ “chống thực dân”
của người Mỹ.
Việc lên án Mỹ lợi dụng vấn đề điều
chỉnh giới tuyến cho những mục đích kinh
tế đă được bộ máy tuyên truyền của
Sainteny thổi phồng lên bằng cách tung
tin có một sự thoả luận “bí mật” ở Yalta
nhằm “cướp đoạt” địa vị chính đáng của
Pháp ở châu Á và quyết định ở Potsdam
chỉ là một trong những quyết định cốt để
xoa dịu Tưởng, đền bù cho việc bị mất
cho người Nga những đất đai ở Trung
Quốc. Mặc dù tôi đă làm hết sức ḿnh để
giải thích chống lại những điều xuyên
tạc nói trên nhưng những điều đó vẫn
được các cây bút Pháp, Anh và Mỹ(5) liên
tục nhắc đi nhắc lại đến mức một độc giả
không chuyên về lịch sử vẫn có thể chấp
nhận đó là nhũng sự thật.
Nhưng thực ra chúng
không đúng.
MỘT ĐỘI QUÂN XÂM LƯỢC
Suốt đêm hôm đó, quân Lư Hán
tràn vào thành phố, ầm ầm tiếng xe cộ đi
lại, tiếng máy nổ, tiếng hô các hiệu
lệnh… Nhưng chỉ sáng hôm sau, chúng tôi
đă chứng kiến một cảnh tượng trái ngược
hẳn. “Quân đội” Trung Quốc đă biến chất
đi một cách ghê gớm!
Đội quân tinh nhuệ
hôm qua đă trở thành đội quân đi cướp
chiếm đất. Ra phố, tôi chỉ thấy
một cảnh tượng lộn xộn không thể tả được
cùng với những người Trung Quốc
lang thang
không mục đích…
… Không c̣n thấy bóng các đơn vị có kỷ
luật mang quân phục màu xanh, tiến bước
theo tiếng
quân nhạc đâu nữa.
Họ đă được phân tán vào trong góc Thành
trên băi cỏ trước dinh Toàn quyền, trong
các trại cũ của Pháp và Việt. Chỉ
c̣n thấy các đơn vị dân binh Trung Quốc
quần áo rách rưới lộn xộn, đi dép cao su
làm từ các lốp xe Jeep Mỹ và mang đủ các
loại vũ khí linh tinh Mỹ, Pháp, Anh và
Nhật.
Cái đống nhân mạng vô thừa nhận này
chính là đội quân Vân Nam của Lư Hán; nó
giống như một đám quân tụt hậu hỗn độn
đang rút lui chứ không phải là một đội
quân chiến thắng đến để giải giáp và
tiếp nhận sự đầu hàng của quân thù.
Người Việt Nam, trong đó có Vơ Nguyên
Giáp, vẫn nghe ngóng, đón chờ và sẵn
sàng trước đoàn người di trú kỳ dị này…(6).
Những ngày tiếp theo
là những ngày tôi hiểu sâu thêm về phong
cách cư xử phương Đông. Những người
Trung Quốc mới tới, lác đác có một số cố
vấn Mỹ đi cùng, đă tạo ra bầu không khí
vừa có sự tha thiết vô tư, vừa gợi sự ṭ
ṃ cá nhân lẫn với một sự sợ sệt cho mọi
người. Sự thân thiện
giữa người Việt Nam và những người mới
tới chỉ ở mức tối thiểu. Chỉ có
sự giao tiếp theo
phép xă giao cần thiết và nhất thời và
ngôn ngữ khác nhau đă làm trở ngại cho
mọi sự tiếp xúc rộng răi giữa hai nhóm
người. Nhưng những đồ Mỹ sản xuất, xe
cộ, điện đài và vũ khí súng ống ở trong
tay người Trung Quốc chỉ làm tăng thêm
sự ṭ ṃ của những người Việt Nam táo
bạo. Các nhà buôn đă thay đổi mặt hàng
ngay từ ban đêm. Chỉ những ǵ ế ẩm mới
được trưng ra và với giá đă được tăng
lên rất cao. Các cửa
và cửa sổ hướng ra thành phố đều bị đóng
khoá chặt. Ngay giữa ban ngày,
không có người phụ nữ Việt Nam và Âu nào
dám đi ra phố mà không có nam giới đi
cùng…
Nhưng cộng đồng
người Hoa ở Hà Nội là một ngoại lệ.
Ban đầu họ xô ra đường để đón chào các
đồng hương của họ. Nhưng sau khi đoàn
hậu quân đă tới th́ sự phấn khởi của dân
địa phương cũng tan biến đi. Hơn nữa, v́
lo cho tương lai, các nhà lănh đạo cộng
đồng người Hoa ở đây muốn được có an
ninh nên đă yêu cầu phái đoàn chúng tôi
chuyển cho Lư Hán bức điện sau đây:
“Hoa kiều ở Hà Nội xin gửi đến ngài
những lời chào mừng nhiệt liệt và sự
kính trọng sâu sắc nhất trước sự nghiệp
sáng láng của ngài trong cuộc chiến
thắng cuối cùng và chuẩn bị đón mừng một
cách nồng nhiệt nhất ngày ngài tới Đông
Dương”.
Vào thời kỳ đó, dân
chúng Hoa kiều ở toàn Đông Dương có
khoảng 50 vạn người. Tuyệt đại bộ
phận họ tập trung tại Chợ Lớn, thành phố
toàn người Hoa sát với Sài G̣n và tại
Pnom Penh, thủ đô Kampuchia.
Một số đáng kể sống
ở Sài G̣n, Hải Pḥng và Hà Nội.
Họ giữ một vai tṛ
có ưu thế trong đời sống kinh tế của đất
nước, kiểm soát rộng răi về tài chính
các ngành thương mại và buôn bán.
Những người Hoa ở Việt Nam hợp thành một
tập đoàn dân tộc cần cù có những mối
quan hệ gia đ́nh và chính trị khá chặt
chẽ với Trung Quốc, nơi mà họ bày tỏ
ḷng trung thành duy nhất với đất nước
của họ…
Hoa kiều ở đây không
sống riêng biệt mà quây quần với nhau
trong những khu vực của lớp người trung
gian được gọi là các “bang”. Hiệp
ước Nam Kinh 1935 đă coi những Hoa kiều
này như là những “người ngoại quốc có
quy chế ưu đăi”, phải tuân theo pháp
luật của Pháp và đóng thuế cho người đại
diện cho mỗi “bang”. Theo quy định đó
th́ họ chẳng có ǵ phải ngại đối với
người Việt cũng như người Âu hay Nhật.
Những người Hoa kiều này hy vọng Lư Hán,
với toàn quyền cai trị nhân danh Tưởng,
sẽ giải thoát họ khỏi sự thống trị của
người Pháp, khỏi cái mà họ coi như một
quy chế tốn kém và phụ thuộc. Và họ đă
được tưởng lệ thích đáng: Chỉ hai ngày
sau khi tới Hà Nội, Lư Hán đă chỉ thị
cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam băi bỏ
“chế độ các bang” trong việc đối xử với
cộng đồng người Hoa ở Đông Dương. Đó
cũng là một trong nhiều đ̣n đánh vào uy
tín của Pháp trong quá tŕnh Trung Quốc
chiếm đóng và cũng là một bước mới trong
việc làm suy yếu cái trật tự cũ đă già
nua.
Hai ngày sau khi trở lại Hà Nội, tôi
được ông A. Evard(7)
cho biết thêm một đ̣n mới giáng vào uy
tín của Pháp. Người Trung Quốc đă không
kèn không trống tống Sainteny và nhóm
thân cận ông ta ra khỏi nơi độc nhất c̣n
lại của sự vĩ
đại của nước Pháp, để chiếm dinh Toàn
quyền dành cho Lư Hán sắp tới. Trong
chiến tranh, thường kẻ chiến thắng bao
giờ cũng có quyền đóng tại các toà nhà
nguy nga và có ư nghĩa chính trị nhất
trong vùng đất đai
bị chiếm. Nhưng ở
đây người Trung Quốc chỉ muốn phô trương
thế trội của ḿnh, chứ không phải là chủ
quyền, được tính toán để gây xúc động
cho người Pháp cũng như người Việt Nam.
Nhưng đó cũng là một cách
để làm nhục người Pháp, hạ thấp địa vị
quan trọng của họ và ác nghiệt đặt họ
trong vai tṛ của nhũng người ngoài cuộc
được phép đứng xem hơn là những kẻ chiến
thắng.
Ngày 11-9, Sainteny đă
được chuyển đến đóng ở một biệt thự nhỏ
sát nách với Nhà Ngân hàng Đông Dương.
Theo Evard, công việc đó đă nhờ được một
nhân viên của SLFEO, đại tá Cavalin( 8
), và người bạn J. Laurent(9) thu xếp.
Tôi cho rằng
Sainteny cũng c̣n muốn đề xuất ra yêu
sách về Nhà Ngân hàng cho người Pháp.
Như nhiều người địa
phương đă nói một cách dí dỏm rằng nếu
Sainteny không thể bảo vệ được danh dự
của nước Pháp tại dinh Toàn quyền th́
chí ít ông ta cũng làm một cái ǵ đó để
giữ được ngân khố cho nước Pháp chứ.
Nhà Ngân hàng Đông Dương đă giữ một vai
tṛ khá quan trọng suốt thời kỳ cộng tác
trong chiến tranh của Pháp và Nhật.
Người Nhật đă trao trả toàn bộ đất nước
này cho Chính phủ ông Hồ, trừ Nhà Ngân
hàng mà họ vẫn c̣n ngoan cố giữ chặt lấy
toà nhà cũng như các tài sản bên trong.
Người Pháp cho Ngân hàng là một vật sở
hữu độc quyền của họ và khi thấy người
Nhật vào Việt Nam không đề ra yêu sách
ǵ đối với Nhà Ngân hàng th́ họ chỉ có
thể coi đó như là đă thuộc về họ. Nhưng
bất kỳ một yêu sách nào hay một sự tịch
thu tài sản
nào của Ngân hàng bởi người Trung Quốc
th́ nhất định cũng sẽ bị cả người Pháp
lẫn người Việt phản đối. Tôi không rơ
người Việt Nam đă có cách nào để mong
nắm lấy quyền kiểm soát Ngân hàng Đông
Dương không, nhưng rơ ràng lúc đó, họ
đang có lợi thế để mà đưa ra một yêu
sách ít nhất cũng để giữ được bản thân
ngôi nhà đó. Sự việc
đă tới. Sau ngày Sainteny dọn đến
trụ sở mới của họ, ông Saurent đă gửi
cho tôi một bản công bố chính thức của
Ngân hàng, ngắn gọn và gay gắt, do giám
đốc Ngân hàng kư: “Kể từ ngày 12-9-1945,
Chính phủ Lâm thời vỡ nợ”.
Tôi đă hỏi xem Ngân
hàng có c̣n tài sản nào không và được
trả lời là c̣n, nhưng không thuộc tài
khoản của Chính phủ.
TIÊU VĂN: NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA
QUỐC DÂN ĐẢNG
Ngay sau khi bộ phận tiền
trạm của Trung Quốc đến Hà Nội th́ tướng
Tiêu Văn, một bộ hạ tin cậy của Trương
Phát Khuê cũng tới. Tiêu mang ba chức
vụ: phó tư lệnh của Lư Hán, Tư lệnh tập
đoàn quân 62 Quảng Tây và Thủ trưởng
Pḥng chính trị Ban Công tác hải
ngoại(10). Nhưng lúc
đó ông ta c̣n có một nhiệm vụ khác nữa,
nhiệm vụ bí mật bảo vệ các quyền lợi của
Trương ở phía Nam biên giới Trung Quốc.
Cuối tháng 9, tôi được Tiêu Văn trực
tiếp cho biết nếu không có sự chỉ đạo
tích cực của Trương th́ Trung Quốc không
thể hy vọng thiết lập được những quan hệ
thân thiện với Việt Nam sau thời kỳ
chiến tranh. Theo ư Tiêu Văn và ông ta
vẫn giữ ư kiến này cho đến cuối 1947,
việc chọn Lư Hán để chỉ huy cuộc chiếm
đóng là một việc tồi tệ nhất. Tiêu cho
Lư Hán không biết ǵ về “vấn đề” ở Việt
Nam, có nhăn quan rất hạn chế, hẹp ḥi
và chỉ huy những đội quân hoàn toàn
không thích đáng với nhiệm vụ chiếm
đóng. Trái lại, Trương,
theo quan
điểm của Tiêu, đă từ lâu có công xây
dựng nền móng cho một sự thân thiện Việt
- Hoa có hiệu lực mà trong đó Tiêu đă
giúp “đạt được ít nhiều thắng lợi”. Việc
thay đổi đột ngột nhằm phái Trương và
đội quân tinh nhuệ nhất của ông ta tới
Quảng Đông thay v́ cho Hà Nội có nguy cơ
làm mất Đông Dương vào
tay người
Pháp và theo ư Tiêu, đó là một quyết
định tai hại.
Tiêu Văn đến Hà Nội trong thời gian tôi
đi Côn Minh và đă có nhiều lần gặp gỡ
không chính thức với ông Hồ. Ông Hồ đă
cung cấp cho người cai ngục và che chở
cũ của ḿnh một biệt thự đẹp không xa
phái đoàn OSS Mỹ, cùng nhiều tiện nghi
khác và chắc chắn rằng họ đă nối lại
nhũng quan hệ cũ.
Sáng ngày 10-9, tôi được Chu Văn Tấn,
lúc đó là Bộ trưởng Quốc pḥng, mời tới
dự một buổi gặp gơ do ông Hồ tổ chức để
chào mừng tướng Tiêu Văn. Sau bữa tiệc,
ông Hồ mở đầu bằng một lời phát biểu
hoan nghênh ngắn bằng tiếng Trung Quốc,
rồi giới thiệu Tấn.
Hướng về phía Tiêu Văn, Bộ trưởng Tấn
nói tiếng Việt ca ngợi sự hợp tác và
giúp đỡ của các lực lượng Đồng minh
trong việc giải giáp quân Nhật và duy
tŕ trật tự công cộng. Tấn đề nghị cho
đặt liên lạc ngay giữa Bộ chỉ huy Trung
Quốc và “Lực lượng vơ trang Việt Nam”(11)
để cho vai tṛ mỗi nhóc được phục vụ một
cách có hiệu quả hơn.
(Tôi chỉ biết ngạc
nhiên không hiểu Tấn đào đâu ra được
“Lực lượng vơ trang Việt Nam”).
Tấn tỏ biểu hiện hào phóng trong việc
“phân phối” lương thực và đồ tiếp tế mà
họ có, nhưng lại chua xót nhận xét là
các lănh đạo Việt Nam chẳng c̣n ǵ trong
tay. Sau ít lời nhận xét
chung, Tấn
mời Tiêu Văn phát biểu.
Tiêu chậm răi đứng lên,
tay đặt vào
đốc gươm chỉ huy bên sườn, một cử chỉ
của người chúa tể mà người Việt không bỏ
qua, và mỉm cười một cách hạ cố.
Bằng tiếng Trung Quốc, Tiêu cám ơn ông
Hồ về sự hiếu khách và thông hiểu lẫn
nhau và cảm tạ đối với đề nghị giúp đỡ
của Tấn. Tiêu nói rơ một cách thẳng
thừng rằng người Trung Quốc đă được
trang bị rất tốt để hoàn thành nhiệm vụ
của họ trong việc đối xử với người Nhật.
Về vấn đề an ninh công cộng, ông nói,
trong lúc này người Trung Quốc dựa vào
“cảnh sát địa phương”; rồi sau đó sẽ tuỳ
tướng Lư Hán quyết định. Đối với vấn đề
lương thực và nói đóng quân cho “Quân
đội Đồng minh”, ông tuyên bố Bộ chỉ huy
Trung Quốc sẽ tiếp tế những thứ cần
thiết từ nền kinh tế địa phương theo một
chế độ trưng thu lương thực và dịch vụ,
và tất nhiên là các chủ nhân và người
bán hàng được chính phủ Trung Quốc trả
tiền theo giá thị trường thoả thuận và
hợp lư(12).
Tiêu cũng gợi ư trực tiếp với ông Hồ một
cách rất ngoại giao là trong buổi đầu
này nếu ở mỗi Bộ trong Chính phủ của ông
Hồ mà đặt một sĩ quan chuyên môn người
Trung Quốc để làm liên lạc th́ thật là
thích đáng; v́ như thế người Việt thông
hiểu hơn những nhu cầu và cách làm của
người Trung Quốc. Khi những nhận xét của
Tiêu được dịch sang tiếng Việt th́ những
nụ cười thân thiện tắt ngấm ở ông Hồ và
các cộng sự của ông, nhưng họ chẳng bộc
lộ ra có ǵ là bị bất ngờ và thất vọng.
Mặt họ trở nên lạnh
lùng và không khí im lặng chống đối bao
trùm. Giọng
của Tiêu gay gắt và rất đáng ngại.
Nghe những lời tuyên
bố chính thức của Trung Quốc âm vang
trong gian pḥng lớn Bắc Bộ phủ, ai cũng
phải kinh ngạc.
Bất chợt, Tiêu làm như một diễn viên và
nhà ngoại giao bậc thầy, đă xua tan bầu
không khí căng thẳng bằng một câu nói
đùa ǵ đó mà tôi không hiểu nhưng rơ
ràng là được mọi người tán thưởng.
Ông ta lớn tiếng
cười khi đánh giá cao sự đón tiếp “nồng
nhiệt” của người Việt NamNam chống phát
xít. đối
với người Trung Quốc mới tới. Ông ta hứa
hẹn một cách hùng hồn rằng chính phủ
Trung Quốc sẽ không quên sự đối xử thân
mật của người Việt Nam đối với những
người đồng bào ở nước ngoài của ông
trong 6 tháng bị Nhật hành hạ vừa qua.
Tôi thực sự không hiểu nổi lời hứa đó
như thế nào, theo tôi th́ chẳng có sự ưu
ái nào đă bị mất đi giữa những người
Trung Quốc “thoả hiệp” (với Nhật) và
những người Việt
Viên tướng đă kết thúc lời phát biểu
bằng việc ca tụng “t́nh hữu nghị bất
diệt”…, “cùng chung một mục đích…và kiên
tŕ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
bên ngoài” và vân vân… Tôi có cảm giác
mạnh mẽ rằng Tiêu đă cố gắng để có một
giọng nói nhân đức mặc dù vẫn rất quan
cách, ít ra th́ cũng cho đến khi người
Trung Quốc đă sẵn sàng để điều đ́nh
những vấn đề quan trọng hơn.
Ông Hồ hướng cho những người tham gia
cuộc họp hoan hô và sau đó đă mời Tiêu
sang pḥng bên cạnh để nói chuyện riêng.
Liệu, Giám, Tấn và Giáp ở lại uống nước
và chuyện tṛ, qua phiên dịch, với các
sĩ quan đă cùng tới với Tiêu cho đến khi
Tiêu và ông Hồ trở lại, miệng mỉm cười.
Mấy phút sau, người Trung Quốc cáo lui
sau khi đă chào theo
kiểu quân sự, ôm, bắt tay thân mật… Một
công tác ngoại giao
theo kiểu Á Đông tuyệt vời.
Tôi cũng đă định xin
rút lui, nhưng ông Hồ nói tôi ở lại uống
trà với ông nên chúng tôi đă ngồi lại
trên các ghế bành thoải mái ngay trong
pḥng mà ông Hồ và Tiêu đă nói chuyện.
Ông Hồ hỏi tôi có
biết rơ Tiêu Văn không.
Tôi nói đây là lần
đầu tôi gặp Tiêu nhưng đă được nghe nói
về vai tṛ của ông ta trong các công tác
giữa người Hoa và Việt ở Trung Quốc.
Ông cười và trách
tôi một cách rất tự nhiên, “ông có thể
nói cho tôi biết; nhưng thực tế, tôi
cũng đă rơ ông ta mới được cử làm Trưởng
Ban Mật vụ Chính trị ở Hà Nội đấy”.
Tôi không biết và
cũng đă không nghĩ tới điều đó.
Tôi có biết vai tṛ
của Tiêu là một sĩ quan chính trị, nhưng
tôi không mong muốn cho ông ta dính líu
vào các mưu đồ của người Trung Quốc.
Tôi cũng chẳng muốn
tiết lộ cho ông Hồ hay về việc OSS đă
làm ǵ để giúp ông thoát khỏi sự cầm tù
của Trương Phát Khuê năm 1944 và việc
Tiêu có liên quan đến vấn đề này.
Nhưng về phía ông Hồ, ông cũng không đặc
biệt muốn ám chỉ đến sự hợp tác trước
đây của ông với Tiêu, tuy ông đă kể lại
những cố gắng của ông nhằm hoà hợp các
người quốc gia Việt Nam hải ngoại ở Liễu
Châu năm 1943 và sự ủng hộ của Tiêu đối
với ông lúc đó.
Ông Hồ nói riêng với
tôi là ông vừa mới yêu cầu Tiêu đứng làm
trung gian môi giới giữa Quốc dân Đảng
(Trung Quốc) và Việt Nam. Nghĩ
cho kỹ, theo
ông nói, th́ đó cũng không phải là một
hành động khôn ngoan. Ông đă hy vọng
rằng Tưởng, đi theo chính sách đă được
công bố “không có tham vọng đất đai ở
Việt Nam” sẽ sử dụng ảnh hưởng của ḿnh
đối với các cường quốc Đồng minh để ngăn
chặn các nhà quân sự Pháp không cho lật
đổ Chính phủ Lâm thời. Tiêu dă gợi ư
ngay là Quốc dân đảng và các nước Đồng
minh sẽ có thái độ thân thiện hơn đối
với chế độ của ông Hồ nếu ông chịu mở
rộng cơ sở chính trị của Chính phủ bằng
cách chẳng hạn như để Đồng minh Hội tham
gia. Đi nước cờ cuối cùng, ông Hồ đă nói
cho Tiêu biết là ông đă có ư định “dân
chủ hoá” Chính phủ, nhưng cũng cần có
thời gian, có thể phải sau cuộc bầu cử
tháng Chạp(13).
Ngoài mặt, Tiêu tỏ ra thoả măn với câu
trả lời của ông Hồ; ông ta khẳng định
lại chính sách láng giềng tốt của Tưởng
và hân hoan mong muốn sẽ có những cuộc
thương lượng hai bên cùng có lợi, trong
đó Trung Quốc sẽ coi Việt Nam là một
nước được hưởng chế độ ưu đăi về thương
mại và sử dụng các bến cảng ở Đông Nam
Á.
Mặc dù sau buổi họp riêng, họ đều cười,
nhưng tôi cho là ông Hồ đă không đạt
được điểm nào đối với Tiêu Văn. Trước
khi chúng tôi ra về, ông Hồ phàn nàn là
t́nh h́nh sẽ rất khó khăn và có chiều
hướng hoàn toàn xấu. Nhưng ông Hồ nói
cuối cùng th́ Việt Nam cũng sẽ được giải
phóng khỏi người Pháp, Trung Quốc hay
bất kỳ nước ngoài nào khác. Ông nói
tiếp: “Tôi biết Tiêu Văn đă cho đưa hai
tên Việt Nam bù nh́n về cùng để tổ chức
một chính phủ do Quốc dân đảng đỡ đầu
vào lúc thuận tiện - nhưng Tiêu đă không
nói trắng điều đó ra với tôi.
Những tên này cũng
không có đến cả lương tri là phải ẩn đi
cho khuất mắt.
Nếu họ bị một số
thanh niên chúng tôi nhận được mặt, th́
tôi cũng biết sẽ xảy ra chuyện ǵ đây”.
Trong một phút linh
cảm trước, ông Hồ đă nhận xét là sẽ có
đổ máu trong tương lai.
Nếu người Trung Quốc
thực sự chống đối lại nền độc lập của
Việt Nam, nhân dân ông nhất định sẽ
kháng cự lại bằng vũ khí.
Nếu bọn bù nh́n của
Trung Quốc đánh vào Việt Minh, nhất định
sẽ có nội chiến.
Và nếu sự đe doạ của
Pháp trở thành hiện thực th́ sẽ có cuộc
chiến tranh toàn diện.
Bất kỳ t́nh huống
nào đă nói trên xảy ra th́ cũng đều sẽ
được “phán quyết bằng máu”.
Ông Hồ trông già đi.
Sau khi đă nói lên được t́nh trạng căng
thẳng trong cuộc đấu với Tiêu Văn, ông
Hồ xin lỗi về tâm trạng bi quan của ḿnh
và ở đầu cầu thang, ông cho biết là sự
có mặt của quân đội Trung Quốc trên đất
đai Tổ quốc ông đă làm ông phiền muộn.
LƯ HÁN VÀ BỌN PHÁ HOẠI
Lư Hán đến sân bay Gia Lâm
chiều ngày 14-9(14) mà không hề có báo
trước. Sau khi được
cơ quan Tiêu Văn điện thoại cho biết,
tôi đến thẳng ngay dinh Toàn quyền để
dón ông ta. Khoảng 4 giờ 30,
tướng Lư Hán đến trong một đoàn
xe nhỏ và tôi
là một trong những người được gặp chào
ông đầu tiên. Tướng Tiêu Văn giới thiệu
tôi là trưởng phái đoàn OSS và đă nhă
nhặn nói thêm là đơn vị chúng tôi đă
giúp đỡ ông ta nhiều trong việc giao
dịch với người Nhật và Chính phủ Việt
Nam. Lư Hán cảm ơn tôi và hỏi tôi nếu
cần ông ta có thể làm việc ǵ th́ cứ nói
và ông mong rằng sẽ tiếp tục công tác
chặt chẽ với phái đoàn chúng tôi v.v…
Trái với dự đoán
chung của mọi người cho rằng Lư
Hán tới sẽ được đón tiếp một cách long
trọng ầm ĩ, ông ta và Bộ tham mưu của
ông vẫn đóng kín đáo trong dinh Toàn
quyền. Do đó đă lan
tràn nhiều tin đồn đại về việc sắp sửa
thi hành thiết quân luật, thực hiện chế
độ quân quản, các đội hành quyết, lệnh
giới nghiêm v.v…
Nhưng chẳng có ǵ như thế đă xảy ra
trong thời kỳ Trung Quốc chiếm đóng.
Tuy vậy, cuộc chiếm đóng vẫn là một thời
kỳ tai hại,
gây chấn thương cho nhân dân Việt Nam
trong lịch sử hiện đại của họ.
Tác động của sự chiếm đóng của độ 5 vạn
quân(15) đối
với một nền kinh tế đă lung lay đă đe
doạ ngay cuộc sống của mỗi người Việt
Nam, khi họ vẫn chưa được hồi phục sau
trận đói ghê gớm mùa đông trước.
Nhưng sự cướp đoạt
một cách có tổ chức và gần như là công
khai các tài nguyên đất nước bởi bọn
quân phiệt vô lương tâm và bộ hạ của họ,
lại c̣n nguy hại hơn nhiều.
C̣n các đề nghị liên
tiếp của tôi với các nhà chức trách Đồng
minh nhắc họ đảm nhận cung cấp lương
thực và tiếp tế cho quân chiếm đóng th́
chẳng được ai chú ư đến.
Và số này đă đến,
chân đất, bụng đói và quyết tâm sống nhờ
vào của cải ở địa phương. Họ lấy
ngay thứ ǵ họ cần hay họ muốn, bất kể
thứ đó là của người Pháp, người Việt hay
của người Hoa địa phương, không kể giàu
nay nghèo. Các chỉ huy của họ hiện đại
hơn nhưng cũng tham tàn và
ăn sống nuốt
tươi mạnh hơn. Đồng quan
kim, giấy bạc
đă bị lạm phát một cách hết sức bừa băi
và ở Côn Minh người ta đă phải tiêu hàng
bó để mua một phẩm vật thường ngày, nay
đă trở thành một công cụ để họ bóc lột
người Việt về phương diện tài chính.
Ngay trong buổi thảo luận về việc quân
đội Tưởng tiến xuống phía nam, Giáp đă
cho biết ở Hải Pḥng, quân Trung Quốc đă
cưỡng ép các nhà buôn địa phương khi họ
từ chối không nhận tiền quan kim v́ đă
được định theo một giá hối đoái không
thực tế. Ở Tuyên Quang, các nhà chức
trách quân sự Trung Quốc đă quy định (ít
ra cũng là tạm thời) giá 1 quan
kim ăn 20
đồng bạc Đông Dương. Tại Hà Nội, các nhà
buôn Hoa kiều lại đổi 1 quan kim ăn 1
đồng bạc. Giáp rất bực bội và nói cho
tôi biết lập trường của Chính phủ ông là
không chấp nhận bất kỳ đề nghị về giá cả
hối đoái nào cho đến khi có một “phái
đoàn Mỹ tới”, và lúc đó có thể lấy đồng
dollar làm trung gian để điều chỉnh các
sự chênh lệch trong giá hối đoái các
loại tiền tệ.
Kết quả cuộc gặp đầu tiên
của ông Hồ với Lư Hán ở Hà Nội ngày 16-9
đă loại trừ hẳn hy vọng của ông Hồ muốn
đặt giá hối đoái tiền tệ đối với đồng
dollara Mỹ. Khi Lư Hán “gợi ư” với ông
Hồ là giá hối đoái được ổn định ở mức 14
quan kim ăn 1 đồng bạc, ông Hồ liền yêu
cầu nên để vấn đề này lại cho tới khi
thành lập một uỷ ban tài chính.
Nhưng chỉ mấy ngày
sau, không có thảo luận ǵ thêm, Lư Hán
ấn định một cách chính thức và một chiều
giá hối đoái là 14 ăn 1. Tỷ lệ
này đối với đồng quan
kim mất giá,
cùng với các thủ đoạn tài chính khác, đă
đặt khuôn khổ cho một hoạt động chợ đen
đồ sộ thực sự đă tàn phá nền kinh tế
Việt Nam.
Với những đồng quan kim mà ở Trung Quốc
phải có hàng tấn mới có giá trị, các sĩ
quan Trung Quốc ở Việt Nam có những quan
hệ kinh doanh riêng, đă kết hợp chặt chẽ
với con buôn, chủ nhà băng, và thầu
khoán để mua bằng một giá rẻ mạt mọi
công cuộc kinh doanh có lợi mà họ thấy ở
Việt Nam. Số này hoạt động không chỉ
trong cơ cấu tổ chức quân sự Trung Quốc
mà c̣n qua hệ thống của Đoàn Cố vấn Việt
Nam(16) do
Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh đỡ đầu. Các
công ty và trust(17) nhanh chóng được
thành lập để nắm quyền làm chủ hoặc kiểm
soát các lợi ích ở Việt Nam hoặc các đồn
điền của chủ Pháp, các trang trại, dinh
thự, nhà máy, hầm mỏ, bến cảng và phương
tiện giao thông vận tải… Nhà ở tư nhân,
nhà hát, tiệm nhảy, khách sạn, cửa hàng
và các nhân viên phục vụ đều được các
ông chủ trả theo
một giá rất thấp. Nếu họ phản đối hoặc
dám bác bỏ đề nghị của các hiệp hội th́
giới quân sự đă có cách để cưỡng ép họ…
… Trở lại cuộc gặp
gỡ đầu tiên giữa ông Hồ và Lư Hán, nhiều
vấn đề cực kỳ khó khăn khác đă được nêu
lên. Vấn đề
tu sửa các đường giao thông từ biên giới
tới Hà Nội đă được đặt ra. Trong
những ngày Trung Quốc chiếm đóng đầu
tiên ở các tỉnh biên giới, Việt Minh đă
đáp lại sự hống hách và coi thường Chính
phủ Lâm thời Việt Nam của họ bằng cách
cắt một số đường liên lạc điện tín điện
thoại và phá hoại các đoạn đường dẫn tới
Hà Nội, Hải Pḥng.
Lư Hán không rơ nguyên nhân t́nh trạng
phá hoại đó và “gợi ư” người Việt Nam
phải tiến hành sửa chữa ngay để quân đội
của ông ta kịp thời chuyển tới.
Ông Hồ nói lại là cần phải có thời gian
nếu như quân đội Trung Quốc không đảm
nhận lấy việc này, nhưng Lư Hán kiên
quyết không chịu nên ông Hồ phải đồng ư
nhận cung cấp nhân công nếu như được
Trung Quốc giúp đỡ về vật liệu.
Lư Hán chỉ đáp là
ông ta sẽ xem xét.
V́ không biết rơ thực lực của Việt Minh
và chưa tin chắc ở khả năng của quân đội
trong việc đụng đầu với ông Hồ, nên Lư
Hán lúc đầu c̣n điều tra, sau đó yêu cầu
ông Hồ cho biết rơ lực lượng và tổ chức
quân đội Việt Nam lúc đó.
Một lần nữa ông Hồ
lại bác bỏ, cho rằng vấn đề đặt ra không
thích đáng v́ Việt Nam không phải bị
chiếm đóng mà “trong thực tế là một bộ
phận của lực lượng Đồng minh”. Lư
Hán cứ khăng khăng đ̣i và cuối cùng ông
Hồ đă phải chấp nhận, nhưng ông đă nghĩ
ra được một cuộc rút lui khá hay… Về sau
ông đă giải thích cho tôi biết ông đă
phải đi theo
một đường lối tránh mọi khiêu khích và
đối đầu có thể dẫn đến xung đột với quân
Trung Quốc suốt trong thời gian Tưởng
c̣n đại diện cho Đồng minh.
Để thực hiện chính sách hy sinh đó, ông
Hồ đă lẩn tránh một cách tài t́nh bằng
cách đổi tên Giải phóng Quân của ông
thành Vệ quốc Đoàn và phân tán nó vào
các vùng hẻo lánh xa xôi, cho nó bớt vẻ
quan trọng và tránh được xung đột với
quân đội Lư Hán.
Sau đó, ông Hồ đă đề
cập với Lư Hán vấn đề cung cấp lương
thực cho quân chiếm đóng, đồng thời tiếp
tế cho dân chúng.
Lư Hán tỏ ra quan
tâm và đồng ư về nguyên tắc với đề nghị
của ông Hồ cho quân Trung Quốc t́m biện
pháp tiếp tế gạo từ Nam Kỳ ra.
Nhưng miền Nam lại thuộc quyền kiểm soát
của người Anh nên Lư Hán không tin là có
thể thu xếp được vấn đề này nếu không có
su giúp đỡ của Chính phủ Lâm thời.
Ông Hồ đáp lại là
khả năng của ông rất hạn chế v́ hiển
nhiên ông không có quyền lực, tài chính
cũng như phương tiện vận tải.
Đó là một cuộc đối
thoại vô hiệu quả giữa sự không khoan
nhượng của Trung Quốc và sự bất lực của
Việt Nam.
Một vấn đề khác gây
cho ông Hồ nhiều điều lo lắng là khả
năng xảy ra các vụ xô xát, giết người
Việt Nam và Trung Quốc.
Lư Hán đảm bảo với
ông Hồ rằng đă ra những mệnh lệnh nghiêm
ngặt nhất cho toàn thể đội quân của ông
phải cư xử đúng mức và tránh mọi va
chạm, nếu không sẽ bị nghiêm trị.
Với thái độ chủ động và cốt để ông Hồ
cảm nhận được quyền lực của Trung Quốc,
Lư Hán nhắc nhở ông Hồ là sự hoà hợp
phải có đi có lại và ông Hồ phải thực
hiện sự hợp tác và giúp đỡ quân chiếm
đóng trong việc duy tŕ trật tự và đặc
biệt là làm cho dân chúng trấn tĩnh lại.
Khi cuộc gặp gỡ kết thúc, như chợt nhớ
ra, Lư Hán báo cho ông Hồ biết là phải
cho lùi giờ Hà Nội lại một tiếng đồng hồ
ngay theo như giờ Trung Quốc để tránh
mọi sự lộn xộn và rắc rối về quản lư
hành chính không cần thiết. Yêu sách tai
hại cuối cùng này đă gây ra bất măn cao
độ v́ đối với ông Hồ, điều đó thể hiện
sự kiêu căng trịch thượng và sự can
thiệp vào công việc nội bộ của người
Trung Quốc, nhưng tất nhiên, ông cũng đă
phải đồng ư.
Xong các vấn đề cụ thể, Lư Hán lấy một
giọng điệu hoà giải hơn và tuyên bố rằng
sự có mặt của Trung Quốc ở Đông Dương là
vấn đề “thuần tuư quân sự và nhằm đáp
ứng lại yêu cầu của các cường quốc Đồng
minh để giải giáp và hồi hương quân
Nhật”. Thực hiện
xong điều đó, nhiệm vụ của Trung Quốc ở
Việt Nam sẽ kết thúc.
Mặc dù Lư Hán đă có một thái độ quân
phiệt sống sượng trong khi đề ra các yêu
sách trong cuộc gặp gỡ, nhưng rơ ràng
ông Hồ lại coi đó là một dấu hiệu tốt.
Ông xác định nó cũng
mang lại được kết quả là “đă xây dựng
được một sự quan hệ thân thiện”.
Tôi thực khó mà hiểu
được cách nói và lập luận kiểu phương
Đông này, nhưng ông Hồ đă kiên tŕ giải
thích đây không phải là những cái đă
được nói ra mà là những điều bao hàm ở
trong đó. Tỉ dụ như việc Lư Hán
thể hiện đă ngầm cam kết không giải tán
hoặc gây trở ngại cho Chính phủ Lâm thời
mà lại cũng làm việc với Chính phủ khi
mà Chính phủ vẫn nắm được quyền quản lư
nội bộ đất nước. Ông Hồ cũng cho rằng
điều cam kết đó c̣n có nghĩa là Lư Hán
sẽ không ủng hộ và giúp đỡ những người
Quốc gia thân Trung Quốc thuộc bè lũ
Trương Phát Khuê, “nhóm Lưỡng Quảng”
(Quảng Đông và Quảng Tây) thuộc quyền
của những lănh tụ như Nguyễn Hải Thần và
Trương Bội Công(18).
Lần đầu tiên, ở đây tôi khám phá ra vết
rạn nứt chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn,
cố vấn chính trị của ông ta. Và
tôi cũng rất kinh ngạc trước diễn biến
của t́nh h́nh sắp tới, khi biết tin Đồng
minh Hội, một con bài quan trọng trong
kế hoạch chính trị tương lai của Tiêu
Văn, đă sẵn sàng ở Hà Nội và đang lo
toan việc thách thức với Việt Minh.
Chú thích
(1) Marcel Gouin, giáo sư
kiến trúc trường Đại học Hà Nội
(2) Pháp đă bị thất bại trong mưu đồ lập
lại chế độ thuộc địa trước chiến tranh ở
Syrie (trái với lời cam kết của Đồng
minh đă hứa với chính phủ Syrie) v́
Churchill đă ép De Gaulle phải ra lệnh
rút quân Pháp ra khỏi Trung Đông để đưa
đi chiến đấu cùng với quân Đồng minh ở Ư
và Bắc Phi
(3) André Lebrun, hoạt động trong phong
tráo kháng chiến Pháp cho đến khi được
chuyển sang Sài G̣n tháng 1-1945. Ông đă
t́m đường ra Hà Nội vào tháng 2 để hoạt
động cùng với số bạn bè cấp tiến trong
phong trào thanh niên giành độc lập,
nguỵ trang làm cha đạo trong Thành để
giúp người Việt Nam trong lúc khởi
nghĩa.
(4) Charles De Gaulle, “Hồi kư chiến
tranh”
(5) Sainteny, “Lịch sử”; B. Fall, “Hai
Việt Nam”
(5) Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng
không bao giờ quên”
(7) André Evard, mật thám của OSS tại Hà
Nội, đáng nghi ngờ nhưng đă có lúc làm
thông tín viên chó hăng UP, đồng thời là
trợ lư giám đốc hăng Air France ở Hà
Nội.
( 8 ) Viên
đại tá này đă thoát được cú vét lưới 9-3
của Nhật và tiếp tục liên lạc với những
người Pháp hoạt động bí mật. Bà Calavin,
vợ ông ta, cũng cộng tác với phong trào
của Mordant cưới quyền của bà Sarraut
(chị dâu Sainteny) nhưng đă không xâm
nhập được vào phái đoàn OSS ở Hà Nội
trong tháng 8-1945.
(9) Jean Laurent, Tổng giám đốc Ngân
hàng Đông Dương
(10) trước là Ban công tác đối ngoại Đệ
tứ chiến khu
(11) Nguyên văn: Vietnamese Armed
Forces, cũng có thể đọc là “Quân đội
Việt Nam”, hoặc “Quân đội Quốc gia Việt
Nam”
(12) Chi phí chiếm đóng do chính phủ
Trung Quốc bắt Pháp phải chịu bằng cách
hàng tháng Trung Quốc rút ra một khoản
tiền (40 triệu đồng) của Ngân hàng Đông
Dương để chi cho “các nhu cầu cấp bách
về quân sự”. Khoản
tiền này đă được thanh toán teo “Hiệp
ước Pháp - Hoa” sau này.
(12) Cuối cùng, cuộc bầu cử đă được tiến
hành ngày 6-1-1946.
Đồng minh Hội được 20/300 ghế trong
chính phủ mới. Nguyễn Hải Thần
được “bầu” là Phó Chủ tịch Chính phủ
Liên hiệp
(14) Có tin Lư Hán tới Hà Nội vào khoảng
từ 9 đến 18-9. Nhưng
ngày chính xác th́ như đă nói ở trên và
đă được báo cáo cho OSS đện số 119 ngày
14-9 của Patti gửi Indiv.
(15) Nhiều nhà báo đă ấn định số quân
chiếm đóng của Lư Hán là 18 vạn. Con số
này ch́ là áng chừng tổng số quân đă qua
lại ở đây trong thời gian chiếm đóng
(9-1945 - 10-1946). Chính phủ Trung Quốc
đă nêu con số 15 vạn quân để tính chi
phí chiếm đóng cho người Pháp gánh chịu.
Có thể trong mỗi lúc
nhất định th́ không quá 5 vạn quân đồn
trú tại chỗ.
(16) gồm Shao Pai - Chi’ang (Quân quản),
Ling Chi - han (Ngoại giao), Chu Hseich
(Tài chính), Chuang Chih - Huan (Kinh
tế), Cheng Fang - Heng (Giao trông), Ma
Ts’an - Yung (Lương thực) và Hsing Shen
- Chow (Quốc dân Đảng)
(17) công ty uỷ thác
(18) Trương Bội Công tới Trung Quốc sau
cuộc đàn áp Yên Bái 1930 và đi theo phái
Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kinh
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.