MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record v CBO
v US Government vCongressional Record
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News
v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian v Political Insider v Law v Media
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart Interceipt
v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic
v National Public Radio v ForeignTrade v Slate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 19
Câu
chuyện về hai thành phố
MỘT CUỘC HỌP BÁO
Sự mong đợi của
tôi về tin tức những ǵ xảy ra ở Sài G̣n vẫn là điều
cấp bách. Dù có sự phân chia mới đây ở vĩ tuyến 16,
nhưng chúng tôi trong OSS vẫn coi Việt Nam là một
dân tộc và quan tâm đến các sự kiện ở miền Bắc cũng
như ở miền Nam. Thực may mắn mà tôi đă t́m được một
nguồn thông tin tuyệt vời từ những cơ quan báo chí
địa phương. Tôi không biết ǵ về việc người Sài G̣n
đang tổ chức lễ mừng thắng lợi khá to vào ngày 25-8
khi chúng tôi tiếp một nhóm độ 12 người Việt Nam đại
biểu cho những tờ báo lớn ở Hà Nội.
Họ đă đến gặp “Phái bộ Đồng
minh” để xin ư kiến về việc viết xă luận và kiểm
duyệt tin tức. Chúng tôi mời họ vào pḥng
khách lớn và nói với họ rằng chúng tôi không phải là
“Phái bộ đại diện Đồng minh” và công việc của chúng
tôi chẳng có liên quan ǵ đến vấn đề kiểm duyệt và
chỉ đạo các bài xă luận(1).
Họ tỏ ra lúng túng khi thấy có được một nền báo chí
tự do nhưng vẫn tiếp tục xúc tiến chương tŕnh đă
định. Ông Minh(2), với tư
cách là người phát ngôn và phiên dịch, xin đọc một
bài phát biểu đă chuẩn bị sẵn. Mở đầu bằng nhũng lời
chào đón nồng nhiệt, bài nói sa vào việc kể về những
sự xấu xa của Pháp, rồi quay sang nói về ḷng mong
muốn giành độc lập dân tộc của người Việt Nam, kết
luận là yêu cầu Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc ủng
hộ sự nghiệp của họ.
Tôi cám ơn họ v́ sự đón tiếp
thân mật và mời họ ở lại đến bất cứ lúc nào họ thấy
cần. Nhưng trước việc họ cố coi chúng tôi như
là một phái đoàn đại diện, tôi giải thích về vai tṛ
phi chính trị của chúng tôi và đặc biệt nhắc nhở
rằng mặc dù Mỹ có thiện cảm đối với nguyện vọng của
họ nhưng chính sách của Mỹ vẫn là một chính sách
không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác. Dưới ánh sáng những năm chiến tranh sau này
của chúng ta ở Việt Nam, lời phát biểu đó có thể làm
cho người đọc kinh ngạc, nhưng vào 1945 th́ điều đó
hoàn toàn xác thực và phản ảnh một cách rơ ràng
chính sách đă được xác định.
Họ hỏi nhiều về ư đồ của người
Pháp và người Trung Quốc, về thái độ của Đồng minh
đối với Việt Nam và phản ứng của tôi trước những
thành công của Việt Minh ở Sài G̣n. Tôi trả
lời hầu hết các câu hỏi, trừ những ǵ về Sài G̣n và
nói với họ rằng tôi rất cảm ơn về bất cứ một thông
tin nào mà họ có thể cho biết về t́nh h́nh Sài G̣n
và cả Nam Kỳ hiện nay... Người
của các báo hàng ngày th́ bảo nên trích các mẩu tin
từ các báo cáo của họ.
Một số khác lại muốn ngồi tường thuật tỉ mỉ cho
chúng tôi nghe. Tôi đồng ư và cử Robert Knapp
làm việc này(3).
Bắng cách đó, chúng tôi đă có
thể nắm được toàn diện t́nh h́nh miền Nam vào ngày
31-8. Đó là những thông
tin đầu tiên về vùng này mà Côn Minh, Trùng Khánh và
Washington đă nhận được, sau khi Nhật đă đầu hàng 3
tuần lễ. Trong khi Knapp chuẩn bị cho bản báo
cáo, tôi đă có điều kiện để nắm bức tranh toàn cảnh
miền Nam khi chúng chưa kịp bị thời gian làm phai
mờ, và điều đó đă hết sức có ích cho những cố gắng
hàng ngày của chúng tôi nhằm ngăn chặn bùng ra rối
loạn ở miền Bắc.
CUỘC “CÁCH MẠNG” Ở
SÀI G̉N
Năm 1945, cũng như hiện nay, thành phố Sài G̣n,
trung tâm của Nam Bộ, hoàn toàn khác với Hà Nội ở
miền Bắc. Về mặt địa lư, khí hậu, không khí xă hội,
và triết lư chính trị của nó đều khác biệt.
Đầu 1945, khi Việt Minh nắm được
quyền kiểm soát khu giải phóng Bắc Bộ th́ quyền lănh
đạo của phong trào đă được củng cố và không ai có
thể tranh căi được. Và khi ủy ban địa phương
nắm chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8 th́ việc đó không
phải là một hành động hoàn toàn độc lập mà chính là
đi theo đường lối, chủ trương lâu dài của Trung ương
đă vạch ra từ trước. Đối với
miền Nam lại khác hẳn.
Nam Bộ là một lănh địa trù phú riêng của thực dân
Pháp, ít giống với t́nh trạng kém giàu có của Trung
Bộ và Bắc Bộ. Những sự kiện tháng Tám ở Hà Nội và
Huế chỉ có những tiếng vọng xa xôi đối với Sài G̣n.
Không phải v́ ngọn đuốc độc lập không bùng cháy ở
miền Nam, cũng chẳng phải ở đó thiếu các phong trào
dân tộc chủ nghĩa và thiếu các môn đồ hăng hái.
Ngược lại, ở đó đă có quá nhiều
phong trào, và tất cả cố gắng của họ đang hướng một
cách mạnh mẽ vào việc tranh luận về tư tưởng và xă
hội, nên đă dẫn đến những cuộc đấu tranh đảng phái
gay gắt. T́nh trạng đó
vẫn c̣n đang tồn tại.
Ngoài đảng Cộng sản ra, các nhóm quốc gia nổi bật
nhất ở Nam Bộ gồm có những phần tử Troskism, nhóm
thân Nhật Phục quốc và Đại Việt, các giáo phái chính
trị Cao Đài và Ḥa Hảo và Đoàn Thanh niên Tiền
phong, cùng rất nhiều đảng phái nhỏ bé khác.
Tất cả đều chủ trương độc lập
dân tộc với nhiều h́nh thức khác nhau.
Nhưng chỉ có đảng Cộng sản là có
chương tŕnh hành động và tổ chức tốt.
Điểm đáng lưu ư nữa là đặc tính tự trị của đảng Cộng
sản miền Nam(4). Sau cú
9-3, Nhật vẫn tiếp tục duy tŕ sự phân chia về hành
chính và chính trị giữa Nam, Trung, Bắc Bộ được đặt
ra từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến ngày 14-8, khi Nhật
cho phép Bảo Đại cử một viên Khâm sai (Phó vương)(5)
để nắm quyền cai trị Nam Kỳ. Do kết quả của sự phân
chia độc đoán về địa lư giũữ các nước ở Đông Dương
như vậy nên đảng Cộng sản miền Nam có sự cách biệt
lớn đối với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở
Bắc Kỳ và thiếu những sự chỉ đạo cụ thể cho đến tận
sau Hội nghị Tân Trào của Đảng ngày 13-8.
Ngay sau cú 9-3, người Nhật bị thúc bách phải t́m
những người Việt trung thành để thay thế bộ máy quan
liêu Pháp (lúc đó phần lớn đang ở trong tù) và để
bảo vệ cho tuyến giao thông ở hậu phương chống lại
sự đe dọa phá hoại của Đồng minh. Họ lấy một số
người thân Nhật trong các nhóm quốc gia tập hợp
trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất do Nhật đỡ đầu(6)
để cung cấp cho Nhật một số người họ cần trước khi
để cho Mặt trận này tàn lụi dần.
Nhưng khi những người lănh đạo cái Mặt trận đang ngủ
yên này đột nhiên nhận thấy Việt Minh ở Bắc Kỳ,
trong tháng 8, đă xuất hiện để chiếm lấy quyền kiểm
soát của phong trào độc lập trên toàn quốc, họ liền
thúc cho các hội viên hoạt động trở lại.
Ngày 14-8, Ban chấp hành Mặt
trận nhanh chóng tiến vào chiếm các vị trí mà người
Nhật bỏ trống và họ tiếp quản việc kiểm soát Sài G̣n
vào ngày 16-8. Điều đó đă được chào đón như
là một cuộc “Cách mạng ở Sài G̣n”, tuy cũng rất khó
mà được coi là một cuộc tiếp quản. Bộ máy cai trị
thân Nhật vẫn c̣n được giữ nguyên và cũng không một
ai ở Sài G̣n biết đến chuyện một cuộc “cách mạng” đă
nổ ra.
Người Nhật có thời vận động
ngầm, đă giữ một vai tṛ quyết định trong cuộc “cách
mạng” ở Sài G̣n này.
Nguyễn Văn Sâm, Khâm sai của Bảo Đại, đến Sài G̣n
ngày 19-8 (đúng vào ngày Việt Minh cướp chính quyền
ở Hà Nội). Hành động đầu
tiên của ông ta là điều đ́nh với Nhật, nhằm xin một
số lớn vũ khí để tổ chức lực lượng bán vũ trang
thuộc quyền ông ta. Và người Nhật đă cấp vũ
khí cho ông(7).
Mặt trận thống trị ở Sài G̣n
đúng một tuần. Trong thời gian đó, tin Việt
Minh cướp chính quyền ở Hà Nội và Huế cũng như tin
Hoàng đế có thể thoái vị đă lan
tới Sài G̣n.
Tại Huế, Bảo Đại đă được báo tin về những quyết định
ở Tân Trào về việc Việt Minh nắm chính quyền ở Hà
Nội. Với một quyết tâm sắt đá nhằm duy tŕ vị trí
lung lay của ḿnh, ngay
19-8, Bảo Đại ra lời kêu gọi dân chúng ủng hộ.
Đối vớ thế giới, ông ta nói rằng
nhân dân Đông Dương “có khả năng tự quản và đă tập
trung toàn bộ sức lực để củng cố nền tảng độc lập
của họ”. Với nhân dân Việt Nam, ông ta yêu
cầu hợp tác và nói rằng: “Tôi đă sẵn sàng hy sinh
bản thân ḿnh cho mục đích bảo vệ nền độc lập của
vương quốc và các quyền lợi của nhân dân tôi”.
Ông ta đă bắt đầu dao động và đó
cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy ông có thể thoái
vị nếu cần thiết.
Bất chấp chức tước, triều đ́nh
và quyền lực của ông trên trường quốc tế, địa vị hợp
pháp của Bảo Đại với tư cách là người đứng đầu Nhà
nước đă được xem xét lại. Sáu tháng trước đó,
ngày 11-3, ông đă công bố nền độc lập của Việt Nam
bằng cách công khai hủy bỏ Hiệp ướv bảo hộ Pháp -
Việt 1884 và chấp nhận sự đỡ đầu của Nhật. Nhưng
Pháp đă không biết tới lời tuyên bố độc lập của Bảo
Đại và coi Nhật đă chiếm đóng thuộc địa của Pháp là
một “sự kiện chiến tranh thuần túy” cần phải được
sửa lại bằng việc đánh bại Nhật. Về pháp lư, đă
chẳng có ǵ thay đổi. Đến khi
Nhật thất bại, địa vị của Bảo Đại là người đứng đầu
nước Việt Nam độc lập bị lâm nguy. Ngày 20-8,
Bảo Đại gửi điện riêng cho Tổng thống Truman, Vua
George VI, Thống chế Tưởng và tướng De Gaulle để
tranh thủ sự đồng t́nh và công nhận chính thức của
các vị này.
Vào lúc đó, ở Hà Nội (hoàn toàn độc lập với các biện
pháp tiến hành ở Tân Trào và không có sự hiệp đồng
với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương), các sinh
viên Đại học cánh tả đă tổ chức một cuộc mít tinh
quần chúng với danh nghĩa của Tổng hội Sinh
viên(8). Họ đưa ra một
quyết nghị mạnh mẽ kêu gọi Bảo Đại thoái vị và thành
lập một Chính phủ kiểu cộng ḥa dưới sự bảo trợ của
Mật trận Việt Minh, yêu cầu Mặt trận Việt Minh mở
các cuộc thảo luận với tất cả các đảng phái chính
trị để lập ngay một Chính phủ lâm thời, và cuối cùng
là kêu gọi nhân dân và các đảng phái chính trị hăy
ủng hộ Chính phủ lâm thời để thực hiện sự độc lập
của dân tộc. Ngay chiều hôm đó,
họ đă điện quyết nghị trên tới Hoàng cung.
Bảo Đại bị áp lực thúc ép phải
hành động một cách có tính chất quyết định.
Việt Minh đă phát động công nhân thành thị và nông
dân các thôn xă tiến hành cướp chính quyền; trí thức
và sinh viên đại học đấu tranh đ̣i hỏi những cải
cách triệt để trong Chính phủ và những người Quốc
gia th́ yêu cầu đánh đổ tất cả bọn vua chúa ở trong
cũng như ở ngoài nước. Trước
những áp lực đó, Bảo Đại trả lời là không chịu thoái
vị, mà chỉ cố đứng vững ít lâu nữa, bằng cách mời
Mặt trận Việt Minh thành lập một Chính phủ mới thay
cho chính phủ Trần Trọng Kim.
Ông chia xẻ với đồng bào ông
ḷng mong muốn được độc lập, sau khi đă có quá đủ
những sự bảo hộ của nước ngoài.
Ông cũng không có hận thù cá
nhân với Việt Minh và muốn họ tham gia vào Chính phủ
của ông, sau khi họ đă xuất hiện như là một lực
lượng chính trị. Nhưng hành động của ông đă
quá muộn: Tại Huế, Sài G̣n và Hà Nội, các Bộ trưởng
của ông đă từ chúc và do đó, tất nhiên ông không c̣n
có Chính phủ nữa.
Tuy thế, Bảo Đại luôn luôn là người dễ bảo, đă điện
cho các nhà chức trách Việt Minh ở Hà Nội là ông sẵn
sàng thoái vị và mời Mặt trận Việt Minh ra thành lập
một Chính phủ quốc gia. Lời đề
nghị của ông tới Hà Nội ngày 22-8. Nhưng Việt
Minh đă lập xong một Chính phủ lâm thời, đă nắm
quyền kiểm soát ở nhiều thành phố lớn, và tất nhiên
cũng đă yêu cầu Bảo Đại thoái vị để nhường chỗ cho
một nước cộng ḥa mới.
Các đảng phái miền Nam, cả Mặt trận Dân tộc Thống
nhất cũng như các tổ chức đại diện cho Việt Minh đều
cảm thấy áp lực phải thay đổi mạnh. Việc chuyển giao
vũ khí giữa người Nhật và viên Khâm sai không thoát
khỏi được sự chú ư của Trần Văn Giàu, người bạn tin
cậy của Hồ Chí Minh. Điều hiển nhiên đối với Giàu là
một cuộc đối đầu với kẻ địch được vũ trang đầy đủ sẽ
làm cho Việt Minh cực kỳ khó khăn, nếu không nói là
không thể giành được một chỗ đứng chân ở Nam Bộ. Cố
nắm lấy cơ hội mỏng manh, Giàu t́m cách được tŕnh
bày trong hội nghị Mặt trận Dân tộc Thống nhất được
triệu tập vội vă vào ngày 22-8.
Ông khôn khéo nêu ra vấn đề là Mặt trận Dân tộc
Thống nhất sẽ bị Đồng minh, hiện lúc đó đă đến Hà
Nội(9), coi như một phong
trào do Nhật đỡ đầu, và v́ thế sẽ nhanh chóng bị đặt
ra ngoài ṿng pháp luật. Tất nhiên, dù không chỉ
đích danh, Giàu cũng đă đề cập đến các nhóm thân
Nhật như Phục quốc, Đại Việt, Cao Đài, Hoà Hảo, và
các nhóm nhỏ bé khác với tinh thần tương tự như vậy.
Sau đó, ông đề nghị một sự lựa chọn khả dĩ có thể
chấp nhận được là Việt Minh - đă được nổi tiếng về
thái độ chống Pháp của họ, “lại được Đồng minh giúp
đỡ mạnh mẽ bằng vũ khí, trang bị và huấn luyện” và
đă được công nhận là một lực lượng tiền phong của
phong trào dân tộc. Giàu cũng nhắc cho họ hay là
Việt Minh cũng là một liên minh của nhiều đảng phái
khác nhau đấu tranh cho độc lập dân tộc, và ông
khẳng định rằng Mặt trận Dân tộc Thống nhất chắc
chắn sẽ được hoan nghênh và ủng hộ trong Mặt trận
Việt Minh.
Trong khi hội nghị đang tiến triển th́ họ nhận được
tin sửng sốt là Hoàng đế “đă chỉ thị cho đảng Cách
mạng Việt Nam, phái Quốc gia cánh tả, thành lập Nội
các mới... để thay thế cho nội các của Thủ tướng Kim
đă từ chức toàn bộ...”(10). Mặc
dù có sự chỉ định mờ ám đó, họ cũng vẫn tin tưởng
chắc chắn rằng trọng trách đă được giao phó cho Hồ
Chí Minh và Mặt trận Việt Minh của ông gánh vác.
Lập luận của Giàu có thể không hoàn toàn thuyết phục
được mọi người có mặt nhưng điều ông nói rằng Đồng
minh thiên về phía Việt Minh, gắn liền với việc
hoàng đế tỏ ư muốn giao phó số phận đất nước cho
Việt Minh đă làm cho mọi người tin tưởng hơn. Lời
Giàu nói đến lực lượng vũ trang của Việt Minh với ư
nghĩa là được sự ủng hộ của Đồng minh, cũng như
quyết định để cho đội Thanh niên Tiền phong có vũ
trang(11) đứng về phía những người Cộng sản, đều là
những nhân tố thuyết phục mạnh mẽ.
Suốt đêm 22 và ngày 23, các đường dây điện thoại và
điện báo giữa Sài G̣n, Huế và Hà Nội không lúc nào
ngớt các điện ưu tiên. Ngày 23, kinh thành Huế yên
tĩnh đă phải chịu đựng một chấn thương hết sức nặng
nề là quang cảnh một cuộc biểu t́nh “ḥa b́nh” vĩ
đại do Ủy ban Giải phóng tiến hành với sự ủng hộ của
Việt Minh. Họ đưa quần chúng
đông tới hơn 10 vạn người (hơn gấp đôi số dân kinh
thành) ra yêu cầu Bảo Đại chuyển giao chính phủ cho
Việt Minh.
Ngày 23 cũng là ngày Mặt trận Dân tộc Thống nhất họp
lần cuối cùng để quyết định rút lui khỏi sự lănh đạo
cách mạng và nhường chỗ cho một ủy ban chấp hành Nam
Bộ lâm thời mới được thành lập(12)
do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Ủy ban đóng trụ sở
ngay tại Nam Bộ phủ và Ṭa thị chính, và cho phát ra
một bản tuyên bố công khai tự xác định là một bộ
phận phía Nam của Chính phủ Hà Nội và Huế.
Ở Huế, tối hôm đó Hoàng cung cùng nhận được bức điện
của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam yêu cầu nhà
vua thoái vị(13). Nếu Bảo
Đại c̣n bất cứ sự dè dặt nào đối với Việt Minh th́
các sự kiện ở Hà Nội, Huế và Sài G̣n cũng đă gạt tan
hết. Nhà vua, cũng như phần lớn nhân dân Việt Nam
lúc đó, tin chắc rằng Việt Minh đă may mắn được sự
ủng hộ của Đồng minh nên cũng chẳng c̣n có lư do ǵ
để chống lại với phong trào “dân chủ” đang lên nữa.
Ngày hôm sau, 24-8, theo lời khuyên của người bí thư
riêng trong triều(14),
Bảo Đại trả lời Ủy ban Giải phóng Dân tộc ở Hà Nộ;
rằng ông ta quyết định thoái vị “để không làm trở
ngại cho công cuộc giải phóng đất nước và giành độc
lập của nhân dân tôi”. Đồng thời, ông ta đề nghị Ủy
ban cử người đại diện được chỉ định tới Huế để hợp
pháp hóa sự chuyển giao quyền lực và trách
nhiệm(15).
THIÊN MỆNH
Một sự ngược đời lớn luôn luôn ám ảnh tôi là h́nh
như chính người Pháp, trong những tháng sắp kết thúc
Thế chiến thứ hai, với những lo toan của họ nhằm phá
vỡ chính sách Mỹ không ủng hộ sự đô hộ của Pháp ở
Đông Dương dẫn đến sự sụp đổ của chính họ, một cách
vô ư thức. Rất nhiều lần họ đă làm thất vọng mọi cố
gắng chân thành của các nhà quân sự Đồng minh yêu
cầu họ cộng tác chống Nhật. Nếu họ thật ḷng muốn
hoạt động để đánh bại Nhật trong khuôn khổ của Đồng
minh, th́ không thể nghi ngờ ǵ là họ phải cần đến
bất cứ mọi hoạt động quân sự phối hợp nào với Việt
Minh. Việc toán “Con Nai” chỉ là một thể nghiệm, một
thử thách mạo hiểm, đẻ ra từ những thất vọng về việc
người Pháp đ́nh công, lăn công rút lui không tham
gia hợp tác.
C̣n ông Hồ đă thành công một cách cực kỳ khéo léo
trước nhân dân của ông, trong việc đề cao nhiệm vụ
nhỏ bé của toán “Con Nai” lên thành một nhân tố tâm
lư kỳ diệu. Trước hết, bằng một chứng cứ mong manh,
ông đă thuyết phục được các lănh tụ các đảng phái
cạnh tranh ở Tân Trào rằng ông được người Mỹ nâng đỡ
và rằng ông ta là một con người cùng với Đảng của
ông, được nhằm để thành lập một Chính phủ lâm
thời... Hơn nữa, trước lập luận của ông Giàu là Mỹ
ủng hộ Việt Minh về mặt quân sự, và việc Bảo Đại
phải mời Việt Minh thành lập Chính phủ, th́ c̣n có
đảng chính trị quốc gia nào ở miền Nam lại không
chấp nhận sự lănh đạo của Việt Minh “được Mỹ nâng
đỡ” nữa?(16)
Khi đám quần chúng chất phác thấy hành động thoái
vị, Việt Minh tiếp nhận quyền lực của Bảo Đại từ
chính tay Nhà vua trao, trật tự hoàn hảo và sự điều
hành tốt trong việc Việt Minh tiếp quản th́ đối với
họ, đó rơ ràng là một vấn đề thuộc về “Thiên mệnh”.
Trong khi thế giói có thể bỏ qua tư tưởng can thiệp
siêu phàm như là một sự mê tín, th́ đó lại là một
mục quan trọng của ḷng trung thành với người nông
dân Việt Nam... Người ta có thể hiểu được t́nh h́nh
trong binh lính và dân chúng các xă ở miền Nam trong
những năm chiến tranh gần đây đối với chế độ Hà Nội,
nếu coi đó như là do có “thiên mệnh” và điều đó đă
mang lại niềm tin vào “Bác Hồ”.
Trong điều kiện của tháng
8-1945, ông Hồ đă biến được những tiềm năng hạn chế
của ḿnh thành thắng lợi trong một câu chuyện thật
giống như thần thoại.
Nhưng chắc chắn ông Hồ sẽ không thể thành công nếu
như Đảng Cộng sản Đông Dương của ông đă không được
tổ chức và chuẩn bị tốt cho việc giành chính quyền.
Nhiều năm chuẩn bị không phải là
vô bổ. Tuy nhiên, nếu không có cái hào quang
giả tạo về sự ủng hộ của người Mỹ, th́ Việt Minh
cũng rất có thể không đạt được việc giành quyền lănh
đạo dân tộc trong bước đường tiến từ hoạt động bí
mật sang nắm quyền thống trị công khai.
Như thế Việt Minh đă phát triển thành một lực lượng
thống nhất vĩ đại và cũng
là một sự báo oán cho người Pháp. Trong khi mà
Sainteny ngồi để cố mà h́nh dung ra sự non yếu của
người Việt Nam và chờ đợi cho các nhà chính trị của
họ lần lượt ngă gục trong sự chia rẽ, th́ cũng chính
ông ta và các bạn cộng sự trong DGER của ông, bằng
một cách gián tiếp kỳ lạ, đang làm động cơ thúc đẩy
sự nổi dậy phi thường của Việt Nam...
“THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH”
Ở Sài G̣n, ngày 25-8 là một ngày hội mở đầu một kỷ
nguyên mới đối với người dân Nam Bộ. Hầu như tất cả
mọi người đều muốn ḿnh có dính phần trong đó. Cờ
Việt Minh tung bay khắp
nơi. Xứ ủy Nam Bộ đă tổ chức một cuộc biểu t́nh quần
chúng chưa từng có với trên 50 vạn người, để chào
mừng việc ra mắt của những người lănh đạo mới.
Với một sự cố gắng hơn hẳn đồng
bào của họ ở Hà Nội và Huế, người Sài G̣n đă diễu
qua các nhà lănh đạo của ḿnh trong 9 giờ liền.
Chỉ trong ṿng 6 ngày mà Việt Minh đă thành công
trong việc nắm chính quyền ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam
Bộ. Ít ra là về bề ngoài th́ cuối cùng Việt Nam cũng
đă thống nhất và độc lập. Đó là
một sự thống nhất ngắn ngủi, như các sự kiện sau này
chứng tỏ, nhưng đó là một sự bắt đầu và người Việt
Nam đă rất phấn chấn.
Trong ngày tiếp theo, người Sài G̣n và dân các tỉnh
lân cận ở phía Nam, lần đầu tiên đă được nghe giọng
nói của Hồ Chí Minh qua đài phát thanh, điều đó đă
khuấy động mạnh mẽ tinh thần độc lập tiềm tàng của
họ. Lần đầu tiên trong lịch sử
hiện đại, họ có ư thức về chủ quyền, ư thức về một
dân tộc lớn và mạnh hơn trước. Để nói lên ảnh
hưởng về mặt tâm lư lời nói của ông Hồ đối với người
Sài G̣n, bộ máy tuyên truyền của Huỳnh Văn Tiểng đă
đặt một tên mới cho Sài G̣n: “Thành phố Hồ Chí
Minh”.
Hai ngày sau khi nắm quyền, Giàu bị thất vọng nghiêm
trọng lần đầu tiên khi gặp J.
Cedile(17) để thảo luận về vai tṛ của Pháp.
Giàu đă sớm thấy người Pháp chỉ
thảo luận về tương lai của Đông Dương với điều kiện
trước hết là chủ quyền người Pháp phải được khôi
phục. Người Việt Nam lại
giữ lập trường là chỉ giải quyết mối quan hệ với
nước Pháp khi Pháp công nhận Việt Nam là một nước
độc lập có chủ quyền.
T́nh h́nh đă nhanh chóng dần đến chỗ bế tắc.
ÔNG HỒ Ở HÀ NỘI
Lê Xuân, người Việt Nam trẻ nói là thay mặt Hồ Chủ
tịch, đang đợi tôi sau cuộc gặp gỡ với các nhà báo
Hà Nội. Xuân nói “Chí sĩ Hồ” đang cùng với bạn bè ở
Hà Nội và mong rằng tôi thu
xếp thời gian gặp gỡ với ông.
Tôi nói tôi sẽ đến, nhưng bao giờ và ở đâu?
Xuân giải thích là “Chí sĩ Hồ” mong rằng chưa để lộ
cho công chúng thấy rơ trước khi ông đă sẵn sàng đảm
nhiệm việc nắm quyền, và ông có thể phái một người
bạn đến đón tôi tới gặp ông. Tôi cho anh ta biết là
tôi có một người Nhật thường xuyên đi
theo bảo vệ và chắc chắn
là có hiến binh Nhật theo dơi.
Xuân cho điều đó không có ǵ trở
ngại. Vấn đề quan trọng là đừng để người
Pháp, bất cứ người Pháp nào, biết tin ông Hồ đă ở
trong thành phố và tôi sẽ gặp ông.
Tôi đảm bảo với anh ta sẽ giữ
kín đáo, và khi ra đi, anh nói sẽ vẫn giữ liên lạc.
IMAI LÀ AI?
Sau khi đi kiểm
tra Thành và Gia Lâm về, viên đại úy bảo vệ người
Nhật đă hỏi xin đến gặp tôi vào tối hôm đó.
Vào lúc đă khuya, anh đến biệt thự tôi ở, mang
theo một chai Johnnie
Walker đỏ. Tôi rất khoái về thái độ lịch duyệt không
b́nh thường này v́ Imai là một viên sĩ quan thận
trọng, không tỏ ra ṭ ṃ nhưng cái ǵ cũng biết, đeo
quân hàm dại úy nhưng luôn luôn được đối xử một cách
tôn kính bởi người Nhật ở một chức vụ cao hơn thế
nhiều.
…Trước ly rượu, đối diện với tôi, với một giọng hối
hận, anh ta nói rằng anh ta lấy làm tiếc v́ người
Nhật đă chọn con đường chiến tranh năm 1941, thay
cho việc làm theo lời khuyên của Hoàng thân
Konoyé(18)... Anh nói
tiếp là có quen biết nhiều người Mỹ ở Tokyo và hy
vọng có một cơ hội nào đó để gặp lại người quen
cũ...
Để chuyển hướng câu chuyện, tôi
hỏi nhiệm vụ của anh ta là ǵ? Không một chút
do dự, anh trả lời: “Để tạo thuận lợi cho sứ mệnh
người Mỹ ở Hà Nội”. Chắc anh ta nhận thấy sự hoài
nghi trên nét mặt của tôi nên giải thích rằng Bộ
Tổng Tham mưu đă đồng ư với tướng Tsuchihashi là sẽ
chẳng có lợi ǵ trong việc chối từ không chịu chấp
nhận ư nguyện đầu hàng Đồng minh của Nhật Hoàng,
nước Nhật đă bị đánh bại trong chiến tranh và người
Nhật sẽ cần phải được tôn trọng trong sự giao tiếp
của họ với kẻ chiến thắng. Tôi không thể tin được
những lời tôi đă nghe và có ư ngờ rằng đây là một
tṛ ǵ chăng...
Imai rót thêm rượu và nói rằng
anh ta có biết về OSS. Mặc dù không hay biết
ǵ về cấp bậc của tôi nhưng anh ta biết tôi là một
sĩ quan OSS trong Cục t́nh báo của tướng Wedemeyer.
Và dĩ nhiên, trước mắt anh ta,
nhiệm vụ của tôi không chỉ giới hạn trong các vấn đề
tù binh chiến tranh và vấn đề đầu hàng sắp tới, mà
c̣n bao trùm nhiều vấn đề có lợi ích rộng lớn khác.
Tôi vẫn thản nhiên, nhưng cũng
thấy trong thông báo của anh ta không có biểu hiện
ǵ của sự thù địch. Khi
tôi rót rượu tiếp, anh ta nhắc lại là được cấp trên
chỉ thị cho anh phải “tạo thuận lợi” cho công tác
của tôi, “bất kể công tác đó là ǵ”. Tiếp đó
anh ta trao cho tôi tấm danh thiếp có in “Ichio
Imai” cùng với địa chỉ cá nhân ở số 7 đường P.
Jabouille, Hà Nội và số điện thoại.
… Tôi hỏi thẳng anh ta muốn ǵ
đây. Imai vui vẻ trả lời trong một hay hai
ngày nữa Việt Minh sẽ được các nhà đương cục Nhật
trao lại cho toàn bộ chính quyền và tôi, chắc chắn
là sẽ muốn có những quan hệ chặt chẽ hơn nữa với họ.
V́ vậy Imai đă được phép phải
giúp đỡ tôi. Anh ta quan tâm đến việc Lê Xuân
đă gặp tôi và báo cho tôi biết tin Xuân là người của
Việt Minh. Xuân được giao làm công tác tuyên truyền
trong quân đội Etsumei (Việt Nam), một nhóm cách
mạng trong Mặt trận Việt Minh cộng tác với Nguyễn Ái
Quốc, c̣n được gọi là Chí sĩ Hồ hay là Hồ Chí Minh.
Tôi cảm ơn Imai và nhờ chuyển đến tướng Tsuchihashi
sự cảm kích của tôi trước mối quan tâm và sự cộng
tác của ông, đồng thời cũng tranh thủ nhắc lại nhiệm
vụ của tôi đă được nêu lên trước đây, vấn đề tù binh
và việc đầu hàng. Tuy nhiên, thấy t́nh h́nh Pháp -
Việt ở địa phương căng thẳng, tôi rất muốn thấy
không ai được châm lửa vào t́nh h́nh chính trị và
gây ra một cuộc tàn sát người Pháp.
Nếu tôi cần giải quyết một việc
ǵ đó với Việt Minh, tôi sẽ làm việc đó thận trọng
và không để lộ cho bên ngoài biết. Imai đồng
ư và nói với tôi được tự do làm bất cứ việc ǵ tôi
thích và anh ta lúc nào cũng sẵn sàng để phục vụ. Ít
phít sau, anh ta ra về…
Lúc đó đă 11 giờ đêm, tôi trao danh thiếp của Imai
cho người phụ trách X2 và yêu cầu cho tôi biết tất
cả những ǵ anh ta có thể t́m được về Imai.
Ngày hôm sau, trước khi tôi đến
gặp ông Hồ, X2 báo cáo.
Tóm tắ: Imai, đại úy hải quân Hoàng gia Nhật, trước
cầm đầu phái đoàn hải quân Nhật tại Hà Nội, phụ
trách nhóm t́nh báo. Hiện nay đang làm nhiệm vụ đặc
biệt đóng vai phiên dịch cho một số tướng Nhật ở
Đông Dương, h́nh như đang được giao nhiệm vụ rất
quan trọng và được tham gia vào tất cả các cuộc họp
bí mật của Bộ Tổng tham mưu.
Tôi cười, khi nhận ra “cái bóng”
của ḿnh lại là con chó đầu đàn trong cái tṛ này.
Dù thế nào đi nữa th́ bọn hiến
binh cũng phải bị loại bỏ.
Họ không có ǵ đáng phải sợ khi
tôi đến thăm ông Hồ và các cố vấn của ông ta.
Người Nhật, họ đă tin vào những đồn đại về việc
người Mỹ đă nâng đỡ Việt Minh.
Chú
thích :
(1) Trước năm 1945, các tin tức bất kỳ dưới dang nào
đều phải chịu kiểm duyệt và được hướng dẫn ở một mức
độ nhất định, đặc biệt trong giai đoạn Toàn quyền
Decoux và Nhật chiếm đóng.
(2) tức Vũ Văn Minh,
thuộc Thành ủy Hà Nội, phụ trách cơ quan thông tin
của Chính phủ Lâm thời.
(3) Chuyên viên dân sự, phụ trách chiến tranh chính
trị thuộc MO
(4) chỉ Xứ ủy Nam Bộ
(5) tức Nguyễn Văn Sâm, một trong các sáng lập viên
Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng, có xu hướng thân
Nhật
(6) Mặt trận Dân tộc Thống nhất thành lập ngày
14-8-1945 gồm các tổ chức Việt Nam Quốc gia Độc lập
Đảng, Thanh niên Tiền phong, Nhóm trí thức, Liên
đoàn Công chức, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Ḥa Hảo,
Nhóm Tranh đấu La Lutte, Cao Đài; chịu ảnh hưởng chủ
nghĩa Troskism và tẩy chay những người Việt Minh
Cộng sản.
(7) Phần lớn số vũ khí này lại chuyển về tay các lực
lượng vũ trang của Cào Đài, Ḥa Hảo và sau này đă
được dùng để chống Anh, Pháp, Việt Minh và cũng có
thể đối với Ngô Đ́nh Diệm.
(8) trụ sở ở Việt Nam học
xá Hà Nội, do Phan Anh và Tạ Quang Bửu, hai cựu thủ
lĩnh phong trào thanh niên thời Toàn quyền Decoux
trước 9-3, lănh đạo.
(9) Nguyễn Khang ở Hà Nội đă điện thoại báo cho Giàu
biết có “Ủy ban đ́nh chiến Đồng minh” đang trên
đường đến Hà Nội. Cái được gọi
là “Ủy ban” đó thực sự chỉ là toán Mercy của chúng
tôi.
(10) măi đến khi Bảo Đại tuyên bố ở cuộc mít tinh,
Giàu và người cộng tác thân cận của ông mới biết tin
về hành động của Bảo Đại, v́ Nhật đă cấm báo chí và
tin tức trong 6 ngày, đến 28-8 mới dỡ bỏ.
(11) Thanh niên Tiền phong là lực lượng vũ trang
quan trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, cùng với
Cao Đài.
(12) c̣n gọi là Ủy ban Hành chính Lâm thời miền Nam
Cộng ḥa Việt Nam, hay Lâm ủy Nam Bộ. Thành phần Lâm
ủy g̣m Trần Văn Giàu (Cộng sản) - Chủ tịch, bác sĩ
Phạm Ngọc Thạch (Việt Minh) - Ủy viên Ngoại giao,
Nguyễn Văn Tạo (Cộng sản) - Ủy viên Nội vụ, Huỳnh
Văn Tiểng (Dân chủ) - phụ trách Tuyên truyền, Dương
Bạch Mai (Cộng sản) - Ủy viên hành chính và chính
trị miền Đông, Nguyễn Văn Tây (Cộng sản) - Ủy viên
hành chính và chính trị miền Tây, Hoàng Đôn Văn
(Việt Minh) - Ủy viên Lao công, Phạm Văn Bạch (độc
lập) - Ủy viên, Ngô Tấn Nhơn (đảng Độc lập Dân tộc)
- Ủy viên và Huỳnh Thị Oanh (độc lập)- Ủy viên Phụ
nữ.
(13) Điện của Việt Minh yêu cầu Bảo Đại thoái vị gửi
đi ngày 23-8 từ Hà Nội. Công văn
Bảo Đại gửi mời Việt Minh thành lập Chính phủ mới
gửi đi ngày 22-8 từ Huế.
Tuy cùng thời gian chuyển đi nhưng không có sự phối
hợp ǵ giữa 2 văn kiện.
(14) tức Phạm Khắc Ḥe,
Đổng lư Văn pḥng của Bảo Đại
(15) Ngày 25-8, Ủy ban cử Trần Huy Liệu (Phó chủ
tịch) cầm đầu phái đoàn vào tiếp nhận việc thoái vị
của hoàng đế. Trong đoàn c̣n có Nguyễn Lương Bằng và
Cù Huy Cận. Cùng ngày, tại Hội nghị Hội đồng tư vấn
hoàng gia tại điện Kiến Trung, Bảo Đại cho thảo bản
tuyên bố thoái vị.
Phái đoàn đến Huế ngày 28-8 và được Bảo Đại tiếp
kiến riêng – và có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, một hoàng đế An Nam đă bắt tay với một
thường dân của ông. Ngày hôm
sau, tại Hoàng cung, Bảo Đại đă trao bản tuyên bố
thoái vị cho Trần Huy Liệu.
Chiều 30-8, Bảo Đại mặc lễ phục,
đọc bản tuyên bố thoái vị trước cửa Ngọ Môn, dưới sự
chứng kiến của rất đông công chúng.
Cờ Hoàng đế hạ xuống và cờ đỏ
sao vàng của nước Việt Nam mới được kéo lên.
Buổi lễ kết thúc với việc trao
lại ấn kiếm Hoàng đế trong khi quần chúng hô to hoan
nghênh công dân Vĩnh Thụy.
(16) Trả lời phỏng vấn của đài BBC, tháng 9-1977,
tướng Trần Văn Đôn, người trong nhóm tướng lĩnh chỉ
huy lật đổ chế độ Diệm tháng 11-1963, đă nói: “Chúng
tôi biết lúc đó, tổ chức này (Việt Minh) được người
Mỹ nâng đỡ…”, “ngay cả Bảo Đại lúc đó cũng cho là
nhóm Hồ CHí Minh lănh đạo, được người Mỹ hỗ trợ”…
Cũng trong một bài phỏng vấn khác của BBC vào năm
1977, tướng E.G. Lansdale, phụ trách CIA ở Bắc Việt
Nam một thời gian năm 1954, đă nói về ảnh hưởng của
các hoạt động của Mỹ năm
1945 ở Việt Nam như sau: “Dân chúng mà tôi đă gặp
nói chuyện ở miền Bắc, đều khẳng định là nhóm Hồ Chí
Minh là hoàn hảo nhất v́ được Mỹ ùng hộ và do đó, có
thể được tín nhiệm hoàn toàn…”
(17) Ủy viên Cộng ḥa Pháp ở Nam kỳ, được bí mật thả
dù xuống vùng lân cận Sài G̣n đêm 22 rạng 23-8.
(18) Hoàng thân Konoyé (1891-1945), 3 lần làm Thủ
tướng Nhật và được nhiều người xem như là ông phản
đối việc Nhật tham gia chiến tranh chống Mỹ.
Chương 20
Một
ngày chủ nhật bận rộn
CUỘC ĐÓN TIẾP CHÍNH THỨC
Vào ngày chủ
nhật đầu tiên ở Hà Nội, chúng tôi đang chờ đợi
một ngày yên tĩnh và kéo dài bữa ăn sáng th́
nghe thấy ngoài cửa có tiếng ồn ào, tiếng kèn
trống. “Đây là một cuộc biểu t́nh nữa”, Grélecki
vừa nói vừa cùng với Bernique chạy ra cửa quan
sát. Ngay ở thềm cửa trước nhà đă có bốn quư ông
Việt Nam chờ hỏi trưởng phái bộ Mỹ. Họ là đoàn
đại biểu của Ủy ban Giải phóng Dân tộc, tức
Chính phủ lâm thời mới, đến
để chào mừng Đồng minh.
Bernique mời họ vào pḥng
khách lớn. Tôi nhận
ra ngay Vũ Văn Minh và ông ta giới thiệu người
cầm đầu phái đoàn là Vơ Nguyên Giáp, đại diện
cho Hồ Chủ tịch. Tiếp đó Giáp giới thiệu
Dương Đức Hiền(1) và
Khuất Duy Tiến(2). Họ đều
mặc đồ trắng, thắt cà vạt, trừ Giáp mang một áo
khoác cũ và mũ cát trắng.
Bằng tiếng Pháp hoàn hảo,
Giáp chuyển lời hoan nghênh của cá nhân Hồ Chủ
tịch và của bản thân ông.
Chúng tôi có được dễ chịu
không? Có cần ǵ
không? Chúng tôi hăy cứ tự coi ḿnh như
là khách quư của Chính phủ Việt
Nam(3).
Người ta mong rằng chúng tôi
sẽ ở lại đây lâu và sẽ thấy thú vị.
Tôi nhờ Giáp cảm ơn Chủ tịch
Hồ và mong rằng sẽ sớm được gặp ông.
Hai người giúp việc Việt Nam bưng cà phê vào mời
khách và Hiền đă thân mật chuyện tṛ với một
trong hai người. Chúng tôi ít nhiều ngạc nhiên
khi biết Phát, một người giúp việc, trước đây là
một sinh viên trong phong trào thanh niên của
Hiền và phong trào này đă đi
theo đội quân Giải phóng của Giáp. Sau,
Phát đă được chỉ thị gia nhập vào đơn vị Bảo an
thân Nhật để hoạt động cho Việt
Minh(4).
Tuy ngạc nhiên nhưng chúng
tôi cũng chẳng có ǵ phải lo ngại v́ đă thường
xuyên duy tŕ được một chế độ bảo mật chặt chẽ
trong sinh hoạt...
Sau những lời hoan nghênh và xă giao chính thức,
Giáp thưởng thức ly cà phê và đi vào câu chuyện
nghiêm chỉnh. Theo ông, Hồ Chủ tịch rất
mừng khi biết chúng tôi tới Hà Nội, nhưng lại lo
việc về các sĩ quan Pháp đi
theo cùng phái đoàn chúng tôi.
Ông muốn cho biết thế nào mà
người Pháp lại có thể tới Hà Nội trước được
người Trung Quốc? Hay là Đồng minh đă
thay đổi kế hoạch? Hoặc
người Pháp đă được phép chiếm lại Việt Nam?
Tôi bảo đảm với Giáp rằng kế
hoạch của Đồng minh không có ǵ thay đổi.
Ở Potsdam, người Trung Quốc đă được chỉ định tạm
thời chiếm đóng Đông Dương từ bắc vĩ tuyến 16 để
tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và hồi hương quân
Nhật bại trận. Quân đội Pháp ở Trung Quốc sẽ chỉ
được phép di chuyển dần từng bộ phận về phía nam
sau khi Đồng minh đă tiếp nhận sự đầu hàng của
Nhật. Theo chỗ tôi hiểu th́ cả người Trung Quốc
và người Mỹ đều không có kế hoạch giúp Pháp quay
trở lại Đông Dương bằng vũ lực.
Thế c̣n nhóm đi cùng trên máy bay với tôi? Tại
sao tôi lại đưa họ đi theo?
Giáp không hiểu nổi như thế
là thế nào.
Tôi cũng thấy được sự bối
rối của họ. Người đứng đầu cơ quan T́nh
báo Pháp ở Trung Quốc hiện đă có mặt ở tại Hà
Nội nhờ có sự giúp đỡ của Đồng minh, và họ lại
c̣n được người Nhật cho trú ở Dinh Toàn quyền
Pháp... Người Mỹ là những người đầu tiên vào
Đông Dương, nhưng họ lại tuyên bố họ chỉ có
nhiệm vụ quan sát việc giải giáp quân Nhật và
giao cho người Trung Quốc gánh vác mọi trách
nhiệm.
Trong con mắt những người khách của chúng ta th́
t́nh h́nh thực là rối rắm.
Tôi nói rơ với họ là theo chỗ tôi biết, cho đến
nay Mỹ không có ư định giúp người Pháp quay trở
lại Đông Dương chống lại nguyện vọng của nhân
dân Việt Nam, và sau này chắc cũng sẽ như vậy.
Nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu rằng Pháp đă là
một nước đồng minh, đă bị thiệt hại nặng nề
trong cuộc chiến tranh chống Đức, giống như Anh
và Liên Xô, Pháp không thể bị khước từ về t́nh
hữu nghị của chúng tôi, mặc dù chúng tôi có thể
không đồng t́nh với các chính sách thực dân của
Pháp.
Trong vấn đề này chúng tôi
không hoàn toàn nhất trí với cách làm của người
Anh. Phái đoàn chúng tôi đă để cho toán
nhỏ 5 người Pháp đi theo,
trên cơ sở thống nhất với nhau rằng họ sẽ chỉ
hạn chế vào việc làm công tác nhân đạo đối với
tù binh và thường dân Pháp.
Hơn nữa, ngay cả việc đó họ cũng chưa được phép
làm.
Khi tôi nói tới Liên Xô,
Giáp và Tiến đă tỏ ra chú ư đặc biệt. Cả
hai đều muốn phát biểu, nhưng Giáp đă nói muốn
biết tại sao Liên Xô lại không có đại diện ở
Đông Nam Á. Tôi đáp lại một cách dễ dàng; Nguyên
soái Xtalin ở Potsdam đă đồng ư để cho Tổng tư
lệnh tối cao các nước Đồng minh được cử các đại
diện Đồng minh để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật
và chỉ định nơi tổ chức cuộc đầu hàng.
Thống chế Tưởng đă được chỉ
định cho miền Bắc Đông Dương, trong khi mà Liên
Xô tỏ ra không muốn giành quyền ưu đăi đối với
vùng này. Hiển nhiên
là Giáp và Tiến chẳng khi nào nghĩ tới khả năng
có thể Nguyên soái Xtalin lại không muốn để cho
ḿnh bị dính líu trực tiếp vào vấn đề Việt Nam
đang rối rắm. Họ
ngừng hỏi và cũng có thể ngại hỏi để rồi lại
phải nghe thêm những điều chẳng thích thú lắm.
Giáp lên tiếng cừời, một
điều ít khi thấy, và nói “Công chúng đang mong
được đón chào ông và các bạn Mỹ của chúng ta.
V́ vậy, xin mời ông và cả
đoàn hăy vui ḷng ra phía cổng trước”.
Qua những tiếng ồn ào, chúng
tôi biết ngay đây là một buổi lễ ở ngoài trời.
Bernique tập hợp cả toán lại trước cái sân nhỏ,
c̣n chúng tôi cũng thu
xếp, Giáp và tôi dẫn đầu, theo sau là các vị đại
biểu Việt Nam rồi đến những người c̣n lại trong
toán OSS.
Chúng tôi tiến đến các bệ ở
cạnh cổng ra vào, giữa một cảnh tượng đẹp mắt
xúc động. Một dàn
quân nhạc khoảng 50 người đă đứng dàn ngang trên
đường, phía trước mặt. Phất phới trong
gió 5 lá cờ lớn của Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc
và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Bên trái là một
đơn vị bộ đội 100 người đứng ở tư thế “nghiêm
chào”. Họ trông thật giống đội quân mà Thomas
trong toán “Con Nai” đă tả, với mũ cát, có áo
cộc tay, quần soóc
kaki, mang vũ khí Mỹ và Anh.
Bên phải là các toán thanh niên của Hiền, mặc đồ
trắng. Chung quanh bên trong là các ṿm
cây điểm hoa của khu phố Beauchamp... Giáp chỉ
và nói một cách tự hào: “Bộ đội của chúng tôi
vừa mới từ rừng núi về”.
Thoáng một cái, các cờ được
kéo xuống, trừ cờ Mỹ, quốc thiều Mỹ nổi lên, rồi
các cờ lại được kéo lên. Sau đó, cứ tiếp
tục như vậy cho cờ mỗi nước, lần lượt đến Liên
Xô, rồi Trung Quốc và cuối cùng là Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa.
Sau khi tôi tỏ lời cảm ơn đoàn đại biểu, viên
chỉ huy bộ đội, đội quân nhạc, các đơn vị bắt
đầu diễu hành... Có cả một
hàng dài thường dân, có nhiều cờ và biển dẫn đầu
ghi lời chào mừng phái đoàn chúng tôi và các
khẩu hiệu chính trị.
Nhiều thiếu nữ và thiếu niên vừa đi vừa hát bài
quốc ca mới. Khi qua chỗ chúng tôi, họ
đều “nh́n thẳng” và giơ cao
tay phải lên chào.
Đến tận gần trưa cuộc diễu
hành mới kết thúc và đoàn đại biểu cũng ra về.
Trong lúc chia tay,
Giáp, với một vẻ xúc động, đă quay lại nói với
tôi: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
mà cờ nước chúng tôi được trương lên trong một
buổi lễ quốc tế và quốc ca chúng tôi được cử
hành để chào mừng một vị khách nước ngoài.
Tôi sẽ
măi măi không quên cơ hội này”.
GẶP LẠI ÔNG HỒ
Ở trong nhà,
Lê Xuân đứng nóng ḷng chờ tôi.
Anh ta chuyển lời ông Hồ mời tôi tới ăn cơm và
đă có sẵn một xe và
lái xe để đưa tôi đi. Tôi xem nhanh các điện từ
Côn Minh mới gửi tới, nhưng cũng chẳng thấy được
điều ǵ nói về việc đầu hàng, mà chỉ thấy có
điện của Helliwell ra lệnh cho các đại úy Conein
và Spaulding đang chỉ huy hai toán ở biên giới
Đông Dương phải về Côn Minh để đáp máy bay đi Hà
Nội và không được đưa người Pháp đi cùng.
Lê Xuân và tôi ngồi vào một chiếc
xe Citroën cũ và lên
đường. Đă gần một giờ nên
Xuân rối lên v́ tôi được hẹn vào giữa trưa.
Tôi th́ vui và đảm bảo có
thể giải thích được sự chậm trễ này v́ dù sao
th́ Chủ tịch chắc cũng đă biết việc ǵ đă xảy
ra.
Người lái Việt Nam đă điều khiển cái
xe cũ kỹ một cách khá
thông thạo, vừa tránh người tản bộ ngày chủ
nhật, vừa tránh các luồng xe đạp và lách trong
ḍng đủ các xe cộ. Chúng tôi
đi hết đường này đến đường khác, cứ như là đi
ṿng tṛn. Gần 10 phút đi quanh và tôi
cho rằng người lái xe
đă cố để cho không bị theo dơi. Cuối cùng, chúng
tôi đă dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng b́nh
thường trong khu thành phố
cũ(5). Không có bóng một người Âu hoặc
người Nhật. Một thanh niên đứng đón chúng tôi ở
cửa, trao đổi một vài câu với Xuân, rồi dẫn
chúng tôi vào nhà và bật đèn.
Khi tôi lên đến buồng gác, một bóng nhỏ nhắn
tiến lại gần và giang rộng hai
tay đón chào thân
mật. Tôi rất vui được gặp
lại ông nhưng cũng rất sửng sốt.
Ông Hồ chỉ c̣n là một cái
bóng của con người mà 4 tháng trước đây tôi đă
gặp ở Chiu Chou Chich. Tôi cầm lấy
tay ông nhưng h́nh
như tay ông hơi run. Trên
đôi chân đi dép, thân h́nh xương xẩu trái ngược
với cái trán khá rộng với nụ cười rạng rỡ trên
khuôn mặt. Trang phục
của ông, một tấm áo nâu sẫm và quần rộng, lại
càng làm đậm thêm một vẻ hoang tàn.
Tôi bắt đầu xin lỗi v́ đến
chậm, nhưng ông Hồ không chú ư và nói đó không
phải lỗi tại tôi và nh́n về phía Giáp mỉm cười.
C̣n tôi cũng vui khi thấy
Giáp ở đây, mặc dù trước đó ông vẫn lặng thinh
chẳng nói ǵ với tôi về bữa cơm.
Đưa tôi về phía những người
c̣n đứng yên ở một góc, ông Hồ giới thiệu,
“người bạn Mỹ từ Washington của chúng ta”.
Tôi hơi lúng túng và không muốn để bị hiểu lầm
về quy chế chính thức của tôi, tôi sửa lại “xin
lỗi, từ Côn Minh tới”, mọi người cười x̣a, và
ông Hồ cũng nhắc lại “từ Côn Minh tới”.
Tôi đă cố nhớ lại những
người có mặt buổi hôm đó, nhưng chắc chắn chỉ có
ông Hồ, Giáp, Trường Chinh và có thể cả Nguyễn
Khang.
Tôi hỏi thăm về t́nh h́nh sức khỏe, ông Hồ cho
biết có bị sốt nhẹ và đau bụng, nhưng bằng một
cử chỉ khoáng đạt, ông gạt chuyện đó sang bên và
hỏi tôi về những tin tức ở Côn Minh và
Washington. Trước khi tôi
trả lời, người thanh niên đón chúng tôi đă bưng
vào một cái khay với 6 cốc và một chai Vermouth.
Người thanh niên rót rượu và
ông Hồ mời tôi đầu tiên. Tôi đă nghĩ ngay
đến một lời chúc từ chính trị phiền hà, nhưng
ông Hồ đă chẳng làm tôi phải lúng túng và chỉ
nói “à votre santé”(6).
Tôi cũng đáp lại “à la vôtre”(7).
Tôi không ngạc nhiên khi thấy ông chỉ chạm môi
vào ly cốc v́ đă nghe nói ông là một người
ăn uống thanh đạm.
Ông Hồ mời chúng tôi sang pḥng bên, ở đó đă có
bày bàn cơm cho 6 người, món
ăn thanh đạm nhưng rất ngon... Tôi ngồi
chỗ bên phải ông Hồ và là chỗ duy nhất bày đồ
dùng theo kiểu Âu
Châu, đồ Trung Quốc và bằng bạc.
Đó là một sự chiếu cố, nhưng
tôi sử dụng khá thành thạo bát đũa nên đă hỏi
xem có thể có bát đĩa được không.
Mọi người thích thú và bát
đũa được đưa tới ngay.
Không khí chan ḥa.
Ai cũng thoải mái.
Câu chuyện diễn ra bằng
tiếng Pháp, thỉnh thoảng có xen lẫn tiếng Anh.
Tôi thấy chỉ ḿnh ông Hồ
biết tiếng Anh, nhưng c̣n ít sử dụng để giữ cho
mọi người đều có thể tham gia câu chuyện.
Và một cách nhẹ nhàng, ông nhắc sơ lại việc nhân
dân ông đă cộng tác với AGAS, GBT, OWI và tất
nhiên là cả OSS khi ông nói tới việc người Mỹ đă
có ư định tuyển mộ ông làm việc cho OWI ở San
Francisco năm 1944-1945.
Theo ông nói th́ ông đă hy vọng là nếu như người
Mỹ thực hiện điều đó th́ ông đă có thể gặp được
đại diện Liên Hợp Quốc để tŕnh bày nguyện vọng
độc lập của nhân dân ông.
Nh́n lại, ông nói, chắc cũng
không thể thành công hơn việc đă làm ở
Versailles vào 1919.
Cơm xong, chúng tôi chuyển ra ban công để dùng
cà phê, bốn người kia
rút lui và chỉ c̣n lại ông Hồ và tôi.
Mở đầu câu chuyện, ông cảm
ơn tôi đă có nhă ư nhận lời mời và mong rằng sẽ
được cùng nhau nhận định về t́nh h́nh hiện tại.
Tôi cho rằng điều đó thực là
bổ ích nhưng phải xác nhận rằng địa vị của tôi
rất bị hạn chế bởi các chỉ thị của cấp trên và
tôi không được phép để cho ḿnh dính líu vào các
vấn đề chính trị Việt - Pháp. Ông Hồ lắc
đầu nhiều lần, giơ tay
và cười nói: “Tôi hiểu! Có
thể sau này, chứ bây giờ tôi không yêu cầu ǵ
cả. C̣n hôm nay chúng
ta có thể nói chuyện với nhau như những người
bạn, chứ không phải là những nhà ngoại giao”.
Tôi cũng cười đáp lại: “Đúng!
Và như thế là ông không nghĩ
rằng tôi sẽ báo cáo nội dung câu chuyện của
chúng ta cho Côn Minh?”. “Không!”,
ông Hồ nói, “cho tới khi cả người Pháp lẫn người
Trung Quốc cũng không hay biết ǵ về tôi”.
Trong hai giờ liền sau đó, chúng tôi đă soát lại
một số sự kiện và các vấn đề đặt ra từ khi có
cuộc gặp gỡ với toán “Con Nai” cho tới các “Cuộc
khởi nghĩa” ở Sài G̣n và Hà Nội.
Ông Hồ rất nóng ḷng muốn
cho tôi biết hết những t́nh h́nh mới nhất và tôi
cũng rất muốn nắm trọn được mọi tinh huống.
Khi nhắc lại một cách buồn
cười sự việc của Montfort, ông Hồ hỏi tôi tại
sao người Pháp lại bỏ qua những đề nghị gặp gỡ
của ông Hồ dạo tháng 7. Đặc biệt trong
lúc bấy giờ, ông rất chú ư không những đến việc
làm sáng tỏ bản tuyên bố mơ hồ ngày 23-4 của
Pháp(8) mà c̣n việc mở ra các cuộc thương lượng
với các nhà chức trách Pháp tại Trung Quốc.
Tôi thú thực không biết ǵ
về ư đồ của Pháp, ngoài việc OSS đă nhờ AGAS
chuyển những bức điện của ông cho họ.
Ông Hồ thất vọng và cảm thấy
bị xúc phạm bởi sự kiêu căng của Pháp khi ông
phê phán cuộc vận động chống Việt Nam của Pháp
tại Trung Quốc. Ông
đặc biệt tức giận đối với Sainteny và nhấn mạnh
là chẳng ai c̣n lạ ǵ “Sainteny, trưởng đoàn
M.5, là người đại diện của De Gaulle”.
Theo ông th́ phái đoàn Sainteny chống đối với
người Việt Nam và do đó sẽ gây ra nhiều vấn đề
cho Chính phủ Lâm thời.
Về “kíp người” ở dinh Toàn
quyền, ông Hồ hỏi “Họ hy vọng làm được ǵ nhỉ?
Không biết có lúc nào họ nghĩ rằng họ lại có thể
ngăn chặn được sự tiến triển của lịch sử Việt
Nam không?”. Tôi
không thể trả lời thay cho người Pháp và chỉ có
thể giải thích rằng chúng tôi đă để họ đi theo
là nhằm để giúp đỡ chúng tôi trông nom số khá
lớn tù binh Pháp và do đó chúng tôi đă hạn chế
chỉ để cho họ có 5 người.
Ông Hồ rất mực không tin.
“Đó có thể là mục đích của
các ông nhưng chắc chắn không phải mục đích của
họ”.
Để ông bớt lo ngại, tôi gợi ư xem có thể lợi
dụng nhóm Sainteny làm cái cầu để sớm bắt liên
lạc với người Pháp được không, thậm chí cũng có
thể thử dẫn dắt họ tới việc phải công nhận trên
thực tế việc Việt Minh đă nắm chính quyền.
Ông Hồ không nghĩ như vậy.
Trong lúc này, ông không sẵn sàng thương lượng.
T́nh h́nh sau này cũng có
thể sẽ thay đổi khi người Pháp nhận thức được họ
không thể giữ măi được những tham vọng của họ
trước. Nhưng cho đến
lúc đó th́ họ vẫn cứ phải ở tại Dinh và cần phải
được canh giữ. Tôi
gợi ư một lần nữa về một cuộc đối thoại với
Sainteny nhưng ông Hồ vẫn khăng khăng không chịu
và cho rằng không được kết quả ǵ tích cực.
Song, v́ nhă ư đối với tôi,
ông nói về vấn đề này, tôi có thể tùy ư quyết
định.
Nhưng ông Hồ không phải chỉ
lo lắng về người Pháp không thôi, ông c̣n gặp
khó khăn đối với những mưu toan của người Anh và
Trung Quốc. Ông nói một cách thông thạo
về sự hợp tác Pháp - Anh ở Lào, Kampuchia và Nam
Bộ. Trong các khu vực này, rơ ràng quyền lợi của
Anh trùng hợp với các mục tiêu của Pháp với mục
đích lâu dài nhằm khôi phục lại khu vực thuộc
địa trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á. C̣n
đối với người Trung Quốc, ông Hồ xác định lợi
ích của họ chính là những vụ “trấn lột về chính
trị”. Có tin từ Trùng Khánh cho biết, Quốc dân
Đảng (Trung Quốc) đang xúc tiến thương lượng với
Chính phủ Paris về nhiều vấn đề đặc quyền ở Đông
Dương và ông Hồ tin chắc rằng hoạt động của các
cường quốc Pháp, Anh, Trung Quốc sẽ gây nguy hại
cho sự toàn vẹn của phong trào giải phóng dân
tộc.
Câu chuyện trở nên chán
ngán. Tôi chuyển sang hỏi về mối quan hệ
giữa Nhật và Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ khẳng
định là Nhật không can thiệp và đă có thái độ
hợp tác tốt từ sau cuộc “khởi nghĩa” ở Hà Nội,
đă có một sự thông cảm ngầm không qua những mối
quan hệ chính thức hoạt động thương lượng.
Người Nhật đă rút lui một
cách có trật tự và Việt Minh tiếp quản dần từng
ngành chính quyền.
Nhưng ông không biết phải chờ đợi ǵ ở Đồng minh
sau khi Nhật rút đi và ông cũng chẳng rơ ai thay
thế họ. Tôi nói có
thể là người Trung Quốc như đă thỏa thuận ở
Potsdam. Ông Hồ không
ngạc nhiên v́ ông cũng đă nghĩ là t́nh h́nh cũng
có thể sẽ như thế nhưng chưa chắc chắn lắm.
Tôi ngầm tự hỏi không rơ ông
có hy vọng ǵ vào việc Mỹ chiếm đóng không.
Ông rất khó chịu về việc người Việt Nam phải
tiếp đón quân đội Trung Quốc và cho rằng việc
một số lớn người Trung Quốc tràn vào Việt Nam,
cộng với số quân Nhật ở đây sẽ làm cho tài
nguyên đất nước khánh kiệt một cách ghê gớm. Một
cách tinh vi, ông đă
liên tưởng đến những rối loạn mà quân đội chiếm
đóng Tưởng có thể gây ra nếu họ cướp bóc lan
tràn và lộng hành đối với dân chúng.
Ông yêu cầu tôi báo trước
cho Đồng minh về những khả năng này, và tôi đă
hứa sẽ làm đầy đủ.
Đó là một số vấn đề đă ám
ảnh ông Hồ, đều là những vấn đề giải quyết không
dễ dàng và chúng tôi cũng chỉ có thể tác động
tới được rất ít.
Không kể đối với một số ít
người thân cận và một số người Trung Quốc, tên
tuổi và con người Hồ Chí Minh c̣n được ít người
Việt Nam biết đến, và đối với các lănh tụ thế
giới đang chia cắt Đông Nam Á th́ lại càng không
biết tới. Những cố
gắng trước đây của ông để tranh thủ sự công nhận
của Mỹ đă không đi tới đâu.
Ông Hồ cảm thấy khẩn thiết
phải t́m được cách làm cho Đồng minh chú ư đến
chính phủ của ông trước khi quân đội chiếm đóng
của họ tới. Ông đă
xem bản kêu gọi công nhận nền độc lập Việt Nam
của Bảo Đại gửi cho những người cầm đầu các nước
Đồng minh mấy ngày trước. Điều đó làm cho
ông lo lắng v́ lời kêu gọi đă tăng cường địa vị
hợp pháp là người đứng đầu quốc gia của Bảo Đại
và không nói ǵ đến sự tồn tại của Chính phủ Lâm
thời. Ông phải nhanh chóng
hành động để sửa lại điều sai trái này.
Theo ông Hồ th́ Bảo Đại đă
không cầm quyền từ lâu.
Chính phủ duy nhất hợp pháp
lúc bấy giờ là Chính phủ Lâm thời của ông.
Tôi không thảo luận ư kiến
của ông có liên quan tới Hà Nội và ngay cả Bắc
Bộ nhưng nêu vấn đề là đối với cả nước th́ Bảo
Đại vẫn là người đứng đầu quốc gia.
Với nụ cười quen thuộc, ông
báo cho tôi biết rằng đúng vào lúc đó, một phái
đoàn Chính phủ đă lên đường đi Huế để tiếp nhận
sự thoái vị của Bảo Đại. Và khi việc
thoái vị xong, ông dự định sẽ công bố một bản
Tuyên ngôn độc lập, thành lập một nội các, đưa
ra một chính phủ hoàn chỉnh, và tranh thủ cho
được sự công nhận của quốc tế. Với một giọng tự
nhiên, ông hỏi: “Mỹ sẽ làm ǵ nhỉ?”.
Tôi không thể phát biểu thay cho chính phủ nhưng
đưa ra ư kiến riêng là Mỹ sẽ xem xét lại t́nh
h́nh dưới ánh sáng các sự kiện mơi.
Ông Hồ tỏ vẻ thất vọng nhưng
cũng không nài ép ǵ tôi thêm.
Điều quan trọng đối với ông Hồ là Mỹ tiếp tục
chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông
Dương. Ông cũng t́m cách để xua tan điều “hiểu
lầm” cho ông là “một phái viên của Quốc tế Cộng
sản” hay là một người Cộng sản. Mối quan tâm sốt
sắng của tôi đă tạo cho ông con đường duy nhất
có giá trị để đặt quan hệ với Washington.
Và ông đă cố tận dụng điều
thuận lợi đó. Ông công nhận một cách
thẳng thắn ông là một người Xă hội, ông đă cộng
tác và làm việc với những người Cộng sản Pháp,
Trung Quốc và Việt Nam, nhưng nói thêm “Các ông
ở đây nữa cũng thế phải không?”. Ông tự gán cho
ḿnh nhăn hiệu là một người “Quốc gia - Xă hội -
Cấp tiến”, có một sự mong muốn mănh liệt muốn
giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của nước
ngoài. Ông nói một cách lưu
loát không điệu bộ, nhưng với một vẻ thành thật,
quyết tâm và lạc quan.
Vào khoảng 3 giờ 30, có
người tới và nói với ông Hồ điều ǵ. Ông
xoa tay vui vẻ và
quay lại phía tôi, với nụ cười rạng rỡ, ông báo
cho biết: “Viên Khâm sai ở Nam Kỳ vừa điện cho
Triều đ́nh xin từ chức. Ông ta đă chính thức đặt
chính quyền miền Nam vào trong
tay Ủy ban Hành chính
Nam Bộ”. Tôi không ngạc nhiên lắm v́ hôm trước
đă được nghe nói Việt Minh do Trần Văn Giàu lănh
đạo đă nắm quyền kiểm soát ở đó.
Ông Hồ giải thích là Bảo Đại
chỉ mới tuyên bố có “ư định” thoái vị.
Nhưng người cuối cùng trong
số 3 viên Khâm sai cũng đă rút lui th́ không c̣n
có trở ngại chính thức ǵ cho việc thoái vị hiện
nay của ông ta nữa. Rơ ràng đó là một
điều hân hoan đối với ông Hồ…
Tôi cho rằng các bạn ông
đang chờ để gặp ông, nên xin rút lui.
Ông Hồ tiễn tôi ra tận cửa
và nói ông sẽ không bao giờ quên buổi chiều vui
vẻ này của chúng ta và tỏ ư mong rằng tôi sẽ vui
ḷng giữ quan hệ mật thiết với ông. Tôi
đáp lại xin sẵn sàng gặp ông sớm. Người lái
xe đă đợi sẵn và 5
phút sau tôi đă trở lại nhà Gauthier.
NHỮNG TRÀO LƯU NGẦM
Tôi hy vọng
c̣n lại được một đêm của ngày chủ nhật “yên
tĩnh”, nhưng lại rơi vào một t́nh h́nh khá căng
thẳng.
Người trong toán chúng tôi
đang chờ để báo cáo về cuộc phiến động mới nhất.
Họ đă bắt được nhiều tên khiêu khích (người Việt
và Nhật) đi rải những truyền đơn tiếng Việt, nói
Pháp sẽ đổ bộ để chiếm lại “An Nam”, hay Việt
Nam sẽ thay Nhát để giải phóng châu Á khỏi ách
“đế quốc da trắng”... Nhiều
người cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền của
Nhật, muốn gây hoang mang và hiềm khích dân tộc.
Qua Imai, tôi đă báo và xác
định trách nhiệm ngay với Bộ Tổng Tham mưu
Nhật...
Tôi nhận được một bức điện có ư nghĩa đặc biệt
từ Côn Minh, do thủ trưởng cơ quan R&A gửi riêng
cho tôi để nghiên cứu. Đó là tóm tắt bản tin của
Vụ Hoa kiều Hải ngoại (Quốc dân Đảng Trung Quốc)
trong đó có nói:
“Đông Dương không phải chỉ không c̣n giữ được
vai tṛ của một nước trung lập, mà đă trở thành
một căn cứ chủ yếu cho Nhật xâm chiếm Trung Quốc
từ phía nam, do đó đă gây thiệt hại nặng nề cho
Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc
không hề có mưu đồ ǵ về đất dai đối với Đông
Dương, trừ việc đến đó để nhận sự đầu hàng của
quân đội Nhật ở miền bắc xứ này”.
Kết tội về những sai lầm đă qua vốn là một thủ
đoạn cổ truyền của Trung Quốc để nhằm làm thay
đổi chiều hướng phát triển của t́nh h́nh mà họ
không thích... Vào 1945, lời tuyên bố trên báo
lên án Đông Dương đă đi theo phục vụ Nhật chỉ là
một phương pháp thể hiện ư đồ người Trung Quốc
muốn làm áp lực để người Pháp phải chấp nhận
những yêu sách của họ về các vấn đề khác như vấn
đề tô giói ở Thượng Hải, trong lĩnh vục đặc
quyền về buôn bán, bến cảng v.v...
OSS Côn Minh báo cho tôi biết có tin phong thanh
về một sự thỏa thuận giữa Pháp và Trung Quốc,
việc chiếm đóng của Trung Quốc đă chỉ được sử
dụng như là một phương sách để đưa người Pháp
đến chỗ đồng ư với nhiều vấn đề quốc tế hiện
nay. Nếu đạt được sự thỏa
thuận th́ người Trung Quốc sẽ rút lui nhường chỗ
cho người Pháp chiếm lại Đông Dương. Do
đó, tôi không c̣n phải quá nhấn mạnh tới chính
sách trước đây của Mỹ về “quyền tự quyết và
quyền tự do của các dân tộc phụ thuộc”.
Bức điện làm cho tôi lúng
túng. Đây chưa phải
là một sự thay đổi chính thức trong chính sách
của Trung Quốc nhưng cũng báo hiệu là một chính
sách mới đang h́nh thành. Tôi không có lư
do ǵ để hỏi lại Côn Minh nên chỉ biết thế và
sau này hăy hay. Điều này đă
xảy ra vừa đúng một giờ sau khi ông Hồ đă bực
bội tỏ rơ sự lo ngại của ông đối với các hoạt
động của các nước lớn Pháp, Trung Quốc.
Ông lo là đúng, ấy là chưa
nói đến những tin tức về người Anh.
SAINTENY MUỐN GẶP
ÔNG HỒ
Chiều hôm đó
tôi nhận được điện của Sainteny yêu cầu tôi đến
gặp ở dinh Toàn quyền.
Tôi đến vào khoảng 6 giờ và thấy Sainteny đang ở
trong một trạng thái ủ rũ,
không phải đối với tôi, mà chán nản v́ cách cư
xử của người Nhật và sự bất lực của ông. Qua đài
truyền thanh, ông nghe tin Huế, Sài G̣n đă “rơi
vào tay Việt Minh” và
thất vọng v́ người Pháp ở Paris vẫn chưa thức
tỉnh. Nhưng h́nh như ông vẫn
chưa từ bỏ ư định là không thể không làm ǵ được
trong lúc này.
Một trong những điều ông lo lắng nhất, và cũng
là lư do ông muốn gặp tôi là vấn đề an ninh của
thường dân Pháp, mà theo
ông nói, ông sẽ cảm thấy được yên tâm hơn, nếu
như ở đây có quân đội người Âu.
Ông hỏi xem có cách nào để
tổ chức được “một phân đội nhỏ” lính Pháp từ
trong Thành để tuần tiễu các khu vực tập trung
nguời Pháp. Tôi nói
khi mà người Nhật c̣n nhiệm vụ ở đây họ sẽ không
thể đồng ư. Tôi có hỏi Sainteny xem cần độ bao
nhiêu người, ông đáp “Phải đến một ngh́n”.
Tôi nghĩ như thế không phải
là một phân đội nhỏ nữa. “Thế c̣n vũ khí
và nơi đóng quân?”.
Sainteny cho rằng sẽ nhờ Nhật
thu xếp.
Tôi khẳng định người Nhật sẽ
không bao giờ đồng ư. Tôi thử gợi ư Sainteny nên
t́m gặp tướng Tsuchihashi. Sainteny chộp
ngay lấy ư đó, “Tuyệt, tại sao hai chúng ta lại
không cùng gặp ông ta nhỉ?”.
Tôi cười, nhưng cũng nghiêm chỉnh nhắc lại rằng
theo mệnh lệnh chung
số 1 th́ việc duy tŕ trật tự và pháp luật thuộc
trách nhiệm người Nhật. Sainteny trở lại ủ rũ và
chỉ c̣n biết nói là chưa được xem bản mệnh lệnh.
Vấn đề dừng lại ở đây nhưng
cũng lại được nêu lên trong những tuần sau đó.
Tôi kể cho Sainteny về chuyến đi thăm Thành và
trại Gia Lâm của tôi, việc tôi đă chính thức
phản đối Bộ chỉ huy Tối cao Nhật về t́nh h́nh tù
binh, đă báo cáo với Côn Minh và nghe tin sẽ có
một nhân viên có thẩm quyền của Chiến trường đến
để giải quyết vấn đề này.
Sainteny nói ông thông cảm hoàn toàn với địa vị
của tôi và ông ở đây, ông đánh giá cao sự quan
tâm của tôi, nhưng người Mỹ ở Trung Quốc đă
không hiểu hết được cảnh ngộ của Pháp; nếu như
người Pháp được tự do hoạt động th́ t́nh h́nh ở
trong Thành chắc đă được cải tiến một cách chóng
vách.
Với thái độ ít nhiều chua chát, ông ngỏ ư muốn
biết chung quanh “câu chuyện om ṣm” buổi sáng
nay trước nhà phái đoàn Mỹ. Tôi giải thích đó là
một cuộc gặp gỡ xă giao với đoàn đại biểu của
Chính phủ Lâm thời đến chào.
Sainteny b́nh luận “Ít ra th́ họ cũng đă không
quên kiểu cách lịch sự của người Pháp”.
Nhưng điều đó đă đưa ông ta
quay trở lại vấn đề bảo vệ dân chúng Pháp.
Ông cũng có chút ca ngợi sự
kiềm chế và thiện ư muốn tránh bạo lực của Việt
Minh, nhưng lại thêm “dĩ nhiên là người Nhật c̣n
ở đây, v́ vậy nhận xét ǵ trong lúc này thực vẫn
c̣n quá sớm”.
Tôi kể lại cho Sainteny hay là một số các nhà
lănh đạo Việt Minh đă đảm bảo với tôi rằng Hồ
Chí Minh sẽ không dung túng cho bất kỳ một sự
quấy rối không v́ bị khiêu khích nào đối với
cộng đồng người Pháp. Tôi nhấn mạnh vào chữ
“không v́ bị khiêu khích”, và nói với Sainteny
rằng tôi đă được Chính phủ Lâm thời cho biết là
“nhóm đại úy Blanchard” đă hợp tác chặt chẽ với
Nhật trong việc gây ra một số vụ rắc rối.
Sainteny chỉ nhún vai mà
không b́nh luận ǵ.
Tôi không để lộ cho Sainteny biết là tôi đă gặp
ông Hồ, nhưng h́nh như ông ta cũng cho rằng tôi
đă có liên lạc với ông Hồ nên đă hỏi tôi xem có
thể thu xếp một cuộc
gặp gỡ giữa hai người không.
Tôi đảm bảo với ông ta là tôi sẽ vui ḷng làm và
nhắc cho ông ta biết là ông Hồ đă không hài ḷng
về việc những cố gắng trong tháng 7 của ông đă
không mang lại kết quả ǵ tích cực.
Sainteny đă chống chế lại là ông đă chuẩn bị đến
gặp ông Hồ dạo đó, nhưng v́ “mưa to và đường
ngập” nên đă bị ngăn không tới được căn cứ của
ông Hồ. Tôi nhận xét là các điện tín lúc đó có
ghi ông Hồ có thể tới Côn Minh hoặc Trùng Khánh,
nhưng Sainteny trả lời rằng điều quan trọng là
phải làm việc với ông Hồ ngay trên “đất Pháp”,
nghĩa là Đông Dương, chứ không phải “trước mũi
của người Trung Quốc”. Ông
ta và cả tôi, không ai nhắc đến việc đề nghị của
ông Hồ đă không được phúc đáp lại. Về
sau, tôi hỏi lại Sainteny một lần nữa xem ông ta
có muốn tiếp tục thu
xếp việc gặp gỡ giữa hai người không. Sainteny
đă đáp lại là điều đó rất có ích và ông đánh giá
cao việc tôi có thể thu
xếp được.
Tối hôm đó, tôi bắt liên lạc
với Xuân qua Imai. Khoảng 9 giờ Xuân tới
và tôi đă nhờ chuyển lời của Sainteny cho ông
Hồ. Lời phúc đáp tới liền ngay: ông Hồ sẽ phái
Vơ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ của ông, tới
gặp Sainteny nếu có tôi đi cùng. Cuộc gặp gỡ
được ấn định vào sáng ngày hôm sau.
Chú
thích :
(1) Dương Đức Hiền (1916-1963),
lúc đầu hoạt động cho Việt Nam Quốc dân Đảng.
Sau khi Đại Việt được thành lập năm 1941, Hiền
với Nguyễn Tường Tam và em là Nguyễn Tường Long
cùng tham gia lănh đạo. Là
một trí thức, lănh tụ sinh viên, Hiền được bầu
làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Hà
Nội. Tháng 6-1944, Hiền tập hợp một số
lớn sinh viên lập ra Việt Nam Dân chủ Đảng và
trở thành Tổng bí thư
đầu tiên. Chịu ảnh hưởng của bạn thân là Vơ
Nguyên Giáp, Hiền sát nhập đảng Dân chủ vào Mặt
trận Việt Minh, vừa là chỗ ngụy trang cho các
đảng viên Công sản trong những lúc bị khủ bố,
vừa đóng vai tṛ một thiểu số trung thành trong
Việt Minh. Tại Đại hội Tân Trào, Hiền được cử
vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc và sau đó làm Bộ
trường Thanh niên trong nội các đầu tiên của ông
Hồ.
(2) Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Đông Dương Hà
Nội
(3) Tôi giữ phép lịch sự, mặc dù chúng tôi không
có một địa v́ ǵ đối với người Việt Nam. Chúng
tôi đă được trú ở một nơi thích đáng do các nhà
chức trách quân sự Nhật bố trí không kể ǵ đến
t́nh h́nh chính trị của người Việt hay người
Pháp.
(4) Khi người Nhật giao nhà Gauthier cho toán
OSS chúng tôi, họ đă chọn Phát trong hàng
ngũ Bảo an để làm chỉ
điểm cho Hiến binh Nhật sau khi đă rút khỏi tổ
Đảng ở Hà Nội. Phát nhận
nhiệm vụ của Nhật, nhưng về sau Hiến binh cũng
thôi không tiếp xúc hoặc chỉ thị ǵ cho Phát.
(5) sau này tôi mới
biết ngôi nhà đó ở phố Hàng Ngang.
(6) Chúc sức khỏe! (tiếng
Pháp)
(7) Chúc Ngài sức khỏe! (tiếng
Pháp)
(8) tức bản tuyên bố
của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp
Chương 21
Đường lối
ngoại giao kém cỏi của Pháp
HAI ĐỊCH THỦ GẶP NHAU
Hai đối thủ có trọng
trách Pháp và Việt, cả hai đều không có quy chế chính
thức, sẽ gặp nhau lần đầu tiên vào lúc 10 giờ.
Tôi đă báo cho Sainteny biết là Giáp sẽ đại diện cho ông
Hồ; tôi cũng sẽ đến trước tại Dinh…
Sainteny đă cho bố trí một trong những pḥng rộng nhất,
lịch sự nhất trong Dinh, rất phù hợp với một sự phô
trương thích đáng của chủ quyền nước Pháp. Sự lựa
chọn của ông cũng có thể được coi như phù hợp với sự tôn
trọng đối với một vị khách quan trọng và được biệt đăi
là biểu hiện của một ư đồ tinh vi
muốn uy hiếp tinh thần người Việt Nam.
Điều này tôi cũng không rơ lắm.
Sainteny hở cho tôi biết là tôi sẽ phải ngạc nhiên khi
được nghe thấy những quan điểm tự do của Pháp trong dịp
này. Nhưng tôi không cho điều đó lại
là lạ, v́ như tôi biết, nước Pháp trong lúc này, chẳng
c̣n có con đường nào khác ngoài việc chấp nhận Chính phủ
Lâm thời.
Chúng tôi từ cửa sổ thấy Giáp và Dương Đức Hiền tới
trong một xe mui kín đen
bóng, hai bên đằng trước có cắm cờ Việt Minh… Họ có một
vệ sĩ người Việt mang tiểu liên Sten đi
theo, c̣n một vệ sĩ khác th́
mở cửa cho Giáp. Ông vẫn mặc bộ đồ trắng thường ngày, cà
vạt thẫm, mang áo khoác “có vết tích chiến đấu” đă trở
thành biểu tượng cho quyền lực của một lănh tụ du kích
Việt Minh và Giải phóng quân. Đường
hoàng, trang nghiêm và tự tin, Giáp tiến vào cửa chính,
ở đó đă có một sĩ quan Pháp đang chờ.
Ngay sau khi vào pḥng, Giáp tiến
thẳng về phía Sainteny. Người
Pháp đợi cho Giáp đi được quá nửa đường rồi mới bước
tới. Tôi tiến lên trước và
chào Giáp, rồi giới thiệu ông và Hiền với Sainteny.
Chúng tôi đi xuyên qua gian pḥng
rộng một cách lặng lẽ tới chỗ đă bố trí đi-văng và nhiều
ghế ngồi. Tôi phá vỡ im lặng bằng cách b́nh luận
về t́nh h́nh sôi sục tôi đă thấy ở ngoài phố buổi sáng.
Giáp gượng cười giải thích là dân chúng xuống đường đến
mừng bộ đội của ông “mới từ rừng núi về” sau nhiều trận
đánh với quân Nhật. Họ sẽ tới vào buổi trưa hôm đó và
khi ở đây xong, bản thân Giáp cũng sẽ đi đón mừng họ.
Tài ngoại giao của Sainteny chắc
chắn đang ở trong chiều hướng suy tàn tầm thường nhất.
Mặc dù đă cố gắng nhiều để tỏ ra
lịch sự, ông đă lên giọng chặn Giáp bằng một bài diễn
văn gia trưởng về cách xử sự của người “A na mít”.
Không đếm xỉa ǵ tới mối ác cảm của người Việt Nam đối
với tính gia trưởng của người Pháp, với một giọng trầm
bổng và bằng những danh từ nhẹ nhàng, Sainteny hỏi tại
sao Việt Minh đă liều lĩnh “làm cho thế giới biết rằng
sự có mặt của Pháp ở Đông Dương đă từ lâu không được mọi
người hoan nghênh nữa”. Không ngừng để chờ giải đáp,
Sainteny tiếp tục phát biểu là tuyên bố như thế chỉ làm
cho các nước Đồng minh thêm lo lắng về sự an ninh của
dân chúng Pháp tại Đông Dương và đưa họ đến kết luận là
phải thận trọng giữ các nhà chức trách Pháp không cho
vào Đông Dương trong lúc này. Để nhấn vào sự không hài
ḷng, chứ không phải là sự thất vọng, đối với cách xử sự
của Việt Minh; Sainteny báo cho các vị khách của ông ta
biết ông “sẽ theo dơi một cách cảnh giác” các hoạt động
của cái gọi là Chính phủ Lâm thời và sẽ tự ḿnh đánh giá
công sức các nhân viên Chính phủ đó trong việc cai trị
Đông Dương sau chiến tranh.
Tôi e rằng Giáp có thể hiên ngang
bước ra khỏi pḥng bất cứ lúc nào, nhưng ông đă không
làm như vậy. Bằng một thứ tiếng Pháp hoàn hảo,
với một sự tự kiềm chế tuyệt đối, Giáp nói ông đến đây
không phải để nghe diễn thuyết, cũng chẳng phải để biện
minh cho các hoạt động của nhân dân Việt Nam và ông đến
là theo lời mời của người mà ông cho là đại diện của
“Chính phủ Pháp mới”, do đó ông sẵn sàng tham gia một
“cuộc trao đổi quan điểm” thân mật.
Lần đầu tiên trong đời ḿnh, Sainteny đă gặp mặt đối mặt
với một người Việt Nam đă dám dũng cảm đương đầu với một
người Pháp. Thái độ Sainteny
nhụt hẳn đi. Với một nụ cười
hoà giải, ông tuyên bố ông là đại diện cá nhân của tướng
De Gaulle. Trước hết ông muốn báo cho dân chúng
Việt Nam biết Pháp hiện nay là “một nước độc lập và tự
do”, các “lề thói cũ” sẽ được loại bỏ, tất cả những
người Pháp xấu sẽ bị cho về nước và người “An Nam” sẽ
được ban nhận nhiều yêu sách của ḿnh. Trong thâm tâm,
tôi nhớ lại là Sainteny đă thú nhận với tôi ở Côn Minh
rằng ông chẳng nhận được chỉ thị ǵ của Chính phủ cả,
nhưng ông vẫn hy vọng đạt được một tạm ước Pháp - Việt
trong lúc giao thời.
Một cái ǵ đó trong lời phát biểu
của Sainteny chắc đă găi đúng chỗ ngứa.
Giáp đă không hoàn toàn bỏ qua thái
độ hoà giải của đối phương. Những những tiếng mơ
hồ về tự do cho “người An Nam”, một danh từ đáng ghét
của thực dân Pháp h́nh như đă làm ông bối rối. Giáp yêu
cầu phải nói chính xác, như trước đây ông Hồ đă từng đ̣i
hỏi Pháp vào tháng 7, nhưng Sainteny đă trả lời là họ sẽ
“vạch ra chi tiết cụ thể, ngay sau khi Nhật và Trung
Quốc rút đi”. Giáp không thoả măn và
vẫn yêu cầu là phải cụ thể. Nhưng Sainteny một
lần nữa lại vẫn lao vào những
lời chung chung. Giáp ngồi phớt
lạnh. Ông không hề xúc động
trước những lời hứa mơ hồ.
Trước thái độ không lay
chuyển được của Giáp, Sainteny cũng quay lại đường lối
cứng rắn của ḿnh. Tôi đă cảm thấy
khó xử trong không khí căng thẳng nặng nề, thiếu tin cậy
và chống đối nhau. Cả Giáp và
Hiền đều tỏ ra không muốn nhân nhượng để cho Pháp có
tiếng nói về tương lai của Việt Nam. Để nhằm
thuyết phục họ rằng đường nào rồi Đông Dương cũng phải
chịu chấp nhận sự đô hộ của nước ngoài, Sainteny đă phịa
ra rằng chính những hành động không khôn ngoan của Việt
Minh đă đưa tới t́nh h́nh không thể chịu đựng nổi hiện
tại. Các nước Đồng minh thấy Việt Minh chống đối với
Pháp, nên ở Postdam đă quyết định để cho Trung Quốc tước
vũ khí quân Nhật; điều đó sẽ mang lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho người Đông Dương mà Giáp chắc đă biết
quá rơ kinh nghiệm lịch sử, là một khi người Trung Quốc
đă vào Đông Dương th́ cũng phải c̣n rất lâu họ mới lui
về.
Cái kiểu lập luận này h́nh như có
tác dụng nên Sainteny càng đi tới. Việc chiếm
đóng của Trung Quốc chỉ có nghĩa là kiệt quệ về kinh tế,
rối loạn xă hội và một sự hoàn toàn mất tự do.
Giáp và Hiền nh́n tôi chờ một sự xác
nhận; với một vẻ thoả măn, Sainteny cũng yêu cầu tôi
chứng nhận cho lời phát biểu của ông. Tôi nhắc
lại điều mà tôi đă nói với họ từ hôm trước, Trung Quốc
sẽ tiếp nhận sự đầu hàng Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16,
c̣n Anh ở phía nam, và nhấn mạnh vào điều mà tôi hiểu là
người Trung Quốc không có ư định ở lại Đông Dương lâu
quá thời gian cần thiết để hồi hương quân Nhật. “Thế là
bao lâu?”, Sainteny hỏi sâu vào vấn đề.
Giáp tỏ ra lúng túng một lúc nhưng
trở lại điềm tĩnh ngay, nói đây không phải là lần đầu
tiên người Trung Quốc đến Đông Dương và họ sẽ không ở
lại lâu. Không thấy cái lạc quan c̣n chập chờn
của Giáp, Sainteny tiếp tục bằng một giọng chắc nịch
rằng trong khi chờ đợi th́ tính mệnh của mọi người Pháp
phải được bảo toàn “bằng bất cứ giá nào” và “Chính phủ
Lâm thời An Nam phải chịu trách nhiệm về vấn đề này”.
Ông nói, Chính phủ Pháp mong muốn Chính phủ Lâm thời yêu
cầu các nhà chức trách Đồng minh có biện pháp ngăn chặn
không cho quân dội Trung Quốc tiến vào các thành phố có
đông người Âu sống như Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng và
Huế, và các nơi đó sẽ được các nhân viên Pháp - Việt
trông nom. Chẳng ai có thể nói được đây là một thủ đoạn
có tính toán của Sainteny hay là một lỗi lầm thô thiển,
nhưng con người sắc xảo của Giáp đă ghi nhận được ngay.
Như thế là người đại diện của De Gaulle đă công nhận
“Chính phủ Lâm thời An Nam” là một cơ cấu có trách
nhiệm, Sainteny đă yêu cầu Chính phủ Lâm thời thay Pháp
nói chuyện với các nhà chức trách Đồng minh.
Giáp đáp lại ngay là không cần quấy
rầy đến Đồng minh về các vấn đề này làm ǵ; Chính phủ
ông sẽ xem xét tới việc không để cho người Pháp sẽ bị
quấy nhiễu.
Bị thua điểm, Sainteny buồn ra mặt nhưng tự trấn tĩnh
được và liền thay đổi ngón chơi bằng cách gợi ư cho đây
chỉ là một câu chuyện nội bộ trong gia đ́nh, họ có thể
giải quyết được mọi sự xung đột nếu họ cùng làm việc với
nhau, như họ đă từng làm trước đây v́ lợi ích chung của
cả hai bên; một sự liên minh Pháp - Việt có thể sẽ là
một giải pháp cho mọi vấn đề. Giáp
đă quyết định chấm dứt cái tṛ chơi đố chữ này.
Cười một cách hết sức nhạt nhẽo, ông
nói “mọi việc đều có thể”.
Sau một vài nhận xét không đâu vào đâu, Giáp nói ông c̣n
phải đi duyệt các đơn vị bộ đội mới tới, rồi qua những
câu vui đùa hời hợt, những cái bắt
tay và nụ cười giả tạo, Giáp và Hiền rời dinh
Toàn quyền. Sau khi họ đi khỏi, Sainteny tỏ ra hài ḷng
với ḿnh: Điều nhận xét lúc đó ông nói với tôi là ông đă
thuyết phục được các vị khách của ông bỏ cái “tính tự
phụ trẻ con” định xoay xở sống mà không có Pháp. Ông đă
không thấy được chút nào là ông đă đụng đầu ngay với một
người mà sau này đă được ghi nhận trong lịch sử bằng
việc làm tan ră một cách cơ bản đế quốc thuộc địa Pháp ở
Viễn Đông.
MỘT VIỆC MUA CHUỘC NGƯỜI MỸ CỦA PHÁP
Tôi nán ở lại một lúc, nhưng cũng chỉ là để
nhận được một điều bất ngờ đáng tởm.
Người phục vụ mang cà phê và bánh tới, chúng tôi chuyện
tṛ về bộ đội Việt Nam mới tới và phán đoán về ảnh hưởng
về sự có mặt của họ trong thành phố.
Sainteny tỏ vẻ bực tức.
Nhưng, hoàn toàn bất ngờ, với một giọng nói rất tin cậy
cứ như là chúng tôi âm mưu với nhau, ông báo cho tôi
biết: “Chính phủ Pháp đă chuẩn bị mở một ngân sách 5 tỷ
đồng quan Pháp để chỉ dành riêng cho người Mỹ đầu tư vào
Đông Dương, và tôi(1) muốn
biết nên tiếp xúc với ai về vấn đề này để có thể xúc
tiến việc thương lượng”. Ông c̣n nói
cần phải giữ hết sức bí mật.
Tôi nổi điên lên và cứng miệng không sao trả lời
được…Cuối cùng, tôi nói là sẽ chuyển vấn đề này cho
Trùng Khánh, và tôi đă điện ngay tối hôm đó.
Như tôi biết th́ sau đó tôi nhận
được trả lời của Heppner bảo cho tôi phải tránh xa mọi
hoạt động nhằm hối lộ các quan chức Mỹ. Và cũng chẳng ai
đă dính đến vụ mua chuộc này của Pháp.
Đó cũng chỉ là một thủ đoạn vô liêm sỉ và trắng trợn của
Pháp, nhưng chỉ vài tuần sau, Pháp lại tố cáo Hồ Chí
Minh đă mưu tính mua chuộc tôi và những người Mỹ khác ở
Đông Dương.
Trước khi tôi rời khỏi Dinh, Sainteny vẫn sảng khoái nói
với tôi về việc thiết lập một “Ban tâm lư chiến có quy
mô toàn quốc”. Ông dự định cộng tác với người Việt Nam ở
đài Bạch Mai để tuyên truyền… Tôi
cho đó là một điều không thể được, nhưng không nói ǵ.
Sainteny c̣n có một yêu cầu.
Ông muốn tôi báo cho “Uỷ ban Đ́nh chiến” (tôi cho ông
muốn nói đến các nhà chức trách Đồng minh) là Chính phủ
Pháp (có nghĩa là cả bản thân ông) mong muốn cho chuyên
chở các phụ nữ và trẻ em Pháp tới các địa điểm ở nam vĩ
tuyến 16 để tránh các sự không may trong khi Trung Quốc
chiếm đóng và yêu cầu cho tổ chức một lực lượng cảnh sát
Pháp để duy tŕ trật tự và luật pháp ở Hà Nội, Hải
Pḥng, Đà Nẵng và Huế. Đă có nhiều lần ông đă nói riêng
với tôi rằng các toán trước đây do OSS trang bị cần tạm
thời được sử dụng làm lực lượng cảnh sát. Về việc ông ta
lại gợi ư muốn tổ chức một lực lượng cảnh sát Pháp, tôi
thừa hiểu mục đích của ông ta chỉ là muốn sử dụng họ làm
một lực lượng đi trước cho đội quân của Leclerc đang có
tin đồn là đă lên đường sang Đông Dương, những tin đồn
được đài phát thanh Delhi tung ra một cách rộng răi làm
cho người Việt Nam và đặc biệt là Việt Minh lo ngại.
Với điều thất vọng quá rơ ràng này về Sainteny, tôi cáo
lỗi và trở về nhà Gauthier, trong một tâm trạng khó
chịu.
Chú thích:
(1) tức Sainteny
Chương 22
Gấp rút
tiến hành tổ chức cuộc đầu hàng
NGƯỜI NHẬT ĐƯỢC GỌI ĐẾN
TRUNG QUỐC
Việc chậm không
nhận được chỉ thị cho xúc tiến cuộc đầu hàng đă gây
ra nhiều vấn đề không dự kiến trước được.
Người Nhật th́ lo lắng, nhất là
đối với tin quân Trung Quốc sẽ tới và nắm quyền kiểm
soát. Đă qua 2 tuần, sau khi có tin đầu hàng
từ Tokyo, nhiều quân nhân Nhật đă tự do bỏ đi, trà
trộn vào quần chúng, gây rối ren thêm cho trật tự xă
hội… Sự vắng mặt kéo dài của quân đội Đồng minh đă
không nâng cao được uy tín của Đồng minh trước con
mắt những phần tử không có thiện cảm. Bọn
tay sai của Hiến binh ra
sức tuyên truyền chống lại người da trắng, đặc biệt
trong những người Cao Đài và Hoà Hảo…
Nhưng đến ngày 27-8 tôi nhận được tin của người
Trung Quốc ở Khai Viễn(1)
yêu cầu cho họ đặt đường dây liên lạc vô tuyến với
Nhật ở Hà Nội. Đoán trước về
cuộc hành quân sắp tới của Trung Quốc, Tsuchihashi
lo ngại có khả năng xảy ra xung đột giữa quân đội
của ông với Trung Quốc. Ông điện báo cho Bộ
chỉ huy Trung Quốc ở Khai Viễn và yêu cầu được cho
biết về những đường mà quân Trung Quốc sẽ đi để ông
cho rút quân Nhật về gần Hà Nội và ra ngoài các
đường tiến quân của Trung Quốc.
Ngày hôm sau chúng tôi nhận được
chỉ thị tiến hành thương lượng sơ bộ. Chỉ thị
gửi cho Tư lệnh Nhật ở Hà Nội, nhưng điều đáng ngạc
nhiên nhất là chỉ thị lại do Lư Hán kư.
Viên tướng Vân Nam này sẽ tiếp
nhận sự đầu hàng của Nhật thay v́ viên tướng thân
tín của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) là Trương Phát
Khuê. Việc chỉ định Lư Hán đă báo trước một
cách rơ ràng là sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cho người
Pháp và Việt Nam. Điều đó cũng giải thích được những
ư trong bức điện tôi nhận ngày hôm trước về các vấn
đề tù binh, giao thông liên lạc… Côn Minh muốn cho
tôi hay là sẽ có dấu hiệu về một sự thay đổi, nên
trong điện viết “Tạm thời ít nhất người Trung Quốc
không muốn, nhắc lại “không”, cho người Pháp tiến
vào Đông Dương. Một số phân đội Trung Quốc ngày 28-8
đă tiến vào Hà Giang và Bắc Quang”.
Sự nghi ngờ của tôi về mưu mô
của người Trung Quốc đă được khẳng định. Qua
việc Lư Hán đảm nhiệm các chiến dịch ở Đông Dương,
Tưởng Giới Thạch muốn nắm chắc được việc Pháp phải
nhân nhượng trong cuộc điều đ́nh về quyền lợi của
Pháp ở Trung Quốc: Như đă biết, từ cú 9-3, Tưởng chủ
trương một chính sách không tuyên bố nhằm gạt Pháp
ra ngoài các vấn đề Đông Dương. Ông đă từ chối không
cung cấp vũ khí và không để họ trở lại thuộc địa cũ
của họ. Bây giờ đội quân của Alessandri bị cầm chân
lại ở phía nam Trung Quốc, chính v́ Tưởng có ư định
sử dụng việc chiếm đóng làm một phương tiện ép Pháp
phải chấp nhận các điều kiện của ông. Cái nhiệm vụ
không hay ho đó đă được giao cho con người nổi tiếng
chống Pháp là Lư Hán. Sự lựa
chọn đă làm cho người Pháp phát khiếp, nhưng Trung
Quốc lại cho đó là một thủ đoạn có tính toán khôn
ngoan.
Lư Hán đă hoan nghênh v́ có được dịp may để kiếm
chác, đồng thời lại thanh toán được một vấn đề lưu
cữu từ trước. Mối thù cá nhân của ông đối với người
Pháp nói chung và với Alessandri nói riêng, bắt
nguồn từ một sự việc xảy ra trong năm 1940, sau khi
Nhật chiếm Đông Dương. Với sự cộng tác của Pháp,
Nhật đă chặn những con đường thương mại buôn lậu cổ
truyền của Trung Quốc với Đông Nam Á. Thống đốc Long
Vân và tướng Lư Hán có lợi lớn trong việc giữ cho
các con đường này được thông suốt, nên họ đă t́m gặp
tướng Martin, chỉ huy quân Pháp ở đây, để thu xếp
một sự thoả thuận sao cho các bên đều có lợi.
Lư Hán là người đứng ra điều
đ́nh trong vụ này; ông đă đến Hà Nội để gặp
Alessandri, lúc đó là tham mưu trưởng của Martin,
nhưng đă được tiếp đón một cách khá lạnh nhạt.
Do đó người Trung Quốc cho Alessandri là người chống
đối chủ yếu với đề nghị của Lư Hán và Lư Hán đă
không bao gị quên Alessandrỉ cũng như người Pháp.
… Trên đầu bảng ch́ thị có ghi rơ:
“Theo lệnh Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tư lệnh tối
cao Chiến trường Trung Quốc, qua tướng Hà Ứng Khâm;
Tư lệnh dă chiến Trung Quốc, Lư Hán, Tổng chỉ huy Đệ
nhất chiến khu Lục quân Trung Quốc, được chỉ định
làm đại diện cho Thống chế để tiến hành thương lượng
và tiếp nhận việc đầu hàng sắp tới”.
Bản chỉ thị c̣n báo cho Nhật gửi một phái đoàn nhỏ
gồm một đại diện, hai trợ lư và một phiên dịch đến
Mông Tự, một thành phố cổ ở sâu trong miền đông nam
Vân Nam, vào ngày 31-8. Hiển nhiên là Tưởng không
muốn bị áp đảo bởi số đông và cấp bậc người Nhật. Họ
cũng chẳng muốn đề cao sự việc bằng cách tiếp đón
phái đoàn ở thủ đô Côn Minh để Long Vân có thể tham
dự, hoặc ở Trùng Khánh mà ở đó Nhật có thể có bề thế
hơn. Phi cơ chở phái đoàn phải
được sơn một chữ thập xám ở cánh và thân máy bay.
Khi tôi báo cho Tsuchihashi, ông
tỏ vẻ ngạc nhiên v́ địa điểm được lựa chọn lại không
phải là Trùng Khánh. Tôi
giải thích đây chỉ là một cuộc gặp gỡ sơ bộ, chưa ai
biết là địa điểm tổ chức cuộc đầu hàng sẽ ở đâu.
Tsuchihashi yên tâm, nói sẽ
thành lập đoàn và trả lời tôi vào ngày hôm sau.
Tôi nêu lại vấn đề tù binh, nhu
cầu tiếp tế thuốc men và dịch vụ cho họ.
Tsuchihashi đă có lệnh cho cải tiến công tác và tăng
thêm một số y bác sĩ nhưng lại lúng túng thú nhận
rằng các nhà chức trách Nhật đă không có tiền để chi
cho các nhu cầu mới này.
Thực tế là tôi đă nhận được nhiều kiến nghị của quan
chức Ngân hàng Đông Dương báo cho biết 18 ngày trước
đó, Nhật đă rút ra một khoản 60 triệu đồng Đông
Dương(2) nên họ đă yêu
cầu các nhà chức trách Đồng minh hướng dẫn cho biết
phải làm ǵ nếu như người Nhật lại đ̣i hỏi nũa.
Nhưng Côn Minh đă chỉ thị cho tôi: “Không làm ǵ cả.
Việc đó do ngân hàng giải quyết”.
Ấy thế mà Tsuchihashi lại kêu
không có tiền mua thuốc nên tôi đă nói thẳng là
khoản tiền thuốc không thấm vào đâu so với số tiền
lớn mà Nhật đă rút ra 18 ngày trước đây.
Ông tỏ vẻ sửng sốt thực sự.
Nhưng tôi cũng chẳng cần biết là bộ chỉ huy của ông
hay một ngành dân sự nào khác của Chính phủ Nhật đă
nhúng tay vào những vụ này nên đă báo cho ông hay là
Ngân hàng Yokohama Species ở Hà Nội mà Nhật có tài
khoản, vẫn c̣n tiếp tục hoạt động(3).
Tsuchihashi đă trấn tĩnh lại và
hứa sẽ giải quyết các nhu cầu của tù binh.
Tsuchihashi lại nhấn mạnh là
thuốc tốt và đặc hiệu không có ở Đông Dương, gợi ư
để người Trung Quốc cung cấp rồi Nhật trả tiền.
Tôi đồng ư sẽ xem xét vấn đề này…
Sau đó, Tsuchihashi nêu lên việc
người Pháp ở dinh Toàn quyền.
Ông cho biết họ thường xuyên
liên lạc với những phần tử khiên khích để gây rối
loạn trong thành phố. Ông
yêu cầu tôi sử dụng quyền hành của ḿnh để giữ số
này lại cho tới khi “Uỷ ban Đ́nh chiến” tới.
Tôi đ̣i hỏi có chứng cứ, và
Tsuchihashi nói là Imai có thể cung cấp đủ.
Nhưng tôi đă bỏ rơi vấn đề này, v́ không thể đặt Mỹ
vào địa vị cảnh sát đối với người Pháp và cũng không
muốn dính vào việc duy tŕ trật tự công cộng. Đó vẫn
thuộc trách nhiệm người Nhật.
Chiều tối hôm đó, Imai mang lại cho tôi một bức điện
do Sài G̣n thu được, coi như điện của người Pháp ở
Hà Nội gửi cho SLFEO/Calcutta nói về việc Đồng minh
đă làm thất bại các mục tiêu của Pháp ở Đông Dương
và yêu cầu Paris phải có hành động ở cấp ngoại giao.
Đó hoàn toàn có thể là một bức điện b́nh thường của
Sainteny gửi khi ông không giành được thắng lợi
trong nhiệm vụ của ḿnh(4).
Nhưng mặt khác, cũng có khả năng bức điện đó do Nhật
gửi đi với ư đồ tạo ra một vết rạn nứt giữa Pháp và
Mỹ. Nếu đúng như vậy th́ thực họ chẳng biết ǵ về
việc Sainteny đă nhiều lần điên đầu với Đồng minh v́
họ đă từ chối không cung cấp vũ khí cho Pháp và để
Pháp chiếm lại Đông Dương. Chẳng ai có thể biết được
là thế nào. Nhưng tôi cũng đă
cảm ơn Imai và không b́nh luận ǵ thêm.
Sáng hôm sau, Imai báo cho tôi danh sách phái đoàn
Nhật(5). Tôi ngạc nhiên
thấy đại uư hải quân Imai, mới đây được gọi là đại
uư Imai, rồi ông Imai, đă được ghi trong danh sách
đoàn là “phiên dịch”. Tôi cho
rằng Imai có thể là một đoàn viên.
Imai yêu cầu tôi chuyển cho người Trung Quốc biết
tướng Tsuchihashi không có sẵn phi cơ, trong hai
ngày c̣n lại trước hội nghị th́ không đủ để kiếm
được một chiếc và chuẩn bị sơn kư hiệu như đă yêu
cầu. Do đó, tướng Tsuchihashi “trịnh trọng yêu cầu”
gửi một phi cơ Mỹ sang Hà Nội cho phái đoàn sử dụng,
và như thế mới kịp thời gian.
Imai cũng mang tới bảng kê khai nhu cầu thuốc thang
cho tù binh.
Tôi báo cho Khai Viễn và được trả lời là Nhật phải
tự giải quyết lấy vấn đề máy
bay(6). Cuối cùng th́
Tsuchihashi cũng kiếm được một chiếc phi cơ ở Sài
G̣n. Nhưng đến phút chót,
người Trung Quốc lại hoăn cuộc họp tới ngày 2-9.
Khi máy bay Nhật bay tới không phận Lào
Cai, có bốn phi cơ chiến
đấu Mỹ đón và hộ tống tới Mông Tự. Từ Mông Tự, phái
đoàn được một phi cơ L-5 của Mỹ chở tới Khai Viễn để
dự hội nghị.
Ngày 31-8 tôi cũng nhận được
thông báo là địa điểm chính thức tổ chức lễ đầu hàng
sẽ là Hà Nội, c̣n thời gian sẽ định sau khi phái
đoàn ở Khai Viễn về.
TRÙNG KHÁNH CHUẨN BỊ THANH TOÁN
Ngày 28-8, những bộ phận đầu tiên của
quân đội Vân Nam của “Long Vân”(7) nhung nhúc kéo
qua biên giới Đông Dương như một bầy châu chấu lớn.
Chúng đi riêng, không có người Pháp và bộ đội tinh
nhuệ của Trương Phát Khuê đi cùng, và thành phần của
đội quân chiếm đóng này thật đáng nghi ngờ. Đó là
một mớ lẫn lộn các đơn vị Vân Nam và Quảng
Tây(8). Điều cũng làm cho
người ta ngạc nhiên là việc chỉ định một tướng Quảng
Tây, Tiêu Văn(9), đóng
hai vai phó tư lệnh và cố vấn chính trị cho Lư Hán.
Toàn bộ cơ cấu chiếm đóng rất kỳ
quặc. Rơ ràng là Lư Hán không được Quốc dân
Đảng (Trung Quốc) tín nhiệm hoàn toàn và Tiêu Văn đă
được trao nhiệm vụ phải cảnh giác đối với Lư Hán để
bảo đảm giữ quyền lợi cho Trùng Khánh.
Tin tức quân Trung Quốc đi qua biên giới đă gây cho
người Việt cũng như người Pháp lo lắng và tức giận.
Sainteny, Giáp và cả Mai đều t́m
hỏi tin tức và xác định thực sự.
Tôi cung cấp được rất ít.
Không phải cho đến khi nhận được
bản thông báo của OSS tôi mới ư thức tất cả những sự
rối rắm về chính trị trong các quyết định đă được
đưa ra ở Trùng Khánh. Không c̣n Nhật để làm
vật cản đường, nên mối đe doạ của Cộng sản từ Diên
An tiến ra đă trở thành
điều quan tâm chủ yếu phải đối phó của Quốc dân Đảng
(Trung Quốc).
Nhiều vùng rộng lớn trước đây do Nhật chiếm đóng,
nay đă trở thành miếng mồi ngon cho Xô viết và Cộng
sản Trung Quốc xâm nhập. Tưởng phải đảm bảo nhanh
chóng và thực sự kiểm soát được các vùng này bằng
cách cho triển khai lực những đội quân thiện chiến
và trung thành nhất của họ ở các trung tâm then
chốt: Quảng Châu, Áo Môn, Hán Khẩu, Thượng Hải,
Thiên Tân và các nơi khác.
Tưởng cũng c̣n muốn duy tŕ vị
trí thứ tư của họ trong “năm cường quốc” sau chiến
tranh, như Tổng thống Roosevelt đă đề ra.
Pháp phải ở thứ năm. Hơn
nữa, vị trí đứng trên Pháp của họ, đă được khẳng
định ở Postdam, khi họ được cử là người duy nhất
đứng ra tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên Chiến
trường Trung Quốc, bao gồm cả miền bắc Đông Dương.
Tưởng cũng nhanh chóng nhận thức được thuận lợi do
vai tṛ cường quốc quốc tế của ông sẽ mang lại cho
Trung Quốc trong việc chiếm đóng Đông Dương; đó
chính là việc ép Pháp phải chấp nhận các điều kiện
của ông để giải quyết cuộc xung đột của họ trước khi
Pháp muốn quay trở lại thuộc địa cũ của ḿnh.
Ở phía Nam Trung Quốc, Tưởng chỉ có lực lượng là các
đơn vị của Đệ nhất Chiến khu ở Vân Nam thuộc quyền
Lư Hán và các đơn vị của Đệ tứ Chiến khu ở Quảng Tây
và Quảng Đông, dưới quyền của Trương Phát Khuê.
Trong hai đội quân th́ Đệ tứ Chiến khu được trang bị
và huấn luyện tốt hơn và trung thành hơn hết đối với
Chính phủ Quốc dân Đảng. Nhưng Tưởng đă sử dụng lực
lượng Đệ tứ Chiến khu vào nhiệm vụ chiếm đóng Quảng
Châu và cử Trương tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở
đấy. Lực lượng Đệ nhất Chiến khu sẽ được dùng tốt
hơn ở Đông Dương và Lư Hán phải đại diện cho Tưởng
trong công việc đối với Pháp và Nhật. Nhưng bên cạnh
ông ta sẽ có Tiêu Văn để thực hiện một cách đầy đủ
các chính sách chính trị đối với người Việt Nam.
Trong những năm chiến tranh ở Trung Quốc
(1935-1945), có hai lần, viên Thống đốc độc nhăn
quân phiệt Vân Nam, Long Vân, đă giữ một thái độ
nước đôi đối với những người Cộng sản; lần đầu vào
tháng 3-1935 trên sông Trường Sa, khi Mao Trạch Đông
dứ đánh vào Côn Minh; và trong những năm gần đây,
khi Long Vân cho người Việt, Ấn Độ, Triều Tiên và
những người Quốc gia khác hệ với Cộng sản được cư
trú. Tham lam, xảo quyệt, tàn nhẫn, Long Vân đă
thống trị Vân Nam một cách hà khắc từ năm 1927 và đă
thu nhặt được một tài sản khá lớn trong việc buôn
bán các hàng viện trợ Mỹ, thuốc phiện và các vật
liệu chiến lược hiếm từ các nguồn của Pháp và Nhật.
Ông cho phát hành giấy bạc riêng, duy tŕ một đội
quân riêng để bảo vệ các khu vực rộng lớn trồng cây
thuốc phiện của ông, dọc theo hành lang biên giói ở
tây bắc các tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên, và cho các con
ông chặn đường cướp liên tục các đồ hàng viện trợ
Vay-Mượn của Mỹ như vũ khí, trang bị, khẩu phần thức
ăn trên đường vận chuyển từ Miến Điện tới Côn
Minh(10). Có lúc, vào đầu năm
1945 ông đă có đủ quyền lực để doạ bắt Quốc dân Đảng
phải chia thêm “phần” cho ông trong số hàng tiếp tế
viện trợ của Mỹ được chuyển qua tỉnh của ông.
Ông c̣n đi xa hơn nữa bằng cách đe doạ Trùng Khánh,
sẽ tịch thu tất cả của cải và đồ tiếp tế của Quốc
dân Đảng và Mỹ ở Vân Nam, nếu như các yêu sách của
ông không được thoả măn.
Để điều được viên thống đốc quấy nhiễu này ra khỏi
khu căn cứ của ông ta ở Côn Minh, Quốc dân Đảng đă
mưu mô dử vào ḷng tham của Long Vân. Ngay trước khi
Nhật đầu hàng, Tưởng đă hứa cho ông được có “đặc
quyền chiếm đóng Đông Dương” một khi quân Nhật bại
trận, nhưng với điều kiện phải thôi không được yêu
sách về các đồ tiếp tế viện trợ. Vào giữa tháng 8,
Long Vân chấp nhận đề nghị trên, cử cháu và là người
cộng tác tin cẩn của ông ta, tướng Lư Hán, thay mặt
làm đại diện cho Thống chế để tiếp nhận sự đầu hàng
của Nhật ở Đông Dương, nhưng với điều khoản là thời
gian chiếm đóng “không có hạn định”. Cuộc dàn xếp
cũng đáp ứng được quyền lợi của Lư Hán; ông này
trong những năm chiến tranh, đă hợp tác với ông chú
thống dốc trong một vụ buôn lậu có lăi với tập đoàn
quân thứ 6 của Nhật(11).
Quốc dân Đảng đă thấy trước là cơ hội để có thể
chiếm đoạt lớn ở Đông Dương sẽ làm cho tướng Long
Vân không thể cưỡng lại được và do đó sẽ làm cho ông
ta không c̣n dựa được vào sự bảo vệ của những đội
quân trung thành với ông v́ họ đă hành quân tiến vào
Đông Dương. Như thế là việc bố trí để trừ khử Long
Vân đă được dàn dựng xong.
Đến đó, qua một loạt các hành động khá sâu sắc, thấy
được Quốc dân Đảng đă đạt mục tiêu số một cho việc
chống lại các lực lượng của Mao, thứ hai là ép buộc
Pháp phải chấp nhận các điều khoản về kinh tế của
họ, thứ ba là việc thủ tiêu Long Vân, và ưu tiên thứ
tư là ḅn rút Đông Dương được càng nhiều càng tốt.
Trong khi tướng Tsuchihashi và tôi bực dọc về việc
hoăn chưa xúc tiến việc thương lượng đầu hàng, th́
các tướng Hà Ứng Khâm, Tu Yu Minh(12), Tiêu Văn và
Bác sĩ K.C. Wu(13) c̣n đang bận để chuẩn bị giáng
cho Thống đốc Vân Nam và chính phủ Pháp một đ̣n chí
tử. Cũng trong ngày quân của Lư Hán vượt qua biên
giới, Hà Ứng Khâm ra lệnh cho quân Pháp ở Trung Quốc
tập trung về Mông Tự và “chờ lệnh mới”.
Ở Trùng Khánh, bắt đầu tiến hành
việc thương lượng giữa Bộ ngoại giao Trung Quốc và
đại diện ngoại giao Pháp về những yêu sách của Pháp
ở Trung Quốc. Cũng trong
thời gian đó, tướng Tu Yu Minh ở Côn Minh, chuẩn bị
cú đảo chính chống Long Vân.
Ở Hà Nội, tin quân Trung Quốc vượt qua biên giới đă
được báo cho Hồ Chí Minh ngay, và Giáp đă đến gặp
tôi, xúc động, với nhiều tin tức nóng hổi hơn tôi có
lúc đó. Những cửa khẩu biên giới đă điện báo cho ông
về việc quân đội “Vân Nam” tới(
), nhưng điều làm cho người Việt lo ngại không phải
là bản thân việc vượt qua biên giới. Giáp đă nói với
tôi rằng theo chỗ ông
biết th́ đội quân này là “một đội quân tham nhũng và
vô kỷ luật nhất trong tất cả các đội quân của Trung
Quốc”. Ông tỏ ra lo ngại rằng
những người Trung Quốc này sẽ t́m cách lật đổ Chính
phủ Lâm thời và dựng lên một chế độ thân Trung Quốc.
Không biết rơ t́nh h́nh ở Trung
Quốc, Giáp đă chê trách Hà Ứng Khâm về việc lựa chọn
những người Vân Nam. Ông cho tướng Hà là “một
người chống Cộng khét tiếng và tay sai của Tưởng
Giới Thạch,” nhất quyết tiêu diệt phong trào Việt
Minh và sát nhập bắc Việt NamNam” (Nguyễn Hải Thần,
Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và một số khác) để
ḥng nắm chính quyền ở Việt Nam sau thời kỳ chiến
tranh. Ông mô tả họ như những tên đă bỏ xứ sở mà đi
và không có liên hệ ǵ với phong trào cách mạng
trong nước; họ tự kêu ḿnh là những người yêu nước
phụng sự cho Chủ nghĩa Quốc gia, nhưng thực tế chỉ
là “một nhóm phản động đang ra sức thu vén làm giàu
cho bản thân”, nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc.
vào Trung Quốc. Để cho
tôi tin, Giáp nói là Quốc dân Đảng đă tô vẽ cho
nhiều “tên phản bội Việt
Giáp rất lo lắng muốn qua tôi để biết xem người Mỹ
có hay bọn chúng đang làm ǵ không. Vấn đề này, với
những lư do khác, cũng đă được Sainteny nhiều lần
đặt ra để hỏi tôi. Tôi giải thích cho Giáp là Mỹ
không có trách nhiệm trong việc lựa chọn người cũng
như việc kiểm soát quân đội Trung Quốc; thực tế là
toàn bộ việc đầu hàng và chiếm đóng đều thuộc thẩm
quyền duy nhất của Tưởng Giới Thạch. Nh́n thẳng vào
tôi, Giáp hỏi thế tôi không tham dự vào việc thu xếp
cho việc đầu hàng. Ông muốn rơ tại sao đối với tôi,
một đại diện Mỹ đang thu
xếp các vấn đề này mà lại không có trách nhiệm ǵ
trước những việc đang xảy ra. Một lần nữa, tôi lại
phải nêu lên là tôi không tham gia vào trong quá
tŕnh làm ra các quyết định, vạch ra các điều khoản
thương lượng, đặt các thể thức đầu hàng, mà tôi chỉ
hoạt động trong nhiệm vụ truyền đạt. Giáp lắc đầu,
không tin và bực ḿnh, ông nói ông hy vọng mọi việc
sẽ chuyển thành tốt.
Trở lại câu chuyện quân Trung Quốc “nam tiến”, Giáp
tỏ ra chú ư đến việc Lư Hán có thể kéo
theo một số phần tử Việt
Nam đáng tởm đi cùng. Ông gợi ư
tôi nhắc lại cho các nước Đồng minh biết Chính phủ
Lâm thời đang tồn tại ở Việt Nam và đang trông chờ
sự công nhận của các nước đó. Tôi chỉ có thể
đáp lại được rằng các nhà chức trách ở Côn Minh và
Trùng Khánh đă được biết về sự tồn tại của Chính phủ
Lâm thời, c̣n vấn đề công nhận chính thức th́ phải
chờ t́nh h́nh sau khi đầu hàng.
Sau khi Giáp về, tôi không thể không nghĩ rằng trong
khi việc quân Trung Quốc và bọn bù nh́n Việt Nam đi
theo chúng vào nước, thể hiện là mối đe doạ gần nhất
và dễ thấy nhất đối với Chính phủ Lâm thời, th́ mối
đe doạ nguy hiểm nhất đối với họ chính là ở Trùng
Khánh. Ở đó Quốc dân Đảng và đại
diện Pháp đang mặc cả chia nhau chiến lợi phẩm.
Ở đó, người Việt Nam, cùng như
Pháp trước đây ở Postdam, đă không có tiếng nói nào.
Cả Pháp và
Trung Quốc đều đă không bị làm nhụt chí v́ một việc
không chắc là có các nước khác lên tiếng công nhận
chính phủ Việt Nam non trẻ Hà Nội.
Chú thích:
(1) Thị trấn ở
phía nam Côn Minh khoảng 100 dặm, nơi đóng Bộ tư
lệnh Đệ nhất chiến khu của tướng Lư Hán.
(2) Lần thứ nhất, ngày 10-8, 21 triệu; lần thức hai,
vài ngày sau, 29 triệu; lần thứ ba, mấy ngày trước
khi tôi thảo luận với Tsuchihashi, định rút 30
triệu, nhưng chỉ thực hiện được 10 triệu.
(3) ở phố Paul Bert
(4) Đó chính là bức điện của Sainteny gửi cho
SLFEO/Calcutta mà mấy năm sau Sainteny đă nhắc lại
nguyên văn trong hồi kư.
(5) Phái đoàn gồm trung tá Sakai, các sĩ quan tham
mưu, thiếu tá Miyoshi, đại uư Takahashi và ông Imai,
phiên dịch.
(6) Điều khó khăn thêm là phải có chiếc phi cơ có
sơn kư hiệu màu này.
(7) Dân chúng gọi là “Thống đốc Long Vân”
(8) Quân đội của Lư Hán gồm các Tập đoàn quân Vân
Nam số 60 và 93, các Tập đoàn quân Quốc dân Đảng
Quảng Tây 53 và 62, các Sư đoàn độc lập tăng cường
là 23, 39 và 93, Sư đoàn danh dự số 2 (thuộc Tập
đoàn quân 52, Phương diện quân IX)
(9) Sinh năm 1890, quê ở Quảng Đông, phụ trách chính
trị của Quốc dân Đảng Trung Quốc tai Đệ tứ chiến
khu, Phó tư lệnh, phụ trách Ban Ngoại vụ (1943),
cánh tay phải của tướng Trương Phát Khuê, được xem
là một chuyên gia về vấn đề Việt Nam. Tháng 1-1944,
Trương giao cho Tiêu việc theo
dơi các hoạt động của Đồng minh Hội và gây dựng tinh
thần Quốc dân Đảng trong người Việt Nam. Khi chiến
tranh kết thúc, Tiêu được điều sang Hành di của Lư
Hán (9-1945) ở Hà Nội, được trao cho nhiệm vụ trong
coi quyền lợi của Trung Quốc ở Đông Dương, phụ trách
Ban Hoa kiều Hải ngoại. Tiêu chống lại chính sách
của ông Hồ và của Lư Hán về vấn đề vai tṛ của những
người Quốc gia chống Việt Minh trong chính phủ của
ông Hồ. Những năn sau đó, Tiêu có mắt liên lạc với
Trung Cộng, trong đó có tướng Diệp Kiếm Anh (Yet
Chien Ying), bạn của ông Hồ từ khi ở Diên An và tỏ
ra có xu hướng trung tả. Do đó, năm 1950, được giao
giữ chức cố vấn cấp thấp trong tỉnh Quảng Đông, dưới
quyền tỉnh trưởng Diệp Kiếm Anh.
(10) Ai cũng biết khi tôi c̣n ở Trung Quốc trong
những năm 1944-1945, Long Vân đă cho cướp đoạt hàng
ngàn xe Jeep Mỹ và rất nhiều lốp xe, để bán lại cho
các chủ xe ḅ nhỏ, mà theo kinh nghiệm của tôi th́
loại xe này đi rất êm.
(11) Sau này, tướng Y. Okamura, Tư lệnh “Tập đoàn
quân viễn chinh Trung Quốc” của Nhật đă xác nhận ông
và Thống đốc Long Vân đă liên lạc với nhau trong
thời kỳ chiến tranh.
(12) Trước đây là chỉ huy Phương diện quân V (dự bị)
dưới quyền tướng Stilwell trong chiến dịch Ấn Độ -
Miến Điện, cuối năm 1946 được bổ nhiệim cầm đầu Bộ
tư lệnh quân trù bị Trung Quốc ở Côn Minh
(13) Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của chính phủ Quốc dân
Đảng Trung Quốc
Chương 23
Những cuộc
đàm luận
ÔNG HỒ DỰ LIỆU TRƯỚC
Trên tờ danh thiếp
cá nhân, ông Hồ ghi nguệch ngoạc mấy chữ ngắn gọn
nhưng có vẻ thúc ép: “Nếu có thể được, cần đến gặp
chúng tôi trước 12 giờ hôm nay.
Hồ”. Tôi không nghĩ ra
được ông muốn gặp tôi về vấn đề ǵ.
Từ cuộc viếng thăm đầu tiên của
chúng tôi đến ba ngày trước đó, có dư luận rất xôn
xao chung quanh việc thành lập Chính phủ mới.
Bản công bố chính thức chỉ nói giản đơn là ông Hồ sẽ
đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng(1)
và Bộ trưởng Ngoại giao. Hồ Chí Minh?
Ai vậy?
Một số dân kỳ cựu nghi ông là
“Nhà Cộng sản lăo thành Nguyễn Ái Quốc” nhưng cũng
không chắc chắn. Các nhà báo có trực tiếp hỏi
ông, nhưng ông Hồ chỉ làm tăng thêm điều bí ẩn khi
ông trả ḷi ông là một “nhà cách mạng” yêu nước và
mong muốn cho nước nhà được tự do độc lập, thoát
khỏi ách đô hộ của nước ngoài. Các nhân viên khác
trong Chính phủ cũng được công chúng rất chú ư. Một
số người đă được nghe nói về Vơ Nguyên Giáp, Bộ
trưởng Nội vụ và Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Tài
chính(2).
Trước khi cử hành lễ thoái vị của nhà vua, dự định
vào ngày hôm sau 30-8, đài phát thanh Hà Nội đă đề
cao vai tṛ của Bảo Đại là “Cố vấn tối cao” cho
Chính phủ mới và tả ông là “người công dân b́nh
thường Vĩnh Thuỵ” hoặc là ông Nguyễn Vĩnh Thuỵ.
Người dân trung lưu Việt Nam
thường có quan niệm Hoàng đế là “biểu tượng siêu
phàm của sự hợp pháp” đối với Chính phủ mà họ ủng
hộ. Ông Hồ nắm được đặc
điểm này và khai thác nó một cách rất khéo.
Do đó, ông đă hướng dẫn cho Bộ trưởng Tuyên truyền
Trần Huy Liệu trong công tác chính trị tâm lư phức
tạp nhằm đáp ứng những yêu cầu t́nh cảm của mỗi giới
xă hội, chính trị và tôn giáo trong xă hội Việt Nam.
Điều đó lại càng thể hiện rơ trong việc Chính phủ
Lâm thời bao gồm những người Công giáo, Xă hội, ôn
hoà, và chỉ có một thiểu số đảng viên Đảng Cộng sản
Đông Dương. Rơ ràng là Chính phủ mới đại diện cho
một mặt trận dân chúng thực sự và lúc đó họ được
nhân dân ủng hộ hoàn toàn. Hơn
nữa, sự lănh đạo cũng đă tự khẳng định được qua việc
trật tự công cộng và các công cụ đều được duy tŕ
tốt. Không có gián đoạn
trong các ngành phục vụ công cộng và giao thông vận
tải, buôn bán vẫn tiếp tục như thường lệ.
Những cuộc biểu t́nh xảy ra gần
như hàng ngày, không có bạo lực và cũng không trở
ngại cho đời sống thành phố. Mọi người đều tỏ
rất sung sướng trước sự chuyển biến của thời cuộc,
cả nhiều người Pháp và đặc biệt là các nhà chức
trách Nhật cũng thế. Nhưng tin tức
lan truyền nói người
Trung Quốc vượt qua biên giới đă gây ra lo sợ.
Có lẽ chính v́ thế mà ông Hồ có
ư định muốn trao đổi với tôi.
Ông Hồ đă cho một xe đón
tôi đến ngôi nhà Hàng Ngang vào lúc 10 giờ 30.
Trường Chinh dẫn tôi đến chỗ ông
Hồ, ở đó thấy có nhiều người ra vào với một vẻ rất
hân hoan và bận rộn tấp nập. Ông Hồ vào, vẫn
ung dung và mỉm cười, ông giơ bàn
tay gầy g̣ ra bắt chặt
tay tôi và nói: “Tôi sợ có khi ông không nhận được
thư của tôi. Tôi rất muốn trao
đổi với ông về một số chủ trương và các kế hoạch
tương lai của chúng tôi”.
Trường Chinh kéo mấy cái ghế lại gần bàn và chúng
tôi ngồi xuống đó. Ngoài
cái dáng mảnh khảnh, ông Hồ có vẻ hoàn toàn mạnh
khỏe, sôi nổi và thích nói nên đă kể ngay cho tôi
nghe những tin tức mới về Huế.
Ông đă nghe Trần Huy Liệu báo
cáo về việc ông được Bảo Đại tiếp và đưa ra bản
Tuyên bố thoái vị. Ngày
hôm sau, Bảo Đại đă dọc bản Tuyên bố trước công
chúng và trao ấn kiếm nhà vua cho phái đoàn của
Chính phủ Lâm thời. Ông
Hồ rất phấn khởi. Ông coi
hành động cuối cùng này của nhà vua cũng là tàn dư
cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và sụ mở đầu của
một thời đại mới. Nhưng ông nói thêm, như tự
nói với ḿnh, có thể cuộc đấu tranh chưa phải đă
hoàn toàn kết thúc, người Trung Quốc đang tới và
người Pháp đă ở sẵn đây.
“Ô, đúng, người Trung Quốc”, ông
nhắc lại. Đă có báo cáo nói có xung đột nhỏ
giữa người Trung Quốc và dân chúng ở Lào
Cai và Hà Giang. Điều đó
có thể cho ông biết được con đường mà người Trung
Quốc sẽ đi chăng? Ông sẽ phái các đại diện của Chính
phủ đến đón trước các đoàn quân Trung Quốc đang tiến
để kiềm chế dân chúng địa phương nếu người Trung
Quốc “ngỗ ngược” hay “quá hăm hở” để thu vét chiến
lợi phẩm. Tôi nói với ông là
người Nhật đă được báo tin và tôi đă chất vấn các
nhà chức trách Trung Quốc nhưng họ chưa trả lời.
Nết tôi nhận được tin ǵ mới, tôi sẽ vui ḷng chuyển
cho ông ngay.
“Thế bao giờ th́ Trương Phát Khuê tới?”,
ông Hồ hỏi. “Tôi không rơ”, tôi đáp, “Trương đă phái
tướng Tiêu Văn đi cùng với quân đội Quốc dân Đảng,
nhưng người chỉ huy cao cấp nhất lại là tướng Lư Hán
và ông này sẽ tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật”.
Ông Hồ không tỏ vẻ ǵ là ngạc
nhiên, và sau một lúc trầm ngâm, ông cười nói, “Đây
chỉ là một thủ đoạn của Tưởng Giới Thạch muốn điệu
hổ ly sơn thôi. Không có
quân đội của Lư Hán ở Vân Nam th́ Long Vân sẽ dễ
dàng bị quật đổ”. Với một
vẻ suy tư sâu sắc, ông tỏ ra lo lắng về việc quân
Vân Nam kéo vào sẽ gây ra nhiều vấn đề không thể
khắc phục được. Chúng
không phải là một đội quân có kỷ luật như của Trương
và ông Hồ phán đoán là sẽ có rối loạn.
Ông Hồ cũng có nói về những Việt kiều sẽ được Quốc
dân Đảng kéo theo. Ông
cho họ là bọn “quốc gia giả hiệu”, “đầy tớ Quốc dân
Đảng”, không mảy may có liên hệ với nhân dân Việt
Nam. Bàn về ảnh hưởng của những người này có thể có
đối với Chính phủ Lâm thời, ông tả họ như là những
người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành
nhau, tàn dư của các đảng quốc gia cũ, không có
chương tŕnh hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều
lănh tụ. Theo ư ông th́ điều nguy hiểm là ở cho họ
có thể gây ra một sự hỗn loạn nếu như người Trung
Quốc áp đặt họ lên đầu người Việt Nam như là một
chính phủ bù nh́n, một khả năng mà ông không thể gạt
bỏ một cách nhẹ nhàng.
Ông Hồ nhắc cho tôi hay động cơ của Trung Quốc đối
với nền độc lập của Việt Nam chẳng có ǵ thật thà và
mang tính chất vị tha. Tuy có lời tuyên bố “cao
thượng” của Tưởng(3) “không có yêu sách về đất đai ở
Đông Dương”, và sự ủng hộ “rộng răi” của ông ta đối
với các phong trào quốc gia Việt Nam ở Trung Quốc; ư
đồ của họ rơ ràng không phải là tốt nhất cho người
Việt Nam. Theo quan niệm của ông Hồ th́ Quốc dân
Đảng muốn làm thất bại ư đồ của Pháp định khôi phục
lại địa vị ở Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên
minh của người Việt Nam với các lực lượng Cộng sản
Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc.
Để nói rơ ư ḿnh, ông Hồ nhận xét Quốc dân Đảng đă
chọn Lư Hán và Tiêu Văn thay mặt cho Long Vân và
Trương Phát Khuê. Những người này rất có ư nghĩa đối
với ông Hồ. Trong 15 năm qua, tuy Thống đốc Long Vân
và Lư Hán, cháu ông ta, đă chứa chấp những người
Việt Nam Quốc gia thân Nhật và thân Trung Quốc trong
tỉnh của họ, nhưng ông Hồ coi cả hai như là những
tên tướng cướp, đă bỏ tù và giết hại nhiều người
Việt Nam vô tội để che đậy cho việc buôn bán bất
chính của họ ở biên giới Đông Dương.
Đối với Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, ông Hồ tỏ ra
có độ lượng hơn. Họ không thô bỉ
bằng người Vân Nam nhưng cũng rất ích kỷ.
Trương tiêu biểu cho tinh thần chống Cộng của Quốc
dân Đảng và ông Hồ c̣n nhớ sâu sắc những đau khổ,
nhục nhă đă phải chịu đựng suốt 15 tháng trong nhà
tù Quảng Tây của Trương. Nhưng ông Hồ cũng nhớ đến
thế lực của Tiêu Văn trong việc giải thoát cho ông
khỏi tù đày và đă mang lại cho ông một địa vị quan
trọng trong mặt trận quốc gia những người Quốc dân
Đảng chống Pháp ở Trung Quốc. Sự cộng tác nhất thời
này không phải do v́ Trương và Tiêu có cảm t́nh đối
với ông Hồ hay phong trào của ông, mà chính là họ hy
vọng có thể lợi dụng và kiểm soát được ông và tổ
chức của ông. Song lại chính ông
Hồ và Việt Minh đă tận dụng được sự cộng tác ngắn
ngủi đó.
Nhưng ông Hồ cho biết ông mời tôi đến không phải để
bàn luận chuyện người Trung Quốc, ông muốn cho tôi
hay về những kế hoạch hoạt động trong những ngày sắp
tới của ông. Ông muốn tôi là
người đầu tiên được biết.
Lúc đầu tôi hơi nghi ngại nên cứ nghe và không b́nh
luận. Ông kể nội các của ông đă họp phiên đầu
tiên ngày 27-8 ở Bắc Bộ phủ, đă có quyết định chính
thức hoá Chính phủ Lâm thời và lấy ngày 2-9 là Ngày
Độc lập. Trong dịp này, ông sẽ công bố nền độc lập
của dân tộc, sẽ giới thiệu các thành viên trong
Chính phủ Lâm thời với nhân dân và sẽ vạch ra chương
tŕnh hoạt động của Chính phủ cho mọi người dều
biết.
Sự hoàn hảo của ông đă làm tôi
phải ngạc nhiên và xúc động.
Tôi khen ngợi và chúc ông thành
công. Ông khiêm tốn đáp
lại là đă phải làm quá nhiều việc trong một thời
gian rất ngắn. Đă có một uỷ ban để soạn thảo
lời tuyên thệ nhận chức của ông và các bộ trưởng,
nhưng bản thảo bản Tuyên ngôn Độc lập c̣n cần phải
được làm xong gấp. Theo ông, chính đó là một trong
những lư do ông muốn gặp tôi.
Ông gọi một người ở buồng bên mang bản thảo tới và
đưa cho tôi với một dáng thoả măn. Rơ ràng
trong việc khởi thảo bản này đă có bàn
tay già dặn của ông.
Bản tài liệu đánh máy bằng tiếng
Việt Nam, có nhiều chữ bị xoá đi và được viết đè lên
bằng bút mực, với nhiều ghi chú bên lề.
Tôi ngay ra, và ông Hồ thấy ngay
là tôi không thể đọc được.
Ông Hồ cho gọi một người trẻ
tuổi vào để dịch và tôi chăm chú nghe.
Trong mấy câu đầu, người phiên
dịch đă nói lên một số danh từ rất đỗi quen thuộc và
giống lạ lùng như bản Tuyên ngôn của chúng ta.
Câu tiếp sau là “Lời bất hủ ấy ở
trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ”.
Tôi chặn người phiên dịch lại, kinh ngạc quay sang
hỏi ông Hồ có thực ông có ư định sử dụng câu đó
trong bản Tuyên ngôn của ông không. Tôi không hiểu
sao điều đó lại đập mạnh vào tôi, cứ như là có cảm
giác khi quyền sở hữu bị đụng chạm, hay là khi làm
một việc ngớ ngẩn nào đó. Tuy
vậy tôi cứ hỏi. Ông Hồ ngồi dựa vào ghế, hai
tay úp vào nhau, ngón tay
sát vào môi một cách nhẹ nhàng và đang như suy
tưởng. Với một nụ cười nhă nhặn, ông hỏi lại tôi một
cách dịu dàng, “Tôi không thể dùng được câu ấy à?”.
Tôi cảm thấy ngượng ngập và lúng
túng. “Tất nhiên”, tôi trả lời, “tại sao lại
không?”.
B́nh tĩnh lại, tôi nói người
phiên dịch đọc lại đoạn đó từ đầu một lần nữa.
Anh ta đọc, “Tất cả mọi người
sinh ra đều b́nh đẳng. Họ đă được Tạo hoá
trao cho những quyền không thể chuyển nhượng lại
được; trong đó có quyền tự do, quyền sống và được
hưởng hạnh phúc”. Cố sức nhớ lại, tôi mới thấy các
danh từ đă được chuyển vị và nhận xét là trật tự các
chữ “quyền tự do” (Liberty) và “quyền sống” (Life)
đă bị thay đổi(4). Ông Hồ
nắm ngay lấy và nói: “Đúng! Không thể có tự do mà
không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc
mà không có tự do”. Ông muốn nài
tôi phát biểu thêm. Tôi
đă phải tŕnh bày là không biết ǵ hơn và đúng là
như vậy. Tôi không thể dễ
nhớ được lời lẽ trong bản Tuyên ngôn của chúng tôi.
Và tôi cũng cảm thấy bất tiện
khi nhận thấy ḿnh đă tham gia - dù rằng rất ít -
vào việc đưa ra công thúc cho một thực thể chính trị
và tôi cũng không muốn tạo ra một cái cảm giác là có
ḿnh tham gia vào đó. Khi người phiên dịch
tiếp tục, tôi nhận thấy, ông Trường Chinh ra khỏi
pḥng và tôi tưởng là lúc đó tôi đă phát hiện được,
nhưng có lẽ nhầm, có sự khác biệt ư kiến giữa những
người Việt Nam.
Tôi đặc biệt chú ư đến “chương tŕnh quốc hữu hoá”
của ông Hồ. Giáp viện vào “t́nh h́nh của đất nước”,
nói bắt buộc phải “quốc hữu hoá” một số dịch vụ công
cộng và công nghiệp. Với tư cách là “Bộ trưởng Nội
vụ mới được đề cử”, Giáp thấy tuyệt đối cần thiết
không để công việc gián đoạn trong các lĩnh vực cung
cấp điện, nước, lương thực, giao thông, vận tải,
đường xá và cảnh sát… Khi nhận
chức, ông có ư định đặt tất cả các dịch vụ nói trên
thuộc quyền kiểm soát trực tiếp của Chính phủ và
phục vụ cho dân chúng với một giá tối thiểu.
Tôi nói với Giáp rằng muốn thế
th́ phải có kỹ thuật và tiền.
Ông đồng ư nhưng cũng không t́m
được cách nào để giải quyết vấn đề trong khi các
nguồn tài nguyên của Pháp và Nhật đă cạn.
Theo ư kiến ông, người Việt Nam
sẽ phải tự làm lấy một ḿnh một cách tốt nhất.
Trong khi bàn luận về chương tŕnh với ông Hồ, tôi
nêu lại ư đây không phải chỉ đơn thuần là vấn đề
nhân công, mà ở đây đă có dồi dào, mà c̣n là việc
phải có trong những thứ chủ yếu cho máy phát điện,
dây cáp, máy móc, thiết bị nặng,
xe cộ, ống thép… Phần lớn
những thứ này, trước đây, phải nhập của Pháp và
Nhật. Do đó đ̣i hỏi phải có ngoại tệ và ngân
sách quốc gia để buôn bán với nhà sản xuất trên thế
giới. Ông Hồ đồng ư, đó cũng là
điều ông quan tâm lo lắng nhất.
Ông tỏ vẻ tiếc và nhận xét là
cuộc chiến tranh đă kết thúc quá sớm và cuộc cách
mạng đă nổ ra quá nhanh. Nếu như ông đă thực
hiện được một điều cơ bản của chủ nghĩa Marxism -
nắm được trung tâm thần kinh của chủ nghĩa tư bản,
tức là cơ cấu tài chính, và ở đây là Ngân hàng Đông
Dương - th́ có lẽ những khó khăn về kinh tế ban đầu
đă có thể tránh được. Nhưng nhà
Ngân hàng vẫn c̣n thuộc quyền người Pháp, lại có
Nhật vũ trang bảo vệ. Ở trong
tay Pháp, Nhật, rồi Trung
Quốc, Nhà băng nhất định sẽ bị tước đoạt hết mọi tài
sản. C̣n như việc đặt ra thuế khoá để tăng
thu nhập th́ Chính phủ
Lâm thời cũng không có ư định làm và nhân dân cũng
không có tiền. Họ cũng không thể
rút các tài khoản của họ ở nhà băng.
Nhưng, ông Hồ cho rằng lúc này
cũng chưa phải là lúc phải chú ư quá đến vấn đề kinh
tế. Sau khi Chính phủ
được thành lập và hoạt động, ông tin rằng mọi việc
sẽ có thể giải quyết được.
Khi tôi sắp rút lui ông Hồ hỏi
tôi có muốn mang lại cho ông một cái vinh dự có tôi
cùng dự với ông trong buổi lễ ngắn gọn Ngày Độc lập.
Tôi ướm nhận lời nhưng ông nói
ông hiểu rằng tôi sẽ không đến tham dự. Chúng
tôi từ biệt nhau theo
cách đó.
PARIS
KHÔNG BIẾT ĐẾN SAINTENY
Chiều hôm đó tôi
đến gặp Sainteny. Vượt
qua khoảng cách nhỏ giữa ngôi nhà phố Hàng Ngang và
dinh Toàn quyền chẳng khác nào như đi từ đầu này đến
bên kia quả đất.
Cảnh trái ngược ngày hôm đó thực
quá rơ rệt. Đi từ những hân hoan của việc
khai trương một nước tự do đến những mối lo âu nhằm
duy tŕ một đế quốc không ai cần đến và đang hấp hối
là cả một chặng đường dài.
Tôi nghe Bernique báo cáo là
người Pháp trong Dinh gặp khá nhiều khó khăn.
Người Nhật vẫn từ chối, không
công nhận một “sự có mặt của Pháp” và giữ Sainteny
cùng nhóm ông ta trong cái lồng vàng có lính canh
gác. Trong khi đại diện
của De Gaulle hội đàm với người Trung Quốc ở Paris
và Trùng Khánh th́ trưởng đoàn M.5 ở Hà Nội, không
có quy chế chính thúc, đă chẳng có quyền nói chuyện
với bất cứ ai. Ngay đến “người
An-nam-mít”(ông Hồ) cũng đă cả gan chỉ cho một người
dưới quyền đến làm việc với vị “đại diện nước Pháp”,
mà cũng chỉ là để vứt bỏ lời mời chào hào hiệp của
ông về những “quyền tự do vĩ đại”.
Hai ngày trôi qua và tính lạc
quan trước đây của Sainteny đă biến dần trước sự yên
lặng đáng ngại của Hồ Chí Minh.
Sainteny tiếp tôi một cách niềm
nở. Sự tiếp khách cũng
như phong thái của ông là một điều khó đoán.
Nó tuỳ thuộc vào sự biến chuyển
của t́nh h́nh, cũng như sự mong muốn tôi làm một cái
ǵ đó cho ông. Chiều hôm đó đă trở thành một
cuộc viếng thăm vui vẻ…
Đài phát thanh và báo chí địa
phương đă đưa tin về việc thành lập chính phủ mới.
Sainteny và ban tham mưu của ông đặc biệt chú ư
theo dơi thành phần của
Chính phủ. Sainteny chẳng biết
ai, ngoài Giáp và Hiền mà ông đă gặp lần đầu tiên
hai hôm trước. Vừa rót cà
phê từ một cái ấm bạc rất đẹp, ông hỏi xem tôi có
biết ai trong số những người đó không.
Có, tôi biết ông Hồ mà tôi đă
gặp lần đầu tiên vào tháng 4 và từ đó đến nay vẫn
giữ liên lạc đều. Chu Văn
Tấn đă làm việc với Thomas và toán “Con Nai”.
Phạm Văn Đồng th́ đă cộng tác
với dân AGAS của chúng tôi.
Và, tất nhiên tôi biết Dương Đức
Hiền, bạn của Giáp.
Sainteny nhận định một cách bi
quan về ảnh hưởng của Chính phủ mới đối với mối quan
hệ “Pháp - An Nam” sau này.
Theo ư kiến ông, đó là Cộng sản,
trong cấu tạo cũng như trong lư thuyết. Sự
lănh đạo của họ đặc sệt theo
Mátxcơva và sẽ không có khả năng đối phó với nhiệm
vụ quản lư đất nước. Hơn nữa,
nếu như Pháp rút cơ sở kinh tế của họ đi, th́ ai sẽ
đến để thay thế? Dù có
muốn Liên Xô trong lúc này cũng không có khả năng
cáng đáng được. Cũng như
Trung Quốc, họ chỉ sẽ ḅn rút cho khánh kiệt.
Ư kiến của Sainteny là sớm hay muộn th́ rồi Pháp
cũng phải tiếp quản lại Đông Dương, nếu như Mỹ không
có ư định muốn thay thế Pháp.
Tôi đă tránh để không bị rơi vào bẫy khiêu khích.
Thẳng thắn một cách khác thường,
Sainteny chiều đó công nhận với tôi là ông không
nhận được một sự khuyến khích nào từ Paris hoặc
Calcutta. Ông cho biết đă
gửi một bức điện lời lẽ mạnh mẽ về vho Chính phủ
Paris của ông để nói về việc nước Pháp có thể để mất
Đông Dương nếu như không chịu xúc tiến những bước
vận động ngoại giao tích cực ở cấp quốc tế.
Tôi hỏi Paris có thể làm được
ǵ. “Phải bắt người Trung
Quốc thực hiện lời cam kết của họ và giải toả cho
quân đội Pháp ở Vân Nam”.
Sainteny đă biết tin Trung Quốc vượt biên giới mà
không có người Pháp đi cùng; ông coi đó là một sự
“phản bội của Trung Quốc”.
Nếu như ông ta có 1.000 lính có
đầy dủ vũ khí khi ở Hà Nội th́ t́nh h́nh sẽ khác.
Tôi nhận xét là điều đó có thể
làm nổ ra một cuộc chiến tranh đẫm máu. Câu
trả lời của ông là tôi không biết ǵ về dân “An
nam mít”. Họ sẽ không bao giờ
tấn công vào một người Pháp mặc quân phục; họ rất
kính phục nhà chức trách Pháp.
Tôi không b́nh luận ǵ thêm.
Tất cả những ǵ tôi có thể nghĩ được lúc đó là quyết
tâm cao của Giáp và những người đi theo ông nhằm
chống lại mọi tàn tích c̣n lại của nền cai trị Pháp,
và lời thách thức luôn luôn được nhắc đi nhắc lại
của ông Hồ là ông sẽ chiến đấu đến cùng cho Việt Nam
độc lập.
Sainteny thấy khó mà chấp nhận
được sự hờ hững bề ngoài của Paris trong việc giúp
đỡ ông. Trong điện gửi về Paris, ông yêu cầu
phái đoàn của ông phải chính thức được thừa nhận,
thông qua con đường ngoại giao ở Tokyo và có như thế
ông mới có thể làm việc trực tiếp với Nhật ở Hà Nội.
Nhưng ông chờ măi mà vẫn không
nhận được tin tức ǵ về bức điện của ông.
Giống như hồi tháng 7 ở Paris, khi Sainteny cố gắng
làm cho De Gaulle chú ư đến tương lai của Đông Dương
mà không có kết quả, th́ nay t́nh h́nh cũng giống
như vậy. “Họ vẫn chưa hiểu được
t́nh h́nh”. Ông nói riêng với tôi: nếu như
Paris muốn cử một người nào đó đến thay th́ ông sẵn
sàng nhường bước. Đó cũng là lần
đầu tiên tôi nghi hoặc cho rằng có thể Sainteny
không được các nhà chức trách Paris tín nhiệm hoàn
toàn. Song Sainteny đă
không bị thay thế mà cũng chẳng nhận được quy chế
chính thức cho tới tháng 10-1945.
Trước khi tôi ra về, Sainteny đề
cập đến hai yêu cầu khác. Ông muốn biết,
theo tôi th́ Hồ Chí Minh
có muốn xúc tiến một cuộc đối thoại với người Pháp
không. Tôi suy nghĩ một lát rồi đưa ra ư kiến là,
theo tôi, ông Hồ không
phải là một nhà cách mạng cuồng nhiệt.
Trái lại, tôi thấy ông là một
người ôn hoà và là một trong số ít người có đầu óc
thực dụng trong các lănh tụ quốc gia.
Qua nhiều cuộc nói chuyện với
ông, tôi suy ra rằng ông hoàn toàn ư thúc được những
điều hạn chế và các khả năng của ông. Tỷ dụ
như ông công nhận là sẽ phải tiếp quản một đất nước
đang bị phá sản, ông không được đảm bảo có sự hỗ trợ
của nước ngoài, nhân dân của ông thiếu kinh nghiệm
chuyên môn trong việc quản lư đất nước và xây dựng
cơ sở nền kinh tế. Về mặt khác,
ông Hồ cũng có ư thức về những ưu thế của ông.
Những người đi theo ông có kỷ luật; ông có một tổ
chức chính trị vững vàng trong giai cấp nông dân,
công nhân và trí thức, có động có đấu tranh cho mục
đích chung; và phong trào giải phóng bao gồm tới 90%
dân chúng mà đa số đều sợ, không muốn có việc quay
trở lại nguyên trạng cũ. Sau khi đă giành được một
thắng lợi cực kỳ to lớn về tâm lư và chính trị một
cách tương đối dễ dàng, mới 10 ngày trước đây và có
được một kho vũ khí khá quan trọng, chắc chắn là ông
Hồ sẽ ra sức đẩy mạnh phong trào cách mạng tiến lên.
Nhưng tôi cũng thấy ở ông Hồ một con người yêu hoà
b́nh, sẽ mong muốn thượng lượng hơn là đánh nhau,
mặc dù tôi vẫn tin rằng nếu không có lối thoát, ông
sẽ chiến đấu.
Sainteny lắng nghe những nhận xét của tôi, và với
một vẻ suy nghĩ, ông gợi ư muốn được nói chuyện trực
tiếp thẳng với ông Hồ. Có thể một cuộc tiếp xúc cá
nhân cũng có khả năng đưa đến một sự đồng ư cụ thể
nào đó cho một cuộc ngừng bắn. Tuy vậy, tôi cũng rất
hoài nghi về kết quả của một cuộc gặp gỡ giữa hai
người, v́ Sainteny không những không có quy chế
chính thức mà cũng chẳng có quyền lực ǵ để có thể
làm thay đổi được chính sách cứng rắn của Paris về
“chủ quyền tuyệt đối của Pháp”.
Tôi đồng ư là một cuộc gặp gỡ như thế cũng chẳng có
hại ǵ. Sainteny hỏi tôi có muốn giúp
thu xếp không.
Tôi hứa sẽ cố thử, nhưng nêu lên
ư kiến là cuộc gặp của ông ta với Giáp và Hiền trước
đây đă chẳng đạt được ǵ.
Sainteny ngạc nhiên hỏi tại sao?
Tôi nói thẳng là v́ không những
ông ta đă có thái độ gia trưởng mà c̣n rất mập mờ
trong đề nghị hợp tác của ông.
Sainteny không đồng ư nên tôi
cũng thôi không tiếp tục vấn đề.
… Đề nghị khác của Sainteny có liên quan đến một số
bạn đồng sự của ông thuộc SLFEO ở Calcutta, mà
theo ông th́ đă được thả
dù ngày 23-8 xuống khu vực phía bắc Hà Nội. Ông báo
tin cho tôi và sợ rằng nhiều người trong số đó đă bị
giết hoặc bị Nhật hay Việt Minh bắt.
Hai ngày trước đó, ông đă được nhận tin từ Calcutta
cho hay P. Messmer và cả toán của ông đă bị Việt
Minh bắt giữ. Như vậy ông ta c̣n
sống, nhưng ở đâu? Tôi có
thể t́m được họ không?
Tôi trả lời ông là tất nhiên có thể làm được nhưng
phải có thời gian. Ông kể tiếp là SLFEO đă
phái nhiều toán sĩ quan chính trị, mà Messmer là
một, cũng nhiều t́nh báo viên của DGER đến bắt liên
lạc với du kích ở Đông Dương. Nhiều toán đă không
tới được mục tiêu. Và chỉ mới biết tin tức của một
số ít. Như đối với toán Messmer,
Sainteny cho biết Messmer đă được cử làm Uỷ viên
Cộng hoà Pháp tại Bắc Kỳ, trong toán có một nhân
viên y tế và một cơ công điện đài.
Phải mất nhiều ngày sau tôi mới
nắm được manh mối của toán Messmer. Trong khi
đó th́ Sainteny vẫn c̣n là người cầm đầu M.5 phụ
trách việc liên lạc của Pháp cho SLFEO, nhưng h́nh
như ông đă bỏ nhiệm vụ chính của ông, công tác t́nh
báo, để lao vào những cuộc đấu tranh chính trị mù
mờ. Ông không nhận thức được những công tác cần ưu
tiên và say sưa với những vụ khiêu khích vô tích sự.
Chú thích
(1) Khi ấy gọi là Chủ tịch Chính phủ
(2) Những thành viên khác trong Chính phủ Lâm thời
- Bộ trưởng Tuyên truyền: Trần Huy Liệu (Cộng sản)
- Bộ trưởng Quân chính: Chu Văn Tấn (Việt Minh)
- Bộ trưởng Thanh niên: Dương Đức Hiền (Dân chủ)
- Bộ trưởng Kinh tế: Nguyễn Mạnh Hà (Dân chủ)
- Bộ trưởng Cứu tế: Nguyễn Văn Tố (nhân sĩ)
- Bộ trưởng Tư pháp: Vũ Trọng Khánh (Dân chủ)
- Bộ trưởng Y tế: Phạm Ngọc Thạch (Việt Minh)
- Bộ trưởng Giao thông: Đào Trọng Kim (nhân sĩ)
- Bộ trưởng Lao động: Lê Văn Hiến (Việt Minh)
- Bộ trưởng Giáo dục: Vũ Đ́nh Ḥe (Dân chủ)
- Bộ trưởng Canh nông: Cù Huy Cận (Dân chủ)
- Bộ trưởng không bộ: Nguyễn Văn Xuân (Việt Minh)
(thiếu Bộ trưởng Quân huấn Trương Trung Phụng)
(3) Ông Hồ trích dẫn diễn văn của Tưởng Giới Thạch
ngày 24-8 trước hội nghị liên tịch Hội đồng Quốc
pḥng Tối cao và Uỷ ban Thường vụ Quốc dân Đảng.
(4) Nguyên văn của đoạn đó như sau: “All men are
created equal that they are endowed by the Creator
with certain inalienable Rights, among these are
Life, Liberty and the persuit of Happiness” (Tuyên
ngôn Độc lập nước Mỹ 1776). Tuy nhiên, sau này, Hồ
Chủ tịch đă trích lại nguyên văn này: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng.
Tạo hoá cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”.
(Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam 1945).
Chương 24
Những
câu chuyện rắc rối
BĂO TÁP TRONG MỘT ẤM
TRÀ
Sáng hôm sau
tôi nhận được một điện khẩn của Helliwell, nói
tôi phải giải quyết một số vấn đề của toán
Sainteny - họ thiếu lương thực, thất lạc điện
gửi về Côn Minh, và cái gọi là mối đe doạ Nhật
nhiễu phá hệ thống thông tin của họ.
Một vấn đề lớn là đại biện lâm thời Pháp trong
một cuộc đối thoại gay gắt với Đại sứ quán của
ta, đă yêu cầu giải thích điều mà Pháp gọi là
“Mỹ không thực hiện điều thoả thuận cho phép
Pháp tiếp tục được vận chuyển người Pháp và vật
liệu sang Hà Nội”.
Đây đúng là một ư đồ của
Pháp nhằm lợi dụng khai thác địa vị của Mỹ ở
Trung Quốc. V́ thực
tế, không có một sự thoả thuận nào giữa Mỹ và
Pháp có liên quan đến sử dụng, vận chuyển hay về
các mặt nào khác của quân đội Pháp ở Trung Quốc.
Chỉ có những thoả thuận được thi hành giữa Trung
Quốc và Pháp, có liên quan đến Mỹ chăng nữa th́
chỉ do lúc đó tướng Wedemeyer giữ vai tṛ Tổng
tham mưu trưởng của Tưởng. Để tránh va chạm với
Trung Quốc, người Pháp đă quay sang phía OSS,
nêu ra điều thoả thuận về hoạt động của OSS -
DGER trước đây. Heppner đă báo cho Pháp biết là
thoả thuận OSS - DGER đă hết hiệu lực từ khi
chiến tranh kết thúc, c̣n việc cấm vận hiện nay
là do chính phủ Trung Quốc quyết định.
Heppner cũng đă thông báo
cho họ hay tướng Wedemeyer đă thay mặt Tưởng ra
lệnh cấm OSS không được chuyên chở những nhân
viên không phải là người Mỹ vào Đông Dương trong
lúc này. Ông đă gợi ư cho Pháp nên gặp
Tưởng.
Cơn băo táp này, tất nhiên cũng chỉ do Sainteny
gây ra để chống lại tôi. Sainteny đă gửi điện
tín khuấy động người Pháp ở Trùng Khánh và
Calcutta về một âm mưu Hoa - Mỹ nhằm gạt Pháp ra
khỏi Đông Dương và việc OSS bày mưu lập kế để
thay thế nền cai trị của Pháp bằng Chính phủ Hồ
Chí Minh do Cộng sản đỡ đầu.
Hai bức điện điển h́nh, do Sainteny tiết lộ ra
sau này, có ghi(1):
“Chúng tôi phải đối phó với một cuộc vận động
hỗn hợp của Đồng minh nhằm loại Pháp ra khỏi
Đông Dương. Chỉ có Chính phủ (Paris) mới có thể
chống lại ở tầm cỡ quốc tế…
Điều đó cũng cần phải được hiểu là, vào giờ phút
này, bắc Đông Dương không c̣n là thuộc Pháp”.
Và:
“Thái độ của Đồng minh đối với nước Pháp có nguy
cơ làm cho chúng ta hoàn toàn bị mất mặt… làm
việc ǵ tôi cũng phải thông qua Patti.
Tôi nhấn mạnh rằng thực tế
trong lúc này, thái độ của Đồng minh có hại hơn
là của Việt Minh. Chỉ
Leclerc hoặc De Gaulle mới có thể và cần hoạt
động”.
Chiều hôm đó tôi đến gặp
Sainteny và thấy ông buồn bă.
Nhưng lần này tôi rất bực
bội. Ông dễ dàng công nhận là đă báo cáo
về Trung Quốc rằng tôi đă không hợp tác chặt
chẽ, ông và toán của ông coi như bị cầm th́ tại
chỗ và t́nh h́nh đă trở nên nghiêm trọng hơn v́
người gác Nhật đă được “thay thế” bằng những
người An Nam bất lực và hay báo thù.
Tôi hỏi một cách cộc cằn tại
sao ông lại kêu ca với Trùng Khánh về việc thiếu
thốn lương thực… và nếu quả thực thế th́ tại sao
lại không cho tôi biết trước khi báo cáo về
Trùng Khánh. Sainteny
hơi lúng túng và tỏ ra bực bội v́ thấy bị hỏi về
những điều nhỏ nhen này. Ông thanh minh
là đă có nói điều dó trước khi những người “bồi
An Nam” bỏ trốn đi, mà người Pháp th́ không được
phép ra ngoài để mua bán ǵ…
Tôi hiểu ngay vấn đề lương thực thực sự chỉ là
một cái cớ. Sainteny bảo tôi không nên
quá quan tâm đến những người Pháp ở Trùng Khánh
v́ họ không nắm được việc Sainteny phải đối phó
với những người “Cộng sản Việt Nam chống đối” và
bọn lính Nhật kiêu căng đang bao vây.
Ông cho “dân” Trùng Khánh
chỉ biết “ăn bánh ngọt, uống trà” trong khi Đông
Dương đang suy sụp. Đó chỉ là một quan
điểm cục bộ hẹp ḥi của cá nhân Sainteny; v́
chắc chắn ông biết rằng các nhà ngoại giao Pháp
ở Trùng Khánh đang cố gắng giải quyết cho xong
với Tưởng vấn đề độc quyền lănh thổ của Pháp ở
Trung Quốc… Tôi cho rằng những điều xuyên tạc và
bịa đặt của Sainteny đă chẳng giúp ǵ được trong
việc nâng cao địa vị của Pháp ở địa phương hay
trên trường quốc tế.
Tôi có hỏi tại sao ông ta lại đặt tôi vào cái
thế phải giải thích những câu chuyện vụn vặt đó
mà tôi đă không gây ra và cũng chẳng nắm được…
… Tôi không thật nắm chắc
được động cơ của Sainteny.
Đây cũng có thể chỉ là những
vấn đề nhỏ nhen cá nhân. Nhưng cũng rất
có khả năng là ông đă cố ư bịa ra chuyện để đánh
lừa, lấy cớ là Pháp thiếu, không có đủ cơ sở
tiếp tế hậu cần ở Hà Nội để xin tăng thêm số
người Pháp ở Đông Dương. Nhưng dù động cơ thật
của ông là ǵ đi nữa th́ mưu mô làm mất uy tín
của Mỹ ở Hà Nội hay ở Trung Quốc cũng đă chẳng
có ảnh hưởng ǵ tới người Trung Quốc và bất kể
thế nào th́ họ cũng vẫn là lực lượng chiếm đóng.
Tôi nói với Sainteny là tôi có gặp ông Hồ buổi
sáng và đă đề cập đến việc gặp gỡ giữa hai bên,
như ông ta đă yêu cầu, nhưng ông Hồ cho biết
rằng ông không có ư định muốn có sự gặp gỡ trong
thời điểm đặc biệt này.
Tôi muốn làm dịu bớt lời chối từ của ông Hồ nên
có ư kiến có lẽ nên thu
xếp một cuộc gặp gỡ vào những ngày sau. Sainteny
nhún vai: “Không quan trọng!
Chúng tôi sẽ làm điều mà chúng tôi phải làm.
Mặc kệ!”.
Tôi hỏi xem ông có nhận được
phản ứng ǵ của Paris đối với chính phủ mới của
Hồ Chí Minh không.
Câu trả lời của ông mập mờ, chẳng đâu vào đâu.
Như sực nhớ ra, Sainteny nói là Paris đă có kế
hoạch riêng của họ, và thực sự cũng chẳng phải
lo lắng ǵ đến các hoạt động của bọn “đỏ” ở Đông
Dương.
Cuộc nói chuyện đă kéo quá dài.
Tôi ra về và Sainteny nhắc
lại việc những “cai ngục” người Nhật của ông ta
đă được những người “Cộng sản An Nam” thay thế.
Điều gợi ư của tôi để toán
của ông rời khỏi Dinh và chuyển đến một trụ sở
ít phức tạp hơn gần Phái đoàn Mỹ, được đáp lại
là ông chỉ đóng ở nơi nào mà “sự công nhận chính
thức chủ quyền Pháp” được ghi nhận. Ông
c̣n cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng, nếu ông
không thể làm ǵ khác hơn nữa th́ ít nhất ông
cũng cần phải duy tŕ “sự có mặt của Pháp” bằng
cách chiếm đóng trụ sở cũ của Toàn quyền Pháp ở
Đông Dương.
MỘT BỨC ĐIỆN GỬI CHO TRUMAN
Nếu như người Pháp băn khoăn lo lắng
về chiến lược của Tưởng định gạt họ ra khỏi Đông
Dương th́ ông Hồ và Việt Minh của ông cũng chẳng
yên tâm trước những mưu đồ của Trung Quốc đối
với tương lai sự lănh đạo của họ. Từ sáng sớm,
Vơ Nguyên Giáp đă gửi cho tôi một thư yêu cầu
tôi chuyển bức công điện sau đây của ông Hồ gửi
Tổng thống Truman.
“Để đảm bảo có kết quả cho vấn đề mà Uỷ ban liên
tịch các nước Đồng minh có nhiệm vụ phải giải
quyết ở Việt Nam, yêu cầu để cho phái đoàn Mỹ
được làm một thành viên của Uỷ ban nói trên và
đặt quan hệ với Chính phủ chúng tôi… Chúng tôi
yêu cầu cho Chính phủ chúng tôi, chính quyền duy
nhất hợp pháp ở Việt Nam,và là người duy nhất đă
chiến đấu chống Nhật (sic) (hoạt động quân sự do
Mặt trận Việt Minh và sĩ quan Mỹ tiến hành), có
quyền có đại diện trong Uỷ ban đó.
Chính
phủ Lâm thời Cộng hoà Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bộ trưởng Bộ Nội vụ kư thay”.
Tôi cho rằng đây chỉ là một sự
tính toán, táo bạo và có thể không có hiệu quả
của ông Hồ để có được một vị trí giữa các nước
có quyền quyết định về tương lai của Đông Dương.
Nếu chỉ có Trung Quốc là cường quốc chiếm đóng
duy nhất th́ đó là một triển vọng không thể chấp
nhận được đối với ông. Sự
công nhận của quốc tế, nếu đạt được, sẽ củng cố
cả vai tṛ của phong trào độc lập và địa vị lănh
đạo của cá nhân ông. Có hay không có điều
đó th́ sự mong muốn cho Mỹ tham gia một cách
tích cực vào việc quyết định đường lối chính
sách, sẽ chỉ cốt để cân bằng lại đối với những
mục đích lợi dụng của Trung Quốc, Pháp và Anh.
Điều khá mỉa mai là trong
khi ông công bố một cách thành thực là đă kháng
chiến chống Nhật, th́ lại đúng là nhờ vào sự
cộng tác tích cực của Nhật mà Chính phủ ông mới
hoạt động được. Tỷ dụ như ngay mới đây,
Nhật đă lặng lẽ để lại cho người Việt tất cả bộ
máy cảnh sát dân sự, trừ việc canh gác nhà Ngân
hàng Đông Dương và các hoạt động của Hiến binh
Nhật.
Tôi không muốn chuyển bức điện của ông Hồ mà lại
không có sự thảo luận với ông nên đă t́m gặp ông
vào giữa buổi sáng hôm đó. Cùng với ông, c̣n có
Hoàng Minh Giám(2).
Chúng tôi đi thẳng ngay vào
đề là tôi không thể gửi được bức điện cho Tổng
thống Truman. Đó là
một vấn đề ngoại giao vượt ra ngoài quyền hạn
của tôi. Nhận xét đó
không làm cho ông Hồ bối rối. Với nụ cười
cởi mở thường thấy và lộ thái độ thoải mái, ông
nói ông hoàn toàn thông cảm việc tôi không thể
trực tiếp liên lạc với Nhà Trắng nhưng chắc cũng
có thể gợi ư cho ông cách nào đó để liên lạc với
Truman; điều đó mới thực là quan trọng.
Không đợi tôi kịp trả lời, ông quay sang Giám và
bảo Giám giải thích về nội dung bức điện. Giám
đang chờ, và bằng một thứ tiếng Pháp lưu loát,
nói bức điện có hai mục đích: thứ nhất là tranh
thủ sự có mặt của một người tham dự vô tư, nếu
được Mỹ là tốt nhất, trong các cuộc thương lượng
giữa Trung Quốc và Pháp, v́ họ có thể làm nguy
hại cho nền độc lập và sự toàn vẹn lănh thổ của
Việt Nam, và thứ hai, khuyến khích cho các nước
Đồng minh công nhận Chính phủ Lâm thời của ông
Hồ là đại diện duy nhất và hợp pháp của nhân dân
Việt Nam trong các vấn đề có liên quan đến chủ
quyền của Việt Nam…
Giám giải thích điểm hai c̣n bao gồm việc sắp
đặt cơ cấu tổ chức và vai tṛ của các phái dân
tộc chủ nghĩa khác nhau, một điều quan trọng đối
với ông Hồ, nếu như ông phải cùng với họ nắm một
loại chính quyền hợp pháp nào đó…
Theo Giám lập luận th́ việc Đồng minh công nhận
Chính phủ Lâm thời chậm chừng nào th́ chỉ làm
suy yếu địa vị lănh đạo của họ chừng đó và chỉ
làm lợi cho Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân
Đảng trong việc dựng lên bộ máy cai trị thân
Trung Quốc. Đến đây ông Hồ xen vào nói rằng t́nh
h́nh cấp bách phải làm cho Mỹ dùng ảnh hưởng của
ḿnh đối với Trung Quốc, bắt họ phải chấp nhận
Chính phủ Lâm thời của ông như “một chính phủ đă
tồn tại trước khi bọn bù nh́n thân Quốc dân Đảng
vượt biên giới vào Việt Nam”.
Không công nhận cách lập luận trên, tôi chỉ nhắc
lại chính sách của Mỹ: Mỹ không có kế hoạch can
thiệp vào công việc nội bộ của Đông Dương, bất
kể ở phía người Trung Quốc, người Pháp hay người
Việt và hơn nữa, theo tôi hiểu th́ đại diện duy
nhất Đồng minh phụ trách tiếp nhận đầu hàng ở
miền bắc Đông Dương sẽ là người Trung Quốc. Nhân
viên Mỹ đi cùng đoàn tiếp nhận đầu hàng Trung
Quốc chỉ là những người trước đây đă được phái
tới lực lượng chiến dấu Trung Quốc để làm cố vấn
quân sự, không có nhiệm vụ chính trị và không có
quyền đại diện chính phủ Mỹ trong các công việc
quốc tế.
Tôi nêu ư kiến một cách
thẳng thắn. V́ thật là sai lầm nếu như
dấy lên một hy vọng về việc Mỹ làm trung gian
khi tôi biết rằng điều dó sẽ không thể có. “Ông
già” mẫn cảm hiểu vấn đề và với một thái độ chịu
đựng trang trọng, ông nói ông đánh giá cao và
tôn trọng lập trường của Mỹ. Nhưng nếu tôi làm
ơn chuyển hộ ông bức điện, dù chỉ về Trùng Khánh
thôi, th́ ông cũng
rất sung sướng. Có lẽ cũng
có người nào đó “ở cấp cao” sẽ thông hiểu được
cảnh ngộ của người Việt Nam.
Về sau, coi như là một việc nhân nhượng với họ,
tôi nhận sẽ chuyển điện về cho Đại sứ Hurley,
nhưng cũng nói với ông Hồ rằng tôi sẽ không thể
đoán trước được Đại sứ sẽ có hành động ǵ không.
Trong
thâm tâm tôi, tôi cho rằng nỗ lực đó sẽ không
mang lại kết quả; và thực sự đúng là như vậy.
Tôi cũng
thông báo cho ông Hồ biết Sainteny yêu cầu có
cuộc đàm thoại.
Ông suy nghĩ một lát rồi hỏi
xem mục đích để làm ǵ? Tôi nói chỉ có
thể phỏng đoán là nhằm để bàn về vai tṛ tương
lai của Pháp ở Đông Dương. Ông Hồ nhẹ nhàng đáp
lại là thực tế trong lúc này không c̣n ǵ phải
thảo luận với Sainteny nữa, trừ phi, ông nói
thêm, đó là việc quân đội Pháp trở lại Việt Nam,
và nếu như Sainteny có ư như vậy th́ tốt hơn hết
là nên chờ cho sự việc xảy ra đă rồi hăy gặp
nhau. Ông nói nếu như
Sainteny có điểm ǵ có tính chất xây dựng cần
tŕnh bày trong khuôn khổ một thông báo chính
thức của Paris, th́ ông ta nên gửi cho Chính phủ
Lâm thời xem xét. Rơ ràng là vấn đề đă
kết thúc và tôi không nói ǵ thêm nữa.
Giám rời khỏi pḥng, tôi
cũng xin rút lui nhưng ông Hồ nói tôi ở lại.
Ông mới được tin nhiều quan
chức quan trọng Pháp ở Paris đến Trùng Khánh để
điều đ́nh với Tưởng về vấn đề đặc quyền ngoại
giao ở Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu và Quảng
Châu. Tất nhiên,
những cuộc điều đ́nh đó sẽ không được tiến hành
mà không có ảnh hưởng lớn đến quy chế tương lai
của Việt Nam. Đi sâu thêm, ông Hồ tỏ vẻ
lo ngại về vấn đề quyền sở hữu và quản lư đường
xe lửa Vân Nam phủ đi
từ Hà Nội về Côn Minh và vấn đề khai thác sử
dụng cảng Hải Pḥng. Ông b́nh luận một cách buồn
bă rằng thật là một điều kinh khủng khi thấy ở
Yalta cũng như ở Postdam, các cường quốc Đồng
minh đă quyết định những vấn đề cực kỳ nghiêm
trọng mà không có một sự chiếu cố nhỏ nhặt nhất
đối với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.
Tôi không đồng ư và có một
quan niệm khác. Sự
quan tâm chủ yếu của Tổng thống Roosevelt đối
với vấn đề Đông Dương ở Cairo, Tehéran và Yalta
là số phận tương lai của dân tộc Việt Nam.
Ông đă đề cập một cách hoàn toàn đầy sức thuyết
phục tới vấn đề tự trị cho nhân dân Việt Nam với
Stalin và cả Churchill, cũng như đă nói riêng
với Tưởng, và đă giành được sự ủng hộ hết ḷng
của Stalin và Tưởng. Trong khi bảo vệ sự nghiệp
của Việt Nam, Roosevelt đă bày tỏ một cách minh
bạch là ông chỉ mong muốn chấm dứt chủ nghĩa
thực dân ở Đông Dương ngay cả khi cần phải trả
giá bằng sự bất hoà với Anh, và làm gián đoạn
mối quan hệ Mỹ - Pháp.
Hơn nữa, tôi nói, Tổng thống cũng đă thấy Tưởng
công khai tuyên bố lập trường không can thiệp
của ḿnh, và tôi nhắc cho ông Hồ biết, chỉ trước
đó 4 hôm, Tưởng nói lặp lại lập trường nói trên
và tuyên bố:
“… Tuân theo các điều khoản trong bản hiệp định
của Đồng minh mới đây, ngoài việc phái các lực
lượng tới để tiếp nhận đầu hàng của Nhật trong
vùng bắc vĩ tuyến 16, chúng tôi không có tham
vọng đất đai ở Đông Dương thuộc Pháp. Chúng tôi
mong rằng người Việt Nam sẽ từng bước thực hiện
được nền độc lập của họ qua con đường tụ trị, và
qua đó thực hiện được những điều khoản của Hiến
chương Đại Tây Dương…”(3).
Một lần nữa, lại nổi lên vấn
đề những người Việt Quốc gia vượt qua biên giới
trong gồng gánh của lực lượng chiếm đóng của Lư
Hán. Giáp và tôi đă
thảo luận vấn đề này từ mấy hôm trước và đă kết
luận là có thể dẫn đến những cuộc xung đột
nghiêm trọng. Tôi đă báo cáo cho Tổng
hành dinh Chiến trường và Đại sứ quán khả năng
tiềm tàng có thể nổ ra rối loạn nội bộ, và thậm
chí xung đột vũ trang, nếu như những người Việt
Quốc gia từ Trung Quốc ở về lại có ư định muốn
đánh đổ Chính phủ Lâm thời.
Ông Hồ và tôi nói đến đó th́ Giám trở vào, mang
theo một bức điện.
Ông có tin quân Trung Quốc đă qua biên giới ngày
27-7 ở Cao Bằng và đă tước vũ khí của một phân
đội nhỏ Việt Minh đóng ở Lạng Sơn. Nhưng khoảng
một giờ sau, bộ đội tăng cường của Việt Minh từ
nông thôn kéo đến đă phản công đánh cho quân
Trung Quốc phải rút lui và chịu điều đ́nh để có
đường tự do đi về phía nam.
Người Trung Quốc đă phải yêu cầu Việt Minh thông
qua một tổ chức chính quyền liên hợp ở cấp tỉnh
để đảm bảo duy tŕ pháp luật và trật tự trong
tỉnh. Xem ra th́ biện
pháp cuối cùng có thể được lựa chọn sẽ là một
chính phủ quân quản vĩnh cửu. Nhưng sau
những cuộc thảo luận sôi nổi, mọi người đă nhất
trí thành lập một chính quyền liên hợp cấp tỉnh
gồm 2 đại biểu của Việt Minh, 2 của Phục Quốc và
3 người độc lập.
Ông Hồ lắc đầu phản đối, cho đó là một điều
không thể chấp nhận được: bọn Phục Quốc từ lâu
đă là bù nh́n của Nhật và không thể tin cậy
được. Giám giải thích là Phục Quốc gồm có ba
đảng quốc gia do Nhật đỡ đầu, một trong số đó do
Trần Trọng Kim lănh đạo. Ông
Hồ ngắt lời và nói là Phục Quốc đă được tổ chức
ra từ trước Thế chiến thứ nhất, với sự bảo trợ
của Phan Bội Châu, “một học giả chính trực, một
người quốc gia chân chính” với nhiều hoài băo về
một sự cộng tác Nhật - Việt. Trong thời
niên thiếu,, ông nói,
tôi đă có nghĩ đến việc đi theo phong trào Đông
Du phục vụ cho châu Á của Tiến sĩ Châu. Nhưng
sau này, thấm nhuần một tinh thần độc lập chống
sự đô hộ của ngoại quốc mạnh mẽ, ông đă quyết
định chuyển đi theo
hướng tây - sang Pháp.
Ông Hồ và Giám đưa ra nhiều tài liệu về sự cộng
tác của Phục Quốc với quân xâm lược Nhật và ông
Hồ cũng nhắc lại kinh nghiệm bản thân của ông
với nhóm lưu vong ở Trung Quốc trong vai tṛ của
“những tên đầy tớ trung thành của Quốc dân
Đảng”. Những người cộng tác thù địch này sẽ
chẳng mang lại được ǵ thêm cho chế độ mới và rơ
ràng ở đây chỉ là một việc ông Hồ phải ngậm bồ
ḥn làm ngọt.
Trước khi tôi ra về, ông Hồ
lại nhắc lại sự mong mỏi khẩn thiết của ông là
tôi sẽ báo cáo cho Trùng Khánh tất cả những ǵ
đang xảy ra ở miền Bắc này.
MỘT BỨC ĐIỆN GỬI CHO “ÔNG TAM”
Tôi có dấu vết đầu tiên về việc ông
Hồ có ư định giải quyết vấn đề những người Việt
Quốc gia đă xuất dương qua một bức
thư tôi nhận được
trong ngày hôm sau của Vơ Nguyên Giáp.
Ông yêu cầu tôi trên cơ sở
cảm t́nh cá nhân, chuyển giúp ông một bức điện
cho “ông Tam”. Bức điện tỏ ra vô thưởng
vô phạt và thông thường tôi không cho nó ẩn ư
nào khác.
“Của: Vơ Nguyễn Giáp, tức Văn
Gửi cho: ông Tam, nhờ AGAS chuyển
Việt Minh đă thành lập Chính phủ Cộng hoà Lâm
thời. Nhân danh cá nhân tôi,
mời ông về Hà Nội”.
Nhưng tôi cảnh giác v́ thấy
ông Hồ đă tỏ ra lo lắng trong khi thảo luận về
các đảng phái thân Trung Quốc.
Tôi thoáng có ư nghĩ là Giáp
có thể có ư đồ muốn xoay xở với Việt Minh.
Nhưng tôi đă gạt bỏ ngay ư
nghĩ đó, v́ sự trung thành của Giáp đối với ông
Hồ và Việt Minh là một điều không thể nghi ngờ
được. Nhưng yêu cầu
của Giáp là không b́nh thường. Từ trước,
chỉ có ông Hồ nhờ tôi chuyển điện tín và nội
dung các bức điện bao giờ cũng rơ ràng.
Điều làm tôi thắc mắc là cái “ông Tam” này, ông
Tam duy nhất mà AGAS có liên lạc là Nguyễn Tường
Tam(4), lănh tụ đảng
Đại Việt, thân Nhật, hợp tác với Việt Nam Quốc
dân Đảng, nổi tiếng chống Cộng sản và lại chính
là người mà Sainteny đă bí mật liên lạc thăm ḍ
cách đó khoảng một tháng. Điều làm tôi thắc mắc
là Giáp, vốn là một trợ thủ chủ yếu của ông Hồ,
mà chỉ do sáng kiến cá nhân dám mời lănh tụ của
một đảng đối lập về gặp ở Hà Nội. Có ǵ bảo đảm
cho Giáp là tôi sẽ không thảo luận về bức
thư này với ông Hồ,
mà Giáp th́ cũng chẳng yêu cầu tôi phải giữ bí
mật. Với cách lập luận đó,
tôi cho rằng Giáp đă hành động với sự đồng ư của
ông Hồ và tôi đă chuyển bức điện đi.
Nhưng tôi vẫn phân vân không
hiểu tại sao lại có bức điện này.
Nó có thể sẽ mang lại cho
Việt Minh lợi lộc ǵ? Hay đây là một cái
bẫy chỉ nhằm để bắt cóc hoặc ám sát?
Chắc không phải như vậy.
Việc thủ tiêu Tam sẽ không ngăn trở được mục
đích cuối cùng của Việt Nam Quốc dân Đảng là
nhằm tiêu diệt Việt Minh do Cộng sản lănh đạo.
Có lẽ ông Hồ, một bậc thầy mưu lược, đă suy nghĩ
theo cái kiểu người
Mỹ chúng ta: “nếu anh không đánh được họ, th́
hăy theo họ”. Một chiến thuật mà ông đă từng sử
dụng và thu được ít
nhiều thành công. Qua suy nghĩ, tôi cho rằng ông
Hồ không thể hoà trộn Việt Minh của ông với Quốc
dân Đảng mà có thể chỉ là việc một lănh tụ chủ
chốt trong các đảng chống Cộng sẽ bị lôi kéo
bằng cách mua chuộc, o ép, doạ nạt, hoặc một cái
ǵ đó mà vẫn không từ bỏ đảng ḿnh để đi theo
với Việt Minh… Tôi yêu cầu
Bob Knapp, một chuyên gia về chiến tranh chính
trị của chúng tôi, giúp tôi phân tích t́nh huống
mới này. Chúng tôi bắt đầu từ sự việc ai
cũng đă biết là ông Hồ và Tam đă cộng tác với
Trương Phát Khuê ở Đồng minh Hội trong những năm
1943-1944 và kiểm lại tất cả các t́nh huống mà
chúng tôi đă biết về họ.
Vào mùa hè 1943, qua sự tiếp xúc của OSS với
những người Cộng sản Trung Quốc trong Quốc dân
Đảng, tướng Tiêu Văn đă t́m gặp ông Hồ, lúc đó
là tù chính trị của Trương. Tiêu và ông Hồ đă đi
tới một quan hệ gần gũi nhau về lư tưởng và đến
cuối tháng 7, Trương đă đưa ra một đề nghị xin
thả ông Hồ gửi cho Tổng Bí thư Quốc dân Đảng
Trung Quốc. Đề nghị đó được chấp nhận vào cuối
tháng 8 hoặc đầu tháng 9, với điều kiện ông Hồ
sẽ được giải thoát khỏi bị tù đày, nhưng được
giữ lại dưới quyền kiểm soát của Trương để làm
công tác chính trị trong Việt kiều. Trương yêu
cầu ông Hồ giúp chấn chỉnh tổ chức Đồng minh
Hội, v́ nó đă chẳng có hiệu lực ǵ từ khi thành
lập vào mùa thu 1942 và đang bị xâu xé v́ mâu
thuẫn nội bộ.
Mặc dù có sự tranh chấp giữa Đảng Cộng sản Đông
Dương và Việt Nam Quốc dân Đảng, ông Hồ cũng đă
thành công trong việc làm cho Đồng minh Hội trở
thành một liên minh có hoạt động, đáp ứng được
yêu cầu của Trương về mặt tổ chức, kỷ luật, công
tác t́nh báo. Khi ông Hồ rời Trung Quốc về biên
giới Việt Nam vào tháng 8-1944, ông có khá nhiều
kẻ thù, nhưng đồng thời cũng có nhiều bạn bè
trong số các lănh tụ bất măn của khối chống Cộng
trong Đồng minh Hội. Nguyễn
Tường Tam là một trong số này.
Knapp và tôi đi đến kết luận là khi ông Hồ được
tin quân Lư Hán kéo bọn tay chân cũ trong Đồng
minh Hội đi theo họ, trong số đó đặc biệt có bọn
Việt Nam Quốc dân Đảng đáng căm thù th́ ông đă
dự đoán Trung Quốc có kế hoạch định lật đổ ông
để thay thế bằng một tên bù nh́n thân Trung Quốc
ngoan ngoăn. Nếu quả thực họ có mưu đồ như vậy,
th́ ông Hồ cũng biết rằng chính phủ và lực lượng
quân sự rất hạn chế của ông sẽ không thể đối phó
được với sức mạnh quân sự của Tưởng.
Nhưng c̣n một vấn đề rầy rà khác cho ông Hồ là
việc có thể có hoặc sẽ có một “hoạt động” Trung
- Pháp, nhằm lật đổ ông, tiêu diệt Việt Minh và
trao trả Việt Nam lại cho Pháp.
Chúng tôi có được bản giải thích của cơ quan
nghiên cứu R&A của OSS về lời tuyên bố của Tưởng
ngày 24-8, mà tôi đă có dịp nói đến ít nhiều
trong cuộc gặp gỡ với ông Hồ, và đặc biệt là về
chính sách 14 điểm của Quốc dân Đảng trong việc
chiếm đóng Việt Nam. Chúng tôi đặc biệt lưu ư
đến việc các nhà Trung Quốc học của OSS chúng ta
cho rằng chính phủ Trung Quốc không có ư định
muốn để cho ḿnh bị sa lầy ở Đông Dương. Thái độ
trước đây của Tưởng đối với người Việt Nam đă
được tŕnh bày cho Roosevelt ở Cairo tháng
11-1943, h́nh như vẫn c̣n có giá trị. Lúc đó
Tưởng đă phát biểu là người Việt Nam không phải
là người Trung Quốc, không để bị đồng hoá với xă
hội Trung Quốc và Tưởng không có quyền lợi về
đất đai ở Đông Dương.
Nhưng, lời tuyên bố mới nhất về chính sách của
Trung Quốc lại không chịu ghi nhận phong trào
độc lập của Việt Nam và việc thành lập của một
Chính phủ Việt Minh. Thay vào đó, nó lại công
nhận chủ quyền Pháp đối với Đông Dương và bao
hàm việc Trung Quốc sẽ xúc tiến cộng tác với
Pháp ở tầm cỡ quốc tế để giải quyết vấn đề quyền
lợi Trung - Pháp tại Đông Dương.
Như thế rơ ràng là Hồ Chí Minh và Chính phủ
“thực tế” của ông đă không có một vai tṛ ǵ
trong kế hoạch sau chiến tranh của Quốc dân Đảng
Trung Quốc và sự ủng hộ trước đây của Trương
Phát Khuê đối với những người Quốc gia Việt Nam,
dù cho đă được Trùng Khánh chuẩn y, cũng không
có góp phần ǵ vào trong cái mưu đồ to lớn của
Thống chế - nhằm làm cho Trung Quốc chiếm địa vị
ưu thế trên bàn hội nghị hoà b́nh với nước Pháp.
Giả sử sự phân tích của chúng tôi là đúng đắn,
th́ việc mời Tam, trong khi những người cộng tác
chính trị với ông c̣n đang trên đường đi từ Vân
Nam vào Việt Nam, có nghĩa là ông Hồ đă cố gắng
vận dụng chiến thuật một cách cừ khôi trội hơn
người Trung Quốc… Ông Hồ biết rằng Tam đă không
được Tiêu Văn trọng vọng ở Đồng minh Hội và bị
Vũ Hồng Khanh, lănh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng,
đối xử một cách thậm tệ.
Cũng có khả năng Tam và Đại Việt của ông có thể
bị cắt đứt khỏi Đồng minh Hội. Cũng có
thể ông được ép nhận một Bộ trong Chính phủ mới
và một số ghế nào đó trong Quốc hội cho những
người theo ông.
Hành động đó, nếu thành
công, chắc chắn sẽ mở rộng cơ sở của chính phủ
Việt Minh và đồng thời lại làm suy yếu các đảng
phái đối lập từ Trung Quốc về.
Chú thích
(1) “Xem lịch sử”, J. Sainteny
(2) Lănh tụ đảng Xă hội và là bạn thân của ông
Hồ
(3) Tuyên bố của Tưởng được đăng trên tờ Trung
ương Nhật báo ngày 25-8-1945 ở Côn Minh.
(4) Nguyễn Tường Tam (1910-1963), nhà văn, nhà
báo với bút danh Nhất Linh, đảng viên Việt Nam
Quốc dân Đảng. Đảng này dựa vào Trung Quốc như
một đồng minh để giành độc lập dân tộc, chống
lại sự kiểm soát quốc gia của Pháp. Khi thế lực
của Nhật bắt đầu thống trị Đông Dương (1940),
Tam chuyển sang nhờ sự viện trợ của Nhật để
chống Pháp và lập ra đảng Đại Việt dân chính
(gọi tắt là đảng Đại Việt).
Pháp đă đàn áp và bắt giam các lănh tụ của đảng
này. Tam trốn thoát sang Trung Quốc
(1942) và theo Việt
Nam Quốc dân Đảng của Vũ Hồng Khanh ở Côn Minh.
Đây là “Việt Nam Quốc dân Đảng” thứ hai, mặc dù
Tam không lộ rơ mặt ở Trung Quốc nhưng Tam và
đảng Đại Việt đă được xác định là những người
Quốc gia thân Nhật. Trương Phát Khuê quyết định
bắt giam Tam (1944) để “dạy cho ông một bài
học”. Ngay trước khi họp Đại hội Đồng minh Hội
lần thứ hai (3-1944), Trương thả Tam và mời làm
đại biểu dự Đại hội ở Liễu Châu và ở đó Tam đă
gặp Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn
Đồng. Mùa thu 1945, ông Hồ tranh thủ sự ủng hộ
của Tam và trao cho Tam chức Bộ trưởng Ngoại
giao trong chính phủ Liên hiệp Lâm thời
(1-1946). Khi được mời dẫn đầu đoàn dự Hội nghị
Fontainebleau, Tam đă cáo ốm và cùng với Vũ Hồng
Khanh đă trốn sang Trung Quốc rồi qua Hongkong.
Tháng 2-1947, Tam, Khanh và một số lănh tụ Đồng
Minh Hội khác đă tham gia các hội nghị ở Nam
Kinh và Quảng Châu để lập ra Mặt trận Dân tộc
Thống nhất nằm tranh thủ sự ủng hộ của chính phủ
ông Hồ và thuyết phục Bảo Đại làm người phát
ngôn cho họ. Nhưng họ đă
thất vọng với người Pháp và Bảo Đại đă từ chối
đứng trung gian hai bên Việt Minh và Pháp.
Tháng 10-1947, Tam rút lui khỏi phong trào ủng
hộ Bảo Đại và hoạt động chính trị, nhưng vẫn
tiếp tục viết báo từ hải ngoại chống lại sự can
thiệp của Pháp và Mỹ vào Việt Nam.
Trong cuộc
nổi dậy của Phật giáo 1963, Tam đă tự vẫn
(7-1963) để phản đối sự đàn áp của chế độ Ngô
Đ́nh Diệm.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.