Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CẬN ĐẠI 1927-1954 –
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
(Hoàng Văn Đào)
THIÊN THỨ BA
CHƯƠNG II
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG QUYẾT CHỐNG XÂM LĂNG
I.-
Đúng hồi 2 giờ ngày 25 tháng 11 năm 1946, toàn thể các cơ quan quân, dân, chính Việt Nam Quốc Dân Đảng rút khỏi Thành Lao Kai, lui vào chiến khu Sập Nh́ Lầu, một căn cứ chính yếu của Đảng ở hậu cứ, thuộc Tỉnh Lao Kai, giáp giới Trung Hoa. Sư Đoàn II rút vào giữ mặt trận Mường Hum, Sư Đoàn I làm hậu vệ yểm hộ cho đội tiền quân rút lui. Hậu vệ quân rút đến làng Kim, đặt thành pḥng tuyến ngự địch truy kích. Quân Vụ Bộ đặt tại Ba Xát rồi lần rút vào Zy Tư có Sư Đoàn II đóng trong khu rừng cấm bảo vệ.
Suốt trên các ngả đường rút lui đều bị cộng quân truy kích, nhưng đều bị đẩy lui bởi Quốc Dân Quân đă bố trí đề pḥng rất chu đáo.
Khu vực Zy Tư, nơi Quân Vụ Bộ tạm đóng, thổ dân chỉ chuyên nghiệp trồng cây lấy nhựa nha phiến, ít cấy lúa nên bị thiếu lương thực, phải nhờ vào sự tiếp tế của Sư Đoàn I vận chuyển từ Tŕnh Tường tới.
Tại Zy Tư, được báo cáo của đội tiền phong tấn công Phong Thổ đă chiếm được Nầm Xe, Bản Mân và hiện đóng ở nơi đó đợi hậu quân tới sẽ tấn công Phong Thổ do Pháp quân chiếm cứ.
Quân Vụ Bộ ra lệnh cho Lư Chí Kiên xuất quân một đại đội tấn công Yao San, rồi đánh dồn xuống hợp lực với Tiêu Bá Hàm và Phạm Đức Nghi bao vây Phong Thổ. Đồng thời lại ra lệnh cho Sư Đoàn II điều động một bộ phận giữ rừng cấm để yểm hộ, rồi theo sau Quân Vụ Bộ đồng tiến, c̣n Sư Đoàn I tức tốc rút về Zy Tư tiếp thu pḥng tuyến của Sư Đoàn II làm hậu vệ và rút sau Sư Đoàn II.
Tập trung xong, Quân Sự Vụ cùng Quốc Dân Quân lên đường. Đội quân hướng đạo tiến đến ngă ba biên giới: Một đường ở Zy Tư đến, một đường sang lănh thổ Trung Hoa, một đường qua núi cao vào Nầm Xe. V́ núi rừng hiểm trở, đường chỉ đi được một người, ngựa không thể đi được, lại có phụ nữ và trẻ nhỏ của các gia đ́nh chiến sĩ đi theo rất đông nên buộc ḷng phải đi nhờ qua đất Trung Hoa một khoảng đường chừng 5 cây số, lại sẽ trở về đất Việt. Đột nhiên một đội quân trong rừng nhô ra chặn đường, đứng đầu là một đội trưởng giơ tay ra hiệu ngừng tiến, theo lệnh của địa phương quân Trung Hoa. Quân Vụ Bộ xét thấy cần phải tạm đồn quân lại để ngoại giao, v́ đánh dẹp bọn Tàu để ra đi, sẽ có hại cho công cuộc cách mạng ở tương lai.
Nhận thấy t́nh h́nh bất lợi, trở ngại rất lớn cho cuộc hành quân, Quân Vụ Bộ quyết định kế hoạch, là thừa đêm tối để Triệu Việt Hưng lén đem Quốc Dân Quân tiến thẳng về nội địa Việt Nam, c̣n những người ốm yếu và phụ nữ th́ để lại ở đất Tàu, Vũ Hồng Khanh sẽ t́m cách đối phó.
Lệnh xuất quân được ấn định vào hồi 12 giờ đêm ngày 15 tháng 12 năm 1946, do hai người Mèo bản thổ đưa đường đi xuyên sơn, để tránh mọi sự trở ngại.
Vũ Hồng Khanh cùng số người ở lại, cách ít ngày sau được bộ đội của Sư Đoàn 95 Trung Hoa tới điều đ́nh đưa lên Ma Án Ty để tiện việc cung cấp lương thực.
II.
GIAO PHONG VỚI PHÁP QUÂN
Từ đất Trung Hoa, hai đạo quân tiên phong do Phạm Đức Nghi và Tiêu Bá Hàm về tới Mường Hum, qua rừng cấm đến Zi Dần Sáng th́ đụng trán với đội tiền phong của Pháp. Nhưng v́ địch t́nh chưa rơ, nên Quốc Dân Quân không được lệnh đuổi theo, mà thẳng tiến đến đầu dốc khu rừng cấm, trông xuống thấy một thung lũng lúa xếp thành đống đầy đồng. Về phía gần chân núi lại có một ngôi làng rất to cắm lá cờ Tam Tài tung bay trước gió. Phạm Đức Nghi và Tiêu Bá Hàm liền phân công nhau chiếm đóng hai vị trí ở trên núi cao, chiếu ống nḥm trông thấy rơ Pháp quân đương mổ ḅ sửa soạn cơm nước. Phút chốc lại thấy một thổ dân từ trong rừng chạy ra, Quốc Dân Quân bắt hỏi, được biết rằng bộ chỉ huy quân đội Pháp hiện đặt ở Nầm Xe, có hai vị trí đóng trên hai ngọn núi cao trước mặt bảo vệ. Tức th́ hai Tướng Nghi , Hàm chia quân bao vây hai vị trí ấy, rồi phái hai đạo quân xung phong tiến vào Nầm Xe vây bắt bộ chỉ huy Pháp giữa lúc chúng đương xúm nhau ăn uống, khiến quân Pháp không kịp trở tay, bỏ cả khí giới chạy trốn. Pháp quân ở hai vị trí bên thấy bộ chỉ huy bị vây và bỏ chạy nên không dám kháng cự, cùng nhau rời bỏ vị trí rút xuống núi, tản vào rừng trốn thoát. Quốc Dân Quân chiếm đóng vị trí địch, thu được một số lớn lương thực, thuốc men và vũ khí.
Sáng ngày hôm sau, hai bên kịch chiến, Pháp quân núng thế phải rút lui về Phong Thổ. Đuổi địch quân đến Nầm Mấn, là ngă ba đường giữa Phong Thổ, Mường Hum và B́nh Lư. Quốc Dân Quân chiếm đóng Nầm Mấn làm căn cứ tiến quân.
Đạo quân thứ hai do Lư Chí Kiên chỉ huy được lệnh tấn công Yao San cũng đă hoàn toàn thắng lợi. Kiểm điểm lại, Quốc Dân Quân tịch thu 57 súng bộ, 5 súng máy hạng nhẹ, 2 súng máy hạng nặng cùng một số đạn dược. Địch quân rời bỏ vị trí rút về Cáo Śnh Trải, rồi chạy về Phong Thổ. Quốc Dân Quân đặt thành chiến tuyến, lấy vị trí Yao San làm trung tâm căn cứ hoạt động.
III.
TẤN CÔNG PHONG THỔ, VỊ TRÍ TRỌNG YẾU CỦA PHÁP QUÂN
Đến hồi 16 giờ ngày 21.12.1946, đội hậu quân do Triệu Việt Hưng chỉ huy mới tơi Yao San. Cấp chỉ huy liền khai hội để thảo kế koạch tấn công Phong Thổ.
Tiếng súng bắt đầu nổ đúng 4 giờ sáng ngày mồng 5 tháng Giêng năm 1947. Quốc Dân Quân bốn mặt tấn công ồ ạt, Pháp quân không địch nổi, phải theo đường hầm rút lui về pháo đài, bị Quốc Dân Quân chặn đánh bật lại, địch quân xô nhau theo dọc sông chạy về phía sau pháo đài.
Pháo đài Phong Thổ xây dựng rất kiên cố trên núi cao dốc ngược, xung quanh pháo đài lại có chiến hào chắc chắn, quân lực lại tập trung rất hùng hậu. Quốc Dân Quân dùng súng máy trung liên và moóc chê 60 cũng không phá nổi, từng lớp binh sĩ cố xông lên pháo đài, bi địch quân bắn xuống và ném lựu đạn như mưa rào. Phần nữa, trời sắp sáng, địch quân trông thấy rơ, th́ càng bất lợi.
Quốc Dân Quân chỉ chiếm được đồn binh, phủ đường và phố xá, th́ lại không phải là nơi có thể bày thành trận địa, phi cơ địch tới ném bom, chắc chắn là sẽ bị thiệt hại lớn. Bởi vậy, Tổng chỉ huy ra lệnh cho các đạo quân bí mật rút lui hết lên núi rừng xung quanh, chiếm vị trí pḥng phi cơ địch đến oanh tạc. Chính công đội rải truyền đơn, dán biểu ngữ khắp phố xá, đồn binh và cắm Đảng Kỳ ở những nơi trọng yếu làm nghi binh.
Trời bắt đầu sáng, vào khoảng 9 giờ 30, phi cơ địch từ phía Lai Châu tiến đến, xả súng bắn xuống những nơi có cắm cờ của Quốc Dân Quân rồi bay trở về đường cũ.
Đến hồi 19 giờ, Quốc Dân Quân lại bắt đầu tấn công pháo đài, nhưng cũng vấp phải nhiều trở ngại không thể tiến được, nên lại được lệnh rút lui về các vị trí cũ nghỉ ngơi.
9 giờ sáng ngày hôm sau, 3 phóng pháo cơ của địch lại kéo tới ném bom và bắn liên thanh xuống các khu rừng núi bao quanh Phong Thổ, nhưng Quốc Dân Quân nhờ có địa thế hiểm yếu, nên không bị thiệt hại ǵ cả.
Pháo đài Phong Thổ bị Quốc Dân Quân bao vây, Pháp quân phải dùng phi cơ để tiếp tế lương thực và thuốc men thả dù xuống băi cỏ, nhưng cũng không thể nào ra lấy được số đồ tiếp tế ấy, bởi Quốc Dân Quân từ trên các vị trí cao bắn xuống.
Sang ngày thứ tư, được t́nh báo viện binh của Pháp từ Lai Châu, B́nh Lư kéo đến. Bộ Tham Mưu Quốc Dân Quân liền ra lệnh cho Sư Đoàn II đem một Đại Đội tiến chiếm Nàm Mấn ngăn địch từ B́nh Lư đến. Sư Đoàn I đem một Đại Đội vượt qua sông chiếm đóng Hoàng Thu Phố, ngăn viện binh từ Lai Châu lại, và một trung đội sang giữ dốc Phong Thổ, Hoàng Thu Phố, chiếm đóng núi cao, pḥng địch ở B́nh Lư từ đường sắt đến.
Nhận thấy binh sĩ đóng ở đồi Chè không thể chịu nổi moóc chê và súng máy trung liên từ pháo đài của địch bắn xuống. Bộ Tham Mưu ra lệnh rút lui về vị trí cao, cho binh sĩ nghỉ ngơi, thỉnh thoảng lại đánh du kích, khiến cho địch hao tổn và hoang mang.
Vây quanh Phong Thổ kéo dài hơn một tháng, đạn dược hao ṃn, không nơi tiếp tế, nhất là đạn moóc chê. Bộ Tham Mưu Quốc Dân Quân ra lệnh rút lui hết về vị trí Yao San, sẽ phái người sang Côn Minh (Trung Hoa) mua đạn moóc chê và t́m mua Ba-zo-ka, th́ vấn đề phá pháo đài mới có cơ giải quyết được.
Ngày mồng 5 tháng 2.1957, Vũ Hồng Khanh cũng từ Ma Án Ty qua Kim B́nh xuống Bản Lang, Na Voàng, Hồi Luông thăm qua mặt trận của Sư Đoàn I, rồi trở về Yao San.
IV.
HỒI LUÔNG, YAO SAN BỊ PHÁP ĐÁNH ÚP
Rút khỏi Phong Thổ về vị trí Yao San, Sư Đoàn Bộ đóng tại Hồi Luông. Khi bấy giờ quân đội gồm có Trung Đội Đột Kích do Vương Các Đạo chỉ huy, canh pḥng mặt Phong Thổ sang, và một đội cận vệ do Sang chỉ huy, có trách nhiệm canh pḥng mặt Ba Nậm Cúm.
Hôm ấy bại quân Pháp chạy từ Soàn Thầu về tới Hồi Luông. Lúc đó vào khoảng 15 giờ hơn, trời c̣n đang nóng dữ, địch sợ bị phục kích lần nữa, nên cho hai Tiểu Đội đi trước chủ lực quân, để ḍ la đường lối. Hai toán quân đi đầu chạm vọng gác của Quốc Dân Quân. Quân canh gác chẳng những không nổ súng, lại vội bỏ chạy.
Pháp quân thấy lính gác Quốc Dân Quân bỏ chạy, liền tiến lên chiếm vị trí cao, rồi một mặt báo cho chủ lực quân, một mặt nổ súng tấn công vào Bộ Chỉ Huy Quốc Dân Quân.
Sư Đoàn Bộ Quốc Dân Quân vừa tiếp được tin, th́ địch đă nổ súng, tinh thần trở nên hoảng hốt, không ai nghĩ đến chuyện đối phó, mạnh ai nấy chạy, tản mác vào rừng, hoặc chạy ra vị trí Đột Kích đội đóng, hoặc bỏ chạy lên Mù Sán, Tà Ṕnh.
Hồi Luông là một đơn vị dưỡng bệnh của những binh sĩ ốm yếu do Nữ Y Tá Lê Đức Sinh (1) phụ trách. Sau khi Pháp quân chiếm được, liền cho nổi lửa đốt sạch làng này, và hạ sát trên 20 Quốc Dân Quân v́ quá ốm yếu không chạy kịp, rồi rút về Phong Thổ. Hai chiến sĩ Lê Đức Sinh và Thiếu Úy Nhu bị Pháp quân bắt đi mất tích.
Khi qua vị trí Đột Kích đội, Vương Các Đạo im lặng đợi Pháp quân qua gần hết, mới cho nổ súng truy kích, khiến cho địch quân bị tử thương một số khá nhiều.
Tiếp đến vị trí Yao San, cũng bị Pháp quân đánh úp. Nguyên trong tổ chức Quốc Dân Quân có một thiểu số quân Trung Hoa do Mă Đức Nghĩa cầm đầu, thấy Việt Nam Quốc Dân Đảng tấn công Phong Thổ không đạt mục đích, rút về Yao San. Mă Đức Nghĩa sinh ḷng phản bội, bèn phái người thân tín liên lạc với Pháp, bày tỏ t́nh h́nh và xúi Pháp vào đánh úp, họ Mă sẽ làm nội công. Điều kiện giữa Mă và Pháp là bao nhiêu súng đạn mà Pháp chiếm được của Quốc Dân Quân sẽ trao cả cho Mă, và Pháp sẽ để Mă quản trị từ Yao San tới Ba Nậm Cúm.
Điều kiện xong xuôi, Pháp bèn huy động binh sĩ từ Phong Thổ tới. Vào khoảng nửa đêm, Mă mật cho một số thủ túc dẫn Pháp quân theo đường hẻm lén phục sẵn quanh vị trí của Quốc Dân Quốc, c̣n một toán phục sẵn đón quân tiếp viện từ ngoài vào.
Pháp quân phục kích chưa được ổn định vị trí, chẳng may gặp phải Cao Đông, một cán bộ Quốc Dân Quân từ ngoài công tác phái vào. Sợ bị lộ mưu toan, Pháp quân buộc phải nổ súng bắn chết Cao Đông. Tiếng súng nổ làm chấn động khắp nơi, khiến Pháp quân bắt buộc phải tấn công ngay lên các vị trí mà đáng lẽ phải đợi đến sáng. V́ trời c̣n dầy đặc sương mù, nên Quốc Dân Quân trên các vị trí vừa đánh vừa lui về để hộ tống Quân Vụ Bộ.
Pháp quân chiếm được hai vị trí đầu, đánh sang Quân Vụ Bộ (2), nhưng Quân Vụ Bộ đă kịp thời cùng quân đội rút lui vào trong rừng, duy có mấy người ốm yếu không chạy kịp, bị Pháp quân bắn chết.
Yao San bị Pháp quân đánh úp, các vị trí bao pḥng mặt sau Hoàng Ma Trải, Tả Trùng Phùng do hai Đại Đội của Hoàng Quan Đạt và Phạm Đức Nghi vẫn c̣n nguyên vẹn, nên sau khi Quân Vụ Bộ cùng quân đội kéo về Sập Nh́ Lầu, liền phái Đệ Nhị Sư trở lại quan sát t́nh h́nh. Thấy Pháp quân đă bỏ Yao San rút về Phong Thổ, Đệ Nhị Sư liền cho đóng quân lại, và báo cáo về Sập Nh́ Lầu. Quân Vụ Bộ lại trở ra đóng ở Yao San như trước. Tham Mưu Trưởng Tiêu Bá Hàm vô t́nh bắt được bức thư liên lạc giữa Pháp và Mă Đức Nghĩa, nên lập tức ra lệnh bắt Mă Đức Nghĩa đem ra xử tử.
Chú Thích:
1.- Lê Đức Sinh là nội nhân của Triệu Việt Hưng.
2.- Trong số chiến sĩ chạy thoát vô rừng có Vương Các Đạo, Đạo bị thương ở cánh tay rất đau, cùng bạn đồng đội chạy về phía Sập Nhi Lầu, nhưng phần v́ không thuộc đường, phần v́ đêm tối, chẳng biết đường nào mà ṃ! Khi đi tới túp lều ở ven núi, mọi người phần v́ ốm, phần v́ rét, nên tất cả đều tán thành hăy vào lều ngồi nghỉ chốc lát. Nằm chưa kịp ngủ, th́ nghe tiếng súng nổ liên tiếp, mọi người đều đứng lên để tiếp tục chạy, nhưng Vương Các Đạo v́ vết thương nhức quá, nhất định liều ở lại túp lều. Đứng trước hoàn cảnh đó, anh em không c̣n cách nào khác hơn là đành để Vương Các Đạo ở lại, v́ Đạo là người cao lớn quá, trong số anh em không một ai có thể cơng nổi! Mà khiêng th́ không có vật ǵ để khiêng.
Trước khi chia tay, Vương Các Đạo nói: ‘’Thôi các anh chị đi đi, chẳng lẽ ở lại để mà chết hết hay sao ? Vết thương của tôi nhức lắm, tôi không thể nào đi được nữa! Đành liều vậy!’’
Từ đấy không c̣n một ai trông thấy Vương Các Đạo đâu nữa! Ôi thôi! Vương Các Đạo!
Họ Vương sinh năm 1915 tại làng Hồi Đông, Huyện Kim Anh, Tỉnh Phúc Yên. Xuất thân tại Trường Thiếu Sinh Quân Pháp, sau xung ngạch lính Khố Xanh. Gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng từ năm 1945.
V.
CỦNG CỐ VỊ TRÍ, TIẾP TẾ KHÍ GIỚI
Đứng trước hoàn cảnh chiến đấu, đạn dược hao ṃn không nơi tiếp tế! Quân Vụ Bộ yêu cầu Vũ Hồng Khanh xuất ngoại mua đạn dược và muối gửi về cung cấp, c̣n các mặt trận nhất định phải giữ nguyên vẹn trong thời gian 15 ngày, đợi đạn dược đem về tới sẽ tấn công, phá bằng được pháo đài Phong Thổ.
Hết hạn 15 ngày cũng chưa thấy đạn dược đem vào tiếp tế, Quân Vụ Bộ đánh điện ra hỏi Đô Trưởng họ Vũ. Được biết súng đạn đă mua được, nhưng bị bọn cảnh binh Tư Lệnh Bộ ở Côn Minh là Hà Thiên Châu tịch thu hết, c̣n đương ngoại giao với Trung Ương chính phủ nhờ can thiệp.
Không c̣n biết làm cách nào được! Triệu Việt Hưng phải phái cán bộ sang Mường Là, Kim B́nh (Trung Hoa), nhưng cũng chỉ mua được có 10 ḥn đạn, vậy nếu địch tấn công th́ rất nguy hiểm, Quân Vụ Bộ buộc ḷng phải ra lệnh:
- Sư Đoàn II rút về đóng ở Yao San, Sính Sáng, Sang Thắng.
- Sư Đoàn III rút về giữ Yao San và chiếm các vị trí trên núi.
- Sư Đoàn I rút về đóng Tà Lùng, Cáo Sính Trải, Tà Ph́nh, Mù Sáng, Chính Ch́ Thàng.
Củng cố xong vị trí, một mặt Chính Công đội tiếp tục tuyên truyền, tổ chức dân chúng, một mặt điều chỉnh quân đội, tổ chức thành du kích đội để đánh du kích và tuần pḥng. Một thời gian Quốc Dân Quân được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
Trong thời gian ấy, ngót trăm đồng chí do Vương Chí Nam lănh đạo cũng từ Ma Án Ty (Trung Hoa) trở về Yao San. Kế tiếp, Nguyễn Bảo Ngọc cũng dẫn 60 đồng chí từ Ma Án Ty trở về, mang theo 20 súng bộ, 2 súng máy tiểu liên và hai súng xung phong.
Kiểm điểm các vị trí, hết thảy đều báo cáo là ‘’hết đạn’’. B́nh quân có 3 Sư, th́ thấy mỗi chiến sĩ chỉ c̣n 10 viên đạn, mỗi khẩu súng máy c̣n 70 viên, lương thực chỉ c̣n đủ ăn 15 ngày, muối hết không c̣n một hột.
Hoàn cảnh ác liệt, t́nh h́nh biến chuyển, trong nước cũng như ngoài nước tuyệt vô âm tín. Đến việc bổ sung tiếp tế không hy vọng, lại không có tài nguyên kinh tế, trở thành một đám ‘’cô quân’’.
Mặt Mường Khương và Zy Tư thuộc phạm vi hoạt động của cộng sản, mặt Phong Thổ thuộc phạm vi hoạt động của thực dân Pháp. Bị dồn ép cả hai mặt, dù có binh hùng tướng mạnh mà không có tiếp tế th́ cũng không thể nào làm tṛn sứ mạng được! Bởi vậy một hội nghị cán bộ Đảng được triệu tập, đi đến quyết nghị:
1.- Rút hẹp chiến tuyến để tập trung đạn dược cho pḥng tuyến mới.
2.- Cho các chiến sĩ được thay đổi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng tinh thần.
3.- Vận động bằng mọi phương pháp để bổ sung quân nhu, quân giới và quân lương.
4.- Giải tán Sư Đoàn III, biên chế vào Sư Đoàn I và II, tăng cường sức chiến đấu.
Theo quyết nghị, trận tuyến được rút hẹp lại, ṿng ngoài từ Phô Sa, Mồ Sừ Sán, Cấu Chồ, Voàng Mà Trải, Giá Khấu, Suối Chồ, Tả Trùng Phùng, Tà Ố, ṿng trong th́ từ Bản Ń Thàng, Lao Trả, Giá Khấu, Thái Giàng Trải, Phô Uấy, Mà Lỳ Trải. Chỉ Huy Bộ đặt tại Sập Nh́ Lầu. Các vị trí đều phải đắp lũy cho kiên cố.
Sau khi đă rút về các vị trí mới, một hội nghị cán bộ các cấp lại được triệu tập nghiên cứu vấn đề bổ cấp. Toàn thể hội nghị quyết định cử Triệu Việt Hưng sang Côn Minh (Trung Hoa) liên lạc Hải Ngoại Bộ của Đảng, để giải quyết vấn đề tiếp tế và liên lạc với Trung Ương Đảng Bộ Hà Nội.
Hải Ngoại Bộ tại Côn Minh khi ấy vẫn do Trần Đức Thi làm Chủ Nhiệm duy tŕ từ năm 1945 không có sự thay đổi, nay lại có thêm Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long (3), Nguyễn Tường Bách và Nguyễn Xuân Dương tức Xuân Tùng tham gia, để tăng cường hoạt động cho Hải Ngoại Bộ.
VI.
TẤN CÔNG PHÁO ĐÀI PHONG THỔ CỦA PHÁP QUÂN LẦN THỨ HAI
Sau khi Bộ Chỉ Huy đă nghiên cứu xong kế hoạch, Sư Đoàn II do Hoàng Anh Tuấn chỉ huy, được lệnh tiến đến Tống Qua Ĺnh. Đến đây gặp Pháp quân, hai bên giao phong tới 30 phút, Pháp quân yếu thế phải rút về vị trí Yao San, nơi đây chỉ có chừng 100 lính Pháp c̣n đa số là lính Thổ, Mán, Mèo. Bị Quốc Dân Quân kịch chiến, Pháp quân không thể chống nổi, phải bỏ vị trí Yao San thoát vào rừng. Trận này Pháp quân thiệt hại tới 30 quân, Quốc Dân Quân thu được 5 súng xung phong, 50 súng bộ, 5 tiểu liên thanh, 2 trung liên thanh, cùng rất nhiều đạn dược và chỉ bị thương có 5 chiến sĩ.
Chiếm xong Yao San, Quốc Dân Quân tiến ra đóng tại San Thằng và Śnh Sáng.
Sư Đoàn I do Nguyễn Duy Dỵ chỉ huy tiến đánh chiếm được vị trí Mù Sán. Pháp quân phải rút lui về lối Sang Thằng, Quốc Dân Quân đoạt được một số lương thực, đạn dược và 20 súng bộ, 2 súng tiểu liên thanh, 5 súng xung phong.
Kiểm điểm xong, giao lại vị trí Mù Sán cho Sư Đoàn II, Sư Đoàn I rút xuống Cáo Śnh Trải đặt vị trí và đặt trạm ở Sừ Ngải để liên lạc với Khoa Sán.
Chiến tuyến đặt xong, Bộ Chỉ Huy từ chiến khu Sập Nh́ Lầu được chuyển đến Yao San, ra lệnh cho Sư Đoàn II tiến chiếm Yao San, Śnh Sáng, Sang Thằng và Cáo Śnh Trải. Sư Đoàn I tiến chiếm Tà Lùng, Tà Ṕnh, Thiền Sinh, Chinh Chí Thàng, Má Ĺ Phố, Soàn Thầu và Mù San. Đặt thành chiến tuyến kiên cố để dưỡng binh cho khỏe mạnh, bảo vệ dân chúng được an ninh, tăng gia sản xuất, chuẩn bị tấn công Phong Thổ.
Ngày 27 tháng 4 năm 1947, Vũ Hồng Khanh từ Trung Hoa đem theo về được một số đạn dược đến Yao San.
Cách 5 ngày sau, Triệu Việt Hưng cũng từ Mường Là (Trung Hoa) về tới Yao San, đem theo một số đạn dược, do số tiền bán bớt một số ngựa công và tư. (4)
Ngày mồng 1 tháng 5, Quân Vụ Bộ được tổ chức lại. Tiêu Bá Hàm được cử làm Tham Mưu Trưởng, Triệu Quốc Lộc làm Chính Vụ Trưởng, Triệu Việt Hưng làm Tham Mưu Phó, Vũ Hồng Khanh vẫn giữ chức Quân Vụ Bộ Trưởng như cũ.
Tổ chức vừa xong, th́ Pháp quân kéo đến tấn công Yao San, nhưng Quân Vụ Bộ đă được t́nh báo, nên lừa cho Pháp quân tiến vào sâu, lọt vào thế gọng ḱm, Quốc Dân Quân mới khởi thế tấn công. Bị yếu thế, địch chạy tán loạn, bỏ lại 14 xác chết. Trận này chỉ là trận Pháp quân thử thách để xuất động, nhưng bị thất bại nên không dám tấn công nữa!
Quân Vụ Bộ ra lệnh tấn công Phong Thổ. Các đạo quân được lệnh xuất phát hồi 17 giờ. Sư Đoàn II tấn công vào phố chiếm cứ cơ quan hành chính, Sư Đoàn I tấn công chiếm Đồi Chè, rồi tấn công xuống chiếm đồn, một bộ phận sang qua sông lên chiếm vị trí phía đông để yểm hộ cho đội quân cảm tử xung phong phá pháo đài.
Kết quả pháo đài vẫn không phá được, bởi đạo quân cảm tử theo sau pháo đài leo lên, bị trời tối đen quá, chạm phải dây chuông của vọng gác bí mật báo động, nên từ chiến hào bắn ra và lựu đạn ném xuống như tưới, khiến họ đă mấy lần leo lên cũng không thể nào tiến vào được. Trời đă gần sáng rơ, các đạo quân được lệnh rút về các vị trí.
Chú Thích:
3.- Nguyễn Tường Long hiệu Tứ Ly, rồi đổi là Hoàng Đạo. Nguyên quán ở Quảng Nam, sinh năm 1906 ở Cẩm Giàng, Hải Dương (Bắc Việt) là em ruột của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Năm 1927, tốt nghiệp Trường Luật, làm Tham Tá Ngân Khố, rồi Tham Tá Lục Sự tại Ṭa Tây Án.
Năm 1932, hoạt động về văn hóa. Năm 1940, tham gia Chính Trị, Chủ Tịch Đại Việt Dân Chính Đảng, rồi sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1946, bị việt cộng khủng bố phải lánh sang Trung Hoa, rồi tạ thế tại đấy vào năm 1948.
4.- Được gặp các đồng chí Hải Ngoại Bộ, Triệu Việt Hưng đưa ra đề nghị:
a.- Cung cấp quân nhu cho chiến khu Sập Nh́ Lầu.
b.- T́m cách liên lạc với Trung Ương Đảng Bộ Hà Nội, để biết rơ t́nh h́nh quốc nội, và t́m tài nguyên tiếp tế một cách trường kỳ.
Sau nhiều cuộc tiếp xúc thảo luận, kết quả Hải Ngoại Bộ Côn Minh không giải quyết được một vấn đề nào! Thất vọng, Triệu Việt Hưng quay ra vận động các đồng chí người Trung Hoa được một số đạn dược đưa về Sập Nh́ Lầu.
Tới Sập Nh́ Lầu, một hội nghị được triệu tập, đồng thanh quyết định chiến đấu chống xâm lăng đến cùng, giữ lấy địa bàn, làm bàn đạp cho sự tiến triển của Đảng về tương lai, và quyết nghị mở rộng phạm vi hoạt động, tấn công Pháp ở Phong Thổ.
VII.
THI HÀNH CHÍNH SÁCH ‘’DƯỠNG QUÂN VÀ VỆ DÂN’’
Đến đây vấn đề đạn dược ít, nhất là đạn súng lớn không mua được, lại được đề ra. Vậy dầu có mở trận tấn công chăng nữa chẳng qua cũng chỉ để làm giảm nhuệ khí hoặc hăm địch mà thôi, chớ không thể phá nổi pháo đài, th́ cũng vẫn không đạt được mục đích. Quân Vụ Bộ quyết định thi hành chính sách ‘’Dưỡng quân và Vệ dân’’. Ra lệnh phối bị pḥng tuyến từ Tà Lèng trở về Nam, do Sư Đoàn I phụ trách, từ Tà Lèng trở về Bắc, do Sư Đoàn II phụ trách.
Sư Đoàn II đóng ở Yao Chan do Hoàng Văn Khuê chỉ huy, Nguyễn Văn Tài đóng ở Sính Sáng, Hoàng Anh Tuấn đóng ở Sang Thằng.
Sư Đoàn I: Phan Chân đóng ở Tà Lùng, Nguyễn Duy Dỵ đóng ở Tà Ph́nh, Nguyễn Viết An đóng ở Thiền Sinh, Nguyễn Trương đóng ở Mà Lỳ Phố, Hoàng Văn Tín đóng ở Soàn Thầu.
Quân Vụ Bộ: Hoàng Quang Đạt làm Hậu Cận Sứ Phó Sứ Trưởng, Trịnh Danh làm Chính Vụ Sứ Phó Sứ Trưởng, Nguyễn Bảo Ngọc làm Chính Trị Chủ Nhiệm, Lưu Văn Liên làm Tham Mưu Sứ Phó Sứ Trưởng, Hoàng Mai làm Trừng Thanh Cục Cục Trưởng.
Các bộ môn đều thi hành đúng nhiệm vụ: Quân nhu, quân lương, tác chiến, nhân sự, quân sự, giáo dục, chính trị, đảng vụ, tuyên truyền, tổ chức dân chúng và đặt các cơ quan hành chính, trao quyền cho dân, giúp đỡ về việc trồng cây, cấy lúa.
Một thời gian khá yên tĩnh, quân dân hợp tác về mọi phương diện rất là tấp nập vui vẻ. Quân lương sung túc, nhưng quân nhu, quân giới cùng vệ sinh th́ hoàn toàn thiếu thốn, bởi tài nguyên kinh tế vẫn không có, nơi tiếp tế cũng không. Vậy nếu cứ rải mặt trận rộng răi, khi địch quân tổng tấn công, đă không đạn dược tiếp tế, đường mới lại hiểm trở, khó bề tập trung binh lực. Vả lại, vấn đề giáo dục cần phải tiếp tục huấn luyện lấy cán bộ quân sự tương lai. Bộ Tham Mưu lại quyết định rút hẹp pḥng tuyến, và mở trường huấn luyện quân sự. Pḥng tuyến đặt từ Phô Sa, Mồ Sừ Sán, Cấu Chồ, Voàng Mà Trải, Giá Khấu, Suối Chồ, Tả Trùng Phùng, Tà Ố. Nghĩa là từ Bắc chí Nam, hai đầu tiếp giáp với biên giới Trung Hoa.
Ngày mồng 1 tháng 8 năm 1947, thành lập ‘’Cán Huấn Ban’’ có 200 học viên, chương tŕnh huấn luyện là 3 tháng tốt nghiệp, lại kế tiếp lớp khác, do Thiếu Tướng Tiêu Bá Hàm làm Giám Đốc. Đồng thời lập hội ‘’Phong Kỷ’’ để giữ an ninh và quân phong, quân kỷ do Đại Úy Nguyễn Viết An phụ trách. Pḥng tuyến mới vừa đặt xong, th́ Pháp cũng đem quân đặt pḥng tuyến đối diện để pḥng ngự.
Để khích lệ tinh thần binh sĩ, Quân Vụ Bộ thỉnh thoảng lại cho mở cuộc du kích chiến vào các vị trí địch để đoạt quân nhu, quân lương. Tiếp đến mùa mưa lũ, nước suối to, nên cả hai bên đều án binh bất động.
VIII.
ĐỊCH TẤN CÔNG VỊ TRÍ TÀ PH̀NH VÀ TẢ TRÙNG PHÙNG
Mùa mưa dần dần hết, địch bắt đầu tấn công liên tiếp. Trước hết là vị trí Tà Ph́nh, căn cứ của Bộ Chỉ Huy Đệ Nhất Chi đội Quốc Dân Quân vào giữa buổi sớm, sương mù c̣n bao phủ dày đặc.
Khi chợt nghe tiếng súng nổ tại một cḥi gác, cấp chỉ huy biết ngay là địch đến tấn công. Lập tức các bộ phận được lệnh đến các vị trí chuẩn bị tác chiến. Khoảnh khắc sau, 2 phóng pháo cơ từ ngă Phong Thổ bay tới lượn quanh Tà Ph́nh ba ṿng rồi nhào xuống bắn vào trong các vọng gác, lửa bốc cháy, nhưng không một ai bị thương v́ đă có sự bố trí đề pḥng.
Cách 30 phút sau, Pháp quân từ dưới chân núi tấn công lên, Quốc Dân Quân lúc đó từ trên các vị trí cao mới bắn xuống, khiến địch không thể nào tiến lên được, phải rút về Phong Thổ.
Xét thấy đóng quân ở Tà Ph́nh không có lợi ǵ cả, bộ chỉ huy của Đệ Nhất Chi Đội bèn rút lui về đóng ở Tả Trùng Phùng, để tiện việc liên lạc với Voàng Mà Trải cũng như Sập Nh́ Lầu.
Sau trận đánh Tà Ph́nh, Pháp đem 3 tiểu đoàn chủ lực và 2 tiểu đoàn lính Thổ ở Lai Châu của Đèo Văn Ân chia làm 3 mặt: Một tiểu đoàn chặn quân Voàng Mà Trải sang tiếp viện, một tiểu đoàn chặn quân Mù Sán và một tiểu đoàn chặn quân từ Sập Nh́ Lầu, c̣n 2 tiểu đoàn tấn công vào Tả Trùng Phùng.
Tấn công vào vị trí Tả Trùng Phùng, Pháp quân có mục đích chia đôi khu vực giao thông giữa Mù Sán với Sập Nh́ Lầu. Nếu thực hiện được th́ Sập Nh́ Lầu cũng như Mù Sán sẽ bị cô thế không liên lạc được với nhau, khi đó Pháp quân sẽ tấn công ồ ạt các mặt trận, tiêu diệt dần Quốc Dân Quân.
Biết Tả Trùng Phùng là nơi trọng yếu, Quốc Dân Quân cố thủ. Một Quốc Dân Quân mặc dầu phải chống với 2, 3 tên lính Pháp nhưng vẫn không hề nao núng. Đánh suốt từ 7 giờ sáng tới hồi 18 giờ, Pháp quân không thể chiếm nổi Tả Trùng Phùng phải rút lui.
Trước khi rút lui, Pháp quân đă đốt làng Suối Chồ. Kiểm điểm lại, Quốc Dân Quân mỗi người chỉ c̣n đúng 2 viên đạn và mỗi khẩu súng máy cũng chỉ c̣n có 15 viên mà thôi. Trận này Quốc Dân Quân đă hy sinh 3 chiến sĩ, Pháp quân bị tử thương 20 tên.
Sau trận này, địch quân án binh bất động, nhưng t́nh h́nh của Quốc Dân Quân cũng vô cùng nguy ngập, lương thực thiếu thốn phải thay ngô khoai để ăn, muối cũng đă hết từ lâu, đạn dược cũng đă hết đến mực độ cuối cùng. Nếu địch quân tấn công, tất Quốc Dân Quân lâm vào thế bị tiêu diệt. Vũ Hồng Khanh triệu tập hội nghị quyết định tự ra ngoài nước để vận động quân nhu và quân hỏa. Ngày mồng 5 tháng 10 năm 1947, họ Vũ rời khỏi Sập Nh́ Lầu sang Trung Hoa, có Trần Viên lănh một đội quân hộ tống sang khỏi biên giới. Tiếp sau ít ngày, Triệu Quốc Lộc cũng bí mật bỏ sang Huyện Kim B́nh (Trung Hoa) không trở về nữa!
Một thời gian sau, toàn thể cán bộ đề nghị lập một Bộ Chỉ Huy mới thay thế cho Quân Vụ Bộ, v́ đă vắng mặt Vũ Hồng Khanh và Triệu Quốc Lộc. Hội nghị đồng ư quyết định cử Triệu Việt Hưng làm Chủ Tịch Chỉ Huy Bộ. Quốc Dân Quân bắt đầu chỉnh đốn lại, đồng thời trù bị lương thực và mua thêm đạn dược, v.v…Hội nghị lại quyết định đem một số súng thừa thải tồn kho, và trâu, ḅ ngựa đoạt được của địch, đem phát măi để lấy tiền mua đạn dược.
Sang đầu tháng 12 năm 1947, thừa khi bất ngờ! Pháp quân kéo tới tấn công vị trí Mù Sừ Sán của Quốc Dân Quân. Đại Úy Nguyễn Văn Tài phải bỏ vị trí rút lui và bị thiệt mạng mất hai binh sĩ.
Không thể để cho địch quân tự do hoành hành, Bộ Chỉ Huy ra lệnh cho Thiếu Tá Nguyễn Văn Khanh, Trung Tá Phạm Đức Nghi và Đại Úy Bùi Văn Quang chia làm 3 mặt tấn công vào Mù Sừ Sán. Địch quân bị tổn thất nặng nề phải bỏ Mù Sừ Sán chạy trốn vào rừng.
Phải bỏ vị trí Mù Sừ Sán, Pháp định tiến quân đánh Phô Sa. Bộ Chỉ Huy đă được t́nh báo, để địch quân tiến vào Phô Sa, chưa kịp đặt vị trí, Quốc Dân Quân vây đánh ngay, khiến cho Pháp quân tổn thất nặng nề phải bỏ chạy về Tống Qua Ĺnh.
Cách ít ngày sau, Pháp quân lại đem toàn lực tấn công vào Voàng Mà Trải. Chỉ huy Quốc Dân Quân là Thiếu Tá Nguyễn Văn Khanh bị tử thương, đạn lại hầu hết nên Đại Úy Nguyễn Trường phải ra lệnh rút lui, tuần tự theo chiến hào bí mật xuống núi về vị trí Mà Lỳ Trải.
Chiếm được vị trí Voàng Mà Trải, Pháp quân bí mật tập trung quân tại đó để khống chế Quốc Dân Quân. Nhận thấy t́nh h́nh nguy khốn, v́ đạn dược đă hết quá nửa mà không c̣n cách ǵ tiếp tế được, nên buộc ḷng cho quân đội ở Mù Sừ Sán rút về đóng ở vị trí trên núi Thái Giàng Trải. Quân đội ở Tà Ố và Tả Trùng Phùng rút về đóng ở Mà Lỳ Trải. Vị trí tiền phong đóng ở Dề Suối Thàng và những núi quanh Mà Lỳ Trải.
IX.
QUYẾT ĐỊNH RÚT LUI
Ngày 20 tháng Giêng năm 1948, Pháp quân bắt đầu tổng tấn công. Từ Tà Ố địch bắn sang vị trí Quốc Dân Quân ở Dề Suối Thàng. Từ Voàng Mà Trải, địch bắn sang uy hiếp Mà Lỳ Trải. Từ Mù Sừ Sán, địch bắn sang uy hiếp Thái Giàng Trải. Rồi toàn thể chủ lực quân ở vị trí Nản Ń Thàng tiến sang vây đánh Lao Trải, ṛng ră suốt 3 ngày đêm tấn công đều bị Quốc Dân Quân đẩy lui.
Đứng trước t́nh thế quá nguy ngập, không thể duy tŕ được nữa! Nên một cuộc hội nghị cán bộ được triệu tập. Toàn thể Tướng, Sĩ đều đồng t́nh rút lui sang Trung Hoa, v́ có hy sinh đi nữa cũng bằng vô ích.
Theo quyết nghị, Triệu Việt Hưng cử Trung Úy Phạm Thanh Tùng sang ngoại giao trước với Huyện Trưởng Huyện Kim B́nh và Bảo An cho mượn một khu để tạm trú, một mặt đánh điện lên Côn Minh báo cáo với Vũ Hồng Khanh giao thiệp với chính phủ Trung Ương Trung Hoa Dân Quốc bảo trợ.
Trong khi cử đại biểu sang Trung Hoa giao thiệp, th́ Pháp quân tổng tấn công bốn đường: Một do Tà Ố tấn công vào Dề Suối Thàng, rồi tấn công Mà Lỳ Trải, một mặt cũng do Voàng Mà Trải tấn công sang Sập Nh́ Lầu, một mặt do Mù Sừ Sán tấn công sang Phố Uấy, Thái Giàng Trải, một mặt do đường Nản Ń Thàng tấn công sang Lao Trải. C̣n các vị trí khác bắn moóc chê và đại bác rất mănh liệt sang vị trí Quốc Dân Quân để yểm hộ cho địch quân xung phong.
Quốc Dân Quân vẫn b́nh tĩnh chiến đấu. Hai ngày kịch chiến, địch quân vẫn không tiến được. Đến hồi 5 giờ sáng thứ Ba, địch lẩn vào trong rừng đem toàn chủ lực tập trung bao vây vị trí Lao Trải.
V́ đạn dược thiếu hụt, lại bị địch quân 3 mặt tấn công kịch liệt nên chống không nổi, Quốc Dân Quân phải rút về Giá Khấu. Chiếm được Lao Trải, nhờ được lợi thế, địch đem pháo binh bắn xuống Giá Khấu rồi đem quân đội chia hai đường tiến vây. Quốc Dân Quân lại bỏ Giá Khấu rút lui về giữ Thái Giàng Trải và Sập Nh́ Lầu.
Từ đó hai bên xung sát đánh giáp lá cà. Quốc Dân Quân nhất định không để địch tiến. Mất Giá Khấu, địch quân tiến rất mạnh, nhưng hễ toán nào xung phong lên là có một số chết, làm cho địch quân phải ngừng tiến, chỉ dùng súng máy uy hiếp mà thôi.
Kiểm điểm lại các mặt trận, Quốc Dân Quân mỗi người chỉ c̣n 3 viên đạn, súng máy mỗi khẩu c̣n lại 20 viên, Bộ Chỉ Huy ra lệnh phải cố thủ vị trí, đợi đến 20 giờ sẽ bắt đầu rút lui sang Trung Hoa.
Trời vừa hoàng hôn, Pháp quân lại bắt đầu tấn công Quốc Dân Quân, mỗi người chỉ được phép giữ lại một viên đạn để pḥng thân, c̣n lại bao nhiêu cực lực tử chiến, đánh bật địch quân lại. Đợi đúng giờ tuần tự rút yên lặng, và trời tối, nên địch không hay biết ǵ hết. Hôm ấy là ngày 22 tháng 2 năm 1948.
X.
LẠI MỘT LẦN NỮA LÁNH SANG LĂNH THỔ TRUNG HOA
Đêm 22 tháng 2 năm 1948, các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng từ chiến khu Sập Nh́ Lầu vượt khỏi biên giới. Quyền chỉ huy được trao cho Hoàng Quang Đạt và Lưu Văn Liên. Triệu Việt Hưng cùng Đại Úy Nguyễn Xuân Mai đi thẳng lên Côn Minh, báo cáo với Vũ Hồng Khanh để vận động với chính phủ Trung Hoa bảo trợ.
Sang đất Trung Hoa, chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng lưu lại Huyện Kim B́nh. Được Tri Huyện Kim B́nh là Trung Hán Đỉnh trao trả khí giới, nhưng sau lại mượn lại một số để đội quân Cảnh Vệ của Huyện dùng.
Các bộ phận được chia làm 3 khu, do Huyện Trưởng cung cấp cả lương thực đủ cho đến khi tự ḿnh canh tác có hoa lợi.
Sau một thời gian yên tĩnh, bỗng xuất hiện một bọn thổ phỉ địa phương nổi lên chống chính phủ. Chúng đem toàn lực chừng 300 vơ trang thanh niên đến tấn công pháo đài và Phố Huyện lỵ Kim B́nh. Hai nơi này đă thất thủ, Huyện Đường cũng sắp lâm nguy. Tri Huyện Trung Hán Đỉnh bèn t́m đến yêu cầu các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng cố gắng giúp chính phủ, v́ dân tiểu trừ bọn thổ phỉ.
Là việc nghĩa, các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng cương quyến đứng lên diệt giặc. Với tinh thần hăng hái, đội tiền phong tiến lên phản công pháo đài. Chỉ có 19 người, trong một giờ diệt tan hết 300 thổ phỉ, đuổi ra khỏi khu vực Kim B́nh.
Nhiệm vụ đạt thành, toàn thể dân chúng đua nhau hoan hô tinh thần chiến sĩ Việt Nam, và ngay ngày hôm sau, các đoàn thể nhân dân tuần tự đến trước Huyện Đường chúc tụng tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ, tỏ ḷng biết ơn, và nguyện từ nay đặt hết tin tưởng vào các chiến sĩ Việt Nam, duy tŕ an ninh cho khu vực Huyện Kim B́nh để bảo vệ nhân dân.
Sau vụ thổ phỉ Kim B́nh, một bộ phận gồm cán bộ đảng viên người th́ lên Côn Minh, kẻ đi Khai Viễn. Những người đă từng sống quen lâu năm ở đất Trung Hoa không đến nỗi lâm vào t́nh trạng khó khăn lắm. Trái lại những người mới sang lạ nước lạ cái, tiếng nói không biết, thành ra phải sống một cách vất vưởng, kẻ th́ phải đi làm ở sở bông, sở than, người mở tiệm hớt tóc, hoặc đi hớt tóc rong, 5, 3 người ở chung một chỗ, mạnh ai nấy sống, kém phần tương thân tương ái với nhau, gây nên bất măn mâu thuẫn giữa lớp đảng viên quốc nội với lớp đảng viên hải ngoại.
Trong khi đó lại bị cái nạn đảng phái chia rẽ bè nhóm, sự mâu thuẫn chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi sâu thêm. Việt Nam Quốc Dân Đảng dựa vào thế lực chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, Đại Việt Quốc Dân Đảng dựa vào thế lực các chính khách Anh, Mỹ, Pháp, rồi tung ra những luận điệu chỉ trích bêu xấu nhau, khiến cho số chiến sĩ đảng viên quốc nội mới lưu vong có một ấn tượng không tốt đẹp đối với Hải Ngoại Bộ.
Vũ Hồng Khanh xét thấy cứ giữ măi t́nh trạng này, không sớm th́ muộn uy tín Hải Ngoại Bộ sẽ mất, nên phải t́m kế củng cố lại hàng ngũ. Một mặt ngoại giao với chính phủ Trung Hoa cho một số thanh niên đồng chí được vào ṭng học tại Trường Lục Quân Hoàng Phố. Số người được lựa đi là Nguyễn Duy Dỵ (Đoàn Trưởng), Trịnh Danh, Đỗ Đức Tân, Phạm Kim Doanh, Hoàng Quân, Tường, Chính, Vũ Ngọc Sơn, Lê Hưng, Nguyễn Văn Hạ, Phúc, Hoàng, Dương Minh, Phan Đức Minh, Nguyễn Trương, Ngô Huy, Lê Chấn, Hồng Hải, Hoàng Văn Tín, Vũ Bản.
Sau khi cho được một số thanh niên đồng chí quốc nội được đi học, uy tín Hải Ngoại Bộ được đề cao một phần nào! Và cũng từ đó các anh em trong các đoàn thể đối lập với Hải Ngoại Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng có đôi phần e ngại.
T́nh thế mới ổn định chưa được bao lâu, nội bộ bỗng phát sinh mâu thuẫn về vấn đề đổi danh hiệu ‘’Việt Nam Quốc Dân Đảng’’ ra ‘’Quốc Dân Đảng Việt Nam’’ và không thừa nhận Vũ Hồng Khanh là Bí Thư Trưởng Đảng do mấy Trung Ủy Nguyễn Tường Tam, Xuân Tùng cầm đầu, bởi trước vấn đề thay đổi danh hiệu quan trọng như vậy mà lại không tổ chức một cuộc Đại Biểu hội nghị nào, khiến cho các đảng viên đâm hoang mang và bất măn, gây nên cuộc xô xát.
Sau khi Vũ Hồng Khanh từ Quảng Châu về Côn Minh, tự viết một bản ‘’Bị Vong Lục’’ phân trần mọi lẽ gửi toàn thể đảng viên, bầu không khí mâu thuẫn xô xát mới êm dịu dần.
THIÊN THỨ NĂM
(1950-1954)
Chương I: VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG GIỮA HAI GỌNG K̀M THỰC DÂN-CỘNG SẢN
Chương II: ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA ĐÔI CON SÔNG BẾN HẢI
CHƯƠNG I:
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG GIỮA HAI GỌNG K̀M THỰC DÂN-CỘNG SẢN
XÂY DỰNG LẠI CƠ SỞ ĐẢNG
Sau tiếng súng nổ đêm 19 tháng 12 năm 1946, có một số đảng viên các đảng phái Quốc Gia bị mắc kẹt trong Thành Phố Hà Nội. Sau hơn năm tháng trời lần hồi, t́nh h́nh khá yên tĩnh, họ mới liên lạc được với nhau.
Nhóm họ Nghiêm, họ Trần, họ Đào được Cao Ủy Pháp giao cho ra tờ báo ‘’Thời Sự’’ để thay cho tờ ‘’Trật Tự’’ là cơ quan thông tin do Chính Trị Vụ Cao Ủy phủ phụ trách.
Mục đích của nhóm họ Nghiêm lúc đó là muốn dùng tờ ‘’Thời Sự’’ làm cơ quan và đội lốt Việt Nam Quốc Dân Đảng mời ông Ngô Đ́nh Diệm (lúc đó nằm trong Nhà Thờ Ḍng Chúa Cứu Thế ở Nam Đồng Thái Hà Ấp) làm lănh tụ để cộng tác với Pháp. V́ vậy họ Nghiêm mới xin với Pháp xung công nhà in và là trụ sở của ṭa báo ‘’Việt Nam’’ cũ ở số 80 đường Quan Thánh làm ṭa báo ‘’Thời Sự’’. Đồng thời xin ṭa nhà số 90 cũng ở đường Quan Thánh làm bản doanh cho lănh tụ họ Ngô. Nhưng sự mưu toan của họ Nghiêm không được các đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng tán thành, và ông Ngô Đ́nh Diệm cũng không trở về ở căn nhà số 90 đường Quan Thánh, rồi sau đó xuất dương qua Âu Châu.
Không tán thành đường lối của họ Nghiêm, v́ các đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng lư luận rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng là một đảng từng có một lịch sử chống xâm lăng vẻ vang, th́ mặc dầu trong cuộc kháng chiến, đảng ḿnh không đóng vai tṛ chủ động, nhưng bổn phận là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng không ai được phép làm hoen ố lịch sử và làm sai lạc lập trường tranh đấu của Đảng.
Tuy nhiên quyết nghị này được giữ kín đối với nhóm họ Nghiêm để tránh sự phản ứng có hại cho việc xây dựng lại các cơ cấu tổ chức Đảng. Cũng v́ vậy mà một số cán bộ được quyết định ở lại cộng tác với họ Nghiêm. Số cán bộ này có nhiệm vụ ngăn đón, tránh cho những đồng chí mới hồi cư khỏi lầm lạc sa vào tổ chức của họ Nghiêm.
Cấp Trung Ủy Quốc Dân Đảng c̣n lại ở Hà Nội khi ấy duy có Phan Trâm th́ ẩn náu trong Lănh Sự Quán Trung Hoa, Nguyễn Văn Chấn cũng lánh mặt một nơi kín.
Có một số đồng chí liên lạc được với nhau tạm tổ chức thành một cơ quan duy nhất ‘’Thị Bộ Hà Nội’’ dưới sự lănh đạo của Lê Ngọc Chấn tức Quang Minh. (1)
Công tác chính của Thị Bộ lúc đó là t́m liên lạc với các đồng chí bị mắc kẹt trong thành phố, và tiếp cư các đồng chí trở về thành, mà đường lối là ‘’thụ động kháng chiến’’ bằng phương pháp bất đề kháng.
Vào khoảng lối cuối năm 1947, qua đầu năm 1948, số đồng chí hồi cư cùng dân chúng thành phố đă khá đông đảo, và sự liên lạc với các tỉnh đă có phần dễ dăi đôi phần, nên ‘’Bắc Bộ Khu Việt Nam Quốc Dân Đảng’’ cũng được tái lập.
Hoạt động của Đảng cũng được tích cực hơn, nhiều lớp huấn luyện sơ cấp và trung cấp được mở ra cho từng nhóm 6, 7 đồng chí một, để cung ứng kịp thời cán bộ cho các cấp và các địa phương. Đường lối và chủ trương tranh đấu của Đảng lúc này cũng được phổ biến qua tờ bích báo, tuần san ‘’Nguồn Sống’’.
Các ngày lễ của Đảng như Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Đảng, Ngày Tổng Khởi Nghĩa, ngày các vị Liệt Sĩ lên máy chém Thực Dân đều được kỷ niệm xứng đáng bằng các công tác rải truyền đơn, dán biểu ngữ, diễn thuyết tại các trường học, v.v…
Trước sự lớn mạnh của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Thực Dân Pháp đă bắt đầu e dè, trụ sở ở Phố Cửa Nam và một vài nơi khác lần lượt bị khám xét.
Để chống đỡ, ‘’Bắc Bộ Khu Việt Nam Quốc Dân Đảng’’ đành phải quyết nghị dụng kế khai trừ Nhượng Tống, để Nhượng Tống có đủ tín nhiệm là Cố Vấn Chính Trị cho Tổng Trấn họ Nghiêm.
Nhiệm vụ của Nhượng Tống là chống đỡ cho Đảng về mặt chính trị, duy tŕ sự liên lạc và giữ vững tinh thần đồng chí đă tham chính.
Tuy chịu hy sinh cho khổ nhục kế, nhưng với tấm ḷng nhiệt thành yêu Đảng, yêu Tổ Quốc, quư mến đồng chí của Nhượng Tống, sự khai trừ đó không làm giảm sút sự kính mến của các đồng chí đối với Nhượng Tống. V́ vậy mà khi hay tin Nhượng Tống bị kẻ thù ám hại, (2) các đồng chí đều thương xót vô cùng.
Sau khi Nhượng Tống chết rồi, sự mâu thuẫn giữa Lê Ngọc Chấn với các lănh tụ vẫn ngấm ngầm và trở nên quyết liệt khi Vũ Hồng Khanh và các đồng chí Hải Ngoại trở về nước lần thứ hai vào tháng Giêng 1950.
Chú Thích:
1.- Lê Ngọc Chấn xuất thân Tri Huyện. Gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng từ sau ngày cộng sản đoạt được chính quyền tháng 8 năm 1945.
2.- Nhượng Tống chính tên là Hoàng Phạm Trân, sinh năm Giáp Th́n (1904) tại làng Phú Khê, Huyện Ư Yên, Tỉnh Nam Định. Thân phụ của ông đậu Tú Tài, cảnh gia đ́nh rất thanh bạch. Nhượng Tống bẩm tính hiền hậu, nhưng rất thông minh. Được thụ giáo Hán học đến năm 16 tuổi, rồi đến làm con nuôi ông Phạm Bùi Cầm ở Phủ Lư Nhân, thuộc Tỉnh Hà Nam. Tự học Quốc Văn và Pháp Văn. Nhượng Tống không có một văn bằng nào cả, nhưng học lực rất uyên bác.
Năm 1924, được giới thiệu vào làm trợ bút cho ‘’Thực Nghiệp Dân Báo’’ ở Hà Nội, kư dưới bút hiệu Nhượng Tống.
Năm 1926, cùng Phạm Tuấn Tài, Phạm Quế Lâm thành lập ‘’Nam Đồng Thư Xă’’. Năm 1927, cùng Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch cùng một số đồng chí khác, thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1929, bị Hội Đồng Đề H́nh kết án 10 năm cấm cố lưu đày ra Côn Đảo.
Cuối năm 1936, được ân xá trở về nguyên quán để chịu nốt cái án 5 năm biệt xứ. Trong thời gian này, Nhượng Tống sinh sống bằng nghề làm thầy lang và bán thuốc Bắc tại Chợ Thành Cách thuộc Huyện Thanh Liêm Tỉnh Hà Nam. Ngoài th́ giờ làm nghề thầy lang hốt thuốc, Nhượng Tống c̣n chuyên chú vào việc phiên dịch các tác phẩm Trung Hoa: Trang Tử Nam Hoa Kinh, Đạo Đức Kinh, Sử Kư Tư Mă Thiên, Ly Tao, Mái Tây, Thơ Đỗ Phủ, v.v…toàn là những áng văn có giá trị và khó phiên dịch nhất. Ngoài ra c̣n sáng tác vở chèo Hoàng Diệu, Phất Cờ Nương Tử, Nguyễn Thái Học, tiểu thuyết dài ‘’Lan và Hữu’’, v.v…
Sau khi măn hạn 5 năm biệt xứ, Nhượng Tống mới rời Chợ Thành Cách trở ra Hà Nội, sinh sống với nghề viết văn, và lại bắt đầu hoạt động công tác Đảng.
Năm 1948, Nhượng Tống được mời ra làm Cố Vấn Chính Trị cho Tổng Trấn Nghiêm Xuân Thiện, nhưng lại sống bằng nghề thầy lang, mở cửa hàng bào chế thuốc Bắc tại căn nhà số 128 Phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Sang ngày 26 tháng 7 năm Kỷ Sửu (20.8.1949), vào hồi 8 giờ sáng, Nhượng Tống vừa đi chơi tổ tôm về, mệt mỏi định đi nghỉ th́ có một đứa nhỏ đến mời đi thăm bệnh cho người cha của nó bị bệnh nặng, nhà ở sau khu nhà rượu. Nhượng Tống từ chối không muốn đi, nhưng sau lại nghĩ ‘’cứu nhân như cứu hỏa’’, nên ông lại khoác áo ra đi.
V́ quăng đường không bao xa, nên Nhượng Tống cùng đứa nhỏ lững thững đi bộ.
Đi được một quăng cách nhà của ông độ 500 thước, th́ có một tên lạ mặt đi xe đạp tiến lên bắn một phát súng lục xuyên qua gáy chết.
Có nhiều giả thuyết về cái chết của Nhượng Tống, nhưng theo sự điều tra riêng của tác giả th́ tên lạ mặt bắn Nhượng Tống chết là Nguyễn Văn Kịch người làng Mai Động, Quỳnh Lôi, ngoại thành Hà Nội, là biệt đội nội thành của cộng sản.
Chứng cớ cụ thể, là ngay sau khi Nhượng Tống bị ám sát, cộng sản đă cho tuyên truyền ầm ỷ ở hậu phương, xác nhận chính cộng sản đă thi hành xong bản án xử tử Nhượng Tống năm 1945.
CÁC CHIẾN SĨ VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG TRÊN ĐƯỜNG TRỞ LẠI CỐ HƯƠNG
I.
Tại Côn Minh, cuối năm 1948, Vũ Hồng Khanh đưa ra đề nghị thành lập ‘’Mặt Trận Hải Ngoại Cách Mạng Liên Minh Kháng Cộng’’. Đề nghị này được gửi đi các nơi. Trước định khai hội tại Côn Minh, sau cùng đ́nh lại. Và măi đến năm 1949, mới chính thức thành lập tại Quế Lâm, với mục đích kết hợp lực lượng Đảng phái Quốc Gia lưu vong, quy tụ lại thành một đơn vị trên trường Quốc Tế, đợi cơ hội kéo quân về nước diệt cộng sản. Kế hoạch nhờ Bộ Tham Mưu Quốc Quân Trung Hoa giúp vơ khí, binh lương và tuyển mộ chí nguyện quân đánh chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn, Thất Khê cho đến Phủ Lạng Thương để làm căn cứ địa.
Kế hoạch đó được ‘’Trung Hoa Chiến Lược Ủy Viên Hội’’, Chủ Tịch là Bạch Sùng Hy chấp thuận. ‘’Mặt trận Hải Ngoại Cách Mạng Liên Minh Kháng Cộng’’ được thành lập. Chủ Tịch là Lưu Đức Trung, Phó Chủ Tịch là Hoàng Nam Hùng, Quân Sự Ủy Viên Trưởng là Vũ Hồng Khanh. Ủy Viên gồm có: Nông Quốc Long, Vũ Đ́nh Huyên, Đặng Kim Long, nhân viên gồm có: Tạ Nguyên Hối, Phạm Thái, Triệu Việt Hưng, Nguyễn Duy Dỵ, Trịnh Danh. Ba nhân viên được phái đi Hồng Kông để mở một tờ báo làm cơ quan tuyên truyền cho Mặt Trận là Phạm Thái, Trịnh Danh và Nguyễn Duy Dỵ.
II.
Mặt trận thành lập được ít tháng, chưa hành động được việc ǵ đáng kể, thời cuộc Trung Hoa bỗng biến chuyển một cách quá mau lẹ. Chính phủ Tưởng Giới Thạch sửa soạn rút lui khỏi lục địa Trung Hoa. Vũ Hồng Khanh phải triệu tập hội nghị khẩn cấp. Hội nghị quyết định tập hợp lực lượng của đoàn thể cùng chí nguyện quân. Nói đến ‘’Chí nguyện quân’’, Vũ Hồng Khanh không hiểu luật Quốc Tế chút nào. Hơn nữa lấy lương thực đâu lúc bấy giờ mà nuôi một quân số 10.000 người! Phần khác, khi trở về tới Quốc Nội, nếu Pháp không bắt giữ, th́ cộng sản họ cũng tập trung số chí nguyện quân ấy mà thôi. Vơ trang bộ đội lấy tên là ‘’Việt Nam Kiến Quốc Quân’’, mà giải pháp duy nhất trước hoàn cảnh của quốc gia lúc bấy giờ, là kéo quân vượt biên giới về tập trung ở Lục Nam, đóng rải rác khắp tỉnh Bắc Giang, đợi sau khi nghiên cứu rơ t́nh h́nh mới sẽ có hoạt động!!!
Trong lúc hành quân, tổ chức thành đơn giản, nên chỉ đặt Tổng Tư Lệnh là Vũ Hồng Khanh, Tham Mưu Trưởng là Hoàng Nam Hùng, Bí Thư Trưởng là Triệu Việt Hưng, Bộ Tham Mưu quyết định ra lệnh cho bộ đội trong khi tiến quân về nước, cố hết sức tránh sự va chạm với bộ đội việt cộng cũng như binh sĩ Liên Hiệp Pháp, để đạt tới giải pháp trên.
Ngoài hai toán quân theo đường về Hà Giang và Lao Kai. C̣n đạo quân thứ nhất gồm 10.000 người tập trung tại Long Châu xuất phát vào hồi 3 giờ sáng ngày 18 tháng 11 năm 1949. Tuy vậy c̣n một số khá đông, những đảng viên có gia đ́nh không kịp thu xếp, và những đảng viên v́ sinh kế ở rải rác không kịp liên lạc tập trung, nên bị mắc kẹt ở Trung Hoa Đỏ. Chỉ có một số rất ít kịp theo Chính Phủ Tưởng Giới Thạch ra thoát Đài Loan.
III.
Đạo quân thứ nhất tập trung ở Long Châu là đạo quân lớn nhất, qua Thủy Khẩu tiến vào Tà Lùng, một đồn ở giáp biên giới Việt-Hoa. Đồn này bị phá hủy không có quân đội nào đóng giữ, nhưng cộng quân vẫn lẩn quất ở xung quanh. Kiến Quốc Quân cho rải truyền đơn giải thích lập trường. Tuy vậy cũng xảy ra vài trận xung đột, nhưng đều bị Kiến Quốc Quân đẩy lui. Tới đồn Phúc Ḥa, không có quân nào đóng giữ, nên không có sự ǵ xảy ra.
Phải qua sông Phúc Ḥa, v́ nước to và sâu, nên phải bắc cầu phao. Trong thời gian bắc cầu, cộng quân kéo đến vây đánh. Mặc dầu đă hết sức kêu gọi và giải thích lư do, nhưng không hiệu quả. Bộ Tham Mưu Kiến Quốc Quân buộc ḷng phải cho quân tiến lên càn quét. Sau một vài tiếng đồng hồ, đánh tan cộng quân và vượt qua sông.
Tiến đến gần Đông Khê, gặp pháo đài của quân đội Liên Hiệp Pháp đóng trên núi. Đội tiên phong Kiến Quốc Quân liền báo cho họ biết rơ lập trường của cuộc tiến quân. Được chỉ huy quân Liên Hiệp Pháp trả lời:
‘’Chúng tôi có trách nhiệm giữ nơi đây, không có quyền cho quân đội nào đi qua đây hết. Vậy các ông hăy lui quân cách đây hai cây số để chúng tôi báo cáo về Bộ Tổng Chỉ Huy ở Lạng Sơn xin chỉ thị’’.
V́ muốn ḥa b́nh để đạt tới mục đích, Vũ Hồng Khanh ra lệnh lui quân và sau đó nhận được một bức điện văn: ‘’Bản quân bằng ḷng cho quư quân đội mượn đường đi qua pḥng tuyến, nhưng cứ theo đường lớn về Lạng Sơn. Nếu cần, chúng tôi cho không quân yểm hộ. Tới Lạng Sơn sẽ do Quốc Trưởng Bảo Đại phái người lên đón’’.
8 giờ sáng hôm sau, Vũ Hồng Khanh ra lệnh tiến quân, qua Đông Khê được ba cây số, từ trên núi cao, đột nhiên cộng quân bắn xuống như mưa. Kiến Quốc Quân kêu gọi ngừng bắn, nhưng cộng quân lại càng bắn dữ. Lập tức đội tiên phong Kiến Quốc Quân chia làm hai cánh quân tiến theo hai bên núi, vừa tiến vừa càn quét những trở lực. Suốt dọc đường chỗ nào cũng có cộng quân đón đánh nhưng đều bị đội tiên phong Kiến Quốc Quân đẩy lui.
Tiến đến Thất Khê, toàn quân lực nghỉ lại đồn binh Liên Hiệp Pháp một đêm. Sáng sớm hôm sau Kiến Quốc Quân sắp sửa lên đường, đồn trưởng đồn Thất Khê yêu cầu Tổng Tư Lệnh họ Vũ cho phép 3000 Kiến Quốc Quân với khí giới trang bị đầy đủ được ở lại đồn ít ngày, để tăng cường chiến đấu chống với áp lực của cộng quân khi hay tin Kiến Quốc Quân vừa nghĩ lại một đêm ở đồn. Đạo quân ấy do Vi Văn Lưu phụ trách. Họ Vũ đă bằng ḷng để 3000 quân cho Pháp mượn.
Kiến Quốc Quân theo Quốc Lộ số 4 tiến thẳng vào Thị Xă Na Sầm. Nh́n nhận thấy Pháp quân có ư khác, nên Kiến Quốc Quân chuẩn bị cương quyết tiến qua Na Sầm. Và ngay ngày hôm đó, Tỉnh Trưởng Lạng Sơn là Hoàng Văn Ngọc đặc phái Phó Tỉnh Trưởng Hoàng Lê Sinh làm đại diện chính phủ lên Na Sầm đón Tổng Tư Lệnh họ Vũ và trao một bức điện văn chúc tụng họ Vũ đem quân về kiến thiết quốc gia, và c̣n nói thêm rằng: ‘’Khi đại quân về Lạng Sơn, quân đội tạm nghỉ do chính phủ Việt Nam phụ trách đài thọ, c̣n Tổng Tư Lệnh th́ chính phủ đă để sẵn một phi cơ để đưa về Sài G̣n hội kiến với Quốc Trưởng Bảo Đại thương lượng việc kiến quốc’’.
Yên chí với tấm ḷng thành khẩn của chính phủ Việt Nam và quân đội Liên Hiệp Pháp, Bộ Tham Mưu định sáng hôm sau sẽ tiến quân về Lạng Sơn.
Sáng hôm sau, Chỉ Huy Trưởng đồn binh Na Sầm cho biết đă có 60 xe vận tải đợi sẵn để chở Kiến Quốc Quân về Lạng Sơn, mỗi chuyến chở 1000 người.
Xét thấy hành động khả nghi của Pháp từ hôm trước, tiếp đến sáng nay lại thấy Pháp điều động hết các binh sĩ ra ngoài các vị trí, coi bộ như là chuẩn bị chiến tranh, Vũ Hồng Khanh trả lời:
‘’Xe hơi để riêng chở những người ốm yếu và hành lư, c̣n Kiến Quốc Quân đi bộ hết, không cần xe’’.
Không thể sao được! Pháp đành cho chở ít hành lư và một số người ốm yếu về Lạng Sơn.
Vũ Hồng Khanh ra lệnh tiến quân. Đến cách Đồng Đăng 5 cây số, Tư Lệnh họ Vũ ra lệnh cho đồn quân lại nghỉ ngơi ăn uống.
Sau một hồi, Pháp đem rất nhiều xe tăng, thiết giáp cùng súng lớn đi quan sát và uy hiếp, định lập mưu tước khí giới Kiến Quốc Quân.
IV.
Tiếp theo, Đại Tá Vincent, chỉ huy tối cao Quân Khu Cao Bắc Lạng, đưa đề nghị mời Vũ Hồng Khanh về Lạng Sơn để thảo luận. Họ Vũ cử Tham Mưu Trưởng Hoàng Nam Hùng cùng Sư Đoàn Trưởng Lư Vi Chi và Đặng Tử Phong làm đại diện vào Lạng Sơn để liên lạc và giao thiệp với chính phủ Việt Nam và Bộ Tư Lệnh Liên Hiệp Pháp. Phan Chí Thành tức An Sinh được cử đi theo làm thông dịch viên. Đồng thời Tổng Tư Lệnh Vũ Hồng Khanh ra lệnh cho Kiến Quốc Quân chiếm lĩnh vị trí để đề pḥng bất trắc.
Vào Lạng Sơn, phái đoàn Hoàng Nam Hùng gặp Cố Vấn đạo quân Liên Hiệp Pháp là Roja và Đại Tá Vincent, Đại Tá nói:
‘’Các ông về đây, trong số bộ đội có nhiều quân Tầu, phải tập trung và tước khí giới. Đó là theo đúng sắc luật Quốc Tế Công Pháp. Nếu không, quân Trung Cộng sẽ tràn vào đây, và sẽ gây nên nhiều chuyện khó khăn cho chúng tôi’’.
An Sinh quay lại hỏi ư kiến Hoàng Nam Hùng, họ Hoàng trả lời:
‘’Thế là phải’’
Quay lại phía Đại Tá Vincent, An Sinh trả lời:
‘’Đấy là chí nguyện quân, vả lại chúng tôi về đây là để hợp tác với chính phủ Quốc Gia để chống cộng sản, vậy tập trung có thể được, nhưng chúng tôi phải được giữ nguyên vẹn số khí giới và đó cũng chỉ là ư kiến riêng tôi, tôi cần phải báo cáo với Tổng Tư Lệnh Vũ Hồng Khanh đă…’’
Đến đây cuộc tiếp xúc giữa hai bên tạm ngừng, Tỉnh Trưởng Hoàng Văn Ngọc mời phái đoàn Hoàng Nam Hùng về tư dinh khoản đăi. Qua sáng hôm sau, Lư Vi Chi, Đặng Tử Phong cùng An Sinh trở lên Đồng Đăng tường tŕnh tự sự với Vũ Hồng Khanh, c̣n Hoàng Nam Hùng lấy cớ mệt, lưu lại ở Lạng Sơn để tiếp tục thảo luận với đại diện chính phủ Quốc Gia.
Tại Đồng Đăng, sau một cuộc thảo luận, An Sinh lại được phái xuống Lạng Sơn để trả lời Đại Tá Vincent theo kế hoạch ḥa hoăn, để có đủ th́ giờ rút lui quân. Trở lại Lạng Sơn, An Sinh bị Pháp giữ làm tù binh.
V.
Khi An Sinh đă trở lại Thành Lạng Sơn, Vũ Hồng Khanh ra lệnh rời Đồng Đăng tiến quân về phía B́nh Gia để về Bắc Giang theo chương tŕnh đă hoạch định từ trước. Hôm ấy là buổi chiều ngày 25 tháng 12 năm 1949.
Tiến quân vào sâu độ 200 cây số có một thung lũng rất rộng, xung quanh chân núi có làng mạc. Tiến gần đến nơi bỗng tiếng súng tập kích nổ vang. Đội tiên phong Kiến Quốc Quân chia đường đuổi đánh cộng sản tan chạy, Kiến Quốc Quân lập tức thiết lập vị trí và nghĩ ngơi, rồi được lệnh đi mua gạo về nuôi quân. Lệnh cấm ngặt không một người nào được sách nhiễu và bắt súc vật của dân.
Mờ sáng hôm sau, việt cộng đem quân đến bao vây tứ phía, nhưng Kiến Quốc Quân đều đóng trên núi cao, cộng quân chỉ đứng ở đằng xa bắn vào, không dám xung phong. Kiến Quốc Quân liền phái các đội đột kích xông xuống tập kích. Cộng quân không địch nổi phải rút lui.
Pháp quân phái 4 phi cơ đến trinh sát nhưng không thể ḍ thấy. Giữa khi ấy cộng quân tiến đến tấn công, nên phi cơ Pháp mới biết rơ được nơi đồn trú của Kiến Quốc Quân nhưng cũng chưa dám bắn phá, v́ không thấy rơ được vị trí.
Nghỉ ngơi một ngày, 5 giờ sáng hôm sau tiếp tục lên đường. Đến gần sông Điềm He, cộng quân từ hai bên vị trí cao bắn xuống chặn đường đội tiên phong, Kiến Quốc Quân lập tức đánh lui, sang qua sông lại bị cộng quân đón đánh. Kiến Quốc Quân liền chia làm ba đội: Tả, hữu và trung quân đuổi đánh cộng quân trên hai dăy núi, càn quét kỳ hết để cho hậu quân tiến lên, đội hậu vệ đang sang sông Điềm He, phi cơ Pháp bay tới xả súng bắn xuống, nhưng Kiến Quốc Quân đă ẩn nấp tránh kịp. Sau khi bắn một loạt, phi cơ rải truyền đơn chữ Hán kêu gọi chí nguyện quân nên trở về Trung Hoa, hoặc đem khí giới đến nộp cho Pháp quân. Sau khi phi cơ Pháp bay đi khỏi, cộng quân lại kéo đến tấn công, liền bị pháo binh Kiến Quốc Quân tiêu diệt. Đêm ấy, Kiến Quốc Quân nghỉ lại ở Điềm He.
Hôm sau tiến quân đến Ba Xă, suốt dọc đường đều bị cộng quân quấy rối, trên không lại bị phi cơ Pháp thám thính tuần pḥng, ra hiệu cho đồn binh gần Ba Xă bắn đại bác 75 ly và ở Lạng Sơn bắn súng đại bác 105 ly tới uy hiếp để cho bộ binh tấn công.
Phía Đông Nam th́ Pháp quân đến đánh, phía Tây Bắc th́ cộng quân đến tấn công, Kiến Quốc Quân ở giữa đành phải dồn quân ở Ba Xă, chia quân làm hai mặt đánh tan cả hai địch quân. Cộng quân rút lui, bị Kiến Quốc Quân truy kích, bắn chết một chỉ đạo quân của việt cộng tên là Hoàng Tiến Nam, bắt được đầy đủ các tài liệu huấn luyện t́nh báo, yếu đồ, báo cáo công tác… bởi thế biết được rơ trận địa giữa Pháp với việt cộng.
Lập trường của Kiến Quốc Quân vẫn không muốn đụng chạm đến một quân đội nào, nên phải đi vào khoảng không của hai mặt trận, không may lại bị cả hai bên cùng đánh mặc dù đă trực tiếp giao thiệp giải thích lư do.
Để tránh cả mọi sự, đấu tranh cho đạt tới mục đích, Bộ Tham Mưu quyết định ngày nghỉ đêm đi, và bắt đầu đi đêm từ Ba Xă. Tờ mờ sáng đến một khu rừng, núi cao suối thẳm, lệnh cho quân nghỉ ở trong rừng. Suốt ngày hôm đó, phi cơ Pháp bay lượn t́m kiếm gầm thét vang động cả một góc trời, nhưng cũng không t́m thấy nơi nghỉ của Kiến Quốc Quân. Trời đă đổ tối, lại chuẩn bị đi. Mờ sáng hôm sau, đội tiên phong tiến đến định t́m nơi đóng trại nghỉ, không ngờ một pháo đài của Pháp quân đă hiện ra. Kiến Quốc Quân vẫn im lặng tiến, khi hậu đội vừa đi qua lên ngọn núi, đội cảnh vệ đương qua suối th́ những đám sương mù dần tan hết, Pháp quân ở trên pháo đài (làng Lập) trông thấy, liền báo động bắn súng máy và móc-chê xuống. Kiến Quốc Quân được lệnh men theo bờ núi, ṿng vào chân núi bên kia, tiến lên vị trí địch. Một mặt, pháo binh của Kiến Quốc Quân bắn phá tan pháo đài địch và đẩy lui địch quân.
Sau một giờ chiến đấu, phi cơ địch từ Lạng Sơn tới bắn súng liên thanh và ném bom xuống. Thay đổi nhau, hết đợt này đến đợt khác, suốt ngày gầm rít trên không trung, nhưng cũng không đạt được kết quả. Cuối cùng địch phải dùng đạn lửa bắn xuống xung quanh núi thiêu hủy các vị trí.
Chiến đấu suốt từ sáng đến chiều, Tổng Tư Lệnh họ Vũ ra lệnh cho Kiến Quốc Quân rút xuống núi, rồi thứ tự tiến quân. Quá nửa đêm, đến một khu rừng, kiểm điểm thấy hậu đội lạc mất 60 người và 5 con ngựa, c̣n các đội khác đều an toàn. 60 người này là chí nguyện quân Trung Hoa.
Nghỉ ngơi cơm nước xong, lại tiếp tục lên đường. Đội tiên phong tiến đến Thanh Mọi, cộng quân ra chặn đường, giao thiệp một hồi lâu cũng không cho đi, đồng thời các vị trí của cộng quân ở trên núi bắn xuống như mưa, Kiến Quốc Quân bắt buộc phải tấn công, đội tiền vệ đánh vào Thanh Mọi, đội hậu vệ đánh vào chợ và đồn Đồng Mỏ, trung quân đánh vào vị trí quăng giữa, cắt đứt liên lạc giữa Đồng Mỏ với Thanh Mọi, xung phong lên các vị trí. Kết quả cộng quân không địch nổi phải bỏ chạy, một số giơ tay đầu hàng.
Vấn đề then chốt là lương thực lại không t́m đâu ra! Vũ Hồng Khanh ra lệnh rút quân xuống, kế tục lên đường. Không đi được lối đường sắt, nên phải quay qua dăy núi cao, đi xuyên sang Lục Nam. Qua một đêm leo núi, sáng hôm sau mới tới một nơi có làng mạc, nhưng cũng gặp cảnh vườn không nhà trống ruộng hoang, không thể t́m đâu ra một hạt gạo! T́nh cờ gặp một thổ dân được biết cách đây độ 3, 4 cây số có đồn Ba Ḥn, rồi đến đồn Cao Nhật do Pháp quân đồn trú.
Biết rơ t́nh h́nh, Vũ Hồng Khanh định cho vây đồn Ba Ḥn và Cao Nhật đánh cướp lương thực, nhưng v́ đă 5 ngày liền chiến đấu mà không có cơm ăn, đêm qua lại đi suốt sáng không được ngủ, và suốt ngày bị phi cơ Pháp bay liệng trên đầu làm ngăn trở hành động, nên Tổng Tư Lệnh họ Vũ ra lệnh cho đặt vị trí để nghỉ ngơi. Kiến Quốc Quân đều phái người lên núi t́m các thứ rau về ăn cho đỡ đói.
VI.
Nghỉ ngơi chốc lát, họ Vũ ra mật lệnh đến hồi 20 giờ bắt đầu xuất quân vây đánh Ba Ḥn, rồi tấn công đồn Cao Nhật.
Mọi việc đương chuẩn bị th́ thấy phi cơ Pháp dồn dập bay tới liệng trên không. Một hồi sau thấy đội tuần tiễu đưa vào tŕnh hai bức thư: Một của Hoàng Nam Hùng và một của Bộ Chỉ Huy quân đội Liên Hiệp Pháp. Hoàng Nam Hùng khuyên Tư Lệnh họ Vũ nên về hợp tác với chính phủ Quốc Gia, Đại Biểu của chính phủ hiện đă có mặt ở Lạng Sơn để đón tiếp, c̣n Bộ Chỉ Huy Liên Hiệp Pháp th́ đại ư nói: ‘’Ngài đă v́ quốc gia dân tộc đem quân về cùng với chính phủ Quốc Gia kiến thiết nước Việt Nam mới. Hiện nay nước Pháp đă trao trả chủ quyền cho Việt Nam, th́ quân Liên Hiệp Pháp đây là người bạn. Hy vọng ngài đừng gây chiến tranh với chúng tôi nữa. Hiện chính phủ Quốc Gia Việt Nam đă phái Đại Biểu lên đón ngài ở Lạng Sơn. Vậy mong ngài hăy trở về Lạng Sơn cho anh em binh sĩ nghĩ ngơi, rồi ngài cùng Đại Biểu chính phủ Việt Nam đáp máy bay về Hà Nội’’.
Đem hai bức thư ra nghiên cứu, Bộ Tham Mưu xét v́ hoàn cảnh đặc biệt, đứng trước hai thế lực đều hùng hậu, mà vấn đề then chốt là lương thực lại không có, nên quyết định băi bỏ dự tính kéo quân về đồn trú ở Bắc Giang, mà nay đem thẳng Kiến Quốc Quân cùng vơ khí về hợp tác với chính phủ Quốc Gia do Quốc Trưởng Bảo Đại lănh đạo.Và ngay buổi tối hôm ấy, mồng 6 tháng Giêng năm 1950, một văn thư gửi cho Bộ Chỉ Huy quân đội Liên Hiệp Pháp ở Lạng Sơn được biết rơ quyết định đó.
ĐẠI BIỂU ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC NẠN PHÂN HÓA BẮT ĐẦU
Thượng tuần tháng 7 năm 1950, các yếu nhân Việt Nam Quốc Dân Đảng đă có mặt đông đủ ở Hà Nội. Một Đại Hội Đại Biểu toàn quốc được triệu tập tại số nhà 2, Phố Phạm Hồng Thái.
Thành phần hội nghị gồm có: Mỗi Tỉnh Bắc Việt 1 Đại Biểu, Trung và Nam Việt mỗi phần 2 Đại Biểu, Hải ngoại 2 Đại Biểu.Phiên họp ngày đầu, Đỗ Đ́nh Đạo được cử làm chủ tọa hội nghị, thuyết tŕnh viên là Cung Đ́nh Quỳ (thay mặt Nguyễn Văn Chấn bị ốm).
Sau khi thông qua báo cáo cùng một loạt chất vấn gay cấn với Tổng Thư Kư Vũ Hồng Khanh, rồi chương tŕnh nghị sự mới được đề ra, và chấm dứt công tác của ban chấp hành cũ, chương tŕnh nghị sự gồm có:
- Danh xưng của Đảng
- Bầu Ban chấp hành ủy viên mới
- Ấn định chương tŕnh hoạt động của Đảng.
Đến đây An Sinh được cử làm chủ tọa hội nghị. Vấn đề danh xưng của Đảng được đưa ra thảo luận.
Đỗ Đ́nh Đạo đề nghị đổi là ‘’Quốc Dân Đảng Việt Nam’’.
An Sinh xin giữ danh hiệu cũ ‘’Việt Nam Quốc Dân Đảng’’. Viện lẽ rằng danh hiệu cũ đă thành danh hiệu lịch sử, và chính không phải nó làm hư, mà là đảng viên của giai đoạn làm xấu nó.
Đến khi lấy biểu quyết, danh hiệu ‘’VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG’’ được đa số tuyệt đối tán thành.
Sang ngày thứ hai, Vũ Hồng Khanh cùng hai Đại Biểu Trung Việt vắng mặt, cho rằng nội bộ thiếu thiện chí xây dựng.
Ngày thứ ba, nhiều Đại Biểu địa phương và cả hai Đại Biểu Hải ngoại cũng đều vắng mặt.
Tiếp đến ngày thứ tư, mặc dầu vắng mặt một số đông Đại Biểu, hội nghị vẫn tiếp tục làm việc, bầu ban chấp hành Trung Ương Lâm Thời. Ngô Thúc Địch được cử làm Bí Thư Trưởng.
Cách ít ngày, một số cán bộ đứng ngoài tổ chức Ngô Thúc Địch hợp nhau đến nhà Vũ Hồng Khanh chất vấn rồi tổ chức một Đại Hội quyết định yêu cầu Vũ Hồng Khanh tạm đảm nhiệm Đảng vụ từ giờ phút đó, với nhiệm vụ xúc tiến cùng các đồng chí trong toàn quốc để lập Trung Ương Đảng Bộ chính thức và phủ nhận Trung Ương Đảng Bộ do Ngô Thúc Địch lănh đạo.
Để xúc tiến công tác Đảng vụ, tiếp sau đó ít ngày, Thị bộ Hà Nội được thành lập, Nguyễn Đ́nh Đa được bầu làm Chủ Nhiệm rồi Khu Bộ và các Chi Bộ các Tỉnh được tổ chức lại, phát triển thêm đảng viên và hoạt động mạnh nhất là các Chi Bộ Vĩnh Phúc Yên, Kiến An, Phát Diệm (Ninh B́nh).
Đầu năm 1951, nhận thấy t́nh h́nh thế giới biến chuyển nghiêm trọng, Trung Ương Đảng Bộ Lâm Thời được tổ chức thành lập. Vũ Hồng Khanh được bầu làm Tổng Thư Kư.
Từ đó Việt Nam Quốc Dân Đảng có hai Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Bộ, công khai đối chọi nhau, thi đua phát triển đảng viên và mọi công tác khác. Nạn phân hóa phát sinh bắt đầu từ đấy.
Xét thấy nội bộ chia rẽ, rất có hại cho công tác cũng như thanh danh của Đảng, một số đảng viên tên tuổi đứng ra liên lạc, thăm ḍ ư kiến để dung ḥa cả hai nhóm, suốt mấy kỳ hội nghị vận động thống nhất đảng kéo dài đến mấy tháng, nhưng cuối cùng vẫn không thực hiện được thống nhất.
Tháng 7 năm 1951, Vũ Hồng Khanh tuyên bố với tư cách cá nhân ra làm Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Nguyễn Văn Tâm. Trung Ương Lâm Thời tự giải tán, v́ xét thấy họ Vũ tham gia chính quyền lúc ấy là không phù hợp với đường lối của Đảng.
Sau khi họ Vũ ra tham chính, cách vài ba tháng sau, một số đồng chí của họ Vũ tại Cố Đô Thăng Long, trụ sở đặt tại Đường Hồ Xuân Hương (Jabouille) cũ, rải truyền đơn phản đối chính phủ về một vấn đề phi pháp nào đó.
Nguyễn Đ́nh Thái, (1) giám đốc công an, dẫn một số mật thám Pháp đến vây trụ sở số 12 đường Hồ Xuân Hương, khám xét tịch thu tài liệu chất đầy 2 xe ḅ đưa về Nha Công An. Hôm ấy là ngày mở lớp huấn luyện cán bộ, số người dự lớp có trên 30 người, được tin cấp báo đều chạy thoát, duy có Nguyễn Văn Thụ v́ chậm chạp nên bị bắt giam.
Một cán bộ đảng viết cho Bộ Trưởng Vũ Hồng Khanh yêu cầu can thiệp nội vụ. Họ Vũ viết thư trả lời cho Nguyễn Văn Lực, xin trích một câu chính trong bức thư, nguyên văn như sau:
‘’…Từ nay trở đi, tôi không muốn biết ǵ đến công việc Đảng nữa! Và đừng có hỏi han ǵ nữa!…’’
Nguyễn Văn Lực trao bức thư cho Nguyễn Văn Chấn. Sau khi đọc xong bức thư, Chấn Đen rất buồn rầu, nói với ông Lực rằng:
‘’Thằng Vũ nó đă thế này, th́ ḿnh phải viết thư chửi cho nó mấy câu…’’
Và cũng từ đó cho đến trước khi họ Ngô Đ́nh thất vị. Nguyễn Văn Lực với Vũ Hồng Khanh không c̣n gặp mặt nhau nữa. (2)
Ngô Thúc Địch cũng tham chính với chức Phó Thủ Tướng chính phủ Nguyễn Văn Tâm, rồi bị các đồng chí trong nhóm của Ngô rải truyền đơn phản đối và khai trừ. Kết quả Ngô Thúc Địch (3) phải từ chức, những người chủ mưu trong vụ rải truyền đơn, kẻ bị bắt, người bị truy nă và rồi tổ chức cũng ch́m luôn.
Sau khi Trung Ương Lâm Thời Vũ Hồng Khanh tự giải tán, một số thanh niên Đảng viên tự đứng ra thành lập ‘’Cán Bộ Đoàn’’ để tiếp tục công tác đảng vụ.
Một số các vị lăo thành: Hoàng Văn Đào, Nguyễn Văn Lực, Lê Văn Giáp, Nguyễn Văn Chấn cũng tập hợp nhau thành một tổ chức để tạm đảm nhiệm công tác Trung Ương Lâm Thời.
Đầu năm 1953, lăo đồng chí Bạch Vân, trưởng cán bộ đoàn từ Hà Nội vào Sài G̣n cùng Phạm Thái và Phan Ngô thành lập một cơ quan Chỉ Đạo Lâm Thời để tiến tới Trung Ương Đảng Bộ chính thức, Nguyễn Văn Chấn được mời làm cố vấn.
Ủy ban vận động Đại Hội bầu Trung Ương Đảng Bộ hoạt động được ít tháng th́ biến cố lịch sử quan trọng đến vận mạng Việt Nam đă xảy ra! Hội Nghị Quốc Tế họp ở Thuỵ Sĩ bàn về đ́nh chiến Đông Dương. Dư luận chia đôi đất nước Việt Nam đă được loan truyền từ cuối năm 1953, khiến nhân dân Việt Nam hết sức hoang mang lo sợ, nhất là hàng ngũ cách mạng Quốc Gia.
Chú Thích:
1.- Nguyễn Đ́nh Thái, con nuôi Nguyễn Văn Tâm, Thủ Tướng chính phủ hồi bấy giờ.
2.- Theo lời tường thuật của ông Nguyễn Văn Lực.
3.- Ngô Thúc Địch sinh năm Bính Dần (1897) tại làng La Khê, Tỉnh Hà Đông, là một nho gia, cả ba anh em Ngô Thúc Địch đều thi đậu Cử Nhân khoa Ất Măo 1915.
Sau khi thi đậu Cử Nhân, Ngô Thúc Địch mới bắt đầu tự học Pháp Văn, thi đậu Brevet Elémentaire, rồi vào Trường Cao Đẳng Pháp Chính (Ecole de droit et administatif). Sau khi tốt nghiệp, được bổ chức Tham Tá Hành Chính.Ngô Thúc Địch vốn người thông minh, hiền hậu và có đức, gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng từ đầu năm 1928, do Hoàng Văn Đào giới thiệu vào Chi Bộ Thanh Hóa. Bị bắt giam về vụ án Bazin đầu năm 1929, bị Hội Đồng Đề H́nh kết án 2 năm tù treo. Tạ thế tại Hà Nội vào năm 1954.
CHƯƠNG II
ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA ĐÔI CON SÔNG BẾN HẢI
Trận Điện Biên Phủ quân đội của ông Hồ đă không nương theo đà chiến thắng mà tràn xuống đánh đuổi quân đội viễn chinh Pháp để thu hồi toàn bộ Bắc Việt ? Trong thực tế, bởi quân đội Bắc Việt đă quá mệt mỏi, t́nh h́nh kinh tế của dân chúng đă quá kiệt quệ, nên chính phủ Hồ chí Minh phải tạm ngừng chiến, phần khác lo sợ Mỹ nhảy vào cuộc chiến th́ lại càng nguy to! Thi hành đúng chính sách của cộng sản là lùi một bước để rồi tiến hai bước. cộng sản đă quá chủ quan, quá tin ở thắng lợi: Pháp không c̣n ǵ! Chính phủ miền Nam được cộng sản coi như không thành vấn đề! Bởi sau hiệp định Genève chỉ mất một vài năm là cùng. Tổng Tuyển Cử chắc chắn sẽ thành công, mà không tốn kém một viên đạn, một giọt máu!,
C̣n Pháp trong khi ấy chính phủ Mendès France cần thực hiện đúng lời cam kết giải quyết đúng kỳ hạn chiến tranh tại Việt Nam. V́ t́nh h́nh quá suy nhược của Pháp, v́ muốn đề cao địa vị cá nhân, Mendès France cố gắng để kư với cộng sản hiệp định ngưng chiến với bất cứ giá nào! Nhưng trong việc cấu kết giữa thực dân và cộng sản tại Genève, chúng ta phải nhắc đến vai tṛ của Anh và Nga, hai vị đồng Chủ Tịch Hội Nghị.
Về vai tṛ của Anh, chắc chắn chúng ta c̣n nhớ, từ cuối năm 1953, chính phủ Anh đă đưa ra sáng kiến chia đôi Việt Nam để giải quyết chiến cuộc, như vậy miền Nam sẽ làm b́nh phong che đỡ cho Tân Gia Ba và Mă Lai, quyền lợi của Anh tại Viễn Đông coi như được phần bảo đảm. Vai tṛ của Nga th́ tế nhị hơn, được Nga giúp đỡ Pháp phải trả cho Nga bằng chính sách phá OTAN (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) sau này.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Mendès France đă kư với đại diện chính phủ Hồ chí Minh tại Genève hiệp định chia đôi đất nước. Trong thời gian thảo luận, đại diện chính phủ Ngô Đ́nh Diệm có mặt tại hội nghị, nhưng không được thông báo những quan điểm của hai phe lâm chiến. Những điều kiện ḥa b́nh được chấp nhận, đă không có ư kiến của chính phủ Quốc Gia và chính phủ miền Nam đă không kư nhận hiệp định Genève 1954.
Hoa Kỳ cũng không kư vào hiệp định Genève, Hoa Kỳ chờ đợi để quyết định. Tại hội nghị Genève, chúng ta đă thấy các cường quốc Anh, Nga và Pháp đă định đoạt vận mệnh của nước Việt Nam qua đầu nhân dân Việt Nam.
Đó là bài học lịch sử thứ nhất về ngày 20 tháng 7. Đất nước bị tạm thời chia cắt ở vĩ tuyến 17, lấy ‘’con sông Bến Hải’’ làm ranh giới. Muốn t́m hiểu vị trí cũng như h́nh thể con sông Bến Hải, chiếc cầu Hiền Lương và những ảnh hưởng liên hệ của nó ra sao ?
Bến Hải là một ḍng sông hẹp, quanh năm nước chảy lặng lờ, bắt nguồn từ dăy Trường Sơn về Rào Thanh, chảy thẳng đến Xuân Mỹ, rồi đổ xuống cửa Tùng. Chiều dài con sông, nếu tính theo đường chim bay, từ nguồn núi Tây ra biển Đông chỉ vào khoảng 60 cây số. Nếu kể chiều dài uốn khúc quanh co theo triền núi th́ độ chừng 100 cây số, bề rộng của sông Bến Hải, chỗ lớn nhất như quăng Tùng Luật tới 200 mét, ở khu vực cầu Hiền Lương chỉ độ 170 mét, khúc sông gần băi cát Cửa Tùng chảy ra biển chỉ rộng có 30 mét.
Đến chiếc cầu bắc qua sông Bến Hải tục gọi là cầu ‘’Hiền Lương’’. Nằm giữa thôn Vĩnh Linh, Huyện Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị, cũng chỉ là chiếc cầu b́nh thường như trăm ngàn chiếc cầu khác trên trăm ngàn ḍng sông quen thuộc ở nước ta, vẫn là mấy nhịp sắt mầu đen và những tấm ván. Chiều dài chiếc cầu được chia ra làm hai phần, mỗi bên quản lư đúng 89 mét. Khu vực mệnh danh là ‘’Phi Quân Sự’’ được ấn định mỗi bên là 5 cây số khoảng cách từ bờ sông trở ra và kéo dài theo triền sông.
13 năm đă trôi qua! Chính phủ Hồ chí Minh đă phạm nhiều lầm lỗi, cộng sản đă không đánh giá đúng mức tinh thần hy sinh của những con người quyết tâm chống độc tải Đỏ. (1954-1967).
13 năm đă trôi qua! Mặc dầu cộng sản quốc tế đă áp dụng giải pháp quân sự mạnh mẽ cũng như chính trị xảo quyệt, để cố gắng nhuộm đỏ nốt miền Nam này, nhưng chắc chắn cộng sản sẽ thất bại hoàn toàn, bởi không c̣n một ai bị mắc mưu lừa bịp nguy hiểm ấy nữa!
‘’Nếu ḥa b́nh có quay trở lại, th́ ḥa b́nh này chỉ có thể trường cửu một khi Việt Nam thống nhất dưới chính thể cộng sản’’
Đó là một lời thốt ra của một tướng cộng sản Việt Nam. Chúng ta nên thận trọng khi ḥa b́nh trở lại Việt Nam.
CUỘC TRANH ĐẤU TIẾP TỤC
I.
Đầu tháng 6.1954, vấn đề Việt Nam tại Hội Nghị Genève, giải pháp chia đôi đất nước đă hầu thành sự thực, một sự thực quá phũ phàng.
Tiếp tục sứ mạng đấu tranh, cán bộ đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng do Đào Văn Viễn lănh đạo, tạo cơ hội tiếp xúc với anh em binh sĩ Việt Nam, nhất là những đồng chí trong quân đội Liên Hiệp Pháp. Dùng ngay khí giới của Pháp đánh ngay lại Pháp trước, chiếm lấy những vị trí then chốt, rồi diệt cộng sản sau.
Sự tổ chức nhằm vào các khu vực binh sĩ Việt Nam tập trung ở các tỉnh lớn thuộc Trung Châu Bắc Việt, được anh em binh sĩ rất tán thành, v́ họ đều lo lắng đến số phận phải rời bỏ quê hương, bỏ phần mộ tổ tiên, ra đi không hẹn ngày về! Cương quyết không chịu sống chung với bọn cộng sản phi nhân vô đạo.
Công tác chuẩn bị ráo riết ṛng ră suốt mấy tháng trời, không ngờ việc ấy Pḥng Nh́ Pháp khám phá ra được. Các tướng lănh Pháp một mặt truy nă những người chủ mưu (Cán Bộ Đoàn), một mặt thu hồi hết số vũ khí cùng đạn dược, không cho binh sĩ Việt Nam được phép giữ như trước.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, khi nghe tin đài phát thanh loan tin cộng sản và thực dân đă chính thức kư hiệp định chia đôi đất nước, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới hai miền, nhân dân Bắc Việt vô cùng xúc động xôn xao. Đă đành là phải ra đi, nhưng tiền của đâu mà đi, nhà đất bán rẻ mạt không có người mua! Đó là những người ở đô thị, trái lại những đồng bào ở thôn quê, cộng sản t́m đủ mọi cách không cho phép rời khỏi làng, c̣n nói chi đến vấn đề bán nhà đất và vật dụng, năo ḷng biết bao! Mỗi khi đi qua Phố Hàm Long, Phố Nhà Thương Đau Mắt, Phố Halais, nào sạp gụ, tủ chè, bàn ghế, giường nằm, tủ áo, đỉnh đồng, đèn đồng, bát đĩa cổ đến sách báo quư giá…nghĩa là thượng vàng đến hạ cám, đồng bào bày ra bán với giá rẻ mạt, đồng bào mệnh danh là ‘’chợ trời’’. Cố thu xếp lấy chút tiền để bồng bế nhau di cư vào miền Nam tự do.
Thực t́nh mà nói, nếu không có sự ngăn chặn của cộng sản, con số đồng bào di cư vào miền Nam này có thể lên tới hàng 2-3 triệu người.
Trong khi ấy đảng phái Quốc Gia tập hợp thành ‘’Mặt Trận Chống Cộng’’, cương quyết ở lại chiến đấu giữ Cố Đô Thăng Long. Truyền đơn được rải khắp các tỉnh lớn tại Trung Châu Bắc Việt, kế tiếp những cuộc mít-tinh vĩ đại biến thành cuộc biểu t́nh tuần hành thị uy được tổ chức tại Hà Nội, Huế…
Nhà đương cuộc Pháp tại Bắc Việt rất bối rối lo sợ các đảng phái Quốc Gia có thể bạo động đánh chiếm Thủ Đô Hà Nội, rồi tiếp tục đánh cộng sản. Hiệp Định Genève sẽ trở nên vô giá trị, sẽ làm cho Pháp phải bối rối về trách nhiệm.
C̣n cộng sản họ lo sợ nhất là phe Quốc Gia cương quyết chống đối không chịu rời khỏi Hà Nội, phản đối Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, như vậy danh nghĩa sẽ thuộc về phe Quốc Gia, cuộc chiến tranh sẽ kéo dài rất có thể các cường quốc trong khối tự do sẽ giúp đỡ họ. Cho nên đại diện cộng sản Hà Nội tại hội nghị Trung Giá là Thiếu Tướng Văn tiến Dũng phản kháng kịch liệt về hành động của phe Quốc Gia ở Hà Nội.
II.
Tại Hà Nội lúc bấy giờ, phong trào di cư cũng đột khởi, người Pháp thừa cơ bắt chẹt về phương diện chuyển vận, để yêu sách chính phủ Quốc Gia thi hành Hiệp Định Genève được êm ả, mặt khác, Pháp và cộng sản định dùng mưu ám hại những người chủ chiến phá Hiệp Định Genève…
Trong khi ấy Đỗ Đ́nh Đạo mưu củng cố lực lượng vơ trang Đoàn Quân Thứ Lưu Động, và liên lạc kết hợp với các bộ phận quân sự Địa Phương Quân, với mục đích chiếm một chiến khu, rồi mở một mặt trận lưu động, tổ chức một cuộc hành quân bằng đường bộ, kéo cờ Việt Nam Quốc Dân Đảng tiến sâu vào khu vực cộng sản qua Nam Định, Ninh B́nh, Thanh Hóa thẳng tới Trung Việt.
Tiến tới đâu sẽ giúp các cơ sở ṇng cốt tại các địa phương di chuyển vào miền Nam đề cao thanh thế, uy tín của Đảng, đả phá mưu mô ngăn chặn không cho đồng bào di cư vào miền Nam của cộng sản. Đồng thời kêu gọi đồng bào di cư, giúp đỡ phương tiện cho họ đi thoát, tạo thành một lực lượng di cư khổng lồ, giúp phương tiện cho các chính khách Quốc Gia và lập trường đấu tranh trên trường Quốc Tế.
Sau khi kế hoạch được quyết định, Đỗ Đ́nh Đạo xuất tiền mua thêm vơ khí, dự trữ lương thực, v.v…tất cả đă đầy đủ. Kế hoạch đương tiến hành do một số cán bộ đồng chí của ông phụ trách, một trường hợp xảy ra không ai ngờ! Đỗ Đ́nh Đạo bị Thụy An phản bội, tiếp tay với thực dân Pháp, và cộng sản đầu độc Đỗ Đ́nh Đạo.
Ngoài vấn đề chính trị mà Thụy An làm tay sai cho thực dân và cộng sản đầu độc Đỗ Đ́nh Đạo, c̣n một lư do khác, Nguyễn Thụy An vốn là nhân t́nh của Đỗ Đ́nh Đạo. Năm 1953, Thụy An từ Sài G̣n ra Hà Nội, vận động với Pháp và Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí mời Đỗ Đ́nh Đạo ra làm Giám Đốc ‘’Đoàn Quân Thứ Lưu Động’’.
Để giữ độc quyền t́nh yêu, Thụy An khuyên Đạo không nên đem vợ con ra Hà Nội, nhưng cũng không v́ thế mà Đạo và Thụy An xa nhau.
Năm 1954, Điện Biên Phủ thất thủ, gia đ́nh Đỗ Đ́nh Đạo di chuyển vào Sài G̣n. Thụy An khuyên Đạo ở lại Hà Nội, với mục đích là được ăn ở độc quyền với Đạo, được Vơ nguyên Giáp đă hứa với Thụy An để cho Đạo được tự do và cho tham chính. Nhưng Đỗ Đ́nh Đạo cương quyết không nghe, nhất định tiến vào miền Nam theo kế hoạch đă trù liệu.
Thấy khuyên Đỗ Đ́nh Đạo không được, Thụy An vờ đổi ư cho hành động của Đạo là phải, và ngấm ngầm liên lạc với Pháp và cộng sản ám sát Đỗ Đ́nh Đạo. Sở dĩ Thụy An được biết rơ mọi việc mưu tính của Đạo là mỗi khi Đạo mở cuộc họp bàn với mấy đồng chí thân tín đều có mặt Thụy An tham dự.
Thụy An ám sát Đỗ Đ́nh Đạo bằng cách nào ? Ngày 29 tháng 7 năm 1954, Thụy An hẹn Đỗ Đ́nh Đạo xuống nhà ḿnh ăn cơm ở số 1 Đường Tuyên Quang, trước khi ngồi vào bàn ăn, hai người không biết đă bàn căi những ǵ với nhau, nhưng có vẻ gay go lắm. Một hồi sau lại vui vẻ ngồi vào bàn ăn. Thụy An rót cho Đạo một ly rượu chát đỏ, Đạo tiếp lấy ngồi uống, nhưng không ăn. Uống hết ly rượu, Đạo kêu mệt buồn ngủ. Thụy An sai người tớ gái dọn đi-văng (divan) để Đạo nằm nghỉ.
Sau khi ăn xong, Thụy An gọi người tớ gái tính trả tiền công rồi cho nghỉ việc luôn. Thụy An nói là sáng sớm mai sẽ đi Sài G̣n.
Đỗ Đ́nh Đạo kêu mệt và buồn ngủ phải đi nằm, v́ đă uống một ly rượu chát đỏ có liều thuốc mê rất mạnh, sau đó kẻ mưu sát dùng độc dược chích vào mạch máu Đạo và độc dược này phải là một thứ rất mạnh khiến cho Đỗ Đ́nh Đạo (1) không kịp nhận thấy ǵ trước khi chết.
Một cuộc ám sát có tổ chức và sự hành động không cần đông người mà cũng vẫn thi hành một cách dễ dàng được!
Không c̣n cách ǵ khác! Các đồng chí cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng, một mặt lo sắp đặt cơ sở vững chắc ở vùng địch hậu, để xách động phong trào nhân dân chống cộng ngay trong vùng cộng sản kiểm soát, một mặt tuyên truyền khuyến khích đồng chí cũng như đồng bào, những người có thể t́m cơ hội trốn thoát công an mật vụ di cư vào miền Nam này.
Tóm lại, năm 1954, Việt Nam Quốc Dân Đảng lại thất bại v́ bất lực để một nửa giang san cẩm tú lọt vào tay cộng sản, phải rời bỏ cơ sở, nền tảng vững chắc của Đảng ở Bắc Việt trong công cuộc chống cộng.
Tuy thất bại tạm thời, nhưng đó cũng là những đau thương lớn lao cho Việt Nam Quốc Dân Đảng vậy.
Mọi biến chuyển từ sau ngày Hiệp Định Genève 1954, xin đón đọc ở cuốn hai sẽ xuất bản tiếp cùng một tác giả.
Chú Thích:
1.- Đỗ Đ́nh Đạo sinh ngày 17.7.1911 tại Hà Nội, là con ông Đỗ Đ́nh Tiến và là cháu Nội của cụ Đô Thống Đỗ Đ́nh Thuật.
Năm 1936, Đỗ Đ́nh Đạo là một đoàn viên của ‘’Ánh Sáng’’ và do đó Đỗ Đ́nh Đạo gần gũi với Nhất Linh Nguyễn Trường Tam, rồi gia nhập Đại Việt Dân Chính Đảng do Nguyễn Trường Tam sáng lập.
Năm 1944, ‘’Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh’’ xuất hiện. Đỗ Đ́nh Đạo thường xuyên tiếp xúc với Lê Khang, Nguyễn Vĩnh và tự ư xin gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng.
THIÊN PHỤ
Chương I: THÂN THẾ NGUYỄN THÁI HỌC
‘’Cuộc Đời -Cuộc T́nh và cuộc cách mạng
của Đảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học’’.
Chương II: THI VĂN CA KỊCH CỦA CÁC NHÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
Mấy Lời Kư Thác của nhà cách mạng Phan Sào Nam
Khóc Nguyễn Thái Học (Nhượng Tống)
Bất Di Thi (Lam Giang)
Tưởng Niệm Nguyễn Thái Học (Nguyễn Phan An)
Hoài Niệm Anh Linh Nhượng Tống (Nguyễn Phan An)
Thay lời vợ Tặng Quạt Cho Chồng Trong Ngục Thất, 1929 (Nguyễn Văn Phác)
Hát Nói (Làm tại Hỏa Ḷ, Hà Nội, 1929 – Phạm Tuấn Tài)
Sà-lim Oán (Sà-lim Hà Nội năm 1929-Thẩm Chi tức Cả Vấn )
Văn Tế Các Tiên Liệt Việt Nam Quốc Dân Đảng (Phan Bội Châu trước tác, Sinh viên Huế truy điệu)
Văn Tế Đồng Bào Làng Cổ Am và Những Làng Khác Bị Thực Dân Khủng Bố Tàn Sát 1930 (Phan Bội Châu)
Lễ Truy Điệu Các Chiến Sĩ Yên Bái (Kiều bào Ở Xiêm năm 1931)
LỜI THỀ Ở ĐỀN HÙNG (Bi Kịch Của Phan Ảo Giản)
CHƯƠNG I:
THÂN THẾ NGUYỄN THÁI HỌC
‘’Cuộc Đời-Cuộc T́nh và cuộc cách mạng
của Đảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học’’.nguyenthaihoc
ĐỜI HỌC SINH
Nguyễn Thái Học sinh năm Quư Măo (1902) tại làng Thổ Tang, Tổng Lương Điền, Phủ Vĩnh Tường, Tỉnh Vĩnh Yên. Nhưng theo học bạ nhà trường th́ Nguyễn Thái Học sinh ngày mồng 1 tháng 12 năm 1904. Sở dĩ có chuyện chênh lệch tuổi ấy là v́ giấy khai sinh phải khai rút bớt tuổi đi, để xin vào học trường công cho hợp lệ.
Thân phụ của Nguyễn Thái Học là Cụ Nguyễn Văn Hách, một nông dân chất phát hiền hậu, một nhà Nho, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Quỳnh hiệu Diệu Tế, tính t́nh khẳng khái cương trực, việc tề gia nội trợ rất mực thao lược đảm đang. Gia tài của gia đ́nh Nguyễn Thái Học gồm có 3 mẫu ruộng, một con trâu cày và 3 gian nhà gạch, 5 gian nhà tre. Ngoài những ngày giờ làm ruộng, vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học c̣n phụ thêm nghề dệt vải và buôn vải, lụa về bán ngay tại chợ làng Thổ Tang.
Nguyễn Thái Học có một người em gái là chị Nguyễn Thị Hiền và 3 người em trai: Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm và Nguyễn Văn Nỉ.
Năm 1906, Nguyễn Thái Học được thân phụ đưa đến thụ giáo Hán Văn tại nhà một Cụ Tú Tài người đồng hương.
Năm 1913, Trường Tiểu Học Pháp-Việt được thiết lập tại Phủ Vĩnh Tường. Nguyễn Thái Học xếp bút lông cầm bút sắt. Học hết lớp nh́, Nguyễn Thái Học vào học lớp nhất tại Trường Tiểu Học Pháp-Việt, Việt Tŕ.
Năm 1921, Trường Nam Sư Phạm chính thức tuyển thêm 45 học sinh năm thứ nhất, nhân dịp vừa mới khánh thành tại Phố Đỗ Hữu Vị gần cửa Bắc.
Trong số 45 học sinh mới trúng tuyển có Nguyễn Thái Học. V́ mới tổ chức nên nhà trường chỉ có thể cho một nửa số học sinh chừng hơn 100 người được lưu trú tại trường, c̣n một nửa ở ngoài được lĩnh mỗi tháng tám đồng học bổng.
Nguyễn Thái Học v́ tính thích tự do nên t́nh nguyện xin ở ngoài, trong khi học sinh tranh nhau ở trong trường để sự học được thuận tiện và mau tấn tới. Nguyễn Thái Học rủ mấy bạn đồng lớp đến ở trọ tại hai nơi gần trường: Một ở ngay Phố Đỗ Hữu Vị và một ở Phố Hàng Bún (Bourrin) cũng gần đấy. Cùng ở trọ với Nguyễn Thái Học c̣n có một nhà giáo trẻ tuổi theo học Trường Cao Đẳng Sư Phạm là Hồ Văn Mịch.
Học được ít lâu th́ xảy ra một việc khiến cho một số học sinh có đầu óc phải bực tức mà nẩy nở ra ư tưởng cách mạng. Nguyên có một tên Thược, một cựu thông ngôn lính chào mào ở Pháp về, được bổ vào làm giám thị. Thược có những cử chỉ, ngôn ngữ rất lố lăng, khả ố và một thái độ thân Pháp, khinh đồng bào, khiến cho nhiều người phải lộn tiết. Thược không nói tiếng Việt, khi cần nói với những người làm công ở trong trường, y dùng một thứ tiếng Việt pha giọng Tây, nghe rất đỗi chướng tai.
Học sinh ai cũng ghét Thược, nhiều người t́m hết cách cay độc để chế riễu, nhưng y vẫn cứ mặt rắn như sành không lay chuyển chút nào! Kỳ thực th́ Thược biết lắm và căm thù những anh em học sinh tinh quái nhất, trong số có Nguyễn Thái Học. Thược rắp tâm làm hại cho kỳ được, y biết được tên Kinh là con một tên mật thám, y ngầm mua chuộc được Kinh và dùng làm chỉ điểm riêng cho y. Nhân có chuyện một học sinh bị Thược nhốt ở trên lầu 3 là nơi pḥng ngủ (dortoire). Học sinh này cáu kỉnh la ó chửi rủa ầm ĩ, khiến Thược phải cho người lên mở cửa. Khi xuống, anh học sinh này lại xông thẳng tới Thược định hành hung. Thược liền sang nhà riêng viên giám đốc, vu cáo học sinh này đă lăng mạ người Pháp và những câu bài Pháp. Viên Giám Đốc lập tức ra lệnh đuổi anh học sinh về một cách oan ức và bắt luôn một số học sinh khác hàng ngày vẫn tỏ ư ghét Thược để điều tra và t́nh nghi có tổ chức bí mật bài Pháp. Nhiều người bị đuổi oan, và trong trường bỗng phát sinh một luồng không khí ngờ vực rất khó thở. Nhất là sau khi có lệnh cấm học sinh không được phép túm năm tụm ba bàn chuyện. Sự kiện trên đă có ảnh hưởng khá sâu xa vào tâm hồn cách mạng của Nguyễn Thái Học.
Tâm hồn đó càng bị kích động hơn do thái độ kém giáo dục của mấy mụ đầm dạy học, như mụ Sandré mà học sinh đă đặt một biệt hiệu là ‘’đầm sâu róm’’, v́ tính nết cục cằn hay gắt, hay quát tháo ầm ĩ của mụ. Một phía khác, tâm hồn đó cũng lại bị khích động do những thái độ dơ dáng của bọn phụ nữ buôn son bán phấn ở khu phố anh ở, ḥa với những hành động hung hăn của bọn lính Tây ức hiếp đồng bào để làm tṛ cười cho chúng.
Do đó, Nguyễn Thái Học tỏ ư chán việc học mà anh thường kêu là ‘’học mướn’’. Anh không chịu học sử nước Pháp, nhưng đến khi học tới lịch sử cách mạng Pháp th́ anh lại rất thích thú, rất ham đọc và c̣n khảo cứu thêm.
Cứ mỗi lần mụ ‘’đầm sâu róm’’ dạy ám tả vào buổi sáng là y như mụ mở túi lấy mẩu bánh ḿ, miếng phó-mát và trái chuối tiêu ra, vừa đọc vừa ngồm ngoàm ngốn, v́ thế cho nên không mấy người nghe được hết câu, lẽ dĩ nhiên là ai nấy bỏ lỗi rất nhiều.
Mỗi lần như thế, anh Học lại tỏ vẻ giận dữ, nhưng không biết làm thế nào cho mụ bỏ cách dạy học đó đi, thỉnh thoảng anh chỉ dằn mạnh bút xuống bàn hay ngáp thật lớn. Mụ Sandré biết vậy, nhưng cũng cứ bỏ qua. Một hôm anh Học nghĩ được một kế để chọc giận mụ, anh không viết nhưng lại nhắm mụ để họa h́nh mụ đang ngồm ngoàm ăn. Thấy vậy mụ to tiếng gọi:
- Anh Học, anh ngồi gần cửa sổ kia, anh hăy nhắc lại câu tôi vừa đọc.
Lẽ dĩ nhiên là anh Học không đọc được, anh c̣n đương lúng túng định lấy vở của bạn bên cạnh để đọc, th́ mụ lại quát:
- Mang vở của anh lên xem nào.
Anh Học không ngần ngại mang vở lên. Mụ cầm vở quát om ṣm:
- Cái ǵ thế này! Rồi mụ cầm vở của anh Học giơ cao lên cho học tṛ xem. Cả lớp cười ồ. Anh Học vẫn điềm nhiên. Mụ quay lại hỏi:
- Anh bao nhiêu tuổi mà coi người lớn thế! Nom không có vẻ học sinh tư nào!
Anh Học trả lời thong thả từng tiếng:
- Tôi 45 tuổi.
Mọi người cùng cười vang. Mụ cáu kỉnh lại quát:
- À thằng này láo! Mày lại nhạo tao phải? Ai đời 45 tuổi mà đi học trường Sư phạm bao giờ không ?
Thấy anh Học vẫn trân trân đứng. Mụ càng bực ḿnh:
- Anh sinh năm nào ?
- Tôi sinh năm Bính Th́n.
Mọi người lại cười ồ. Mụ cáu:
- Bính Th́n, Bính Th́n là cái ǵ ?
Anh Học vẫn đứng tự nhiên. Mụ kéo ghế đứng dậy chỉ vào mặt anh nói với mọi người:
- Ḱa coi nó ḱa, thật là nhà quê! Rồi quay lại hỏi anh Học:
- Mày quê ở làng nào ?
- Tôi quê ở làng ‘’â…h…’’. Anh Học trả lời hết sức b́nh tĩnh.
Mọi người lại ph́ lên cười. Tuy mụ đầm không hiểu ra sao, nhưng thấy mọi người cười dữ quá, biết chắc câu trả lời có ư hỗn xược, mụ xầm xầm bước xuống bục tiến lại nắm lấy tay anh Học, nói:
- À thằng này láo, xuống pḥng ông Giám Đốc ngay với tao.
Anh Học ung dung đáp:
- Vậy tôi xin đi trước.
Vừa ra khỏi lớp, không hiểu nghĩ thế nào, mụ đầm lại lôi tay anh Học trở vào lớp, đẩy anh ngồi vào chỗ, rồi lại tiếp tục đọc ám tả, như không có chuyện ǵ xảy ra, nhưng mụ không c̣n ngồm ngoàm nữa! Nhặt mẩu bánh ḿ, miếng phó-mát ăn chưa hết quẳng qua cửa sổ.
Đến cuối năm thứ 3, Nguyễn Thái Học từ giă Trường Sư Phạm về nằm ở nhà, bị chính phủ Bảo Hộ đ̣i lại khoản trợ cấp học bổng 3 năm.
Nằm nhà đọc sách, đến kỳ thi Đíp-lôm, Nguyễn Thái Học cũng nộp đơn ứng thí. Ngay buổi đầu thi ám tả, anh đă gặp phải viên Giám Khảo người Pháp hóc búa, không có cảm t́nh với học sinh bản xứ là Thomas, đă đọc ám tả cho thí sinh mà Thomas chỉ đọc mỗi câu một lượt không nhắc lại. Cả pḥng đều thất vọng, thí sinh nào cũng bỏ từng quăng.
Được gần nửa bài, Thomas thấy một thí sinh lớn tuổi mặc áo the thâm, tay xách mũ trắng, tay cuốn giấy thi vùng vằng tiến ra cửa.
Thomas quát hỏi:
- Ê! Anh kia đi đâu thế ?
- Tôi đi ra, v́ không thể thi cử như thế này được, Nguyễn Thái Học trả lời.
Thomas lại tṛn mắt hỏi dữ dội:
- Tại sao ?
- Ông đọc nhanh quá, mà lại đọc có một lượt, tôi không theo kịp, tôi xin bỏ cuộc.
- Sao người khác viết được ?
- Xin ông thử nh́n xem, có bao nhiêu viết kịp ?
Thấy anh Học đối đáp bướng bỉnh. Thomas bước xuống túm vai anh Học xoay một ṿng, đẩy anh về chỗ. Vừa quay lưng lên bục, đă lại thấy anh Học theo sau, và lăm le ra cửa pḥng thi ra ngoài. Thomas lại quát:
- À! Anh này định làm ǵ thế này ? Anh muốn tôi cho gọi cảnh binh dẫn anh vào nhà giam không ?
Anh Học điềm tĩnh trả lời:
- Vậy tôi cứ xin ông cho tôi ra ngoài, tôi bỏ cuộc thi và nếu ông không đi gọi Cảnh Binh, chính tôi cũng xin đi gọi hầu ông ngay bây giờ.
Thomas giận đến tái mặt không biết nói thế nào, lại thấy anh Học nét mặt gân guốc quả quyết, khó ḷng bắt nạt nổi. Y sợ lại xảy ra chuyện tương tự như việc đă xảy ra cho y ở Trường Chasseloup Laubat ở trong Nam. (1)
Thomas liền dịu giọng bảo anh Học:
- Thôi được, anh cứ về chỗ, anh sẽ được toại nguyện.
Thomas bảo anh Học về ngồi chỗ cũ, rồi mở cửa ra đi. Ai cũng tưởng là Thomas sẽ đi gọi cảnh binh tới dẫn anh Học đi, hay ít ra cũng đi tŕnh ông Chủ Khảo, nhưng mọi người đều đoán sai hết. Một lát sau, Thomas cùng một vị giáo sư khác, người Việt Nam, là ông Dương Quảng Hàm vào pḥng thi. Thomas nhường chỗ cho ông Hàm đọc lại từ đầu bài ám tả. Nhờ đó mà một số lớn thí sinh đă không bị rớt oan.
Những mẩu chuyện này đă biểu lộ một tinh thần tranh đấu bất khuất, gặp sức đè nén nào cũng t́m cách phản ứng kịch liệt và nhanh chóng không tính toán đến hậu quả.
Dĩ nhiên là Nguyễn Thái Học không trúng tuyển kỳ thi ấy, lại nhân có kỳ thi tuyển thừa phái, các bạn học khuyên anh nên ứng thí, anh Học đă trúng tuyển, nhưng đến khi có nghị định bổ đi nhậm chức, anh Học đă bỏ không đi, mà lại xin vào học tại Trường Cao Đẳng Thương Mại.
Trong cuốn ‘’Mesures Politiques en L’Indochine’’, Marty, Giám Đốc Mật Thám Đông Dương đă viết: ‘’Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh hay căi nhau với thầy giáo’’.
ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyễn Thái Học vóc người tầm thước đậm đà, cao 1 mét 65, mặt vuông trán rộng, miệng rộng môi dầy, râu quai nón, hai tai to và dài. Đặc biệt là răng vổ, nhưng cười tươi và có duyên. Tính t́nh hồn nhiên phóng khoáng, thẳng thắn cương quyết và có một đức tự tin lạ lùng.
Cuộc đời sống của Nguyễn Thái Học thực rất xuềnh xoàng, giản dị, từ y phục đến giày dép không hề chải chuốt. Ngoài thú hút thuốc lào và thỉnh thoảng nhai trầu, không thích một thứ ǵ khác! Nguyễn Thái Học rất b́nh dị, miễn là ăn để sống, món ăn thích thú nhất của ông là món ‘’Phở Ḅ’’, suốt đời không ham muốn cao sang. Về tiền tài: Mỗi khi trong túi có tiền là dốc hết tiêu chung với anh em, khi cạn túi cũng hỏi ở anh em lấy một cách tự nhiên không ngại ngùng e lệ. Giấc ngủ đối với Nguyễn Thái Học thực rất là quan trọng, khi buồn ngủ, mặc dầu gặp việc khó khăn đến đâu cũng phải ngủ, dẫu rằng chỉ một giấc ngắn độ 15 phút, ngáy thật to. Khi tỉnh dậy, giải quyết mọi việc rất sáng suốt và chu đáo. Khi ngủ thường hay nằm sấp, hai chân quắp lên trên mông.
Tuy đă ra đời lâu năm, Nguyễn Thái Học c̣n giữ thổ âm của làng ḿnh, là dùng lộn hai chữ L với N. C̣n một tính đặc biệt, là mỗi khi đương tập trung tư tưởng suy nghĩ một vấn đề ǵ, th́ mặc dầu những người ngồi ngay trước mặt nói chuyện hoặc hỏi han điều ǵ cũng không hề để ư.
Nguyễn Thái Học có một người vợ ở quê nhà là Nguyễn Thị Cửu do sự đính ước của đôi bên cha mẹ khi Nguyễn Thái Học c̣n thơ ấu. Tuy chị Cửu đă về làm dâu nhà họ Nguyễn lâu năm, nhưng cặp vợ chồng ấy không bao giờ lại chung sống với nhau. Đến khi Nguyễn Thái Học dấn thân vào cuộc đời cách mạng, Thái Học gửi thư về thăm cha mẹ, tạ tội bất hiếu không năng về thăm. Cuối cùng xin phép cha mẹ cho chị Nguyễn Thị Cửu được tự do đi lấy chồng.
Nguyễn Thái Học (Tranh chân dung, các cơ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng dùng trong những lúc sinh hoạt hoặc tưởng niệm)
Nguyễn Thái Học
(Tranh chân dung, các cơ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng dùng trong những lúc sinh hoạt hoặc tưởng niệm)
ĐỜI CÁCH MẠNG
Về hoạt động cách mạng lúc ban đầu của Nguyễn Thái Học. Tác giả đă tŕnh bày đầy đủ ở Chương I, Thiên Thứ Nhất, dưới Mục đề ‘’Thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng’’. Nay nhắc lại, thiết tưởng là quá thừa! Vậy xin tŕnh bày tiếp từ sau ngày Nam Đồng Thư Xă đóng cửa, Nhà Giáo Phạm Tuấn Tài phải đổi lên Trường Tiểu Học Pháp-Việt, Tuyên Quang vào giữa năm 1927. Nguyễn Thái Học cùng Hồ Văn Mịch dọn đến ở luôn trụ sở Nam Đồng Thư Xă với Nhượng Tống. Họ đă trở nên những người bạn cùng ăn hết nhịn với nhau.
Từ sau ngày Việt Nam Quốc Dân Đảng chính thức thành lập, căn lầu 1 Nam Đồng Thư Xă trở nên trụ sở thường trực của Tổng Bộ. Lớp nhà dưới là gia đ́nh bà Cổ, làm nghề bán xôi, cháo rong, và luôn nấu cơm tháng cho Nguyễn Thái Học và các đồng chí của họ Nguyễn ăn.
Căn lầu của Nguyễn Thái Học ở, bề dài không quá 9 mét, bề ngang 3 mét rưỡi, vỏn vẹn chỉ có một bộ ghế ngựa gỗ tạp, 1 chiếc bàn và 4 chiếc ghế cũng bằng gỗ tạp, vừa dùng làm bàn viết lẫn bàn ăn. Góc này vài chiếc chiếu vất ngổn ngang, góc kia mấy chiếc va-ly bẹp với một mớ quần áo thay, mà thợ giặt chưa kịp đến lấy.
Mỗi khi các đồng chí từ bốn phương tới thủ đô đều t́m đến từng lầu số 6 này. Trước khi thổi cơm, bà Cổ ở dưới nhà thường sai cô con gái nhỏ của bà trạc 13-14 tuổi, tḥ đầu lên thang gác hỏi bữa nay có mấy người ăn ?
Cơm bưng lên, anh em cứ việc ăn, cơm b́nh dân, mỗi người mỗi bữa có 5 xu. Bà Cổ cứ việc ghi vào sổ, cuối tháng sẽ tính với ông Học sau. Chẳng mấy tháng mà bà Cổ đă nhận được đủ số tiền, nhưng bà vẫn vui vẻ bưng cơm rót nước như thường, không bao giờ có nửa lời ta thán! ‘’Bát cơm Phiếu mẫu trả ơn ngàn vàng’’. Chúng tôi nghĩ thế, nhưng chẳng bao giờ làm được! Trái lại, bà c̣n bị thực dân làm khó dễ v́ chúng tôi.
Các đồng chí, ai muốn nghỉ ngơi chốc lát hay muốn ngủ lại đêm cứ việc trải chiếu xuống căn gác mà nằm, nếu giường chật. Quần áo thay đổi lẫn lộn, bộ nào vừa ai nấy mặc, không cần biết là của ai! Đồng chí nào nếu túi sẵn tiền th́ bỏ ra khao nhau chầu phở hay bún chả, nếu gặp khi anh em túi rỗng, th́ cứ việc gọi xôi, cháo của bà Cổ, rồi biên vào sổ tính toán sau.
Nguyễn Thái Học luôn luôn khuyên nhủ đồng chí: ‘’Chúng ta phải gạt bỏ hết những tính ích kỷ và tự ái, tự kiêu, th́ chúng ta mới trở thành người cách mạng được!’’
Muốn biết rơ Nguyễn Thái Học không ǵ hơn là nghe lời b́nh phẩm của Hồ Văn Mịch. (2)
Thực quả vậy, sau ngày Đảng bị bại lộ, Nguyễn Thái Học trốn thoát. Một hôm có cuộc họp được triệu tập tại làng Dương Quang thuộc Phủ Thuận Thành, Tỉnh Bắc Ninh. Các đồng chí đă tiếp tục đến địa điểm họp từ chiều hôm trước. Thám tử được tin mật báo với Pháp, đêm ấy Giám Binh Bắc Ninh đem lính Khố Xanh bí mật đến mai phục xung quanh làng Dương Quang.
Nguyễn Thái Học không hề được biết sự bao vây ấy. Sáng sớm ngày hôm sau, khăn đống áo the, tay ôm cặp, tay xách ô, ung dung tiến đến làng Dương Quang. Th́nh ĺnh gặp lính xét hỏi, Thái Học thản nhiên trả lời là nho sĩ ở huyện được phái về lập biên bản. Từ dáng điệu đến cử chỉ thực giống hệt như nho sĩ ở huyện. Lính Khố Xanh không chút nghi ngờ, để Nguyễn Thái Học tự do ra đi. Nguyễn Thái Học ung dung tiến vào làng, rồi t́m đường tắt rút ra khỏi ṿng vây. Trái lại, Phạm Văn Hể đến từ chiều hôm trước, gần sáng thấy động, hoảng hốt chạy ra khỏi làng, bị lính t́nh nghi giữ lại, đem về giam tại Bắc Ninh, măi ít lâu sau mới được thả.
Lại một lần khác, vào cuối tháng 11 năm 1929, tại làng Quỳnh Khê thuộc Huyện Kim Thành, Tỉnh Hải Dương, một cuộc họp được tổ chức tại nhà một đồng chí là Phó Tổng Vịnh. Có mật báo, tri huyện sở tại là Nguyễn Ngọc Liễn đem lính cơ về vây làng Quỳnh Khê từ hồi 4 giờ sáng, đợi đến 6 giờ vào khám xét nhà Phó Tổng Vịnh.
Nguyễn Thái Học đương ngủ ngáy như sấm, đồng chí vào lay ông báo động, lay đến 2-3 lần ông mới tỉnh dậy, điềm nhiên đi xuống nhà tá điền ngủ, trút bỏ hết quần áo lại, lấy bộ quần áo của thợ cầy mặc vào, rồi đội nón lá vác vồ tiến ra phía ruộng sau nhà Phó Tổng Vịnh cùng đập đất với sáu nông phu.
Đúng 6 giờ, Tri huyện Liễn dẫn lính vào khám xét nhà Phó Tổng Vịnh, không thấy ǵ kéo nhau ra về.
Một hôm Nguyễn Thái Học phải đích thân xuống Hải Pḥng để chủ tọa một phiên họp quan trọng.
Ông bắt đầu đáp xe lửa từ Ga Lạc Đạo vào hồi 4 giờ 20 phút sáng. Y phục vận theo đúng kiểu các người dân quê Đ́nh Dù mỗi khi ra tỉnh: Quần màu cháo ḷng, áo the thâm và khăn đóng, vai vác cây dù, nách kẹp đôi dép.
Đă đặc biệt chú ư từ trước, khi lên xe Nguyễn Thái Học đă lựa chỗ ngồi vào chiếc ghế góc toa hạng ba, nơi ánh đèn bớt sáng.
Không ngờ khi xe lửa sắp chạy, th́nh ĺnh có hai tên thám tử một Việt và một Pháp lại dẫn một người bị c̣ng tay lên ngồi đối diện anh. Thoáng nh́n, Nguyễn Thái Học đă nhận ngay ra người bị c̣ng tay là một đồng chí, anh Lư Hai Kim ở Chi Bộ Nam Quách (Hải Dương).
Một Chi Bộ đă bị vỡ lỡ, và lo ngại Hai Kim nhận ra anh, lỡ phát xuất một cử chỉ nào sơ hở, khiến anh bị lộ h́nh tích th́ nguy to. Nguyễn Thái Học định xuống xe để đi chuyến sau, nhưng xe lửa đă bắt đầu chuyển bánh nhanh rồi! Muốn lánh mặt qua ngồi toa xe khác, th́ phải qua mặt hai tên thám tử, mà chúng thường chăm chú nh́n theo, thật là tiến thoái lưỡng nan! Nguyễn Thái Học đành kéo vạt áo the che mặt giả vờ ngủ.
Về phần Lư Hai Kim, anh cũng nhận ra được Nguyễn Thái Học, ngước nh́n Học tỏ vẻ hiểu ư.
Để xe lửa chạy một hồi lâu, Nguyễn Thái Học đứng dậy, dằn giọng nói với bà già kế bên, cố ư để cho hai tên thám tử và anh Hai Kim nghe được:
- Bà coi giùm tôi chiếc dù và chiếc va-ly này, tôi đi tiểu một chút.
Rồi anh thản nhiên đi thẳng về phía cầu tiêu, mặc cái nh́n cḥng chọc soi mói của tên thám tử Pháp lai.
Thừa khi xe lửa từ từ tiến tới ga Vật Cách, Nguyễn Thái Học vội trút bỏ chiếc áo dài the thâm, rồi mở cửa cầu tiêu nhảy xuống đường kêu xe kéo thuê đi Hải Pḥng.
Khi người phu xe tới gần cầu Hạ Lư, nhận xét t́nh h́nh, thấy t́nh h́nh không thể qua cầu đàng hoàng được v́ thấy lính gác cầu rất đông, Nguyễn Thái Học liền tỏ vẻ thân thiện điều đ́nh với người phu xe cho anh thuê lại chiếc xe cùng bộ quần áo với giá 35 đồng bạc, gồm cả tiền bảo đảm chiếc xe khi không may bị mất.
Nguyễn Thái Học lẳng lặng kéo chiếc xe không trên cầu từ phía Hạ Lư sang.
- Anh kia, sao không đi vào lề mà lại nghênh ngang giữa đường, muốn xe lửa cán chết phải không? Người cảnh binh gác cầu quát to.
Anh kéo xe gần tới lề đường, cách đấy vài chục thước, một tên thám tử mặc thường phục, vẫy Nguyễn Thái Học lại.
- Có giấy tờ ǵ không? Lại đây coi!
- Chào xếp, xếp có về, tôi kéo về, tôi vẫn kéo xếp đến sở làm đấy mà! Nguyễn Thái Học đáp.
Lời chào lễ phép, bất ngờ làm tên thám tử ngạc nhiên, đang phân vân tự hỏi, có lẽ đây chính là anh phu xe quen.
Giữa khi ấy từ phía bên kia cầu, một chiếc xe hơi mui trần trong đó có mấy người Pháp đang bon bon đổ dốc.
- Ô-tô ḱa! Dẹp vào bên mà đi đi! Tên thám tử ra lệnh.
Dưới chân cầu Hạ Lư về phía Hải Pḥng, một quán nước chè có một thanh niên và một thiếu nữ ăn vận lối quê ngồi đợi Nguyễn Thái Học từ lâu, ấy là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Thị Giang.
Đến trước quán nước, người phu xe ngừng lại, nói với thanh niên trong quán: ‘’Mời ông đi xe’’
Nguyễn Văn Chấn đứng dậy, ung dung bước lên xe và nói to:
- Về đường phố Các Cụt.
Về tới nơi an toàn, anh em đều vui cười và nói:
- Hăy giữ lấy bộ quần áo phu xe kia, để sau này giao cho Viện Bảo Tàng.
Thế rồi không bao lâu cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Bỗng có tin Nguyễn Thái Học bị bắt ở Ấp Cổ Vịt đưa về giam tại ngục thất Hỏa Ḷ, Hà Nội. Và dưới đây là một vài giai thoại về Nguyễn Thái Học:
Giới phụ nữ Pháp ở Hà Nội yêu cầu Arnoux, Giám Đốc Sở Mật Thám Bắc Việt, cho họ được đi coi mặt mũi lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng mà từ ngày Tổng Khởi Nghĩa họ vẫn lo sợ cho số phận của họ không biết sẽ ra sao ?
Arnoux vốn muốn trưng với phái đẹp, và cũng muốn nhân dịp khoe công, nên y nhận lời cho họ đi coi mặt Nguyễn Thái Học. Arnoux thân dẫn vào ngục thất Hỏa Ḷ một đoàn hàng trăm phụ nữ Pháp. Cửa sà-lim mở ra, một ả đầm chừng 20 tuổi buột miệng hỏi:
- Où! Où! Où est le Général Nguyễn Thái Học ? (Ông Tướng Nguyễn Thái Học ở đâu ?)
Arnoux chặn lời ả và nói:
- Il n’est qu’un chef des brigants! (Nó chỉ là một tên tướng ăn cướp!)
Nguyễn Thái Học nghe tiếng nghiêm nhặt nói:
- Ông Arnoux, ông hăy nên có lễ độ một chút!
- Lễ độ à! Đây anh biết lễ độ!
Vừa nói, y vừa giơ cây ba-toong đánh vào mặt nhà lănh tụ cách mạng rất mạnh, trúng vào hàm răng, máu trào ra đầy miệng, làm Nguyễn Thái Học gẫy mất hai cái răng cửa.
Chân bị cùm tay bị c̣ng, Nguyễn Thái Học mỉm cười nói:
- Tao đă thấy rơ bộ mặt văn minh của nước Pháp chúng mày là thế đấy!
Than ôi! Mối hận thù đối với bè lũ thực dân Pháp biết đến ngày nào quên đi được, hỡi anh em cách mạng Quốc Gia!
Giữa lúc ấy, một mụ đầm nạ gịng đang ôm con chó lông xù sửng sốt về câu trả lời của Nguyễn Thái Học, lỡ tay làm con chó nhảy xuống đất chạy tung tăng trong dăy hành lang. Arnoux vội vàng đuổi theo bắt con chó, ôm nó lên và kính cẩn trao lại cho bà chủ nó. Đám phụ nữ nh́n Nguyễn Thái Học một lúc rồi kéo nhau ra.
Ngoài số phụ nữ Pháp và những yếu nhân trong giới thực dân Pháp, c̣n có một người Việt Nam được vào xem mặt Nguyễn Thái Học là Hoàng Trọng Phu, Tổng Đốc Tỉnh Hà Đông.
Ông quan công bộc trung thành nhất của Pháp này theo chân viên Dự Thẩm Coppin tới sà-lim giam Nguyễn Thái Học. Cửa pḥng vừa mở, chỉ vào mặt một người nằm ngửa trên sà-lim, hai chân xỏ trong lỗ cùm, hai cổ tay xích bắt tréo lại, mắt nh́n lên trần suốt ngày đêm. Coppin nói:
- Thưa Đại Nhân, tôi xin giới thiệu đây là kẻ đă làm cho cháu ruột của ngài bị giết!
Hoàng Trọng Phu như không chú ư câu nói ấy, hỏi luôn Nguyễn Thái Học rằng:
- Thầy bị bắt trong lúc c̣n súng lục, lựu đạn ở trong người, vậy tại sao thày lại không dùng vơ khí ấy mà thoát thân ?
- Chỉ v́ tôi không muốn giết mấy người phu tuần đă bắt tôi, bởi họ chỉ là những kẻ thừa hành chỉ thị của bọn quan thày Pháp. Nếu tôi gặp bọn tham quan ô lại đục khoét lương dân th́ súng và lựu đạn của tôi sẽ không từ!
Hoàng Trọng Phu mỉm cười ra về không nói câu nào nữa!
Ngày mồng 2 tháng 3, Hội Đồng Đề H́nh Bắc Việt cho phép gia quyến Nguyễn Thái Học được vào ngục thất Hỏa Ḷ thăm. Nguyễn Thái Học lạy tạ mẹ già rồi nói: ‘’Đắc trung thất hiếu, xin mẹ tha thứ cho con’’.
Nguyễn Thị Giang – thường gọi là Cô Giang
Nguyễn Thị Giang – thường gọi là Cô Giang
ĐỜI T̀NH ÁI
Từ sau vụ ám sát Bazin, Nguyễn Thái Học đeo hai cái án xử vắng mặt với trát truy nă rất gắt gao đến các hang cùng ngơ hẹp. Nguyễn Thái Học luôn luôn phải hóa trang, khi khoác áo cà sa đóng vai nhà tu hành khổ hạnh đi khuyến giáo, lúc khoác áo thương nhân đóng vai bác lái trâu, lái thuốc lào, hoặc anh nông phu vác cuốc vác vồ ra đồng làm ruộng, đôi khi c̣n hóa trang giả phụ nữ ra đồng nhổ mạ cấy lúa, cũng có khi đóng vai ông Lư Đ́nh Dù vác chiếc ô rách ra chơi Kinh Kỳ thăm bà con họ hàng.
Gặp bao hoàn cảnh khó khăn! Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng hăng say hơn bao giờ hết! Công tác chính là công tác kiện toàn lại Đảng tiến tới giai đoạn cấp bách Tổng Khởi Nghĩa. Vấn đề liên lạc được coi như vấn đề hệ trọng, liên lạc luôn phải thay đổi đồng chí để tránh tai mắt nḥm ngó của mật thám. Nên từ đấy được ủy thác cho mấy nữ đảng viên: Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị T́nh, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang… Cô Giang là nữ liên lạc đứng vào hạng xuất sắc nhất. Không những thế, cô Giang c̣n là một tay tuyên truyền giỏi, tổ chức được Binh Đoàn Yên Bái, Binh Đoàn này làm nên cuộc Tổng Khởi Nghĩa đêm mồng 9 rạng mồng 10 hồi tháng 2 năm 1930.
Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng mạnh mẽ trong thời kỳ ấy, một phần lớn là nhờ sự giúp đỡ của nhân dân, và cũng một phần phải nhờ ở tai mắt và sự khuyên ngăn khuyến khích của Nguyễn Thị Giang và một đồng chí luôn luôn ở bên cạnh để bảo vệ là Sư Trạch, hai người này là hai cánh tay của Nguyễn Thái Học vậy. Nhiều khi Thái Học phải cải trang tạm lánh ở vùng Ḥa B́nh, Ninh B́nh, Phú Thọ, nơi rừng núi bao la. Nguyễn Thị Giang luôn luôn đem tin tức cho Thái Học và lại đem chỉ thị của Thái Học truyền đi các nơi. Bất cứ một công tác nào, dầu khó khăn đến đâu, được Đảng trao phó, cô Giang đều thi hành có kết quả.
Theo điều lệ của Việt Nam Quốc Dân Đảng th́ không kết nạp phụ nữ vào Đảng, mà chỉ có sự kết nạp vào Đoàn. Trường hợp Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là một trường hợp đặc biệt. V́ trước ngày thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, hai cô Bắc và Giang đă ở trong tổ chức cách mạng bí mật của Cụ Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang. Đến khi Cụ Nguyễn Khắc Nhu tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng th́ lư đương nhiên cả tổ chức của cụ cũng đều được tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Bắc, Giang, Tỉnh là 3 chị em ruột, con một nhà Nho ở Phủ Lạng Thương Tỉnh Bắc Giang. Vốn nhà thanh bạch, nhưng cả 3 cô đều có công, dung, ngôn hạnh hoàn toàn. Hai cô chị lại được học ít nhiều Hán Văn, chữ Pháp theo hết bậc Tiểu Học. Cô Giang lại thông minh sắc sảo và tài ba hơn cô chị nhiều. Mặt hơi rỗ huê, nhan sắc tuy không đẹp lắm, nhưng duyên dáng và lịch sự vô cùng. V́ nhà nghèo nên cô phải thôi học sớm, về làm nghề dạy trẻ em, nên người ta thường gọi Cô Giáo Giang.
Một đôi trai tài gái sắc, lại cùng chung chí hướng, cùng cảnh ngộ, cùng có dịp gần gũi bên nhau luôn, nên chẳng mấy lúc đă nảy lên những tiếng đàn đồng điệu. Họ đă cảm thông và đồng quan điểm như nhau, họ cảm thấy yêu nhau, và đă cảm thấy không thể xa cách được nhau.
Một buổi chiều Hè, trên đường từ Phú Thọ về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Thị Giang cùng ghé vào Đền Hùng Vương để hội đàm với Phó Đức Chính, Lê Hữu Cảnh và Đặng Trần Nghiệp. Sau khi họp bàn xong, Học và Giang rủ nhau ra ngoài hóng gió.
Đêm đă vào khuya, Lê Hữu Cảnh bước ra sân đền, với ư định gọi hai người vào ngủ. Cảnh thấy Nguyễn Thái Học v́ quá mệt mỏi đă ngồi tựa lưng vào gốc cây ngủ say, bên cạnh cô Giang ngồi tay phe phẩy quạt xua muỗi và trông chừng. Lê Hữu Cảnh lặng lẽ quay gót vào mật bàn với Phó Đức Chính và Đặng Trần Nghiệp: Có dịp thuận tiện nên yêu cầu Đảng Bộ cho phép Học, Giang được thành đôi lứa kết hôn.
Một lần khác lại có dịp qua Đền Hùng Vương. Thái Học cùng cô Giang vào chiêm bái, trước bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút, hai người cùng nhau thề thốt nặng lời. Thề thế nào cũng lấy nhau nhưng chỉ thành chính thức sau khi cách mạng thành công, và được Đảng cho phép. Thấy Nguyễn Thái Học đeo khẩu súng lục, cô Giang xin được đeo, để sau này Nguyễn Thái Học có v́ Tổ Quốc mà mệnh hệ nào th́ Giang cũng quyết dùng khẩu súng này để chết theo!
T́nh yêu là một việc riêng, nhưng nhiệm vụ đối với Đảng là một việc công. Bất cứ công tác ǵ dầu khó đến đâu, Nguyễn Thị Giang đều làm chu đáo.
Cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Quay về Bắc Ninh, Bắc Giang, Nguyễn Thị Giang đang chuẩn bị việc đánh chiếm một đồn binh Khố Xanh để làm căn cứ địa th́ được tin Nguyễn Thái Học đă bị bắt, ban đầu cô c̣n nghi ngờ, v́ rất có thể thực dân cho phao đồn tin ấy để trấn áp dư luận, khủng bố tinh thần những đảng viên c̣n thoát ở ṿng ngoài, chứ chưa chắc đă là sự thực, cô Giang liền thu xếp mọi việc rồi tức tốc sang Hà Nội, t́m đến Lê Hữu Cảnh. Cảnh cho biết Nguyễn Thái Học đă bị bắt thật rồi! Ngoài anh Học ra, Sư Trạch, Phó Đức Chính, Nguyễn Như Liên cũng đều bị bắt hết.
Nghe Lê Hữu Cảnh thuật lại xong, cô Giang nghẹn ngào gần như tắt thở. Cô rất lo cho tiền đồ của Đảng, vận mệnh của Tổ Quốc. Tinh thần cô Giang trở nên khủng hoảng, bỗng dưng khóc, bỗng dưng cười, gần như một người mất trí, người điên, khiến các đồng chí của cô có mặt ở Hà Nội, phải t́m hết lời an ủi và t́m đủ mọi cách để bảo vệ tính mạng cho cô có thể ở yên tại Hà Nội, để gián tiếp thăm nom và giữ vững tinh thần cho Nguyễn Thái Học.
Một ư nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu óc cô Giang, là phải làm thế nào để cứu thoát được Nguyễn Thái Học và các đồng chí bây giờ ? Cô Giang đem ư định bàn với các đồng chí tổ chức một cuộc bạo động để cướp lại tự do cho Nguyễn Thái Học, các đồng chí và tất cả những đồng bào bị thực dân giam cầm trong ngục thất Hỏa Ḷ. Trong ngục thất Hỏa Ḷ, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo lấy tên là ‘’Tù Nhân Báo’’ để cổ vơ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các trại giam. Những vật liệu viết báo đều do tài vận động của cô Giang qua tay Giám Thị và lính Lê Dương có phận sự canh gác ngục thất Hỏa Ḷ. Cô Giang c̣n t́m đủ mọi cách để gởi quà bánh và thông báo tin tức ở ngoài vào cho Nguyễn Thái Học. Thái Học cũng luôn luôn gởi thư ra khuyến khích cô Giang nên tích cực hợp tác với các đồng chí ở ngoài để cải tổ phụng sự Đảng hầu làm tṛn sứ mạng giải phóng dân tộc ở tương lai.
Đến chiều ngày 16 tháng 6, một đồng chí tất tả chạy đến báo cho cô Giang biết: ‘’Tối nay Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí sẽ bị đưa lên Yên Bái để hành h́nh’’.
Tin đâu sét đánh ngang tai! Cô Giang lo lắng bồi hồi, ngồi không yên mà đứng cũng không yên! Đợi trời đổ tối, cô Giang dấu khẩu súng lục trong ḿnh và mấy trái bom trong tay nải, rồi lẳng lặng cùng mấy đồng chí t́m những con đường vắng tiến ra Ga Hàng Cỏ, nhưng không thể làm thế nào lên được trên xe lửa, sau nhờ có mấy đồng chí đốt than và thợ máy ngầm đưa quần áo cải trang, cô Giang và mấy đồng chí mới lên được toa xe lửa.
Dưới ṿm trời đen tối, sương sa mờ mịt, gió lộng từng cơn, bánh xe lửa rít lên không gian im lặng, ḷng Nguyễn Thị Giang càng se thắt lại. Cùng đi một chuyến xe mà không được gặp nhau, dầu chỉ nói được một câu thôi! Bao nhiêu t́nh yêu thương, bao nhiêu nỗi căm hờn rồn rập cả vào tâm hồn nhà nữ cách mạng trẻ tuổi ấy! Hai gịng lệ trào xuống. Thôi thế là hết! Chỉ c̣n mấy tiếng đồng hồ nữa thôi! Nguyễn Thị Giang mím miệng lắc đầu lảo đảo bước xuống Ga Yên Bái.
Trống điểm tàn canh, gà gáy rồn báo sáng. Nguyễn Thị Giang cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu địa phương lặng lẽ tiến đến pháp trường.
Trước sức mạnh của thực dân, hàng rào lính, cảnh binh và mật thám vây kín, không cho phép một ai được bén mảng đến gần. Nguyễn Thị Giang đành xen vào đứng lẫn trong đám người đến xem từ phía xa nh́n vào. Một lần nữa âm mưu phá pháp trường lại thất bại! Cô Giang cố nén nỗi căm hờn uất hận, không hề lộ ra nét mặt để một ai hay!
Cô Giang đă chứng kiến suốt từ đầu đến cuối tấn bi kịch chém giết dă man tàn bạo của quân cướp nước. C̣n sự đau đớn nào hơn mỗi khi nh́n thấy lưỡi dao phập xuống, đầu một đồng chí rơi, máu đào phun ra, rồi cuối cùng đến người mà ḿnh tôn thờ yêu quư. Những gịng máu trong cổ tuôn ra là những mũi dao đâm vào con tim người liệt nữ.
Tấn thảm kịch hạ màn vào đúng hồi 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930. Cô Giang cố gắng lấy lại b́nh tĩnh, lặng lẽ bước theo đám người lui về nhà trọ, nằm vật xuống giường nghỉ ngơi chốt lát rồi mua giấy bút viết hai bức thư ‘’Tuyệt Mệnh’’ trên ba trang giấy trắng khổ hẹp bằng bút ch́ xanh, đề ngày 17 tháng 6, nguyên văn như sau:
Bức Thứ Nhất:
‘’Thưa Thày, Mẹ,
Con chết là v́ hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đă đem tấm ḷng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng.
Giờ con t́m về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.
Đứa con dâu bất hiếu kính lạy,
Nguyễn Thị Giang.’’
Bức Thứ Hai:
‘’Anh đă là người yêu nước!
Không làm tṛn được nghĩa vụ cứu quốc!
Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhă mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ.’’
Thân không giúp ích cho đời!
Thù không trả được cho người t́nh chung!
Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
Quyết v́ dân chúng thề ḷng hy sinh,
Con đường tiến bộ mông mênh,
Éo le hoàn cảnh buộc ḿnh biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào,
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đă có ngày ghi tên,
Chết đi dạ những buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc ḿnh!
Đảng kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực ḷng nhỡ bước sa cơ,
Chết sầu chết thảm có thừa sót sa,
Thế ru! Đời thế ru mà.
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!
Nguyễn Thị Giang
Viết xong hai bức tâm thư, cô Giang ra chợ mua mấy vuông vải trắng thắt ngang đầu, và ngay buổi chiều tối hôm ấy, cô đáp xe lửa trở về Vĩnh Yên.
Tờ mờ sáng hôm sau, cô Giang trở về làng Thổ Tang, vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, báo tin Thái Học đă bị hành h́nh rồi lạy tạ cụ ông và cụ bà Nguyễn Văn Hách, trối trăng lại mấy lời tâm sự, tháo chiếc đồng hồ đương đeo tay tặng cho Nguyễn Văn Lâm, mặt sau đồng hồ có khắc chữ ‘’G’’, rồi long thong như người mất trí tiến ra cái quán bán nước trà xanh dưới gốc cây đề, tục gọi là xóm Mới, thuộc xă Đông Vệ, giáp Quốc Lộ 2, cách làng Thổ Tang ngót một cây số.
Ngồi uống bát nước trà xanh, nghĩ đến t́nh nhà nợ nước, mà ḷng đau xót chua cay, tinh thần cô rất là rối loạn, nhưng chí đă quyết định, cô liền từ biệt bà chủ quán ra đứng dưới gốc cây đề, hướng mặt về làng Thổ Tang, rút khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học đă tặng cô ở Đền Hùng Vương ra kết liễu đời ḿnh, hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930, tức ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ (22 tuổi).
Một vụ án mạng, Hương Lư xă Đông Vệ cấp báo với Tri Phủ Vĩnh Tường. Phủ cấp báo lên Tỉnh, Công Sứ Vĩnh Yên đánh điện về Sở Mật Thám Hà Nội.
Thi thể cô Giang nằm dưới gốc cây đề, bên cạnh có khẩu súng lục phơi sương nắng cho măi đến hồi 16 giờ ngày hôm sau, bọn thực dân mới kéo nhau đến. Arnoux c̣n đem theo Thanh Giang và Nguyễn Quư từ Hà Nội lên để nhận diện.
Viện cớ khám nghiệm, Chính quyền thực dân bắt lột hết quần áo cô Giang. Khi khám xét xong, không cho phép mặc lại rồi hạ lệnh cho Tri Phủ Vĩnh Tường cùng hương lư sở tại mai táng chứ không cho phép gia đ́nh Nguyễn Thái Học làm phận sự ấy.
Công Sứ Vĩnh Yên lại ra lệnh bắt đào huyệt sâu hơn 3 mét, trên đắp thành nấm tṛn, bắt dân sở tại phải làm điếm canh nơi gần mộ, cho măi đến cuối năm 1930 mới băi lệnh.
Khách bộ hành qua đấy thường thấy phủ kín trên nấm mồ nhà nữ cách mạng Nguyễn Thị Giang những bó hoa tươi thắm, và những nén nhang khói tỏa nghi ngút suốt 5 canh. Một chiến sĩ vô danh thời ấy đă vịnh bài thơ:
Sống nhục sao bằng sự thác vinh!
Nước non cho vẹn kiếp chung t́nh.
Lưỡi dao xử tử chàng không ngại!
Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành!
Một tấm can tràng trời đất thảm,
Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại,
Trai đă trung th́ gái phải trinh!
H́nh Nguyễn Thái Học và Cô Giang hiện đang thờ tại bàn thờ gia đ́nh Việt Nam
H́nh Nguyễn Thái Học và Cô Giang hiện đang thờ tại bàn thờ gia đ́nh Việt Nam
GIA Đ̀NH NGUYỄN THÁI HỌC
Làng Thổ Tang, quê hương Nguyễn Thái Học quy vuông 3 cây số, Đông giáp làng Sơn Tang, Tây giáp làng Lũng Ngoại, Nam giáp làng Phương Viên, Thượng Chưng, Bắc giáp Quốc Lộ 2. Chỗ rẽ vào làng tục gọi ngă ba Gốc Đề, tức là nơi Nguyễn Thị Giang tự tử.
Nguyễn Thái Học có tất cả 4 người em: Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Nỉ.
Nguyễn Văn Nho tính t́nh giống anh. Năm 1928 c̣n là học sinh lớp nhất Trường Tiểu Học Pháp-Việt, Việt Tŕ, bị thực dân ra lệnh đuổi ra khỏi trường, v́ là em của Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Nho bắt đầu theo Nguyễn Thái Học dấn thân vào con đường cách mạng. Bị Hội Đồng Đề H́nh kết án xử tử v́ hai tội: Giết Phạm Huy Du và làm kinh tài cho Đảng rất táo bạo.
Nguyễn Văn Lâm, người em thứ tư, đương theo học lớp nhất Trường Tiểu Học Vĩnh Tường, cũng bị thực dân ra lệnh đuổi. Lâm là người rất thông minh, tính t́nh khảng khái, trở về nhà mua sách báo tự học, thông thạo cả tiếng Pháp, Anh và Nhật, cũng tự đọc sách nghiên cứu mà trở nên một nhiếp ảnh viên lành nghề.
Hồi tháng 6 năm 1946, Trần Huy Liệu lên diễn thuyết tại trụ sở Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Phủ Vĩnh Tường. Nhân dịp Trần huy Liệu ghé vào thăm vị từ mẫu Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Lâm chỉ vào mặt Trần huy Liệu mà nói:
- Gia đ́nh tao không thèm chơi với tên phản Đảng, phản Quốc, cút đi ngay!
Rồi t́m gạch liệng, Trần huy Liệu phải tự rút lui. Đến cuối năm 1947, quân đội Liên Hiệp Pháp hành quân tấn công Thượng Du Bắc Việt. Một toán lính nhảy dù xuống địa phương Tŕnh Diện, cách làng Thổ Tang 9 cây số, một toán khác nhảy dù xuống Đồi Me thuộc khu vực Ga Chống (Bạch Hạc), cách làng Thổ Tang 3 cây số, cùng tiến vây chặt trụ sở Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh huyện do Việt Minh đặt tại làng Thổ Tang.
Hay tin Pháp quân đổ bộ, dân làng Thổ Tang bỏ chạy hết, chỉ c̣n một số rất ít không chạy kịp, trong số đó có Nguyễn Văn Lâm, bị Pháp quân bắt tập trung ở đ́nh làng. Pháp quân dụ Lâm suốt cả tiếng đồng hồ, nhưng Lâm nhất định không chịu theo, c̣n mắng lại:
-Gia đ́nh tao là gia đ́nh cách mạng, hai anh em tao đă chết bởi bàn tay chúng mày, tao không bao giờ lại đi theo quân cướp nước.
Lâm nhất định không theo, Pháp nhất định giết. Lâm trả lời:
- Nếu chúng mày muốn giết tao, hăy đưa tao về nhà hăy giết.
Theo ư muốn của Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân đưa về nhà. Đứng dưới cây dâu già, Lâm vạch áo phanh ngực cho Pháp bắn.
Giết xong Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân quay vào đốt nhà cướp trâu, bắt lợn, gà, rồi kéo nhau đi. Hôm ấy là ngày 19 tháng 11 năm 1947.
Nguyễn Văn Nỉ, người em út của Nguyễn Thái Học v́ c̣n nhỏ tuổi, nên măi đến năm 1945 mới tham gia cách mạng. Được theo học nhiều lớp quân, chính của Đảng. Đến đầu năm 1948, Nguyễn Văn Nỉ theo các đồng chí rút sang Trung Hoa. Năm 1949, Hồng quân lan tràn khắp lục địa Trung Hoa, Nguyễn Văn Nỉ cùng một số đồng chí bị mắc kẹt không kịp trở về Việt Nam.
Gia đ́nh Nguyễn Thái Học lại c̣n hy sinh cả người chú đồng chí là Nguyễn Quang Triểu, người ném bom Hà Nội đêm mồng 10 tháng 2 năm 1930, cùng lên máy chém với Nguyễn Văn Nho.
Gia đ́nh Nguyễn Thái Học hiện nay c̣n lại một vị từ mẫu đă ngoài 80 tuổi cùng một cháu trai độc nhất là Nguyễn Thái Tuấn, năm nay vào khoảng 20, là con của Nguyễn Văn Lâm, gịng máu cuối cùng của một gia đ́nh hy sinh cả cho Tổ Quốc (1967).
Viết đến đây chúng tôi không thể không nói đến một chuyện đă xảy ra vào hồi năm 1953, để chứng tỏ tính t́nh cương trực của vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học. Nguyên vào hồi tháng 7 năm 1953, khi ấy Nguyễn Hữu Trí làm Thủ Hiến Bắc Việt lên kinh lư Tỉnh Vĩnh Yên, qua Phủ lỵ Vĩnh Tường (làng Thổ Tang), phái Quận Trưởng vào mời vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học ra Quận đường để tiếp kiến nhưng vị từ mẫu ấy khước từ không ra. Trước khi ra về, Nguyễn Hữu Trí trao số tiền hai ngàn đồng cho Quận Trưởng nhờ đưa vào kính biếu nhưng vị từ mẫu ấy cũng nhất định không nhận mặc dầu Quận Trưởng Vĩnh Tường đă cầu khẩn hết lời.
Một lần khác, thấy vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học làm ruộng nhưng không có trâu cày, Quận Trưởng Vĩnh Tường thân dắt một con trâu đến kính biếu nhưng vị từ mẫu ấy cũng nhất định không chịu nhận.
Chú Thích:
1.- Nguyên Thomas trước kia làm Giáo Sư tại Trường Trung Học Chasseloup Laubat ở Sài G̣n, v́ thái độ ngạo nghễ và cách dạy học tṛ mất dạy của y mà đă bị học sinh trường đó đánh cho một trận đ̣n nên thân. Sau đó Thomas bị đổi ra Bắc dạy Trường Bưởi.
2.- Hồ Văn Mịch dáng người nhỏ nhắn, tư chất thông minh, tính t́nh quả cảm. Nguyên quán tại làng Đồng Hỷ, Phủ Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương.
Xuất thân làm Giáo Học, được ít lâu Hồ Văn Mịch xin nghỉ để theo học lớp Cao Đẳng Sư Phạm.
Sau vụ ám sát Bazin tháng 2 năm 1929, Hồ Văn Mịch bị bắt giam, Hội Đồng Đề H́nh kết án 10 năm cấm cố, đày ra Côn Đảo.
Trước ngày bị bắt giam, Hồ Văn Mịch đă mắc bệnh lao phổi, nên đă tạ thế tại Côn Đảo ngày mồng 8 tháng 4 năm 1932. Ở đây anh em có dựng trên mộ một tấm bia bằng xi-măng, khắc mấy chữ: ‘’Hồ Văn Mịch 1930’’ làm kỷ niệm. Một người bạn thân, một đồng chí đầy mưu lược, luôn luôn ở bên cạnh Nguyễn Thái Học nói: ‘’Anh Học bề ngoài tuy nóng nảy, nhưng mưu việc ǵ th́ rất nhiều cơ trí, mà đăi người th́ rất mực chân thành’’.
—>CHƯƠNG II
CHƯƠNG II:
THI VĂN CA KỊCH CỦA CÁC NHÀ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
MẤY LỜI KƯ THÁC CỦA NHÀ CÁCH MẠNG PHAN SÀO NAM
Cô Khóc Cậu (cô đây là Cô Giang)
Th́nh ĺnh một tiếng sét ngang lưng,
Nuốt nghẹn t́nh tơ xiết nói năng.
Mây mịt mờ xanh, trời vẫn hắc,
Giọt chan chứa đỏ, bể khôn bằng!
Thân vàng đành cậu liều theo cát,
Dạ tuyết thôi em gởi với trăng.
May nữa duyên sau c̣n gặp gỡ,
Suối vàng cười nụ có ngày chăng!
Hồn Cậu Trả Lời (Cậu là Nguyễn Thái Học)
1.
Gặp ḿnh, ḿnh lại thẹn cùng ḿnh,
Ai khiến em mà vội gặp anh ?
Vẫn nghĩ hữu chung vi hữu thủy.
Thôi th́ đồng tử chẳng đồng sinh,
Trăm năm cuộc bụi, dâu hay bể ?
Một tấm ḷng son, sắt với t́nh.
Gió dữ mưa cuồng thây kệ nó,
Dắt nhau ta tới tận thiên đ́nh.
2.
Dắt nhau ta tới tận thiên đ́nh
Quyết dẹp cho yên sóng bất b́nh.
Mặt nước em c̣n hồng giọt máu,
Nợ đời anh chửa trắng tay tanh,
Trăm năm thề với trời riêng đội,
Bảy thước âu là mẹ chẳng sinh.
Ḿnh hỡi ḿnh đừng buồn bă quá,
Hồn c̣n mạnh khoẻ, phách c̣n linh.
Chị Khóc Em (Chị là Cô Bắc)
(Khi được tin em chết theo người yêu)
1.
Em ơi! Em vậy, chị th́ sao ?
Ghê gớm mà cùng tiếc biết bao!
Chung nợ cha sinh và mẹ dưỡng,
Rẽ đường vực thẳm với bờ cao,
Ngại ngùng gió yếu, mây trơ mực,
Tức tối trời say, máu úa đào.
Hồn có linh thiêng, dùm tính nhỉ,
Mẹ già, em bé, nghĩ thương nao!
2.
Mẹ già, em bé, nghĩ thương nao!
Và nợ chồng con nặng biết bao!
Nổ đất th́nh ĺnh tay vỗ kép,
Nhuộm trời ghê gớm máu phun đào,
Giữa trường tân khổ no cay đắng,
Trước phận phong ba nổi gió trào.
Chị có ngờ đâu em đặng thế!
Biển ngần ấy rộng, núi ngần cao
Phan Sào Nam
KHÓC NGUYỄN THÁI HỌC
(Nhượng Tống)
Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng,
Thương đời không lẽ đứng mà trông!
Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng,
Đâu chịu râu mày thẹn núi sông,
Người dẫu chết đi ḷng vẫn sống,
Việc dù hỏng nữa, tội là công.
Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt,
Cười khóc canh khuya chén rượu nồng.
Nhượng Tống
BẤT DI THI
(Lam Giang)
Vĩnh Phúc phong trần hậu,
Hàn vân quyển biệt ly!
Thánh nhân tồn cổ huấn.
Chiến bại bảo tàn kỳ,
Thiên viễn tăng cô phẫn,
Tâm hùng thệ bất di,
Cầu an vô ẩn giả,
Quốc vận bởi trường bi,
(tạm dịch)
Vĩnh Yên từ gió bụi mờ,
Biệt ly mây biệt bơ vơ ngàn trùng,
Thánh nhân lời dặn hào hùng,
Ngọn cờ chiến bại, kiên trung vẫn c̣n,
Trời xa xót nỗi cô đơn,
Lời thề vàng đá chưa sờn chí trai!
Cầu an đâu xứng anh tài,
Lẽ đâu vận nước c̣n dài thê lương!
Lam Giang
TUỞNG NIỆM NGUYỄN THÁI HỌC
(Nguyễn Phan An)
Yên Bái đầu rơi một sớm nào.
Ḷng son ngời sáng với trăng sao…
V́ dân dựng Đảng, ôi! Xương trắng,
V́ nước ra công, hỡi! Máu đào!
Cách mệnh chưa thành! Sông núi khóc,
Tài mưu sớm thác! Gió mưa gào.
Hai mươi tám tuổi ‘’thành nhân ấy’’,
Trang sử ngàn thu đă bước vào.
Nguyễn Phan An
HOÀI NIỆM ANH LINH NHƯỢNG TỐNG
(Nguyễn Phan An)
Từ ngày anh lặng lẽ qua đời,
Trường văn, nghiệp báo loạn tơi bời,
Một lũ đầu cơ văn nghệ ấy,
Làm mưa làm gió khắp bao nơi!
Anh thác hồn anh có nhẹ nhàng,
Đ̣i phen gió lạnh nhắn thu sang.
Tôi từng đốt nến thương anh đấy,
Suốt một đời thơ máu lệ tràn!
Anh chết không kèn trống tiễn đưa,
Không người nhắc lại chuyện ngày xưa…
Có người cách mạng mà thi sĩ.
Gác chuyện ân t́nh đạp gió mưa.
Ôi! Xót xa là một kiếp ‘’Anh’’!
Uổng thay thánh thót tiếng hoàng oanh!
Ca cho vỡ cổ xù lông đấy,
Đời hiểu ǵ đâu lũ lợi danh.
Chuyện cũ cùng nhau lộng tới giờ…
Ṃn chân tranh đấu vẫn trơ vơ!
Một v́ dân tộc giang sơn ấy,
Thà chết không thà chịu nhuốc nhơ!
Anh chết rồi đây ai nhớ đâu!
Ḿnh tôi thao thức giữa đêm sâu,
Khóc cho máu lệ trào ra mắt,
C̣n lại ǵ qua lớp biển dâu!
Thôi xót xa chi chuyện đổi đời.
Của phường cơ hội hỡi anh ơi ?
Những người cách mạng mà son sắt,
Càng chịu cô đơn tới măn đời!
Anh chắc cùng anh HỌC thuở xưa,
Giờ đây cùng nói chuyện say sưa…
Những ai đă chết v́ dân tộc.
Hương khói ngàn thu sẽ tiễn đưa.
Nhất định rồi qua lũ lợi danh,
Rồi qua, qua hết chuyện phân tranh,
Không! Không! Tín nghĩa ngời thiên cổ,
Trang sử ngày sau sẽ chép anh.
Nguyễn Phan An (1)
THAY LỜI VỢ TẶNG QUẠT CHO CHỒNG TRONG NGỤCTHẤT 1929
(Nguyễn Văn Phác)
Gạt lệ đưa anh chiếc quạt này,
Khi buồn cầm đến để vui tay.
Xua con muỗi đói đang ŕnh đốt,
Đuổi cái ruồi hôi chực quấy rầy,
Phong lại nhớ nhung lời ước cũ,
Mở ra phe phẩy đỡ cơn may.
T́nh em gởi quạt khi phong mở,
Gạt lệ đưa anh chiếc quạt này.
Nguyễn Văn Phác
HÁT NÓI
(Làm tại Hỏa Ḷ, Hà Nội, 1929 – Phạm Tuấn Tài)
Miễu
Trông người lại ngẫm đến ta,
Nín đi đứt ruột, nói ra nghẹn lời.
Than ôi! Cũng một kiếp người,
Tủi thân trâu ngựa thiệt đời thông minh.
Nói
Trâu cày ngựa cưỡi,
Nghĩ thân ḿnh thêm tủi lại thêm thương,
Cũng thông minh tai mắt một phường,
Người mắc ách, kẻ giong cương, kỳ quái chửa!
Thà rằng thể phách như trâu ngựa,
Khổ nỗi tâm hồn khác cỏ cây.
Nh́n giang sơn khi quắc mắt lúc cau mày,
Tưởng nông nỗi đắng cay ḷng tráng sĩ!
Nước đời cay đắng bao nhiêu vị ?
Giống ươn hèn càng nghĩ lại càng thương!
Bảo nhau ta phải tự cường!
Phạm Tuấn Tài
SÀ-LIM OÁN
(Sà-lim Hà Nội năm 1929 – Thẩm Chi tức Cả Vấn )
Đầy ám ngục hơi sầu ảm đạm
Nát tâm bào lửa hận cháy gan.
Một ḿnh lăn lóc trên sàn,
Đắng cay nước mắt, nhà tan thân tù!
Trong cửa kín sớm hôm chẳng biết,
Ngoài đồng bào chết sống không hay!
Than ôi! Nông nỗi nước này!
Đôi phen hồn ngất máu say v́ thù!
Ḷng héo hắt cơm bơ nước gáo,
Thân vơ vàng xiêm áo tả tơi!
Nghiến răng muốn đập tan trời!
Tủi thân nô lệ, căm loài dă man.
Giận cho kẻ tham vàng phụ nghĩa,
Đem anh em bán rẻ cho người.
Bạc đen chi mấy thói đời!
Nước non đành để cho người chủ trương.
Cơ thành bại nát gan tráng sĩ,
Cuộc hưng vong ráo lệ anh hùng,
Thương thay con cháu Lạc, Hồng,
V́ đâu cá chậu chim lồng xót xa!
Hồn tinh vệ bao giờ lấp bể ?
Công dă tràng thương kẻ đồng tâm.
Giọt sầu lă chă khôn cầm!
Dao oan nghiệt cắt ruột tầm đ̣i cơn.
Ngoài song sắt mưa buồn gió thảm,
Bên tường nghe tiếng bạn thở than.
V́ đâu nên cuộc dở dang!
V́ đâu sẩy nghé tan đàn thảm thương!
Ḷng rầu rĩ canh trường khó nhắp,
Đêm năm canh thổn thức đ̣i cơn.
Hỡi ai dạ sắt gan vàng ?
Cùng nhau trong hội đoạn trường là đây!
Thẩm Chi tức Cả Vấn
Chú Thích:
1.- Nguyễn Phan An là bào đệ Nguyễn Ân, nguyên quán tại Tỉnh Quảng Nam. Quá phẫn uất về cộng sản hoàng hành, mà hàng ngũ chiến sĩ quốc gia bị phân hóa trầm trọng. Nguyễn Phan An đă mắc bệnh loạn trí, hiện nằm điều trị tại nhà thương Biên Ḥa (1967).
oOo
VĂN TẾ CÁC TIÊN LIỆT VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
(Phan Bội Châu trước tác -
Sinh viên Huế truy điệu)
Gươm ba thước chọc trời kinh, chớp cháy, này Lâm Thao này Yên Bái, này Vĩnh Bảo, khí phục thù hơi thở một tầng mây!
Súng liên thanh vang đất thụt, non reo, nào chủ đồn, nào xếp cẩm, nào quan binh, ma hút máu người bay theo ngọn gió.
Trách nông nỗi trời c̣n xoay tít, trước cờ binh sao quay gió cản ngăn.
Tiếc sự cơ ai quá lờ mờ, dưới trướng giặc bấy nhiêu tay len lơi.
Ma cường quyền đắc thế sinh hùng uy,
Thần công lư bó tay nghe tử tội,
Ôi thôi! Mù thảm mây sầu,
Gió cuồng mưa vội,
Cửa quỷ thênh thang!
Đường trời ṿi vọi!
Nhân dân chí sĩ, sát thân vào luật dă man,
Nữ kiệt anh hùng, thất thế đang hồi đen rủi,
Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất sư vị tiệp, vai bể, non gánh nặng hăy tŕu tŕu.
Đoạn đầu đài sau sau trước trước bước thung dung, gớm gan thị tử như quy, mặc cây cỏ máu tươi thêm chói chói.
Tuy kim cổ hữu h́nh th́ hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuộn cuộn, bóng rồng thiêng đành ông HỌC xa xôi.
Nhưng sơn hà c̣n phách ắt c̣n linh, voi nàng Triệu, ngựa nàng Trưng, khí mạnh nhơn nhơn, h́nh hạc gió hăy cô GIANG theo đuổi.
Đoàn trẻ chúng tôi nay,
Tiếc nước c̣n đau,
Nghĩ ḿnh càng tủi!
Nghĩa lớn khôn quên!
Đường xa dậm mỏi.
Dây nô lệ quyết rày mai cắt đứt, anh linh thời ủng hộ, mở rộng đường công nhảy, bằng bay.
Bể lao lung đua thế giới vẫy vùng, nhân đạo muốn hoàn toàn, phải ráng sức rồng giành, cọp chọi.
Đông đủ người năm bộ lớn, đốt hương nồng, pha máu nóng, hồn thiên thu như sống như c̣n.
Ước ao trong bấy nhiêu niên, rung chuông bạc, múa cờ hồng, tiếng vạn tuế càng hô càng trỗi,
T́nh khôn xiết nói,
Hồn xin chứng cho,
Thượng hưởng!
Phan Bội Châu trước tác
Sinh viên Huế truy điệu
oOo
VĂN TẾ ĐỒNG BÀO LÀNG CỔ AM và NHỮNG LÀNG KHÁC
BỊ THỰC DÂN KHỦNG BỐ TÀN SÁT (1930)
(Phan Bội Châu)
Than rằng:
Dân nước mất nghĩ càng đau quá! Dế, trùn, kiến, mối nhẽ c̣n hơn.
Giặc có quyền thương tới ai đâu! Súng, đạn, gươm, dao, thôi mặc ư.
Sóng Âu, Á hai mươi thế kỷ,
Cuộc bể dâu trải mấy phen này,
Trói tay chân, pháp luật là dây,
Bưng tai mắt, văn minh rành vỏ
Đau nông nổi mấy năm gần đó, tư bản cường quyền Pháp quá sức hoành hành,
Nên anh em sáu triệu xứ ḿnh, Đảng Việt Nam Quốc Dân là đường tự vệ,
Ḷng yêu nước gốc ḷng trời đẻ, ai có xui ai ?
T́nh thương ṇi vẫn tính loài người, tội ǵ mà tội!
Nào hay chọc gan hùm sói!
Diễn thêm một cuộc oán thù
Làng Cổ Am há phải giặc đâu! Rặt những người cày bẫm cuốc sâu, đóng sưu nộp thuế!
Làng Xuân Lũng cũng là dân thảy, đâu có kẻ tranh thành cướp đất, đắp lũy xây đồn!
Huống ǵ đàn chiu chít bé con!
Với những lũ gầy g̣ già yếu!
Đáng thương thiệt đầu man mắt trú, gánh vác nặng nề, dưới nhà nước tha hồ đè nén.
Xứ cày cấy há phải trường chinh chiến, tưởng ngỡ gà kêu chó sủa, đất há hẹp ǵ.
Chúng làm ăn nào biết việc đua tranh, chắc là thuế ráo sưu xong, trời cũng thương đến.
Họa ao cá v́ ai xui khiến!
Đạn tầu bay vô cố xán nhào!
Đoàn già lũ bé xương chất nhốn nhao, thảm bại ấy v́ sao! Ơn khai hóa vài trăm khẩu súng,
Mẹ góa con côi, máu sôi tản mác, sự t́nh thôi quá ngán, quyền tự do mấy chục quả bom!
Đă đành than lấp bùn chôn giữa nước lửa chỉ là mồ dân Việt.
E lửa trời cùng đất kiệt, ngoài non sông đâu tá cảnh nguồn đào!
Thương ôi! Gương cũ treo cao,
Cuộc sau gấp tính,
Hai lăm triệu nay ai c̣n tính mệnh, thịt đầu da há phải điều vui!
Toàn ba kỳ nếu sẵn nhân tài, chim ngoài lưới phải lo đường sống.
Hát vô dụng mà khóc cũng vô dụng, duy mong mỏi gịng Hồng giống Lạc, bà con anh chị một ḷng, ǵn giữ máu Tiên Vương.
Họa phi thường thời phúc cũng phi thường, những ao ước núi Tản sông Lô cả nước mở mang hồn Tân Việt
Mấy lời tâm huyết, chín suối hồn nghe!
Thượng hưởng,
Phan Bội Châu
oOo
LỄ TRUY ĐIỆU CÁC CHIẾN SĨ YÊN BÁI
(Của Kiều Bào Ở Xiêm (Thái Lan) năm 1931)
Than rằng:
Vừng Quế Hải gió tanh mưa máu, áng ba đào v́ t́nh thế xui nên.
Cơi Viêm Bang núi thịt cùng xương, nỗi bi thảm xưa nay chưa thấy có!
Ngoài ngàn dậm trông về cố quốc,
Non sầu bể thảm, quặn ruột gan như chín khúc tơ ṿ!
Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm,
Cỏ úa hoa rầu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ.
Anh chị em ta!
Gặp lúc vận nước suy vi,
Giống ṇi cực khổ,
Quân quỷ trắng gia tay bóc lột, rày sưu mai thuế, róc tận xương da,
Lũ lằn xanh bu miếng đỉnh chung, bán nước buôn dân kể chi máu mủ!
Tay cách mạng đă từng phen bồng bột, tiếc nơi tâm chí có thừa mà phương châm chưa đủ, sức ve ḿnh chấu đành chịu khoanh tay.
Thôi th́ dạy bừa hết cách, đàn áp đủ đường, dàm ngựa ách trâu hăy c̣n chịu cổ,
Tụi tân học đua nhau Âu hóa, b́nh đẳng tự do thoa cửa miệng, thực ḷng v́ nước, trăm người có một, ngắm tiền đồ thêm ngán bọn Tây du.
Bọn cựu Nho toan kế Duy Tân, anh hùng lănh tụ chất đáy ḷng, thực dạ v́ ṇi, xét sổ được bao nhiêu, thôi đại sự chắc chỉ người Đông độ!
Nay gặp lúc phong trào sôi nổi, khắp năm châu trống dục kèn kêu,
Nay gặp người chỉ lối đưa đường, cùng bốn bể triều dâng sóng vỗ.
Rừng cách mạng ta góp cây,
Băo cách mạng ta góp gió.
Màn phấn đấu khởi tháng Hai năm ngoái, cơi Yên Bái dậy một phen oanh liệt, máu quốc dân phun nhuộm đẫm sa trường.
Cuộc biểu t́nh liền tháng Tám vừa đây, đất Hồng Lam gây một trận tung hoành, Tổ Quốc kêu vang kèn dụng vơ.
Nhân dân Việt đă quyết chí tiêm cừu.
Đế quốc Pháp phải già tay khủng bố.
Thương những kẻ gan vàng dạ sắt, lăn lóc tuyên truyền cổ động, bỗng rủi cơ mưu bại lộ, nhẹ lông hồng khi lên máy đoạn đầu.
Xót những người rách áo đói cơm, ước ao hạnh phúc dân quyền mà đem tính mạng hy sinh, phá hang cọp để t́m sinh lộ.
Thương những kẻ trong trường thương mại, phá gia nghiệp ngàn vàng tu trợ, án t́nh nghi không quản lửa ḱm tra!
Xót những người án binh nhung, rắp ranh tâm hạn tâm hán, chước đao qua mấy trận tung hoành, hồn nghĩa hiệp nhóng theo ḥn đạn nổ.
Bạn má phấn phất cờ nương tử, chí tang bồng duyên hồ thỉ, phận liễu bồ vùi giữa đám binh đao.
Bọn đầu xanh kết tội thiếu niên, đi diễn thuyết, phát truyền đơn, đem mệnh tử để ra ngoài mạng số.
Thương những kẻ Hỏa Ḷ Khám Lớn, mài mật chống cùng oai vũ, tiếc nỗi gan vàng mà mệnh bạc, hồn ĺa theo ngọn búa đầu rơi!
Xót những người Lao Bảo Côn Lôn, nằm gai chịu với phong trần, gặp nơi nước biếc non xanh, xác đành gởi ngàn cây nội cỏ.
Ôi! Thương ôi! Tấc dạ trung trinh, tấm ḷng kiên cố; những cái chết đáng thương đáng tiếc, đáng dạ nhớ ḷng ghi, những cái chết đáng yêu, đáng bia đồng tượng gỗ.
Người ấy ví c̣n sống lại, c̣n hy vọng cho quốc gia dân tộc nhiều, thân kia dầu có chết đi, cũng ảnh hưởng cho cuộc cách mạng đồng bào chẳng nhỏ!
Anh em, chị em ôi!
Tủi phận quê người, chạnh niềm nước cũ, đọc đến chữ ‘’tinh thần bất tử’’ dạ đinh ninh kẻ khuất với người c̣n!
Gẫm đến câu ‘’khí phách trường tồn’’, lễ truy điệu biểu tấm ḷng ái mộ.
Hỡi ơi! Thương thay!
oOo
LỜI THỀ Ở ĐỀN HÙNG
(Bi Kịch Của Phan Ảo Giản Đă Tŕnh Diễn Ở Hư Viện Norodom 1957)
Nhân Vật:
– Cô Giang
– Cô Bắc
– Bà quán già
– Con gái bà quán
Cảnh 1
Đêm khuya, dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu hỏa mờ mờ, cô Bắc đang khâu Đảng Kỳ một cách kính cẩn và say sưa. Khâu xong cô nâng ngắm nghía:
Cô Bắc:
Ôi đẹp quá! Đảng Kỳ trông đẹp quá!
Hơn một giờ vất vả mới khâu xong,
Đây sắc vàng: tượng trưng ṇi giống Lạc Hồng,
Đây màu đỏ: huyết dâng trào cách mạng!
Một ngày kia trên Kỳ đài hùng tráng,
Lùa ánh dương, người phất phới tung bay.
Tiếng hoan hô làm núi chuyển trời lay,
Một dân tộc đứng lên đập tan xiềng xích!
Ôi ngày đó! Ôi cái ngày tuyệt đích,
Cách mạng thành! Quân nghịch bị tiêu tan.
Toàn dân ca dậy khúc khải hoàn.
Ta sung sướng… (có tiếng gơ cửa)
- ‘’Đêm khuya ai gơ cửa ?’’
(Tiến ra cửa hỏi)
- Ai đó ? Đêm khuya sao không đèn lửa ?
Cô Giang:
Em đây mà! Chị Bắc! Em đây mà!
Cô Bắc:
À em Giang! Chị những tưởng ma tà!
Sao về trễ, chị trông em thật mệt nhọc,
Và ǵ đây, nặng nề nằm trong bọc,
Tài liệu hay ? Cho chị đọc với nào!
Cô Giang:
Suỵt! Chậm chậm, chị chớ làm ồn ào!
Khẩu súng sáu em mơ ngày nhập Đảng!
Cô Bắc:
Sao em có! Ai cho em, quư vô hạn!
Cho chị xem! Thích quá đi!
Ô! Mầu thép bóng lạ kỳ!
Ô! Những viên đạn ch́ bé nhỏ thế này!
Mà đủ giết người ta chết!…
Cô Giang:
Ôi! Quê mùa! Mạnh ra phết,
Chị coi chừng cẩn thận chớ lẫy c̣!
Cô Bắc:
Mà chị hỏi em ai cho ?
Sao em có ? Chị làm sao có được ?
Hăy nói mau kẻo người ta đoán trước!… (cười mỉa)
(cười mỉa)
Cô Giang:
Để em thưa!
Sáng nay anh Học mới vừa…
Cô Bắc:
Của anh Học! Sướng quá nhỉ!
Mà sao em được giữ
Cô Giang:
Th́ chậm chậm cho em kịp thở!
Có ǵ đâu! Công tác lắm hiểm nghèo,
Để hộ thân, em được phép mang theo.
Cô Bắc:
Em được phép ?…
Thế sao bao đồng chí khác!
Cũng phải đi công tác hiểm nghèo.
Mà lại không có súng mang theo ?
Chị không hiểu hay đây là quà đặc biệt!
Của anh Học thưởng cho người nữ kiệt ? (cười nhạo)
Cho người anh tha thiết…mong thành công!
Cô Giang:
Chị gạn tra, em khó nói…chuyện ḷng…
Không! Chuyện bí mật em không được nói… (đỏ mặt bẽn lẽn)
Cô Bắc: (cười)
Thôi đi em! Chị hiểu rồi đừng rối! (hơi buồn)
Súng đây là hạnh phúc song đôi
Một là niềm hạnh phúc mà mọi người
Khi nhập Đảng đều mong chờ khôn xiết,
Ấy là được bậc đàn anh siêu việt,
Tín nhiệm ḿnh giao công tác hiểm nguy,
Và ban cho vũ khí để pḥng nguy,
Hai là niềm hạnh phúc của tuổi xuân,
Nhưng điều này em phải tự cung trần,
Chị đâu dám!…chị nhờ em cho biết.
Cô Giang: (một phút im lặng lúng túng)
Chị Bắc! Đầu đuôi chị đă thấu triệt!
Th́ em có giấu chẳng được nào!
Thôi tiện đây em thưa chị vài lời:
Khi nhập Đảng, ta đă thề cương quyết,
Đem thân thế hy sinh cho TỔ QUỐC,
Th́ dám đâu nghĩ đến chuyện trăm năm!
Huống vĩ nhân đâu có dễ mê đam,
Cành hoa dại, mà coi thường dư luận!
Không! Không! Vĩ nhân là bậc anh tuấn,
Người đi trên những t́nh ái hẹp ḥi,
Người thương yêu tha thiết cả giống ṇi,
Đương quằn quại dưới chân phường Đế Quốc,
Người đứng dậy dơ cao ngọn đuốc
Gọi toàn dân theo ánh sáng vinh quang,
Chị cùng em đă theo tiếng gọi lên đàng,
Và ánh sáng đă làm em say đắm…
Với đôi mắt sâu xa như biển thẳm,
Và lưỡng quyền cao, hàm ém, mày ngài…
Người tượng trưng đầy đủ bậc tài trai,
Em dâng trọn hồn em cho người dắt,
Người tín nhiệm giao cho em nhiều công tác,
Em làm tṛn, người thưởng súng này đây…
Buổi lễ thiêng tổ chức thế này:
Em lược thuật cho chị nghe một chút:
Ngày hôm ấy Người cùng em nhân công tác,
Qua Đền Hùng vào giữa một buổi trưa.
Người vào đền khấn vái một hồi lâu,
Rồi trao súng cho em và nói:
‘’Này Cô Giang! Hăy nh́n lên làn khói,
Đương ngậm ngùi cuồn cuộn trên đỉnh trầm…
Đó! Hồn thiêng của Tổ Quốc thương tâm,
Đương trông đợi bầy con vùng đứng dậy,
Cô đă sớm được ḷng dân tin cậy,
Đáng thưởng cô khẩu súng hộ thân,
Và đây trước Tổ Tiên, Trời Đất, Quỷ Thần,
Cô nhận lấy, rồi phát lời tuyên thệ.
Em cảm động rưng rưng đôi mắt lệ,
Vừa hân hoan lại run sợ lạ thường.
Em đưa tay đỡ lấy vật thiêng liêng,
‘’Xin Trời Đất Quỷ Thần chứng giám
Con Nguyễn Thị Giang quyết hy sinh cho Đảng,
Với súng này con quyết thành nhân,
Sống cùng anh…mà thác cũng cùng anh con’’.
Cô Bắc:
Có hề ǵ em! Miễn ḷng ta trinh bạch,
Đă đồng chí tất phải đồng tâm.
Em Giang tôi là ‘’Nguyễn Thái Học phu nhân’’!
Vinh hiển lắm cho gia đ́nh ta đó vậy!
(Màn hạ nhanh)
Cảnh 2
Cô Giang:
Nam mô! Trời Đất! Quỷ Thần!
Ấp Cổ Vịt! Trời ơi! Ấp Cổ Vịt!
Thế là hết! Trời ơi! Thế là hết!
Anh hùng mạt lộ từ đây!
Giang sơn nghiêng ngửa biết ngày nào thôi!
Mà được rồi!
Việc ǵ phải than thở!
Ta cười lên! Hả! Hả! Hả!
Hả! Hả! Hả!
Ủa! Chung quanh ta đất trời nghiêng ngả!
Tan vỡ rồi! Mộng cả! Hỡi ḷng ơi!
Đền Hùng, lời khấn c̣n lời…
Nước chưa giải phóng! Thương người hùng anh!
Tàn nhẫn quá! Hỡi! Trời xanh cay nghiệt!
Khờ dại thay! Dân Cổ Vịt!
Mà ta phải đi! Phải đi ngay!
Cô Bắc: (tiến tới nắm tay Giang âu yếm)
Em Giang ơi hăy nghe chị dạy!
Phải b́nh tĩnh để xứng danh chiến sĩ!
Hăy nuốt lệ cắn răng trong cơn bĩ!
Chớ làm phiền bao đồng chí lo cho em,
Khóc và than chỉ tổ làm yếu mềm!
Cô Giang:
Em đâu có khóc!
Em nhớ rơ lời thề với anh Học,
‘’Sống cùng anh và thác cùng anh’’ kia mà!
Thôi chị buông em ra! Để em đi!
Cô Bắc:
Em đi đâu! Em đi làm ǵ!
Nguy hiểm lắm! Em đương khủng hoảng,
Tâm hồn em chưa hết cơn sảng loạn,
Em nói năng, cười khóc quá bất thường,
Bọn ma tà vây bủa khắp nẻo đường,
Hở một tí là không phương cứu chữa.
Cô Giang:
Nhưng chỉ c̣n một bữa!
Chỉ c̣n một bữa nữa thôi!
Chị Bắc ơi ? Rồi vĩnh biệt muôn đời!
Đi là sống!
Không đi là chết!
Mà sống hay chết quyết không cách biệt!
Em đă nhất quyết!
Chị để cho em đi!
Cô Bắc:
Em đi đâu! Em đi để làm ǵ ?
Nguy hiểm lắm! Em chưa định tĩnh!
Cô Giang:
Em đă suy tính,
Rất kỳ công!
Em phải đến pháp trường.
Cô Bắc:
Chết! Em muốn nạp thân!
Không được! Đảng rất cần,
Nữ đồng chí tài ba như em vậy,
Cô Giang:
Chính v́ thế em phải đi Yên Bái,
Cô Bắc: (ngạc nhiên)
Ồ! Em đi Yên Bái,
Cô Giang:
Vâng! Em đi Yên Bái,
Chúng đă muốn cho xương tan máu chảy,
Th́ em quyết cho máu chảy xương tan!
Thề xưa buộc trói muôn vàn,
Chị ôi! Yên Bái ngày tang muôn đời!
Chị cho em gửi đôi lời,
Biệt ly cha mẹ, giă từ anh em!
Dưỡng sinh chưa chút báo đền!
Sổ đồng chí đă ghi tên tự bao giờ!
Thề xưa không thể xoá mờ,
Súng này, bom ấy đương chờ nổ vang.
Cô Bắc:
Em quyết tới pháp trường,
Để tự vẫn.
Cô Giang:
Chị hỏi sao lẩn thẩn,
Em có buồn chi mà tự vẫn!
Không, em có buồn ǵ đâu!
Ngày mai Yên Bái rơi đầu,
Bao nhiêu anh kiệt hô câu ‘’Hận Trường’’!
Ai gieo buồn! Ai gieo thương! Ai gieo thảm!
Ai gieo tang tóc! Ai ḱm! Ai hăm!
Cả hai mươi triệu đồng bào,
Phải đem xương trắng máu đào
Viết trang chiến sử, nêu cao ngọn cờ…
Mà bây giờ mấy giờ rồi nhỉ ?
Em phải đi cho kịp chuyến tàu chiều.
Cô Bắc:
Em mang theo hành lư quá nhiều!
E bất tiện!
Bom này khó dấu kín!
Súng này quá kềnh càng!
Cô Giang:
Chị c̣n là chị Nguyễn Thị Giang!
Chở bao tạ súng, gươm mà không lộ…
Bom này em cho nổ
Súng này em cho vang,
Ngày mai Yên Bái pháp tràng,
Thực dân cũng phải thịt tan xương rời.
Thù nhà nợ nước đền bồi,
Lời thề mấy chốc thành lời sử xanh.
Sống cùng anh thác cùng anh…
C̣n bao đồng chí phải thành công mau.
Đồng bào đau khổ ngập đầu,
Em đi! Chị nhé! Đă gần
Đến giờ tầu chạy…
Cô Bắc:
Ôi! Ngày mai Yên Bái!
(màn hạ rất nhanh)
Cảnh 3
Lăo bà: (chủ quán ỡ giữa cánh đồng làng Đông Vệ)
Đêm đă khuya, chắc không có lữ khách,
Mà độ rầy ai c̣n dám đi đêm!
Bọn tuần đinh, đón xét, lục, xoát, t́m.
Gây phiền nhiễu dân t́nh ta oán quá,
Chúng đặc biệt bủa vây những quán lá,
Như quán ḿnh…thôi ra hạ cửa đi con.
.
Thiếu nữ: (con gái lăo bà, trông ra trời đêm tối tăm)
Trời tối đen, nặng trĩu khói u buồn,
Ḱa mấy v́ sao băng, băng liên tiếp…
Trong không khí có ǵ nghe khủng khiếp…
Thôi mau mau…
Cô Giang: (xuất hiện trong bộ đồ tang)
…khoan hạ bếp, c̣n lữ hành!
Thiếu nữ: (ngạc nhiên)
Mẹ ơi ? Khoan súc ấm trè xanh,
C̣n có khách!
Cô Giang: (đưa tay ra hiệu từ chối)
Chị không khát!
Chị ghé tạm trong vài phút lại đi.
Thiếu nữ: (nhận ra được)
Ủa chị Giang! Em tưởng khách lạ đâu đâu!
(im lặng nh́n cảm động)
Lăo bà:
Ủa Cô Giang! Sao từ lâu…
Cô Giang: (ra hiệu)
Xin thấp giọng
Đêm khuya thanh vắng…
Thiếu nữ:
Chị để chở cho ai mà mặc trắng ?
Cô Giang: (chậm răi)
Em ơi! Cả nước non…
Sụp đổ rồi mộng cả của tuổi son!
Tang Yên Bái! Em ơi! Tang Yên Bái!
Máu đă chảy! Máu anh hùng đă chảy!
Có bao giờ thấy lại vĩ nhân!
Lăo bà: (ngă quỵ xuống, ôm mặt khóc)
Đă xử rồi! Hỡi trời đất! Quỷ thần!
Ôi non nước! Từ đây ai dẫn dắt ?
Ôi! Tàn bạo! Cái lũ người cướp nước!
Cô Giang:
Kể làm sao cho hết nỗi căm hờn!
Xin lăo bà lai tỉnh để cho con.
Thưa chút chuyện, rồi con đi kẻo vội!
Lăo Bà:
Cô cứ nói.
Thiếu nữ:
Chị kể cho nghe, chúng xử làm sao!
Cô Giang:
Em lạ ǵ, số phận của anh hào!
Em ơi, xương trắng máu đào,
Cha sanh mẹ dưỡng cù lao tác thành.
Hiến thân là nợ anh hùng
Pháp trường Yên Bái cỏ xanh nhuộm đào.
Mười ba thủ cấp anh hào,
Rơi rơi liên tiếp, máu trào hùng kiêu!
Lưỡi dao xén mạnh cổ ĺa,
‘’Việt Nam Vạn Tuế’’ lời hô cuối cùng.
Xa trông chỉ thấy anh hùng,
Ung dung đưa mắt nh́n trông đồng bào,
Ư chừng người muốn biệt chào,
Rồi người nghiêm nghị tiến vào máy kia.
‘’Việt Nam Vạn Tuế’’ gươm rơi!
Thế là chấm dứt một đời hùng anh!
Em ơi em, mưu dũng không thành,
Súng này bom ấy chị đành khoanh tay!
Pháp tràng Yên Bái sáng nay.
Nổ tung không được, lính vây quá nhiều.
Than ôi! Sinh tử đă liều,
Quyết cùng liệt sĩ kính yêu chết cùng,
Mà không diễm phúc chết chung!
Th́ lời thề ấy…cũng không thể rời!
Thân không giúp ích cho đời!
Thù không trả được cho người t́nh chung!
Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
Quyết v́ dân chúng thể ḷng hy sinh,
Con đường tiến bộ mông mênh,
Éo le hoàn cảnh buộc ḿnh biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào,
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đă có ngày ghi tên!
Chết đi dạ những buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh chuân chuyên buộc ḿnh.
Đảng kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực ḷng nhỡ bước sa cơ!
Chết sầu chết thảm, có thừa xót xa!
Thế ru! Đời thế ru mà!
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!
Bà ơi! Con gửi thư này,
Xin nhờ chuyển lại cho thầy mẹ con.
Và đây một chút ḷng son,
Gửi cho đồng chí hăy c̣n sống sau.
Khuya rồi! Con phải đi mau,
Chúc bà trăm tuổi bạc đầu b́nh an.
C̣n em! Nhiệm vụ sẵn sàng,
Như xưa gánh vác cho hàng ngũ ta.
Cúi xin bái biệt lăo bà,
Chị đi em nhé! Canh gà đă khuya!
(vội bỏ ra đi)
Thiếu nữ: (tiễn theo ra cửa
Sương rơi ngọn cỏ đầm đ́a,
Khăn tang áo chế, đêm khuya một ḿnh,
Nước non nặng một khối t́nh,
Tay ai ném chiếc lưu tinh trên trời…
Lăo bà:
Than ôi! Nữ kiệt vá trời,
Từ nay luyện đá, không người luyện chung!
Nước non vắng khách anh hùng,
Bao giờ mới hết lao lung đọa đày!
Trời xanh sao ác quá thay!
Mười ba tuấn kiệt, một ngày cướp đi!
Đầu xanh có tội t́nh ǵ ?
Thương dân cứu nước tội ǵ hỡi ai ?
Ông Học ơi! Ông Học ơi!
Bao lần ông tới quán tôi họp bàn,
Mưu toan giành lại giang san,
Tuy già tôi cũng vào đoàn lăo nhân,
Quán này xơ xác nghèo bần,
Từng nghe Quốc tế, Tam dân luận bàn,
(có tiếng súng ngoài đồng vọng lại)
Đoành! Đoành!
Súng ai vừa mới nổ vang!!!
Thiếu nữ: (hớt hăi chạy vào)
Súng chị Giang! Súng chị Giang!
Trời ơi! Thêm một cái tang năo nùng!
Lăo bà: (lắc đầu đau đớn)
Lời thiêng khấn tại Đền Hùng!
Con mau hạ liếp, sắp lùng bố đây…
(màn hạ nhanh)
HẾT
THIÊN THỨ NHẤT
THIÊN THỨ HAI
THIÊN THỨ BA
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
The Beatles. French Music . Nhạc Pháp . Dalida . Jaune. Ngọc Lan. Thanh Lan. Elvis Phương. Best English1
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures. Dancing Music. 2015
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Federation of American Scientist
Người Việt Seatle