Đại sứ Martin nói về những ngày cuối tại Việt Nam.
Nguyễn Bá trạc phỏng dịch
(Trích từ trang 97, bản dịch tác phẩm "Tear of The Rain" (Nước Mắt Trước Cơn Mưa) của Larry Engelmann, Nguyễn Bá trạc phỏng dịch)
Nếu có một nhân vật biết được ngọn ngành mọi việc mọi tṛ của những người ở đấy (Sài G̣n, Việt Nam) th́ chính là tôi. Nhưng vào giờ phút cuối, có những người khác nữa làm ǵ, th́ chịu, tôi không biết đích xác cho nổi. Một ông đă gây rối cho tôi như thế lại chính là một bạn tốt, mà đến nay tôi vẫn thích, đó là Erich Von Marbod. Erich Von Marbod đến từ bộ Quốc pḥng. (Phụ tá thứ trưởng quốc pḥng) Ông ta cho không quân Việt Nam bay đi vài chiếc F-5 của họ sang Thái. Việc này trái lệnh tôi. Một mặt, chả quan hệ ǵ. Nhưng mặt khác, lại vô cùng hệ trọng. Bởi v́ tôi đă yêu cầu Kissinger một thời hạn, tôi nói là 2 tuần. Chúng tôi cố mang đi tất cả các nhà thầu cộng tác quốc pḥng mà chúng tôi không thể rơ hết là những người ấy ở những nơi nào. Không thể bỏ họ lại mà đi. Đó là lúc cần đ̣i hỏi sự chậm răi, sự thận trọng, cho nên việc Erich Von Marbod thuyết phục tướng Trần văn Minh cho mấy cái phi cơ bay sang Thái là một lỗi lầm rất lớn. Nó làm người Thái e ngại. Rồi những người đưa phi cơ sang bên ấy lại bị dấu diếm, họ không được báo trước rằng sau đó họ sẽ không được phép trở về với gia đ́nh. Để làm họ dịu xuống, người ta phải phục thuốc họ. Và chính những người này đă gây rối khi đến Guam. Lỗi của tôi, đáng lẽ tôi phải tống cổ Von Marbod từ hai ngày trước. Đáng lẽ tôi cũng phải tống cỗ cả Polgar đi; hắn không biết trời đất ǵ. Hắn không xứng đáng điều khiển cơ quan t́nh báo ở đấy. Hắn muốn chơi trội cùng với gă Malcolm Browne bên tờ Times và các ông bạn Hung Gia Lợi của hắn bên Ủy hội Quốc Tế kiểm soát đ́nh chiến, rồi cả William Colby lẫn Kissinger đều nói lại với tôi việc ấy và tôi đă nói với Polgar rằng nếu anh cứ tiếp tục làm những việc như thế, tôi sẽ cắt 2 cái ḥn dái nhét vào mỗi lổ tai của anh một ḥn. Jim Kean đă nghe tôi nói với hắn như thế trong cầu thang máy.
Tôi đă không có ǵ để ân hận nhiều ngoài việc ân hận đă không tống cổ cả Polgar lẫn Von Marbod từ sớm. Họ đi hay ở cũng chẳng có ǵ khác biệt. Chỉ có khác biệt trầm trọng mà sau đó tôi khám phá ra khi đọc tấm điện văn của các tướng Bắc Việt; họ nghĩ việc đưa mấy chiếc phi cơ sang Thái là chúng ta đă nuốt lời hứa với họ. Chúng ta đă nói chúng ta sẽ không mang các chiến cụ đi. Chúng ta chỉ muốn họ để chúng ta yên ổn ra đi trong trật tự. V́ họ nghĩ chúng ta nuốt lời, hôm sau họ pháo kích phi trường, giết mất vài Thủy quân Lục chiến của chúng ta. V́ vậy, đến lúc tôi phải hạ lệnh trực thăng vận. Đây là lúc mọi sự bắt đầu bung ra.
Tôi vào Tân sơn Nhất xem xét sau khi xảy ra vụ pháo kích. Hơn ba mươi năm trước, tôi đă là đại tá không quân, bổ nhiệm từ 1936, nên những chuyện phi cơ, cái ǵ bay được cái ǵ không, tôi nắm trong bàn tay. Tôi đă là tư lệnh phó sư đoàn Thái B́nh Dương thời đệ nhị thế chiến, kiêm chỉ huy quân báo. Việc ǵ tôi làm, tôi làm cật lực, tôi nắm vững, tôi biết rơ. Buổi sáng 29/4 hôm ấy ở phi trường Tân sơn Nhất, họ bảo tôi máy bay không đáp xuống được. Chuyện này vô lư. Ra tận đấy quan sát, tôi vẫn thấy chuyện họ nói chả nghĩa lư ǵ, người ta chỉ cần vác một chiếc xe díp quần ra phi đại ba mươi phút là dọn sạch mọi thứ vụn vặt. Nhưng lúc ấy, quả là bên quân đội Việt Nam bắt đầu rối loạn. Chỉ huy cao cấp đă chạy, Tân sơn Nhất không c̣n chỉ huy nữa. Trong t́nh trạng này nếu máy bay đáp xuống là bị tràn ngập bởi đám đông vô kiểm soát. Chúng tôi cần dựa vào quân đội Việt Nam để di tản trong ṿng trật tự, và chúng tôi cũng đă hứa với họ phút cuối sẽ bốc họ đi. Nhưng đến giây phút ấy, không c̣n có sự bảo vệ của họ nữa.
V́ Tân sơn Nhất hết đảm bảo được an ninh cho máy bay có cánh đáp xuống, nhưng khu vực văn pḥng tùy viên Quân sự hăy c̣n hệ thống pḥng thủ tốt, chúng tôi bèn cho trực thăng đáp xuống khu vực này thay v́ Tân sơn Nhất.
Tôi liên lạc với hạm đội, và với sự khẳng định của Hoa Thịnh Đốn, tôi nói với mọi người, tôi nói với rất nhiều người Việt là: "Chúng tôi không thể đảm bảo di tản tất cả quư vị. Nhưng nếu quư vị có thể dùng thuyền ra khơi, chúng tôi vớt.” Chúng tôi đă cho tàu đậu ngoài khơi ba ngày ṛng ră để vớt người đến khi tàu chật ních. Khi sĩ quan chỉ huy cho biết nếu cứ tiếp tục, có thể bị bệnh dịch đe dọa, lúc ấy tôi mới cho tàu đi. Tôi cũng ra lệnh cho 2 máy bay tại căn cứ Clark đáp xuống Vũng Tàu để bốc gia đ́nh lính Thủy quân lục chiến Việt Nam. Đề đốc Geyler phản đối nhưng tôi gạt đi. Hai chiếc máy bay đáp xuống, hoàn tất việc bốc trong ṿng mười lăm phút rồi thẳng cánh bay qua Clark. Từ giờ phút ấy, Thủy quân lục chiến thuộc quyền điều động của tôi. Họ phụ trách bảo vệ trong trường hợp chúng tôi cần di tản ra từ bải biển. Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương không có nhiệm vụ di tản người từ băi biển ra. Từ nhiều tuần trước ngay việc đáp phi cơ trinh sát xuống, họ cũng không chịu, nhưng chúng tôi vẫn cứ làm. Đấy, tôi đă phải đối phó công việc với những cách thức như vậy. C̣n về câu chuyện cây me, thật là một câu chuyện vô nghĩa. Hạ cái cây xuống cũng là chuyện hoàn toàn vô nghĩa. Cây me này chả mang môt biểu tượng ǵ. Về chuyện này, mục đích là tôi cố giữ cho Sài G̣n một bộ mặt yên tĩnh, phải tránh mấy chuyện rối loạn đă từng xảy ra ở Đà Nẵng, Nha Trang. Ngoài ra, quỷ thần ạ, cần ǵ phải chặt cái cây ấy để lấy chồ cho trực thăng? Nên tôi bảo” Để cái cây ấy yên đi” Đơn giản thế thôi. Khi cần phải chặt, chỉ mười phút là xong. Cuối cùng mọi sự cũng đă xảy ra y như vậy. Chúng tôi không muốn có một hành vi bộc lộ rằng chúng tôi đang thua chạy, để Sài G̣n phải nháo nhào lên.
Cái cây này tuyệt nhiên không biểu trưng ǵ cho sự có mặt của người Mỹ. Nhưng về một phương diện, Jim Kean cũng có lư khi nói vậy. Bởi v́ nó là cái dấu hiệu vật chất cho thấy chúng ta sắp rời đi, nên tôi phải che đậy. Việc tôi giữ cái cây ấy chẳng có ư nghĩa thâm thúy ǵ như đó là biểu tượng cam kết của chúng ta cả. Vào những giây phút chót, có nhiều việc không thể làm ngơ. Về những việc này bộ trưởng quốc pḥng James Schlesinger đáng phải lănh điểm xấu. Ông tỏ ra ngu xuẩn, nhiều phần trong con người ông luôn luôn như vậy
Chúng tôi có một gă tên Stuart Herrington làm dưới quyền đại tá Madison. Gă này đang giúp việc xếp người vào trực thăng trong sân ṭa Đại sứ. Gă có biết cái ǵ hơn là xếp người? Nhưng khổ nỗi, gă là thứ mồm loa mép giải, đáng lẽ biết th́ thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe. Đằng này ai hỏi ǵ gă cũng trả lời láo lếu. V́ thế khi các phi công bay vào, họ muốn hỏi tôi c̣n phải chở bao nhiêu người nữa, gă Herrington mau mồm nói "Hai ngàn hoặc hai ngàn rưởi nữa.” Ông đề đốc Noel Gayler ở ngoài hạm đội dăy nảy như gái ngồi phải cọc. Chở nhiều quá lỡ xảy ra tai nạn, ai gánh đây? Là người phụ trách công tác, ông ấy bèn áp lực khủng khiếp mà thúc chúng tôi “ Di tản người Mỹ! Di tản người Mỹ! Di tản người Mỹ xong là đi quách đi, bỏ những người khác lại.” Chuyện này không được. Đây là chuyện mà tôi từ chối. Brent Scowcroft đă hứa với tôi rằng sẽ có năm mươi chuyến trực thăng cho người Việt và Đại hàn mà chúng tôi cam kết. Chúng tôi đă đếm kỹ lưỡng số người khi kéo họ qua bức tường lọt vào ṭa Đại sứ. Nhiều người là những nhân vật trọng yếu, có người là bộ trưởng chính phủ. Tất nhiên chúng tôi không có ư định mang họ vào rồi bỏ họ mà đi! Khốn thay, lời nói của gă Herrington với viên phi công được chuyển tới ông đề đốc, rồi chuyển tới tư lệnh Thái b́nh Dương, lời nói ấy chuyển ṿng đến bộ trưởng quốc pḥng Schlesinger ở Ngũ Giác Đài. Các tướng tham mưu thúc hối Schlesinger rằng: “ Hễ cứ hỏi là lúc nào Martin cũng bảo c̣n 2000 nữa, bất kể đă chở được bao nhiêu. Cứ cái đà này đến phút chót vẫn là 2000!” Trong công tác bê bết máu lửa này dựa trên lời hứa Scowcroft, chúng tôi đă phải thực sự tính toán cẩn thận: Cứ mỗi chuyến chín mươi người. Ông ấy là cố vấn an ninh của tổng thống, không tin ở ông th́ tin vào trời đất quỷ thần nào? Thế rồi đột ngột họ gửi điện văn bảo: Chấm dứt. “ Chuyến trực thăng kế tiếp đến, xin ông đi cho!” Tất cà chỉ v́ gă Herrington này, và sau đó anh ta lại viết sách và trở nên một đại anh hùng!
Tôi cũng lấy làm phiền về viên chỉ huy an ninh ṭa đại sứ, người lănh trách nhiệm di tản cảnh sát Việt Nam. Tôi đă giữ riêng cho họ hai cái tàu trên sông, nhưng ông ta cứ lằng nhằng muốn đưa họ ra đi sớm. Phía tướng tá Việt Nam báo cho tôi biết: Không có cách ǵ để duy tŕ trật tự trong thành phố nếu tôi rút cảnh sát Sài G̣n đi. V́ thế tôi bảo ông ta khoan lại, đợi đến ba giờ trưa hăy đi. Ông ta bực bội chỉ muốn làm theo ư riêng ḿnh. Nhưng ông ta cũng đợi được đến ba giờ trưa rồi cho cảnh sát lên tàu di tản cùng với gia đ́nh họ. Tôi không có ǵ để than phiền nhiều về chiến dịch di tản này v́ tổng thống và Kissinger đều đứng bên tôi, hỗ trợ tôi cho đến tận giây phút cuối cùng.
Tôi không bảo chiến dịch ấy hoàn hảo, nhưng khi duyệt xét lại, tôi có quyền hỏi: “ Ai có thể làm khác hơn trong những hoàn cảnh đặc biệt ấy?”
Khi rời ṭa đại sứ tôi biết đấy là giây phút lịch sử. Chắc chắn như vậy, nhưng trước đây tôi từng hỏi Hoa thịnh Đốn: “ Chúng ta có sự lựa chọn, trong sự lựa chọn đó cần phải hỏi: Sau tôi, c̣n những việc ǵ sẽ xảy ra? Đối phương sẽ lấn chúng ta hơn nữa, ở khắp nơi trên thế giới. Chúng ta cần phải giữ những lời cam kết của chúng ta!”
Trong lúc trực thăng bay, tôi nghĩ chúng tôi đă rũ bỏ xong. Chúng tôi mang hết người Mỹ ra đi, đó là trách nhiệm chủ yếu của chúng tôi. Chúng tôi cũng mang được một số lớn người Việt trong khả năng chúng tôi. Đáng lẽ chúng tôi nên mang đi nhiều hơn nữa, chúng tôi đáng lẽ phải mang 400 con người cuối cùng ấy ra đi, nhưng rất tiếc chỉ v́ sự lôi thôi đă xảy ra trong lúc rối loạn như thế thôi.
Tôi nghĩ người Mỹ có quyền hănh diện về chiến dịch di tản. Phần tôi chẳng có ǵ dính liu đến chuyện phải xin lỗi cả.
Tôi đă nhận lănh nhiều trách cứ về vụ Việt Nam. Chính v́ thế mà rất lâu sau, đợi cho mọi thứ lắng xuống, tôi mới ra Quốc Hội để mọi người đứng lên nhận lănh trách nhiệm và nhận lỗi của ḿnh, và họ đă làm như thế.
Dẫu sao tôi cũng có nhiều điều thích thú. Tôi không bao giờ lo rằng ḿnh có thể bị giải nhiệm. Nên tôi tính nếu bị sa thải, th́ sẽ về ngồi với cái máy chữ mà viết.
Áp lực của nhóm chủ ḥa đă áp đặt trên hệ thống giáo dục, mà sự mù quáng của chủ trương “ đừng-làm-một-cái ǵ-có-thể-gây-tranh-luận-hoặc-bị-tấn-công” Đă có khuynh hướng chế ngự hệ thống giáo dục chúng ta, do đó các nhà xuất bản sách giáo khoa hoặc giả lơ chuyện Việt Nam, hoặc chỉ mô tả sơ sài nhạt nhẽo chẳng giúp ai có thể hiểu sự thực thế nào. Điểu này đáng tức cười, bởi v́ về phương diện khác, nó lại là điều tốt. Thỉnh thoảng nói chuyện với sinh viên, tôi nhận ra đa số chẳng những không hiểu biết ǵ, mà c̣n cực kỳ ngây thơ về chuyện Việt Nam. Nhưng chính v́ thế, họ lại có thể t́m hiểu với một quan điểm hoàn toàn khách quan. Chính v́ thế, họ trở thành nhóm người duy nhất tại nước Mỹ có thể nh́n mọi sự với quan điểm khách quan ấy. Nhưng v́ vậy , khi thấy được những sự kiện phô bày đầy đủ rơ rệt trước mắt, họ bực tức v́ họ đă bị bưng bít, do đă bị từ chối trong việc t́m hiểu và đă chỉ được đọc một phần của cả vấn đề.
Hiển nhiên, sau này các sử gia sẽ đào sâu mở rộng hơn. Có lẽ họ sẽ đối xử rất tử tế với tôi, có lẽ c̣n hơn cả sự xứng đáng của tôi. Dầu vậy, chúng ta hăy c̣n biết bao nhiêu chuyện trời đất mà những chuyện ấy vẫn chưa từng được kể hết ra! (Hết trích)
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám