Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Vietnamese Commandos' Hearing  History Document

 

 

 NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ

HOÀNG SA & TRƯỜNG SA

 

 

 

CHƯƠNG 1

VỊ TRÍ, ĐỊA LƯ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA .

1.1 TÊN GỌI VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LƯ CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA &TRƯỜNG SA.

Trước đây trong một thời gian dài, người Việt và người Phương Tây đều tưởng ở giữa Biển Đông chỉ có một quần đảo dài, đều gọi một tên chung, rất nhất quán. Người Việt gọi là Băi Cát Vàng (罢洁黄) hay Cồn Vàng hoặc Hoàng Sa (群黄 ). Hoặc có khi gọi là Đại Trường Sa (大長 ) hay Vạn Lư Trường Sa (萬里長沙). Băi Cát (Kát) Vàng hay Cồn Vàng là gốc từ chữ Nôm, Hoàng Sa gốc từ chữ Hán, đều đồng nghĩa ( Sa = Cát, Hoàng = Vàng; Trường = Dài; Đại = Lớn; Vạn Lư = Vạn Dặm; Băi là chỗ đất nổi lên ở ven hay giữa sông , biển; Cồn là g̣ đống nổi lên ở giữa sông hay biển).

Danh xưng từ chữ nôm"Cát Vàng" rất được thông dụng trong dân gian, được dân gian đặt tên sớm. Tên gọi từ chữ Hán “Hoàng Sa” được giới nho sĩ dịch và viết ra về sau.

Người Bồ Đào Nha, Hà Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel ( tiếng Bồ Đào Nha, Parcel có nghĩa là đá ngầm - ám tiêu; xem Eduardo Pinheiro, Dictionário Da Língua Portuguesa, Porto, Tipografia Sequeira, L.DA, 1948, tr.1042) vào đầu thế kỷ XVI; khi ấy người Phương Tây chưa biết đến các đảo ở phía Nam mà sau này gọi là Trường Sa; trên bản đồ thường ghi”I de Pracell”như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590).,bản đồVan Langren (1595)… Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên các bản đồ hàng hải.

Măi đến năm 1787-1788, khi đoàn khảo sát Kergariou Locmaria xác định rơ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay, người Phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở phiá Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 trong thế kỷ XX người Pháp mới gọi là Spratly(1.1) chỉ chung cho quần đảo Trường Sa . C̣n đối với người Việt, từ đầu thế kỷ XVIII đă kiểm soát vùng Biển Đông tới tận Hà Tiên, như Lê Quư Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục đă cho biết Đội Bắc Hải trực thuộc Đội Hoàng Sa đă phụ trách riêng các đảo phía Nam của Bắc Hải và tới tận Côn Lôn, Hà Tiên. Tuy sang thế kỷ XIX, đă thấy địa danh Vạn Lư Trường Sa ở phía Nam ghi cùng với Hoàng Sa ở phía Bắc trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, song vẫn chưa phân biệt thật rơ rệt mà vẫn chỉ chung một quần thể. Ngay thời Ngô Đ́nh Diệm năm 1956 cũng thể hiện khái niệm “hai quần đảo là một” khi trong văn bản ghi Hoàng Sa chỉ cả hai quần đảo Paracel và Spratley. Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rơ ràng giữa danh xưng quần đảo tên Việt và tên Phương Tây, khi Giám Mục Taberd ghi rất rơ ràng ở bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ với hàng chữ: Paracel seu Cát Vàng . (Tiếng Latinh seu = hoặc là). Cũng chính Giám mục Taberd đă viết Paracels được người Việt gọi là Cát  Vàng trong cuốn Univers, Histoire et Description de Tous Les Peuples, de Leurs Religions, Moeurs et Coutumes (1833). Điều này không hề có ở Trung Quốc cũng như bất cứ nước nào khác. Chỉ ở Việt Nam mới chắc chắn Cát Vàng hay Hoàng Sa chính là Paracel do Phương Tây đặt tên.Chính điều này là bằng chứng rất rơ ràng người Phương Tây ít ra từ đầu thế kỷ XIX đă xác nhận Paracel chính là Cát ( Kát) Vàng tức Hoàng

Sa của Việt Nam. Thật khác với người Phương Tây hay Trung Quốc, tên gọi được đặt hai quần đảo này chỉ thuần túy do nhu cầu hàng hải,tên gọi Hoàng Sa được người Việt đặt do việc xác lập chủ quyền ở hai quần đảo này, bởi đồng thời “Hoàng Sa “dùng để chỉ tên một tổ chức do nhà nước thành lập khai thác, kiểm soát, làm chủ các hải đảo mang tên “Hoàng Sa”. Như thế bản thân tên gọi”Hoàng Sa”là bằng chứng cho sự xác lập cũng như thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa nằm trong Biển Đông. Đă từ lâu, người Việt đă nói đến Biển Đông trong ca dao tục ngữ: “Thuận vợ, thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn” hay “Dă tràng xe cát Biển Đông”. Người Trung Hoa thường gọi là Nam Hải, song cũng tùy theo từng thời kỳ lịch sử người Trung Hoa đă tên gọi khác nhau như biển Giao Chỉ ( Giao Chỉ Dương). Ngoài ra, ven tỉnh Quảng Đông, người Trung Hoa c̣n gọi là Việt Hải,Việt Dương. Các nhà hàng hải Phương Tây từ thế kỷ XVI thường gọi là biển Champa (Ciampa), hay biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa. Cũng như người ta thường gọi biển kế cận Ấn Độ là Ấn Độ Dương. Song chẳng bao giờ Ấn Độ Dương là của Ấn Độ cũng như Biển Trung Hoa là của Trung Hoa cả. Đúng ra, Biển Đông bao quanh hầu hết các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, nên phải gọi là Biển Đông Nam Á mới đúng.

Từ nhiều thập niên qua, đă có nhiều nhà khoa học cố gắng giải thích sự h́nh thành nền văn hóa hàng hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông Nam Á nói chung, có những sắc thái hoàn toàn khác với văn hoá lục địa Trung Hoa. Một số lư thuyết được tóm tắt như sau: Chrester Norman cho rằng nền Văn Minh Ḥa B́nh được tạo dựng trong thời gian lục địa Sunda bị ngập nước. Khi đó Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan lúc trước là hai vùng đồng bằng trũng. Lư thuyết Norman cho rằng một số dân Đông Nam Á khởi sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên hải, sau này hội nhập với dân cư vùng cao nguyên, nhưng rồi lại trở về vùng đồng bằng gần biển, sau nữa phát triển về hàng hải (“The Hoabinhian and After: Subsistence Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods”,World Archaecology 2, No.3, 1971, pp 300-320). [107] Wilheim G.Solheim cho rằng 6000 năm trước, dân Đông Nam Á đă mạo hiểm ra khơi. Gió băo và hải lưu của Biển Đông và Thái B́nh Dương đă cuốn trôi một số người tới Nhật Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Philippines, Indonesia, Malaysia. Tiếp theo, những toán dân chúng di chuyển tới các đảo ở ngoài khơi Thái B́nh Dương và sang Madagascar. Cũng theo Solheim, Biển Đông thời cổ c̣n là nơi phát sinh những đường hàng hải giao tiếp với các nơi ở dọc biển Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và cả Mỹ Châu nữa. Solheim lư luận rằng chỉ có sự kiện Đông Nam Á giữ vai tṛ trung tâm phân tán như trục một cái bánh xe tỏa nan hoa ra khắp nơi mới giải thích được hiện tượng lịch sử là tại sao các chủng tộc khác biệt của loài người sống xa cách nhau trên thế giới lại có nhiều sự tương đồng về sinh hoạt văn hoá như vậy (“World Ethnographic Sample...A Possible Historical Explanation”,American Anthropologist, 70, 1968, p569). [107]

Nhà ngữ học Pháp Paul Rivet đă có nhiều cuộc nghiên cứu và kết luận rằng: “Từ Đông Nam Á, một thứ ngôn ngữ đă được truyền bá đi bằng đường hàng hải đến Nhật Bản, Tasmania, Địa Trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu”(Sumerien et Océanien, Collection Linguistique, Paris, 1929).(h́nh 1.1) [107] Carl Sauer duyệt xét những biến chuyển về địa lư Biển Đông, ư thức tầm quan trọng của ngư nghiệp và hàng hải trong tiến tŕnh văn minh Đông Á thời cổ, khác biệt hẳn với các nơi khác trên thế giới. V́ Biển Đông có hai vụ gió mùa, nên việc hải hành viễn duyên khi đi cũng như khi về rất tiện lợi. Sự trao đổi hàng hóa nâng cao kỹ thuật chế tạo phẩm vật. Trước đây 2500 năm, trống đồng chính là thành tích rơ ràng nhất minh chứng khả năng hàng hải của dân Lạc Việt.(Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York, 1952, pp24-25)[ 107 ]. Những hoa văn nhiều h́nh thuyền trên trống đồng, thạp đồng thời đại Đông Sơn, thời đại Hùng Vương đă minh chứng hùng hồn dân Việt thời cổ đă coi trọng phương tiện đi lại bằng thuyền như thế nào! Có những dự đoán của các nhà khoa học, chừng một vài thiên kỷ sắp đến, mực nước Biển Đông sẽ bắt đầu rút trở xuống. Căn cứ vào mực nước biển lên xuống trong quá khứ, nếu không có ǵ thay đổi, trong ṿng dăm ba ngàn năm tới, cả Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan sẽ trở thành khô cạn, Biển Đông trở thành biển nội địa, đường hàng hải quốc tế không c̣n qua Biển Đông nữa (Xem bản đồ của National Geographic, March, 1971) . (h́nh 1.2, h́nh 1.3) [107] Hai quần đảo cách nhau khoảng 500km, trải dài từ Bắc xuống Nam khoảng 11 vĩ độ, từ vĩ độ 17o 05B xuống 6o20’9’’B, từ Tây sang Đông khoảng 7 kinh độ, từ kinh độ 110o Đ đến kinh độ 117oĐ. Cả hai quần đảo này gồm nhiều đảo, đá, băi cạn có nguồn gốc san hô. Tổng diện tích phần thường xuyên nổi lên mặt nước của mỗi quần đảo  khoảng hơn 10km2. Tuy hai quần đảo cách xa nhau song mỗi quần đảo lại có một số đảo gần miền bờ biển đất liền nhô ra biển của Việt Nam tức vùng đất từ mũi Ba Làng An đến mũi Kê Gà (từ Quăng Ngăi đến B́nh Thuận). Vị trí này khiến dân từ Quảng Ngăi đến B́nh Thuận có mối liên hệ lâu đời với hai quần đảo trên mà người Việt trong một thời gian dài đă coi gộp chung là một như chúng ta đă biết hoặc gọi là Hoàng Sa, hoặc gọi là Vạn Lư Trường Sa ( Xem h́nh 1.4, 1.5, 1.6).

 

1.2 QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 , giữa kinh tuyến 111 độ Đ đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lư (1 hải lư = 1,853 km), từ 17o05’ xuống 15o,45’độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lư; xung quanh là vùng biển có độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m. Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngăi.

Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt Nam hơn cả: Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan:15độ vĩ B, 108độ 6’ kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lư , cách Cù Lao Ré chỉ có 123 hải lư, trong khi đó khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lư (đảo Hoàng Sa-Pattle:16 độ vĩ B, 111độ6’ kinh Đ và Ling-Sui hay Leong Soi : 18độ vĩ B, 110 độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa c̣n xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lư . (h́nh 1.7 )

Đoạn bờ biển từ Quảng Trị chạy dài xuống tới Quảng Ngăi đối mặt với các đảo Hoàng Sa luôn hứng gió Mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vô, nên thường tiếp nhâïn các thuyền bị băo làm hư hại ở vùng biển Hoàng Sa ( h́nh 1.8). Các vua chúa Việt Nam hay chu cấp phương tiện cho các thuyền bị nạn ấy về nước, nên họ thường bảo nhau t́m cách tạt vào bờ biển của Việt Nam để nhờ cứu giúp. Chính v́ thế, Hoàng Sa từ rất sớm đă được người Việt biết tới, hết sức quan tâm, cùng xác lập và thực thi chủ quyền của ḿnh.Trong khoảng 30 đảo, đá, băi, cồn, ḥn trên, hiện có 23 đă được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 băi, 3 đá, 1 cồn, 1 ḥn. Các đảo trên không cao, cao nhất là Đảo Ḥn Đá (50 feet), đảo thấp nhất là Đảo Tri Tôn (10 feet). Các đảo chính gồm 2 nhóm: - Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam. - Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group) ở Đông Bắc.

 

1.2.1 Nhóm Lưỡi Liềm:

Nhóm Lưỡi Liềm c̣n gọi là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, theo như Sơn Hồng Đức nếu nh́n từ máy bay xuống , nhóm đảo này trông h́nh như chiếc bánh “croissant” châu đầu vào nhau. Có 7 đảo chính và vô số mỏm đá: Đảo Hoàng Sa (Pattle, Shanhu Dao) (h́nh 1.9, đảo Hoàng Sa) [Tập San sử Địa số 29] Tuy là đảo chính nhưng không phải là đảo lớn nhất, có vị trí quân sự quan trọng nhất cho việc pḥng thủ bờ biển Việt Nam, hơn cả đảo Phú Lâm. Đảo nằm trên tọa độ 16 độ 32,3 vĩ B , 111độ 35,7 kinh Đ, h́nh bầu dục, dài khoảng hơn 900m, rộng khoảng gần 700m, diện tích chừng 0,3km2 (30ha) [27, tr.21]gồm cả ṿng san hô bao quanh. Trước ngày 19 tháng 1 năm 1974, ngày Trung Quốc xâm chiếm, đảo này đă được Việt Nam xây dựng căn cứ quân sự, nhà cửa, đài khí tượng, hải đăng, miếu thờ Bà, cầu tàu, bia chủ quyền. Cho đến ngày Trung Quốc xâm chiếm, bia chủ quyền vẫn c̣n gịng chữ như sau: “République FranÇaise - Empire d’Annam-Archipel des Paracels”. Về Đông Bắc Đảo vẫn c̣n vài ngôi mộ binh lính thời Nhà Nguyễn. Phía Tây Nam đảo có một am thờ gọi là Miếu Bà, có một pho tượng Phật Bà Quan Aâm (h́nh 1.10). Đài khí tượng với danh xưng “Station d’Observation 838” chính thức hoạt động từ năm 1938 thường với 5 nhân viên thuộc ty Khí tuợng Hoàng Sa do chính quyền Nam Việt Nam quản lư (h́nh 1.11). Từ năm 1931 đến 1975 thường xuyên có một trung đội lính từ Quảng Nam (Trung bộ Việt Nam) (h́nh 1.12, h́nh 1.13) [Tập San Sử Địa số 29]. Đảo Hữu Nhật (Robert, Canquan Dao hay Cam Tuyền) (h́nh 1.14, h́nh 1.15) Đảo mang tên suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa đo đạc thủy tŕnh, vẽ bản đồ vào năm 1836. Phía Nam đảo Hoàng Sa cách độ 3 hải lư, h́nh bàu tṛn, đường kính 800m, chu vi 2000 m, diện tích khoảng 0.32km2 (32ha) [17,tr.20] có ṿng đai san hô bao ngoài xa, giữa là vùng bể lặng. Nằm ở tọa độ 111độ344’kinh Đ, 16độ 30’60 vĩ B . Chung quanh đảo cây cối um tùm, chính giữa là ḷng chảo không sâu cho lắm. Biển quanh đảo có nhiều rong biển, phủ kín cả mặt biển. Nơi đảo này v́ không người ở, nên con vít thường lên bờ đẻ la liệt từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch. Đảo Duy Mộng (Drummond, Jinquing Dao) Đảo ở phiá Đông Nam đảo Hữu Nhật, phía Đông Bắc đảo Quang Hoà, nằm trên tọa độ 111 o 44’kinh Đ,16 o 28’ vĩ B, cũng do san hô cấu tạo thành, băi san hô ra xa đảo, nhô lên khỏi mặt nước khoảng 4m. Đảo h́nh bầu dục, diện tích khoảng 0,41km2(41ha) [17,tr.21] không có loại cây lớn, chỉ toàn loại cây nhỏ. Giữa đảo là vùng đất trống, có thể định cư được. Đảo có một con lạch nhỏ, có thể dùng ghe nhỏ vào sâu trong nội địa. Tàu có thể neo cách đảo 200m. Có nhiều chim biển và con vít sống trên đảo.

Đảo Quang Ḥa (Duncan, Chenhang Dao) (h́nh 1.16) Đảo nằm trên toạ độ 111o42’kinh Đ, 16o 26’ vĩ B cũng do san hô tạo thành, là đảo lớn nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group), Chung quanh đảo là băi cát mầu vàng (hoàng sa hay cát vàng). Ṿng san hô lan ra rất xa khỏi b́a đảo. Cạnh đảo lớn c̣n có những đảo nhỏ, nối liền nhau bằng băi cát dài. Một vài bản đồ địa chất ghi Quang Hoà thành hai đảo Quang Hoà Đông và Quang Hoà Tây. - Quang Hoà Đông có rừng cây nhàu, một loại cây dùng để làm thuốc thường thấy ở Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo, nhiều cây cao tới 5 m. Phần đảo phía Đông trơ trụi chỉ có dây leo sát mặt đất. Chu vi đảo 2.700m, diện tích khoảng 0,48km2 (48ha) [17, tr.21] - Quang Hoà Tây là một đảo nhỏ, gần h́nh tṛn, chu vi 1000m, chỉ bằng 1/10 đảo Quang Hoà Đông, khoảng 0,09 km2 (9ha), cùng có những loại cây như ở đảo Quang Hoà Đông nhưng chỉ cao khoảng 3m. Đảo Quang Aûnh ( Money Island, Jinyin dao, Kim Ngân (TQ)) (h́nh 1.17) Đảo nằm ở trên toạ độ 1110 36’kinh Đ, 1600 27’ vĩ B do san hô tạo thành, nhô lên mặt nước độ 6 m, nơi cao nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung quanh đảo bờ biển có nhiều đá ngầm sắc nhọn rất nguy hiểm, tàu lớn không thể cặp neo được. Các tàu lớn phải neo ở ngoài khơi, muốn vào đảo phải sử dụng thuyền nhỏ. V́ địa thế hiểm trở và trên đảo không có nước ngọt, nên ít vết chân người lui tới.

Đảo mang tên Phạm Quang Aûnh, một đội trưởng Hoàng Sa được vua Gia Long sai đo đạc thủy tŕnh ở Hoàng Sa năm 1815, hiện có hậu duệ và nhà thờ họ ở Cù Lao Ré. Đảo h́nh bầu dục, hơi tṛn, chu vi khoảng 2.100 m, diện tích khoảng 0,3 km2 (30 ha) [17,tr.21] Có một số cây lớn mọc ở giữa đảo cao tới 5 m. Ở phía ngoài của đảo có các cây phosphorite và một loại cây khác giống cây mít không có trái. Nhóm đảo Lưỡi Liềm ngoài 5 đảo trên c̣n 4 đảo nhỏ như đảo BaBa (Hoàn Thử, 1110 40 kinh Đ, 160 36 vĩ B), đảo Ốc Hoa (Toàn Phủ, 1110 38 kinh Đ, 160 36 vĩ B), đảo Lưỡi Liềm (Crescent Island, Đảo Thạch, 1110 46 kinh Đ, 160 34 vĩ B), đảo Xà Cừ (1110 42 kinh Đ, 160 33 vĩ B ), và các đá như đá Hải Sâm (Antelope Reef, 1110 34 kinh Đ, 160 29 vĩ B), đá Lồi (Discovery Reef, Yuzhuo Jiao, 1110 40 kinh Đ, 160 14 vĩ B), đá Chim Yến (Vuladdore Reef, 1120 04 kinh Đ, 160 21 vĩ B), đá Bạch Qui (Passu Keah Reef,Panshi Yu, 1110 455 kinh Đ, 160 03 vĩ B). 1.2.2 Nhóm An Vĩnh (1.2) (Amphitrite Groupe, (1.3) Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn và cao nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa, cũng là các đảo san hô lớn nhất của Biển Đông.Đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm. Đảo Phú Lâm (Woody Island, YongxingDao) Đảo nằm ở toạ độ 112 20 kinh Đ, 160 50 vĩ B. Đảo lớn nhất trong quần đảo,bề dài 3.700m và ngang 2.800m [31, tr.185].Trên đảo cây cối um tùm, có vài cây dừa, nên gọi là Phú Lâm. Ở đây chim hải âu sinh nở từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, để lại một lớp guano (phân đen) dày tới 50 cm. Đây là đảo duy nhất từ xa có thể nh́n thấy được.

Đảo có cầu tàu lớn, sân bay, đài kiểm báo và nhiều phương tiện quân sự khác. Các đảo khác Tất cả các đảo, băi thuộc quần đảo Hoàng Sa đều ở dưới vĩ tuyến 17, trừ Đá Bắc (North Reef, Beijiao, 1110 381 kinh Đ, 170 05 vĩ B), tại băi này có nhiều xác tàu bị đắm nhiều nhất. Cụm An Vĩnh c̣n có đảo Cây (Tree Island, Zhaoshudao), 112016 kinh Đ, 160 50 vĩ B) Nhà cầm quyền thực dân Pháp đă xây dựng một đài quan trắc khí tượng, số hiệu trong danh sách World Meteorological Organisation là 48859. Đảo Bắc (North Island, Beidao, 1120 183 kinh Đ, 160 57 vĩ B) Đảo Nam (South Island, Nandao, 1120 197 kinh Đ, 160 567 vĩ B) Đảo Giữa (Middle Island, Zhongdao, 1120 197 kinh Đ, 160 567 vĩ B) Đảo Đá (Rocky Island, 1120 19 kinh Đ, 160 51 vĩ B) ở phía Tây Bắc đảo Phú Lâm. Cồn Cát Tây (West Sand, Xi Shazhou, 1120 12 kinh Đ, 160 587 vĩ B) Cồn Cát Nam (South Sand, Nan Shazhou, 1120 203 kinh Đ, 160 57 vĩ B) 1.2.3 Nhóm Linh Côn Nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đảo nằm vào kinh độ 1120 44 kinh Đ, vĩ độ 160 40. Các đảo thuộc nhóm này không mấy quan trọng, chỉ là những mỏm san hô nhấp nhô trên mặt nước biển. Linh Côn là tên một chiếc tàu bị nạn ở đây vào đầu thế kỷ XX. Lớn nhứt là đảo Linh Côn, diện tích chừng 1,62 km2, trên đảo có nước ngọt. Vùng san hô bao quanh kéo dài về phía Nam tới 15 hải lư. Phía Tây nhóm đảo Linh Côn, c̣n có Đá Tháp (Pyramid Island, 1120 385 kinh Đ, 160 345 vĩ B), băi Thủy Tề (Neptuna Bank, Beibianlang, 1120 31 kinh Đ, 160 30vĩB ). Phía Nam, Tây Nam c̣n có băi Quảng Nghĩa (Jehangir Bank, Zhanhan tan), băi Châu Nhai (Bremen Bank, Bimmeitan), băi Tân Mê (1120 32 kinh Đ, 160 18 vĩ B), băi Bồng Bay (Bombay Reef, Langhua jiao, 1120 30 kinh Đ, 160 02 vĩ B), băi G̣ Nói (Dido Bank, Xidu tan, 1120 55 kinh Đ, 160 49 vĩ B), băi Ốc Tai Voi (Herald Bank, 1120 16 kinh Đ, 150 40 vĩ B), Băi La Mác (1110 34 kinh Đ, 160 31 vĩ B). Ngoài ra ở cực Nam c̣n có đảo Tri Tôn (Triton Island, Zhongjian dao, 1110 12kinh Đ, 150 46 vĩ B). Đây là ḥn đảo đơn độc, ít người lui tới, nhưng rất nhiều hải sản, san hô đủ màu.

 

1.3 QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA. (H̀NH 1.18)

Người Pháp gọi là Archipel des ưles Spratly, người Anh, Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo, Philippines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinnan Guto. Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa hiện nay tính đến đảo gần nhất vào khoảng 350 hải lư, đảo xa nhất 500 hải lư, cách Vũng Tàu 305 hải lư, Cam Ranh 250 hải lư, đảo Phú Quốc 240 hải lư, cách B́nh Thuận (Phan Thiết) 270 hải lư. Quần đảo trải dài từ vĩ độ 60 2 vĩ B tới 110 28 vĩ B, (1.4) từ kinh độ 1120 Đ đến 1150Đ trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km2 - 180.000km2 . Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, băi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11 km2. Về số lượng đảo theo thống kê của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển thuộc Ban Biên Giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, băi (1.5) không kể 5 băi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm băi Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính) (1.6). Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị chính và các đảo, đá, băi phụ cận. Philippines đă liệt kê một danh sách 53 đơn vị gồm ḥn đảo và cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản Đồ Quân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia làm 9 cụm chính kể từ Bắc xuống Nam :

1. 3.1 Cụm Song Tử gồm 2 đảo, 2 đá, 2 băi : • Đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây. Song Tử Đông (Northeast Cay, Pei Zi Dao hay Pei -tzu Tao (Trung Quốc), Parola Isl. (Phi), 11027 vĩ B, 1140 21 kinh Đ) Song Tử Tây (Southwest Cay, Nan Zi Dao hay Nan -tzu Tao (Trung Quốc), Pugad Isl., (Phi) 110255 vĩ B, 1140 20 kinh Đ) Hai ḥn đảo này như sinh đôi nằm ở cực Bắc của quần đảo Trường Sa, ngang vĩ độ với Phan Rang (Ninh Thuận). Chính v́ có vị trí này mà đội Bắc Hải hoạt động ở vùng này từ cuối thế kỷ XVII lấy xuất đinh từ tỉnh B́nh Thuận. Trên đảo có những cây cao trung b́nh, nhiều phân chim có thể chế biến thành phân bón. Ṿng quanh hai đảo này, về phía Đông và Nam chừng năm hải lư có nhiều mỏm đá ngầm. Rong biển mọc nhiều ở đây. Song Tử Đông hơi tṛn( h́nh.1.19), diện tích gần 20 acres, dài 900m , rộng 250m, cao độ 3m, có nhiều băi cát và san hô xung quanh, nhiều cây cối, một ít dừa. Năm 1963, Việt Nam Cộng Hoà có dựng một bia chủ quyền (h́nh 1.20). Philippines

cho quân chiếm đóng từ năm 1968.

Song Tử Tây h́nh lưỡi liềm (hinh 1.21), diện tích nhỏ hơn Song Tử Đông, dài 700m, rộng 300m, có nước ngọt, có một vườn dừa và nhiều cây nhỏ. Có tháp rađa thời Việt Nam Cộng Hoà. Hiện Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đang trấn giữ cả ḥn đảo ( h́nh 1.22) .

Cụm Song Tử c̣n có Đá Bắc (North Reef , Pei Jiao hay Tung - pei -Chiao (Trung Quốc), 11028 vĩ B, 114023 kinh Đ), Đá Nam (South Reef, Nan Jiao hay Nai -lo - Chiao, 11023 vĩ B, 1140 18 kinh Đ) Phía Đông cụm Song Tử c̣n có băi cạn Đinh Ba ở phía Bắc (Trident Shoal, Yong deng Ansha hay Yung -teng An - sha (Trung Quốc ), TatLong, Tulis Shoal (Phi), 11020, 1140 42 kinh Đ) và băi Núi Cầu (Lys Shoal, Lesi Ansha (Trung Quốc ), Bisugo Shoal (Phi), 110205 vĩ B, 1140 35 kinh Đ ở phía Nam.

 

1.3.2 Cụm đảo Thị Tứ

Ở phía Nam cụm Song Tử, gồm đảo Thị Tứ và các băi đá. -Đảo Thị Tứ (ThiTu Island, Zhong Ye Dao hay Chung -Yeh Tao (Trung Quốc), Pagasa Isl (Phi), 110027 vĩ B, 1140 17 kinh Đ). Đảo nằm ở phía Đông Bắc của đảo Trường Sa (Spratley) do san hô tạo thành lẫn với cát trắng và đá vôi (h́nh 1.23). Đảo h́nh bầu dục, bề ngang 550m, dài 700m, có giếng nước ngọt. Trên đảo có cây mù u, cây bàng, nhiều cây leo chằng chịt. Chung quanh đảo có rất nhiều rong biển và các băi đá ngầm. Quanh đảo có nhiều cá, đồn đột, rong biển. (Quân binh Philippines bắt đầu đổ bộ năm 1968 song chiếm đóng hẳn năm 1970, xây phi đạo nối dài ra biển, xây dựng thành căn cứ chính). -Phía Bắc đảo Thị Tứ gồm Đá Hoài Aân (Xandi, 11003 vĩ B, 1140 134 kinh Đ), đá Tri Lễ (Sand Cay, 110037 vĩ B, 1140 154, đá Trâm Đức (110045 vĩ B, 1140 22kinh Đ),đá Vĩnh Hảo (110045 vĩ B, 1140 22 kinh Đ), đá Cái Vung (110079 vĩ B, 1140 115 kinh Đ). -Phía Nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi (Subi Reef, Zhu Bi Jiao, Zamora Reef (Phi), 10054 vĩ B, 1140 06 kinh Đ), cách đảo Thị Tứ chừng 14 hải lư (đă bị Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chiếm đóng năm 1988) .

 

1.3.3 Cụm đá Loai Ta

Ở phía Đông cụm Thị Tứ, gồm đảo Loai Ta phía dưới và cồn san hô Lancan hay An Nhơn (Lankian Cay, Yang xin Zhou, Panata, 10045 vĩ B, 1140 33 kinh Đ) ở phía Đông. Phía Bắc cụm là đảo Loai Ta (100407 vĩ B, 1140 248 kinh Đ, Loaita Island, Nan Yue Dao (Trung Quốc), Kota (Phi) (h́nh 1.24) ). Đảo h́nh tṛn, đường kính 300m, cao chừng 2 m, nhiều cây lớn mọc quanh đảo. Phía Bắc đảo có nhiều cây dừa. Ṿng quanh đảo có nhiều băi cát trắng tạo nên vẻ đẹp nên thơ, Có giếng nước ngọt nhưng rất ít nước. Philippines chiếm đóng đảo sau 1970.

Cụm c̣n có đá An Lăo (Menzies Reef, Mong zi Jiao (Trung Quốc), Lakandula Reef, 110083 vĩ B, 1140 48 kinh Đ), băi Đường (Chang tan (Trung Quốc), 110 vĩB, 1140 42 kinh Đ), băi An Nhơn Bắc (đá cuội) (Ku gui Jiao (Trung Quốc), 100465vĩB, 1140 34 kinh Đ) băi Loại Ta (Loaita Reef, Shuan huan Shazhou, 100422 vĩ B, 1140 210 kinh Đ), băi Loại Ta Nam (Loaita Bank, Shuan huan Shazhou, 100427 vĩ B, 1140 195 kinh Đ). Phía Đông cụm Loại Ta c̣n có đảo Dừa và Đá Cá Nhám.

 

1.3.4 Cụm đảo Nam Yết hay Ti Gia

+ Ở phía Nam cụm Loại Ta, nằm kết một ṿng san hô Tizard Bank, gồm đảo Nam Yết (Namyit Island, Hong xiu dao, 100 11 vĩ B, 1140 217 kinh Đ), đảo Sơn Ca (Sand Cay, Dungian shazhou, 100 227 vĩ B, 1140 285 kinh Đ), đảo Ba B́nh (Itu Aba Island, Taiping dao, 100 228 vĩ B, 1140 217 kinh Đ), cùng băi Bàn Than (100 231 vĩ B, 1140 245 kinh Đ), đá Núi Thị (Petley Reef, Bolan jiao, 100 247 vĩB, 1140 348 kinh Đ), đá Eùn Đất (Eldad Reef, Anda jiao, 100 21 vĩ B, 1140 41 kinh Đ), đá Lạc (Meiji jiao, 100 102 vĩ B, 1140 148 kinh Đ), đá Gaven (Gaven Reef, Nan xun jiao, 100 127 vĩ B, 1140 13 kinh Đ), đá Lớn (Great Discovery Reef, Daxian jiao, 100 045 vĩ B, 1130 52 kinh Đ), đá Nhỏ (Small Discovery Reef, Xiaoxien jiao, 100 015 vĩ B, 1140 015 kinh Đ), đá Đền Cây Cỏ (Western or Flora Temple Reef, Fulusi jiao, 100 147 vĩ B, 1140 375 kinh Đ). Cụm này có đảo rộng nhất của Trường Sa là Ba B́nh và cao nhất là đảo Nam Yết và nhiều lùm cây cao lớn nhất. +Đảo Nam Yết (NamYit Isl., Hong xiu dao (Trung Quốc), Binago (Phi), 10011vĩB, 1140 217 kinh Đ) (h́nh 1.25). Đảo lớn thứ hai sau Ba B́nh, song là ḥn đảo cao nhất của quần đảo, ở phía Nam của cụm, h́nh chữ C, dài khoảng 700m, rộng 250m, cao 4,7m (15ft) (sách China's Boundaries của Ying Cheng Kiang (Illinois, 1984) ghi đảo này cao tới 61ft, Ocean Year Book 10 (Chicago, 1993) ghi kể cả cây cao 20m). Trên đảo có nhiều loại cây, nhiều nhất là cây xú hương (cao hơn 3 m), cây nhàu (cao hơn 3m), mù u (5m), dừa cao nhất (khoảng 12m) và nhiều giống cây nhỏ, cỏ gai vùng nhiệt đới. Chim, vít ở đây rất ít. Giếng nước không ngọt hơi lờ lợ. Chung quanh đảo có ṿng san hô và nhiều băi đá ngầm. (Phía Bắc đảo có cầu tàu, đối diện với đảo Ba B́nh do Đài Loan chiếm đóng). Tại đây có công sự pḥng thủ kiên cố, được đặt Bộ chỉ huy toàn thể quần đảo của quân lính Việt Nam Cộng Hoà trước 1975. Năm 1975, quân đội nhân dân Việt Nam đă tiếp quản . + Đảo Sơn Ca (Sand Cay, Dungian shazhou, 100 227 vĩ B, 1140 285 kinh Đ). Đảo có h́nh giống chữ C, dài 391m, rộng 156m, cao 3m (so với mực nước trung b́nh) (h́nh 1.26)  Đảo có các loại cây như xú hương, bàng, chiếc bạc và cỏ dại, dây leo mọc khắp nơi. Trước 1975 đều có quân đội Việt Nam Cộng Hoà chiếm đóng và sau đó được Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiếp quản. + Đảo Ba B́nh (Itu Aba Island, Taiping dao (Trung Quốc), Ligaw I (Philippines) 100 228 vĩ B, 1140 217 kinh Đ) (h́nh 1.27). Đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, độ cao chừng 4m (13ft) thấp hơn Nam Yết một chút; theo Niên Giám Đài Loan 1993, dài 1360m, rộng 350m, cao 3,8m, diện tích 489.600m2 (gần 50 ha).

Có điều kiện sinh hoạt tốt nhất, đất đai mầu mỡ, trồng trọt khoai ḿ, rau cải, chuối…Chung quanh có san hô, mặt nước khá yên tĩnh, tiểu đĩnh có thể cập bến khá tốt. Năm 1933, với danh nghĩa "bảo hộ" Việt Nam, Pháp đă cho quân chiếm đóng, thiết lập đài quan trắc khí tượng mang số hiệu là 48919, do World Meteorological Organisation cấp phát cùng với đài quan trắc ở Hoàng Sa (Pattle) mang số hiệu 48860 và Phú Lâm mang số hiệu 48859 [11,41]. Tháng 12 năm 1946, Trung Hoa Quốc Gia chiếm đảo. Sau đó họ rút quân về Đài Loan năm 1950. Khi anh em Cloma, người Philippines tuyên bố khám phá Trường Sa, Đài Loan đă gửi quân trở lại đảo Ba B́nh. Ngày 20 tháng 5 năm 1956, Đài Loan đă xây dựng cơ sở quân sự kiên cố. Tại đây có thể thành lập một sân bay nhỏ và hiện có cầu tàu cho các chiến hạm nhỏ cặp bến. Phía Tây Nam cụm Nam Yết có Đá Chữ Thập (Fiery Cross or N.W, Yungshu jiao, KagilinganReef, 90 353 vĩ B, 1140 542 kinh Đ). Ḥn Đá Chữ Thập là chỗ cao nhất của một băi cạn dài 25km, rộng tối đa 6km, bị quân Trung Quốc chiếm đóng, biến nơi đây là cơ sở quân sự quan trọng.

 

1.3.5 Cụm đảo Sinh Tồn

Ở phía Nam cụm Nam Yết - Tigia. Gồm có đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island, Hing hong dao, 90 526 vĩ B, 1140 192 kinh Đ) (h́nh 1.28), đá Sinh Tồn Đông (90 525 vĩ B, 1140 347 kinh Đ), Đá Nhạn Gia (90 532 vĩ B, 1140 202 kinh Đ), Đá B́nh Khê (Endmund Reef, 90 530 vĩ B, 1140 232 kinh Đ), Đá Ken Nan (Mekennan Reef, 90 535 vĩ B, 1140 273 kinh Đ), Đá Tư Nghĩa ( Hughes Reef, 90 542 vĩ B, 1140 293 kinh Đ), Đá B́nh Sơn (Hallet Reef, 90 55, vĩ B 1140 308 kinh Đ), Đá Băi Khung (Holiday Reef, 90 565 vĩ B, 1140 335 kinh Đ), Đá Đức Hoà (Empire Reef, 90 573 vĩ B, 1140 348 kinh Đ), Đá Ba Đầu (Whitsun Reef, Weinan jiao (Trung Quốc), 90 59 vĩ B, 1140 390 kinh Đ), Đá An B́nh (Ross Reef, 90 53 vĩ B, 1140 364 kinh Đ), Đá Vị Khê (90 517 vĩ B, 1140 33 kinh Đ), Đá Bia (Bamfore Reef, 90 497vĩ B, 1140 302 kinh Đ), Đá Ninh Hoà (Tetley Reef, 90 497 vĩ B, 1140 300 kinh Đ), Đá Văn Nguyên (Jones Reef, 90 407 vĩ B, 1140 285 kinh Đ), Đá Phúc Sỹ (Higgen Reef , 90 467 vĩ B, 1140 240 kinh Đ), Đá Len Đao ( Lansdowne Reef, 90 457 vĩ B, 1140 218 kinh Đ), Đá Gạc Ma (Jonhson Reef, Zhang jiao (Trung Quốc), Mabine reef (Phi), 90 420 vĩ B, 1140 127 kinh Đ), Đá Cô Lin (Collins Reef, Cao lin jiao, 90 450 vĩ B, 1140 138 kinh Đ),Đá Nghĩa Hành (Lovele Reef, 90 50 vĩ B, 1140 157 kinh Đ), Đá Tam Trung (90 511 vĩ B, 1140 160 kinh Đ), Đá Sơn Hà (Gent Reef, 90 52 vĩ B, 1140 175 kinh Đ). Ba ḥn đảo trên và một số ḥn đảo nhỏ nổi lên tạo thành một ṿng đai san hô có

tên là "Union Reefs". Trước 1975, do quân đội Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ. Sau khi giải phóng miền Nam, quân đội nhân dân Việt Nam trấn giữ các đảo Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Đảo Len, Đá Côlin. Năm 1988, xảy ra cuộc đụng độ với quân Trung Quốc, 2 chiến hạm vận tải Việt Nam bị ch́m, hơn 70 binh sĩ bị mất tích. Quân Trung Quốc đổ bộ và đóng trên đá Kennan và đá Gác Ma, nằm chen kẽ với quân của Việt Nam, khoảng cách

chừng khoảng 3 hải lư. Vào đầu năm 1992, Trung Quốc lại chiếm thêm ḥn đá Ba Đầu (cực Đông Bắc của Union Reef) và ḥn Đá Lạc. Như thế trên rặng đá ngầm nhỏ có tên Johnson Reefs có quân Việt Nam ở đầu Bắc (đá Côlin) và Trung Quốc ở đầu Nam ( đá Gác Ma)

 

1.3.6 . Cụm đảo Trường Sa.

Ở về phía Nam và Tây Nam Cụm Sinh Tồn, trải dài theo chiều ngang, gồm có 3 đảo, các đá, băi : Đá Lát (Ladd Reef, Riji jiao, 80 385 vĩ B, 1110 405 kinh Đ), Đảo Trường Sa (Spartly Island, Nan wei dao, 80 384 vĩ B, 1110 55 kinh Đ) (h́nh 1.30), Băi Đá Tây (West Reef (Sand patch), Xi jiao, 80 52 vĩ B, 1120 14 kinh Đ), Đá Đông (East Reef, Dong jiao, Silangan Reef, 80 502 vĩ B, 1120 345 kinh Đ), Đá Châu Viên (Cuarteron Reef, Hua yang jiao, 80 53 vĩ B, 1120 500 kinh Đ), Đá Tốc Tan (Alison Reef, Liumen jiao, 80 50 vĩ B, 1140 00 kinh Đ), Đá Núi Le (Coznwallis S. Reef, Nan hua jiao, 80 45 vĩ B, 1140 11 kinh Đ), Đá Tiên Nữ (Tennent Reef, Pigeon, Tian Ian jiao, 80 52 vĩ B, 1140 39 kinh Đ) Cụm đảo Trường Sa nằm phía Đông, kế cận các băi, đá thuộc thềm lục địa Việt Nam như Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tư Chính. Đảo lớn nhất là đảo Trường Sa ( h́nh 1.,29), người Pháp gọi là đảo Băo Tố (Ile de Tempête). Có dạng h́nh tam giác cân mà cạnh đáy hơi chệch về phía Bắc. Đáy dài 350m, hai cạnh kia, mỗi cạnh 450m, cao độ ở phía Bắc là 3,5m, phía Nam là 2,1m so với mặt nước lúc nước ṛng. Có khả năng thiết lập phi đạo. Sau 1975, Việt Nam đă xây dựng sân bay dài 800m. Không có cây lớn, nhiều nhất là nam sâm, có dược tính, các loại rau sam, muống biển. Có loại chim hải âu trắng, sơn ca, chim én. Có giếng nước ngọt, khá sâu, độ 3m, ngọt tốt 9/10, song lại có mùi tanh của san hô. Trước 1975 có quân trú pḥng Việt Nam Cộng Hoà, có cầu tàu về phía tây đảo. Sau khi tiếp quản, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đă xây dựng cầu tàu lớn hơn.

Ngoài ra c̣n có các đảo Trường Sa Đông (Central Reef, Zhong jiao, 80 55 vĩ B, 1120 21 kinh Đ), Đảo Phan Vinh (Pearson Reef, Bisheng jiao, 80 58 vĩ B, 1130 415kinh Đ).

 

1.3.7. Cụm đảo An Bang

Ở phía Nam cụm đảo Trường Sa (Spratley) gồm có 1 đảo và các băi, đá: Đá Ba Kè (Bombay Castle, Pongpo bao jiao, 70 56 vĩ B, 1110 440 kinh Đ), Băi Đất (Orleana Shoal, Aonan Ansha, 70 41 vĩ B, 1110 440 kinh Đ), Băi Đinh (Kinhston Shoal, Jin du ansha, 70 34 vĩ B, 1110 345 kinh Đ), Băi Vũng Mây (Jonhson Patch, Changpun ansha, 70 47 vĩ B, 1110 35 kinh Đ), Băi Thuyền Chài (Barque Canada Reef, Bai jiao, 80 10 vĩ B, 1130 18 kinh Đ), Đá Hà Tần (Lizzie Webr, Li xei jiao, 80 045 vĩ B, 1130 10 kinh Đ), Đá Tân Châu (100 505 vĩ B, 1150 51 kinhĐ), Đá Lục Giang (Hopp Reef, He jiao, 100

148 vĩ B, 1150 215 kinh Đ), Đá Long Hải (Livok Reef, Nan tang quan jiao, 100 105 vĩ B, 1150 17 kinh Đ), Băi Trăng Khuyết (Half Moon Shoal, Banyue jiao, 80 52, vĩ B 1160 16 kinh Đ) , Đá Công Đo (Commodore Reef, Siling jiao, 80 22 vĩ B, 1150 13 kinh Đ), Đá Kỳ Vân (Mariveles Reef, Nan hai jiao, 70 59 vĩ B, 1130 56 kinh Đ), Băi Kiệu Ngựa (Asdasier Reef, Andu jiao, 70 37 vĩ B, 1130 56 kinh Đ), Đá Hoa Lau (Swallow Reef, Dan Wan jiao, 70 24 vĩ B, 1130 40 kinh Đ), Đá Sắc Lốt (Royal Charlotts Reef, Huan lu jiao, 60 565 vĩ B, 1130 36 kinh Đ), Đá Louisa (Luisa Reef, Nan tong jiao, 60 209 vĩ B, 1130 154 kinh Đ). Đảo duy nhất là đảo An Bang (Ambonay Cay, Anbo shazou, 70 522, 1120 542 kinh Đ). Đảo An Bang giống như một cái túi đáy nằm phía Đông và miệng thắt lại ở phía Tây. Đảo tương đối nhỏ và dài, chỉ rộng 20 mét so với chiều dài 200m, cao 2m so với mặt nước biển lúc nước ṛng (h́nh 1.30). Ngoài những cỏ dại rất thấp, không có cây cao bóng mát nào. Trước 1975, đảo An Bang do quân đội Việt Nam Cộng Hoà trú đóng. Sau 1975, quân đội Nhân Dân Việt Nam đóng ở đảo An Bang. Băi Thuyền Chài nổi lên mặt nước, dài khoảng 32km, rộng tối đa 6 km. Phía Đông Nam của băi Thuyền Chài, cách băi này khoảng 40 đến  60 hải lư có quân trú pḥng của Mă Lai Á trên các ḥn đá Kỳ Vân, đá Kiệu Ngựa, đá Hoa Lau. Ở phía Đông cụm đảo này có quân Philippines đóng trên đá Công Đo.

 

1.3.8. Cụm đảo B́nh Nguyên.

Cụm đảo ở về phía Đông, gồm đảo B́nh Nguyên (Flat island, Fei xin dao, 100 49 vĩ B, 1150 495 kinh Đ) và đảo Vĩnh Viễn (Nanshan island, Ma huan dao, 100 44 vĩ B, 1150 48 kinh Đ). Mỗi đảo diện tích khoảng 15 acres. Đảo Vĩnh Viễn dài chừng 580m, cao khoảng 2m, Đảo B́nh Nguyên thấp hơn, rất hẹp bề ngang. Phía Nam gần đảo Vĩnh Viễn có Đá Hoa (100 32 vĩ B, 1150 432 kinh Đ), Đá Đít Kim - Sơn (100 325 vĩ B, 1150 472 kinh Đ), Đá Đin (100 30 vĩ B, 1150 421 kinh Đ), Đá Hàn Sơn (100 28 vĩ B, 1150 438 kinh Đ), Đá Pet (100 276 vĩ B, 1150 464 kinhĐ), Cồn san hô Giắc - xôn. Về phía Nam xa hơn nữa có Đá Vành Khăn (Mischief Reef, Mei ji jiao, 90 55 vĩ B, 1150 32 kinh Đ), Băi Cỏ Mây (2nd Thomas Shoal, Ren ai ansha, 90 44 vĩ B, 1150 515 kinh Đ), Băi Cạn Suối Ngà(1st Thomas Shoal, Xinyu jiao, 90 195 vĩ B, 1150 555 kinh Đ), Đá Bốc Xan (Boxall Reef, Pai she jiao, 90 355 vĩ B, 1160 095 kinh Đ), Băi Cạn Sa Bin (Sabina Shoal, Xian xin ansha, 90 45 vĩ B, 1160 29 kinh Đ). Phía Đông cụm đảo B́nh Nguyên và đảo Vĩnh Viễn có Đá Hợp Kim ( Hopkins Reef, Huo xing jiao, 100 49 vĩ B, 1160 06 kinh Đ) , Băi Mỏ Vịt (Hirane Shoal, An tang tan, 100 54, 1160 205 kinhĐ), Đá Ba Cờ ( Baker Reef, Pei she jiao, 100 43 vĩ B 5, 1160 10 kinh Đ), Đá Khúc Giác (Iroquois Reef, Feng lai jiao, 100 37 vĩ B, 1160 10 kinh Đ), Đá Bá, Đá G̣ Già (North Pennsylvania Reef, Yang ming jiao, 100 485 vĩ B, 1160 515 kinh Đ), Băi Cạn Nam ( Southern Bank, Nan fang gian tan, 100 28 vĩ B, 1160 42 kinh Đ), Đá Chà Và (Brown, 100 345 vĩ B, 1170 017 kinh Đ), Băi Cạn Nâu (Brown Bank, Dong tan 100 44 vĩ B, 1170 189 kinh Đ), Băi Cạn Rạch Vang (Templer Bank, Zhong xi tan, 100 40 vĩ B, 1170 165 kinh Đ), Băi Cạn Rạch Lấp (Carnatic Shoal, Hong shi ansha, 100 06 vĩ B, 1170 205 kinh Đ), Băi Cạn Na Khoai (Lord Auckland Shoal, Elan ansha, 100 205 vĩ B, 1150 165 kinh Đ). Hiện quân Philippines chiếm đóng cả 2 đảo B́nh Nguyên và đảo Vĩnh Viễn và cho phá bỏ hầu hết khu vực bao quanh Băi Cỏ Rong, Băi Trăng Khuyết, Băi Kiều Ngựa. Trung Quốc từ 1995 cũng chiếm đóng đá ngầm Vành Khăn.

 

1.4. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, THẢO MỘC CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA.

Điều kiện tự nhiên tuy thuận lợi song không phải là yếu tố quyết định cho sự xác lập chủ quyền của Việt Nam. Tuy vậy cũng có những bằng chứng khoa học minh chứng những điều kiện thuận lợi và những chứng tích cho sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Trước hết, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong vùng Biển Đông, Ở đó, ngoài độ từ sai bằng zéro, độ sai lệch từ không thay đổi (hay thay đổi rất nhỏ), và c̣n nằm trong vùng xích đạo từ. Tại vùng xích đạo, gần vùng Côn Đảo, địa từ mới mạnh. Người Trung Quốc nhận rằng họ sáng chế kim chỉ nam, nhưng không hề biết những đặc tính về từ trường của Biển Đông. Như sách Cổ Trung Hoa ghi rằng vùng đất ma, họ kính ngưỡng cầu khẩn thần núi Linh Sơn vùng Varella (Việt Nam), họ sợ các đảo san hô ở Biển Đông, hút sắt lại, làm tàu thuyền của họ mắc cạn ở Biển Đông. Mặt nước Biển Đông có độ cao tiêu chuẩn trong hệ thống Geoid, trong khi các biển khác có thể cao quá 90m, có biển thấp tới 80m. , Về địa chất, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là những ám tiêu san hô tiêu biểu cho vùng biển nhiệt đới của Việt Nam . Khí hậu ôn đới của Trung Hoa không cho phép có sự cấu tạo của các quần đảo san hô rộng lớn như vậy. Các đảo từ Bành Hồ, Đài Loan trở lên phía Bắc, cấu tạo bằng đất đá của nền đại lục như granit, igneons rock khác hẳn các đảo cấu tạo bằng san hô ở Biển Đông.  Thềm lục địa nếu theo quan niệm nằm trong khu vực có độ sâu nước biển tới 200m, th́ thềm lục địa ở vịnh Bắc Bộ lớn, Trung bộ nhỏ hẹp lại, nhất là ở vùng mũi Varella, càng về phía Nam càng rộng. Nếu theo quan điểm của Luật Biển 1982 th́ với khoảng cách vùng hải phận 200 hải lư, các băi san hô như Băi Tư Chính… nằm trong khu vực Thềm Lục Địa Đặc Quyền Kinh Tế của Việt Nam. Độ sâu của Biển Đông với đường phân thủy 100m bao kín các vùng về phía Bắc và phía Đông. (Nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600m - 700m, th́ Hoàng Sa sẽ dính vào Việt Nam như một khối thịt liền và cách Trung Quốc bằng một vùng biển nước sâu) Và như thế quần đảo Hoàng Sa là một phần của Việt Nam (theo quan điểm của Krempf, giám đốc Hải Học Viện Đông Dương trong cuộc khảo sát năm 1925). Các sinh vật trên các đảo và dưới biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như rùa, đồi mồi, vít, đồn đột, ốc tai voi, ốc hương đều tương tự như các đảo ven biển Việt Nam như đảo Cù Lao Ré. Khi ngư dân Việt bắt cạn hết sinh vật ở đảo gần bờ biển, tất họ phải t́m ra xa biển như ở ngoài quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Theo nhà nghiên cứu La Fontaine [61, 209], các cuộc khảo sát cho thấy các thú vật sống ở các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là các loài đă gặp ở đất liền Việt Nam, có môi trường sinh sống gần với Việt Nam hơn là Trung Hoa, các sinh vật ở Hoàng Sa và Trường Sa không có nhiều liên hệ với sinh vật ở Trung Quốc. Biển Đông cũng như Việt Nam nằm trong khu vực mà các nhà sinh vật gọi là Wallacca, đặt theo tên của nhà thiên nhiên học người Anh Alfred Russel Wallace. Wallacca là vùng đất sinh sống của các động vật Á Đông mà Trung Hoa nằm ngoài ṿng môi sinh Á Đông này (h́nh 1.31). Tại Biển Đông không giống như Thái B́nh Dương, có ḍng hải lưu chảy thay đổi theo chiều gió mùa. Trong mùa gió Đông Bắc từ tháng 9 đến tháng 3, hải lưu Biển Đông chảy ngược theo chiều kim đồng hồ (h́nh 1. 32). Ḍng nước biển chảy mạnh từ Đài Loan qua Hoàng Sa vận tốc chừng 1 feet. Khi xuống ngang bờ biển Trung Bộ Việt Nam, vận tốc ḍng nước tăng thêm, có khi tối đa tới 3,4 feet trên mặt nước. Các nạn nhân đắm tàu, hoặc như các nhân viên khí tượng Việt Nam ở Hoàng Sa sau vụ Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945 và quân lính hải quân Việt Nam Cộng Hoà sau khi Trung Quốc đánh chiếm quần đảo tháng 1 năm 1974, đă nhờ ḍng nước này thả bè trôi về tới Qui Nhơn và ngoài khơi Cù Lao Ré để được cứu vớt. Ở phía Tây vùng Trường Sa, nước chảy ngược lại như mặt đối lưu hướng về phía Đông Bắc. Vận tốc đối lưu thường thấp, vùng gần đảo Palawan (Philippines) nước chảy theo chiều Tây Nam. Trong mùa gió Tây Nam, hải lưu chảy theo chiều kim đồng hồ, từ phía Mă Lai đi dọc bờ biển Trung Bộ Việt Nam ra Hoàng Sa với vận tốc chừng 5 feet. Đối lưu từ phía Đông của quần đảo Hoàng Sa chảy về Trường Sa rất yếu. Quanh năm, hải lưu vùng Hoàng Sa và Trường Sa sẽ thay đổi chiều hai lần. Ḍng nước vùng Trường Sa không mạnh như ḍng nước vùng Hoàng Sa. Sau trận hải chiến năm 1988, các chiến hạm Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bị hải quân Trung Quốc đánh ch́m, các thủy binh Việt Nam sống sót trên các bè nổi không trôi đâu xa v́ nước chỉ chảy chừng 1/4 đến 1/2 feet. Vùng Biển Đông nhất là Hoàng Sa thường xảy ra băo nhiệt đới hoặc áp thấp nhiệt đới xuất hiện gần 2 quần đảo sinh ra băo, hoặc băo từ Philippines thổi qua. Đa số các cơn băo khởi sự từ phía Đông Philippines. Không tới 1% giông băo phát sinh từ Biển Đông tiến về Hải Nam, cũng không tới 1% giông băo phát sinh từ ngoài khơi Brunei thổi về vịnh Thái Lan. Có chừng 1/3 các trận đại phong từ Thái B́nh Dương thổi về, qua Hoàng Sa và Trường Sa, tức vào bờ biển Trung Bộ và Vịnh Bắc Bộ Việt Nam. Thời gian có băo thường xảy ra vào lúc giao mùa, từ tháng 6 đến tháng 9, gióxoáy đến 90 gút. Băo giảm đi từ tháng 9 nhưng vẫn c̣n ở tháng 1. (h́nh 1.33) [107, 37] Khi có băo xuất hiện từ Philippines, các người đi biển kinh nghiệm đă thấy triệu chứng căn cứ vào làn sóng cao và dài, di chuyển nhanh trước khi băo tới hoặc trời oi, khí áp xuống nhanh, mây cao bay nhanh. Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một màng mây rất mỏng (cirros status), mặt trời xung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây thấp có h́nh vẩy cá (cirro cumulus), rồi đến một lớp mây đen, ḍng cao tới 3000m (altostatus) cả bầu trời trở nên đen, u ám, mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống mạnh, Mây thấp dần xuống 100m hay 50m, mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, rồi băo tới.

Mỗi khi có triệu chứng băo như vậy, các thuyền bè phải chạy nhanh về phía Nam, tới bờ biển Trung Bộ Việt Nam. [107 , 38] Chính điều kiện thiên nhiên trên đă tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ giữa đất liền ở Việt Nam với các hải đảo ở Hoàng Sa. Cũng chính do tàu tránh băo hay bị nạn rồi theo ḍng hải lưu chảy tấp vào bờ biển như tŕnh bày trên , nên Việt Nam có dịp biết Hoàng Sa từ những người bị nạn ở Hoàng Sa. Điều kiện thiên nhiên như thực tế trên đă gắn liền với những hoạt động xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những khảo sát về thảo mộc của La Fontaine, vào thập niên 40, 50 tại Hoàng Sa đă đi đến kết luận rơ ràng rằng không có loại thảo mộc nào là tại chỗ cả, tất cả từ vùng đất liền du nhập bằng nhiều cách. Cũng theo sự phân tích một cách khoa học của H. Fontaine và Lê Văn Hội trong "Contribution à la connaissance de la flore des ưles Paracels" (Khảo cứu Niên San Khoa Học Đại học Đường - Annales de la faculté des Sciences, Sàig̣n 1957, pp 133 - 137), th́ mỗi thảo mộc hiện có ở Hoàng Sa đều t́m thấy ở Việt Nam nhất là ở các tỉnh Trung Bộ. Người ta cũng thấy những cây như cây mù u, cây nhàu, cây bàng … ở Hoàng Sa, Trường Sa đều thấy có ở Cù Lao Ré hay những nơi khác dọc bờ biển Việt Nam Thảo mộc ở Hoàng Sa, Trường Sa có gốc ở Việt Nam không những căn cứ vào khảo sát của các nhà khoa học mà chính sử liệu thời Nguyễn như Đại Nam Thực Lục Chinh Biên đệ II kỷ, quyển 104 cũng như Đai Nam Hội Điển Sự Lệ (1851), quyển 207, tờ 25b, Việt Sử Cương Giám Khảo Lược (1876), quyển 4 của Nguyễn Thông đă viết rất rơ lệnh vua Minh Mạng đă cho trồng nhiều cây cối, để ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta sẽ nhận biết, có thể tránh nhiều nạn mắc cạn. Chính sự kiện triều đ́nh nhà Nguyễn, thời vua Minh Mạng có chủ trương trồng nhiều cây cối trên đă minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa và đă đem đến kết quả về t́nh trạng thảo mộc như trên mà các nhà khoa học đă khảo sát.

 

1.5 TẦM QUAN TRỌNG VỀ CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ VÀ TÀI NGUYÊN  CỦA HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA DẪN ĐẾN SỰ XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN VIỆT NAM CỦA CÁC NƯỚC NGOÀI.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong Biển Đông mà người Trung Hoa gọi là Biển Nam Hải, người Phương Tây thường gọi là Biển Nam Trung hoa, có tầm quan trọng về chiến lược quân sự. Không có một vùng biển nào trên Thế Giới với diện tích tương đương 3/4 Địa Trung Hải mà lại có tầm mức quan trọng về phương diện giao thông như Biển Đông. Muốn từ Ấn Độ Dương qua Thái B́nh Dương, tàu thuyền phải chạy qua Biển Đông. Nếu đi ṿng sẽ tốn kém hơn và mất thời gian nhiều hơn. Biển Đông nằm ngay trên ngă tư đường hàng hải quốc tế, nhất là lượng hàng hoá quan trọng như dầu hoả, khí đốt đến Nhật đều qua ngả này. Nếu lấy giữa Biển Đông làm trung tâm nh́n ra thế giới: -Trong ṿng bán kính 1500 hải lư có các cảng quan trọng như Bangkok, Rangoon, Calcutta, Singapore, Djakarta, Manila, Taipei, Hongkong, Shangai, Nagasaki. -Trong ṿng 2500 hải lư, có các cảng quan trọng như Madras, Colombo, Bombay, Bali, Darwin, Guam, Tokyo, Yokohama, Seoul, Beijing...bao trùm hầu hết lănh thổ các nước đông dân nhất thế giới, bao gồm một nửa nhân loại. [ 107, 19 ] Đường bay quốc tế cũng thế, từ Singapore, Bangkok, qua Hong Kong, Manila, Tokyo … đều qua Biển Đông. Chính v́ vậy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không những là nơi hiểm yếu như các chính quyền phong kiến của Việt Nam đă khẳng định mà c̣n có giá trị chiến lược đối với Việt Nam và quốc tế. V́ thế nên trước khi Nhật Bản xâm lăng các nước Đông Nam Á hồi thế chiến thứ II, quân Nhật đă chiếm đóng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đến khi kư kết Hội Nghị San Francisco năm 1951, Nhật Bản mới tuyên bố từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này. Tài nguyên thiên nhiên, nhờ sự phát triển khoa học kỹ thuật, nhiều tài nguyên qúy giá dần dần được khai thác từ ḷng biển, nhất là khi tài nguyên trên đất liền ngày càng bị khai thác cạn kiệt, lănh hải càng ngày càng có thêm giá trị. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tuy diện tích bề mặt nổi lên mặt nước không lớn, song lại rải rác, chiếm diện tích rất rộng. Ai chiếm được nhiều hải đảo có thể kiểm soát nhiều lănh hải và khai thác được nhiều tài nguyên ở dưới ḷng biển. Từ khi có sự thăm ḍ cụ thể dầu khí ở Biển Đông, các nước trong khu vực bắt đầu quan tâm nhiều hơn trước, dẫn đến tranh chấp chủ quyền với Việt Nam tại hai quần đảo này. Trước năm 1957, đă có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lư và khoan thăm ḍ ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đă phát hiện dầu thương mại. Vào cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ư), DIMINEX (CHLB Đức), BOW VALLEY (Canada) đă thăm ḍ 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến 1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng Cục Dầu Khí Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động t́m kiếm thăm ḍ dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam rộng chừng 1,3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung b́nh mỗi lô khoảng 8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô từ 100 - 250m, 38 lô từ 200-2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m.Trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triền vọng chứa dầu khí.Cho đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đă khảo sát trên 100.000 km tuyến địa vật lư, khoan hàng chục giếng t́m kiếm thăm ḍ và đă phát hiện được ba mỏ dầu khí (BaÏch Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu được khai thác. Sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn, 1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn… (PTS Nguyên Hiệp, Phó Tổng Giám Đốc Công Ty Dầu Khí Việt Nam, " Thăm ḍ và khai thác dầu khí ở Việt Nam", Khoa học và Tổ Quốc, (số 93), 1992, tr5). Việc thăm ḍ và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí.

Nguồn: Trích luận án TS của TS Nguyễn Nhă : Quá tŕnh xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Ḥang Sa - Trường Sa, Đại học KHXH&NV-ĐHQGTPHCM, 2002.

 

 

 


 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: