DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN
CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ
LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ
QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI
THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC
DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH
VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Nguồn: “The
secret of their success“, The Economist, 02/02/2013.
Biên dịch
và chú thích: Phạm Vũ Lửa Hạ
Các nước
Bắc Âu có lẽ trị quốc tốt nhất thế giới
Cecil
Rhodes[i] từng nhận xét rằng “sinh ra là người Anh coi như trúng số độc đắc”.
Ngày nay ta cũng có thể nói như vậy về người sinh ra ở Bắc Âu. Các nước Bắc Âu
không chỉ tránh được phần lớn những vấn nạn kinh tế đang làm rung chuyển vùng
Địa Trung Hải; mà c̣n tránh được phần lớn những căn bệnh xă hội đang hành hạ
nước Mỹ. Xét về bất cứ chỉ số nào đo lường t́nh trạng ổn định và lành mạnh của
một xă hội – từ các chỉ số kinh tế như năng suất và đổi mới sáng tạo đến các chỉ
số xă hội như t́nh trạng bất b́nh đẳng và tội ác – các nước Bắc Âu quần hội ở
gần đầu bảng xếp hạng (xem bảng).
2012ranking-2
Tại sao khu
vực hẻo lánh, dân cư thưa thớt, với mùa đông băng giá và những vùng hoang vu
mênh mông này lại thành công đến vậy? Đă có thời đa số người dân các nước này
chẳng ngần ngại ca ngợi chính phủ của họ, cái chính phủ mà trong phần lớn thế kỷ
20 chính là những nhà dân chủ xă hội nấp dưới một trong những vỏ bọc dân tộc
khác nhau của họ. Chính phủ đó đă cung cấp cho người dân các dịch vụ phúc lợi
trọn đời, từ lúc lọt ḷng cho đến khi xuống mồ, cứu họ thoát khỏi cảnh sống khắc
nghiệt của tổ tiên họ hồi thế kỷ 19, và can thiệp để cứu các nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa thoát khỏi những cuộc khủng hoảng định kỳ.
Nhưng giới
chủ trương thị trường tự do bới lông t́m vết trong cách lư giải của giới ủng hộ
vai tṛ can thiệp của chính phủ, và đưa một cách giải thích khác đầy thuyết
phục. Trong giai đoạn từ 1870 đến 1970, các nước Bắc Âu nằm trong số các nước
tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhờ một loạt các cải cách có lợi cho kinh doanh
chẳng hạn như thành lập các ngân hàng và tư hữu hóa các khu rừng. Nhưng trong
những năm 1970 và 1980 sự bành trướng thiếu kỷ cương của chính phủ khiến những
cải cách đó chựng lại. Giới chủ trương thị trường tự do nhận định rằng thành tựu
đáng nể gần đây của khu vực này là nhờ họ quyết tâm giảm chi tiêu chính phủ và
để cho giới kinh doanh được tự do hành động.
Vai tṛ của
chính phủ trong việc cải thiện t́nh trạng b́nh đẳng cũng đang bị đặt câu hỏi.
Andreas Bergh, thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế học Công nghiệp của Thụy Điển, nhận
định rằng thu nhập [quốc dân] của Thụy Điển đă giảm sút trước khi nhà nước phúc
lợi xuất hiện, mà nhà nước phúc lợi này là một hệ quả chứ không phải nguyên nhân
của sự thịnh vượng của Bắc Âu – và suưt giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng.
Bản tường
tŕnh đặc biệt này [của tạp chí The Economist] tán thành một số lập luận của
giới chủ trương thị trường tự do. Các nước Bắc Âu đă từng nhiễm thói quen chi
tiêu cho phúc lợi nhiều hơn khả năng trang trải của họ và thói quen dựa dẫm quá
nhiều vào một số ít công ty lớn. Họ hành động đúng khi cố gắng tinh giản nhà
nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh doanh. Nhưng sẽ sai lầm nếu [họ]
hoàn toàn phớt lờ vai tṛ của chính phủ.
Các nước
Bắc Âu hănh diện về tính trung thực và minh bạch của chính phủ nước họ. Các
chính phủ Bắc Âu bị giám sát chặt chẽ: ví dụ, ở Thụy Điển ai cũng có quyền xem
tất cả các hồ sơ chính thức. Các chính khách bị bêu diếu, nếu họ nhảy khỏi yên
xe đạp và chui vào xe limousine công.
Người Bắc
Âu đă cộng thêm hai phẩm chất quan trọng vào tính minh bạch: tính thực dụng và
tính quyết đoán. Khi phát hiện rằng kiểu đồng thuận dân chủ xă hội cũ không c̣n
tác dụng, họ sẵn sàng từ bỏ nó mà chẳng một lời bàn căi ầm ĩ và áp dụng những ư
tưởng mới từ đóng góp của mọi giới chính trị bất kể tả hữu. Họ cũng tỏ ra hết
sức quyết tâm trong việc thực hiện triệt để các cải cách. Nếu thấy người Bắc Âu
tử tế mà tưởng họ nhu nhược yếu đuối là ta nhầm to.
Tính thực
dụng giải thích tại sao sự đồng thuận mới đă nhanh chóng thay thế sự đồng thuận
cũ. Ví dụ, hiếm có chính khách Dân chủ Xă hội Thụy Điển nào muốn băi bỏ những
cải cách bảo thủ được thực hiện trong những năm gần đây. Tính thực dụng cũng
giải thích tại sao dường như các nước Bắc Âu thường có thể là nơi tập hợp đủ
kiểu chính sách thiên tả và thiên hữu.
Tính thực
dụng cũng giải thích tại sao người Bắc Âu liên tục nâng cấp mô h́nh của họ. Họ
vẫn c̣n gặp nhiều vấn đề. Các chính phủ của họ vẫn c̣n quá cồng kềnh và khu vực
tư nhân ở các nước này c̣n quá nhỏ. Thuế của họ vẫn c̣n quá cao và một số khoản
phúc lợi của họ quá hào phóng. Hệ thống đảm bảo công ăn việc làm linh hoạt
(flexicurity) của Đan Mạch quá coi trọng đến sự bảo đảm việc làm, nhưng quá coi
nhẹ tính linh hoạt. Sự phát triển bùng nổ dầu hỏa của Na Uy đang có nguy cơ tiêu
diệt tinh thần làm việc siêng năng cần mẫn. Quả là dấu hiệu xấu khi ở bất cứ
thời điểm nào cũng có hơn 6% lực lượng lao động nghỉ bệnh và khoảng 9% dân số
trong độ tuổi lao động sống bằng trợ cấp bệnh tật. Nhưng người Bắc Âu tiếp tục
áp dụng các cải cách cơ cấu mới, có lẽ là hơi chậm nhưng đầy dứt khoát và cương
quyết. Họ lại đang thực hiện những điều này mà không hề hy sinh các đặc tính
khiến mô h́nh Bắc Âu vô cùng có giá trị: khả năng đầu tư vào vốn con người và
bảo vệ cho người dân tránh khỏi những xáo trộn vốn là một phần của hệ thống tư
bản chủ nghĩa.
Noi gương
Đan Mạch[ii]
Phần lớn
các nước giàu hiện nay đang gặp những vấn đề mà người Bắc Âu đă gặp vào đầu
những năm 1990 – chi tiêu công cộng vượt quá tầm kiểm soát và các chương tŕnh
phúc lợi an sinh quá hào phóng. Nam Âu cần đôi chút tính quyết đoán của Bắc Âu
nếu muốn kiểm soát tài chính công. Và Mỹ cần đôi chút tính thực dụng của Bắc Âu
nếu mong có cơ hội kiềm chế phúc lợi an sinh và cải cách khu vực công cộng.
Người Bắc
Âu chẳng hề đỏ mặt ngượng ngùng khi cần quảng bá các ưu điểm của mô h́nh của họ.
Các tổ chức nghiên cứu của Bắc Âu tiến hành những nghiên cứu chi tiết bằng tiếng
Anh về cách họ cải cách nhà nước. Các chính khách tích cực bảo vệ quan điểm của
ḿnh ở các cuộc họp quốc tế và các chuyên viên tư vấn Bắc Âu mang kinh nghiệm
chuyên môn của ḿnh về khu vực công cộng đi bán khắp thế giới. Dag Detter đă
đóng vai tṛ chủ đạo trong quá tŕnh tái cấu trúc danh mục đầu tư thương mại của
nhà nước Thụy Điển trong những năm 1990, chiếm hơn một phần tư khu vực kinh
doanh. Từ đó ông đă cố vấn cho chính phủ các nước ở Châu Á và Châu Âu.
Song khó mà
h́nh dung được mô h́nh trị quốc của Bắc Âu có thể truyền bá nhanh chóng, chủ yếu
bởi v́ tài năng trị quốc Bắc Âu mang tính đặc thù, không giống ai. Việc trị quốc
ở Bắc Âu xuất phát từ sự kết hợp địa lư khắc nghiệt và lịch sử ôn ḥa. Tất cả
các nước Bắc Âu đều có dân số ít,bởi vậy những người thuộc tầng lớp chóp bu cầm
quyền phải ḥa đồng với nhau. Vua chúa các nước này sống ở những nơi tương đối
giản dị và giới quư tộc cũng phải kỳ kèo mặc cả với các nông dân và thủy thủ có
suy nghĩ độc lập.
Họ sớm đi
theo chủ nghĩa tự do. Thụy Điển bảo đảm tự do báo chí vào năm 1766, và kể từ
những năm 1840 về sau Thụy Điển băi bỏ chế độ ưu tiên cho quư tộc khi giao phó
những chức vụ cao cấp trong chính phủ, và tạo ra hệ thống công quyền dựa trên
năng lực và không có tham nhũng. Họ cũng theo đạo Tin Lành – một tôn giáo giảm
vai tṛ của giáo hội xuống chỉ c̣n là người hỗ trợ và nhấn mạnh đến mối quan hệ
trực tiếp giữa con người và Thượng Đế. Một trong những ưu tiên chính của giáo
hội Tin Lành là dạy nông dân biết đọc.
Sự kết hợp
giữa địa lư và lịch sử đă cung cấp cho các chính phủ Bắc Âu hai nguồn lực quan
trọng: sự tín nhiệm người lạ và ḷng tin vào các quyền cá nhân. Một khảo sát của
Eurobarometer[iii] về sự tín nhiệm xă hội tổng quát (khác với ḷng tin trong gia
đ́nh) cho thấy các nước Bắc Âu nằm ở các vị trí dẫn đầu (xem biểu đồ dưới đây).
Giới kinh tế học cho rằng sự tín nhiệm ở mức độ cao dẫn đến chi phí giao dịch
thấp hơn – không cần đến kiện tụng kiểu Mỹ hay những thương vụ “có qua có lại
mới toại ḷng nhau” kiểu Ư để được việc. Nhưng các ưu điểm của Bắc Âu không chỉ
dừng lại ở đó. Sự tín nhiệm đồng nghĩa với việc những người tài đức tham gia bộ
máy công quyền. Công dân đóng thuế và tuân thủ luật lệ. Các quyết định của chính
phủ được nhiều giới tán thành.
Mức tín
nhiệm của công chúng đối với các thể chế*
survey-1
Cuộc Khảo
sát Các Giá trị Thế giới (The World Values Survey), đă thăm ḍ các giá trị ở hơn
100 nước từ năm 1981, cho biết dân Bắc Âu là những người có ḷng tin lớn nhất
thế giới về quyền tự chủ của cá nhân. Sự kết hợp kiểu Bắc Âu giữa chính phủ quy
mô lớn và chủ nghĩa cá nhân có thể nghe kỳ lạ đối với một số người, nhưng theo
Lars Tragardh, thuộc Đại học Ersta Skondal University College ở Stockholm, người
Bắc Âu dễ dàng ḥa hợp hai yếu tố này: họ xem công việc chính của nhà nước là cổ
xúy quyền tự chủ của cá nhân và tính cơ động xă hội (social mobility).[iv] Bất
cứ luật lệ xă hội nào của Bắc Âu – đặc biệt là các luật gia đ́nh trong những năm
gần đây – cũng có thể được chứng minh là ủng hộ quyền tự chủ của cá nhân. Dịch
vụ giáo dục miễn phí phổ quát[v] giúp cho sinh viên thuộc mọi tầng lớp và hoàn
cảnh đạt được tiềm năng của ḿnh. Việc đánh thuế tách bạch đối với các cặp vợ
chồng giúp người vợ được b́nh đẳng với người chồng. Dịch vụ giữ trẻ phổ quát tạo
điều kiện cho cả hai bậc cha mẹ có thể đi làm toàn thời gian. Ông Tragardh có
một cụm từ hữu ích để mô tả tâm lư này: “chủ nghĩa cá nhân có sự can thiệp của
nhà nước” (statist individualism).
Người Bắc
Âu mang theo thái độ này đối với chính phủ khi họ ra nước ngoài. Vào cuối thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20, khoảng 1,3 triệu người, một phần tư dân số Thụy Điển lúc
đó, di cư, chủ yếu sang Mỹ. Nước Mỹ sáng tác cả thể loại chuyện tiếu lâm về
“những người Thụy Điển khờ khạo” và thái độ sẵn sàng tuân thủ luật lệ của họ.
Chính những người Thụy Điển khờ khạo đă tạo nên các cộng đồng được quản lư tốt
nhất ở Mỹ, chẳng hạn như Minnesota. Thậm chí ngày nay những người Mỹ gốc gác Bắc
Âu có khả năng cao hơn 10% so với người Mỹ trung b́nh về chuyện tin rằng “phần
lớn mọi người có thể tin được”.
Quy mô lớn
nhỏ không phải yếu tố duy nhất
Giới kinh
tế học thường ngỡ ngàng về thành công kinh tế gần đây của các nước Bắc Âu trong
khi chính phủ các nước này có quy mô quá lớn. Theo một quy tắc không chính thức
trong giới chuyên môn, nếu số thu thuế tính theo tỉ lệ phần trăm của GDP tăng
lên 10 điểm phần trăm, th́ thường có tương quan với mức giảm nửa điểm phần trăm
về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Nhưng các con số như vậy cần được điều
chỉnh để phản ánh các lợi ích của tính trung thực và hiệu quả. Ví dụ, chính phú
Ư ấn một gánh nặng kinh khủng đè lên vai xă hội v́ các chính khách điều hành
chính phủ chủ yếu lo chuyện vơ vét lợi lộc chứ không phải cung cấp dịch vụ công
cộng. Goran Persson, cựu thủ tướng Thụy Điển, từng so sánh nền kinh tế Thụy Điển
với một con ong – “với một cơ thể quá nặng nề và đôi cánh nhỏ, cứ tưởng con ong
không bay nổi, nhưng nó bay được”. Ngày nay con ong đó vẫn đang giữ thể trạng
khỏe mạnh và đang bay khỏe hơn nhịp bay của nó trong mấy chục năm qua.
[i] Cecil
John Rhodes (1853-1902) là doanh nhân Anh, nhà tài phiệt ngành khai khoáng (chủ
tịch đầu tiên của công ty kim cương De Beers), và chính khách ở Nam Phi. Ông
dùng gia sản của ḿnh lập học bổng Rhodes tài trợ cho sinh viên xuất sắc nước
ngoài học ở Đại học Oxford. Học bổng này được nhiều nguồn như tạp chí Time, nhà
xuất bản Yale University Press, báo The McGill Reporter,và Associated Press xem
là học bổng quốc tế danh giá nhất thế giới. (Wikipedia)
[ii] Nguyên
văn: “getting to Denmark”. Theo Ian Morris, chủ đề trọng tâm của tác phẩm Sự cáo
chung của lịch sử và con người cuối cùng(The End of History and the Last Man,
1999) của Francis Fukuyama là “noi gương Đan Mạch”. Tác giả Fukuyama ư muốn nói
đến việc tạo ra những xă hội ổn định, thanh b́nh, thịnh vượng, dung nạp mọi
thành phần và tầng lớp, và trung thực. Cũng như trong tiểu luận nổi tiếng Sự cáo
chung của lịch sử làm tiền đề cho cuốn sách này, Fukuyama xem đây là điểm tận
cùng hợp lư của phát triển xă hội, và cho rằng tính chất Đan Mạch đ̣i hỏi phải
có ba yếu tố: các nhà nước vận hành hiệu quả, chế độ pháp trị, và chính phủ có
trách nhiệm giải tŕnh. (Ian Morris,How To Get to the End of History, Slate, 2
May 2011)
[iii]
Eurobarometer là loạt khảo sát dư luận được thực hiện định kỳ nhân danh Ủy hội
Châu Âu kể từ năm 1973, về nhiều loại chủ đề liên quan đến Liên hiệp Châu Âu ở
các nước thành viên. (Wikipedia).
[iv] Tính
cơ động xă hội (social mobility) là khái niệm về sự dịch chuyển của các cá nhân,
gia đ́nh, hay nhóm người, trong một hệ thống đẳng cấp hay giai tầng xă hội. Nếu
sự dịch chuyển đó là thay đổi về vị trí/chức vụ mà không thay đổi về tầng lớp xă
hội, th́ gọi là “cơ động theo chiều ngang” (horizontal mobility). Ví dụ một
người dịch chuyển từ một chức vụ quản lư ở công ty này sang một chức vụ tương tự
ở một công ty khác. Nhưng nếu sự dịch chuyển làm thay đổi tầng lớp xă hội th́
gọi là “cơ động theo chiều dọc” (vertical mobility), và có thể “cơ động hướng
lên” (upward mobility) hoặc “cơ động hướng xuống” (downward mobility). Một công
nhân trở thành doanh nhân giàu có dịch chuyển lên giai cấp cao hơn; một quư tộc
có đất bị mất hết gia sản trong một cuộc cách mạng dịch chuyển xuống giai cấp
thấp hơn. (Bách khoa toàn thư Britannica)
[v] Dịch vụ
giữ trẻ phổ quát (universal day care) là hệ thống bảo đảm mọi bậc phụ huynh đều
có chỗ gửi con ở nhà trẻ mà không phải chờ đợi, thường có mức phí thấp và cố
định. Ví dụ, ở Thụy Điển hệ thống này chủ yếu do nhà nước điều hành, chỉ có 20%
đi nhà trẻ tư nhân. Năm 2002, nhà nước Thụy Điển áp dụng khung phí tối đa, giúp
hệ thống này càng dễ trang trải hơn v́ phí giữ trẻ mà phụ huynh đóng chiếm không
quá 1 đến 3% thu nhập của họ. (Devine, Dympna & Kilkenny, Ursula, Nordic
childcare model best for economic and social wellbeing, Irish Times, 9 June
2011)