MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record vCBO
v US Gov vCongressional Record vPBS
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune
v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
v MediaMattersvSourceIntelvFRUSvIntelnews
v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvArchive
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia
v RamussenvWikileaksvFederalistvHistory
v The Online Books vBreibart vInterceipt
v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic
v National Public Radio vForeignTrade vSlate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v ChúngTa v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
CHÍNH PHỦ, NGUỒN GỐC CỦA VẤN ĐỀ
(Phỏng theo Milton Friedman và một số tài liệu khác)
"Chính phủ càng lớn th́ công dân của nó càng tệ hơn... Chính phủ càng lớn chừng nào th́ nó càng làm ít hơn chừng ấy...Chính phủ càng lớn hơn, biến hóa hơn, ḍm ngó hơn, th́ nó càng lớn giọng hơn khi tuyên bố đạo đức và sự thuần khiết đạo đức của nó." - Mark Steyn
Đại Cương
Những vấn đề xă hội chủ yếu của Hoa Kỳ đại để bao gồm: giáo dục suy thoái, vô pháp luật, tội phạm, vô gia cư, sụp đổ những giá trị gia đ́nh, khủng hoảng y tế. Những vấn đề nầy đă sản sinh do những hành động có chủ đích của chính phủ. Điều đó rất dễ chứng minh. Nhiệm vụ khó khăn là nhận thức được tại sao chính phủ là nguồn gốc của vấn đề. Sức mạnh của những quyền lợi đặc thù (special interests) xuất phát từ những phúc lợi tập trung của hầu hết những hành động chính phủ và những tốn phí chia đều chỉ là một phần của vấn đề. Một phần căn bản hơn là sự khác biệt giữa tư lợi cá nhân khi được lồng vào khu vực tư và tư lợi của cùng những cá nhân đó khi được lồng vào khu vực công. Kết quả là "chúng ta, những người dân" không c̣n kiểm soát được một hệ thống chính phủ nữa. Theo Lincoln, thay v́ một chính phủ "của dân, do dân, và v́ dân", ngày nay chúng ta có một chính phủ "của dân, do đám quan liêu, v́ đám quan liêu", kể cả những đại biểu dân cử biến chất thành quan liêu. Hiện tại những giới hạn về nhiệm kỳ có vẻ là sự cải cách hứa hẹn hữu hiệu nhất trong việc khống chế con thủy quái.
Tại Sao Chính Phủ là Nguồn Gốc của Vấn Đề
Khi một nhà thuyết pháp rao giảng, ông thường có sẵn một chủ đề. Nói chung, chủ đề diễn tả một ư nghĩ mà ông đồng ư và sẽ triển khai ra. Chủ đề của phần tham luận nầy được giả định là hoàn toàn sai và do đó phải t́m ra một phản đề tương ứng. Chủ đề đến từ số báo tháng 9/1991 của tờ Freedom Review. Bài báo có câu, "Chủ thuyết ngốc nghếch của Reagan cho rằng chính phủ là nguồn gốc của vấn đề." Đó là chủ đề - hay phản đề của phần tham luận nầy.
Chủ đề đặt ra hai trọng trách: một dễ, một khó. Trọng trách thứ nhất là chứng minh rằng chính phủ là vấn đề; đó là trọng trách dễ thực hiện. Trọng trách khó là t́m hiểu tại sao chính phủ là vấn đề. Tại sao lại có chuyện những người khỏe mạnh có đầu óc công ích lại đi đến những kết quả khác nhau như thế tùy theo họ hoạt động trong chính trường hay trong thị trường kinh tế? Giả sử thay thế một biểu mẫu gồm những người đang đọc bài tham luận nầy và hiện không ở Washington vào chỗ những người đang ở Washington. Tại sao, cho dù có thay thế như vậy đi nữa, những chính sách của Hoa Kỳ (HK) vẫn không chắc ǵ khá hơn? Đó là nan đề thực sự.
Riêng đối với trọng trách dễ, trước hết chúng ta thử nêu ra những cung cách cho thấy chính phủ là vấn đề. Chúng ta liệt kê những vấn đề xă hội chủ yếu của HK và t́m hiểu nguyên nhân của chúng.
Chính Phủ là Vấn Đề
Giáo Dục
Một vấn đề xă hội chủ yếu rơ ràng là sự suy thoái của hệ thống giáo dục HK. Sau quân đội, giáo dục là kỹ nghệ xă hội chủ nghĩa lớn nhất ở HK. Tổng chi phí chính phủ cho học hành (schooling) - học hành thay v́ giáo dục (education), v́ không phải tất cả học hành đều là giáo dục và ngược lại - gần bằng tổng chi phí cho quốc pḥng, thậm chí đă lớn hơn nếu tính đến kế họach tài giảm v́ ḥa b́nh (peace dividend). Phí khoản ṛng trừ đi lạm phát dành cho từng học sinh đă tăng gấp ba trong ba mươi năm qua. Mặc dù đầu vào tăng ba lần, đầu ra đă đi xuống. Trường học đang suy thoái. Vấn đề hiển nhiên là do chính phủ.
Vô Pháp Luật và Tội Phạm
Nếu có một chức năng nào mà những người không thuộc loại tự do vô chính phủ cực đoan cho là thích hợp, th́ đó là bảo vệ các thành viên xă hội khỏi bị cưỡng bức bởi những cá nhân khác, khỏi bị đánh vào đầu bởi một người lạ mặt nhất định hay không nhất định nào đó. Có ai sẽ nói rằng chúng ta đang thi hành tốt chức năng đó? Hoàn toàn không. Tại sao không? Một phần v́ có quá nhiều luật để vi phạm; và càng nhiều luật để vi phạm th́ càng khó ngăn cản chúng bị vi phạm, không những chỉ v́ những phượng tiện thực thi luật pháp là không hiệu lực mà, tệ hại hơn, càng ngày càng có nhiều luật lệ mất khả năng buộc mọi người tuân thủ. Bạn chỉ có thể thực thi nghiêm chỉnh những luật lệ mà hầu hết mọi người tin là những luật lệ tốt, nghĩa là, những luật lệ xác quyết những hành động mà họ sẽ tránh dù không có luật pháp. Khi luật lệ xác định là phi pháp những hành động mà nhiều người hay đa số người xem là đạo đức và thích hợp, những luật lệ đó chỉ có thể được thực thi bằng cưỡng chế. Luật vượt tốc độ là một thí dụ hiển nhiên; luật cấm uống rượu là một thí dụ nghiêm trọng hơn.
Nguồn gốc chủ yếu của t́nh trạng vô pháp luật hiện nay tại HK, đặc biệt sự hủy hoại của những khu vực nghèo nội thành, là do nỗ lực ngăn cấm những cái mệnh danh là thuốc (drugs). Nói mệnh danh là v́ những thuốc có hại nhất ở HK đều hợp pháp: thuốc lá và rượu. Chúng ta từng tốn phí lớn lao nhằm cố ngăn cấm uống rượu. Ngày nay chúng ta đang tốn phí lớn lao nhằm cố ngăn cấm xử dụng ma túy. Hậu quả đặc biệt không thể chống trả được là sự tàn phá trút lên những cư dân của Columbia, Peru, và những quốc gia khác v́ chúng ta không thể thực thi luật pháp của chính chúng ta. Chưa có một biện minh nào có thể chấp nhận được về hậu quả đó.
Trở lại HK, dù bạn tin hay không, chức năng của chính phủ phải là ngăn cấm dân chúng tự ư xử dụng những thứ được xem như có hại cho họ - và dù bạn tin hay không, đó là một chức năng thích hợp của chính phủ khi xét đến mối nguy cho chính họ và cho những đệ tam nhân - nỗ lực đó đă thất bại. So với bất kỳ lợi ích nào có thể có được nếu thuốc được xử dụng một cách hợp pháp, hậu quả mà nhiều nạn nhân vô tội đă nhận chịu qua những nhiễu hại lớn lao hơn, kể cả công chúng nói chung và đặc biệt là những cư dân của những khu nội thành nghèo. Sẽ có những nạn nhân vô tội (như trẻ con dị tật - crack babies) cho dù thuốc được hợp thức hóa. Nhưng con số sẽ ít hơn rất nhiều, và người ta sẽ nỗ lực hơn để giảm bớt con số đó và giúp đở phần c̣n lại.
Vô Gia Cư
Nguyên nhân nào đă tạo ra làn sóng vô gia cư hiện nay khắp nước? Đó là một sỷ nhục và tai tiếng. Phần lớn vấn đề là do hành động của chính phủ. Một trong những nguyên nhân là việc kiểm soát giá tiền thuê nhà, mặc dù có những nguyên khác c̣n tệ hại hơn thế, như quyết định của chính phủ giải tỏa những nhà thường điên và đuổi người ra đường và kế hoạch tân trang thành thị và các chương tŕnh gia cư công cộng, tất cả đă phá hủy nhiều căn gia cư hơn là đă xây dựng và để cho nhiều căn gia cư công cộng trở thành cứ địa của tội ác và tệ đoan.
Giá Trị Gia Đ́nh
Chính phủ không phải là kẻ duy nhất chịu trách nhiệm về sự sụp đổ phi thường của những giá trị gia đ́nh và sự bùng nổi tiếp theo những trường hợp mang thai vị thành niên, sinh con phi pháp, những gia đ́nh thiếu cha. Tuy nhiên, chính phủ đă chịu một phần trách nhiệm chủ yếu về những vấn đề xă hội nầy. Trong cuốn sách Losing Ground, nghiên cứu của Charles Murray về những vấn đề nầy cung ứng bằng chứng mang tính thuyết phục theo đó những vấn đề xă hội nầy phần lớn bắt nguồn từ những chính sách sai lầm và sai hướng của chính phủ. Chúng ta có thể thêm vào một chính sách sai hướng khác của chính phủ mà Murray không xem xét đến nhưng nó lại đóng một vai tṛ then chốt trong sự sụp đổ những giá trị xă hội và văn hóa - mặc dù qua một con đường khá gián tiếp - đó là cưỡng bách nhập ngủ. Nhưng đó là luận điểm thuộc một thời kỳ khác.
Gia Cư
Một vấn đề xă hội khác là giá nhà cao và sự tàn phá gia cư. Khu North Bronx ở New York trông giống những bức h́nh mới đây của những khu vực bị bom đạn ở Nam Tư. nguyên nhân hiển nhiên là: chế độ kiểm soát giá tiền thuê nhà ở New York, vừa trục tiếp vừa do việc chính phủ tiếp thu nhiều căn hộ v́ chế độ kiểm soát tiền thê nhà khiến các chủ nhà không thể bảo quản chúng được. Những kết quả tương tự đă nh́n thấy bất kỳ nơi nào có áp dụng chế độ kiểm soát giá tiền thuê nhà, mặc đù New York đương nhiên là trường hợp tệ hại nhất.
Hơn nữa, t́nh trạng phổ biến khắp nước những luật lệ xây cất, khoanh vùng, và những hành động khác của chính phủ đă nâng giá thành nhà cửa lên đáng kể. Đây là câu hỏi được nêu ra với một người thầu xây dựng ở California hành nghề từ trước Đệ Nhị Thế Chiến, "Giả sử ngày nay ông phải xây cất căn nhà giống hệt như căn nhà được xây năm 1945 thuộc một trong những dự án gia cư lớn của ông, và giả sử giá công nhân, vật liệu, và những thứ khác cũng giống hệt như bây giờ. Phí tổn sẽ lớn hơn bao nhiêu do việc ông phải bỏ tiền để lấy những giấy phép chính phủ và phải chứng minh rằng ông đă thỏa măn những đ̣i hỏi của chính phủ?" Ông ta suy nghĩ một lúc và cuối cùng kết luận, "Ít nhất là một phần tư tổng sở phí."
Chăm sóc Y Tế
Chính phủ đă đóng một vai tṛ mỗi ngày một lớn trong vấn đề chăm sóc y tế. Trong nhiều thập niên, tổng chi phí cho y tế là khoảng 3% đến 5% thu nhập quốc gia. Bây giờ là 12% đến 13% và c̣n đang gia tăng. Chi phí tăng tốc từ khi có Medi-care và Medicaid năm 1965. Sau khi tính hệ quả của lạm phát, sở phí theo đầu người năm 1989 cao gấp 26 lần so với năm 1946 ($545 so với $21); số nhân viên b́nh quân cho từng giường bệnh viện có bệnh nhân cao gấp 7 lần (4.6 so với 0.7), trong khi số giường bệnh viện cho mỗi 1000 người đă bị giảm đi một nửa (từ 10.3 xuống 4.9). Chăm sóc y tế đă tiến bộ lớn lao từ năm 1946, và sự kiện nầy diễn ra trước cũng như sau 1965, mặc dù phần lớn sự gia tăng chi phí đều xảy ra sau 1965. Số người 7 lần lớn hơn kia cho mỗi giường bệnh rơ ràng không phải là những người chăm sóc cho bệnh nhân; đa số họ là những người ghi danh để thỏa măn những đ̣i hỏi của chính phủ.
Hệ Thống Tài Chính
Tất cả chúng ta đều ư thức đầy đủ sự yếu kém trong hệ thống tài chính của chúng ta. Có ai nghi ngờ phần lớn hiện trạng yếu kém đó là do Washington? Cuộc khủng hoảng tiết kệm và vay tiền là do chính phủ, trước tiên bằng cách tăng tốc lạm phát trong thập niên 1970, đă phá hủy giá trị ṛng của nhiều khoản tiết kiệm và những định chế cho vay, kế đó bằng chế độ điều tiết tồi của thập niên 1980, bằng cách gia tăng khoản tiền bảo hiểm kư thác lên $100000, và, mới đây hơn, bằng lối giải quyết nặng tay cuộc khủng hoảng.
Xa Lộ Ùn Tắt
Tất cả chúng ta đều than phiền về t́nh trạng ù tắt trên xa lộ. Vấn đề nầy có một lư do lư thú khác. Kỹ nghệ xe hơi tư nhân có thể sản xuất tất cả những xe hơi để lái, nhưng chính phủ rơ ràng không thể sản xuất một thệ thống xa lộ hữu hiệu, một tương phản rơ rệt.
Phi Trường
Một tương phản tương tự cũng thấy trong những hảng hàng không và phi trường. Kỹ nghệ phi cơ tư nhân đă có thể chế tạo được tất cả những máy bay mà các hảng hàng không tương mại muốn mua, và các hảng hàng không đă có thể tuyển được những phi công, tiếp viên, thợ máy cần thiết...Sự ùn tắt nằm ở đâu? Ở các phi trường, ở các đài kiểm soát không lưu. Tại sao? v́ những bộ phận nầy do chính phủ điều hành.
Linh Tinh
Đây là những chính sách kinh tế sai lầm: Việc chính quyền Bush đảo ngược chính sách kinh tế của Reagan đă đưa đến cuộc suy trầm kinh tế của năm 1990-1991, đẩy chúng ta vào một tiến tŕnh phục hồi rất chậm và sai lầm từ một suy thoái không mấy nghiêm trọng, và, rất có thể, hứa hẹn một thập niên 1990 tương đối chậm, hầu như bất chấp thành quả của chính quyền Clinton. Hơn nữa, cũng cần nhắc đến hiện tượng điều tiết quá đáng trong kỹ nghệ hay chính sách nông nghiệp do đó mà những người thọ thuế phải trả tiền cho người ta trồng những những hoa màu đẻ rồi đem phá hủy hay tồn kho hay cho đi. Đó là chưa kể những thuế suất và định mức hay chống kỳ thị, lương bổng và luật giờ.
Dựa trên liệt kê nầy, có ai nghi ngờ sự kiện chính phủ là nguồn gốc của vấn đề không?
Không ai nghi ngờ có nghĩa là chính phủ không có một chức năng thực sự. Thực vậy, bi kịch là: v́ chính phủ làm quá nhiều những thứ mà nó không bị bắt buộc phải làm nên nó thi hành một cách tồi tệ những chức năng mà nó phải thi hành. Những chức năng căn bản của chính phủ là bảo vệ quốc gia chống lại những kẻ thù nước ngoài, ngăn chặn một số người bị cưỡng bức bởi những người khác trong nước. cung ứng phương tiện để quyết định trên những qui luật của chúng ta, và giải quyết những tranh chấp.
Giả sử có những học giả phái tự do đi rao giảng rằng thị trường tư nhân và chủ nghĩa tư bản là nguồn gốc của vấn đề, chứ không phải chính phủ. Liệu họ có thể nêu đích danh những vấn đề tiêu biểu đó bắt nguồn từ khu vực tư và tác động trên xă hội của chúng ta không?
Câu trả lời đương nhiên của họ là: ô nhiễm. Xí nghiệp tư, họ nói, chịu trách nhiệm về ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, phá hủy đất đai. Họ nên so sánh ô nhiễm ở các nước độc tài trước đây như Ba Lan, Liên Xô hay Romania với ô nhiễm của HK. Sự khác biệt không phải ở chỗ chính phủ hiệu năng hơn trong việc tránh ô nhiễm; điểm chính là xí nghiệp tư nhận thức được rằng không có lợi lộc ǵ mà tạo ra ô nhiễm; tránh được ô nhiễm th́ có lợi hơn. Có một chức năng thực sự đối với chính phủ liên quan đến ô nhiễm: đưa ra những điều kiện và, đặc biệt, định nghĩa những quyền tư hữu để bảo đảm rằng những thiệt lại là do những bên trách nhiệm. Tuy nhiên, chính sách thực sự của chính phủ không phải hữu hiệu hơn và cũng không liệu lực hơn. Một ví dụ là Đạo Luật Clean Air Bill được thông qua gần đây. Nó sẽ sẽ làm sạch túi kỹ nghệ hơn là làm sạch không khí một cách hữu hiệu.
TẠI SAO CHÍNH PHỦ LÀ NGUỒN GỐC CỦA VẤN ĐỀ
Một giải thích thông thường và thường được nhấn mạnh là ảnh hưởng của những quyền lợi đặc thù (special interests). Những hành động của chính phủ thường cung ứng những phúc lợi cho một thiểu số trong khi áp đặt những thiệt hại nhỏ trên nhiều người. Một ví dụ hiển nhiên liên quan đến vấn đề điều tiết các xe taxi ở New York City, cụ thể là giá của một giấy phép hành nghề taxi. Số lượng xe taxi được giới hạn bởi quyền hạn của chính phủ. Giấy phép nầy có thể sang nhượng và trao đổi theo giá thị trường tương đối tự do. Giá hiện nay của nó khoảng từ $100 ngàn đến $125 ngàn.
Nếu việc giới hạn số xe taxi bị bải bỏ th́ những phúc lợi sẽ dứt khoát lớn hơn những thua lỗ nếu có. Khách hàng sẽ hưởng lợi nhờ có được những lựa chọn rộng răi hơn. Số lượng taxi sẽ gia tăng cũng như số tài xế. Muốn lôi cuốn tài xế nhiều hơn, tu nhập của họ phải cao hơn. Theo ngôn ngữ kinh tế, đường biểu diễn cung ứng của các tài xế đi lên.
Tại sao vẫn tiếp tục giới hạn số taxi? Câu trả lời rơ ràng là: những ai hiện có những giấy phép hành nghề sẽ mất tiền và họ biết điều đó. Mặc dù không đông, họ vẫn có thể làm ầm ĩ ở ṭa thị chính. Những người khác th́ không nắm vững nghề chạy taxi theo chế độ mới có phải là việc làm mới hay khá hơn không? Do đó không cư dân New York nào chịu tốn th́ giờ và sức lực để vận động hành lang với ṭa thị chính để châm dứt việc độc đoán hạn chế giấy phép chỉ để có được dịch vụ taxi tốt hơn. Những khách đi taxi th́ chẳng có lợi ǵ để làm chuyện đó. Họ đúng; v́ không nắm vững vấn đề nên họ có lư khi làm như thế.
Hiện tượng những phúc lợi tập trung và những thiệt hại chia đều là một giải thích giá trị cho những chương tŕnh chính phủ. Tuy nhiên, điều đó chưa đủ để giải thích loại hoàn cảnh hiện thời của chúng ta. Ví dụ, nó không giải thích tại sao, một khi một xí nghiệp công được thành lập, nó kém hữu hiệu hơn rất nhiều so với một xí nghiệp tư tương ứng. Có thể những phúc lợi tập trung đưa đến sự thành lập một xí nghiệp công. Nhưng, trên cơ sở đó, tại sao Bưu Điện Hoa Kỳ lại kém hiệu năng hơn UPS (United Parcel Service)?
Câu trả lời có thể là kích thích lợi nhuận mạnh hơn là kích thích công vụ. Theo một nghĩa nào đó, điều đó đúng; nhưng theo một nghĩa khác, hoàn toàn không đúng. Những ai từng điều hành những xí nghiệp tư đều có kích thích y hệt như những người điều hành các xí nghiệp công. Trong tất cả các trường hợp kích thích giống nhau: thăng tiến quyền lợi của chính họ. Có một điều mà bạn có thể tin chắc mọi người sẽ làm và đó là đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của bạn. Những người điều hành doanh nghiệp tư của chúng ta là những người cùng loại như những người điều hành những doanh nghiệp công, y hệt như những người Tàu ở Hong Kong cũng giống hệt như những người Tàu ở Hoa Lục; y hệt như người Tây Đức và người Đông Đức; nhưng kết quả th́ hoàn toàn khác nhau.
Điểm chính là: trong khu vực tư, tư lợi được phục vụ bằng những hành động khác với khu vực công. Căn bản vấn đề khác nhau. Một xí nghiệp nếu được khởi sự bằng một nhóm người trong khu vực tư có thể thành công hay cũng có thể thất bại. Đa số những xí nghiệp mới đều thất bại (nếu xí nghiệp hiển nhiên phải thành công th́ có lẽ nó đă có rồi). Nếu xí nghiệp thất bại, nó mất tiền. Những người sở hữu nó đă hiểu rơ vấn đề căn bản của nó. Nếu cứ tiếp tục th́ họ sẽ phải dốc thêm tiền túi ra mà thôi. Họ không muốn làm thế, nên họ có một kích thích mạnh hoặc làm cho xí nghiệp phát triển hoặc đóng cửa nó. Giả sử cùng nhóm người đó khởi sự cùng xí nghiệp đó trong khu vực công và những kết quả cũng giống nhau. Đó là một thất bại; nó không hiệu năng. Họ có một vấn đề căn bản rất khác. Không một ai thích nh́n nhận ḿnh đă sai lầm, và họ không phải nh́n nhận như thế. Họ có thể lư luận rằng bước đầu xí nghiệp thất bại chỉ v́ nó không được triển khai trên một qui mô đủ lớn. Quan trọng hơn, họ có một túi tiền khác hơn nhiều và lớn hơn nhiều để rút. Bằng những ư hướng tốt đẹp nhất trên đời, họ có thể cố thuyết phục những người nắm túi tiền tài trợ cho xí nghiệp trên một qui mô lớn, đào sâu hơn vào túi tiền của những người thọ thuế để giữ cho xí nghiệp tồn tại. Điều đó minh họa một định luật chung: Nếu một xí nghiệp tư thất bại th́ đóng cửa – ngoại trừ nó có thể nhận được trợ cấp chính phủ để tiếp tục; nếu một xí nghiệp công thất bại th́ nó mở rộng. Ít có ngoại lệ.
Qui luật chung là: chính phủ tiến hành một hoạt động có vẻ đáng mong muốn lúc đó. Một khi hoạt động khởi sự, dù nó có đáng mong muốn hay không, những người trong cả khu vực tư lẫn khu vực công đều quan tâm đến sự thành công của nó. Nếu lư do ban đầu để tiến hành hoạt động biến mất, họ có một kích thích mạnh để t́m ra một một biện minh khác giúp nó tiếp tục tồn tại.
Một ví dụ hiển nhiên trong khu vực quốc tế là Quỉ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF). Cơ quan nầy được thành lập để quản trị một hệ thống hối suất cố định (fixed exchange rates). Đó là một hệ thống tốt hay hệ thống xấu, không thành vấn đề. Năm 1971, sau khi Tổng Thống Nixon đóng cửa sổ vàng, hệ thống hối suất cố định sụp đổ và được thay thế bởi một hệ thống hối suất thả nổi. Chức năng của IMF biến mất, nhưng, thay v́ bị xóa bỏ, nó đă thay đổi chức năng và bành trướng. Nó đă trở thành một cơ quan cứu nguy cho những quốc gia chậm tiến và tiếp tục đào sâu hơn vào những túi tiền của những người đở đầu nhằm tài trợ những hoạt động mới. Ở Bretton Woods, hai cơ quan được thành lập: một để quản trị một hệ thống hối suất cố định và cơ quan kia, Ngân Hàng Thế Giới, để hoàn thành chức năng thăng tiến phát triển. Bây giờ bạn có hai cơ quan để thăng tiến phát triển, cả hai đều làm hại nhiều hơn lợi.
Đây là một ví dụ khác. Cuối Đệ Nhị Thế Chiến, HK đă có những chế độ kiểm soát giá cả và lương tiền. Dưới những điều kiện lạm phát do chiến tranh, nhiều chủ hảng thấy khó thuê mướn nhân viên. Để vượt qua những hạn chế của chế độ kiểm soát lương tiền, nhiều người bắt đầu đề nghị cho bảo hiểm y tế như một phúc lợi miễn thuế nhằm thu hút công nhân. Đối trước phúc lợi mới nầy, Sở Thuế IRS mất vài năm để tính cách bắt buộc đưa chi phí y tế vào lợi tức thọ thuế của các nhân viên. Khi họ làm thế th́ các công nhân đă xem bảo hiểm y tế miễn thuế của chủ là một quyền - hay nên được như thế. Họ đă biến vấn đề thành một đấu tranh chính trị lớn đến độ Quốc Hội phải khẳng định bằng luật qui chế miễn thuế của bảo hiểm y tế do chủ cấp.
Chế độ kiểm soát giá cả và lương tiền đă bải bỏ, nghĩa là lư do miễn thuế bảo hiểm y tế không c̣n nữa. Tuy nhiên, t́nh trạng vẫn tiếp tục. Kết quả đưa đến một hệ thống trong đó người ta xem bảo hiểm y tế của chủ là đương nhiên. Theo cách gián tiếp nầy, chế độ kiểm soát lương tiền, vốn đă bị hủy bỏ sau chiến tranh, đă thành một yếu tôi chủ yếu sản sinh ra khuynh hướng hiện nay của y tế xă hội hóa, được hỗ trợ mạnh mẽ bởi một phần lớn trong cộng đồng kinh doanh.
Các học giả phái tự do sẽ nói với bạn rằng vấn đề là công chúng muốn những thứ mà chính phủ giả định phải cung ứng nhưng công chúng lại quá hà tiện không chịu bỏ tiền ra. Họ nói rằng, nếu những người hà tiện, tham lam kia cung ứng cho chúng tôi nhiều tiền thuế hơn th́ chúng tôi có thể giải quyết tất cả những vấn đề nầy. Họ có thể đúng phần nào, và chỉ phần nào thôi. Ví dụ, giải thích đó không thể cho biết tại sao chúng ta có những trợ cấp nông phẩm. Người dân HK có thực sự muốn những chủ trại trồng nông phẩm để rồi vứt chúng đi hay cho người nước ngoài với giá rẻ? Nói rằng công chúng muốn những thứ mà chính phủ cung ứng có thể đúng đối với Medicare và Medicaid nhưng chắc chắn không đúng đối với trợ cấp nông phẩm hay những giới hạn nhập khẩu xe Nhật, những giới hạn vốn tăng giá mỗi chiếc xe khoảng $2000 và, trong lúc đó, không ngăn cản sự suy thoái của kỹ nghệ xe hơi HK. Điều đó cũng không đúng đối với định mức nhập khẩu đường. Nếu mọi người được hỏi ư kiến qua trưng cầu dân ư có muốn mua đường với giá gấp đôi giá đường trên thế giới, th́ bạn nghĩ sẽ có nhiều người bỏ phiếu thuận?
Ngược lại, khi công chúng có cơ hội bỏ phiếu trên những vấn đề nầy, họ dứt khoát bỏ phiếu chống. Công chúng nói chung nghĩ rằng chính phủ quá lớn. Họ biết rằng nhưng ǵ họ đang lănh nhận không xứng đáng với những món tiền thuế họ đóng. Ở California, nơi những dự luật có thể liệt kê trên mẫu phiếu để bạn có thể thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chúng đă bỏ phiếu thuận cho Dự Luật Proposition 13, khiến khởi động một cuộc nổi loạn về thuế. Về sau, họ bỏ phiếu cho cái gọi là giới hạn Gann Limit liên quan đến tổng chi chính phủ. Người dân California bỏ phiếu năm 1991 để giới hạn những nhiệm kỳ của các dân biểu tiểu bang và, năm 1992, những nhiệm kỳ của các thành viên Quốc Hội. Connecticut có một thuế lợi tức lũy tiến (graduated income tax) ngày nay không phải v́ dân chúng bỏ phiếu mà v́ Weicker là thống đốc. Trước kia những dự luật liên tiếp nhằm gia tăng thuế lợi tức lũy tiến tiểu bang đều bị thất bại.
Tuy nhiên, những học giả phái tự do c̣n sai lầm một cách căn bản hơn. Vấn đề không phải là do chính phủ chi tiêu quá ít mà do chi tiêu quá nhiều. Vấn đề trong giáo dục là do chính phủ chi tiêu quá nhiều cho những việc sai lầm. Vấn đề trong y tế là do chính phủ chi tiêu quá nhiều cho những việc sai trái. Kết quả chung cuộc là chính phủ đă trở thành một loại quái dị tự sản sinh. Abraham Lincoln nói về một chính phủ của dân, do dân, v́ dân. Điều mà chúng ta có ngày nay là một chính phủ của dân, do những đám quan liêu, kể cả những nhà lập pháp đă biến thành quan liêu, v́ những tay quan liêu.
Xin nhấn mạnh một lần nữa, vấn đề không phải là những tay quan liêu là những người xấu. Như những người theo chủ nghĩa Marxist nói, vấn đề là do hệ thống, không do con người. Tư lợi của những người trong chính phủ khiến họ hành xử trái ngược với quyền lợi của phần c̣n lại của chúng ta. Chúng ta c̣n nhớ định luật nổi tiếng của Adam Smith về bàn tay vô h́nh (invisible hand) : Những ai chỉ chủ đích phục vụ công ích đều bị bàn tay vô h́nh thôi thúc phục vụ tư lợi, điều nầy không nằm trong ư hướng của họ.
Sở dĩ có nan đề hiện nay là v́ chúng ta đă từng bước phát triển những định chế chính phủ trong đó người dân không có điều kiện nói lên tiếng nói của họ. Một nghiên cứu mới đây của James Payne làm sáng tỏ điều nầy. Khi xem xét mười bốn cuộc điều trần liên quan đến vấn đê chi tiêu, Payne nhận thấy rằng 1014 nhân chứng có vẻ tán đồng chi tiêu. Chỉ có 7 có thể được liệt kê như là chống đối. Nói cách khác, số nhân chứng ủng hộ chi tiêu đông hơn số phản đối 145 trên 1. Dù tỉ số đó đă quá cao, c̣n có một khám phá quan trọng hơn là: trong số 1060 nhân chứng có mặt, 47% là những giám đốc liên bang, và 10% là những viên chức tiểu bang và địa phương. Sáu phần trăm khác là chính những thành viên quốc hội. Như thế 63% nhân chứng ủng hộ chi tiêu là từ phía chính phủ. Họ nói với chúng ta rằng họ nên chi tiêu tiền của chúng ta, không phải cho tư lợi của họ mà cho những ǵ họ tin, hay nói là họ tin, là lợi ích của chúng ta. Payne nói thêm, "Đáng ngạc nhiên, quan điểm của Quốc Hội đối với những chương tŕnh chi tiêu bị uốn nắn bởi chính những viên chức chính phủ." Sự thực về các dự luật chi tiêu cũng là sự thực về những dự luật chính phủ khác: định mức đường, miễn thuế bảo hiểm y tế do chủ cơ sở, trợ cấp nông phẩm, và v.v.
Vấn đề phúc lợi tập trung và thiệt hại chia đều là một vấn đề thực sự. Tuy nhiên, hiện không thể tin được đó là vấn đề then chốt. Vấn đề then chốt là chúng ta không có khả năng thực hành những ǵ chúng ta rao giảng do những ǵ đă xảy ra cho cơ chế chính phủ. Chúng ta rao giảng tự do kinh doanh cho những quốc gia cộng sản vừa mới được giải phóng. Chúng ta bảo họ hăy tư hữu hóa, tư hữu hóa, tư hữu hóa, trong khi chúng ta xă hội hóa, xă hội hóa, xă hội hóa.
Chúng ta có thể làm ǵ để giải quyết chuyện nầy? Chúng ta không phải tự trừng phạt ḿnh. Đây là một đại cường quốc; đó là quốc gia giàu có nhất trên thế giới với tiêu chuẩn sống cao nhất. Đó là một biểu tượng phi thường của những đức tính của thị trường tự do mà, với chưa đầy 50% của tổng số
tài nguyên trong nước, khu vực tư nhân có thể thiết lập được một tŕnh độ sống khiến phần lớn thế giới phải ganh tị. Chúng ta, những người dân, một lần nữa phải cai trị. Muốn làm được điều đó, cần phải thực hiện một thay đổi lớn lao trong cơ chế chính trị.
Phong trào mà chúng ta thấy xuất hiện ở chân trời mang nhiều hứa hẹn đó là phong trào đ̣i giới hạn các nhiệm kỳ, một phong trào sẽ hóa giải nạn quan liêu ít nhất ở Quốc Hội. Dù có vẻ ngông cuồng, tốt nhất là trở về hệ thống phe phái (spoils system) thay v́ chính phủ dân chính (civil service). Cách đó sẽ hóa giải t́nh trạng quan liêu hành chánh. Bây giờ chúng ta có những người đang ở trong những chức vụ an toàn, vĩnh viễn mà sự an sinh tùy thuộc vào vai tṛ rất lớn và càng ngày càng lớn của chính phủ. Mặc dù khó có thể quay trở lại hệ thống phe phái, những giới hạn nhiệm kỳ đốivới những thành viên Quốc Hội sẽ hóa giải t́nh trạng quan liêu không những của chính Quốc Hội mà cả những nhân viên quốc hội, chỉ những nhân viên chính phủ không bị chi phối bởi những luật định và biên chế công dân vụ.
Hiện có sự hỗ trợ rộng răi đối với những giới hạn nhiệm kỳ. Colorado đă thông qua những giới hạn nhiệm kỳ đối với cả các dân biểu tiểu bang và những thành viên quốc hội năm 1991. California đă thông qua những giới hạn nhiệm kỳ đối với các dân biểu tiểu bang năm 1991 và theo chân mười ba tiểu bang khác để thông qua những giới hạn nhiệm kỳ đối với các thành viên quốc hội trong kỳ bầu cử năm 1992, như thế mười lăm tiểu bang hiện đă thông qua luật hạn chế nhiệm kỳ. Số phiếu trên mẫu bầu cử ủng hộ việc giới hạn nhiệm kỳ ở mười bốn tiểu bang vượt quá số phiếu bỏ trực tiếp dành cho Bill Clinton! Đây thực sự là một ư niệm đă chín muồi. Đương nhiên, những thành viên của Quốc Hội sẽ nói rằng việc các tiểu bang giới hạn nhiệm kỳ của họ là trái với hiến pháp. Có thể là thế, nhưng vấn đề đó cần được trắc nghiệm, và Quốc Hội chắc chắn có quyền đề nghị một tu chánh án về vấn đề nầy. Dù sao đi nữa cũng phải cần làm một cái ǵ quyết liệt để đảo ngược phương hướng mà chúng ta đang đi.
Hoa Kỳ có một di sản lớn và một lịch sử lớn. Từ khởi thủy của nền cộng ḥa HK, mọi thế hệ đều được giáo dục tốt hơn so với thế hệ trước và có được một tiêu chuẩn sống cao hơn. Thế hệ sắp tới có nguy cơ là thế hệ đầu tiên cho thấy điều đó không đúng nữa, và đó là một đại bi kịch.
- Đỉnh Sóng-
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.