Người xưa có câu nói rằng “học ăn, học nói, học mở” đúng như ư nghĩa của câu nói
ấy khi trong quá tŕnh giao tiếp chúng ta phải biết cách truyền đạt đến người
nghe, tạo được hiệu ứng đám đông được ngay từ lúc ban đầu. Vậy các bạn có biết
được việc tạo được hiệu ứng đám đông là ǵ? làm thế nào để tạo được hiệu ứng đám
đông ?
Là một trong những yếu tố mạnh mẽ nhất tác động trực tiếp lên tâm lư, sự đánh
giá và quyết định mua của con người.
Là công cụ marketing hiệu quả nhất, có phạm vi ảnh hưởng mạnh nhất với chi phí
thấp nhất.
Là công cụ marketing đóng vai tṛ chính trong việc làm nên thành công của hầu
hết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên thế giới.
Là công cụ marketing tối ưu nhất và hiệu quả nhất trong lĩnh vực kinh doanh ẩm
thực.
Hiệu ứng đám đông có thể được hiểu là những suy nghĩ hoặc hành vi của con người
thường xuyên chịu ảnh hưởng của những người khác. Người ta thường chạy theo
những cái mà đám đông cho là hay, đúng và sáng suốt, nhưng bản thân lại không
suy nghĩ về ư nghĩa của sự việc.
Hội chứng theo đám đông có lẽ xảy ra từ khi loài người chung sống cộng đồng với
nhau. Xưa kia, hội chứng này thường diễn ra một cách tự nhiên nhưng thời đại
ngày nay, nó có thể do chính con người dựng nên. Tuy nhiên hiện nay, Hiệu ứng
đám đông đă được coi là một vũ khí quan trọng được sử dụng trong mọi lĩnh vực
nhằm đạt được mục đích mong muốn.
Có thể thấy ảnh hưởng của hiện tượng này tại mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi thời
điểm trong đời sống hàng ngày. Rơ ràng nhất tại Việt Nam có thể kể đến hiện
tượng bùng nổ chứng khoán năm 2007, hiện tượng sập giá trong kinh doanh nông sản
hay hiện tượng bất động sản bong bóng trong những năm vừa qua.
Trong giới học sinh, sinh viên, tâm lư đám đông cũng là hiện tượng khá phổ biến
từ sinh hoạt, học tập đến cả vui chơi giải trí. Thế mới có cụm từ “trào lưu”. Từ
trào lưu thời trang Hàn Quốc, đến trào lưu chụp ảnh selfie,….Ngay cả chuyện học
hành cũng trở thành trào lưu! Có thể nói hiệu ứng đám đông là trạng thái tâm lư
khá phổ biến ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là tại những nước phát triển như Việt Nam
hiện nay. Trong hoạt động thị trường của nhiều doanh nghiệp, hiệu ứng đám đông
là hiện tượng thường gặp. Do không nắm bắt được đầy đủ thông tin, nhà đầu tư rất
khó đưa ra lời dự đoán hợp lư về tính bất xác định của thị trường trong tương
lai. Chính v́ thế, họ thường thông qua việc quan sát hành vi của mọi người xung
quanh để chắt lọc thông tin, v́ luồng thông tin này được “truyền thông” liên
tục; thông tin được mọi người nắm bắt về cơ bản là giống nhau, từ đó nảy sinh
hành vi a dua theo đám đông.
Tâm lư học đám
đông
Une
loge, un jour de spectacle gratuit (nghĩa: Hành lang ngoài, một ngày có chương
tŕnh miễn phí)
Tâm lư học đám đông , c̣n được gọi là tâm lư đám đông , là một nhánh của Tâm lư
học xă hội,nghiên cứu về tâm lư và hành xử của một người b́nh thường trong những
hoạt động mang tính chất tập thể. Các nhà tâm lư xă hội đă phát triển một số lư
thuyết để giải thích cách mà tâm lư của đám đông khác và tương tác với tâm lư
của các cá nhân bên trong nó. Các nhà lư thuyết chính trong tâm lư của đám đông
bao gồm Gustave Le Bon , Gabriel Tarde , Sigmund Freud và Steve Reicher . Lĩnh
vực này liên quan đến các hành vi và quá tŕnh suy nghĩ của cả các thành viên
đám đông riêng lẻ và đám đông như một thực thể. Hành vi của đám đông chịu ảnh
hưởng nặng nề từ việc mất đi trách nhiệm của cá nhân và ấn tượng về tính phổ
biến của hành vi, cả hai đều tăng theo quy mô của đám đông.
Theo Gustave Le Bon,trong cuốn ''Tâm lư học đám đông'', những đám đông luôn bị
vô thức tác động, họ xử sự như người nguyên thuỷ, người dă man, không có khả
năng suy nghĩ, suy luận, mà chỉ cảm nhận bằng h́nh ảnh, bằng sự liên kết các ư
tưởng, họ không kiên định, thất thường, và đi từ trạng thái nhiệt t́nh cuồng
loạn nhất đến ngây dại ngớ ngẩn nhất. Vả lại, do thể trạng của ḿnh, những đám
đông ấy cần có một thủ lĩnh, một người cầm đầu, kẻ có thể dẫn dắt họ và cho bản
năng của họ một ư nghĩa.
Nguồn gốc
Bản đồ cũ của đô thị paris lúc bấy giờ
Nghiên cứu tâm lư đối với hiện tượng đám đông đă được ghi nhận nhiều thập niên
trước năm 1900 khi văn hoá châu Âu thấm đượm những tư tưởng về Fin de siècle .
Văn hoá đô thị "hiện đại" này nhận thức được rằng họ đang sống ở một độ tuổi mới
và rất khác biệt. Họ đă chứng kiến những phát minh mới kỳ diệu và cuộc sống có
kinh nghiệm theo những cách mới lạ. Dân số, hiện đang sinh sống ở các thành phố
công nghiệp tập trung đông như Milan và Paris, chứng kiến sự phát triển của
bóng đèn, radio, nhiếp ảnh, phim hoạt h́nh, điện báo, xe đạp, điện thoại và hệ
thống đường sắt. Họ trải qua một cuộc sống nhanh hơn và coi cuộc sống con người
là phân chia, v́ vậy họ đă chỉ định từng giai đoạn của cuộc sống bằng một cái
tên mới. Họ đă tạo ra các khái niệm mới như "Người trẻ vị thành niên", "Mẫu
giáo", "Kỳ nghỉ", "cắm trại ngoài thiên nhiên", "tách đoạn 5 phút để nghỉ giải
lao" và "Du lịch đẻ giải trí" như một lớp giải trí để mô tả những lối sống.
Tương tự, khái niệm trừu tượng của "đám đông" đă phát triển như một hiện tượng
mới đồng thời ở Paris, Pháp và Milan, thành phố lớn nhất ở Vương quốc Ư. Các nhà
cải cách pháp luật được thúc đẩy bởi lư thuyết tiến hóa của Darwin , đặc biệt là
ở Vương quốc Ư, đă lập luận rằng hệ thống xă hội và pháp luật của châu Âu đă
được h́nh thành dựa trên các khái niệm cổ xưa về lư tính tự nhiên, hoặc đạo đức
Kitô giáo, và bỏ qua các định luật sinh học không thể huỷ ngang. Mục tiêu của họ
là đưa luật xă hội vào sự ḥa hợp với luật sinh học. Để theo đuổi mục tiêu này,
họ đă phát triển khoa học xă hội về nhân học h́nh sự, với nhiệm vụ thay đổi sự
nhấn mạnh từ một trong những nghiên cứu về các thủ tục pháp lư sang nghiên cứu
tội phạm.
Trong tác phẩm "Nhân học h́nh sự", tác giả Sergi viết, "nghiên cứu sự gian dối ở
nơi tự nhiên của ḿnh, tức là trong lĩnh vực sinh học và bệnh lư". Cesare
Lombroso của Ư , giáo sư về y khoa và vệ sinh tại Turin, đă mở rộng chương tŕnh
nghị sự của họ vào năm 1878, khi ông xuất bản "L'uomo delinquente" , cuốn sách
có ảnh hưởng lớn đă trải qua năm lần xuất bản. Cuốn sách được xuất bản bằng
tiếng Anh vào năm 1900 dưới tựa đề " Criminal Man" đă kiên cố hóa các mối liên
hệ giữa các lư thuyết tiến hóa xă hội và sự sợ hăi của đám đông với khái niệm về
tội phạm "sinh ra" như một con thú hoang dại trong xă hội văn minh. Cuốn sách
ảnh hưởng đến cả các chuyên gia pháp lư châu Âu và Mỹ quan tâm đến việc phân
công trách nhiệm cho những cá nhân có hành vi đáng ngờ trong khi tham gia vào
đám đông.
Cesare Lombroso
Cuộc tranh luận đầu tiên về tâm lư học đám đông bắt đầu ở Rôma tại Đại hội Nhân
chủng học Quốc tế lần thứ nhất vào ngày 16 tháng 11 năm 1885. Cuộc họp này do
Cesare Lombroso và các đồng nghiệp Ư của ông thống trị, nhấn mạnh đến các quyết
định sinh học.
"Lombroso đă nêu chi tiết trước cuộc Đại hội đầu tiên về lư thuyết dị thường về
thể chất của tội phạm và phân loại tội phạm của ḿnh như những kẻ tội phạm đă
sinh ra, hoặc những kẻ tội phạm theo từng thời điểm và những điều xấu xa. Ferri
bày tỏ quan điểm của ông về tội ác như sự thoái hoá sâu sắc hơn là điên rồ.
Những người theo nghĩa luân lư nguyên thủy đă sống sót qua sự tàn phá của trí
thông minh của họ, và giống những lời nhận xét của Benedickt, Sergi và Marro. "
Đó là một mặt nhỏ của tâm lư đám đông đă được đưa ra bởi người Pháp, những người
đưa ra một lư thuyết về môi trường của tâm lư con người.
"M. Anguilli đă chú ư đến tầm quan trọng của ảnh hưởng từ môi trường xă hội đối
với tội phạm. Giáo sư Alexandre Lacassagne nghĩ rằng các lư thuyết tính di
truyền và thoái hóa như tổ chức do nhà trường Ư là cường điệu và cách diễn giải
sai các sự kiện, và đó là yếu tố quan trọng là môi trường xă hội."
Tại Paris trong 10-17 tháng 8 năm 1889, trường phái Ư nhận được sự khiển trách
mạnh mẽ hơn về lư thuyết sinh học của họ trong Đại hội Nhân học H́nh sự Quốc tế
lần thứ 2.Sự khác biệt cơ bản trong quan điểm giữa các trường phái Ư và Pháp đă
được phản ánh trong quá tŕnh tố tụng.
"Giáo sư Lombroso nhấn mạnh vào chứng động kinh liên quan đến lư thuyết của ông
về 'kẻ phạm tội sinh ra.' Giáo sư Léonce Pierre Manouvrier mô tả các lư thuyết
của Lombroso như là một cái ǵ đó không phải là những ǵ đă được phát hiện bởi
khoa học thần kinh.Những điều dị thường mà Lombroso quan sát được đă gặp phải ở
những người đàn ông trung thực cũng như các tội phạm và không có sự khác biệt về
mặt vật lư giữa chúng, Manouvrier tuyên bố.Người ta, Baron Raffaele Garofalo,
Drill, Alexandre Lacassagne và Benedikt đă phản đối các lư thuyết của Lombroso
một phần hay toàn bộ. Pugliese t́m ra nguyên nhân gây ra tội ác là khi tội phạm
không thích ứng với môi trường xung quanh của ḿnh, và Benedikt, người mà Tarde
đồng ư, cho rằng khuyết tật thể chất không phải là dấu hiệu của Tội phạm h́nh
sự". Chính trong bối cảnh này mà đă có một cuộc tranh luận giữa Scipio Sighele,
một luật sư người Ư và Gabriel Tarde, một thẩm phán Pháp về việc làm thế nào để
xác định trách nhiệm h́nh sự trong đám đông và người bắt giữ.
Extraordinary
Popular Delusions and the Madness of Crowds
(tiếng Anh)
Văn học về đám đông và hành vi của họ xuất hiện vào khoảng những năm 1841, với
việc xuất bản cuốn sách của Charles Mackay về những cuốn sách ''Extraordinary
Popular Delusions and the Madness of Crowds'' (nghĩa: Những ảo tưởng phổ biến
bất thường và sự điên rồ của đám đông). Thái độ đối với đám đông đă thay với
việc xuất bản bộ sách sáu cuốn của Hippolyte Taine là The Origins of
Contemporary France (1875) (nghĩa: Nguồn gốc của nước Pháp đương đại) . Đặc
biệt, công việc của Taine đă giúp thay đổi quan điểm của những người đương thời
về những hành động của đám đông trong cuộc Cách mạng năm 1789. Nhiều người châu
Âu đă rất tôn trọng ông. Mặc dù rất khó để liên kết trực tiếp các tác phẩm của
ḿnh với hành vi của đám đông, có thể nói rằng những suy nghĩ của ông đă kích
thích nghiên cứu thêm về hành vi của đám đông. Tuy nhiên, chỉ đến nửa cuối của
thế kỷ 19, sự quan tâm của khoa học trong lĩnh vực này mới đạt tới đỉnh cao. Bác
sĩ, nhà nhân chủng học người Pháp Gustave Le Bon đă trở thành nhà lư thuyết có
ảnh hưởng nhất với các tác phẩm: Psicología de masas (nghĩa: Tâm lư học đám
đông), lois psychologiques de l'évolution des peuples (nghĩa: Những quy luật tâm
lư về sự tiến hóa của các dân tộc), Cách mạng Pháp và tâm lư học của các cuộc
cách mạng, The crowd: a study of the popular mind (nghĩa: Đám đông: một nghiên
cứu về tâm trí phổ biến), The psychology of peoples (nghĩa: Tâm lư của các dân
tộc),the psychology of socialism (nghĩa:Tâm lư của chủ nghĩa xă hội),... một số
đă được xuất bản Tiếng Việt.
Các loại đám
đông
Có rất ít nghiên cứu về các loại thành viên đám đông, đám đông và không có sự
nhất trí về việc phân chia các loại đám đông. Hai học giả gần đây, Momboisse
(1967) và Berlonghi (1995) tập trung vào mục đích tồn tại để phân biệt đám
đông. Momboisse đă phát triển một hệ thống gồm bốn loại: t́nh cờ (ngẫu nhiên),
bị ràng buộc (về thỏa thuận, lễ nghi, tập tục, tập quán, hiệp định, hiệp ước),
để biểu lộ và đám đông . Berlonghi đă phân loại đám đông như là khán giả, biểu
t́nh, hoặc trốn thoát, để tương quan với mục đích thu thập.
Một cách khác để phân loại đám đông là hệ thống cường độ cảm xúc của nhà xă hội
học Herbert Blumer. Anh phân biệt bốn loại đám đông: giản dị, thông thường, biểu
cảm và diễn xuất. Hệ thống của ông có tính năng năng động. Nghĩa là, một đám
đông thay đổi mức độ cường độ cảm xúc của nó theo thời gian, và do đó, có thể
được phân loại theo bất kỳ một trong bốn loại.
Nói chung, các nhà nghiên cứu trong tâm lư học đám đông đă tập trung vào các
khía cạnh tiêu cực của đám đông, nhưng không phải tất cả đám đông đều vui vẻ
hoặc tiêu cực trong tự nhiên. Ví dụ, vào đầu phong trào vận động xă hội chủ
nghĩa, quần chúng được yêu cầu mặc trang phục chủ nhật và diễu hành trên phố.
Một ví dụ hiện đại hơn liên quan đến việc ngồi trong Phong trào Dân quyền. Đám
đông có thể phản ánh và thách thức những tư tưởng tổ chức môi trường văn hóa xă
hội của họ. Họ cũng có thể phục vụ các chức năng xă hội tích hợp, tạo ra các
cộng đồng tạm thời.
Đám đông có thể chủ động (băng đảng) hoặc thụ động (khán giả). Những đám đông
đang hoạt động có thể được chia thành những đám đông hung hăng, chạy trốn, thu
hút, hoặc biểu cảm. Các băng đảng hung hăng thường tập trung vào bạo lực ở bên
ngoài. Ví dụ như bạo loạn bóng đá và cuộc bạo loạn LA năm 1992. Các nhóm người
chạy trốn được đặc trưng bởi một số lượng lớn những người hoảng sợ cố gắng thoát
khỏi t́nh huống nguy hiểm. Những loại băng nhóm bạo lực này là lư do tại sao
việc hét lên "Fire!" trong một nhà hát hay nơi đông đúc là bất hợp pháp. Các
băng cướp xuất hiện khi một số lượng lớn người tham gia tranh giành một lượng
tài nguyên (của cải) hạn chế. Một đám đông có hàm ư là bất kỳ nhóm người lớn
khác tập trung cho một mục đích hoạt động. Sự bất tuân dân sự, các buổi ḥa nhạc
rock, và sự phục hồi tôn giáo đều thuộc loại này.
Quan điểm lư
thuyết
Gustave Le Bon
Gustave Le Bon
Le Bon cho rằng đám đông tồn tại trong ba giai đoạn: ''ngập nước'', ''lan
truyền'', và ''đề xuất''. Trong quá tŕnh ''ngập nước'', những cá nhân trong
đám đông mất đi cảm giác về bản thân cá nhân và trách nhiệm cá nhân. Điều này
được gây ra bởi sự giấu tên của cá nhân trong đám đông. Sự xáo trộn đề cập tới
khuynh hướng cho các cá nhân trong một đám đông không nghi ngờ ǵ theo những ư
tưởng nổi bật và cảm xúc của đám đông. Theo quan điểm của Le Bon, hiệu ứng này
có khả năng lây lan giữa các cá thể "ngập nước" giống như một căn bệnh. Đề xuất
đề cập đến khoảng thời gian trong đó những ư tưởng và cảm xúc của đám đông chủ
yếu được rút ra từ một sự bất b́nh đẳng về chủng tộc. Hành vi này xuất phát từ
một chia sẻ vô thức cổ xưa và do đó thiếu văn minh trong tự nhiên. Nó bị hạn chế
bởi khả năng nhận thức và đạo đức của các thành viên có ít khả năng nhất. Le Bon
tin rằng đám đông có thể chỉ là một lực lượng mạnh mẽ chỉ để phá hủy. Thêm vào
đó, Le Bon và những người khác đă chỉ ra rằng các thành viên trong đám đông cảm
thấy tội lỗi về thủ tục pháp lư, do khó khăn trong việc truy tố các thành viên
cá nhân của một đám đông.
Le Bon cho rằng đám đông nuôi dưỡng sự giấu tên và tạo ra cảm xúc đă bị một số
nhà phê b́nh tranh căi. Clark McPhail chỉ ra các nghiên cứu cho thấy rằng "đám
đông điên rồ" không đảm nhận một cuộc sống riêng của ḿnh, ngoài những suy nghĩ
và ư định của các thành viên. Norris Johnson, sau khi điều tra sự hoảng loạn
tại một buổi ḥa nhạc của The Who vào năm 1979 đă kết luận rằng đám đông bao gồm
nhiều nhóm nhỏ những người hầu hết là cố gắng giúp đỡ lẫn nhau. Thêm vào đó, lư
thuyết của Le Bon bỏ qua bối cảnh văn hoá-xă hội của đám đông, mà một số nhà lư
luận cho rằng có thể làm mất đi sự thay đổi xă hội. R. Brown th́ giả định rằng
đám đông là đồng nhất, cho thấy thay v́ những người tham gia tồn tại trên một
liên tục, khác nhau trong khả năng của họ để đi chệch khỏi các chuẩn mực xă hội.
Lư thuyết Freud
Sigmund Freud
Lư thuyết hành vi đám đông của Sigmund Freud chủ yếu bao gồm ư tưởng rằng trở
thành một thành viên của một đám đông phục vụ để mở khóa tiềm thức. Điều này xảy
ra bởi v́ cái tôi , hay trung tâm đạo đức của ư thức, được thay thế bởi một đám
đông lớn hơn, phải được thay thế bởi một nhà lănh đạo đám đông có sức thu hút.
McDougall lập luận tương tự như Freud, nói rằng cảm xúc đơn giản là phổ biến
rộng răi, và cảm xúc phức tạp th́ hiếm hơn. Trong một đám đông, trải nghiệm t́nh
cảm chia sẻ tổng thể quay trở lại mẫu số ít nhất (LCD), dẫn đến mức độ biểu hiện
cảm xúc ban sơ. Cơ cấu tổ chức này là của "tập hợp ban sơ" - xă hội văn minh
trước - và Freud nói rằng một người phải nổi dậy chống lại nhà lănh đạo (khôi
phục đạo đức cá nhân) để thoát khỏi nó. Moscovici mở rộng về ư tưởng này, thảo
luận về cách những tên độc tài như Mao Trạch Đông và Joseph Stalin đă sử dụng
tâm lư đám đông tự đặt ḿnh vào vị trí này "lănh đạo tập thể".
Theodor Adorno chỉ trích niềm tin vào một sự tự phát của quần chúng: theo ông,
quần chúng là một sản phẩm nhân tạo của "quản lư" cuộc sống hiện đại. Các cái
tôi của chủ tư sản giải thể chính nó, nhường chỗ cho các cái tôi cá nhân và các
vấn đề của tâm lư. Hơn nữa, Adorno tuyên bố mối liên kết quần chúng với các nhà
lănh đạo thông qua các cảnh tượng được giả mạo:
"Khi các nhà lănh đạo trở nên ư thức về tâm lư đám đông và tự tay nắm bắt lấy
nó, nó sẽ không c̣n tồn tại trong một nghĩa nào đó. ... Chỉ cần ít những người
tin tưởng sâu sắc rằng con buôn khôn lỏi khó chơi, kẻ cho vay nặng lăi(ám chỉ kẻ
chỉ huy) là ma quỷ, th́ liệu họ có hoàn toàn tin tưởng vào lănh đạo của ḿnh nữa
không? họ không thực sự tự nhận ḿnh với anh ta nhưng hành động xác định này,
thực hiện sự nhiệt t́nh của ḿnh, và do đó tham gia trong hoạt động lănh đạo của
họ. ... Đó có lẽ là sự nghi ngờ của fictitiousness này của riêng 'nhóm tâm lư'
của họ mà làm cho đám đông phát xít quá tàn nhẫn và khó gần. Nếu họ sẽ dừng lại
để lư do cho một thứ hai, toàn bộ hiệu suất sẽ đi thành từng mảnh, và họ sẽ bị
bỏ lại hoảng sợ."
Lư thuyết Deindividuation lập luận rằng trong các t́nh huống đám đông điển h́nh,
các nhân tố như ẩn danh, thống nhất nhóm và kích động có thể làm suy yếu các
kiểm soát cá nhân (ví dụ như tội lỗi, xấu hổ, hành vi tự đánh giá) bằng cách
tách người ra khỏi nhận dạng cá nhân của họ và giảm mối quan tâm của họ về đánh
giá xă hội. Sự thiếu kiềm chế này làm tăng độ nhạy cảm cá nhân đối với môi
trường và giảm thiểu suy nghĩ hợp lư, điều này có thể dẫn đến hành vi chống xă
hội. Các lư thuyết gần đây đă nói rằng việc phân chia theo ư thích của người
không thể, do t́nh huống, phải có nhận thức mạnh mẽ về bản thân ḿnh như một đối
tượng của sự chú ư. Sự thiếu quan tâm này giải phóng cá nhân khỏi sự cần thiết
của hành vi xă hội thông thường.
Nhà tâm lư học xă hội người Mỹ Leon Festinger và các cộng sự lần đầu tiên đă xây
dựng khái niệm deindividuation vào năm 1952. Nhà tâm lư học người Philip
Zimbardo đă giải thích chi tiết tại sao đầu vào và đầu ra tâm thần bị mờ bởi các
yếu tố như ẩn danh, thiếu các ràng buộc xă hội và quá tải cảm giác. Thử nghiệm
Nhà tù Stanford nổi tiếng củaZimbardo là một luận cứ mạnh mẽ về sức mạnh của
việc giải phóng. Các thí nghiệm tiếp theo đă có những kết quả khác nhau khi nói
đến các hành vi hung hăng, và thay vào đó cho thấy những kỳ vọng về quy chuẩn
xung quanh các hành vi có ảnh hưởng đến hành vi phá hoại (tức là nếu một người
bị chia tách thành một thành viên của KKK , tăng xâm lược, nhưng nếu như Một y
tá, hung hăng không tăng).
Một sự phân biệt khác đă được đề xuất giữa deindividuation công cộng và tư nhân.
Khi các khía cạnh tư nhân của bản thân bị suy yếu, người ta trở nên phụ thuộc
vào xung đột đám đông hơn, nhưng không nhất thiết là tiêu cực. Đó là khi người
ta không c̣n tham dự vào phản ứng và phán đoán của cá nhân đối với hành vi chống
lại xă hội.
Lư thuyết hội
tụ
Lư thuyết hội tụ cho rằng hành vi của đám đông không phải là sản phẩm của đám
đông, mà là đám đông là sản phẩm của sự xuất hiện của các cá nhân có cùng quan
điểm. Floyd Allport cho rằng "Một cá nhân trong một đám đông hành xử giống như
ông sẽ hành xử một ḿnh, chỉ nhiều hơn như vậy." Lư thuyết hội tụ cho rằng h́nh
thức đám đông từ những người có cùng sở thích, những hành động của họ sau đó
được củng cố và tăng cường bởi đám đông.
Lư thuyết hội tụ cho rằng hành vi của đám đông không phải là không hợp lư; Thay
vào đó, mọi người trong đám đông biểu hiện niềm tin và giá trị hiện có để phản
ứng của đám đông là sản phẩm hợp lư của cảm giác phổ biến rộng răi. Tuy nhiên,
lư thuyết này được đặt ra vấn đề bởi một số nghiên cứu nhất định cho thấy những
người tham gia vào những cuộc bạo loạn thập niên 70 ít có khả năng hơn so với
những người cùng tham gia.
Các nhà phê b́nh của lư thuyết này báo cáo rằng nó vẫn loại trừ quyết tâm xă hội
của tự ngă và hành động, trong đó nó lập luận rằng tất cả các hành động của đám
đông được sinh ra từ ư định của cá nhân.
Lư thuyết chuẩn
mực mới xuất hiện
Ralph Turner và Lewis Killian đưa ra ư tưởng rằng các tiêu chuẩn xuất hiện từ
bên trong đám đông. Lư thuyết chuẩn mực nổi lên cho rằng đám đông không có sự
thống nhất ngay từ đầu, nhưng trong một khoảng thời gian xay xát, các thành viên
chính đề xuất các hành động thích hợp, và các thành viên sau đây xếp hàng, tạo
thành nền tảng cho các chuẩn mực của đám đông.
Các thành viên chủ chốt được xác định thông qua các cá tính hoặc hành vi đặc
biệt. Sự thu hút sự chú ư này, và sự thiếu đáp ứng tiêu cực gây ra từ đám đông
như là một sự đồng ư ngầm cho tính hợp pháp của họ. Các tín đồ chiếm đa số
trong đám đông, v́ người ta có xu hướng là những sinh vật phù hợp bị ảnh hưởng
nặng nề bởi ư kiến của người khác. Điều này đă được thể hiện trong các nghiên
cứu sự tuân thủ của Sherif và Asch . thành viên đám đông được thuyết phục bởi
hiện tượng phổ quát, được mô tả bởi Allport như xu hướng thuyết phục của ư tưởng
rằng nếu mọi người trong đám đông đang hành động theo cách như vậy, th́ không
thể sai.
Lư thuyết chuẩn mở cho phép cả nhóm tích cực và tiêu cực, v́ đặc điểm phân biệt
và hành vi của các nhân vật chủ chốt có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Một nhà
lănh đạo chống xă hội có thể kích động hành động bạo lực, nhưng một giọng nói có
ảnh hưởng của bạo lực trong đám đông có thể dẫn đến một sự ngồi xổm rộng răi.
Một lời chỉ trích chính của lư thuyết này là việc h́nh thành và tuân thủ các
định mức mới cho thấy mức độ tự nhận thức thường bị mất trong các cá nhân trong
đám đông (chứng minh bằng nghiên cứu deindividuation). Một lời chỉ trích khác là
ư tưởng về các định mức mới xuất hiện không tính đến sự hiện diện của các định
mức xă hội hiện có. Ngoài ra, lư thuyết không giải thích tại sao một số gợi ư
hoặc cá nhân tăng lên t́nh trạng quy chuẩn trong khi những người khác th́ không.
Lư thuyết nhận
dạng xă hội
Lư thuyết nhận dạng xă hội cho rằng tự ngă là một hệ thống phức tạp được tạo
thành chủ yếu từ khái niệm thành viên hoặc không tham gia vào các nhóm xă hội
khác nhau. Các nhóm này có các giá trị đạo đức và hành vi khác nhau và các tiêu
chuẩn khác nhau, và các hành động của cá nhân phụ thuộc vào thành viên nhóm
(hoặc không phải thành viên) là cá nhân nổi bật nhất vào thời điểm hành động.
ảnh hưởng này được chứng minh bằng những phát hiện rằng khi lư do nêu ra và giá
trị của một thay đổi nhóm, các giá trị và động cơ của các thành viên của nó được
hiển thị cũng thay đổi. Đám đông là sự hỗn hợp của các cá nhân, tất cả đều
thuộc về các nhóm khác nhau. Tuy nhiên, nếu đám đông chủ yếu liên quan đến một
số nhóm người nhận dạng (như Kitô hữu hay các nhà hoạt động v́ quyền lợi dân sự)
th́ những giá trị của nhóm đó sẽ quyết định hành động của đám đông. Trong những
đám đông mơ hồ hơn, cá nhân sẽ thừa nhận một nhận dạng xă hội mới như một thành
viên của đám đông. Thành viên nhóm này được làm nổi bật hơn bằng cách đối đầu
với các nhóm khác, một sự xuất hiện tương đối phổ biến cho đám đông.
Nhận dạng nhóm nhằm tạo ra một bộ tiêu chuẩn cho hành vi; Đối với một số nhóm
bạo lực là hợp pháp, đối với những người khác là không thể chấp nhận. Tiêu
chuẩn này được h́nh thành từ các giá trị đă nêu, mà c̣n từ hành động của người
khác trong đám đông, và đôi khi từ một số vị trí lănh đạo.
Một mối quan tâm với lư thuyết này là trong khi nó giải thích đám đông phản ánh
những ư tưởng xă hội và thái độ hiện hành, nó không giải thích cơ chế mà theo đó
quần chúng thay đổi xă hội.
Tham khảo
Gustave Le Bon, Tâm lư học đám đông (Nguyễn Xuân Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn
hiệu đính), Nhà xuất bản Tri thức, 2006.
Tâm lư bầy đàn
Tâm lư bầy đàn hay tâm lư đám đông là sự mô tả cách một số người bị ảnh hưởng
bởi những người thân cận của họ thông qua những hành vi nhất định, theo xu
hướng, và/hoặc theo những điểm tựa. Các nhà tâm lư học xă hội nghiên cứu những
chủ đề liên quan như trí thông minh theo nhóm, trí tuệ đám đông, và ra quyết
định phân cấp.
Tâm lư bầy đàn là từ ghép giữa từ "bầy đàn" có nghĩa là một "nhóm động vật" và
từ "tâm lư" ngụ ư một hoàn cảnh nhất định của suy nghĩ.
Tâm lư bầy đàn khác với hành vi bầy đàn, v́ hành vi bầy đàn chỉ dùng cho những
nhóm động vật, trong khi đó "tâm lư" là một thứ đặc trưng riêng của loài người.
Tâm lư bầy đàn là một phản ứng tâm lư gây ra bởi phản ứng sợ hăi áp lực lên tâm
lư cá nhân làm xuất phát ra hành động để tránh cảm giác "bị loại ra khỏi nhóm".
Tâm lư bầy đàn đôi khi cũng được gọi là tâm lư đám đông.
Lịch sử
Đám đông tụ tập ở Wall Street sau khi vụ sụp đổ thị trường cổ phiếu năm 1929
Tâm lư bầy đàn và hành vi bầy đàn đă được sử dụng để mô tả hành vi con người từ
khi loài người bắt đầu h́nh thành các bộ lạc, di trú theo nhóm, và cùng nhau
trồng trọt hay buôn bán. Ư tưởng về một "suy nghĩ theo nhóm" hoặc "hành vi đám
đông" lần đầu tiên được nhà tâm lư học xă hội Pháp Gabriel tarde và Gustave Le
Bon đưa ra vào thế kỷ 19. Hành vi bầy đàn trong xă hội loài người cũng đă được
nghiên cứu bởi Sigmund Freud và Wilfred Trotter, người đă viết cuốn sách Bản
năng bầy đàn trong thời b́nh và thời chiến (Herd Instincts in Peace and War) là
một tác phẩm kinh điển trong lĩnh vực tâm lư xă hội. Cuốn sách Lư thuyết về tầng
lớp mới giàu (Theory of the Leisure Class) của nhà xă hội học và kinh tế học
Thorstein Veblen minh họa cách một cá thể bắt chước các thành viên của những
nhóm có địa vị xă hội cao hơn ḿnh trong hành vi tiêu dùng của họ. Gần đây,
Malcolm Gladwell trong tác phẩm The Tipping Point, xem xét bằng cách nào mà các
yếu tố về văn hóa, xă hội và kinh tế hội tụ để tạo ra các xu hướng trong hành vi
người tiêu dùng. Trong năm 2004, nhà b́nh luận tài chính của tờ The New Yorker,
James Suroweicki đă xuất bản tác phẩm Trí tuệ đám đông (The Wisdom of Crowds).
Ở thế kỷ 21, các ngành như tiếp thị và tài chính học hành vi đă nỗ lực để nhận
dạng và dự đoán các hành vi hợp lư và bất hợp lư của các nhà đầu tư. Bị chi phối
bởi các phản ứng cảm xúc như ḷng tham và sợ hăi, các nhà đầu tư có thể tham gia
mua và bán cổ phiếu một cách điên cuồng, tạo ra những bong bóng kinh tế và làm
sụp đổ thị trường chứng khoán. Tâm lư bầy đàn xuất hiện ở hầu hết các thị trường
mới nổi thậm chí ngay cả ở các thị trường phát triển th́ vẫn có những giai đoạn
tồn tại tâm lư bầy đàn. Lịch sử kinh tế thế giới đă chứng kiến nhiều vụ nổ bong
bóng và khủng hoảng như bong bóng hoa tulip (1634-1637), bong bóng South Sea
-Anh (1711-1720), khủng hoảng bất động sản Florida- Mỹ (1920-1922), đại suy
thoái thế giới 1929, khủng hoảng 1987, Khủng hoảng tài chính châu Á 1997, khủng
hoảng dotcom, tất cả đều do tâm lư bầy đàn gây nên.
Tâm lư học đám
đông
Tham khảo[sửa | sửa mă nguồn]
Trí tuệ đám đông (The wisdom of crowds), James Surowiecki, Nhà xuất bản Tri thức
2007.
Bloom, Howard, The Global Brain: The Evolution of Mass Mind from the Big Bang to
the 21st Century. (2000) John Wiley & Sons, New York.
Freud, Sigmund's Massenpsychologie und Ich-Analyse (1921; English translation
Group Psychology and the Analysis of the Ego, *1922). Reprinted 1959 Liveright,
New York.
Gladwell, Malcolm, The Tipping Point: How Little Things Can Make a Big
Difference. (2002) Little, Brown & Co., Boston.
Le Bon, Gustav, Les Lois psychologiques de l'évolution des peuples. (1894)
National Library of France, Paris.
Le Bon, Gustave, The Crowd: A Study of the Popular Mind. (1895) Project
Gutenberg.
Trotter, Wilfred, Instincts of the Herd in Peace and War. (1915) Macmillan, New
York.
Suroweicki, James: The Wisdom of Crowds: Why the Many Are Smarter Than the Few
and How Collective Wisdom Shapes Business, Economies, *Societies and Nations.
(2004) Little, Brown, Boston.
Sunstein, Cass, Infotopia: How Many Minds Produce Knowledge. (2006) Oxford
University Press, Oxford, United Kingdom.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mă nguồn]
The Madness Of Crowds
Results of Surveys about Stock Market Speculation 12/99
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN
QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON
ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ
ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI
THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC
DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH
VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu