NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN
VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG
PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ
LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP
HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT
NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Phim Mê Thảo (phỏng theo
cuốn tiểu thuyết Chùa Đàn của Nguyễn Tuân) qua tay nhà đạo diễn Việt Linh (*) để
lại trong tôi một ấn tuợng khó quên : cơi âm nhạc “ca trù – chầu văn ’’ hầu như
văng vẳng trong từng màn. Song song, trong trí óc tôi trong rất lâu c̣n nhuốm
một màu đỏ rực rỡ hoa gạo. Thật vậy, khi xem phim tôi chẳng biết là cây ǵ, hỏi
chị Việt Linh mới được giải thích là cây gạo.
Ở Huế tôi không thấy, trong
Nam được gọi là mộc miên hay hồng miên, ngoài Bắc th́ có nhiều lắm, Ba V́, Nam
Định, trên bờ ao Long Tŕ chùa Thầy cũng như trên bờ hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, …mỗi
vùng, mỗi làng có cây gạo và truyền thuyết dính theo : Viên Đ́nh, Diên Uẩn, làng
Choán, đền Mơ, cây gạo đại thụ, cây gạo 200 tuổi,… Có lẽ hoa gạo đẹp, thơm nên
nhiều chuyện thần tiên ma quỷ đă được gắn vào cây. Thần cây đa, ma cây gạo, cú
cáo cây đề.
Trong sách Truyền kư mạn
lực của Nguyễn Dữ có Chuyện cây gạo. Chuyện kể có chàng trai đẹp đẽ, giàu có đất
Bắc Hà tên Tŕnh Trung Ngộ, đỗ thuyền đưới cầu Liễu Khê. Trên đường đi chợ Nam
Xang, chàng gặp cô Nhị Khanh ở Đông thôn là một giai nhân tuyệt sắc. Được nàng
năn nỉ « nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm
khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống
của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn ǵ nữa » chàng không đành ḷng từ chối
và cùng nàng xuống thuyền ái ân. Cuộc hoan lạc kéo dài nhiều ngày…
Giấc
xuân mê mệt chốn hoang liêu,
Bỗng
sượng sùng thay cuộc ấp yêu. .
Măng
ngọc vuốt ve nghiêng xuyến trạm,
Dải là
cởi tháo trút hài thêu
Nhưng khi về thôn Đông th́
biết được Nhị Khanh là một cô gái 20 tuồi chết đă nửa năm. Trung Ngộ đau đớn
cũng chết theo và hai linh hồn cùng nhau phá phách dân chúng, bắt phải khấn cầu
lễ bái, không được như ư th́ làm tai vạ. Khi thấy không thể chịu đựng được hơn,
dân làng đào mả phá quan tài, vứt bỏ hai hài cốt xuống sông. Từ đây linh hồn của
hai người nương tựa vào cây gạo cạnh chùa làm yêu làm quái, hễ ai động đến cành
lá cây gạo th́ dao gẫy ŕu mẻ, không thể nào đẵn phạt được. Năm Canh Ngọ (1330)
niên hiệu Khai Hựu nhà Trần, có một đạo nhân đi ngang qua, cùng dân làng lập đàn
tràng cúng tế, viết ba đạo bùa đóng vào cây gạo, thả ch́m xuống sông, đốt giữa
trời và quát lớn đuổi bọn dâm quỷ. Lời b́nh câu chuyện có câu kết thúc : Không
nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà d́m mất cái
hay, ngơ hầu mới hợp cái ư nghĩa người quân tử trung hậu đối với người khác.
Truyện có ư nghĩa nên gần
đây, trên mạng TruyenViet.com, với phong cách hiện đại, tác giả Tuyết Trinh,
trong bài Cây gạo có kể lại một chuyện tương tự với cậu học tṛ Đỗ Sinh, quê gốc
Phủ Lưu, Hà Nam, ái ân cùng cô Phương Lan trên một chiếc thuyền ỏ Hồ Tây. Và khi
chàng theo lời nàng về thôn Đông ở phía Nam Thăng Long, t́m đến căn nhà cạnh cây
gạo th́ chỉ thấy một cỗ quan tài sơn đỏ. Đau đớn chết đi, linh hồn Sinh cùng với
linh hồn Phương Lan tác oai tác quái thường gây tai vạ khiến người dân không
chịu nổi, quật mồ của hai người lên, đem xương cốt ném xuống sông. Linh hồn hai
người phải bay về nhập vào cây gạo cổ thụ, lấy nó làm chốn nương thân. Từ đó cây
gạo trở thành cây gạo ma, dao chém, ŕu chặt cũng không làm nó suy suyển, hai
con ma phong t́nh thỉnh thoảng vẫn hiện hữu gây tai vạ cho dân chúng trong vùng.
Năm Canh Ngọ, niên hiệu Thiên Hựu nhà Trần, có một nhà sư pháp hiệu Pháp Vân đi
ngang qua, dùng phép làm trọng thương hai con yêu, bắt chúng phải trốn đi biệt
tích….
Cây gạo làng Diên Uẩn (Tân
Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh), được xem là sinh vật gắn liền với một số sự kiện lịch
sử Việt Nam những thế kỷ X, XI. Theo sách Thiền uyển tập anh, cây gạo do thiền
sư Đinh La Quư trồng ở chùa Châu Minh, năm 936 thời Tiết độ sứ Dương Đ́nh Nghệ.
Thiền sư muốn trấn 19 chỗ do Cao Biền đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chân
để trấn yểm. Như đă xảy ra tại chân chùa Thiên Mụ ở Huế, thiền sư nhằm khôi phục
lại long mạch bị Cao Biền phá găy, ngoài mục đích sinh ra chân mạng đế vương,
chấn hưng đất nước c̣n v́ bậc đế vương đó có thể pḥ dựng Chính pháp làm hưng
thịnh Phật giáo. Năm 1009, sau 73 năm tồn tại, cây gạo làng Diên Uẩn bị sét đánh
nhưng không chết. Tại chỗ sét đánh trên thân cây có bài thơ sấm mà có ư kiến cho
rằng tác giả chính là sư Vạn Hạnh. Bài thơ được giải mă mang nội dung tiên đoán
việc nhà Lư nối nghiệp nhà Tiền Lê, cũng như tên các triều đại kế tục tiếp theo
trong lịch sử Việt Nam như nhà Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, chúa Trịnh. V́ sự kiện
cây gạo bị sét đánh, làng Diên Uẩn c̣n được mang tên là làng Dương Lôi hay Đ́nh
Sấm. Làng Diên Uẩn chính là nơi sinh ra Lư Công Uẩn. Không lâu sau khi bài thơ
sấm xuất hiện, Lư Công Uẩn lên ngôi vua thay thế nhà Tiền Lê, tức là vua Lư Thái
Tổ. Năm 1966, trong một trận băo lớn cây gạo già yếu quá bị đổ. Tính từ khi được
sư Đinh La Quư trồng tới khi chết, cây gạo tồn tại 1030 năm (theo Wikipedia).
Lời phê trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục : Bờ cơi Bắc Nam tuy có
khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê th́ có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lư
th́ lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế ! Hay
là người làm sử thấy thế, g̣ ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện,
chứ trời kia có ư làm ra như thế đâu.:
(Bài thơ sấm dịch)
Gốc rễ
thăm thẳm
Ngọn
cây xanh xanh
Dao
chặt cây rụng
Mười
tám hạt thành
Cành
đâm xuống đất
Cây
khác lại sinh
Đông
mặt trời mọc
Tây sao
náu ḿnh
Khoảng
sáu, bảy năm
Thiên hạ thái b́nh
(**)
Đền Mơ thuộc thôn Nghi
Dương, xă Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, Hải Pḥng, thờ Huyền Trân công chúa, người
có công khai hóa mảnh đất nầy. Nơi đây có cây gạo hơn 700 năm tuổi được Hội Bảo
vệ thiên nhiên và môi trường (VACNE) công nhận là cây di sản Việt Nam. Cây có
hai thân, cao khoảng 30m, đường kính hơn 2m, tàn cây phía bắc 18m, hướng đông
25m, phía nam 16m, phía tây 12m, diện tích toàn tàn cây khoảng 1200 m2, hoa đỏ
nở vào tháng 2. Năm Quí Mùi (1283), công chúa Quỳnh Trân xin vua Trần Thánh Tông
cho xuất gia quy y nơi cửa Phật, chọn đất làng Nghi Dương làm nơi lập am. Bà
đến nơi thôn dă, dạy bảo dân lành khai khẩn ruộng nương, gieo hạt, ươm mầm,
trồng dâu nuôi tằm lấy tơ dệt vải. Bà chiêu mộ dân đến khai hoang lập ấp, rồi
cùng với dân xây dựng ngôi chùa Mơ. Huyền thoại truyền tụng đến ngày nay rằng
đêm đến công chúa gơ mơ, tụng kinh niệm Phật, ban ngày tiếng mơ cũng là hiệu
lệnh tập hợp nhân dân. Công chúa đặt hiệu lệnh bằng tiếng mơ để mọi người nghe
đó mà nghỉ ngơi, ăn uống, đi làm… rồi tụ tập trai tráng mở hội vật, cầu trời mưa
thuận gió ḥa, có nước cho nhà nông cấy trồng, mùa màng tươi tốt. V́ thế mọi
người gọi công chúa là Bà chúa Mơ. Trong những tháng ngày tu hành ở chùa Mơ, năm
1284 công chúa Quỳnh Trân đă trồng cây gạo với ước nguyện thóc gạo dồi dào, nhân
dân no đủ và cho đến nay cây gạo vẫn tươi tốt. Tháng 11 năm Mậu Thân, công chúa
viên tịch. Vua Trần Anh Tông ra sắc chỉ tặng phong Trần Triều A Nương Thiên Thụy
Quỳnh Trân công chúa, ban cấp 300 quan tiền đồng cho 5 xă rước sắc phong về xă
Nghi Dương lập đền thờ. Đền Mơ có từ đó và được lưu giữ đến ngày nay. Hằng năm,
lễ hội đền chùa Mơ được tổ chức vào mồng 6 tháng Giêng (lễ Kỳ Phúc) và thường
kéo dài ba ngày, với nhiều hoạt động như lễ rước Thành Hoàng làng, hội vật Cầu
Đảo, các tṛ chơi đánh cờ, chọi gà, tổ tôm điếm. Đền Mơ là một công tŕnh kiến
trúc nghệ thuật cổ, một di tích lịch sử văn hóa (baohaiphong.com.vn
Một cây gạo đại thụ cũng
được vinh danh và được Hội đồng Di sản Việt Nam (VACNE) công nhận là Di sản văn
hóa Việt Nam mọc ở làng Hồ Đàm (Thiệu Lư, Thiệu Hóa, Thanh Hóa), Cây cao khoảng
40 – 45m, chu vi thân cây tại độ cao cách mặt đất 1,3m là 7m, đường kính 2m,
tính ra có tuổi trên 200 năm. Người làng Hổ Đàm cho rằng cây gạo mọc ở đầu làng
là tượng trưng của đầu con hổ, biểu hiện cho sức mạnh quật cường trong chiến đấu
và trong lao động của người dân nơi đây. Được biết, trước đây, nơi cây gạo mọc
lên là một cái đ́nh làng, về sau vào khoảng những năm 1967-68 do thiên tai và
chiến tranh tàn phá, đ́nh làng không c̣n nữa nhưng cây gạo vẫn c̣n đó, vẫn vươn
cành, ra hoa mỗi độ tháng 3 về, thấy rơ sức sống mănh liệt vô cùng. Thân cây gạo
to đến mấy người ôm, thời gian đă tạo nên những u bướu xù x́, lồi lơm như mắt
quỷ từ phần rễ cho đến giữa thân cây, cành lá ngang tàng vươn lên và phủ xanh cả
một vùng trời như một thiên sứ. Các cụ già trong làng kể lại, thời chiến, cây
gạo là nơi gắn cái cḥi phát thanh trên đó, hễ có hội họp, đ́nh đám là các thôn
trưởng bắc loa lên cái cḥi đó để kêu gọi bà con. Trải qua bao nhiêu thời gian,
cây gạo chứng kiến bấy nhiêu những ngày b́nh yên của xóm làng, những đêm trăng
rằm gió mát là nơi hẹn ḥ của những đôi trai gái, cũng là nơi người dân t́m đến
sau những mệt nhọc đồng áng, rồi cả những chết chóc tang thương, những trận bom
càn quét, những lần đốt phá của giặc ngoại xâm. Khi có thông tin chính thức cây
gạo được công nhận là Di sản văn hóa Việt Nam, cán bộ, nhân dân địa phương vô
cùng phấn khởi (***). Đây là cây cổ thụ không những có giá trị về mặt sinh thái,
cảnh quan mà c̣n có giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học và về nguồn gen quư
hiếm (dantri.com.vn)
Thắp
bông gạo đỏ đèn trời
Thoả
cho ánh mắt xa vời mộng mơ
Một mai
quả gạo vương tơ
Bờ vai
hứng gió em chờ trăng lên.
Công Văn Dị (Đến trời)
Cây gạo Nàng Niến được cho
là ly kỳ v́ mọc lên trên nấm mộ nàng Niến, c̣n gọi Công chúa Niến. Truyền thuyết
kể rằng năm 7 tuổi, nàng bị chết đuối ở sông Chảy, rồi được chôn cất ngay bên bờ
sông. Nh́n từ thôn Trung Đô (xă Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) ra phía
sông Chảy, cây vươn cao hơn hẳn những lùm cây lớn khác. Không có ngọn, nó tỏa ra
9 nhánh lớn trên cùng nên tán lá trông như một chiếc lọng thiên tạo khổng lồ.
Theo thần phả và truyền ngôn trong vùng, nàng Niến là con gái của An Tây vương
Gia Quốc công Vũ Văn Mật, c̣n gọi là “Chúa Bầu”, người chủ tướng cầm quân cai
quản cả mạn biên giới phía Bắc vào thời Lê Trung Hưng và đang được thờ cúng tại
đền Trung Đô. Không ai rơ ông Vũ Văn Mật sinh, mất năm nào. Nhưng ông và anh
trai ḿnh liên tiếp chống cự Mạc Đăng Dung, thủy tổ nhà Mạc. Như vậy, thời gian
nàng Niến con gái ông mất, rồi cây gạo ngay sau đó tự mọc lên bên mộ, tính ra
đến nay cũng đă ngót nghét 500 năm. Đối với cây gạo Nàng Niến, bà con đều có sự
kính cẩn, không ai dám xâm phạm. Trước đây, mỗi khi đi qua bến sông, những người
đang cưỡi trâu, cưỡi ngựa đều phải xuống dắt từ xa, khi đi qua một quăng mới dám
trèo lên cưỡi tiếp. Ai đi qua cũng cúi đầu bước gấp, không dám bỡn cợt bao giờ.
Gần đây, trong làng có hai anh em trai họ Trần bất chấp mọi lời cảnh báo, dám cả
gan vác dao rựa đến để hạ cây gạo Nàng Niến. Họ bập được ít nhát dao vào thân
cây th́ bỗng thấy mặt mày xây xẩm, tinh thần hoảng hốt, phải vứt đồ nghề đó mà
bỏ về. Mấy năm sau, cả hai anh em đều lần lượt chết trẻ. Sự việc là trùng hợp,
nhưng điều đó càng khiến bà con kính sợ cây gạo hơn (VTC News).
Cây gạo hay bông gạo là một
cây trung b́nh cao 15m hay hơn, cành mọc ngang với những gai h́nh nón, thân cũng
có gai. Hoa đỏ, nhiều, 5 cánh, mọc trên những cành nhỏ, quả h́nh thoi, mặt trong
có nhiều sợi bông, hột h́nh trứng, xung quanh có lông dài, trắng, mịn. Nguồn gốc
Ấn Độ, c̣n mang tên mộc miên (cây bông thân gỗ), hồng miên (bông đỏ), cây anh
hùng (do thân cây cao và thẳng), ngày nay mọc ở Trung Quốc, Đài Loan, Mă Lai,
Indonesia, Campuchia, Lào, miền nam, miền bắc nước ta. Tên khoa học là Bombax
malabaricum tức Gossampinus malabarica Merr. hay Bombax heptaphilla Cav. hay
Bombax ceiba L., họ Gạo Bombacaceae. Ngoài cây gạo hoa đỏ c̣n con có cây gạo
rừng, cây gạo trắng Bombax anceps Pierre tức là cây pơ lăng của người Tây
Nguyên. Hoa, rễ, vỏ nhựa đều được dùng, thu hái hoa vào mùa xuân; rễ vào mùa
xuân hay mùa thu, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, vỏ vào mùa hè-thu. Hoa chứa
nhiều amin acid, pectin tanin, đường. Nhựa chứa catechutannic acid. Hạt chứa
22,3% dầu béo khô với 0,5% stearin. Rễ của cây non có chứa protein 1,2%, chất
béo 0,9%, phosphatid (cephaclin) 0,6% semul đỏ 0,5% tanin 0,4% arabinose và
galactose 8,2% chất có pectin 6,9% và tro 71,2%. Chất nhầy trong vỏ biểu hiện
của một ester salicophosphoric manogalactan (thuoc dong duoc.vn).
Người Trung Quốc và Hồng
Kông biết cây gạo rất sớm và chính họ đă sử dụng cây này như một nguồn dược liệu
điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Nhiều bộ phận của cây, từ rễ, vỏ thân, đến
hoa, lá đều được dùng để chữa nhiều bệnh về đường hô hấp, đường tiêu hóa, đường
tiết niệu, trĩ, bong gân, găy xương, phù nề, sưng tấy… Hoa có vị ngọt, tính mát,
có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, được dùng trị viêm ruột, lỵ. Cũng dùng như
trà uống vào mùa hè. Nước hoa gạo được xem như một dung dịch bổ âm, dùng chữa
thiếu máu suy nhược hoặc do các nguyên nhân khác (rong kinh, đa kinh, chảy máu
dạ dày – tá tràng, mất máu sau mổ vết thương, sỏi thận mà tuỷ xương b́nh thường)
và do cả trường hợp suy tuỷ. Vỏ dùng trị thấp khớp, đụng giập găy xương, bọc
máu. Cũng dùng cầm máu trong các chứng băng huyết, (phối hợp với rễ non và hạt
cây tươi). Rễ đắng, mát, có tác dụng kích thích, bổ, cũng gây nôn và giảm đau,
dùng chữa đau thượng vị, viêm hạch bạch huyết dạng lao và làm thuốc lợi tiểu. Vỏ
có vị đắng, tính mát; có tác dụng lợi tiểu, tiêu sưng, gây nôn. Trong dân gian,
vỏ cây gạo, rửa sạch được thái nhỏ phơi hay sấy khô sắc uống hay giă nát dùng
tươi để chữa các chứng bệnh như viêm loét dạ dày, tiêu chảy, viêm đau xương
khớp, tê thấp đau mỏi, chấn thương bong gân, găy xương, đau răng, sưng đau vú
sau khi sinh ,… Nhựa cây gạo kích dục, làm nhầy, cầm máu, làm săn da, bổ và gây
khát.cho vào nước chữa bệnh lậu, cũng dùng chữa lỵ ỉa chảy và rong kinh. Dĩa mật
trong hoa dùng lợi tiểu và tẩy. Ở Ấn Độ, người ta dùng rễ làm thuốc kích dục cho
trường hợp bất lực và dùng hoa, quả trị rắn cắn. Người Quảng Đông và Hồng Kông
c̣n chế biến gạo thành một loại trà giải cảm và trị bệnh, bày bán phổ biến ở
nhiều siêu thị. (ShopCaycanh 24h.com)
Bàn đến những môn thuốc
dùng cây gạo chữa bệnh, ngoài lá, vỏ, hoa, nhựa, mật, rễ cây, cũng cần nhắc đến
tầm gửi cây gạo (Scurrula parasitica L.) tuy nó chỉ là cây nửa kư sinh, sống nhờ
trên cây gạo. Hạt của tầm gửi được phát tán qua mỏ, chân và cơ quan tiêu hoá của
loài chim như chim chào mào. Đó là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi: Nhiều loài
chim sử dụng tầm gửi để làm tổ. Đến nay, những kinh nghiệm chữa bệnh được lưu
truyền trong dân gian chứ chưa có một công tŕnh hay tài liệu khoa học nào nói
về tầm gửi cây gạo và tác dụng chữa bệnh của nó. Theo GsTs Nguyễn Lân Dũng, trên
báo Công nghiệp Việt Nam, trong nhân dân có nhiều người cho rằng tầm gửi cây gạo
có công dụng giải nhiệt, điều ḥa huyết áp và tốt cho người bệnh gan, thận. Tầm
gửi cây gạo có mặt trong rất nhiều các bài thuốc nam, thuốc bắc, sắc uống hằng
ngày làm mát gan, thải độc cho người bị thận (viêm cầu thận); chữa sỏi thận, phù
thận, chức năng gan yếu, tăng thể lực cho người mệt mỏi, gây thèm ăn, dễ ngủ,
tiêu phù. V́ vậy, PgsTs Nguyễn Duy Thuần nhận định không thể phủ nhận giá trị
của y học dân gian v́ y học dân gian là một bộ phận của y học cổ truyền ; nhưng
y học dân gian chỉ là kinh nghiệm chữa bệnh của một nhóm người hay một khu vực
nào đó, nếu muốn y học sử dụng như một loại thuốc phổ biến th́ cần phải có sự
nghiên cứu theo quy tŕnh khoa học cụ thể. Dù sao, ngày nay có phong trào đến xă
Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ mua cây tầm gửi, giá rất đắc, về làm
thuốc. Được biết trong làng có hằng trăm cây gạo nhưng chỉ có những cây gạo tía
cho tầm gửi tốt c̣n những cây gạo trắng th́ không. Lúc trước, họ chỉ biết sao
khô cây tầm gửi để sắc lấy nước uống bồi bổ sức khỏe cho phụ nữ sau sinh. Từ mấy
năm nay, khi t́nh trạng các quư ông uống quá nhiều rượu, bia khiến những bệnh
liên quan đến gan, thận tăng vùn vụt th́ những cây tầm gửi tưởng chừng chỉ là
cây dại, vô giá trị kia đă trở thành “cần câu cơm” của dân làng Hiền Quan….
(phunu.net)
Ở nước ta cây gạo được các
nhà thực vật học ghi nhận phân bố khắp nơi, nhiều nhất là các vùng nông thôn kể
cả ở đồng bằng lên tới miền núi. Do hoa đẹp, đỏ sặc sỡ, cánh hoa lớn, nở rộ khi
cây trút lá trơ cành vào mùa khô, khiến toàn cây nhuốm một màu đỏ chói, như một
đóm lửa sưởi ấm cho cái rét lộc đầu mùa xuân đây đó, gây ấn tượng mạnh cho người
nh́n, nên nó đă được một số tỉnh thành chọn làm cây cảnh quan đô thị. Ngoài
chuyện công chúa Huyền Trân, không hiểu bắt nguồn từ đâu mà người ta có tên gạo
cho loài cây có hoa đỏ chói này. Mặc dù mọc khá phổ biến ở nhiều nơi, từ đồng
bằng lên vùng trung du, miền núi, cây gạo chỉ xuất hiện ở những điểm công cộng,
ít khi được trồng trong vườn nhà. Thường cây được chọn trồng ở công viên, đền
chùa và một vài thắng cảnh có công tŕnh văn hóa tâm linh. Ai yếu bóng vía lại
thuộc nằm ḷng câu thành ngữ Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề mà đi qua
gốc gạo vào đêm, đúng lúc những hoa ĺa cành rơi đồm độp trên đám lá khô bên vệ
đường, có lẽ không khỏi thót tim, cứ tưởng ḿnh đang bị ma trêu chọc. Về mặt
nầy, ở miền Trung tôi chỉ thấy có một cây có thể so sánh với cây gạo là cây ngọc
lan Michelia alba. Hoa trắng đẹp, đêm khuya hương thơm càng ngào ngạt, đáng sợ
nhất là những đêm trăng sáng, lá cây rung động chập chờn trong đêm tuởng như có
yêu ma thấp thoáng trên các cành cây.
Bông
hoa gạo rơi rơi đầy dưới gốc
Để t́nh
anh bỗng chốc hóa tro tàn
Như hoa
gạo rực đỏ một phím đàn
Buông
một tiếng giữa muôn vàn tiếng gió
Cẩm Chi Châu (Kư ức cây
gạo)
Một trong những màn luôn
c̣n lẩn vẩn trong đầu óc tôi sau khi xem phim Mê Thảo là cảnh anh quản lư Tam,
cũng là người đánh đàn, để làm vui ḷng ông chủ trang trại, đốc suất công nhân
bứng chở về trồng trong sân đ́nh cây gạo đă nở hoa một màu đỏ thắm. Biết đời
sống tâm linh của người miền Bắc đối với cây gạo, tôi không khỏi tự hỏi rồi đây
linh hồn nào sẽ lại cư trú trong cây chở về trồng trong sân đ́nh làng : trong số
ba hai nhân vật chết bất đắc kỳ tử trong phim, anh quản lư trang trại Tam xuất
huyết chết gục trên cây đàn linh thiêng, anh chủ ấp Nguyễn tuyệt vọng bỏ ḿnh
trong đám lửa các ṿ rượu, hay cô Câm gia nhân mồ côi, đă từng yêu thầm chủ ấp
nhưng tuyệt vọng, bị d́m chết dưới nước, mỗi người có một sự tích, một mối t́nh
khác nhau ?
Thành Xô mùa xuân 2017
Ảnh internet
alt(*) Đạo diễn Việt Linh
sinh năm 1952, từng học và thực hành trong lĩnh vực sân khấu ở trường điện ảnh ở
Liên Xô. Là một phụ nữ làm nghề đạo diễn, lại thành công, nổi tiếng như Đặng
Nhật Minh bên nam nhi, bạn thân thiết với nhà văn Nguyễn Tuân, chị là người hiếm
có trong làng điện ảnh. Những phim Gánh xiếc rong (1988), Dấu ấn của quỷ
(1992), Chung cư (1999), Mê Thảo – Thời vang bóng (2002)… nói lên một phong cách
vừa sâu lắng, trầm lặng vừa êm ái, sôi nối, nhiều khi đầy ám ảnh, huyền ảo, mang
đậm chất văn học, đồng thời được xem như là những phim tài liệu phong phú, miêu
tả xă hội Việt Nam trong cuộc tiếp xúc đầu thề kỷ XX với Tây phương. Phim Mê
Thảo được tán thưởng nhiều ở Liên Hoan Deauville, đạt giải nhất Bông hồng Vàng
tại Liên Hoan Bergamo. Nhà Bảo tàng Nghệ thuật Queensland Art mời chị đem toàn
bộ bốn phim của chị sang giới thiệu tại Chương tŕnh Cận đại châu Á. Những tác
phẩm của chị đoạt nhiều giải thưởng trong và ngoài nước, để lại một tiếng vang
hiếm có, nhất là trong giới phụ nữ. Tuy về nước công cán nhiều lần, biên kịch
những vở Đảo lửa, Tro tàn rực rỡ, Visa, Giờ của quỷ,…v́ t́nh h́nh sức khỏe, chi
thường định cư ở Pháp với chồng và con.
Đọc thêm
(**) Việt sử lược, bộ sử cổ
nhất Việt Nam, chép nội dung bài thơ chỉ có 8 câu. Các sách sử đời sau như Đại
Việt sử kư toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục
chép thêm 2 câu nữa thành bài thơ gồm 10 câu.
(Bài thơ nguyên văn)
樹根杳杳
木表青青
禾刀木落
十八子成
東阿入地
木異再生
震宮見日
兑宮隠星
六七年間
天下太平
(Bài thơ Phiên âm)
Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Ḥa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Mộc dị tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái b́nh
Bài thơ được người đời sau
cắt nghĩa
-Câu 3: chữ Ḥa (禾)
+ chữ Đao (刀)
+ chữ Mộc (木)
ghép lại thành chữ Lê (黎).
Câu 3 tiên đoán nghĩa cây đổ, nhà Tiền Lê mất
-Câu 4: chữ Thập (十)
+ chữ Bát (八)
+ chữ Tử (子)
ghép lại thành chữ Lư (李).
Câu 4 tiên đoán nhà Lư thay nhà Lê.
-Câu 5: chữ Đông (東)
ghép với chữ A (阿)
thành chữ Trần (陳).
Câu 5 tiên đoán họ Trần vào nước Việt làm vua.
-Câu 6: cây khác lại sinh.
Sấm ra đời thời Lê. Cây lê khác lại sinh, tiên đoán nhà Hậu Lê kế tục nhà Trần
–Câu.
7: phương Đông có mặt trời,
ứng vào nhà Mạc khởi xuất từ phía Đông (Hải Dương) thay nhà Hậu Lê.
-Câu 8: sao náu ḿnh phía
tây. Có các ư kiến khác nhau về câu này. Có ư kiến cho rằng câu này chỉ chúa
Trịnh đóng phủ ở phía tây kinh thành Thăng Long, “náu ḿnh” là không ra mặt xưng
vua nhưng lại nắm thực quyền. Có ư kiến cho rằng “phía tây” trong câu 8 chỉ nhà
Tây Sơn.
-Câu 9 và câu 10: có ư kiến
cho rằng “lục thất” chỉ nhà Nguyễn, nhưng cũng có ư kiến cho rằng chưa có lời
giải đáp cụ thể cho 2 câu này. Tổng quát, bài thơ được giải mă mang nội dung
tiên đoán việc nhà Lư nối nghiệp nhà Tiền Lê, cũng như tên các triều đại kế tục
tiếp theo trong lịch sử Việt Nam suốt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 20, từ khi nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam h́nh thành ổn định tới khi kết
thúc thời phong kiến.
Điều đáng lưu ư là Việt sử
lược ra đời thời Trần nhưng không chép 2 câu: “Đông a nhập địa, Mộc dị tái sinh”
liên quan tới chính nhà Trần và nhà Hậu Lê. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào đây
cho rằng :
-Bài sấm này được làm ra để
tạo dư luận cho Lư Công Uẩn lên ngôi;
-Hai câu cuối này do người
đời sau (Trần, Hậu Lê) sáng tác xen thêm vào. (Wikipedia)
(***)
– Lê Đ́nh Sáng, Công dụng
chữa bệnh của cây gạo, Cây thuốc quư, Bách Khoa Y Học agarwood.org.vn 2010
– Lê Bích, Hoa gạo rực trời
tháng Ba,vov.vn 30.03.2013
– Vũ Minh Quân, Hoa gạo đỏ
rực làng quê Bắc Bộ, vnexpress.vn 11.4.2014
– Việt Hoa, Ngắm cây gạo
trăm tuổi nở hoa đỏ rực, plo.vn.xa 06.04.2015
– Hữu Nghi, Ngắm hoa gạo đỏ
rực trên phố phường Hà Nội, dantri.com 23.03.2017