MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record vCBO
v US Gov vCongressional Record vPBS
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune
v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
v MediaMattersvSourceIntelvFRUSvIntelnews
v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvArchive
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia
v RamussenvWikileaksvFederalistvHistory
v The Online Books vBreibart vInterceipt
v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic
v National Public Radio vForeignTrade vSlate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v ChúngTa v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
TÓM-LƯỢC SỬ-LIỆU
BỨC-TỬ VIỆT-NAM CỘNG-H̉A
(trong cuốn hồi-kư “Biến-Loạn Miền Trung” )
... Trong lúc đó, ngay tại Thủ-Đô, trong cơn dầu sôi lửa bỏng, những tay điệp-viên chiến-lược của Cộng-Sản, từ lâu vẫn nấp dưới lớp áo tu-hành, như các Linh-Mục Thanh Lăng, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trần Du, Nguyễn Quang Lăm, Trần Ngọc Nhuận, v.v… (cùng với Trần Hữu Thanh trong “Phong Trào Chống Tham-Nhũng”), cũng sách-động quần-chúng xuống đường hằng ngày để gây thêm rối-loạn, hoang-mang trong quần-chúng, và tạo sức ép đối với Tổng-Thống Thiệu, làm nản thêm ḷng người Mỹ, và tạo thêm lợi-thế về mặt chính-trị cho Bắc-Việt xâm-lăng.
(trang 436)
Phong-Trào Chống Tham-Nhũng
Nói đến “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, tưởng cần nhắc lại một số hoạt-động nổi bật của giới Kitô-Giáo trong và ngoài Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Trong thời-gian diễn ra Hội-Nghị Paris (từ 1968 đến 1973), Giáo-Hoàng Phaolô VI đă nhiều lần “nhân đạo” kêu gọi chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam.
Tháng 12-1969, Giám-Mục Phạm Ngọc Chi, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam, qua Hoa-Kỳ, đă tuyên-bố với báo-chí Mỹ: “Miền Nam [Việt-Nam] đồng-t́nh với chính-sách ‘Việt-Nam-Hóa Chiến-Tranh’ của Tổng-Thống Nixon.”
Tháng 9-1972, Đại-Hội lần 2 của tổ-chức “Kitô-Hữu Quốc-Tế” gồm hơn 20 nước họp tại Quebec (Canada), với đề-tài giải-phóng các dân-tộc Việt―Lào―Campuchia, đă “tố-cáo các cuộc xâm-lăng và ném bom vô-nhân-đạo của Mỹ, khẳng-định quyền tự-quyết, tự-do được sống ḥa-b́nh của nhân-dân Việt-Nam.”
Tức là việc Mỹ chuẩn-bị rút lui đă được Kitô-Giáo Việt-Nam, giáo-dân mấy chục nước khác, và nhất là Giáo-Hoàng Phaolô VI tán-đồng, không c̣n đánh nhau với Cộng-Sản nữa.
Ngày 20-9-1970, Linh-Mục Phan Khắc Từ, Tuyên-Úy Thanh Lao Công Sài-G̣n, qua Châu Âu, đă tuyên-bố tại Thành-Phố Firenze (Ư, nơi có Ṭa Thánh Vatican): “Kinh-nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín rằng Giáo-Hội [Kitô] tại Việt-Nam hôm nay là một công-cụ hữu-hiệu của người Mỹ.”
Tháng 3-1971, Linh-Mục Nguyễn Viết Khai tuyên-bố: “Từ chính-quyền trung-ương xuống cho tận anh Trưởng Ấp, người Miền Nam không được phép giải-quyết vấn-đề của ḿnh mà không có người nước ngoài xen vào.”
Tháng 11-1971, Linh-Mục Trương Bá Cần, Tuyên-Úy Thanh Lao Công toàn-quốc, tham-gia vụ đ́nh-công tại Hăng Pin “Con Ó”, bị Cảnh-Sát bắt, đă viết: “Giáo Hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn để chống lại những kẻ đang nắm quyền-hành trong xă-hội này... Giáo Hội của tôi cũng đă biết lựa chọn, nhưng không biết lựa chọn người nghèo khổ...”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đồng-ư với lời cáo-buộc và chiêu-bài của đối-phương.
Nhưng, sau Hiệp-Định Paris 27-1-1973 [chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam], th́ Bắc-Việt gia-tăng nỗ-lực và quyết-tâm tiến-chiếm Miền Nam.
Ngày 19-9-1973, Tổng-Giám-Mục Sài-G̣n Nguyễn Văn B́nh đọc diễn-văn khai-mạc “Năm Thánh”: “Chúng tôi hy vọng rằng những cuộc giết chóc và hận thù sẽ thực-sự chấm dứt trên mảnh đất này và đồng thời có được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam, trong lúc đất nước tạm thời c̣n phân chia.”
Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội-Nghị toàn-thể hàng giáo-phẩm, các Giám-Mục Miền Nam đă công-bố một bản tuyên-ngôn “tha thiết kêu gọi hai chính phủ Bắc và Nam cùng đồng loạt, v́ t́nh thương dân tộc, mà ngưng mọi hoạt động gây chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ và thù ghét lẫn nhau.”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam [Cộng-Ḥa] không đề-cập đến việc Bắc-Việt vi-phạm Hiệp-Ước, mà chỉ muốn Miền Nam bắt tay làm ḥa với Miền Bắc―đối-nghịch lập-trường “4 Không” của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Giáo-Hội Kitô-Giáo Việt-Nam ở Sài-G̣n ra “Thư Chung” phát-động cuộc tranh-đấu “chống tham nhũng”, chống Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu. Họ đ̣i Thiệu phải từ-chức, vận-động trưng-cầu dân-ư buộc Thiệu phải ra đi.
Lời kêu gọi đó đă dấy lên liền một “Phong-Trào” gọi là “Chống Tham-Nhũng”.
*
“Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” do Linh-Mục Trần Hữu Thanh cầm đầu, các LM Đinh B́nh Định và Nguyễn Học Hiệu cùng Bác-Sĩ Nguyễn Thị Thanh phụ-lực, qua một bản “Tuyên Ngôn”được sự bảo-trợ của 301 linh-mục khác, kể cả “Tuyên-Úy Công Giáo”, ra mắt tại Giáo-Xứ Tân Việt, Sài-G̣n, từ năm 1973, là một tập-hợp tương-đối lớn, có nhiều tín-đồ nhất, và tại nhiều địa-phương nhất―so với Nhóm các linh-mục cộng-sản nằm vùng và thân-Cộng tại Sài-G̣n.
“Phong-Trào” được sự tham-gia của các nhân-vật ngoài Kitô-Giáo, như Thượng-Nghị-Sĩ Hoàng Xuân Tửu và Dân-Biểu Nguyễn Văn Kim cùng nhiều DB thuộc Đảng Đại-Việt của Hà Thúc Kư và phía Dương Văn Minh; DB Đặng Văn Tiếp phía Nguyễn Cao Kỳ; DB Nguyễn Văn Cử chống Diệm và phía Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng; DB Vũ Công Minh phía Ḥa-Hảo; DB Đỗ Sinh Tứphía quân-đội; Bác-Sĩ Nguyễn Tuấn Anh; Luật-Sư Đặng Thị Tâm; Nhân-Sĩ Nguyễn Trân; v.v...
Linh-Mục Thanh được báo-chí ngoại-quốc tặng cho danh-hiệu “Hiệp Sĩ của Người Nghèo”.
Sau đó, “Phong-Trào” công-bố các bản “Cáo Trạng” trong các cuộc biểu-t́nh, xuống đường rầm-rộ dữ-dội và liên-tục của các tín-đồ do các linh-mục lănh-đạo có khi có hàng chục ngàn ngườitham-dự tại Huế, Đà-Nẵng, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Cam-Ranh, Sài-G̣n, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, v.v...
Cuối năm 1974, nhất là đầu năm 1975, những cuộc biểu-t́nh chống-chính-phủ của nhóm Linh-Mục Trần Hữu Thanh, có sự tham-gia của một số chính-khách, lănh-tụ đảng-phái, cộng với việc Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam phổ-biến “Thư Chung”, kêu-gọi các Nhà Thờ toàn-quốc “chống tham nhũng”, thúc-đẩy giáo-dân xuống đường rầm-rộ, liên-tục… đă khiến cho các binh-sĩ ngoài tiền-tuyến chán-nản, mất tinh-thần, và ảnh-hưởng tai-hại đến sự sống-c̣n của đất-nước.
Bên cạnh “Phong-Trào” của LM Trần Hữu Thanh, c̣n có các Nhóm tay sai Cộng-Săn và thân-Cộng, là các LM Trương Bá Cần, Thanh Lăng, Huỳnh Công Minh, Vương Đ́nh Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm “Đối Diện” của 11 linh-mục phản-chiến Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v... trong mấy tháng cuối-cùng, đă lợi-dụng các buổi thuyết-giảng tại các Nhà Thờ để công-khai tuyên-truyền cho “người anh em bên kia”.
(Điển-h́nh là Phan Khắc Từ, từ năm 1969 đă đi dự đại-hội Thanh Lao Công Thế-Giới có xu-hướng thân-Cộng được Mạc-Tư-Khoa đỡ đầu, tại Liban. Ở Pháp th́ đến hội-ư với Nguyễn Thị B́nh, Trưởng Phái-Đoàn thương-thuyết của “Mặt Trận Giải Phóng”; tham-gia đ́nh-công; biểu-t́nh đ̣i công-bằng cho giới lao-động; cùng sinh-viên và công-nhân đ̣i ḥa-b́nh cho Việt-Nam. Sau này về nước th́ dính vào Mặt Trận Nhân-Dân Tranh-Thủ Ḥa-B́nh, Phong Trào Học-Sinh Sinh-Viên Đ̣i Quyền Sống, Phong-Trào Chống Tăng Học-Phí, Chống Độc-Diễn; đóng vai “linh-mục hốt rác” gây sự chú ư của dư-luận; dùng Nhà-Thờ Vườn Xoài làm nơi chế-tạo bom xăng cho phong-trào đốt xe Mỹ trên đường phố; cùng công-nhân đ́nh-công để gây trở-ngại cho các cuộc hành-quân; tiếp tay CS dựng lên Ủy-Ban Bảo-Vệ Quyền-Lợi Lao-Động Miền Nam; rồi lại giả-danh từ-thiện hoạt-động trong tổ-chức trá-h́nh của CS là Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói...)
Chủ-Tịch Thượng-Nghị-Viện Trần Văn Lắm lên án Tổng-Thống Thiệu “lạm quyền, tham nhũng”.
Một số lănh-tụ đảng-phái và tôn-giáo, như Phan Bá Cầm (Ḥa-Hảo), Trần Quang Vinh (Cao-Đài), Hà Thế Ruyệt (Duy-Dân), Thượng-Tọa Pháp-Tri và các Ông Ngô-Văn-Kư, Nguyễn Văn Lục,Xuân Tùng (Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng) thành-lập “Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng”, kêu-gọi TT Nguyễn Văn Thiệu từ-chức và các phe liên-hệ “chấm dứt chiến-tranh, giải-quyết vấn-đề Miền Nam bằng phương-thức ḥa-b́nh”.
Nhóm “Sóng Thần” th́ tổ-chức “Ngày Kư-Giả đi Ăn Mày” rồi tiếp theo là “Ngày Công-Lư và Báo-Chí Thọ-Nạn” vào tháng 10-1974.
Các Tuyên-Úy Công-Giáo th́ tổ-chức Đại-Hội tại Thủ-Đô. Họ rao giảng với giáo-dân quân-nhân rằng “cộng-sản cũng là con-cái của Chúa”, rằng “Công-Giáo và CS có thể sống chung hoà-b́nh”…
Bản “Cáo Trạng số 1” được ghi là kư tại Huế vào ngày 8-9-1974, khi được tung ra tại Nhà Thờ Tân-Sa-Châu, Sài-G̣n, có báo bảo là “làm lung-lay ghế Tổng-Thống Thiệu.”
Các báo Time, Newsweek; các đài BBC, VOA đều loan tin.
Hậu-quả là Quốc-Hội Mỹ quá chán-ngán Chiến-Tranh Việt-Nam và mệt-mỏi v́ đă yểm-trợ một đồng-minh có quá nhiều khuyết-điểm và thối-nát.
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đă tiếp tay cho Hoa-Kỳ chấm dứt viện-trợ và phủi tay đối với Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Việc Mỹ cắt-giảm quân-viện đă làm tê-liệt hẳn khả-năng chiến-đấu của Quân-Lực VNCH, và từ đó làm suy-nhược tinh-thần kháng-cự, yếu-tố quan-trọng nhất trong bất-kỳ cuộc chiến-tranh nào.
*
Về phần Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu th́ ông đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu tại chính-quốc Hoa-Kỳ, nhưng đă không được nghênh-đón long-trọng tại Thủ-Đô Hoa Thịnh Đốn. Năm 1968,Johnson (chủ-chiến, Dân-Chủ) chỉ tiếp Thiệu tại thành-phố đảo Honolunu, và chỉ để thảo-luận sách-lược ḥa-đàm với Cộng-Sản. Năm 1969, Nixon (chủ-ḥa, Cộng-Ḥa) cũng chỉ tiếp Thiệu tại Đảo Midway, và cũng chỉ để thỏa-thuận về chính-sách Việt-Nam-Hóa và lịch-tŕnh rút quân của Mỹ.
Thiệu lại đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô La-Mă, là một trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của thế-giới. Tuy nhiên, Giáo-Hoàng Paul VI, trong cuộc viếng-thăm lục-địa Á-Châu lần đầu-tiên, đă không ghé đến Việt-Nam là quốc-gia đang bị Cộng-Sản đe-dọa, nhất là Việt-Nam có tỷ-số giáo-dân đông thứ nh́ tại lục-địa này. Thiệu đến Ṭa Thánh, nhưng không được Giáo-Hoàng tiếp-kiến―dù Thiệu là một Tổng-Thống, một con chiên―v́ lập-trường của Vatican về vấn-đề Chiến-Tranh Việt-Nam là chỉ bênh-vực Hà-Nội, chỉ muốn chấm dứt chiến-tranh dù Miền Nam có rơi vào chế-độ Cộng-Sản sắt máu. Đă thế, Giáo-Hoàng c̣n chỉ-trích Thiệu, lại c̣n tiếp-kiến cặp Nguyễn Thị B́nh và Xuân Thủy, trưởng phái-đoàn Cộng-Sản tại Ḥa-Hội Paris.
Từ năm 1968, Giáo Hoàng Phaolồ Đệ-Lục đă lập ra “Ngày Quốc-Tế Ḥa-B́nh”, cổ-vũ Ḥa-B́nh bằng thương-thuyết tại Việt-Nam. Vatican xác-định lập-trường là chấm dứt chiến-tranh, quan-hệ tốt với Miền Bắc và Chính-Phủ Lâm-Thời Miền Nam. Chính Giáo-Hoàng trao-đổi công-điện trực-tiếp với Hồ Chí Minh.
Vào tháng 6-1971, đang lúc tên gián-điệp cộng-sản Vũ Ngọc Nhạ (kẻ được Linh-Mục Hoàng Quỳnh che-chở) bị Việt-Nam Cộng-Ḥa cầm tù ở Côn-Đảo, mà Ṭa Thánh và Giáo-HoàngPhaolô VI lại tặng Bằng Khen và Huy Chương “V́ Ḥa B́nh” cho y.
Tức là Giáo-Hoàng Paul VI đă biến Vatican và nhiều Giáo-Hội địa-phương thành một guồng máy chính-trị, ngoại-giao, t́nh-báo khổng-lồ để giúp Hà-Nội tiến chiếm Miền Nam.
*
Thế mà Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng vẫn chưa thấy là Hoa-Kỳ sắp bỏ rơi Việt-Nam, không thay-đổi đường-lối chính-trị, vẫn cứ sử-dụng giải-pháp quân-sự, và không tin là Hà-Nội có đủ sức tấn-công đại-quy-mô.
Ông sửa-đổi Hiến-Pháp để làm Tổng-Thống thêm một nhiệm-kỳ năm năm nữa, khiến Đại-Tướng Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm phải ra mặt chống-đối, làm t́nh-h́nh chính-trị trong nước càng rối-ren thêm.
Đầu tháng 2-1975, “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” phổ-biến tiếp bản “Cáo-Trạng số 2” tố-cáo TT Thiệu nhiều tội và hô-hào lật đổ bằng vũ-lực, khiến ông phải dùng biện-pháp mạnh, cho bắt giam nhiều chính-khách, trí-thức, lănh-tụ đảng-phái, như các Thượng-Nghị-Sĩ Thái Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức; các ông Hà Minh Lư, Trần Thúc Linh, và một số kư-giảtrong đó có những nhân-vật nổi tiếng chống-Cộng như Mặc Thu, Lê Trần, Vũ Bằng, Đinh Từ Thức, Trương Cam Vĩnh, Ngô Đ́nh Vận...
Để đối-phó với “Phong-Trào”, Thiệu vận-dụng nhiều đồng-đạo ủng-hộ ḿnh.
Có sáu linh-mục, trong đó có cả Linh-Mục Hoàng Quỳnh, sáu đêm liền, thay phiên nhau lên đài truyền-h́nh bênh-vực và ca-ngợi Thiệu; ngoài ra, c̣n có các Nghị-Quyết, Quyết-Định, Đề-Nghị, có chữ kư của 70 Dân-Biểu ủng-hộ Thiệu.
Có cả Giám-Mục Lê Văn Ấn, đặc-trách Tuyên-Úy, Giám-Mục Nguyễn Văn Thuận, Linh-Mục Cao Văn Luận, đứng ra căi giùm cho Thiệu.
T́nh-h́nh gay-cấn đó, do “Phong Trào Chống Tham-Nhũng”* gây nên, đă tạo ra thế “nội công, ngoại kích”, quả là đă phá rối hậu-phương, làm lung-lạc tinh-thần binh-sĩ nơi tiền-tuyến,làm lợi cho Cộng-Sản, trong khi đó th́ Bắc-Việt xua quân tấn-công Miền Nam...
-------
*Năm kia, nhà văn Nguyễn Văn Lục có hỏi xin tôi tài-liệu về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” của Linh-Mục Trần Hữu Thanh; nhân dịp, tôi đă giới-thiệu với anh nhà văn Nguyễn Lư Tưởng, cũng ở miền Nam Bang California. USA.
(Thời-gian 1973-75 anh Tưởng chưa nắm vững, nhưng đến năm 1989, trong nước Việt-Nam Xă-Hội Chủ-Nghĩa, anh Tưởng đă trực-tiếp hỏi chuyện Linh-Mục Thanh nên biết rơ-ràng hơn.)
Kết-Luận
Có người cho rằng “Phật-Tử Tranh-Đấu”, tức [số người hậu-thuẫn cho] Phái Ấn-Quang của Phật-Giáo Việt-Nam (về sau là Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất) đă liên-tục chống-đối Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Ḥa, khiến cho Nền Đệ-Nhất Cộng-Ḥa sụp-đổ, rồi Nền Đệ-Nhị Cộng-Ḥa cũng suy-tàn theo.
Nhưng, theo như tôi đă lược-dẫn trên, th́:
“Phật-Tử Tranh-Đấu” đă chấm dứt hoạt-động từ ngày thành-lập Nền Đệ-Nhị Cộng-Ḥa, cuối năm 1967. Măi đến lâu sau Hiệp-Định Paris 1973 mới tái-xuất-hiện trong “Lực-Lượng Ḥa-Hợp Ḥa-Giải Dân-Tộc”.
Cả phía “Lực-Lượng Ḥa-Hợp Ḥa-Giải Dân-Tộc” bên giới Phật-Tử, lẫn phía “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” bên giới Giáo-Dân, đều tranh-đấu chống Thiệu để có được một Tổng-Thống trong-sạch.
Tuy nhiên, các điểm khác nhau là:
“Lực-Lượng Ḥa-Hợp Ḥa-Giải Dân-Tộc” chỉ họp tại Chùa, sinh-hoạt ôn-ḥa, bất-bạo-động, không đ̣i lật Thiệu, chỉ chờ đến ngày bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm 1975 sẽ sử-dụng lá phiếu hợp-Hiến và hợp-Pháp của ḿnh.
“Phong-Trào Chống Tham Nhũng” th́ rầm-rộ xuống đường, biểu-t́nh tuần-hành, đ̣i Thiệu từ-chức, và hô-hào dùng bạo-lực để lật đổ Thiệu tức-thời.
“Phật-Tử Tranh-Đấu” mít-tinh ôn-ḥa th́ không xáo-trộn trật-tự công-cộng, tiến-hành trong ṿng luật-pháp cho phép, và theo truyền-thống sinh-hoạt dân-chủ tại các nước Tự-Do.
“Giáo Dân Tranh Đấu” th́ triệt-hạ uy-tín và hiệu-năng quyền-lực của một Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội đang đứng trước họng súng của quân thù, lại c̣n đ̣i dùng vũ-lực để lật đổ một Tổng-Thống dân-cử, tức là xóa bỏ Hiến-Pháp, tức là trở thành nội-phản/nội-thù của Quốc/Dân.
Phía “Giáo-Dân Tranh Đấu” th́ đ̣i trừng-phạt một cá-nhân tham-nhũng―mà tổng-số vật-sản bị lạm-chiếm so ra không đáng bao lăm đối với tài-nguyên quốc-gia, lại vẫn c̣n đó, rồi sẽ lấy lại, chưa mất đi đâu―trong lúc Phía “Phật-Tử Tranh Đấu” th́ đặt “nợ nước trước thù nhà”, mọi người chung sức đồng ḷng chống giặc trước đă, trước hết là để tŕ níu lại cái Cơ-Đồ Dân-Chủđang trong cơ nguy bị vĩnh-viễn cướp mất đi.
Phần tôi, tôi đối-lập với chính-sách quân-phiệt của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu―cũng như với chế-độ độc-tôn của Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm trước kia―nhưng tôi đă chọn trước tiên là làm tṛn bổn-phận của một công-dân đối với Chính-Thể Cộng-Ḥa.
Riêng về “Phong Trào Chống Tham Nhũng”, có ít nhất là ba vấn-đề quan-trọng hàng đầu mà phía “Giáo Dân Tranh Đấu” (“trả thù cho cố Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm”, theo lời trối-trăn của Diệm “Tôi chết th́ trả thù cho tôi” tham-chiếu) cố ư không đề-cập đến:
I. Việc hạ bệ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu:
a/ Họ muốn đảo-chánh quân-sự, nhưng không thuyết-phục được ai, nên không thành-công.
b/ Họ quyết hạ Thiệu, nhưng không t́m ra được một “ứng-viên” nào của “phe ta” xứng-đáng để lên thay Thiệu. Chỉ nhắm trước mắt mà không nh́n thấy xa hơn―t́nh-h́nh hậu-Thiệu―th́ tức chỉ là “không lấy th́ khuấy cho hôi” mà thôi.
II. Lư-do hạ Thiệu:
1) Thiệu là thủ-phạm, đă tấn-công Dinh Gia-Long, đưa đến cái chết của Diệm.
2) Nhưng, cái tội lớn nhất của Thiệu, là đă có Đảng Dân-Chủ, lan trong quần-chúng, len trong chính-quyền, luồn trong quân-ngũ, mà lại chỉ lo gia-tăng phe-cánh cho cá-nhân ḿnh, chứ không chịu dùng nó [như một Đảng Cần-Lao tái-sinh] để “mở-mang nước Chúa”.
III. Mục-đích đích-thực của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”:
Danh-xưng thực-thụ của Nhóm này (cái đuôi mà họ cố giấu) là:
“Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo ḥa b́nh”.
Toàn câu đă được ghi rơ phía dưới “Cáo Trạng số 1”, làm tại Huế, ngày 8 tháng 9 năm 1974.
Trong các hoạt-động sôi-động trước mọi người, họ cố t́nh nhấn mạnh mấy chữ “chống tham nhũng” mà lơ đi cái đuôi là mấy chữ “kiến tạo ḥa b́nh”.
Thử hỏi: trong t́nh-thế dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ, có ai c̣n có cách nào “kiến-tạo ḥa-b́nh” khác hơn là tuân giữ “đức vâng lời”, tuân lệnh Giáo-Hoàng PhaoLô VI và ngoại-bang Vatican, bỏ súng, bắt tay với cộng-sản, rước địch vào nhà?
*
Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đă là chuyện cũ,đă lùi vào dĩ-văng rồi.
Các ván cờ đó đă được các bên tham-dự xóa hết rồi.
Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” năm 1966 th́ Nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” đă không c̣n “tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 th́ tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đă lên cao hơn.
Cho nên Biến-Động Miền Trung là chuyện đă xưa rồi.
Mới nhất, gian-xảo nhất, và nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Ḥa, chỉ c̣n có một ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng, “lănh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng t́nh-h́nh.
Ở trên đầu và sau lưng họ là Ṭa Thánh La-Mă với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.
(Nhưng quốc-gia Việt-Nam của Kitô-Giáo đâu được làm một chư-hầu. Chư-hầu là một nước nhỏ/yếu, tùng-phục một nước lớn/mạnh, để được tồn-tại, nghĩa là vẫn c̣n là một nước. Đằng này, chỉ một Ḍng Chúa Cứu-Thế là một giáo-đoàn/chi-phái của Giáo-Hội Kitô, mà đă tự xem là một Quốc-Gia, và thu-tóm cả nước Việt-Nam làm thành một Tỉnh nội-thuộc của Nước họ rồi:
Nguồn:<http://www.cuuthe.com/dong/dongmain.html>
Tỉnh Ḍng Chúa Cứu Thế Việt Nam.)
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù đă chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc giữa Bắc-Việt Xâm-Lược vớiViệt-Nam Cộng-Ḥa.
*
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri, có ác-ư, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng ai.
Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đă ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, c̣n th́ không có “Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đă gần 40 năm qua―mà vẫn c̣n tự-hào, hănh-diện về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào Chống Tham Nhũng”, v́ ḿnh không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu mà đă đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyền―và các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Ḥa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Ḥa.
*
Tóm lại, nếu v́ một lư-do nào đó mà phải gán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn t́nh-h́nh chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ư-chí chống-Cộng của chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Nam―tức là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Ḥa khi đang hấp-hối―th́ số người đó rơ-ràng, không thể chối-căi được, phải là thành-phần cực-đoan trong Nhóm “Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng với Ban Lănh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của giới tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam.
(các trang 472-84)
Cước-chú:
Hồi-kư “Biến-Loạn Miền Trung” được in vào năm 2012. Lúc sắp in xong, tôi đă rút bớt 2 trang 484 và 485.
Nhưng nay t́nh-h́nh đă khác, tôi xin phổ-biến 2 trang liên-hệ dưới đây:
“LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác
kư tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng,
chống VNCH”
NHỚ CHA TRẦN HỮU THANH
"Thôi, tắt đèn đi ngủ !" đó là những lời nói cuối cùng của cha Trần Hữu Thanh. Lúc đó đă gần 2 giờ sáng ngày 24.10.2007. Có ba đệ tử ở bên cha già trong pḥng bệnh viện. Hai chú đă ngủ, một chú thức bên giường cha, không hiểu sao cha cho đánh thức hai người đang ngủ rồi lại bảo tắt đèn đi ngủ. Chú đệ tử thưa rằng ánh sáng là do đèn ngoài đường hắt vào, c̣n trong pḥng đă tắt đèn rồi. Đột nhiên cha Thanh nấc liền hai lần. 92 năm cuộc đời chấm dứt.
Tôi cứ nghĩ ra Hà Nội chuyến này, một việc cần làm trước tiên là đến bệnh viện thăm cha già Thanh. Không ngờ tôi chưa kịp bước lên máy bay, th́ cha đă... tắt đèn đi ngủ. Tối hôm ấy tôi bước vào Nhà Thờ Nam Đồng Hà Nội, nh́n qua nắp kính quan tài thấy nét mặt cha thật b́nh yên. Những nét già nua thường thấy như biến đâu mất. Khuôn mặt đầy đặn làm tôi liên tưởng đến ngày tôi c̣n bé, đến những ấn tượng hồi mới được biết cha Thanh. Ngày ấy cha đi ngược về xuôi, khi Miền Trung, khi Miền Nam, khi Châu Âu, khi Thái Lan, cả con người là một khối năng lượng lúc nào cũng sục sôi. Những ư tưởng lời nói vừa thực tế, vừa sâu sắc vừa hóm hỉnh cứ liên tục trào ra như suối trong mát bất tận. Nhiều người đến viếng cha có cảm tưởng trông cha "hiền" hơn lúc c̣n sống.
Thật ra sáu bảy năm cuối đời về sống giữa bà con Giáo Dân Nam Đồng, lúc nào cha chẳng "hiền" ? Nhưng cha già ơi, cha tắt đèn nhắm mắt rồi, từ nay mỗi khi đến đây con sẽ không thấy đôi mắt long lanh dưới mái tóc bạc phơ, và một nụ cười chúm chím. Cười thế này là cụ sắp nói ra một cái ǵ oái oăm mặn mà lắm đây. Lại có lúc cụ nằm trên giường cười một ḿnh. Đó là lúc cụ vừa sáng tác ra một câu chuyện ǵ tiếu lâm đủ mùi gia vị, cứ đợi đấy rồi cụ sẽ kể với nụ cười chúm chím vỡ toang thành tiếng cười rung rung sảng khoái. Nghe bà con kể đến những ngày cuối cùng trên giường bệnh, yếu lắm rồi không nói được nữa, cụ vẫn c̣n những cử chỉ trêu chọc bác sĩ hay chị bếp Nhà Ḍng t́m đến vấn an.
Cái hài của cụ không phải là tếu suông. Nó là một mặt của t́nh yêu toàn diện cụ dành cho cuộc sống, cuộc sống tranh sáng tranh tối, vàng thau lẫn lộn, tồi tàn bệ rạc, nhưng với tính lạc quan tự nhiên, với nhiệt t́nh sẵn sàng xắn tay hành động, và nhất là với Đức Tin mănh liệt vào Chúa, cụ vẫn t́m ra ở đó cái vẻ đáng cười, đáng thương, đáng cứu.
Đức Tin mănh liệt ấy cụ thừa hưởng được từ gia đ́nh từ những thời tai bay vạ gió 1885: phong trào Văn Thân không chỉ "b́nh Tây" mà c̣n "sát Tả". Ông nội và nhiều người thân trong gia đ́nh cụ đă chịu tử v́ đạo, bây giờ tôi thấy tiếc đă không hỏi cụ cho rơ một điều: trong lăng mộ tập thể các vị tử đạo ở họ Tri Bưu gần bên linh địa La Vang phải chăng có hài cốt của những bậc tiền nhân trong gia đ́nh cụ ? Quá khứ của một ḍng họ là yếu tố quan trọng định h́nh nhân cách cho các thế hệ tương lai. Khí thiêng của Đức Tin nhập thể nơi những diễn biến quằn quại của lịch sử làm nên dung mạo của Tín hữu và của Giáo Hội. Cụ Thanh là một dung mạo như thế.
Cụ Thanh bắt đầu cuộc đời Linh Mục Ḍng Chúa Cứu Thế vào thời điểm dân tộc chuyển ḿnh trong đau thương máu lửa. Cụ chịu chức tháng 6 năm 1942 tại Nhà Thờ Cửa Bắc, Hà Nội. Thế chiến thứ II đưa quân đội Nhật vào chiếm đóng Việt Nam, và cũng đưa cả bom đạn của người Mỹ. Linh Mục Thanh được giao nhiệm vụ dạy văn chương Việt Nam cho các đệ tử Ḍng Chúa Cứu Thế ở Huế. Ngay từ trẻ Cha đă có những khiếu về ngôn ngữ và hùng biện.
Ḍng Chúa Cứu Thế Huế do các Thừa Sai Canada thành lập đang là một điểm thu hút cả giới b́nh dân cố cựu lẫn giới trí thức tân tiến của đất Thần kinh. Thư viện Accueil do cha Thomas Côté điều hành là nơi hội tụ của nhiều người đang ưu tư về vận nước. Có sinh hoạt văn hóa được hoàng hậu Nam Phương đến chủ tọa, nhưng nhiều lúc khác những người sau này sẽ là lănh tụ cách mạng, những người như ông Tố Hữu, ông Tạ Quang Bửu cũng thường lui tới. Nhiều người khác sau này sẽ là những khuôn mặt tri thức lớn của Miền Nam: Giáo sư Nguyễn Huy Bảo (anh ruột cha Nguyễn Huy Lịch) người Hà Nội, đồ đệ của triết gia Henri Bergson gây dựng sự nghiệp giáo sư triết học của ḿnh ở Huế. Ông Bùi Xuân Bào xuất thân từ một gia đ́nh nho học thâm nghiêm đang trải qua những trăn trở tâm linh dữ dội trên đường đến với Chúa.
Tất cả những lớp người đó nay đă thuộc về quá khứ, ở Sài-g̣n có chăng c̣n Nữ Tu Mai Thành, em ruột giáo sư Bào. Trong sự “trở lại đạo" của hai anh em họ Bùi ít nhiều có phần đóng góp của Ḍng Chúa Cứu Thế. Sau này soeur Mai Thành sẽ nói, sẽ viết về bước đường tâm linh gian khổ mà diệu kỳ của gia đ́nh bà, cho đến ngày cụ thân sinh sau bao nhiêu phiền muộn về mấy người con bỏ đi theo Chúa lại càng được Chúa soi sáng và giải thoát.
Ngày nay thư viện Accueil của cha Thomas Côté đă làm vừa xong nhiệm vụ. Sách báo ngồn ngộn của nó đang chồng chất trong một căn pḥng đầy bụi bặm và đang có nguy cơ bị mối mọt và những mùa mưa lê thê xứ Huế xâm hại. Cùng với những người đă nâng niu chúng, những sách báo ấy cũng đă đi dần về phía quá khứ. Nhưng không v́ thế mà ta phải than thở như trong Sách Thánh: "Phù vân của mọi phù vân, mọi sự đều là phù vân”: "Vanitas vanitatum, omnia vanitas" là v́ những người đă từ đấy đi làm cách mạng th́ cách mạng vẫn c̣n đây. Những người đă từ đă từ đấy đi làm nhà giáo, đi làm nhà tu th́ đồ đệ của họ cũng vẫn c̣n đây.
Nhắc tới cái thư viện ấy là để tŕnh với bạn đọc rằng cái môi trường do Ḍng Chúa Cứu Thế ở Huế tạo nên đă có thời oanh liệt của nó. Trong môi trường đó cha Thanh xuất hiện và được nh́n nhận như một thế hệ kế thừa không thiếu những điểm xuất sắc và cũng từ giữa môi trường ấy mà cha chứng kiến những ngày long trời lở đất của Cách Mạng tháng 8 mùa thu năm 1945.
Khí thế của những ngày ấy c̣n đọng lại trong một câu hát, cha Thanh không giỏi nhạc, hát lại càng không hay, nhưng trong một buổi họp mặt mừng Xuân Đinh Hợi vừa qua, giới trẻ đua nhau ca hát, tự nhiên cụ ôn lại kỉ niệm trẻ khỏe năm xưa. Cụ Thanh ngồi trên xe lăn cất tiếng ồ ề ca một bài do ai khác đặt nhạc nhưng cụ phổ những lời c̣n mang chất lửa của những ngày toàn quốc vùng lên đó:
"Ta người Công Giáo đáp tiếng non sông cương quyết đấu tranh
Nam Bắc một ḷng xông pha quật cường sống
Trong thời nguy biến đă có chúng ta không tiếc hy sinh
Cho quốc dân minh tự do vẫy vùng..."
Thế rồi một vài câu sau đó:
"Ta xin thề: Ta theo Vua Giê-su mà tranh đấu..."
Đối với cái "gu" của người thời nay chẳng biết cung cách "ta người Công Giáo" như thế có phần nào hơi nghênh ngang, hơi hiếu thắng, hơi "triomphaliste" một chút không ? Nhưng khí phách ngày ấy nó như thế. Và bên dưới những điệu nhạc lời ca có vẻ hành khúc khải hoàn đó, đă có thể đoán được một vấn đề sâu hơn, thậm chí là vấn đề thường hằng.
Một người như cha không thể không suy nghĩ nhiều về vận mạng dân tộc đă đành mà cũng về vận mạng của Đức Tin, của Giáo Hội giữa ḷng dân tộc này nữa. Thánh Phao-lô đă bảo đời sống Đức Tin của người tín hữu, của người tông đồ “là kho tàng vô giá mang trong b́nh sành lọ đất." C̣n Giáo Hội th́ như con thuyền Việt Nam "lênh đênh qua cửa Thần Phù, khéo tu th́ nổi, vụng tu th́ ch́m". Bây giờ quá nửa thế kỷ đă qua, nh́n lại thấy ch́m th́ không ch́m, vẫn nổi, nhưng quả là lắm cảnh lênh đênh.
Sáu mươi năm đă qua rồi, từ những ngày sôi bỏng ấy, cha Thanh trở về nơi cha đă ra đi> Học Viện DCCT, nơi ngày xưa cha theo học, đă biến thành bệnh viện Đống Đa. Nhưng bên cạnh đó vẫn c̣n ngôi Nhà Thờ do Nhà Ḍng xây dựng, các Linh Mục và Tu Sĩ của Ḍng vẫn phục vụ tại đó. Một Tu Viện mới đă mọc lên.
Hôm nay Cộng Đồng Dân Chúa ở Hà Nội tiễn đưa cha. Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, và Giáo Dân tề tựu rất đông. Bầu khí trang nghiêm và tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng đàn tranh rỉ rả, và những giọng hát trầm bổng: “Có một điều tôi hằng ước mong, là được ở trong Nhà Chúa, suốt đời tôi, suốt đời tôi...” Cha muốn thế th́ đă được thế. Chuyện đời của cha lắm t́nh tiết, cha bôn ba t́m kiếm nhiều, lênh đênh cũng nhiều, nhưng xuyên suốt cuộc đời vẫn là ước mong Nhà Chúa. Trước sau vẫn là thế thôi.
NHỚ CHA TRẦN HỮU THANH ( Kỳ 2 )
Từ năm 1949, cha Thanh từ giă bục giảng lớp học để dốc toàn lực cho ṭa giảng trong Nhà Thờ. Một nỗi ưu tư chẳng bao giờ vắng bóng trong tâm tưởng của cha: đất nước và dân tộc sẽ ra sao ? Chiến tranh Việt Pháp đạt tới cường độ tạo ra một khúc quanh mới, trên bàn cờ chiến lược thấy xuất hiện những thế và lực mới. Đối với cha, điều mệnh hệ trên hết là Đức Tin sẽ nẩy nở hay tàn lụi qua cơn biến loạn này ? Hội Thánh sẽ phát triển hay tan hoang theo thời cuộc ?
Cha không phân biệt một bên là dân tộc một bên là tôn giáo. Phân biệt như thế là không có Đức Tin nữa rồi. Người như cha chỉ biết gieo mầm Đức Tin bất kể hoàn cảnh thuận hay nghịch. Trời cho cha bản tính lạc quan và nhiệt thành, cha lao vào công cuộc tông đồ của Hội Thánh, dẫu biết rằng người cộng sản đang nắm ngọn cờ độc lập dân tộc để lănh đạo kháng chiến. Giữa Cộng Sản và tôn giáo trong t́nh h́nh thế giới lúc ấy, mối quan hệ thật gay go phức tạp. Xem ra có mâu thuẫn đối kháng.
Có lúc cha Thanh đă tưởng cựu hoàng Bảo Đại có thể là một giải pháp. Cha đă góp công phác họa lá cờ vàng ba sọc đỏ được nối liền bởi một con rồng uốn h́nh chữ S, tượng trưng cho dân tộc Việt da vàng máu đỏ ba miền Bắc Trung Nam là một. Về sau, cụ Tôn Thất Sa là một họa sĩ có tiếng ở Huế dựa vào bản phác thảo của cha, bỏ con rồng đi làm ra lá cờ vàng của chế độ quốc gia vào lúc trong cuộc chiến tranh Việt Pháp thấy lộ ra những ư đồ đấu tranh quốc – cộng.
Dù sao th́ lịch sử cũng cho thấy ông Bảo Đại không phải là người có đủ bản lănh để trụ lại được trong băo táp lịch sử. Mà suy cho cùng th́ lá cờ hay chế độ chính trị cũng chẳng phải là điều cha Thanh t́m kiếm. Phút cao hứng vẽ cờ qua đi, cha trở về với con người thực chất của ḿnh. Điều cha thật sự muốn ngă ngũ với đời không phải là vấn đề chính trị hay quân sự. Mấu chốt của nó ta đă thấy từ trong sánh Công Vụ Tông Đồ: Có một Giê-su mà người Do Thái bảo là đă chết, nhưng Phao-lô cố quyết là vẫn sống (Cv 25, 18). Và suốt từ ngày ấy tới tận đời các tổ tiên Tử Đạo của cha Thanh đến cha Thanh, những người tin vẫn một mực nói như Phao-lô. Và không những chỉ nói Giê-su vẫn sống mà thôi, mà c̣n nói chỉ co Giê-su đang sống ấy mới nắm bí quyết của mọi lẽ sống ở đời.
Lần lượt cha Thanh đi dọc ngang các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng Trị đến Khánh Ḥa. Cha thức tỉnh đức tin cho hàng chục ngàn người có Đạo, hàng ngh́n người ngoài Đạo xin gia nhập Hội Thánh.
Năm 1954, chiến tranh đến hồi kết cục với Hiệp Định Genève. Trước mắt đă thấy rơ Giáo Hội ở miền Bắc xă hội chủ nghĩa sẽ phải làm sao sống được trong những điều kiện ngặt nghèo. Cha Thanh lao vào soạn thảo tài liệu nhằm giúp người Công Giáo miền Bắc sống Đạo trong thời Cách Mạng. Tuy vậy, Nhà Ḍng không phân công cho cha Thanh ở miền Bắc. Nhiệm vụ góp phần chống đỡ ngôi nhà Giáo Hội ở miền Bắc được trao phó cho cha Vũ Ngọc Bích.
Cha Thanh ở lại miền Nam. T́nh h́nh miền Nam diễn ra những đổi thay quan trọng. Giải pháp Bảo Đại đă đổ sụp. Ông Ngô Đ́nh Diệm nắm chính quyền, với sự trợ lực của người em là ông Ngô Đ́nh Nhu. Hai anh em họ Ngô đă chọn một học thuyết để dựa vào đó mà đương đầu với chủ nghĩa Marx. Người ta bắt đầu nghe nói đến thuyết Nhân Vị.
Ǵ chứ nhân vị th́ đúng là điều cha Thanh quan tâm, lần này không chỉ là một lá cờ, mà là cả một hệ tư tưởng. Phải chăng đây là giải pháp cho những ưu tư về con người mà xă hội đang thao thức t́m kiếm ? Lại một lần nữa, những khắc khoải về thân phận con người đưa cha vào nhiều nỗi truân chuyên.
NHỚ CHA TRẦN HỮU THANH ( Kỳ 3 )
Từ ngày chế độ do anh em nhà họ Ngô gây dựng sụp đổ, ở Miền Nam người ta hay nói đến nền “Cộng Hoà Nhân Vị” với nhiều dụng ư mỉa mai. Sự mỉa mai này được duy tŕ từ khi cả nước đi vào cách mạng Xă Hội Chủ Nghĩa. Không riêng ǵ nước ta, ngay từ hồi ông Diệm, ông Nhu c̣n thống trị, ở bên Tây, quê hương của ông Emmanuel Mounier là người lập thuyết Nhân Vị, cũng có những nhà trí thức bĩu mỏ cái xă hội mang danh là “nhân vị” ấy chẳng nhân vị ǵ hết. Thôi th́ ông Diệm, ông Nhu làm chính trị, các ông phải đưa đầu chịu báng, phải hứng lấy búa ŕu của lịch sử, và ít ra hai ông cũng được điểm này: Đă kiên tŕ với tâm tưởng của ḿnh cho đến nỗi thiệt mạng.
Nhưng nếu sự mỉa mai phát xuất từ một thực tế xă hội lại lan đến cả một chủ nghĩa, th́ thật là bất công đối với thuyết Nhân Vị của ông Emmanuel Mounier. Xét cho cùng, nếu thời ấy xă hội Miền Nam không phản ảnh được những lư tưởng nhân vị, th́ ngày nay xă hội của chúng ta đâu có phản ảnh được lư tưởng của Kail Marx ? Người có Đức Tin vẫn biết rằng có một thứ tội đầu, một thứ nguyên tổ, dân gian gọi là tội tổ tông, hay tội nguyên tổ, nó làm cho những người điều tốt đẹp nhất như bột, hư đường, hư các thứ vườn địa đàng.
Dù thế nào chăng nữa, đối với những người như cha Thanh, thuyết Nhân Vị quả là hấp dẫn. Cha cũng lên tiếng cổ vũ Nhân Vị. Thực tế mà nói, đó là một công việc đội đá vá Trời. Xă hội Việt Nam đang đi vào một cuộc chiến tranh mới, một cuộc đấu sinh tử. Thuyết Nhân Vị xem ra chỉ sống và triển khai được trong một môi trường hoà b́nh, hoặc nếu không được như vậy th́ nó chỉ tác động, khi người ta thấm đ̣n của những sự phi nhân trong cuộc đời. Ngoài ra th́ nó quá tinh tế, nó không đủ độ chát chua cho những thời kỳ chém to kho mặn. Những người như cha Thanh cố gắng diễn giải nó sao cho thật cụ thể. Như mang hết khoa hùng biện, mang cả cái khiếu kể chuyện, các khiếu hài hước tự nhiên của cha vào cuộc.
Ngày nay nh́n lại bối cảnh lịch sử, thấy rằng đó là một bước đi liều lĩnh theo nghĩa: “Cũng liều nhắm mắt đưa chân, mà xem c̣n tạo xoáy vấn đề đến đâu”. Ḷng tin dạy cha rằng hạt giống phải chết đi mới mong có mùa gặt. Bảo rằng có thể từ đó làm nên cả một chế độ xă hội th́ sẽ là thất bại. Nhưng sẽ có thành công nếu có những con người cảm nhận được thế nào là nhân phẩm. Như một nhà cách mạng tiền bối đă nói: “Không thành công cũng thành nhân”. Và “Thành nhân” th́ trong ḷng cuộc đời vẫn có cái mà Tin Mừng gọi là muối, là men.
Người tin theo Chúa là người không chỉ lo toan thực hiện ư đồ của ḿnh, mà trước tiên phải tỉnh thức chiêm ngưỡng những việc Chúa làm thường ở ngoài mọi sự ḿnh chuẩn bị và tiên liệu. Chính v́ thế điều quan trọng nhất không phải là những dự phóng này nọ của ḿnh, mà là nắm chặt lấy lời Mạc khải, rồi gieo Lời, nói Lời. Cha Thanh hoạt động nhiều, xoay xở nhiều, nhưng trước sau rồi cũng quay về với Lời Chúa.
Năm 1959, cha khăn gói lên đường du học ở Học Viện Lumen Vitae, thuộc Đại Học Công Giáo Louvain (Bỉ). Tuổi 53 không c̣n là tuổi sinh viên, nhưng bù lại cha Thanh mang đến trường cả một bề dày kinh nghiệm để suy nghĩ dưới sự xúc tác cuả các bậc thầy trong lĩnh vực huấn giáo. Cha có được đức tính luôn tỉnh thức cảm nhận những đổi thay của sự sống và của thời cuộc. Cha nhận ra rằng thế giới nói chung, đất nước nói riêng, đang biến chuyển liên tục, và sự biến chuyển ấy hàm chứa rất nhiều tiềm năng cả lành lẫn dữ. Thách thức trước mắt đối với Hội Thánh là làm sao cho cái xă hội tương lai đang từng ngày thành h́nh đó phải là một môi trường thông thoáng để đón nhận được tiếng gọi của Đức Tin. Như tên gọi của nó, Lumen Vitae có hoài băo phục vụ Lời Chúa sao cho anh sáng của sự sống xuyên qua được những tấm màn trần thế để chiếu toả trong cơi nhân sinh.
Ở tuổi ấy, và với thời cuộc lúc ấy, cha nóng ḷng muốn học hỏi cho nhanh để c̣n về nước phục vụ. Sau hai năm học cha lĩnh bằng cử nhân Thần Học Mục Vụ Giáo Lư. Cha chọn đề tài luận văn tốt nghiệp: “Huấn giáo nơi những vùng dân cư thiên Cộng” (“Catéchèse et Populations Communisantes”). “Communisantes”. ở đây được hiểu về những người đă chịu ảnh hưởng, đă có cảm t́nh, đang dần dần trở thành người cộng sản, hoặc sống trong những vùng, những thời thế đang từng bước chuyển sang chế độ do đảng Cộng Sản lănh đạo.
Cha đưa vào luận văn những kinh nghiệm thu thập được trong những năm tháng cha hoạt động ở miền Trung từ B́nh Trị Thiên, đến Nam Ngăi, B́nh Phú, và trong giới Việt Kiều Thái Lan. Luận văn của cha được đánh giá khá cao. Cha nhớ nhất và tâm đắc nhất lời nhận xét của một vị nào đó đă đọc hoặc nghe những luận điểm của cha: “Tác giả có một điều ǵ đó để nói, và cũng biết cách nói ra điều đó” (Il a quelque chose à dire, et il sait comment le dire). Th́ ra đang khi góp phần xây dựng chủ thuyết Nhân Vị, cha lại đă quan tâm đến một t́nh thế khác, một hệ tư tưởng khác. Xuyên qua hai t́nh thế mâu thuẫn đó, vẫn có một sứ mạng duy nhất. Cha vẫn có một điều ǵ đó để nói và phải nói.
Cũng cần nói rằng ở thời điểm này Giáo Hội Công Giáo khắp nơi như đang dậy men. Mọi người đang chờ đợi, đang chuẩn bị Công Đồng Vatican II, dưới sự chỉ đạo của Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII. Nhiều nhà thần học, nhiều giới chuyên môn đă linh cảm rằng trong kho tàng Thánh Kinh, Thần Học, Giáo Phụ của Giáo Hội c̣n tiềm tàng rất nhiều sức bật mà những thói quen tŕ trệ, lưu cữu, hẹp ḥi đă khiến cho bị quên lăng. Đức Giáo Hoàng nói tới một mùa xuân mới, một bầu khí mát lành mới, một sức mạnh hợp nhất, b́nh an cho mọi người.
Năm 1962, Công Đồng Vatican II khai mạc. Sau những bước đầu chầm chậm, dè dặt, th́ những nét về nguồn, những nét canh tân cứ dần dần nổi bật lên. Bầu khí trong Giáo Hội trở nên rất phấn khởi cho những ai quan tâm nghiên cứu và muốn có sáng kiến, muốn mở những con đường mới cho một thời đại mới. Cha Thanh cũng như bao người khác hàng ngày theo dơi những diễn biến trong Công Đồng. Mặc dù tư tưởng “Nhân Vị” bị thời thế cho rơi vào câm lặng, nguồn cảm hứng mới từ Công Đồng Vatican II như một ḍng chảy mênh mang khiến cha hăng say cống hiến tâm huyết của ḿnh cho đồng bào.
Đây cũng là thời kỳ Ḍng Chúa Cứu Thế của cha mở rộng công việc truyền giáo ở những vùng nghèo khổ. Gần Sài-g̣n th́ có vùng rừng ngập mặn Cần Giờ, ở miền Trung là vùng Châu ổ trong tỉnh Quảng ngăi. Trên cao nguyên, ngoài miền truyền giáo đă có từ trước ở vùng Fyan (Lâm Đồng) để đến với bà con dân tộc K,ho, một địa hạt mới rất rộng đă mở ra trong tỉnh Pleiku (nay là Gia Lai) khi ấy c̣n âm u rừng núi để phục vụ người dân tộc Jrai.
Riêng phần cha Thanh th́ vẫn miệt mài với công tác huấn giáo. Lúc này cả những ư tưởng lẫn hoạt động của cha đă được bên ngoài biết đến. Trong thập niên 1960, cha được các hội nghị Giáo Lư Quốc Tế mời đi tham luận ở Đức, Philippines, Thái lan.
Tóm lại là một thời để gieo. Sẽ phải đến một thời hạt giống gieo phải biến tan trong ḷng đất. Cuộc chiến tranh khốc liệt ở Việt Nam cũng đi dần đến hồi kết thúc…
NHỚ CHA TRẦN HỮU THANH ( kỳ 4 )
Một lần cuối cha Thanh chủ động dấn thân vào chính trị: đó là năm 1974 ở Sài-g̣n. Cha cùng với 301 Linh Mục khác kư tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng. Cha Thanh trăn trở đă nhiều về tiền đồ đất nước, cha cũng đă xoay xở nhiều bề, nhiều phía. Càng ngày càng thấy rơ một điều: sự tham lam ích kỷ như một thứ tà khí bao trùm lên xă hội, nó gặm nhấm, nó làm tiêu tan, nó vô hiệu hóa những ư đồ tốt đẹp nhất. Cha cũng có kinh nghiệm về chống tham nhũng: trong những năm 50 với việc phanh phui vụ "Gạo miền Trung", cha góp phần làm cho nhiều quan chức đứng đầu 6 tỉnh miền Trung mất chức. Nhưng lần này không chỉ là chuyện của những quan chức cấp tỉnh. Lần này vấn đề lớn hơn nhiều: tham nhũng là quốc nạn, nó biến thành thói tục, thành cơ chế, thành cái nếp xuyên suốt xă hội từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Nó khiến xă hội trở nên vô hồn, nó đầu độc sinh khí cộng đồng.
Mặt khác, chiến tranh Việt Nam đang đến hồi kết thúc. Súng vẫn c̣n nổ trên các mặt trận, nhưng Hiệp Định Paris đă kư kết rồi. Sớm hay muộn sẽ có thử thách quyết định. Một xă hội bị tham nhũng làm cho mọt ruỗng về tinh thần th́ làm sao chịu đựng nổi sóng gió. Cha Thanh lao vào cuộc đấu tranh mới với cảm giác t́nh h́nh đă trở nên cấp bách. Phong trào chống tham nhũng tạo ra những cuộc xuống đường rầm rộ, công bố những bản cáo trạng nẩy lửa. Các nhà báo cũng vào cuộc với những h́nh thức đấu tranh ngoạn mục. Có những buổi sáng Chúa Nhật đi giữa phố xá Sài-g̣n người ta có cảm giác lạ lùng bỡ ngỡ, đường phố không bóng xe qua lại, nghe được cả tiếng chim hót líu lo như ở giữa đồng quê. Hôm đó là ngày phong trào chống tham nhũng biểu t́nh, các ngả đường trung tâm thành phố bị vây chặn bằng những hàng rào dây kẽm gai.
Ở miền Nam ngày ấy, và trong một số giới nào đó, cho đến tận ngày nay, có những người không tha thứ cho cha Thanh và các bạn hữu của cha. Người ta bảo cha phá hoại cuộc chiến chống Cộng Sản, cha làm suy yếu chế độ chống cộng. Cái hôm trung tâm Sài-g̣n không bóng xe, đứng bên hè phố có một ông mặc complet rất lịch sự, nhưng miệng phun ra một chuỗi những lời tục tĩu như để đáp lại tiếng chim hót trên cây. Ông đang chửi cha "những thằng Linh Mục làm lợi cho Cộng Sản". Gia đ́nh ông thường vẫn đi lại rất thân thiết với nhiều Linh Mục. Ông là một trong những người giầu nhất Sài-g̣n, và trong những mặt hàng ông sản xuất và kinh doanh có những cuộn dây kẽm gai đang ngăn cắt đường phố.
Cha Thanh th́ nghĩ rằng một xă hội đă bị tham nhũng di căn sẽ chẳng chống được cái ǵ mà cũng chẳng xây được cái ǵ. Và cũng có nhiều người nghĩ như cha nên vụ việc mới thành phong trào. Có những ông chống cộng cùng ḿnh như ông dân biểu Đỗ Sinh Tứ và các bạn, xưa nay vẫn rất kỵ cái nhóm "cấp tiến" ở Ḍng Chúa Cứu Thế, nay cũng tươi cười xuất hiện tay trong tay với nhóm cha Thanh, thậm chí với cả nhóm Chân Tín – Nguyễn Ngọc Lan nữa. Có hôm cha Thanh từ trong nhà bước ra sân Nhà Thờ, bỗng dưng có mấy người Nhật tiến lại nghiêng ḿnh rất sâu chào cha. Mọi người cứ tưởng đó là bạn hữu của cha hay nhà báo ǵ đó, hóa ra không phải. Họ nhận ra cha v́ đă thấy cha trên tivi bên Nhật, và họ muốn tỏ ḷng ngưỡng mộ. Thành ra có người khen cha Thanh sáng suốt, có người chê cha điên khùng mê muội. Cha Thanh lại cười chúm chím, ngúc ngắc đầu bảo rằng: "Tôi đă cưỡi hổ rồi, không xuống được nữa đâu".
Nhưng con hổ cha đang cưỡi sắp bị tử thương rồi. Cách Mạng sắp đến rồi. Và chính quyền Cách Mạng không đặt vấn đề cha Thanh sáng suốt hay mê muội. Sáng suốt hay mê muội th́ cũng thế thôi, đàng nào th́ cha cũng là người có tội. Đấu tranh làm sạch xă hội nếu là có công với xă hội tư sản th́ sẽ là có tội với xă hội cách mạng vô sản. Thế mới là biện chứng.
Ngày 30.4.1975 đưa cha Thanh và cả Sài-g̣n sang một thế giới khác. Những người, những vấn đề, những tranh đấu của mấy hôm trước bỗng dưng biến đâu mất. Hôm đầu tháng 5 đó, cha Thanh từ trong Nhà Thờ bước ra, đón người đến hỏi thăm bằng nụ cười chúm chím: "Té ra ḿnh vẫn c̣n phong độ như xưa !" – Phong độ ǵ thế cha ? C̣n phong trào đâu, c̣n lănh tụ ǵ đâu, c̣n tranh đấu ǵ đâu mà phong với độ ? – Không. Phong độ trong cái thuật dạy Giáo Lư cho trẻ con ḱa ! Vẫn cứ hào hứng y nguyên như khi c̣n trẻ vậy ! Bao giờ cũng thế, thăng trầm chán chê rồi th́ cha Thanh lại trở về Giáo Lư làm điểm tựa.
Trong Thánh Kinh Cựu Ước có chuyện ông ngôn sứ Giô-na. Chúa bảo ông đi công tác ở phía Đông, ông lại đi ra biển ở phía Tây. Cứ tưởng ông sẽ thành bổn mạng của những người vượt biển di tản, nào ngờ sự việc xảy ra biến ông thành bổn mạng của những người hồi hương giảng đạo. Cha Thanh th́ chẳng hề có ư tưởng di tản sang Tây hay sang Mỹ. Có điều những ước mơ của cha cho đất nước có phần hơi nghiêng về phía Tây so với lịch sử đang diễn biến trên mảnh đất Á Đông này. Ông ngôn sứ Giô-na mở mắt ra thấy ḿnh đă trôi dạt đến ngay trước cửa thành Ni-ni-vê to đùng. Trời cho một cơn biến động lịch sử và ở thời điểm 1975 ấy, cha Thanh bước những bước đầu tiên vào quăng đường cách mạng xă hội chủ nghĩa.
Thế là không đơn giản rồi. Một phút vui mừng v́ cái phong độ dạy trẻ con vẫn c̣n nguyên th́ Ccha nói vậy, nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng thế. Người như cha, t́nh h́nh như thời điểm ấy, làm ǵ có thể b́nh an chí thú bên lũ trẻ. Điều ấy cha dư biết. Một hôm cha đi đâu không biết, nhưng không thấy về nhà nữa. Thế là bắt đầu con đường chông gai và gian nan đi vào xă hội mới. Con người ta cần 9 tháng để đi vào cuộc đời, cha Thanh phải mất 12 năm để đi vào xă hội mới. Hơn 3 năm tù ở nhà lao Chí Ḥa ( Sài-g̣n ) và Thanh Liệt ( Hà Nội ). Rồi 9 năm bị quản chế, 5 năm ở Họ Đạo Quang Húc dưới chân núi Ba V́, rồi 4 năm ở thôn Trần Nội, Giáo Phận Hải Pḥng...
NHỚ CHA TRẦN HỮU THANH ( Tiếp theo kỳ 5)
Một thời gian khá lâu, chẳng có tin tức ǵ về cha Thanh, chẳng có thăm nuôi, chẳng biết cha ở đâu. Thậm chí ở nước ngoài đồn cha đă chết rồi. Không biết có phải v́ chuyện đồn đại ấy không mà Nhà Nước cho báo nước ngoài phỏng vấn cha. Ảnh cha được phóng to trên trang nhất của tờ báo. Hồi đó đất nước chưa mở cửa, nhưng tờ báo đi ṿng vo thế nào đó, rồi cũng đến Sài-g̣n. Ít ra th́ thân nhân, bạn bè anh em trong Ḍng cũng biết ở một nơi nào đó trong cơi vắng lặng thông tin cha Thanh vẫn c̣n sống.
Có một Thánh Vịnh nói về chuyến đi qua những thung lũng âm u sát khí, ở đó người ta chỉ chống cây gậy của Chúa để trấn tĩnh tâm hồn. Về sau cha Thanh chia sẻ rằng chưa bao giờ cha nhớ đến từng người, từng việc trong cuộc đời và cầu nguyện nhiều cho bằng những năm tháng ấy. Một cảm nghiệm nữa là t́nh cảnh nghèo khó, thiếu thốn trăm bề của các Xứ Đạo miền Bắc. Nông thôn miền Bắc không thiếu ǵ những Nhà Thờ nhỏ hoang phế, trống vắng, bị sự ẩm thấp, mối mọt, rêu phong gặm nhấm dần. Thường thường bên cạnh đó cũng có một Nhà Xứ hay Nhà Pḥng cũng xuống cấp như Nhà Thờ. Chung quanh là một khoảng đất trống hay vườn cây có thể tạo thế cô lập cho cơ sở tôn giáo. Những Giáo Sĩ bị quản chế thường được đưa tới những nơi như thế, thử làm người lăo bộc thức đêm đợi Chúa đi vắng rất lâu chưa thấy về.
Chúa có vẻ chưa đến, nhưng ông Linh Mục quản chế dần dần nghe thấy hơi thở và nhịp tim của một đoàn chiên vẫn thầm lặng đâu đấy chung quanh Nhà Thờ. Đoàn chiên xem chừng hao gầy, xơ xác v́ sống sót qua nhiều đợt phong ba. Rồi đôi bên có nhiều phương cách nhẹ nhàng bắt liên lạc với nhau, dựa vào nhau, sưởi ấm lẫn nhau. Những người giáo dân mộc mạc ấy sau những năm dài bơ vơ về mặt tâm linh, có khi chẳng c̣n biết ǵ nhiều. Trơ trần ra chỉ có một ḷng trung thành mỏi ṃn. Cảm thấy có một ông Linh Mục ở gần, dù bị ngăn cách, là như đất hạn gặp được trời mưa. T́nh cảnh ấy khiến cho Linh Mục tuy không được tự do, nhưng lại bồi hồi v́ nghe tiếng gọi phát xuất từ những tầng sâu thẳm của Thiên Chức nơi ḿnh.
Cảm nghiệm ấy khiến cho cha Thanh khi măn hạn 14 năm tù và quản chế không c̣n muốn về miền Nam nữa. Cha chỉ về Nam thăm nhà Ḍng, thăm thân nhân, bạn bè nhưng đă tâm niệm định cư bên ngôi Nhà Thờ trống vắng ở thôn Trần Nội, gần thị xă Hải Dương, Giáo Phận: Hải Pḥng. Đến tuổi già, cha lại phát hiện một sứ mạng mới, Giáo Phận Hải Pḥng cũng như những Giáo Phận khác ở Miền Bắc, đang hết sức neo đơn về nhân sự, lại gặp một người tầm cỡ như cha xin t́nh nguyện phục vụ, nên cũng rất vui ḷng đón tiếp cha.
Trước mắt cha Thanh bây giờ có cả một thế hệ trẻ mọc như cỏ dại chẳng biết ǵ về sinh hoạt trong Hội Thánh. Ngày Đức Cha Nguyễn Tùng Cương về thăm thôn Trần Nội, lũ trẻ con mở mắt nh́n thao láo, bảo nhau “chúng mày ơi ! Ông này mặc áo đàn bà !”. Cha Thanh nối lại nghiệp cũ là dạy Giáo Lư, giảng và làm lễ, bây giờ không phải là những cộng đoàn đông nghẹt, nhưng là thôn dân trong ngôi nhà nguyện vài chục mét vuông. Cha tiếp đón người này kẻ khác, không phân biệt tôn giáo. Cha quan tâm đến công việc làm ăn của thôn làng. Bạn bè cũ ở nước ngoài gửi cho cha những hạt giống rau, quả mới. Cha mang phân phát cho dân trồng thử. Trần Nội có những sản phẩm rau, dưa độc đáo bắt đầu làm ăn khấm khá hẳn lên.
Có lúc DCCT t́m cách đưa cha về Hà Nội. Nhà Ḍng có thời đă hoạt động khá mạnh ở miền Bắc. Vào thăm rất nhiều ngôi Nhà Thờ vắng lạnh, ta vẫn gặp thấy ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, màu sắc đă mờ đi theo năm tháng. Đó là vết tích hoạt động của Ḍng. Khi mọi sự đổi thay, th́ Đức Mẹ vẫn kiên tŕ ở lại giữa đoàn con nghèo khó về mọi mặt. Nhưng bây giờ trên toàn miền Bắc, Ḍng chỉ c̣n lại hai Linh Mục già. Cha Vũ Ngọc Bích được mọi người kính cẩn gọi là cha Bề Trên, mặc dù suốt bao nhiêu năm cha sống một ḿnh, chẳng có ai để làm “bề dưới”. Nay th́ cha Bích đă mù mắt rồi, đă “mất sức lao động rồi”. Sau một đời kiên trung, đă đến lúc phải t́m cho cha Bích một người thừa kế. Ngoài cha Thanh th́ có c̣n ai nữa đâu?
Các ông ở ban tôn giáo Thành Phố cười cười hóm hỉnh: “vậy là các vị định đưa cụ 79 lên kế vị cụ 80 à?” Thật ra vấn đề không đơn giản là tuổi tác. Cha Thanh thường nhắn nhủ các anh em trẻ trong Ḍng: “Khi tiếp xúc với chính quyền, ta luôn phải khiêm tốn và lế độ.” Việc tiếp xúc với chính quyền đối với cha là chuyện thường lệ trong bao nhiêu năm. Cha luôn chủ ư tỏ ra khiêm tốn và lễ độ. Chỉ có điều trao đổi một lúc th́ bao nhiêu vấn đề ùa tới, chuyện nước, chuyện non, chuyện đạo, chuyện đời. Thế là cái giọng sang sảng từ ngày xưa lại cất lên. Bây giờ nghĩ lại thấy quả nhiên đất nước đă biến đổi từ từ, nhưng biến đổi rơ ràng. Có những chuyện ngày nay mọi người, từ báo chí đến tư nhân đều nói, nhưng 15, 20 năm trước là điều cấm kỵ. Để cho cái giọng sang sảng của cha Thanh hồi sinh trên ṭa giảng một Nhà Thờ ở Hà Nội th́ khác nào cho bom nổ giữa thủ đô ? Đấy mới là vấn đề, chứ không phải cái tuổi 79.
Vậy th́ lấy ai tiếp nối sự kiên tŕ của cha Bích? Câu hỏi hiểm hóc ấy t́m được đáp án thật bất ngờ, mà lại là một đáp án Nhà Ḍng mong đợi từ lâu. Chẳng là toàn Hà Nội chỉ có 4 Nhà Thờ thôi, để cho Nhà Thờ của cụ Bích không có Linh Mục, chẳng hóa ra Hà Nội không có tự do tôn giáo? Các vị trong Mặt Trận Tổ Quốc và Ban Tôn Giáo TP vận động khẩn khoản. Một ngày đẹp trời cha Bích mù ḷa chống gậy ngồi xích-lô lên Ṭa Tổng Giám Mục xin một Linh Mục về Nhà Thờ Thái Hà thay thế ḿnh. Đức Hồng Y Phạm Đ́nh Tụng tỏ ra tiêu cực. Ngài trả lời một câu rất có dụng ư: “Nhà Thờ đó xưa nay DCCT phụ trách. Nhà Ḍng phải t́m người thay thế. Phần tôi dẫu có dư Linh Mục cũng không cử ai về đấy cả.” Đức Hồng Y làm ǵ mà có dư Linh Mục, ngài cũng thiếu thốn đủ điều. Thực sự là ngài muốn yểm trợ nhà Ḍng.
Vậy là kẹt cứng. Dân miền Bắc từ kinh nghiệm của ḿnh lâu nay có một câu ngạn ngữ mới. Người ta không nói: “Cái khó nó bó cái khôn”, Người ta nói: “Cái khó nó ló cái khôn.” Giữa một cụ Thanh có giọng nói sang sảng và cụ Hồng Y cứ lắc đầu liên tục, các vị trong Ban Tôn Giáo Nhà Nước cũng “ló cái khôn”. Bên cạnh cụ Bích từ vài năm nay có Thầy Sáu Trịnh Ngọc Hiên. Thầy Sáu Hiên đă học xong chương tŕnh chủng viện trong Nam, lại là người biết thuốc Nam, biết châm cứu. Nhà Ḍng xin cho thầy ở bên cạnh cụ Bích để săn sóc, đỡ đần cụ lúc tuổi già sức yếu.
Thầy Hiên là người nhẫn nại, hiền ḥa, nhỏ nhẹ. Chính cái tính hiền ḥa, nhỏ nhẹ đó đă khiến nhà Ḍng chọn thầy để sống ở Hà Nội. Các vị trong Ban Tôn Giáo bảo: “thế sao không phong chức cho ông Hiên đó ?” Nhà Ḍng mừng quá. Thay v́ hai cụ già, từ nay có hai cụ già và một cụ trẻ ở miền Bắc. Tốt lành quá đi thôi. Thế là thầy sáu Hiên chuẩn bị nhanh chóng. Đă gần một nửa thế kỷ mới lại có một Tu Sĩ chịu chức Linh Mục ở Hà Nội. Thấm thoát lại hơn 15 năm qua, cụ Bích đă về bên Chúa rồi, cho đến ngày nay Giáo Dân Hà Nội vẫn yêu mến cha Bề Trên Hiên v́ cái tính tận tụy, hiền ḥa, nhỏ nhẹ…
NHỚ CHA TRẦN HỮU THANH ( Kỳ 6 )
Hôm cha Giu-se Trinh Ngọc Hiên chịu chức, cha Giu-se Trần Hữu Thanh ngồi khóc giữa đoàn đồng tế ! Cha có nhiều điều để nhớ; cha nhớ một lần chưa lâu, có ai đó thấy xa trông rộng đă phân giải với cha rằng: “Ai lai giết những người như cụ làm ǵ. Giết cụ để cụ làm Thánh Tử Đạo à ? Lớp các cụ là những người để cho lịch sử đào thải. Các cụ cứ già cơi dần ṃn rồi tan biến thôi”. Vậy mà hôm nay ở đâu nẩy ra cái ông Linh Mục mới này. Tre cứ già mà măng vẫn cứ mọc. Bên cạnh cái già cỗi vẫn có cái trường tồn. cái ǵ tự nó già cỗi th́ để cho lịch sử đào thải, tiếc hay không tiếc cũng thế thôi ! Khi những cái già cỗi đă qua đi rồi, sẽ lộ ra cái trường tồn, với tất cả tính mịn màng của một sự sống mới. Đó là định luật muôn đời của tất cả những ǵ có thực chất, có nội lực. Đời người, xét cho cùng là một quá tŕnh nhận thức cái ǵ già cỗi và cái ǵ trường tồn ở nơi ḿnh.
Điều cha Thanh chứng kiến lúc cuối đời là chung quanh cha có nhiều mầm non. Những lần về thăm Sài-g̣n và thấy các thế hệ trẻ của Ḍng đang học tập, cha đă khóc như đă từng khóc hôm cha Hiên chịu chức. Năm lần đầu tiên sau năm 1975, DCCT Sài-g̣n có một lễ phong chức Linh Mục, cha Cao Đ́nh Trị, khi đó là Giám Tỉnh, đă đứng lên cám ơn mọi thân nhân bằng hữu và quan khách đạo đời. Cha nói: “Người ta cưu mang một đứa con mất 9 tháng, Nhà Ḍng chúng tôi cưu mang những người con mới này mất 19 năm”. Gian nan khó nhọc là thế, nhưng Ơn Trên thương rồi ra cũng mẹ tṛn con vuông. Trong số những người trẻ mới nhập Ḍng, nhiều người đến từ miền Bắc. Nhà Ḍng yêu cầu các bạn trẻ ấy giữ nguyên hộ khẩu ở miền Bắc cho sâu rễ, bền gốc, để khi nào đào tạo xong, th́ họ trở về phục vụ Chúa nơi quê hương ḿnh.
Cha Thanh có nhiều dự tính cho tương lai. Với những điều cha kinh nghiêm về Giáo Hội miền Bắc, cha nhẩm tính số các Xứ Đạo trong và ngoài Giáo Phận Hải Pḥng, số anh em trẻ đang sắp đến thời kỳ hoạt động, và cha mơ ước lập những đoàn Thừa Sai Đại Phúc để lui tới khắp nơi theo truyền thống từ xưa của Ḍng. Trong khi chờ đợi, cha Hiên cũng đă bớt lẻ loi, những anh em trẻ gốc miền Bắc đă lác đác trở về Hà Nội tiếp tay với cha.
Ngôi Nhà Thờ cha già Bích suốt mấy chục năm duy tŕ cho sống qua những mùa khắc nghiệt bắt đầu nẩy cành xanh ngọn. Chung quanh Nhà Thờ, sinh viên các tỉnh lên Hà Nội học ở trọ khá đông. Dân lao động từ dưới quê lên Hà Nội làm ăn, sinh sống, những anh xe ôm, những chị đồng nát, và trăm thứ ngành nghề trí óc lẫn chân tay cũng nhận ngôi Nhà Thờ như nhà chung của ḿnh. Nhà Thờ Nam Đồng thành ra một cộng đoàn hết sức đông đảo, với rất nhiều người trẻ. Tối thứ bảy, tối Chúa Nhật, người ta đến chật ních Nhà Thờ, chật kín sân, tràn khắp hành lang tầng trệt và tầng lầu Nhà Ḍng. Rồi các hội đoàn, các lớp Giáo Lư, các ca đoàn, các nhóm sinh viên v.v...
Năm 2001, cha Thanh trở về Hà Nội, chứng kiến và đồng hành với những bước phát triển ấy. Ông cụ 79 không thể về làm việc ở Hà Nội được, nhưng ông cụ ngoài 80 th́ phải về thôi. Cha Thanh càng ngày càng suy yếu. Những cơn thấp khớp đau đớn khủng khiếp khiến cha cắn răng nằm liệt nhiều ngày liền. bệnh trạng ngày càng phức tạp, người ta chuẩn bị làm đám tang, đă xây sẵn kim tĩnh cho cha ngoài nghĩa trang Giáo Xứ Phú tảo ( thôn Trần Nội là một họ lẻ của Giáo Xứ Phú Tảo ). Không thể không đưa cha về Hà Nội, là nơi có bệnh viện, có thầy, có thuốc. Vậy rồi sức sống dai dẳng của cha cũng vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo, tưởng chết mà lại hồi sinh. Có điều tay chân bị biến dạng nhiều, dần dà cha phải ngồi xe lăn.
Từ đó, hầu như năm nào cha cũng phải nhập viện một vài lần. Nhưng hễ xuất viện trở về nhà là lại cười, lại tếu. Chiều tối cha vẫn lên Nhà Thờ ngồi xe lăn đồng tế với anh em. Dù sao th́ đất nước cũng từ từ thay đổi. Không c̣n ai cảm thấy phải e dè điều ǵ về những bài giảng của cha. Tay chân bị bệnh tật làm mất hiệu năng, nhưng tiếng nói vẫn rất tốt, vẫn ấm, vẫn rành mạch. Có khi cha cứ ngồi xe lăn mà giảng trong Lễ chiều cả tuần liền. Hễ anh em đề nghị cha giảng là cha nhận lời ngay. Cha nhận thấy c̣n nhiều điều lắm để nói.
Không ra ngoài nhiều nhưng cha theo dơi t́nh h́nh trong đạo ngoài đời. Mỗi ngày cha dành th́ giờ đọc báo chí trong nước, ngoài nước, rồi ngẫm nghĩ, cầu nguyện. Gặp anh em ở các nơi xa đến Hà Nội, cha hỏi thăm ngay những chuyện xảy ra ở các địa phương mà cha đă biết qua các phương tiện truyền thông. Giáo Dân gần xa, và cả những người bên lương quen dần với h́nh ảnh vị Linh Mục tóc bạc phơ, tối tối th́ ở trên Cung Thánh, nhưng ban ngày hay lăn xe đi trong sân Nhà Thờ, thăm hỏi người già, trêu chọc người trẻ, với một bầy nhi đồng, thiếu nhi hay t́m đến lân la, quẩn quanh. Trong tuổi già, không c̣n chuyên trách một nhiệm vụ nào, cha như một nền móng tâm linh cứ tự nhiên lan tỏa trên những lớp trẻ đang cố gắng gánh vác sứ mệnh đời trước truyền lại.
Lần cuối cùng cha Thanh giảng là hôm Nhà Thờ Nam Đồng dâng lễ cầu hồn cho cha Mi-ca-e Hoàng (tên gốc là Michel Laliberté) mới qua đời ở Canada. Đây là một trong hai người cuối cùng c̣n sống sót trong lớp Thừa Sai DCCT người Canada qua lập Ḍng và hoạt động ở Việt Nam.
Những người đă cao tuổi ở Nam Đồng c̣n nhớ h́nh ảnh vị Thừa Sai trẻ tóc vàng, râu vàng ngày xưa hay lái một chiếc xe hơi nhỏ chạy khắp phố phường Hà Nội. Chiếc xe ấy trong những năm khốn khó cuối thế chiến thứ II đă từng chở những bệnh nhân nghèo đi cấp cứu. Hồi nạn đói Ất Dậu, có lúc xe chở cả người chết đi chôn. Những người tương đối trẻ tuổi hơn ở miền Nam th́ c̣n nhớ cha Mi-ca-e Hoàng sống giữa bà con người Thượng K’Hor trên Lâm Đồng. Nghe nói từ năm 1975, trở về Canada, cha Hoàng kiếm được đồng nào đều dành hết cho bà con K’Hor nghèo.
Cách đây hơn 10 năm, nghe nói nước ta mở cửa, cha Hoàng cùng mấy vị Thừa Sai khác, tất cả đều đă ngoài 80 rủ nhau sang Việt Nam thăm lại cảnh cũ ( nay đă khác trước nhiều ). Về lại Nam Đồng sau 50 năm biệt tăm tích, Giáo Dân Nam Đồng đă đón tiếp các bậc cố tri vô cùng đằm thắm. Nhân các vị hỏi thăm t́nh h́nh, một Giáo Dân đă buột miệng: “Chúng con nghèo lắm, cha ạ”. Và một vị Thừa Sai bỗng nhớ lại tiếng Việt đă mấy chục năm không nói, đă trả lời nghẹn ngào: “Nhưng t́nh th́ không nghèo đâu, giầu lắm, giầu lắm!”
Vị Thừa Sai ca ngợi t́nh giàu đó cùng với mấy vị nữa đă qua đời rồi. Nay đến lượt cha Hoàng từ giă thế gian, cha chỉ ước được thăm Việt Nam một lần nữa, nhưng mộng không thành. Mấy Linh Mục Tu Sĩ trẻ ngày nay không biết ǵ nhiều về cha Mi-ca-e Hoàng. Họ nhờ cha già Thanh, h́nh như học trên cha Hoàng một lớp th́ phải, nói mấy lời chia sẻ (các vị Thừa Sai Canada ngày xưa có một sáng kiến độc đáo: họ đưa các Đại Chủng Sinh Thừa Sai người Canada sang Việt Nam đào tạo chung với các Đại Chủng Sinh người Việt của Ḍng, do đó lập ra Học Viện DCCT Hà Nội. Cha Thanh vẫn nói rằng đó là bí quyết khiến các vị Thừa Sai Canada này thành công ở Việt Nam).
Tối hôm đó trong Thánh Lễ dù đă cảm thấy mệt, cha Thanh vẫn ôn lại những kỷ niệm với người anh em đồng song; cha Mi-ca-e Hoàng chịu chức Linh Mục năm 1945 ở Nhà Thờ Cửa Bắc, không một thân nhân ruột thịt nào có mặt. Gia đ́nh không chỉ ở cách xa nửa ṿng trái đất, mà c̣n bị ngăn cách bởi cuộc thế chiến khốc liệt. Hà Nội và vùng phụ cận sống dưới sự đe dọa của mưa bom băo đạn. Từ đó cha Thanh suy ra cái hồn của người Thừa Sai. Cha vừa giảng, vừa khóc.
Giảng xong bài giảng cuối cùng đó, cha Thanh trở bệnh nặng lúc đêm khuya...
T́nh giầu của người Giáo Dân Việt Nam lại hiện lên; không cần phải hô hào, mọi người tự động t́m về Nhà Thờ. Các chú Đệ Tử của Ḍng đă săn sóc cha từ nhiều năm nay đưa cha về Tu Viện, và lo việc khâm liệm. Các ông, các anh thanh niên phân công nhau lo giữ ǵn trật tự, tiếp tân. Các bà, các cô xé hàng ngàn chiếc khăn cho khách thập phương sắp đến viếng và lo việc chợ búa, cơm nước cho gia đ́nh, bạn bè của cha...
Hai ngày cha Thanh nằm như ngủ trong chiếc ḥm kính ở Nam Đồng, người đến viếng hết lớp này đến lớp khác, nhưng bầu khí thật b́nh an, thanh tĩnh.
Trong những đoàn người đông đảo ấy, thỉnh thoảng nổi lên những khuôn mặt đă như đồng hóa với những giai đoạn thăng trầm của Dân Chúa.
Một chiếc xe nhỏ đậu lại trong sân Nhà Thờ. Một chiếc xe lăn được đưa xuống. Mấy thanh niên d́u một cụ già từ xe hơi lên xe lăn. Đó là cha Phạm Hân Quynh từ một Xứ Đạo xa về viếng cha Thanh.
Cha Quynh bây giờ có vẻ như một bóng mờ của cha Quynh ngày xưa. Tuổi cũng ngót nghét chín mươi, lại đă ba lần tai biến mạch máu năo, làm ǵ mà bóng chẳng mờ. Ngày xưa cha Quynh lanh lẹ, tinh anh bao nhiêu ! Từ ngày ở Đại Chủng Viện đă là một bộ óc Triết Học xuất sắc, chủ động trao đổi ư tưởng với các triết gia lớn đương thời. Rồi đi học Sorbonne, bạn học với người sau này là Tổng Giám Mục Lustiger của Paris, cha Quynh ở Pháp vào lúc đất nước chuyển ḿnh trong Cách Mạng Tháng 8. Cha đă từng bàn bạc, suy nghĩ biết bao nhiêu về đất nước với các bạn Việt Nam cùng học ở Paris. Cha tốt nghiệp và về nước vào thời điểm 1954, với ư thức rơ ràng là về nước sẽ gặp một hoàn cảnh khó khăn và tế nhị. Giáo Hội Hà Nội nói riêng, miền Bắc nói chung dàn hàng một loạt trí thức trẻ, mong xây dựng Đức Tin giữa thời Cách Mạng.
Những tên tuổi như Phạm Hân Quynh, Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Văn Thông ( từ Châu Âu về ), Nguyễn Ngọc Oánh ( từ Mỹ về ) một thưở đă sáng chói trong ḷng giới trẻ Công Giáo Hà Nội. Hai cha Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Văn Thông sẽ có một số mệnh bi thảm. Cha Quynh và cha Oánh cũng lao đao tợn, nhưng rồi cũng sống sót qua thời khốn khó. Cha Oánh vừa qua đời hồi tháng 8 năm 2007, cha Quynh c̣n chèo chống đến ngày nay.
Giữa những năm Giáo Hội như bị đóng băng về tư tưởng, cha Quynh vẫn cố duy tŕ hoạt động trí thức. Dẫu cha không thể để lại những tác phẩm lớn, cha vẫn đóng góp bằng lời nói và ng̣i bút giúp cho Dân Chúa động năo. Cha đề cập những vấn đề cụ thể, thiết thực bằng một văn phong dễ tiếp thu cho những người mộc mạc chung quanh cha. Đặc biệt cha đào tạo được những người Giáo Dân, tuy chất phác, nhưng biết làm việc Tông Đồ có hiệu quả. Khi ḍng đời đưa cha Trần Hữu Thanh cập bến Giáo Phận Hải Pḥng, th́ cha Quynh với cha Thanh trở thành đôi bạn tương đắc, cộng tác với nhau.
Hôm nay cha Quynh, với các đồ đệ vây cạnh, đang đứng trước linh cữu cha Thanh. Cha đang mấy máy nói ǵ đó, như tâm sự, như khấn xin. Lại gần th́ thấy cha đang nói: “Anh đă ngẩng cao đầu mà sống. Anh đi trước, rồi tôi sẽ theo anh”.
C̣n một cụ nữa tóc cũng bạc phơ, vừa đến với vài người đồ đệ. Cha Bergmann Thảo của Đan Viện Xi-tô Châu Sơn đấy. Châu Sơn là nơi từ ngày thành lập, có những con người và câu chuyện giống như là huyền thoại. cha Thảo đă có mặt từ những ngày đầu, chứng kiến và tham gia mọi sự. Biến cố 1954 đưa cha vào miền Nam. Ba mươi năm sau, cha chịu thương chịu khó trở về chốn cũ. Nhà Ḍng Châu Sơn nổi tiếng ngày xưa đă thành một nơi hoang phế, ẩm thấp, âm u, với vài cụ già tuổi đời đă ngót một thế kỷ. Cha Thảo cũng đă tuổi cổ lai hy, lao vào dựng lại người, dựng lại nhà. Ngày nay Đan Viện Châu Sơn lại sáng sủa, khang trang, với một cộng đoàn trẻ, đông đúc. Cha Thảo đang dự định xây một nhà Tĩnh Tâm hơn 100 pḥng. Mỗi khi có ai ở Ḍng Chúa Cứu Thế vào Châu Sơn, Cha Thảo bao giờ cũng hỏi thăm bạn già: "Cha Thanh lúc này ra sao?"
Bây giờ th́ cụ Thanh, cụ Thảo, cụ Quynh, người đi và người ở lại, đều hội tụ ở đây. Đó là lớp người, lúc ở xa, lúc ở bên nhau, nhưng đă cùng lên thác xuống ghềnh. Đă đến lúc người ta gọi là: "chuyển giao các thế hệ". Thế hệ mới đă đứng sẵn đó rồi. Cộng đoàn trẻ Ḍng Chúa Cứu Thế khá đông đúc, riêng Cha Thanh trước khi qua đời được niềm an ủi nh́n thấy một đứa con tinh thần, ở nơi chính Cha từng bị quản chế, chịu chức Linh mục ( xem bài... ). Rồi Linh mục đoàn trẻ Giáo phận Hải Pḥng, với vị Giám mục trẻ dẫn đầu, đang quây quần chung quanh linh cữu, đang hiệp thông trong một lời ca: "Có một điều tôi hằng ước mong, là được ở trong nhà Chúa suốt đời tôi..."
Cha Thanh được an táng khá xa tu viện Ḍng Chúa Cứu Thế. Người ta không đưa Cha lên nghĩa trang Thanh Tước, nơi đa số các Linh mục và tu sĩ của Ḍng an nghỉ, ở đó có những vị thừa sai đầu tiên người Canada, thuộc lớp người "một đi không trở lại", và những Linh mục tu sĩ đầu đàn người Việt: Cha Hiệp chết v́ lây nhiễm khi săn sóc các bệnh nhân chấy rận trong một nạn dịch, Cha Dong chết khi đang trên đường từ Nam Định lên gần đến Hà Nội th́ trúng bom Mỹ trong năm cuối của thế chiến thứ hai. Cũng không đưa Cha về nghĩa trang Thạch Bích để an nghỉ bên người anh em Vũ Ngọc Bích, người đă giữ đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và đón tiếp khách nghèo thập phương suốt gần 20 năm cô đơn.
Theo yêu cầu tha thiết của giáo dân, của Giáo phận Hải Pḥng, mọi người đưa Cha về Phú Tảo, nơi Cha từng bị quản chế. Chắc chắn ư Cha cũng muốn thế, v́ suốt những năm cuối đời, dù đau yếu, dù ngồi xe lăn, cứ đến các lễ lớn và Tết nguyên đán, là nhất định Cha phải về đấy, sống giữa đoàn chiên nghèo. Ngày nay người con tinh thần của Cha là Cha Hội đang tiếp nối công việc của Cha, chăm sóc ngôi nhà thờ cổ và giáo xứ ở đây.
Người địa phương, người từ Hải Pḥng về, người Hà Nội đến, anh em trong Ḍng từ khắp nơi, gia đ́nh ruột thịt của Cha từ Quảng Trị, từ Đồng Nai tụ lại. Cả một đoàn người thật dài đi bộ đưa tiễn, từ nhà thờ Phú Tảo ra nghĩa địa cách xa hai cây số. Thời tiết đă tàn thu chớm đông, nhưng trời vẫn nắng hâm hấp qua màn sương. Thanh niên ba xă chia phiên nhau khiêng linh cữu từng đoạn suốt từ nhà thờ đến nghĩa địa.
"Có một điều tôi hằng ước mong..."
Vũ Khở Phụng
Sài-g̣n ngày 7.1.2008
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.