US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Người Việt Seatle
Chủ Nhiệm Tuần Báo Chính Nghĩa Kim Âu và Nhà Văn Phan Nhật Nam
tại Ramada Plaza Hotel, Garden Grove, Cali (Jan 4 - 2007)>>>>>>>>
LỜI MỞ ĐẦU
QUAN ĐIỂM
Ví phỏng đường đời bằng phẳng măi,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai !
Tiền nhân của chúng ta quá ư là sâu sắc, chính xác khi đưa ra quan niệm về những vị anh hào. Và chắc chắn: Con người anh hùng, hào kiệt phải là con người dám hành động, dám nh́n nhận sự thật.
Đừng đổ lỗi, dồn tội cho tha nhân v́ mục đích tự tôn ḿnh lên một cách hoang tưởng, nhất là khi việc làm đó lại gây ra một ảnh hưởng chính trị vô cùng tệ hại:
Sĩ Quan QLVNCH làm tay sai cho Cộng Sản giết hại Sĩ Quan QLVNCH.
NHÂN TÂM
Nỗi đau và sự hàn gắn!
Nỗi đau ch́m dần vào quá khứ được chữa lành bởi thời gian . Thời gian là thước đo ḷng nhân con người trước nỗi đau gánh chịu. Kẻ thiếu ḷng nhân th́ dai dẳng tính hận thù .
Sự hàn gắn : “Lấy ân báo oán , oán oán tiêu tan” là lời dạy tha thứ và hăy thứ tha, là tiếng gọi bức thiết của ḷng người đối với tha nhân!
TÔN GIÁO
Phúc âm!
Luca đoạn 6 câu 27: “Hăy yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hăy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.”
CHÂN LƯ
Sự thật là chân lư!
“Lịch sử đă chứng minh: Đạo đức thắng tội ác, t́nh thương thắng oán thù, sự thật thắng gian trá.” *
Mời qúy độc giả cầm cuốn sách nhỏ này, thư thái lật đọc từng trang, để thấy chân lư sáng tỏ từ tính hiển nhiên của lịch sử trước:
MỘT SỰ THẬT CỦA DĂ TÂM
Trân trọng,
BN 587-Đặng đ́nh Thúy
Kim Âu-Hà văn Sơn
MỘT VẤN ĐỀ CỦA “DĂ TÂM”
BN 587
2
Trước khi luận tội thứ sáu của tiên sinh. Mời tiên sinh nghe. Tôi bắt đầu xét đến nhân vật chính. Tác giả bài báo: “Một vấn đề của lương tâm” LM Nguyễn hữu Lễ. Tiên sinh nghe nhé.
XÉT VỀ CÁI CHẾT CỦA ANH TIẾP.
Tác giả bị đánh cho “lên bờ xuống ruộng”. (Từ ngữ trong trại giam. Ám chỉ một tù nhân bị CA đáng thật tàn tệ, lăn lên lộn xuống, chẩy máu mồm dồn máu mũi, nếu c̣n lết đi được th́ cũng trong t́nh trạng “bẩy ngày ba bước”. Đi bẩy ngày mới được ba bước, thật là thê thảm!) Như vậy đầu óc phải choáng váng, hai tai bị ù kêu o.. oàTheo bài báo tác giả mê đi hai lần. Chứng tỏ người tác giả yếu lắm rồi. Kế đó tác giả lại bị lôi ngược, đầu và lưng va mạnh vào 12 bậc thang. Nguyên văn: “àKhi tỉnh lại, tôi thấy Bùi đ́nh Thi cầm hai chân tôi kéo lê lên các bậc thang đúc bằng xi măng từ sân hội trường lên khu kiên giam, lưng và đầu tôi va mạnh vào các bậc thang (12 bậc) làm tôi bừng tỉnh lạià” Thật là buồn cười và khôi hài biết bao! Tôi có cảm tưởng như xem phim. Lúc nào đạo diễn thích nhân vật mê là mê ngay, thích nhân vật tỉnh là tỉnh liền. Để nhân vật sống, dù bắn trăm phát nó vẫn sống. Muốn nó chết chỉ một phát là chết queo.
Nói thật, ngay cả tiên sinh đương khỏe mạnh b́nh thường bây giờ, để tôi lôi ngược tiên sinh. Lôi để lưng và đầu va mạnh đủ 12 bậc như bài báo, th́ ngay lập tức hết bậc thứ 12. Đầu tiên sinh đă giống như quả dừa bổ làm đôi đương chẩy nước ồng ộc. (Nên nhớ, đây là phần va đập của ót. Tức phần gáy của cái đầu va vào cạnh 12 bậc xi măng đúc nên rất cứng. Lúc đó tác giả cũng không c̣n sức co đầu lên sát ngực để tránh phần ót va vào cạnh bậc thang, cùng theo bài báo tác giả tỉnh lại đúng lúc tên Thi cầm hai chân tác giả lôi lên các bậc thang. Song ta thấy tác giả cũng không c̣n “bộ năo” b́nh thường nữa, nên trung khu thần kinh không c̣n động tác phản xạ tự nhiên là hai tay co lên ôm lấy đầu bảo vệ để tránh sự va đập trực tiếp của đầu vào vật (cạnh bậc thang). Vậy chứng tỏ tác giả đă quá suy nhược, thần kinh hầu như tê liệt.)
C̣n phần lưng qua va đập như thế. Chắc chắn giống hệt như Bao Công phạt cho 12 trượng. Không u mê th́ cũng quên hết sự đời, đấy là tiên sinh khỏe. Trái lại lúc đó tác giả rất yếu, lơ mơ tỉnh. Theo bài báo “Khi tỉnh lạià”. Vậy mà qua 12 cái va đập đầu và lưng vào cạnh bậc thềm, tác giả lại tỉnh hẳn. Bài báo “..làm tôi (tác giả) bừng tỉnh lạià”. Th́ đây đúng là “cái tỉnh táo” lâm sàng của một trong nhiều hiện tượng về triệu chứng tai biến mạch máu năo. Sau khi tỉnh táo một thời gian ngắn, kế tiếp bệnh nhân sẽ hôn mê rồi chết. Nhưng tác giả vẫn sống (đến ngày nay, không chết sau đó). Để chứng kiến sự việc rơ ràng như một người tỉnh táo minh mẫn. Có “quỷ” mới hiểu được.
Tại sao tôi nói vậy. V́ tiên sinh biết ở đời trên thực tế. Ba bốn người đă chứng kiến một việc, mà khi tŕnh bày lại mỗi người nói một phách. Huống hồ trong t́nh trạng tác giả bị đánh như vậy. May mà tác giả c̣n sống, chứ như người khác chết chắc từ lâu rồi. Vậy mà tác giả “dám” nhận là tác giả tỉnh táo?
Thế rồi, trong bài báo nguyên văn: “Chung quanh anh (Tiếp) lố nhố bọn cán bộ. Tôi nghe có cả tiếng phụ nữ, chắc là vợ con cán bộ, nghe tin nên cũng đă chạy lên xem cảnh hành hạ tù vượt ngục. Tôi không biết ai đă quật anh Tiếp ngă xuống, nhưng tôi thấy rơ Bùi Đ́nh Thi và chỉ có một ḿnh Bùi Đ́nh Thi mà thôi, nhẩy chồm tới cầm tay anh Tiếp kéo lên, rồi dùng gót chân dậm một cách điên cuồng lên ngực, lên bụng anh giữa tiếng chửi bới và cổ vũ của một lũ cán bộ.” Hơi mâu thuẫn đấy, nếu tỉnh tác giả phải nh́n thấy có phụ nữ chứ tại sao lại nghe? Đây là cách viết văn hay tác giả chưa tỉnh hẳn?
Có điều khá đặc biệt ở đây. Trại Thanh Cẩm là một trong những trại giam của Trung ương, thuộc Bộ Nội Vụ (khác với trại giam địa phương thuộc tỉnh). Mà tất cả các trại giam Trung ương đều có nội quy căn bản như nhau. Không kể các trại địa phương, tôi đă ở qua 8 trại Trung ương: Từ trại biệt giam Thanh Liệt (xà lim Bộ) đến trại “tiền trảm hậu tấu” Quyết Tiến - Hà Giang. Đây là trại mà trong thời kỳ đầu của thập niên 60. Giám thị là tên Thiếu tá Nguyễn Sáng. Số tù chết như huyền thoại. Nhất là các tu sĩ và giáo dân thuộc Thanh Nghệ Tĩnh bị quy là tù chính trị chuyển đến. Tiêu biểu có đội chuyển đến gồm 66 tu sĩ và giáo dân, lần lượt bị ghép tội vi phạm nội quy trại. Chỉ trong sáu tháng đầu đă bị cùm chết 60 người. Chết nhiều đến độ xác phạm nhân chỉ bó chiếu đem chôn, không có quan tài. Do vậy, đă may mắn có trường hợp tu sĩ Nguyễn Tín bị cùm chết, đem chôn. Không ngờ đă “đội mồ sống dậy” trên đồi “Bà Then” (tên băi tha ma của trại Quyết Tiến). Đấy là chuyện thật 100%.
Lại nữa, một cái chết khác. Nói ra đây chắc không ai tin, nhưng đó vẫn là sự thật. Cái chết kỳ bí sau nhiều ngày không ăn uống của cha Vinh. Linh mục ở nhà thờ chính ṭa Hà Nội. Một Linh mục uyên bác về mọi mặt. Việt Cộng mong muốn ngài hợp tác với chúng nó, nhưng ngài không chịu. Chúng bắt ngài đi tù và chuyển đến trại Quyết Tiến. Tên giám thị Sáng áp dụng mọi h́nh thức ác độc, vẫn không khuất phục được ngài. Khi ngài chết, thằng cán bộ trực trại c̣n biết nói với hai người tự giác đem đi chôn rằng: “Con người này nếu chết ở Hà Nội th́ cả Hà Nội đi đưa đám và Chính Phủ ta cũng phải cử người đến đặt ṿng hoa phúng điếu. Nhưng chết ở đây th́ chỉ có hai đứa mày đi đưa thôi đấy!”
Có dịp, tôi sẻ kể lại tinh thần bất khuất cùng cái chết kỳ bí của vị Linh mục khả kính này, cùng sự kiện lạ lùng đội mồ sống dậy của thầy Tín như đă nói ở trên. Tác giả gọi trại Quyết Tiến này là trại trừng giới. Nhóm của tác giả là nhóm “tử tù 48 Quyết Tiến”. Khi nhóm tác giả ở trại này, năm 77-78. Thời gian này giám thị trại là tên Thiếu tá Lăng. Y sống ở trại này rất lâu, từ lính leo đến Thiếu tá. Khi y mang “lon” (quân hàm) Đại uư th́ đă được làm chánh giám thị trại. Tính sắt máu “tiền trảm hậu tấu” của trại đă giảm dần từ khi có Hiệp Định Paris.
Rồi đến trại giam tù nam, tù nữ ở chung trong một phân trại, như trại Lam Sơn - Thanh Hóa (tiền thân là trại Lư Bá Sơ). Tôi cũng đă ở qua. Th́ mọi trại đều cấm không cho vợ con cán bộ vào trong trại. Rất hiếm cảnh cán bộ vào trong trại có việc ǵ đó nhờ vả tù, mà tay c̣n dắt thêm một đứa con nhỏ. Thường nó để con ở ngoài cổng với tên vũ trang gác. Ngay cả nhiều khi cán bộ nữ, cán bộ làm việc trên văn pḥng cũng ngại không vào trại. Có khi chỉ đứng ngoài cổng rồi gọi tù “trật tự” hay “văn hóa” ra nhận chỉ thị. Nhưng thôi, chuyện này cũng không quan trọng lắm. Cứ coi như cái trại Thanh Cẩm này (v́ có chữ “cẩm” nên có thể trại này lẩm cẩm về mọi mặt). Đàn bà, trẻ con (vợ con cán bộ) được ra vào tự tiện. Trực trại và vũ trang gác cổng không cấm cản. (Tiêu lệnh tại cổng gác cho vũ trang: Không được cho vợ con cán bộ vào trong trại giam.) Bởi bữa nay đặc biệt có cảnh hành hạ tù vượt ngục ở trong trại. Nên mấy thằng quản giáo, vũ trang đă “bảo lănh” cho cả gia đ́nh, bằng cách “dắt tay” vợ con chúng nó vào trong trại để xem. Bản tin đặc biệt này chỉ dành riêng cho trại Thanh Cẩm, c̣n các trại khác tuyệt đối không.
Trong bài báo (nguyên văn): “B.Đ. Thi vội quay trở ra cửa khu kiên giam đẩy mạnh anh Tiếp vào.”
Hơi khôi hài đấy! Cửa khu kiên giam không khóa, đă mở. Vậy mà bọn cán bộ và anh Tiếp cứ phải đợi ở ngoài. Cho đến khi trật tự Thi ra đẩy anh Tiếp vào, th́ tất cả mới được “ào” vào ư? Đọc đến đây có cảm tưởng tên Thi đă trở thành chánh giám thị trại Thanh Cẩm rồi. Nhưng thôi chuyện này không quan trọng. Mà quan trọng là tác giả xác định vào khu kiên giam, anh Tiếp vẫn c̣n sống. Có nghĩa là anh Tiếp bị đánh chết trong khu kiên giam.
Kế tiếp tác giả xác định: “Tôi không biết ai đă quật anh Tiếp ngă xuống, nhưng tôi thấy rơ B.Đ. Thi và chỉ có một ḿnh B.Đ. Thi mà thôi, nhẩy chồm tớià.”
Tác giả tự khẳng định qua va đập 12 bậc thềm, đă tỉnh hẳn rồi, đương theo dơi sự việc “nóng hổi” thế. Tác giả bỏ đi tiểu hay sao? Để đến nỗi không biết ai quật anh Tiếp ngă xuống! Tác giả khi viết đă tha hồ “mắm muối”. Tại sao chỗ này có vẻ “g̣ bó” cách biệt quá, ra vẻ ḿnh trung thực ư? Tôi không chứng kiến cảnh này. Nhưng tôi chứng kiến quá nhiều cảnh cán bộ đánh tù, nên rất dễ biết. Chính một tên công an đánh anh Tiếp ngă xuống. Một cú đấm hay một thế đá, th́ thân tàn anh Tiếp làm sao chịu nổi mà không té.
Một điều kỳ lạ lại phải nhắc đến. Vợ con cán bộ vào sân trại cũng đă không được rồi, như đă nói ở trên. Nay lại c̣n vào cả trong khu kiên giam, thật là khó tin. Bởi khu kiên giam là khu riêng biệt, là khu “ghê tởm” mặt trái của trại giam, với đầy đủ cùm xiềng trong đó. Vả lại khu kiên giam th́ nhỏ, không thể tụ họp đông được. Nhưng theo bài báo, anh Tiếp bị đánh chết giữa tiếng reo ḥ của một lũ cán bộ và vợ con chúng.
Vậy tôi cứ cho là anh Tiếp bị đánh chết ở cả hai nơi cùng tôi xác định cho thấy tầm nh́n vô lư của tác giả:
1- Anh Tiếp bị đánh chết ở khu hội trường (sân trại giam).
Tầm nh́n của tác giả từ mặt phẳng trên xuống mặt phẳng dưới. Tác giả đương nằm ở độ cao 2,4m. Bởi mỗi bậc thềm cao tối thiểu 20cm x 12bậc = 2,4m. Tác giả đương nằm bẹp ở cửa buồng, từ cửa buồng tới cạnh bậc thềm cũng khoảng 2m. Độ chênh cao của mắt trên đầu gần 20cm, để nh́n thấy được mặt phẳng dưới (sân trại) theo độ xiên. Thấy được phần lố nhố những người ở sân trại, th́ số người đó cách xa tác giả tối thiểu cũng khoảng trên 20m. Ngay người tỉnh mà cách xa như vậy với những người lố nhố vây quanh cũng c̣n không phân biệt nổi ai đánh ai, huống chi là người đang trong t́nh trạng “thập tử nhất sinh” như tác giả. Thật dễ hiểu ngay chúng ta, đời người thường gặp. Khi đứng cách khoảng 5 mét trước một đám đông độ một hai hàng người vây quanh rồi. Chẳng hạn như xem “Sơn đông măi vơ”, th́ ta cũng không thấy rơ được phía bên trong họ làm ǵ. Muốn thấy rơ ta phải tiến sát lại đám đông, đồng thời c̣n phải kiễng chân, nghển cổ may ra mới thấy bên trong làm ǵ. Vậy nếu anh Tiếp bị đánh chết ở sân trại. Tác giả không thể nào thấy rơ được như tác giả đă tŕnh bày trong bài báo.
2- Anh Tiếp bị đánh chết ngay tại khu kiên giam.
Nghĩa là cùng mặt phẳng nằm ngang với tác giả. Chung quanh anh Tiếp lố nhố cán bộ và vợ con chúng đương reo ḥ (theo bài báo). Như vậy tác giả hoàn toàn nh́n thấy qua phần dưới chân từ đám đông và phải cách xa tác giả khoảng 10 mét trở lên. V́ tác giả nghe được tiếng phụ nữ, nhưng không nh́n rơ có phụ nữ. Điều này cũng hơi phi lư, bởi sân trong khu kiên giam thường không lớn. Nếu vợ con cán bộ đă lên đây xem cảnh đánh anh Tiếp, th́ nhất định chúng sẽ đến xem tác giả nằm ngay tại căn buồng tác giả đă trốn mà cửa buồng hiện tại vẫn đương mở. Sao không thấy tác giả nói đến điều này? Và với chân cẳng lố nhố vây quanh như vậy. Chắc chắn tác giả cũng không nh́n thấy được sự ǵ xẩy ra ở bên trong đâu. Không lẽ đám đông tách ra khoảng trống đúng theo hướng nh́n của tác giả. Cũng không thấy tác giả nói đến điều này.
Thực sự, xét theo bài báo về mặt điều tra có tính cách trinh thám theo lối phân tích dấu vết và loại trừ. Giữa không gian và thời gian về bối cảnh khi vụ việc xảy ra. Tác giả cũng đă tự mâu thuẫn với chính tác giả rất nhiều. Nhưng thôi ta tạm quên đi mà xét vào ư chính.
Như đă tŕnh bày nêu trên. Qua hai trường hợp như thế với số người vây quanh ḥ reo. Tác giả không thể nào thấy được sự việc ǵ xảy ra bên trong đám đông đó. Vậy “cái ǵ” đă giúp tác giả nh́n thấy chỉ có một ḿnh tên Thi đánh chết anh Tiếp và đúng sự thật là thế. Tác giả không hề gian dối. Cùng nếu bây giờ bắt tác giả thề, “có lẽ” tác giả sẽ thề độc, để minh chứng rằng tác giả nói thật. Tôi cũng tạm cho là tác giả nói thật. Tác giả không cần phải thề. Nhưng tác giả nói thật là cái thật của một con người bị “tự kỷ ám thị”.
Tiên sinh có biết “tự kỷ ám thị” là ǵ không? Để khỏi dài ḍng, tôi kể cho tiên sinh nghe một chuyện. Đây là truyện của nhà văn trinh thám Phạm cao Củng, trên báo Ngôn Luận khoảng năm 1963, trong mục “Mỗi ngày một truyện”. Đại ư như sau:
Có một chuyên gia nghiên cứu, đă nghiên cứu ra một loại máu nhân tạo, giống như máu người thật 100%. Và ông ta cần một người để thử nghiệm thay toàn bộ máu nhân tạo vào, xem người đó có sống được không. Qua dàn xếp, một tử tội nhận làm thí nghiệm. Trong điều kiện, nếu sống anh ta được tha bổng. Bằng ngược lại, th́ coi như bị hành quyết sớm hơn hạn định mà thôi.
Người tử tội được đặt nằm trong một bồn nước ấm bằng ngang thân nhiệt ngập tới cổ. Rồi chuyên gia nói với tử tội rằng:
- “Tôi sẽ cắt mạch máu ở cổ tay anh, máu sẽ chẩy ra ḥa với nước trong bồn. C̣n nước ấm sẽ giữ cho thân thể của anh không bị lạnh khi máu trong người ra hết. Trong khi máu ra, anh sẽ cảm thấy khát nước. Tôi sẽ cho anh uống nước. Kế đó anh cảm thấy choáng váng, buồn nôn. Tôi cho anh uống viên thuốc màu hồng này (ông ta cho tử tội nh́n viên thuốc hồng ông ta đang cầm ở tay) là anh dễ chịu ngay. Sau đóàv.. v.. (chuyên gia nói thêm một loạt triệu chứng kế tiếp). Cuối cùng anh thấy ḿnh nhẹ bẫng rồi không sao thở được. Đó là lúc máu trong người anh đă chẩy ra hết. Anh chết thật hoàn toàn. Bấy giờ chúng tôi (chuyên gia) mới truyền đủ lượng máu nhân tạo vào thân thể cho anh, cùng kích thích bằng phương pháp đặc biệt để anh sống lại.”
Sau khi tử tội cho biết đă nhận hiểu tất cả những ǵ chuyên gia dặn ḍ. Chuyên gia lấy ra một lưỡi dao cạo để tử tội nh́n thấy, rồi ông ta ṃ cắt ngầm vào mạch cổ tay tử tội đă bị cột chặt với thân h́nh để tránh dẫy dụa. Tử tội thấy đau nhói ở cổ tay bởi vết cắt, sau đó máu ra từ cổ tay đỏ loang dần trong nước của bồn. Mọi cảm giác tử tội đều thấy diễn ra đúng như lời chuyên gia đă nói. Cho đến lúc toàn bộ nước trong bồn đă đỏ thẫm bởi máu chảy ra hết. Tử tội cảm thấy người nhẹ hẳn, không sao hít thở được nữa. Trạng thái ngừng thở kéo dài, khiến tử tội đi vào cơi chết. Khi vị bác sĩ pháp y xác định tử tội đă chết thật sự. Mọi người chứng kiến buổi thí nghiệm này mới bắt đầu hồi hộp lo sợ là nếu chuyên gia tiếp máu giả vào nhưng tử tội vẫn không sống lại được th́ sao? V́ lẽ đó! Mọi người không ngừng chú tâm theo dơi từng động tác của chuyên gia.
Trái với lời giới thiệu, chuyên gia đă không tiếp máu nhân tạo trong một b́nh thủy tinh để cạnh tử tội như mọi người được biết. Mà ông ta đi vặn ṿi xả cho chẩy hết nước ấm lẫn máu đỏ ngầu trong bồn. Vài bà chứng kiến đă vội lên tiếng phản đối chuyên gia rằng: -“Làm vậy, thân nhiệt của tử tội đă hết máu, lại bị lạnh th́ làm sao cứu.” Như không để ư đến lời phản đối. Chuyên gia c̣n cho rửa sạch tất cả các vết máu dính trên người tử tội (khi làm thí nghiệm tử tội không được mặc quần áo). Sau khi xác tử tội được rửa sạch sẽ. Những người chứng kiến đều ngỡ ngàng. Trên thân h́nh tử tội không hề có một vết cắt, ngay cả mạch máu ở cổ tay phải mà chuyên gia nói cắt mạch tại đó cũng không hề thấy vết cắt. Chỉ có vết bầm nhỏ, rơ ràng là vết bầm của móng tay ngắt vào. Vậy không bị cắt mạch th́ máu ở đâu loang đỏ cả bồn? Và sao tử tội lại chết?
Nhà văn trinh thám Phạm cao Củng giải thích: Đó là một nhà phân tâm học. Ông ta ngắt mạnh vào cổ tay tử tội để gây ấn tượng đă cắt mạch. Và máu đỏ loang dần trong bồn từ cổ tay tử tội chỉ là một loại hóa chất màu đỏ. C̣n viên thuốc màu hồng chính là viên thuốc bổ. Đó là thủ thuật của nhà phân tâm học. Không mất máu lại uống thuốc bổ, nhưng tử tội vẫn chết. Anh ta chết bởi “tự kỷ ám thị”.
Người mắc chứng “tự kỷ ám thị” nặng nhẹ cũng khác nhau. Có người yên trí sự việc ǵ đó, lập tức việc đó xảy ra y như thật, như ngay trước mắt họ.
Không ít trong chúng ta đă từng nghe chuyện về một bà kia túm cổ chồng đay nghiến, bù lu bù loa:
- “Ông mua xe hơi hả? À! Tôi biết rồi. Ông mua xe hơi để đi với mấy con đĩ, ông bỏ gái già này ở nhààv.. và”
Rồi bà ấy phân bua với hàng xóm:
- “Trúng số lô độc đắc (trị giá một triệu, xổ số Kiến Thiết Quốc Gia của Việt Nam Cộng Ḥa trước đây). Tôi nói ông ấy mua căn nhà cho đàng hoàng để ở. Ông ấy lại bảo ở thế này cũng được rồi, để ông ấy mua cái xe hơi. Ối dào! Lấy nhau mười mấy năm rồi. Tôi biết tính ông ấy quá mà, mua xe hơi là chỉ để đi “le” gái thôià.”
- “Ồ! Thế hai bác mới trúng số độc đắc.” Hàng xóm xúm quanh vội hỏi.
Bà ta nghe vậy! Bấy giờ mới buông tay túm chồng ra. Rồi hai tay thi nhau vuốt mồ hôi trán, trả lời đứt đoạn trong tiếng thở hổ hển:
- “Có đâuà. Đă trúng đâuà Vừa mới mua một tấm vé thôi. Tôi dự định trúng th́ mua nhà, nhưng ông nhà tôi lại nằng nặc đ̣i mua xeà”
Hàng xóm nghe vậy thở ra. Chứng “tự kỷ ám thị” là thế đó.
Người mắc “tự kỷ ám thị” nặng, thường thêm chứng “hoang tưởng”. Đó là tính cao ngạo, tự tôn quá mức về ḿnh. Cái ǵ của ḿnh cũng là nhất. Đối thủ của ḿnh là ghê gớm nhất. Việc làm của ḿnh là chưa hề ai làm được. Ḿnh là người khôn ngoan nhất, tài năng nhất, điều ḿnh biết luôn luôn khác lạ hơn thiên hạàvàvà Họ yên trí: Họ thật là người đặc biệt hơn đời như vậy đó. Nhưng trên thực tế, chuyện của họ nhiều khi cũng thường thôi. So với nhiều người khác th́ chuyện của họ có khi c̣n là điều mắc cỡ.
Xét qua bài báo của tác giả, đoạn “Gặp lại cố nhân” tức gặp tên Hoàng Thanh, cán bộ của Bộ. Nguyên văn một đoạn: “Ông ta nhếch mép cười, vẫn tiếng cười cố hữu mà tôi e ngại, nhẹ nhàng nói: “Tôi cũng định hôm nào rảnh mời anh lên để chúng ta nói lại một chút về vụ tàu Sông Hương, anh Lễ nhé!” Nói xong, ông ta bỏ đi. Không đợi tôi trả lờià.”
Tính tự tôn làm cho tác giả tự đưa cao ḿnh lên, tạo thêm vào lời đối thoại của tên cán bộ, như thể giới thiệu với độc giả rằng: “Tôi đây ghê lắm đấy. Thấy chưa! “Ông” Đại tá Hoàng Thanh của Bộ, c̣n phải nhắc đến vụ tàu Sông Hương, mà tôi là một trong hai người chủ mưu đấy.” Thật là nực cười, không có tên công an nào gọi tù đi sinh hoạt (gặp cán bộ) lại nói trước mục đích với tù đâu, và nếu nói trước mục đích cuộc gặp gỡ th́ đâu c̣n xứng đáng là một tên Hoàng Thanh nham hiểm khiến tác giả phải e ngại nữa.
Hoàng Thanh trước là trung úy phó giám thị trại giam Trung Ương số 1 (c̣n gọi là trại Phố Lu). Hoàng Thanh bị tù chính trị gọi với biệt danh “Thanh cổ c̣”. Y là một tên vô học, nhưng lại ra vẻ có học. Rất nham hiểm. Sau y được chuyển về Bộ, rồi được thăng cấp dần. Y thường đi xem xét các trại giam Trung Ương như nhiệm vụ điều hành nhân sự của Cục Quản Lư trại giam. Thường cán bộ của Bộ đều xuất thân từ các trại giam, nên nói quen miệng một cách gọi tù đi sinh hoạt. Hoàng Thanh sẽ nói:
- “Anh Lễ, chiều nay anh lên gặp tôi nhé.” Hay:
- “Có lẽ tôi sẽ gặp anh một buổi, anh Lễ nhỉ.” Hay:
- “À! Xem bữa nào rảnh, tôi sẽ bố trí cho anh gặp, nghe anh Lễ.”
Mặc dù tác giả không xin gặp nó (Hoàng Thanh), nhưng cách nói nó vẫn nói vậy. Chứ không bao giờ nó nói mục đích ra trước, để tác giả chuẩn bị, th́ làm sao nó c̣n t́m thấy được sơ hở của vấn đề nó muốn t́m hiểu ở nơi tác giả nữa.
Rồi trong bài báo, bản đăng ở báo Chính Nghĩa- Bắc Cali, có đoạn (nguyên văn):
“Trong bút kư “Tôi phải sống”. Tôi có ghi lại thật chi tiết cuộc vượt ngục đẫm máu và gây nhiều tiếng vang này.”
Đúng là tác giả mắc chứng “hoang tưởng” khá nặng. Vái trời! Cuộc vượt ngục này gây nhiều tiếng vang? Một cuộc vượt ngục không thành. Mới thoát ra từ nửa đêm đến mờ sáng, mà thoát ra cũng không hết toàn bộ số người dự định trốn, lại gây nhiều tiếng vang ư? Tiếng vang là có hai người bị chết bởi “chính” bàn tay của bạn tù đánh và bỏ đói chết (theo lời buộc tội của tác giả) ư? Hay tiếng vang là đứng đầu cuộc tổ chức trốn trại này lại là một người không hề biết ǵ về “mưu sinh” và “địa h́nh”. Thành phần nhân sự th́ gồm có: Một không quân (bạn của bầu trời, không quen rừng núi). Một pḥng II (sĩ quan văn pḥng, đi bộ chắc giỏi hơn không quân một chút). Một giáo sư (ngoài 50 tuổi), không biết liệu giáo sư đă có hiểu được khắc nghiệt của đường rừng và phân biệt nổi lá “tàu bay”(ăn được) khác lá “ngón”(ăn chết người) như thế nào không? C̣n anh Văn đau dạ dày khá nặng, đi trốn bởi lời hứa: “Sẽ nâng đỡ nhau trên đường trốn thoát.” Tác giả xem việc trốn trại như đi du ngoạn ấy. Chưa trốn trại th́ đă có người phải d́u rồi, mà vẫn cứ trốn. Quả là liều thật, đại liều! Xét cho cùng, không ai trong nhóm đủ sức (tiêu chuẩn) là thành viên của việc trốn trại: Khỏe mạnh, nhanh như sóc, giỏi mưu sinh và địa h́nh may ra mới nên việc.
Hay tiếng vang là một “hoạch định ghê gớm”, nguyên văn bài báo: “Sau khi trốn, vào rừng ẩn nấp rồi t́m cách làm bè để xuôi sông Mă đi về hướng Thanh Hóa.”
Ngay cho đến bây giờ. Tác giả cũng c̣n chưa biết nếu làm bè mà năm người ngồi lên được để không ch́m, th́ phải bao nhiêu cây tre? Và đă biết bó bè chưa? Chưa kể đă có dao chặt tre chưa? Cùng ai trong nhóm trên có đủ sức chặt hàng trăm cây tre? Rồi đi bè trên sông là để cho dân thường được chiêm ngưỡng “niềm tự ḥa của người tổ chức trốn trại tài trí” ư? C̣n nếu đi bè ban đêm th́ phải có đèn? Ai trong nhóm trốn là người thuộc các ngôn từ “lóng” có tính “giang hồ” khi hai bè gặp nhau đối đáp? Cùng trả lời lại các câu hỏi của những người trên bờ, trên thuyền? Đúng là “Lậy ông con ở bụi này”. Mọi người dân miền Bắc ở xung quanh trại giam đều mong ước bắt được tù trốn. V́ họ sẽ được trại giam đó thưởng cho gạo và đường. Thường 10 kư (kư lô) gạo và 2 kư đường giải thưởng cho dân khi bắt được một tù trốn. Chỉ chỗ ẩn nấp giải thưởng ít hơn. Bằng chứng người đàn bà chài lưới bên kia sông đă chỉ chỗ trốn của nhóm tác giả vượt ngục là v́ vậy. Ôi! Quả là những tiếng vang không nên vang tiếng!
Trên thực tế, cuộc vượt ngục nào cũng đều đáng ngợi khen. V́ trước hết đă chứng tỏ sự bất khuất. Nhưng bất khuất không có nghĩa là liều lĩnh. Với một cuộc vượt ngục mà thành phần nhân sự cùng dự mưu như vậy, th́ đáng lẽ không nên vượt ngục!
Xét một khía cạnh nhỏ: Bằng chứng ba người đă ở bờ sông Mă, khi chưa có báo động. Song vẫn không có sức dựa gịng nước mà bơi qua sông. Trên tâm lư, một người bị sức thúc ép bởi tác động quá nguy hiểm của sự trốn trại. Không thể ở lại bờ bên này, v́ là cận điểm truy lùng, dễ bị bắt lại. Mà bắt lại là cầm chắc cái chết. Yếu tố này thúc sức lực người đó sẽ tăng lên bội phần hơn b́nh thường, mà vẫn “chịu chết” không khả năng bơi qua sông được vào ngay ngày trốn đầu tiên, là đă hiểu.
Nếu xét kỹ c̣n rất nhiều sơ xót trong trách nhiệm của người tồ chức cuộc trốn trại này. Nhưng đó không phải là điều cần phân tích ở đây, mà chỉ tạm dẫn vài minh chứng để cho thấy tác giả quá hoang tưởng về sự mưu định của ḿnh cho là kỳ tuyệt.
Luôn luôn “tự tôn” và “hoang tưởng” là căn nguyên dẫn đến sự “tự kỷ ám thị” trong tác giả đă nặng lắm rồi.
Trở lại sự việc, tác giả bị lôi vào buồng để nằm đó. Thấy tên Thi đẩy anh Tiếp vàoà. Ta phải hiểu ngay, lúc bấy giờ tác giả mệt lắm rồi. Chưa hoàn hồn, lơ mơ thấy tù Thi đẩy anh Tiếp vào là đă nhắm mắt lại lo sợ cho anh Tiếp sẽ bị tù Thi đánh giống như ḿnh. Với thính lực vẫn c̣n hoạt động. Sự “lo sợ” sinh ra “tưởng tượng” thành “tự kỷ” đă “ám thị” rơ ràng, mồm một mọi h́nh ảnh hiện ra trong đầu của tác giả như mắt tường tận nh́n vậy. (Không ít trong đời chúng ta khi suy nghĩ căng thắng về một chuyện ǵ đó, thường tự đắn đo nghi ngại ḿnh: “Quái! Sao việc đó cứ hiển hiện diễn ra như thật trước mắt vậy.”)
Tác giả đă nặng mặc cảm với tên Thi nên ấn tượng càng sâu đậm: “Chết rồi, thằng Thi nó lôi anh Tiếp vào ḱa. Ối, nó đạp, nó dẫm, nó đánh anh Tiếp như thế, làm sao anh Tiếp chịu nổi. Ối, chắc anh Tiếp chết mất. Thôi đúng rồi, anh ấy kêu ḱa. Chắc con chết mất mẹ ơi! Thôi thế là anh Tiếp chết rồià” Nghĩa là tác giả tưởng tượng ra đến đâu, th́ h́nh ảnh sắp xếp rơ nét hệt như tác giả nh́n tận mắt (bằng mở mắt) thấy vậy. Nên nói tác giả nh́n sai th́ không đúng. Tác giả căi ngay, mà tác giả đúng là có nh́n. Nhưng trong cái nh́n bởi “tự kỷ ám thị” nên nó không hoàn toàn đúng với sự việc thực tế lúc bấy giờ. Thực tế là bọn công an đă bề hội đồng đánh chết anh Tiếp (c̣n trật tự Thi nếu có, th́ cũng chỉ liều ăn có được vài cú như đă ăn có với chính tác giả). Bọn CA, tự chúng biết điều đó.
Tôi tin anh Tiếp là một quân nhân, đă hiểu và giữ vững vấn đề ố B́nh thản và chỉnh tề trong những trường hợp khó khăn là trang sức của người quân nhân - Nên dù bị đánh té xuống lộn lên, nếu c̣n đứng được. Anh vẫn đứng để tỏ khí phách của ḿnh. Tôi không tin anh Tiếp đă kêu lên “thật to” “chắc con chết mất mẹ ơi” (nguyên văn của tác giả). Đành rằng kêu lên cũng chẳng sao. Nhưng một người đủ khí phách như tôi đă phân tích ở trên. Th́ chắc chắn những h́nh ảnh sống động về những người thân yêu sẽ vụt hiện đầy đủ trong kư ức ở những giây phút ngắn ngủi gần khi nhắm mắt ĺa đời. Chứ anh Tiếp không bật thành tiếng nói đâu. Chúng ta phải hiểu: “Càng oan nghiệt bao nhiêu, th́ người dũng khí càng nghiến răng chặt bấy nhiêu.” Nhân vật Từ Hải trong tác phẩm “Kim Vân Kiều”. Nguyễn Du Tiên Sinh đă để cho “chết đứng” là bởi Nguyễn Tiên Sinh nắm rất vững về tâm lư này.
Nói tóm lại, toàn bộ như đă tŕnh bày nêu trên. Trong bối cảnh như vậy. Tôi đặt “giả dụ” là tên Thi “thật sự” đă đánh chết anh Tiếp, th́ chính tác giả cũng không thể nào “xác định” được. Vậy mà tác giả “dám” khẳng định khá t́nh tiết sự việc th́ càng chứng tỏ sự việc đó không hề có!
XÉT VỀ CÁI CHẾT CỦA ANH VĂN.
C̣n về cái chết của anh Lưu thành Văn th́ quá dễ hiểu. Hoàn toàn bởi bọn công an đă áp đặt trong chế độ khắc nghiệt của nhà kỷ luật, lấy lư do mà tác giả Lm Nguyễn hữu Lễ đă “trợ giúp” làm nguyên nhân. (Sự trợ giúp này là lỗi bởi tác giả non nớt, yếu kém. Nhưng dầu sao đó cũng là nguyên nhân chính.)
Tôi sẽ lần lượt bàn đến từng phần.
- Trước hết, luật các trại giam Trung Ương nào cũng vậy. Một người tù đương ăn cháo ở dưới làng (ở các đội, ở kiên giam). Khi phạm lỗi ǵ đó bị thi hành kỷ luật (cùm một chân suốt ngày đêm, trại giam Quyết Tiến có thời gian c̣n cùm cả hai chân). Lập tức tiêu chuẩn cháo bị cắt, để ăn theo tiêu chuẩn kỷ luật. Đây cũng là h́nh thức để những người tù v́ bệnh lư phải ăn cháo tự biết mà tránh vi phạm nội quy trại. Tác giả xác định anh Văn có tiêu chuẩn ăn cháo thay chất độn (ngô, khoai, sắn, bo boà). V́ lư do đau dạ dày khi c̣n ở kiên giam. Rồi tác giả cho rằng anh Văn vẫn c̣n được tiêu chuẩn cháo khi bị kỷ luật. Có lẽ đây là lần đầu tiên tác giả bị cùm ở trại giam Trung Ương, nên mới không biết điều này.
- Thứ đến, trật tự trại không có quyền cho ăn cháo (nhất là lại bị kỷ luật v́ lư do trốn trại, một h́nh thức vi phạm nội quy trại nghiêm trọng nhất). Muốn được ăn cháo (lại), chắc chắn phải xin cán bộ (trực trại, giáo dục hay giám thịà). Do vậy tới bữa ăn, nếu không thấy cán bộ vô. (Thường cán bộ trực trại, khi vào mở khóa các buồng kỷ luật để cho ăn. Nó thường giao ch́a khóa cho trật tự, c̣n nó đứng lảng vảng ở ngoài tránh mùi hôi thối từ các buồng kỷ luật xông ra.) Anh Văn có thể nói với tên Thi trật tự đại để:
- “Nhờ anh bá cáo giùm với cán bộ cho tôi xin ăn cháo. Anh biết đấy, tôi bị đau dạ dày nặng. Trước ở kiên giam tôi vẫn đương ăn cháo mà.”
Qua một hai ngày vẫn chưa gặp cán bộ, vẫn nhờ tên Thi bá cáo như vậy, mà vẫn chưa được ăn cháo. Th́ anh Văn phải bá cáo to (tiếng) khi tới giờ đưa cơm, đai để:
- “Bá cáo cán bộ cho tôi được gặp.” Hay “bá cáo cán bộ, tôi xin gặp cán bộ”. (Tên Thi có ác cũng không dám cản hoặc đánh anh Văn khi thấy anh ấy hành động vậy, v́ đó là “quyền” của người tù.)
Nhưng cũng có khi cán bộ giao ch́a khóa cho trật tự, c̣n nó vẫn đứng ở ngoài cổng trại nên không nghe thấy (nhưng trường hợp này rất hiếm), nếu thế anh Văn lại nhờ tên Thi tiếp:
- “Nhờ anh báo với cán bộ trực trại, tôi xin gặp cán bộ.”
Tên Thi có gan cùng ḿnh cũng không dám từ chối lời đề nghị này. Bởi lẽ sau này, anh Văn gặp cán bộ nói có nhờ tên Thi chuyển lời, mà cán bộ lại chưa nghe tên Thi báo lại. Th́ tên Thi chỉ có nước thác. Nhưng trên thực tế tâm lư, những tên bợ đỡ chủ luôn bá cáo cho chủ đầy đủ những chi tiết nó nghe thấy được. Chắc chắn tên Thi sẽ nói lại lời của anh Văn vào ngay lúc trả ch́a khóa cho cán bộ. Thế rồi vẫn chưa được gặp, th́ anh Văn cứ tiếp tục bá cáo to vào các bữa kế tiếp cho đến khi nào gặp được th́ thôi.
Hay đến ban đêm, khi bọn cán bộ vũ trang gác đi vào khu kỷ luật kiểm tra. Anh Văn phải nhờ vũ trang và trong trường hợp này phải xin gặp cán bộ giáo dục. Một mẫu bá cáo thí dụ:
- “Bá cáo cán bộ, hai bữa nay cán bộ trực trại không vào. Tôi có nhờ anh trật tự Thi, nhưng chắc anh ấy không chuyển lời. Vậy xin cán bộ bá cáo giùm. Tôi xin được gặp cán bộ giáo dục.”
Nghe thế, tên vũ trang buộc phải ghi lời này vào sổ gác ngoài cổng trại. Vậy mà anh Văn vẫn chưa được gặp cán bộ để xin ăn cháo. Th́ đến đêm thứ ba hay thứ tư, người cùng buồng với anh Văn (anh Văn rất may là có người bị cùm cùng buồng) có trách nhiệm “bá cáo cấp cứu”. Anh Văn phải giả bộ nằm xỉu như gần chết (có thể áp dụng cả ban ngày). Người cùng buồng sẽ hét to đại để:
- “Bá cáo cán bộ, kỷ luật có người cấp cứu.” Hay:
- “Bá cáo cán bộ, kỷ luật buồng 3 (4,2) có người cấp cứu.”
Hét to lên nhiều lần cho đến khi cán bộ vô. Như vậy vẫn chưa được th́ đợi vài tiếng đồng hồ sau, hét lớn:
- “Bá cáo cán bộ, kỷ luật có người chết.” Với cách này là được gặp.
Nói chung, có rất nhiều cách để gặp được cán bộ, các cách trên chỉ là mấy cách tiêu biểu.
Tôi đặt những t́nh huống trên, để chúng ta cùng nhau hiểu rằng: Một người tù bị kỷ luật muốn xin gặp cán bộ để tŕnh bày (hay khai báo thêm) một vấn đề ǵ đó, th́ cũng không khó.
Chứ c̣n, chúng ta phải hiểu. Tính chất vụ vi phạm nội quy trốn trại mà thành phần nhân sự lên đến 5 người đối với một trại giam th́ rất nghiêm trọng. Do vậy, ngay một hai ngày đầu tiên. Cán bộ trực trại phải vào trực tiếp liếc qua (kiểm tra): Suốt, khóa và móng cùm trên chân những người đă trốn trại. Cũng trong liền mấy ngày đầu này, các thành viên trong vụ trốn trại sẽ bị cán bộ liên tục gọi lên hỏi cung về vụ việc.
- Ai chủ mưu?
- Ai vạch kế hoạch trốn?
- Âm mưu tự bao giờ?
- Tổ chức thế nào?
- Số người tham dự?
- Có ai tiếp tay (trong và ngoài trại) với không?
- Có định cướp súng (giết) cán bộ không?
- Trốn ra ngoài rồi đi đâu?
- Tại sao lại trốn?
àvàvà
Bọn công an sẽ xét hỏi theo nghiệp vụ để t́m hiểu, rút kinh nghiệm quản lư cùng đề pḥng tốt hơn.
Nên chắc chắn anh Văn và người cùm cùng buồng là anh Tiếu đă có gặp cán bộ trong mấy ngày đầu này. V́ hai người cùng chung một vụ. Đương nhiên anh Văn khi gặp cán bộ phải xin cho ḿnh được ăn cháo. Anh Tiếu khi gặp cán bộ th́ xin giúp cho anh Văn trên danh nghĩa đồng phạm cùng buồng hiểu rơ bệnh tật của nhau. Vậy mà anh Văn vẫn không có cháo ăn, tức là do cán bộ không cho ăn. Chứ nếu cán bộ đồng ư, th́ các “vàng” tên Thi cũng không dám không cho ăn.
Câu nói của tên Thi (mà tác giả ghi lại trong bài báo)? “Cho ăn cháo để chúng mày lấy muối trốn trại à? Không ăn sắn được th́ chết.” Tôi cho là tên Thi có thể nói câu này. Nhưng với nghĩa là tên Thi biết cán bộ không cho anh Văn ăn cháo nên nói “mẽ” theo. Đây là tội “vạ miệng”. Chứ không phải nghĩa là tên Thi có quyền cho ăn hoặc không cho ăn cháo.
Trong bài báo tác giả viết: “Khi gánh cháo lên tới khu kỷ luật, anh ta “đá” cháo đi, bắt anh Văn ăn khoai hay sắn.” Ai xác định? Ai dám xác định tên Thi đă đá cháo của anh Văn đi? Chế độ Cộng Sản là chế độ “dạ dày trị”. Không ai dám phí phạm thực phẩm như thế đâu! C̣n nếu nói vậy, cho tới khi anh Văn chết, theo tác giả là 10 ngày. Thi đă đổ 2x10=20xuất cháo. Đồng thời “ăn gian” lấy tổng số chất bột riêng của những người kỷ luật, bớt ra chia thêm cho anh Văn. Quả thật có như thế, mà những người bị kỷ luật vẫn để cho tên Thi hành động. Th́ đây đúng quả là những ông “Bụt” bị đi kỷ luật. Thật là tội nghiệp. Bởi nếu tên Thi đổ cháo của anh Văn, mọi người bị kỷ luật không lên tiếng, “bởi” sợ, “bởi” không phải việc của ḿnh. Nhưng khi tên Thi đă lấy chất bột chung của kỷ luật (đă ấn định cân theo tiêu chuẩn từ nhà bếp) chia thành thêm một suất nữa (cho anh Văn) th́ tức là chạm vào xương máu của những người bị kỷ luật rồi. Vậy mà không kêu ca, phản ảnh với cán bộ th́ chỉ có là “Bụt” mới hiền từ như vậy!
Tôi đặt thí dụ để hiểu rơ thêm: Nếu kỷ luật có 8 người, mỗi người mỗi bữa được 2,5 lạng cơm (hay chất độn ngô, khoai, sắn ). Th́ nhà bếp sẽ cân 2,5x8= 2kg (kư lô gram) vào một xoong và viết lên xoong đó hàng chữ số: KL8 (kỷ luật có 8 khẩu phần). Nếu có một người được ăn cháo, th́ nhà bếp sẽ đề: KL8-1cháo (hay KL7+1cháo). Như thế số chất bột trong xoong sẽ chỉ c̣n 2,5x7=1,75kg. Bây giờ tên Thi đổ cháo của anh Văn đi và chia số chất bột của 7 người ra thành 8 người. Tiêu chuẩn của người kỷ luật đă quá ít, lại bị cắt xén như vậy. Người kỷ luật nào biết được, mà vẫn cứ im không lên tiếng. Ôi! Đúng là ông “Bụt”. Sự thực một người kỷ luật mà biết vậy. Lập tức phải báo cho những người cùng khu kỷ luật biết, rồi cùng nhau lên tiếng phản ảnh với cán bộ trực trại. ố Thứ nhất tự cứu ḿnh không bị cắt xén trong một mức tiêu chuẩn đă chết đói (quá ít) rồi. ố Thứ hai kêu lên như vậy là tự nhiên lật ra sự gian dối của tên Thi, đồng thời cứu được anh Văn không bị tên Thi cúp cháo nữa. Một việc làm “nên làm” mà các “Bụt” không chịu làm. Th́ chỉ có Trời mới hiểu!
Nói cho cùng, một người bị kỷ luật rất dễ gặp cán bộ bằng nhiều cách như đă nêu. Chưa kể bất thường cán bộ giáo dục, giám thị vào xem xét kỷ luật. Đương nhiên anh Văn phải bá cáo về cháo, tên Thi chỉ có nước treo cổ nếu thực sự nhà bếp vẫn cung cấp (có tiêu chuẩn) cháo cho anh Văn. Tên Thi không điên ǵ đi làm điều đó. Hay sau khi anh Văn chết. Người cùm cùng buồng với anh Văn thế nào cũng bị cán bộ hỏi nguyên nhân cái chết. Vậy nếu tên Thi tự ư không cho ăn, tên Thi sẽ không được CA tha cho đâu.
Nhưng phải nói cho đúng, hầu như việc anh Văn khó khăn được cho ăn cháo khi bị kỷ luật. Nguyên nhân chính là “từ tác giả”. Chính tác giả đă thừa nhận gói muối có được là do nhờ anh Văn ăn cháo dành dụm mà ra, để dùng vào việc mưu sinh khi trốn trại đă được khám thấy trong túi tác giả (đó là nguyên nhân chính). Nhưng sao tác giả không áy náy lương tâm, viết lướt qua coi như không có ǵ ở cái lỗi “khổng lồ” của ḿnh.
Ta trở lại ngay hiện trường vụ việc để xem tác giả trả lời tên công an xét hỏi thế nào?
Cán bộ trại giam sẽ hỏi cung ngay lập tức khi bắt lại được các thành viên trốn trại. Mẫu câu hỏi về gói muối trực tiếp với tác giả:
- “Anh Lễ, gói muối này ở đâu mà anh có?”
Tác giả sẽ trả lời:
- “Thưa cán bộ, gói muối này là của anh Văn ạ!”
Cán bộ lại hỏi tiếp:
- “Ai cho (hay làm sao, hay lấy ở đâu) mà anh Văn lại có nhiều muối như vậy, hở anh Lễ?”
Tác giả sẽ phải trả lời:
- “Thưa, muối này là do anh Văn ăn cháo dư ra mà có.”
- “Sao anh Văn lại phải ăn cháo?”
- “Thưa, anh ấy bị đau dạ dày ạ.”
- “Có thật anh ấy bị đau dạ dày không?”
àààà..
Và đương nhiên, sau khi hỏi cung tác giả xong, cán bộ sẽ chỉ trích nhà bếp. Ngay ngày hôm đó, tất cả mọi người tù mà được ăn cháo sẽ bị nhà bếp cho ít muối đi (hay cho ăn nước muối thay v́ muối hạt) để tránh t́nh trạng tích trữ muối. Đồng thời bọn công an sẽ suy diễn về anh Văn: “Thành phần phục quốc, giả vờ đau dạ dày, khai ăn cháo để lấy muối trốn trại.” Sự suy diễn của bọn công an về một hành động ǵ đó của người tù th́ luôn luôn nặng nề và thêm tội. Với lối suy diễn như vậy, việc anh Văn muốn được ăn cháo lại đương khi bị kỷ luật th́ rất là khó khăn. Phải tích cực liên tục xin cán bộ may ra mới được, chứ không đơn giản như cách viết của tác giả trong bài báo.
Vậy đă quá rơ ràng, anh Văn không được cán bộ xét cho ăn cháo chính v́ gói muối mà tác giả đă dấu trong người. Song tác giả lại không chịu hủy (thủ tiêu) gói muối trước khi bị bắt. Nên buộc tác giả phải khai ra gói muối đó của ai, cùng làm sao mà có được số muối đó. Biết vậy, tức th́ bọn cán bộ phải chặn ngay nguồn cung cấp. Do đó, việc ăn cháo cùng đau dạ dày của anh Văn, qua lời khai cùng tang chứng mà tác giả vẫn c̣n giữ, ngang nhiên biến thành “tai họa”. Từ đó suy ra. Chúng ta thấy tác giả không có chút đảm lược. Nói là chuẩn bị kỹ càng, nhưng thực tế rất cẩu thả. Không hề biết lường t́nh huống. Nếu bị bắt lại th́ phải khai báo thế nào, cùng phải hủy ngay những ǵ để cho ḿnh được nhẹ tội đi, hay để tránh liên lụy đến người khác. Khi bị bắt là đương ở dưới sông và biết chắc là ḿnh (tác giả) sẽ bị bắt. Vậy đảm lược để đi đâu mà cuống quưt lên, không chịu vất gói muối ố nước và muối chung nhau ố rất dễ phi tang. Một việc nhỏ vậy mà không xong, chỉ được cái đổ lỗi cho người khác là tài thôi. Không bao giờ chịu phục thiện nhận lỗi về ḿnh.
Ta hăy xem thí dụ (mà thực tế cũng tương tự): Có hai anh tù A và B chơi rất thân với nhau. Nên khi anh tù B kiếm được một đoạn sắt, mài thành mũi nhọn với ư định để đâm cán bộ th́ anh tù A cũng biết. Thay v́ im lặng để sắp được vui v́ có một thằng cán bộ sẽ bị giết. Th́ ngược lại anh tù A lại đem chuyện này ra tố cáo với cán bộ, chỉ chỗ dấu đoạn sắt mũi nhọn của anh tù B. Lập tức anh tù B bị mang ra xét xử và bị xử bắn v́ tội “mưu sát cán bộ có vũ khí bén nhọn”. Qua câu chuyện trên, chắc chắn ai trong chúng ta cũng cùng chung một kết luận: “Chính anh tù A đă giết anh tù B.”
Vậy sao trong trường hợp của tác giả, tác giả lại tự loại trừ ra. Chính tác giả cầm gói muối, chính tác giả lại khai ra chủ nhân của nó. Đành rằng tác giả không chủ trương tố cáo, mà đó chỉ là bởi sự kém cỏi trong lúc hành động khiến dẫn đến vụ việc. Nhưng nếu với một người có tinh thần trách nhiệm cao, khi sự việc sẩy ra như vậy. Th́ suốt đời họ áy náy lương tâm, luôn tự trách ḿnh v́ sơ suất, yếu kém khiến gây nên cái chết cho bạn ḿnh. Chứ không bào biện như tác giả. V́ nếu tác giả hủy gói muối. (Tác giả đủ thời gian và điều kiện. Tại sao tác giả lại không làm điều này?) Th́ cho dù tác giả cố t́nh buộc tội tên Thi là “có quyền” cho hoặc không cho ăn cháo, th́ tên Thi cũng không thể lấy đâu ra lư do để không cho anh Văn ăn cháo. Huống hồ (tôi muốn nhắc lại) điều chắc chắn muốn được ăn cháo ở kỷ luật là phải do chính cán bộ giải quyết. Việc thấy được gói muối trong người tác giả cộng với lời khai báo khiến cán bộ có cớ quyết định trừng phại không cho anh Văn ăn cháo là v́ vậy.
Nói chung, tác giả rất luộm thuộm trong hành sử. Nhưng lại hoang tưởng tự măn ḿnh là hay. Những việc thường thường cứ cố tạo thành ghê gớm. Cách ví von chả giống ai. Lần tắm thứ nhất, tác giả chỉ có mảnh vải nhỏ che thân. Tại sao tác giả lại không ví rằng: Tác giả đương đeo “khố” như h́nh ảnh truyện xưa “Trần Minh khố chuối” để khiến độc giả dễ đồng cảm cho cảnh đời thê lương đầy đau thương của tác giả hơn. Mà tác giả lại đi ví tác giả mặc “bikini” làm dễ mường tượng ra cảnh ngồ ngộ: Một anh chàng “đực rựa” mặc đồ tắm của “chị em” đi lơn tơn trên bờ sôngà Khiến độc giả dễ ph́ cười hơn là dành cho niềm xót thươngà. Về nội quy trại giam cũng vậy, biết Thi là tên nguy hiểm ( với tác giả) rồi. Thế mà khi đi tắm nhận được cái khăn trắng to đẹp lại không khéo léo dấu đi, đem ra phơi cho nó (Thi) nh́n thấy. Biết ḷng dạ nó rồi, biết sự tích cực trong nhiệm vụ (bá cáo ngay mọi vi phạm nội quy của các phạm nhân trong trại) của nó rồi, thế mà lại c̣n đi bày khăn ra trước mặt nó và mọi người (những người kỷ luật đi tắm hôm đó) cùng thấy. Chắc để tự “vênh váo”, ta (tác giả) mặc “bikini” đương nhiên ta phải có khăn tắm đẹp để phơi chứ. Nó không bá cáo, th́ nó lại sợ kẻ khác bá cáo nó cũng chết. Nên đừng vội trách nó, hăy tự trách ḿnh (tác giả) quá “ngố”. Và thật tội nghiệp người đă tiếp tế cho tác giả cái khăn. V́ nếu tiếp tế vào một người có chút “khôn lanh” th́ đâu đến nỗi bị đ̣n “oan”.
Rồi đến việc đổi áo lấy giẻ chùi đít, th́ cứ nhận. V́ đâu có phải đổi lấy thuốc lào, cơm, cháo ǵ mà lo. Vậy mà khi hỏi đến th́ cứ ú ú, ớ ớ. Trả lời không hợp lư, khi đối cung ḷi ra gian dối. Gây sự tức tối, tạo cớ cho kẻ thù đánh, để rồi kêu “nợ đời chưa dứt”. Bởi sự thiếu khôn ngoan. Tác giả tự tạo “nợ” cho tác giả, chứ có ai đưa “nợ” đến cho tác giả đâu, mà tác giả kêu “chưa dứt”. Tóm lại, đọc qua bài báo của tác giả. Ta thấy tác giả tù đến năm thứ 4 rồi mà vẫn cứ “lơ mơ” như người “say thuốc lào”, chẳng hiểu ǵ về nội quy kỷ luật của trại giam. Cách hành sử của tác giả thật yếu kém, dở dở ương ương.
Tôi không biết cách hành xử “nửa dơi, nửa chuột” c̣n kéo đến bao giờ trong cuộc đời của tác giả. Nhưng chắc chắn nó đă kéo đến ngày hôm nay, của năm 1996. Thật là ghê tởm cho những con người chỉ muốn cố giành phần thắng về ḿnh. Đă tự “nhổ” vào lương tâm ḿnh một cách trắng trợn. Đă quên đi rằng: Hành động của ḿnh chính là đương tự bêu xấu, tự lên án ḿnh (tác giả). Thật là hay, có vậy mới tỏ tường: “Hễ kẻ gian th́ thường dấu đầu ḷi đuôi.”
Tác giả nói trong bài báo, nào là:
- Tha thứ nhưng không có nghĩa là che dấu sự thật.
- Tâm tôi đă trở lại an b́nh từ lâu rồi.
- Viết bài này không có tính cách trả thù. àvàvà
Ai trong quư độc giả tin rằng bào báo này viết là không phải để trả thù? Những độc giả nào không tin vào cách nói của tác giả. Tự hiểu thầm rằng bài báo này: - Thứ nhất, tác giả muốn “tự nổi”. - Thứ hai, để trả thù tên Thi. Th́ thôi, tôi mong đừng đọc tiếp nữa. Để giảm bớt hiểu biết về sự “không trong sáng” của tác giả. Để ḷng ḿnh với tác giả không quá nặng nề và xa cách. C̣n độc giả nào tin vào lời của tác giả, hăy đọc tiếp. Để hiểu rằng ḿnh đă nhẹ dạ, để từ đó cẩn thận với lời người đời hơn.
Bài báo “Một vấn đề của lương tâm” chính là một bài viết có tính cách “trả thù” tên Thi, dành riêng cho cá nhân tác giả. Do vậy, bài báo không vô tư, đă lồng ư riêng. Không thể tha thứ được. Đây là tṛ “miệng nam mô, bụng bồ dao găm”.
Ta hăy xét đoạn văn trên báo SaiGon Nhỏ (nguyên văn): “Khi mấy tên cán bộ vơ trang định nhẩy vào đánh anh Tiếp, tên Thiếu úy Lăng phụ trách về an ninh đă gọi gật lại và bảo: “Để cho chúng nó thanh toán nhau”. Họ muốn bắt chức Philatô ngày xưa để nói. “Ta vô tội trong việc giết những người này, các anh cứ xử sự với nhau”à.”
Tại sao đoạn này ở tuần báo Chính Nghĩa lại không có? Báo Chính Nghĩa đăng trước vừa xong đúng hai tuần th́ tuần báo SaiGon Nhỏ khởi đăng. (Hăy xem bản copy đính kèm giữa hai báo, để thấy rơ cách lồng khéo của đoạn văn trên trong báo SaiG̣n Nhỏ.) Quả thật nếu đúng tên Thiếu úy Lăng nói vậy, th́ đó là bằng chứng xác đáng, cụ thể nhất để khẳng định tên Thi đă giết anh Tiếp. Không cần phải nói nhiều nữa.
Ôi! Tác giả đă quá trắng trợn với tâm ḿnh để bịa thêm lời này. Bởi lời trên là yếu tố quan trọng nhất, mạnh hơn, sâu đậm hơn. Không thể phai mờ được trong tâm tưởng của tác giả. Chắc chắn hơn cả tiếng kêu cuối cùng của anh Tiếp: “Chắc con chết mất mẹ ơi!” Vậy mà sao lời trên trong bản báo Chính Nghĩa lại chưa có? Lời trên chính phải như h́nh với bóng, luôn trên cửa miệng tác giả mỗi khi kể lại câu chuyện này. Luôn canh cánh bên ḷng tác giả y như mỗi khi trái gió trở trời, tác giả đau ḿnh đau mẩy là nhớ đến tên Thi. Sao lại có thể quên không nêu ra từ kỳ đăng trước (báo Chính Nghĩa) mà phải đến kỳ đăng sau (báo SaiGon Nhỏ). (Sự thực đọc qua bài báo. Ta thấy rơ ràng bọn công an gây cho tác giả cả trăm phần, tên Thi gây chưa đáng một. Nhưng mỗi khi suy tư hay vấn vương. Tác giả chỉ nhớ đến tên Thi, c̣n bọn công an tác giả không hề nhắc là đă hiểu ư tác giả rồi.)
Âm mưu nào? Thói xấu nào? Khiến tác giả phải thêm ra “lời thắt tội” này. Để xác định vững chắc bọn CA đồng ư cho tên Thi “thanh toán” anh Tiếp. Nhân chứng nào nữa đây, khi tác giả khẳng định là người duy nhất chứng kiến. (Không cần tác giả khẳng định. Ta cũng dư biết rằng, thông thường mọi trại giam. Phát hiện tù trốn vào ngay sáng sớm như vậy, th́ không một đội lao động nào được rời khỏi buồng giam. Trừ trật tự trại mà thôi, c̣n lập tức các đội bị điểm danh ngay tại buồng, rồi khoảng 9 - 10 giờ đội cấp dưỡng mới được xuống bếp nấu ăn trưa cho trại.) Và tất cả độc giả đều hiểu. Lời trong đoạn trên là chi tiết chứng cớ quan trọng nhất để buộc thêm phần chắc chắn tội trạng của tên Thi.
Do đó ta hiểu rằng, theo biện chứng: “Một câu chuyện nói là có thật (sự thật), mà người kể lại (tác giả) c̣n phải tạo thêm (bịa ra) t́nh tiết (chứng cớ) để “củng cố” sự thật đó, th́ đó chính là chuyện “không có thật”. “Một vấn đề của lương tâm” không c̣n là sự thật, th́ ắt là đă có “dă tâm”. Mà đă dă tâm th́ chắc chắn chỉ là mục đích “trả thù”. Đă trả thù th́ tất phải có ḷng “oán”. Oán sinh ra “hận”. Hận là cớ để “lập mưu”. Lập mưu là ư “không tha thứ”. Đă không tha thứ th́ đâu có “ḷng nhân”. Người không có ḷng nhân th́ đừng bao giờ nói chuyện “nhân nghĩa”. Bởi nhân nghĩa không dung túng “thủ đoạn”. Thủ đoạn chỉ là kẻ “tiểu nhân”. Lời xưa dậy vậy!
Cùng không từ mọi thủ đoạn, tác giả đă đặt bụng tác giả vào bụng bọn công an bẩn thỉu, tồi bại, vô nhân đạo để “suy bụng ta ra bụng người” mà hiểu được ư bọn công an rằng (nguyên văn): “Họ (công an) muốn bắt chước Philatô ngày xưa để nói: “Ta vô tội trong việc giết những người này. Các anh cứ xử sự với nhau.””
Ôi! Trời đất quỷ thần ơi! Tác giả uống nhằm cái thuốc chi? Sao liều lĩnh vậy. Sao dám đi lấy sự kiện cả thể, vĩ đại xưa ví vào chuyện đời thường này? Sao gây chi nhiều trái ngang vậy? Mấy thằng công an “đểu” này (tên Thiếu úy Lăngà.) làm ǵ chúng nó hiểu được ư nghĩa lời để “rửa tay” của Quan Philatô ngày xưa? Sự thực những người tù trốn trại bị chúng nó đánh chết vẫn là chuyện thường dưới một chế độ Cộng Sản tàn bạo trên toàn các trại giam Miền Bắc. Người ḿnh bị đánh chết, th́ đương nhiên ḿnh phải xót thương căm hận. Chứ chúng nó đâu có lo lắng ǵ. Có chết đến hết số người tù trốn hôm đó, chúng nó vẫn ăn ngon ngủ kỹ mà. Đâu chúng nó có màng đến chuyện lo “rửa tay” theo kiểu Philatô. Chỉ có thằng cán bộ hộ tịch làm giấy khai tử là cắn bút một chút để lấy lư do chết cho mỗi mạng sao cho có lư một tư mà thôi.
Rồi như người húc đầu vào tường, tác giả “liều” viết thêm (nguyên văn): “Họ (công an) không muốn lănh tiếng xấu là đă đối xử hung ác đối với các tù nhân chính trị mà luôn luôn họ tuyên bố sẽ được đối xử khoan hồng bằng cách trao trách nhiệm cho anh (tên Thi).”
À! Ra bây giờ (cuối bài báo, phần kết) tác giả cũng đă hiểu là bọn công an không muốn lănh tiếng xấu. Thôi được, vậy th́ chúng nó đợi tên Thi đánh anh Tiếp chết xong là chúng nó liền đem tên Thi ra xử. Bởi phải xử tên Thi th́ cộng luận trong trại, ngoài trại và cả xă hội mới biết. Chứ không xử, im ĺm, chỉ nghĩ trong bụng lời rửa tay th́ chúng nó vẫn bị mang tiếng xấu (giết anh Tiếp). V́ chẳng ai biết, duy có ḿnh tác giả. Hoặc giả, chúng nó phải để tác giả, đứng trước toàn thể tù trong trại. Nói minh chứng hộ cho chúng nó rằng: “Thưa các anh em trại viên. Tôi tên Nguyễn hữu Lễ, thật sự thấy anh Bùi đ́nh Thi đă đánh chết anh Tiếp, chứ không phải các cán bộ đă đánh chết. Tôi xin thề đó là sự thật. Tôi xác định điều này, để chúng ta không bao giờ hiểu lầm về đường lối và chính sách của Đảng và Chính Phủ.” Nhưng không hề thấy tác giả nói đến là tác giả đă “được” làm điều này. Vậy th́ lời rửa tay của chúng nào có tác dụng ǵ (vô nghĩa). Tác giả thật mâu thuẫn.
Chính v́ cố gắng gượng ép, đặt điều, nâng cao quan điểm. Nên tác giả đă phạm một tội khó mà tha thứ được. Với chức vụ của tác giả. Tác giả phải hiểu hơn ai hết về vụ xử án Chúa Cứu Thế (Đức Chúa Giêsu) là sự kiện cả thể vĩ đại. Độc nhất vô nhị. Không bao giờ có sự kiện tương tự để so sánh. Chỉ riêng xét một khía cạnh nhỏ:
- Người xử là Quan Philatô, biết rơ Chúa Giêsu vô tội với đương quyền thời đó. Hoàn toàn vô tội về mọi mặt. Nên không muốn giết, nhưng cũng không thể nào cản được sự đ̣i hỏi đóng đinh Chúa của đám đông dân chúng thời bấy giờ. Do đó, Quan đă tuyên bố như vậy để “trốn tránh trách nhiệm” (rửa tay). Quan Philatô “không chọn” người giết.
- C̣n tên Thiếu úy Lăng là tên Cộng Sản, quản lư tù. Khác anh Tiếp người của Quốc Gia Tự Do, tù trốn trại. Rơ ràng đối nghịch. Và cứ dựa theo cách nói của tác giả, th́ tên Lăng đă là muốn anh Tiếp chết bởi tên Thi đánh. Hành động của nó (Lăng) chỉ là cản không cho bọn cán bộ vũ trang cùng đánh với tên Thi. Nó đă “thi hành trách nhiệm”. Nó “chọn” người giết.
Qua phân tích trên cho thấy, sự việc giữa Quan Philatô và tên Thiếu úy Lăng hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả “liều” nặn thành tương tự. Thật là một “trọng tội”.
Nói về tác giả như thế là đủ rồi ư? Vâng, tạm đủ. Nếu c̣n cũng chỉ là những nỗi buồn.
Tôi không muốn nhắc lại mấy câu diễn văn, tuyên bố của ông Bush và cô Ngoại trưởng Rice, sợ làm những cựu công dân Việt Nam Cộng ḥa và những người Việt yêu tự do dân chủ trong nước xấu hổ, đau ḷng.
Chỉ có một thành tích nâng bi đạt mức thượng thừa của Tổng thống Bush, cần ghi lại để những bồi bút chuyên nghiệp danh tiếng lẫy lừng của nước ta trước đây phải quằn quại trong mồ v́ ghen tức: Ông Bush cắt xén lịch sử, xuyên tạc sự thật để nịnh "Vietcong".
Hai kư giả David E. Sanger và Helene Cooper tường thuật rằng: Khi xe đi ngang qua hồ Trúc Bạch, ông Bush nhớ lại chuyện 40 năm trước phi cơ của thượng nghị sĩ John McCain, (ngày đó là phi công của hải quân Mỹ), bị bắn rớt, John McCain nhảy dù xuống hồ, bị bắt giam, ông bùi ngùi nói:
"He (McCain) was, litterally, saved, in one way, by the people pulling him out,"
Chuyện "John McCain rơi xuống hồ Trúc Bạch" ngắn lắm, không kéo dài quá vài giờ, ghi lại cũng chỉ năm ba ḍng: "Phi cơ trúng đạn pḥng không, phi công McCain nhảy dù, rơi xuống hồ Trúc Bạch. Vietcong lôi cổ tên giặc lái lên, dùng bayonet đâm mấy nhát vào chân, và dùng báng súng phang gẫy nát xương vai, rồi khiêng về Hỏa Ḷ giam mút mùa, thỉnh thoảng tra tấn nữa." (John Hubblell, người viết về những kinh nghiệm của P.O.W đă tả lại: "No American reached Hoa Lo in worse physical condition than McCain".)
Sự thật lịch sử ngắn ngủi thế mà ông Bush cũng không tha. Ông chặt phăng khúc đầu, khúc cuối, lờ tịt chuyện "Vi Xi" bắn máy bay của McCain, cũng kiểm duyệt luôn khúc đuôi có các "Vi Xi" thân thương đâm chém, phạng gẫy xương, giam cầm, tra tấn "tên giặc lái." Ông chỉ chọn đúng một khúc McCain được vớt lên. Ông phán rằng những người vớt McCain ra khỏi hồ đă "cứu" ông ấy. !!!!!!!!!!!!!!!!!
Mới đây khi Hoa Kỳ muốn thiết lập quan hệ chiến lược với Hà Nội, họ đă không ngần ngại đổi trắng thay đen, thay đổi lập trường, biến chế độ cộng sản Hà Nội thành một chế độ biết tôn trọng tự do tôn giáo. (xem George W.Bush)
Họ không ngần ngại bỏ rơi các tổ chức hội đoàn đấu tranh cho dân chủ tự do. Biết như vậy để đừng quá mơ hồ về chủ trương đường lối vị kỷ của Hoa Kỳ.
T́nh nghĩa Hoa Kỳ là như thế đó. Chính v́ thế mà trên thế giới không mấy người có cảm t́nh với Hoa Kỳ. So với Pháp, bà Ngọc Hạnh, chỉ là người Việt Nam tỵ nạn tại Pháp cũng đấu tranh cho dân chủ tự do, bị cầm tù ở Mỹ, măn hạn tù, đă được chính quyền Pháp giúp đỡ mang về Pháp sống tự do. ‘Liberté, Égalité, Fraternité’ câu châm ngôn của nước Pháp nhân bản ít nhất cũng c̣n mang một chút ư nghĩa nào đó, giữa cái thời đại không t́nh không nghĩa này.
Đối với các hội đoàn, đoàn thể, đảng phái Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước đừng quá tin cậy những lời hứa hẹn hăo huyền của thiên hạ, đừng chịu làm thân phận của hoa hướng dương, v́ sau khi dâng hiến sức ḿnh cho thiên hạ khai thác, chỉ c̣n lại những thửa ruộng xấu xí, đen đỉu, ai cũng lánh xa.
Bằng mọi giá phải lấy sức ḿnh làm chính, lấy thực lực của ḿnh làm phương tiện đấu tranh, nếu không muốn bị bán đứng như các trường hợp đau thương vừa kể.
Các tổ chức quốc tế cũng không làm ǵ được cho chúng ta một cách hiệu quả, bởi v́ các tổ chức đó đă mất đi quá nhiều ảnh hưởng và uy tín trên bàn cờ thế giới.
Nguyên nhân chủ yếu của sự suy yếu này là v́ các nước lớn tự cho ḿnh là cái nôi dân chủ như Pháp, Ấn Độ, Hoa Kỳ...và các nước mà họ gọi là lưu manh (états voyous) hiện nay đă có sự hợp tác với nhau để mưu lợi, cho nên người ta lơ mọi vấn đề vi phạm nhân quyền và bỏ rơi các tổ chức đấu tranh trước chủ trương đàn áp của các nhà nước lưu manh.
Ngay cả Ṭa Thánh Vatican cũng không lên tiếng bênh vực những người bị đàn áp, cho nên cuộc đấu tranh cho dân chủ nhân quyền sẽ rất cô đơn và gian khổ. Biết như vậy để đừng mơ hồ, cay đắng.
Con tàu Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục lừng lững trôi. Cuộc sống đổi thay, phong phú hơn sinh ra nhiều tầng lớp trong xă hội và nhiều nhóm lợi ích khác nhau hơn, nhưng có thể thấy đại đa số các thế lực này đều có cùng một mục đích là giữ cho con thuyền tiếp tục trôi như nó vẫn trôi 20 năm qua.
Những người ở dưới gầm tàu vẫn tiếp tục mưu sống từ đồ thừa của các nhóm lợi ích trên boong tàu, cuộc sống của họ cũng được cải thiện tuy rất chậm chạp nhưng v́ suốt đời chỉ ở dưới boong tàu nên họ lắm khi không biết mặt viên thuyền trưởng đang điều khiển vận mạng của họ và họ cũng không biết là họ có thể t́m cho ḿnh một thuyền trưởng mới!
Trên khía cạnh TÂM LƯ đó, đối với LỜI TRỐI chỉ cần xét về “t́nh tiết” Lm Huỳnh công Minh. Tất cả mọi người đều thấy thật tỏ tường, từ khi gây dựng PTSG, Lm Lễ luôn coi Lm HcMinh là giáo gian, lộng hành, theo CS và cầm đầu “việc” đổi tên Tổng Giáo Phận Sài G̣n thành TGP thành phố HCM.
Vậy phải nói, nếu gọi là có “quyền bắn” th́ lập tức Lm Lễ sẽ “bắn” ngay Lm HcMinh; và nếu “ăn thịt được” th́ Lm Lễ lập tức “ăn tươi, nuốt sống” Lm HcMinh ngay không une, deux (một, hai) ǵ cả.
Vậy “lời” trong LỜI TRỐI “….Mà thực ra Hội Đồng Giám Mục cũng chả có tiếng nói ǵ. Bọn Huỳnh Công Minh điều khiển tất cả… (Lm Lê viết)” như thế, nếu đem tŕnh làng giờ nào, là h́nh thức coi như Lm Lễ đă “bắn được”, đă “ăn thịt được” Lm HcMinh ngay giờ đó. Ngu ǵ mà không đưa ra ngay, khi cả bản thân GM NQT lại c̣n sẵn sàng hỗ trợ và thúc giục “….5. Bác Lễ viết đi, bác có khả năng và điều kiện bác viết ra đi. Tuyến này sẽ làm chứng cho những lời bác viết…(Lm Lễ viết)”, th́ chẳng có lư do ǵ cản ngăn để do dự, chần chừ, TÂM LƯ CON NGƯỜI ai cũng vậy! Nên “đúng lư” là ngay tháng 1-2006 phải tức tốc đưa LỜI TRỐI ra, nhưng lại không đưa. Rồi đến 9 tháng sau, ngày GM NQT mất 24-9-2006 th́ chậm lắm là hai ba ngày sau “buộc phải” đưa LỜI TRỐI ra cho “hợp tính khách quan”, mà vẫn không đưa, đúng là “đồ điên (không tâm lư)”! Măi đến khi GM NQT chết đă qua được 6 tháng 25 ngày (ngày 19-4-2007) mới đưa LỜI TRỐI ra. TÂM LƯ CON NGƯỜI nh́n thấy thời gian cắc cớ kiểu ấy, là biết “tṛ gian giảo” tỏng ṭng tong: Sản phẩm LỜI TRỐI của Lm Lễ chỉ là món hàng bịa đặt tào lao thiên tướng 100%!
Chuyện kể là trong thập niên 70, một phái đoàn Liên Xô của Ban Văn hoá Tư tưởng sang thăm nước Mỹ. Sau một tháng điều nghiên tại chỗ về tự do ngôn luận và tự do báo chí, phái đoàn này được hỏi về cái lạ nhất mà họ nhận xét được trong chuyến đi. Trưởng phái đoàn vẫn c̣n chưa hết ngạc nhiên: “Tại Mỹ không có biện pháp cắt sổ gạo hay cho hoá giá nhà, cũng không có gửi đi cải tạo, bỏ tù hay nhốt vào nhà thương điên. Chúng tôi không hiểu các ông làm thế nào mà truyền thông lại vẫn chỉ quảng bá những ǵ mà chính quyền muốn!” Nhưng chuyện này có lẽ không đáng để được vui như chúng ta tưởng, trừ những lúc quần chúng vùng lên để phá tượng, phá tường.
* - Đảng VT nghĩ ǵ khi tiếp tay CSVN đưa lên bài viết của Hà Dương Dực lên đài CTM?.
Tiếp theo các hành động trí trá của họ trước đây, VT đă phản bội cộng đồng người Việt Tị Nạn cộng sản hải ngoại, công khai tuyên truyền làm lợi cho CSVN, tỉ như trước đây họ đă từng đ̣i xóa bỏ ngày Tị Nạn, Giỗ Quốc Tổ lại đổi thành Quốc Khánh, Quốc Hận th́ đổi thành Ngày Tự Do, Tháng Tư Đen thành Tháng Tư Xanh. Trong vụ nầy rơ ràng băng đảng VT dù biết đây là một bài do bọn thiên cộng viết có hại cho sự nghiệp đấu tranh chống cộng của hải ngoại nhưng họ bất chấp, vẫn đưa lên các đài TNT và CTM đề cao cộng sản Hà Nội mong kiếm credit để tiếp cận với VC, xin làm tay sai; được tham gia bầu cử năm 2007 hầu mưu t́m một vài ghế.
Nên nhớ cách đây không lâu, Đỗ Hoàng Điềm từng trắng trợn nói:“ cần 80 triệu trong nước hơn là 3 triệu hải ngoại”, nói thế tức VT đă đạp lên trên công luận hải ngoại, đồng thời muối mặt xin VC chấp nhận cho chúng được làm đối lập cuội, đóng vai tṛ hề dân chủ. Đây là hành động cuối mà VT tự lột mặt nạ, chấp nhận làm tay sai cho cộng sản mà từ trước đến giờ đă nhiều lần bị điểm mặt nhưng chúng vẫn luôn chối quanh.
Một số đồng bào c̣n cố khuyên là nên cảnh báo VT, mong họ thức tỉnh, đừng theo vết xe cũ sẽ đưa đến cái bẫy sập của giai đoạn lịch sử đen tối năm 1945-1946: lúc đó Việt Minh cộng sản đă tặng cho Mặt Trận Quốc Dân Đảng 70 ghế trong quốc hội (khỏi bầu cử), ngoài ra c̣n nhượng thêm mấy ghế trong bộ máy chính quyền mà Hồ Chí Minh đă hợm hĩnh nói: “tặng chúng muốn bán cho ai th́ bán”, thế mà bất ngờ cộng sản trở mặt đánh cho hàng ngũ quốc gia tan tành. Xin nhớ, thành viên Mặt Trận Quốc Dân Đảng (VNQDĐ&ĐVQDĐ) toàn là nhưng nhà đấu tranh tài giỏi kinh nghiệm, thế mà phải ôm đầu máu tháo chạy huống ǵ VT lại quá ấu trỉ th́ sức mấy mà nói chuyện tiếp cận với CSVN.>>>>>>>>>>>>>>>
Với chủ trương xây dựng theo lệnh của Việt Cộng là “tiếp cận trong”. Thực hiện 2 bước này c̣n có một công tác nữa là “tiếp cận ngoài” tức là lũng đoạn, phá hoại những tổ chức của người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại. Do đó, chúng ta thấy Việt Tân đă tham gia tất cả những hoạt động của người Việt hải ngoại, từ vụ Phong Trào Dân Chủ với bản tuyên ngôn do Trần Khuê viết, vụ 2 du sinh Việt Cộng “nối ṿng tay lớn” mà hậu quả là bác sĩ Nguyễn Xuân Ngăi công khai tuyên bố sẽ về Việt Nam làm đại biểu quốc hội Việt Cộng và 5 chánh đảng khác cũng xin chạy theo bác sĩ Ngăi, vụ giáo sư Nguyễn Chính Kết. Bây giờ c̣n nhảy xổ vào Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam gồm có: Đỗ Hoàng Điềm, Ngô Chí Thiềng, bác sĩ Nguyễn Trọng Việt, Trần Diệu Chân& Với những thành tích của Việt Tân như rứa, HSX đă thấy Việt Tân là cánh tay nối dài của Việt Cộng hay chưa?
Anh Phạm Thanh Phương: Trong bữa tiệc ra mắt và gây qũy của Hội Thương Phế Binh QLVNCH/NSW, tại nhà hàng Crystal Palace, tối Thứ Sáu 3-11, vào khoảng 10 pm, tôi có ra ngoài khu hút thuốc, th́ gặp anh Giác và anh Thinh đang nói chuyện. Tôi đến chào hỏi và tṛ chuyện cùng với hai anh. Giữa lúc chúng tôi đang tṛ chuyện được khoảng 5 phút, đột nhiên có người từ phía sau dùng tay trái quặp vào cổ tôi, và dùng cùi chỏ tay phải nhấn vào phía bên trái cổ của tôi khiến tôi thấy đau nhức. Sau 10 giây trong tư thế như vậy, anh ta nói, "Kư giả rubbish! Coi chừng nghe!" Lúc đó tôi nhận ra, anh ta là Lại Văn Đức. Thấy thái độ và hành động bất thường của anh Đức, anh Giác vội đứng dậy và nói "Đức, không được làm vậy ở chỗ này nghe!" Anh Đức liền buông tôi ra và bỏ đi. Suốt thời gian xảy ra, tôi hoàn toàn giữ im lặng và không hề có bất cứ lời lẽ hay hành động phản ứng nào. Khoảng nửa tiếng sau, anh Đức đến bàn ăn của chúng tôi, chào bác Nguyễn Quang Toại và nói với tôi: "Anh Phương à, em thấy mỗi sáng anh chở một đứa con gái trên đường Woodville. Con anh đó hả? Anh chở nó đi học hả? Em thấy anh, nhưng không muốn bóp kèn chào v́ sợ làm anh sợ, em lái xe Truck đó nghe...." Nghe Đức nói, tôi không trả lời, chỉ cười và im lặng.>>>>>>>>>>
Các tổ chức khủng bố Hezbollah và Hamas tuyên truyền, đây là trận chiến cuối cùng để tiêu diệt Do Thái, và kêu gọi toàn Khối Hồi giáo đứng dậy biểu t́nh, đưa cảm tử quân đối đầu với Hoa Kỳ và Do Thái. Họ hăm dọa sẽ xóa tên Israel ra khỏi bản đồ thế giới; nhân loại do đó không khỏi lo sợ một cuộc thế chiến nổ ra và địa cầu sẽ bị hủy diệt. Tuy vậy, theo các chuyên gia phân tích thời sự: Hăy c̣n lâu, v́ đây chỉ là hành động chống lại khủng bố đồng thời tạo nguyên nhân để tiêu diệt những kẻ chủ động đứng đàng sau; cụ thể là Iran và Syria. Tuy nhiên, hết loại khủng bố nầy sẽ có bọn khủng bố khác tiếp tục chống Do Thái; nguy hiểm nhất là những cường quốc đứng đàng sau giựt giây. Ví dụ điển h́nh: Iran, nước đỡ đầu của Hezbollah; quốc gia nầy v́ tham vọng phát triển chương tŕnh hạt nhân đang bị LHQ hăm dọa trừng phạt, th́ Trung Cộng đă vội kư một Hiệp Ước Dầu Hỏa với Iran trị giá 100 tỷ mỹ kim yểm trợ; Hamas chủ trương gây hấn với Israel phá hoạch kế hoạch ḥa b́nh ở Trung Đông bị Khối Âu châu cùng Hoa Kỳ lên án và ngưng viện trợ th́ Trung Cộng vội nhảy vào không những yểm trợ chính trị quân khủng bố Hamas mà c̣n viện trợ chúng vô điều kiện. Do đó trong cuộc khủng hoảng nầy, người ta thấy bóng dáng Trung Cộng đứng đàng sau. Cái khúc mắc tạo nguy hiểm cho ḥa b́nh thế giới là điểm đó.
3-/ Khuynh hướng Ḥa giải&Ḥa hợp với Đảng và Nhà Nước CSVN.Những người theo khuynh hướng Ḥa hợp&Ḥa giải (HH&HG) hầu hết không một ai bị sự đọa đày khổ ải trong lao tù cộng sản, bởi v́ họ đă sống ở ngoại quốc trước năm 1975, hoặc may mắn được di tản hay tháo chạy trước ngày 30-4-75. Một vài trường hợp đặc biệt là có người cũng bị bắt giam, nhưng lại không bị đối xử tồi tệ, c̣n được ưu đăi xem tivi, đọc sách báo, được phép ngũ với vợ mỗi khi được thăm nuôi, ngoài ra đặc biệt c̣n được cung cấp giấy bút để làm thơ; những nhân vật nầy được bọn VC “chiếu cố” đặc biệt và âm mưu giàn dựng họ trở thành những tên c̣ mồi cho chúng sử dụng về sau.Phần lớn thành phần chủ yếu của khuynh hướng HH&HG là những chính khách salon, những kẻ chống Cộng bằng mồm, hạng người khá giả được ăn học tại các nước văn minh như Pháp, Anh, Mỹ trước năm 1975. Do hoàn cảnh của họ suông sẻ trên mọi mặt; hơn nữa phần lớn tầng lớp nầy không có được một chút kinh nghiệm ǵ về cộng sản th́ việc họ chạy theo khuynh hướng HH&HG cũng chẳng có ǵ lạ. Điều đáng nói, lớp người nầy đều mù tịt về các sinh hoạt chính trị đất nước, nhưng lại rất háo danh. Bất kỳ nơi nào có "động dao động thớt" ắt có mặt, họ không cần biết đàng sau các màn tŕnh diễn đó là ǵ, miễn sao khi được xướng danh có tên ḿnh là đủ măn nguyện. Có lẽ điều họ lo âu nhứt là sợ người ta quên ḿnh.
Họ là ai? Nếu không là những phần tử đối kháng, vốn là đảng viên đă giác ngộ, muốn chỉnh đảng để giữ cho đảng được trường tồn, hoặc họ cũng từng là đảng viên, những “do bị nạn ăn không đều chia không đủ” nên bất măn, hận bọn cầm quyền mà trở mặt chống đảng. Mặt khác, họ là những người từng thực sự đấu tranh công khai đ̣i tự do dân chủ cho Việt Nam mà từ lâu chưa có dịp góp tiếng. Nói chung, phần lớn họ vốn ngây ngô tin là nhà cầm quyền cộng sản đă đến lúc lắng nghe tiếng nói của nhân dân nên chính họ đă tự ư minh danh trong các Tuyên Ngôn Tự Do. Họ không ngờ, chính họ đă quá thực thà khi mạnh mẽ góp ư kiến một cách ngây thơ; hành động của họ không khác ǵ đă “tự nguyện nộp mạng” cho măng lưới của một chế độ “công an trị” đang giăng ra để đưa họ vào rọ chờ cơ hội đem ra “làm thịt”. Hiện trạng dân chủ tại Việt Nam
Đọc sách của ông Woodward, người ta dễ nh́n ra suy luận của ông để thấy rằng hai ông Cheney và Rumsfeld, những viên chức cao cấp trẻ được giữ những chức vụ trọng yếu trong nội các dưới thời hai chính quyền Nixon và Ford cách đây hơn 30 năm, lúc nào cũng hoài niệm về vị thế và vai tṛ quan trọng của họ, mong muốn tiếp tục được củng cố sức mạnh của ngành hành pháp. Cho dù vụ x́-căng-đan Watergate và cuộc rút lui quân Mỹ ra khỏi Đông Dương để chấm dứt cuộc chiến tại vùng Đông Nam Á đă tạm thời chấm dứt ngang việc thăng tiến của họ trên hoạn lộ, nhưng định mệnh đă đưa đẩy xui khiến cho một cậu công tử mang tên George W. Bush, lên nắm quyền vào năm 2001, dưới sự hướng dẫn và lèo lái của hai ông Cheney và Rumsfeld, để có thể tiếp tục hoàn thành giấc mộng mà họ đă ấp ủ từ hơn 30 năm trước, với sự hỗ trợ và cố vấn của ông Kissinger. Nhất là việc cậu con Bush, tuy non kém về đối ngoại nhưng lại có đức tính cương quyết ngổ ngáo đặc biệt, lại thêm có mặc cảm nặng với một ông bố có thành tích sáng chói về mọi mặt là cựu TT George H. Bush nên lúc nào cũng muốn làm ngược lại với những ǵ bố ḿnh đă làm, nên đă nhiều lần bác bỏ những lời khuyên can của những cựu viên chức cao cấp và kỳ cựu của đảng Cộng Hoà thân thiện với bố ḿnh như các ông Brent Scowcroft (cố vấn an ninh quốc gia) hay George Schultz (ngoại trưởng).
V́ chính quyền Bush đă cố t́nh móc ngoéo cuộc chiến tại Iraq với cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu (để biện minh sau khi những bằng chứng về cái gọi là kho vũ khí tàn sát quy mô đă trở thành tin t́nh báo sai lạc), nên thất bại tại Iraq cũng có thể coi là sự thất bại của cuộc chiến chống khủng bố. Rơ ràng là Ngũ Giác Đài dưới quyền của ông Rumsfeld đă không có một chiến lược rơ ràng và cụ thể nào để mong giành được thắng lợi trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu này. Trong một công văn gửi cho các phụ tá trong bộ tham mưu của ḿnh vào tháng 10 năm 2003 (và sau này được x́ ra ngoài cho báo giới biết), chính ông Rumsfeld cũng đă phân vân tự hỏi rằng không biết chúng ta (Hoa Kỳ) có định h́nh được những tiêu chuẩn khách quan nào để có thể xác định hay đánh giá rằng Hoa Kỳ đang thắng hay thua trong cuộc chiến này. Điều đáng lo ngại nhất là hơn ba năm sau đó, và hơn năm năm sau ngày quyết định tấn công tổ chức al-Qaida, ông Rumsfeld cũng chưa t́m ra lời giải đáp thoả đáng cho câu hỏi hóc búa đó.
TT Bush và Đại Tướng Pace, tổng tham mưu trưởng quân lực, th́ cố biện minh rằng thật ra Hoa Kỳ tuy không thắng, nhưng cũng chưa thể gọi là thua. Đây cũng chỉ là một h́nh thức tránh né và nguỵ biện vụng về. Nếu như TT Bush có can đảm và ḷng ngay thẳng của một chính trị gia, và nếu như Đại Tướng Pace có liêm sỉ và danh dự của một dũng tướng, cho dù ông đang đeo 4 sao trên cổ áo, các ông phải thấy xấu hổ cho thành tích của quân đội Mỹ. Với một đạo quân khoảng 140,000 quân trú đóng tại Iraq trong gần 4 năm qua, với sức mạnh khống chế của hải, lục, không quân tối tân và những chiến cụ tinh vi như oanh tạc cơ tàng h́nh B2, các loại bom tinh khôn hay phi đạn b́nh phi Tomahawk, với các chiến đoàn thiết giáp tinh nhuệ gồm xe tăng Abrams, Stryker, Humvee, với một kinh phí khổng lồ khoảng từ 5 tới 8 tỷ Mỹ-kim cho một tháng, nhưng rồi cho đến ngày nay đạo quân hùng mạnh đó vẫn chưa diệt gọn được các nhóm tàn quân phiến loạn, những thành phần mạt lộ (dead-enders) như lời ông Rumsfeld dè biểu, để đến nỗi ngày nay vẫn c̣n phải bị ám ảnh bởi những vụ ôm bom tự sát, những vụ gài ḿn được gọi một cách huê dạng là IED (improvised explosive device) mà thực chất chỉ là những loại ḿn nội hoá do những thành phần mạt lộ trốn chui trốn nhủi đó đă tiếp tục sáng chế và sản xuất dài dài trong thời gian qua. Nếu không gọi là thất bại th́ không biết có phải gọi bằng từ ngữ tránh né nào khác nữa hay chăng?
Tất cả các bài xă luận của các tờ báo lớn ở Hoa Kỳ đều lên án hành động này. Tờ New York Times th́ cho rằng đây là "một cuộc can thiệp khù khờ sai lầm, và là một đ̣n giáng mạnh vào uy tín cá nhân của một vị tổng thống". Tờ Washington Post th́ so sánh việc này không khác chi là "một hành động tiếp tục bao che tội lỗi". Tờ Los Angeles Times th́ cho rằng "quyết định ân xá là một lầm lẫn, đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của một nền dân chủ pháp trị, đó là mọi người dân, kể cả tổng thống, đều b́nh đẳng trước pháp luật." Nghị sĩ Edward Kennedy th́ kết án đây là "một hành động phản bội lại ḷng tin của dân chúng" với câu nói: "Phải chăng chúng ta có một nền pháp lư cho người dân b́nh thường, và một nền công lư khác chỉ dành cho những kẻ có quyền thế?" Thậm chí phát ngôn viên Toà Bạch -c lúc bấy giờ là Jerry terHorst cũng từ chức để phản đối.
Sau cùng, cho dù chiến lược hay binh thư mới của Tướng Petraeus có hoàn bị đến đâu đi chăng nữa, th́ t́nh h́nh trên chiến trường có thể thay đổi ra ngoài dự trù của ông cũng như của nhiều chiến lược gia khác. Chẳng thế mà người ta thường hay chỉ trích là các ông tướng thường chỉ biết đánh giặc với kiến thức áp dụng cho những cuộc chiến đă qua. Một trong những sĩ quan phụ tá góp phần vào việc soạn thảo binh thư mới này đă tâm t́nh với nhà báo Michael Hirsh của tờ Newsweek, sau khi yêu cầu được giấu tên v́ không muốn làm phật ḷng cấp trên về quan niệm riêng với một nhận xét khá lư thú. Ông nói: "Âu cũng là chuyện éo le nực cười. Chúng tôi vừa mới hoàn thành xong tài liệu binh thư mới cho kế hoạch chống du kích chiến đúng lúc mà t́nh h́nh tại Iraq dường như sẽ lâm vào cảnh nội chiến. Mà hiện nay th́ chúng ta chưa có một chiến lược nào để đương đầu với t́nh huống đó." Chuyện thất bại không phải chỉ là những lời nói tiên đoán bừa băi của những anh nhà báo thích phóng bút. Mà bởi v́ những khó khăn chồng chất đă thấy trước nhưng chưa t́m được giải pháp khả tín.
Một chiến lược gia bên đảng Cộng Hoà, khi được hỏi về các quảng cáo loại tấn công này, xin được giấu tên để có thể nhận định một cách thẳng thắn. Theo lời ông th́ chiến lược này là nhằm nâng cao "điểm tiêu cực" (negative rating) của các ứng viên Dân Chủ. Ông cũng nói rằng cử tri thường cho rằng các quảng cáo tiêu cực có phần "đáng tin cậy" (more credible) hơn là loại quảng cáo tích cực. Ông nói tiếp: "Nếu như một ứng cử viên lên đài truyền h́nh và nói rằng ḿnh sẽ làm điều này điều nọ cho tốt đẹp hơn như là sẽ tạo thêm công ăn việc làm hay phát triển cho các trường học trong đơn vị ḿnh trở thành khá hơn, có người sẽ tin lời ông ta, nhưng đa số th́ không tin. Thế nhưng khi có một mẩu quảng cáo nói về một ứng viên nào đó đă trốn thuế, hăy đă ngoại t́nh, hay là lúc nào cũng biểu quyết theo chính quyền Bush như kiểu "nghị gật", hoặc là đă từng tham dự các buổi tiệc ăn chơi nổi tiếng như ở toà nhà Playboy, th́ người ta lại dễ tin hơn vào các mẩu quảng cáo đó."
Trong nhiều tuần lễ trước ngày bầu cử, các cuộc thăm ḍ dân ư cũng như chiêu bài vận động tranh cử của cả hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ đều cho thấy rằng đây là một cuộc trưng cầu dân ư về cuộc chiến tại Iraq, và kết quả được dự đoán trước là người dân sẽ bỏ phiếu chống lại ông Bush, mặc dù tên của ông không có trên lá phiếu để cho cử tri gạch bỏ.
Ông Adelman không phải là người đầu tiên hay người sau cùng trong những tiếng nói chỉ trích thành tích của chính quyền Bush trong cuộc chiến Iraq mặc dù đă từng ủng hộ giải pháp chiến tranh một cách tích cực từ lúc ban đầu. Có điều là ông có can đảm và liêm sỉ để nh́n nhận những sai lầm, thay v́ cứ ngoan cố và lấp liếm đưa ra những luận cứ nguỵ biện như bộ ba Bush - Cheney - Rumsfeld vẫn thường làm. Ngay cả trong cộng đồng người Việt định cư tại Hoa Kỳ, thời bấy giờ đa số đều có vẻ như ủng hộ giải pháp tấn công của ông Bush, mặc dù nó thiếu căn bản pháp lư và chỉ phản ảnh đúng tư duy và hành động của một anh cao bồi hay vơ biền, chỉ biết dùng sức mạnh để áp đảo kẻ yếu thế hơn thay v́ tranh luận để biết thiệt hơn, phải trái rơ ràng. Có lẽ chỉ có kẻ viết báo nhà quê là tác giả bài này đă thẳng thắn tŕnh bày và phân tích cặn kẽ vấn đề từ lúc ban đầu, vạch ra những dự tính và âm mưu sửa soạn dồn quân để tấn công của chính quyền Bush trong khi vẫn lớn tiếng cho rằng đang đeo đuổi theo đường lối ngoại giao chứ không chỉ chủ trương dùng giải pháp quân sự.
Nội vụ nổ lớn ra hơn vào cuối năm đó khi tờ nhật báo Washington Post cho đăng một bài điều tra trong tháng 11 năm 2005, lần đầu tiên tường tŕnh về sự hiện hữu của các nhà tù bí mật này cũng như chính sách dẫn độ các tù nhân đặc biệt mà cơ quan CIA đă thông đồng hay mua chuộc các cơ quan t́nh báo tại một vài quốc gia khác để làm ngơ. Đây là một vết nhơ cho uy tín của Hoa Kỳ nói riêng, nhưng cũng là đối với các quốc gia liên hệ, nhất là khi các quốc gia t́nh nghi đó lại nằm trong khối Liên Hiệp Âu Châu (như Ba Lan và Lỗ Ma Ni) v́ nó đi ngược lại tinh thần nhân bản cũng như tôn trọng nhân quyền theo như tinh thần của Công ước Geneva.
"Đừng bao giờ cản trở công việc của kẻ thù khi hắn đang sai lầm," đó là một trong những câu nói bất hủ của một thiên tài quân sự của nước Pháp là Đại đế Nă Phá Luân (Napoléon), và giá như những kẻ tham chiến trong những cuộc đụng độ tại chiến trường Trung Đông đều chịu khó kiên nhẫn để nghiền ngẫm lấy câu này th́ có lẽ triển vọng hoà b́nh sẽ sáng sủa hơn (chắc chắn là vững bền hơn cái thoả hiệp ngưng bắn tạm thời do Liên Hiệp Quốc dàn xếp nhưng xem chừng rất mong manh và sắp sửa bị xem thường và vi phạm), hoặc ít ra th́ những chiêu thức án binh bất động sẽ được đem ra áp dụng một cách cẩn trọng hơn tại những vùng biên giới ở dải Gaza, Ngạn Tây hay Do Thái và Lebanon thay v́ những tiếng đạn pháo rơi và bom nổ rền trời.
Một trong nhưng luận cứ mà TT Bush và những người ủng hộ ông thường đem ra để biện minh cho cuộc chiến tại Iraq là quân đội Mỹ phải mất công đem quân sang tận chốn xa xôi ấy để diệt trừ bọn khủng bố hầu có thể tránh được hậu hoạn là bọn chúng có thể đem các loại vũ khí độc hại sang tấn công lên các thành phố lớn trên nội địa của Hoa Kỳ. Do đó, cuộc chiến tại Iraq được coi như là một chiến lược pḥng thủ bên ngoài ṿng đai của nước Mỹ, cho dù nó ở xa đến hàng ngàn dặm và gây nhiều khó khăn lẫn tốn kém. Nói một cách đơn giản, Hoa Kỳ phải đánh bọn al-Qaeda và những thành phần Hồi-giáo cực đoan tại chiến trường khốc liệt ấy là để khỏi phải đương đầu với chúng trên chiến trường ở New York và những thành phố khác trong nước Mỹ. Những luận cứ khác th́ đă được dẹp bỏ v́ sai trái (như cái gọi là để diệt trừ kho vũ khí tàn sát quy mô) hoặc ít c̣n được nhắc tới v́ không đủ sức thuyết phục (như cái gọi là để gieo rắc mầm tự do dân chủ để làm ngọn đuốc dẫn đường cho một sự canh tân và biến đổi vùng Trung Đông theo một trật tự thế giới mới).
Riêng cuộc chiến tại Iraq, với những mộng ước quá chủ quan lúc ban đầu của phe tân bảo thủ giờ đây đă trở thành ảo tưởng, mối ưu tư hiện nay của các tướng lănh ở chiến trường cũng như các lănh tụ dân sự ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn là làm sao có thể rút lui được để khỏi tốn hao thêm thiệt mạng và tốn kém cho Hoa Kỳ nhưng lại không gây ra một sự bất an nguy hiểm hơn là cuộc nội chiến giữa hai phe Sunni và Shiite nổ bùng lan rộng ra. Chiến tranh thường tạo ra những hậu quả không lường trước được (unintended consequences) theo đúng nghĩa của nó. Đó là t́nh trạng rối ren bất định tại Iraq mà Hoa Kỳ phải đối phó, không phải chỉ cho chính quyền Bush mà có thể cho cả vị tổng thống kế tiếp cũng như cho cả nhân loại.