NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN
TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE
NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO
VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT
HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON
NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.(1)
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Xă hội công dân (Civil society, XHCD) là một khái niệm khá mới mẻ, hiện
chưa có một nhận thức tương đối thống nhất. Nhân dịp nước ta đang chuẩn
bị sửa Hiến pháp, chúng tôi xin tŕnh bày một vài t́m hiểu c̣n rất sơ
sài về đề tài này, mong bạn đọc cùng bàn thảo để làm sáng tỏ.
Xă hội và xă hội công dân
Có thể hiểu XHCD là một h́nh thức xă hội tự quản, khi toàn dân đều tham
gia quản lư xă hội một cách có tổ chức, có trật tự; sự tự quản ấy vận
hành song song với sự quản trị xă hội của bộ máy nhà nước.
Các triết gia từ cổ đại đến hiện đại đều quan tâm vấn đề xă hội tự quản,
muốn dùng nó để thay thế cho h́nh thức xă hội được quản lư bằng bộ máy
quyền lực nhà nước, bởi lẽ họ đă thấy rơ những mặt tiêu cực vốn có của
quyền lực. Sử gia Lord Acton có một danh ngôn: Quyền lực dẫn tới tha hóa
và quyền lực tuyệt đối th́ tha hóa tuyệt đối [1]. Sự tha hóa (tức biến
chất xấu đi; nguyên văn corrupt, c̣n dịch là tham nhũng) phổ biến nhất
là lợi dụng quyền lực để mưu lợi riêng; lịch sử cho thấy đây là nguồn
gốc dẫn đến sự mục ruỗng và sụp đổ có tính tự sát của tất cả các chính
quyền chuyên chế, kể cả tại các nước XHCN như Liên Xô và Đông Âu. Rơ
ràng, khi tŕnh độ tự quản xă hội càng cao th́ bộ máy quyền lực càng
được thu nhỏ, do đó hạn chế được mức độ tha hóa của nó.
Karl Marx đầu tiên đưa ra ư tưởng xă hội tự quản khi tiến lên chủ nghĩa
cộng sản – khi ấy nhà nước đă tiêu vong, xă hội sẽ h́nh thành chế độ tự
quản xă hội cộng sản. Nói cách khác, Marx coixă hội tự quản cộng sản là
h́nh thức cao nhất, sau chót, măi măi tồn tại của xă hội loài người; khi
ấy không c̣n bộ máy quyền lực nữa (v́ nhà nước đă tiêu vong). Việc Marx
đánh giá cao xă hội tự quản càng cho thấy chúng ta rất cần xây dựng XHCD
như một giải pháp hiệu quả nhất để giảm sự tha hóa của bộ máy quyền lực
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Marx cho rằng: – Xă hội tự quản đă có từ trước khi xuất hiện xă hội có
giai cấp, dưới chế độ công xă nguyên thủy; – Với sự phân chia xă hội ra
thành các giai cấp đối kháng, nó được thay bằng tổ chức chính trị của xă
hội mà cơ sở là nhà nước; – Sự phát triển dân chủ XHCN sẽ lôi cuốn tất
cả công dân tham gia quản lư xă hội, h́nh thành tự quản xă hội cộng sản
[2].
Ở đây Marx đă nêu ra điều kiện tất yếu để h́nh thành xă hội tự quản:
phát triển dân chủ. Nghĩa là khi toàn dân được hưởng tất cả các quyền
dân chủ th́ mới có thể h́nh thành xă hội tự quản.
Xă hội tự quản cộng sản có thể là đỉnh cao của XHCD, song nó chỉ là sản
phẩm do bộ óc vĩ đại của Marx nghĩ ra. Rơ ràng nhà nước chỉ tiêu vong
khi toàn thế giới cùng lúc tiến lên chủ nghĩa cộng sản – điều đó quá ư
xa xôi, v́ thế hiện nay chưa thể bàn thảo.
XHCD nói trong bài này là một h́nh thức xă hội tự quản hiện đang tồn tại
ở một số quốc gia, khi nhà nước chưa tiêu vong, tức chưa tiến đến chủ
nghĩa cộng sản. Nó là một thực thể gồm vô số các tổ chức công dân (TCCD,
c̣n gọi là đoàn thể công dân) tồn tại độc lập với nhà nước, nhằm phát
huy tối đa quyền làm chủ của người dân, giúp nhà nước thực hiện quản lư
xă hội một cách tốt nhất, hạn chế các nhược điểm cố hữu của quyền lực,
đạt mục tiêu chính quyền nhỏ, xă hội lớn. Hiển nhiên XHCD kiểu này thấp
hơn xă hội tự quản cộng sản nhưng nó có khả năng thực hiện ngay từ bây
giờ, ở mọi nơi, dưới chế độ XHCN hoặc chủ nghĩa tư bản (CNTB), v́ thế
rất cần t́m hiểu, thảo luận.
XHCD là một tất yếu lịch sử, bởi lẽ phát triển dân chủ là một xu thế
tiến tới không thể ngăn cản của loài người. Đặc biệt trong thời đại toàn
cầu hóa hiện nay đă xuất hiện các TCCD có tính toàn cầu, v́ thế có người
nêu ra khái niệm XHCD toàn cầu. Đó là các tổ chức phi chính phủ (NGO,
Non-Government Organization) hoạt động trên toàn cầu và có tác động lớn
không chính phủ nào dám coi thường; thí dụ các tổ chức Ân xá quốc tế,
Theo dơi Nhân quyền, các tổ chức tôn giáo, hoặc các quỹ từ thiện lớn.
Tại Trung Quốc năm 2004 có hơn 2000 NGO quốc tế được cấp phép hoạt động,
số lượng NGO không cấp phép c̣n nhiều hơn. Đầu tháng 12/2011 Ân xá quốc
tế đang đ̣i các chính phủ châu Phi bắt giữ cựu Tổng thống Mỹ Bush con v́
tội cho phép tra tấn tù nhân tại nhà tù ở Guantanamo, nhân chuyến đi
thăm châu Phi của ông này. Năm 2009 nước Nga có 277 ngh́n NGO; Ấn Độ có
khoảng 3,3 triệu NGO. Mỹ hiện có hơn 2 triệu NGO với hơn 9 triệu nhân
viên, kinh phí hoạt động hàng năm hơn 500 tỷ USD (do dân tự nguyện đóng
góp); viện trợ hàng năm cho các nước nghèo lớn hơn viện trợ nhân đạo của
chính phủ Mỹ. Cá biệt quỹ từ thiện có tài sản vài chục tỷ USD, tương
đương GDP một quốc gia trung b́nh. Tiền làm từ thiện do dân Mỹ hàng năm
quyên góp lớn gấp 2-3 lần GDP nước ta. Lực lượng hùng hậu của các TCCD
khiến chính phủ phải lắng nghe ư kiến, quan điểm của họ.
Tiền đề tất yếu để h́nh thành XHCD là mọi công dân đều được hưởng các
quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận, tự do hội họp, mít tinh biểu
t́nh, tự do lập hội, sở hữu tài sản… Khi ấycon người được coi là yếu tố
quan trọng nhất; chính quyền chỉ là cơ quan phục vụ dân. Sách Giáo dục
công dân dùng trong các trường học ở Mỹ viết: Khi chính quyền là đầy tớ
của bạn th́ bạn được tự do; khi chính quyền là chủ nhân của bạn th́ bạn
sẽ như kẻ nô lệ [3]. Khi không ai muốn làm nô lệ nữa th́ dĩ nhiên sẽ
h́nh thành XHCD như một tất yếu lịch sử.
XHCD gồm có lĩnh vực tư nhân, các tổ chức xă hội, lĩnh vực cộng đồng
công dân và các phong trào xă hội.
Lĩnh vực tư nhân chủ yếu là nói về đời sống cá nhân hoặc gia đ́nh; trong
lĩnh vực này các cá nhân được hưởng quyền tư hữu tài sản, các quyền tự
do dân chủ và quyền giữ bí mật riêng tư. Ở đây cần nhấn mạnh: thừa nhận
quyền tư hữu tài sản là điều kiện tất yếu để h́nh thành XHCD cũng như
nền kinh tế thị trường. Nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai Sáng thế kỷ
XVII, triết gia duy vật John Lock nói: Người ta gia nhập xă hội là để
bảo vệ tài sản của họ [4]. Nhà b́nh luận chính trị nổi tiếng Walter
Lippmann cho rằng quyền tư hữu tài sản là nguồn gốc ban đầu của tự do
[5]. Rơ ràng, khi người dân có tài sản của riêng ḿnh th́ mới thực sự có
tự do; càng có nhiều tài sản th́ càng được tự do hơn. Người không có
hoặc có ít tài sản th́ không thể b́nh đẳng thực sự với người giàu, và
quyền tự do cũng bị hạn chế. Nói tự do dân chủ mà phủ nhận quyền tư hữu
tài sản là tự mâu thuẫn. Người vô sản là người khát khao tự do nhất.
Các tổ chức xă hội của công dân (TCCD, c̣n gọi là đoàn thể công dân), là
những hội đoàn không kiếm lời do công dân tự nguyện tổ chức v́ lợi ích
chung của cộng đồng (hoặc của xă hội, của thế giới). Hệ thống TCCD tồn
tại độc lập với nhà nước (nhưng có thể được nhà nước tài trợ). Nó là chủ
thể của XHCD, làm nên sức mạnh của XHCD, góp phần tăng cơ hội và tŕnh
độ tham gia công việc chung của công dân. Sự xuất hiện các TCCD là nét
đặc trưng chủ yếu của XHCD. Có thể dùng số lượng TCCD để đánh giá tŕnh
độ XHCD. TCCD càng hoàn thiện, số lượng càng nhiều th́ mức độ tự quản xă
hội càng cao, xă hội phồn vinh, phát triển lành mạnh. Tại Mỹ, các TCCD
được coi là một trong ba cột trụ lớn của xă hội (hai cột trụ kia là
chính quyền và khối doanh nghiệp).
H́nh thức TCCD rất đa dạng, như các tổ chức phi chính phủ (NGO), hội
ngành nghề, công đoàn, câu lạc bộ, hội (quỹ) từ thiện, đoàn luật sư, các
Think-tank v.v… TCCD có tác dụng rất lớn phát huy trí tuệ, ư thức trách
nhiệm và đạo đức của từng người dân, thể hiện quan điểm, nguyện vọng của
dân chúng trước hiện trạng xă hội hoặc chủ trương chính sách của chính
quyền, đấu tranh bảo vệ công lư và quyền lợi của dân, đ̣i hỏi chính
quyền lắng nghe dân, đề xuất giải pháp về các vấn đề đối nội đối ngoại,
giúp chính phủ tránh được những quyết sách sai lầm. Thí dụ ở Mỹ khi thấy
các đập lớn thủy điện gây hại rất lớn cho môi sinh, từ thập niên 50 các
TCCD bảo vệ môi trường bắt đầu đấu tranh ngăn chặn việc xây đập. Họ gặp
sự chống đối từ các công ty kinh doanh thủy điện; các công ty này gây
sức ép với chính phủ, v́ thế chính phủ chần chừ không quyết. Các TCCD
kiên cường đấu tranh; kết quả đến thập niên 70 chính phủ Mỹ thông qua
Luật bảo vệ vĩnh viễn các con sông và bắt đầu dỡ bỏ một số đập thủy điện
(đă dỡ hơn 600 đập), đến thập niên 90 th́ dừng hẳn việc làm các đập ngăn
sông.
TCCD có mấy đặc điểm khác với các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh tế:
– Là tổ chức dân lập, phi chính phủ; – Có tính độc lập tương đối với
chính quyền nhưng không loại trừ sự tham gia của chính quyền; – Không
kiếm lời (non-profit); – Có tính tự nguyện.
Lĩnh vực cộng đồng công dân là tên gọi chung của mọi không gian để công
dân gặp gỡ, trao đổi ư kiến, h́nh thành quan điểm chung và dư luận.
Truyền thông và mạng Internet, nhất là các mạng xă hội (social network)
và báo điện tử đang trở thành bộ phận quan trọng của lĩnh vực này và là
phương tiện chủ yếu phát triển XHCD, tác động chẳng kém phong trào xă
hội, lại có ưu thế là không ai ngăn chặn được. Việc thăm ḍ dư luận hiện
nay phổ biến tiến hành trên mạng, vừa nhanh vừa phủ rộng, nhanh chóng
h́nh thành sức ép dư luận. Qua mạng, người ta liên kết với nhau, giúp đỡ
lẫn nhau (như giúp người gặp khó khăn). Các mạng xă hội như Facebook,
Netlog, Twitter… kết nối mọi thành viên không quen biết (nhất là giới
trẻ) có sở thích hoạt động trên mạng; họ có thể giao lưu, chia sẻ thông
tin, lập quan hệ, thúc đẩy sự liên kết giữa các cá nhân và TCCD mà không
bị giới hạn về địa lí và thời gian. Mạng Internet tạo ra một xă hội ảo
vĩ đại, nhanh chóng liên kết mọi người không phân biệt dân tộc, quốc
tịch thành những TCCD ảo có sức mạnh chính trị thật sự đủ để lật đổ mọi
chính quyền độc tài ngoan cố. Phong trào nổi dậy ở xứ A Rập không có
truyền thống cách mạng là thí dụ đầu tiên về sức mạnh của xă hội ảo.
Trung Quốc hiện có hơn nửa tỷ dân mạng, hơn 300 triệu blogger; gần đây
dân mạng đă dùng microblog (weibo) tạo ra sức ép dư luận xă hội cực lớn
đối với các tệ nạn như ức hiếp dân, tham nhũng, giấu thông tin thật v.v…
góp phần quan trọng thúc đẩy dân chủ hóa chính trị. Khi phong trào Chiếm
phố Wall nổ ra, giới trẻ Mỹ mở ngay hơn 200 trang Facebook và Twitter
nói về phong trào này. Nhằm tập hợp hơn 1.000 người biểu t́nh tại
Washington Square Park hôm 15/10, họ nêu khẩu hiệu: “Nếu bạn nằm trong
số 99%, th́ đây là cuộc biểu t́nh của bạn”. Kết quả có gần 700 người trả
lời khẳng định sẽ có mặt.
Phong trào xă hội (chủ yếu nói các phong trào có ṇng cốt là tầng lớp
trung lưu, thành phần chính trong XHCD) với h́nh thức chính là mít tinh,
biểu t́nh quần chúng, nhằm thể hiện mạnh mẽ ư chí nguyện vọng của dân,
gây sức ép đ̣i chính phủ sửa các chính sách sai. Các phong trào này
thường nảy sinh khi đông đảo nhân dân bất măn về thực trạng xă hội hoặc
chủ trương chính sách sai lầm của nhà nước. Chính quyền rất khó đối phó
với các phong trào quần chúng, nếu họ không gây mất trật tự trị an th́
chính quyền không thể đàn áp. Phong trào tiến về Washington (1963) do
mục sư da đen Martin Luther King dẫn đầu có 200 ngh́n người tham gia đưa
đến kết quả ngay năm sau Quốc hội Mỹ thông qua Luật Dân quyền (Civil
rights bill) cấm các hành vi phân biệt đối xử về bầu cử, việc làm, nhà
ở. Các cuộc mít tinh biểu t́nh rầm rộ chống chiến tranh Việt Nam năm
1967-1969 dẫn đến việc chính phủ Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến này năm 1973.
Nếu không có các phong trào đấu tranh th́ rất khó buộc chính phủ Mỹ sớm
thay đổi chính sách, v́ chính phủ chịu sức ép rất lớn từ các nhóm lợi
ích cực đoan có thế lực rất mạnh như nhóm phân biệt chủng tộc, tổ hợp
quân sự-công nghiệp (military-industrial complex), giới trùm tài chính
phố Wall.
Xă hội công dân Mỹ hiện nay
Nước Mỹ có XHCD sớm, lớn mạnh và hoạt động hiệu quả nhất; t́m hiểu nước
Mỹ sẽ có cái nh́n cụ thể về XHCD.
Ư tưởng XHCD xuất hiện ngay từ ngày mở đầu lịch sử nước Mỹ và mang đậm
dấu ấn tín điều tôn giáo. Ngày 21/11/1620, sau 66 ngày vượt Đại Tây
Dương, chiếc thuyền buồm Hoa Tháng Năm(Mayflower) chở 102 người cặp bờ
Cape Cod tại Bắc Mỹ. Đây là những người Anh theo đạo Tin Lành v́ không
chịu nổi sự hăm hại của vua Anh mà liều ḿnh bỏ tổ quốc trốn sang Tân
Thế Giới để t́m kiếm một cuộc sống mới. Trước đó, ngày 11/11, tin rằng
ḿnh đă nằm ngoài phạm vi phán xử của bất kỳ chính phủ nào, 41 đàn ông
lớn tuổi trong số 102 người hành hương ấy đă tự nguyện kư một giao ước
gọi là Công ước Hoa Tháng Năm (Mayflower Compact, được soạn thảo bởi các
nhà lănh đạo họ bầu ra), cam kết sẽ thiết lập một chính quyền tự quản
(self government) trên nguyên tắc tự do, b́nh đẳng, công bằng của đạo
Tin Lành [6].
Đây là văn bản đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ xác lập ư tưởng xă hội tự
quản. Đó cũng là ư tưởng chung của tất cả các nhóm người Anh theo đạo
Tin Lành tự nguyện bỏ nước Anh đang rên xiết dưới chế độ phong kiến sang
châu Mỹ xây dựng cuộc đời tự do, trong đó có tốp người trên con thuyền
Hoa Tháng Năm. Các cộng đồng dân định cư (settlers) ấy lập ra các “thuộc
địa”, về sau hợp nhất thành Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Ư tưởng nói trên do
họ đề xướng rất cao cả và hợp ḷng người, v́ vậy cũng được tất cả những
người về sau di cư đến nước Mỹ (immigrants) tán thành. Nhờ thế nước này
có điều kiện thuận lợi nhất để h́nh thành XHCD, không phải mất nhiều năm
đấu tranh v́ việc đó như ở các nước khác.
Như vậy là trong khi tất cả các quốc gia đều được thiết lập trên cơ sở
những người cùng dân tộc, tiếng nói và truyền thống văn hóa, – gọi chung
là quốc gia-dân tộc (Nation-state) – th́ nước Mỹ là quốc gia duy nhất
được thiết lập trên một nền tảng độc đáo: tất cả mọi người đều có chung
một ư tưởng, cho dù nước này gồm nhiều dân tộc từ hơn 100 nước trên thế
giới đến, khác nhau về huyết thống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và
nhiều thứ.
Samuel Huntington cho rằng ư tưởng đó thể hiện “các nguyên tắc tự do,
b́nh đẳng, chủ nghĩa cá nhân, chính quyền thay mặt cho nhân dân, và sở
hữu tư nhân”, “là sự sáng tạo độc đáo của văn hóa Tin Lành” [7]. Hơn 150
năm sau, nó được ghi vào Tuyên ngôn Độc lập rồi Lời nói đầu (Preamble)
Hiến pháp Mỹ. Năm 1917 lại được Thư kư Quốc hội Mỹ William Tyler Page
viết thành một văn bản chẵn 100 từ cho dễ nhớ, gọi là Niềm tin của người
Mỹ (The American’s Creed), và được Quốc hội Mỹ thông qua ngày 3/4/1918
[8]. Niềm tin ấy trở thành ư thức hệ có một không hai của nước Mỹ.
Người Mỹ tin rằng mọi người sinh ra b́nh đẳng, được tạo hóa ban cho các
quyền tự do dân chủ; tin rằng chính quyền dân cử là của dân, do dân, v́
dân, là đầy tớ của dân. Vào thời ấy những ư nghĩ này thật xa lạ với
người dân các nước khác, kể cả hầu hết châu Âu đang sống dưới chế độ
phong kiến, chính quyền là kẻ cai trị, áp bức bóc lột dân.
Người Mỹ tin rằng nước họ không có phân biệt giai cấp; chỉ có một loại
người là công dân, hoàn toàn b́nh đẳng về cơ hội nhưng không b́nh đẳng
về kết quả, và ai cũng có quyền sở hữu tài sản (hiện nay 68% dân Mỹ và
65% người Mỹ gốc Việt có nhà riêng kiểu biệt thự). Nông dân (hiện chiếm
0,7% số dân, hầu hết là chủ nông trại), công nhân (working class, chiếm
khoảng 13% số dân) hoặc nhà tư bản (1% số dân) đều là công dân. Phân
chia theo thu nhập th́ xă hội Mỹ có hai thiểu số người giàu, người nghèo
và một đa số trung lưu chiếm khoảng 80% số dân [9]. Các tín đồ Tin Lành
cho rằng nghèo do lười là tội lỗi. Người nghèo, kể cả hành khất và thất
nghiệp, cũng tin rằng nếu chịu khó phấn đấu th́ sẽ giàu có, cho nên họ
không ghen ghét hoặc chống lại người giàu. Ở Mỹ người giàu được tôn
vinh, coi là tấm gương phấn đấu thành đạt, nhất là người tay trắng làm
nên. Nh́n chung xă hội Mỹ không có mâu thuẫn nội bộ gay gắt, lực lượng
xă hội có khi đấu tranh (thậm chí quyết liệt) với chính quyền nhưng
không dùng bạo lực, đảo chính hoặc cách mạng lật đổ chính phủ.
Tuy hầu hết người Mỹ có cùng ư tưởng xây dựng một xă hội tự quản nhưng
để thực hiện điều đó họ phải đấu tranh lâu dài, gian khổ, thậm chí đổ
máu, bởi lẽ có không ít nhóm người v́ lợi ích riêng mà xâm phạm lợi ích
của đa số nhân dân. Sau khi trải qua các thời kỳ thuộc địa, chiến tranh
độc lập (1775-1781) và nội chiến (1861-1865), t́nh h́nh chính trị ổn
định dần, nước Mỹ ráo riết tiến hành công nghiệp hóa, nhờ đó kinh tế
tăng trưởng nhanh, đất nước ngày một phồn vinh, h́nh thành tầng lớp
trung lưu đông đảo, là các điều kiện khách quan và cơ sở xă hội để xây
dựng XHCD. Đồng thời nhà nước ban hành các đạo luật về quyền tự do lập
hội đoàn công dân, các tổ chức dân sự v.v.. tạo cơ sở pháp lư để XHCD
phát triển tới mức như ngày nay.
XHCD Mỹ có mấy đặc điểm: – Có rất nhiều tổ chức tự nguyện của công dân;
– Nhà nước tách rời tôn giáo; – Thực hành chủ nghĩa liên bang (khác với
chủ nghĩa quốc gia ở châu Âu); – Bảo vệ tự do cá nhân như một giá trị
của đạo Tin Lành; – Đạo đức xă hội văn minh và phong phú.
Dĩ nhiên muốn có XHCD th́ phải giải quyết mối quan hệ giữa riêng với
chung, cá nhân với xă hội, lợi ích của cá nhân với đạo đức xă hội, chủ
nghĩa cá nhân với chủ nghĩa lợi tha. XHCD Mỹ dựa trên chủ nghĩa cá nhân
và sự tham dự của cá nhân vào sinh hoạt xă hội nhưng sự tham dự ấy thực
hiện theo các khế ước (thỏa thuận) và ràng buộc của các mối quan hệ đạo
đức, kinh tế, xă hội, chính trị. Điểm tựa chủ yếu để XHCD tồn tại là
tinh thần lư trí, nghĩa là mỗi cá nhân đều phải hành xử một cách có lư
trí, tôn trọng công lư, biết tự chủ, có ư thức b́nh đẳng, tức không xâm
phạm lợi ích người khác. Đề cao cá nhân là đề cao quyền tự do định đoạt
số phận của mỗi người, chứ không phải là tự do vi phạm luân lư đạo đức,
xâm phạm lợi ích chung và lợi ích của người khác.
Tính tự chủ của người Mỹ được phát huy cao bởi lẽ nước Mỹ chưa trải qua
chế độ phong kiến như châu Âu. Điều đó làm nên nét đặc sắc của văn hóa
chính trị XHCD Mỹ; nền văn hóa này nhấn mạnh tính đạo đức hoặc tính tôn
giáo. Giáo lư phổ quát của đạo Tin Lành (Protestant Universalism) đề cao
chủ nghĩa cá nhân chứ không phải chủ nghĩa tập thể, do đó đề cao nhân
quyền và tư tưởng tự do, b́nh đẳng; nó trở thành nguyên tắc của nhà nước
cộng ḥa và của chính thể công dân (civic polity). Cá nhân được đặt ở vị
trí cao nhất, nhưng đó là cá nhân biết tự chủ.
XHCD Mỹ cũng chịu ảnh hưởng của thuyết Calvin [10]: chủ trương bảo vệ
giá trị đạo đức của cá nhân, nhấn mạnh tính cộng đồng và trách nhiệm của
mỗi người đối với cộng đồng; mọi việc riêng tư của các cá nhân đều được
xă hội quan tâm; các cá nhân được gắn giá trị cộng đồng.
Các nguyên tắc ư thức hệ mà người Mỹ tuân theo gồm: – Tiếp nhận giá trị
và niềm tin của nước Mỹ; – Coi tính tự chủ của cá nhân là cốt lơi của
nguyên tắc đoàn kết xă hội; – Các cá nhân phải tích cực tham dự xây dựng
trật tự xă hội và chính trị, thành viên mọi TCCD đều phải tham gia sinh
hoạt chung của xă hội.
XHCD Mỹ góp phần quan trọng vào việc quản lư mọi mặt đời sống xă hội.
Rất nhiều vấn đề nhà nước không thể làm được hết mà phải nhờ dân tự làm,
như giúp người nghèo đói, già yếu, lang thang cơ nhỡ, trẻ mồ côi, bảo vệ
môi trường, pḥng chống ma túy, chống bạo lực gia đ́nh v.v…Thí dụ mỗi
khi tuyết rơi dầy, có nhiều thanh niên tự động lái xe chạy trên đường
t́m giúp các xe bị kẹt trong tuyết. Sau biến cố 11 tháng 9, có nơi người
dân tự tổ chức canh gác bên ngoài các cửa hàng của người Mỹ gốc A Rập để
tránh bị những người quá khích đập phá. Trong cơn băo Katrina, có công
dân bỏ tiền túi thuê máy bay lên thẳng đến vùng bị lụt cứu người. Lĩnh
vực từ thiện thể hiện rơ nhất vai tṛ của các TCCD, mỗi năm hàng trăm tỷ
USD được các quỹ từ thiện dân lập đưa tới tận tay người cần giúp, nếu để
nhà nước làm th́ khó tránh khỏi thất thoát lăng phí.
Nằm giữa hai lĩnh vực nhà nước và cá nhân, XHCD có tác dụng điều ḥa lợi
ích cá nhân với lợi ích xă hội, tạo cơ hội để người dân thực hiện tốt
nhất các quyền làm chủ đất nước. XHCD thấm nhuần tín điều tự do, b́nh
đẳng và tồn tại độc lập với chính quyền đă trở thành động lực căn bản
làm cho nền dân chủ Mỹ phát triển lành mạnh: dân thực sự làm chủ nhưng
xă hội không hỗn loạn, toàn dân nghiêm chỉnh tôn trọng luật pháp và sự
điều hành của chính quyền, ngay cả khi kinh tế khủng hoảng, suy thoái
cũng vậy.
Hoạt động từ thiện ở Mỹ
Từ thiện là hoạt động quan trọng nhất trong XHCD Mỹ; khảo sát hoạt động
này sẽ thấy rơ vai tṛ của XHCD. Thực chất của hoạt động từ thiện là sự
tái phân phối công bằng của cải xă hội, nhằm đạt tới xă hội hài ḥa,
giảm mâu thuẫn nội bộ nhân dân chứ không đơn giản chỉ là thể hiện t́nh
thương người. V́ thế từ thiện có cả ư nghĩa chính trị to lớn. Sau Thế
chiến II, hoạt động từ thiện của người Mỹ được mở rộng ra ngoài nước;
kinh phí giúp nhân dân các nước nghèo lớn hơn cả từ thiện trong nước.
Hoạt động từ thiện ở Mỹ đạt tŕnh độ hoàn thiện cao và có quy mô lớn khó
tưởng tượng, 2/3 số tổ chức xă hội ở Mỹ là tổ chức từ thiện. Năm 1953
nước Mỹ có khoảng 50 ngh́n tổ chức từ thiện; năm 2008 con số này lên tới
1,4 triệu, với tổng tài sản chiếm 5% GDP nước Mỹ. Tiền quyên góp từ
thiện bằng khoảng 1,8% GDP. Năm 2007, tổng số tiền quyên góp từ thiện ở
Mỹ đạt kỷ lục 306 tỷ USD, gấp 3 lần GDP Việt Nam. Nếu không dành phần
lớn số tiền này giúp các nước nghèo trên thế giới mà đem chia đều cho
người Mỹ nghèo (giả thử là 20% số dân Mỹ, hoặc hơn 60 triệu người) th́
mỗi người được hơn 5000 USD, cao hơn thu nhập b́nh quân đầu người Trung
Quốc. Trong 306 tỷ nói trên có 229 tỷ USD là tiền góp từ các cá nhân
(một nửa từ 10% các gia đ́nh giàu nhất nước); 38,5 tỷ USD là tiền quyên
góp của các quỹ từ thiện. Tiếp theo là tiền hiến tặng của những người
qua đời, và của các công ty.
Từ thiện đă trở thành thói quen của người Mỹ. 70% các gia đ́nh làm từ
thiện, mỗi gia đ́nh hàng năm góp b́nh quân 900 USD hoặc 2,2% tổng thu
nhập; ngoài ra c̣n làm lao động công ích trị giá 1200 USD/năm góp cho từ
thiện.
Người giàu ở Mỹ hăng hái làm từ thiện; họ không quên danh ngôn Chết
trong giàu sang là cái chết ô nhục. Năm 2010, B. Gates cùng người giàu
thứ hai là W. Buffett phát động Phong trào cam kết hiến tặng, kêu gọi
các nhà giàu cam kết sẽ hiến ít nhất một nửa tài sản cho xă hội. 57
trong số 400 người giàu nhất nước Mỹ đă tham gia phong trào này. Gates
và Buffett cam kết hiến 98 và 99% tài sản riêng.
Lịch sử làm từ thiện bắt nguồn từ truyền thống văn hóa ḍng chính của
nước Mỹ, đó là giá trị quan của những người Anglo-Saxon da trắng theo
đạo Tin Lành (WASP, chủ yếu đến từ nước Anh). Đạo này cho rằng người
giàu chỉ là người quản lư tài sản của Thượng Đế (tức xă hội); nghĩa là
về pháp lư, tài sản do tư nhân sở hữu nhưng về đạo đức và giá trị quan
th́ mọi tài sản vượt quá mức chi dùng của cá nhân đều thuộc về xă hội.
Tân Ước nói người giàu khi chết khó được lên Nước Chúa. Kinh Thánh viết
mọi tín đồ phải góp 1 phần 10 thu nhập hàng năm của ḿnh cho Thượng Đế
để giúp người nghèo, gọi là thuế Tithe nộp cho nhà thờ (Church tax).
Ngoài ra, người Mỹ có thói quen đề cao giá trị cá nhân và những người
sống tự lập (self made man), chỉ kế thừa tinh thần chứ không kế thừa tài
sản, coi việc được hưởng tài sản ḿnh không làm ra là trái luân lư; cho
rằng để lại tài sản lớn cho con chỉ làm chúng hư hỏng.
Tổ chức từ thiện đầu tiên ra đời ở Mỹ là Hội Kỹ nữ hoàn lương (Magdalen
Society, lập năm 1800). Về sau nước Mỹ giàu lên, của cải dư dật, những
người giàu dẫn đầu làm từ thiện. Năm 1911 vua sắt thép A.Carnegie lập
Quỹ Carnegie New York, đặt nền móng cho hoạt động từ thiện hiện đại. Quỹ
góp ngay 5,6 triệu USD cho công tác giáo dục, lớn hơn cả ngân sách giáo
dục của chính phủ. Trước khi chết, Carnegie hiến 330 triệu USD cho Quỹ
này.
Công lao lớn của Carnegie là đă sáng tạo mô h́nh Quỹ từ thiện vận hành
theo nguyên tắc thương mại, quản lư Quỹ như quản lư công ty; như vậy vốn
của Quỹ bảo tồn được lâu dài. Khi ấy làm từ thiện trở thành công việc
phức tạp đ̣i hỏi trí tuệ, không đơn giản chỉ quyên góp tiền rồi chia cho
người nghèo. V́ thế tỷ phú Bill Gates phải xin nghỉ hưu để chuyên trách
quản lư Quỹ Bill & Melinda Gates (năm 2009 có tài sản hơn 33,5 tỷ USD)
sao cho đồng tiền bát gạo tới được tay người nghèo. Ngày nay Quỹ từ
thiện là các tổ chức xă hội hợp pháp dùng tài sản của tư nhân để tài trợ
cho giáo dục, khoa học, y tế, vệ sinh công cộng và các sự nghiệp công
ích khác, với trọng điểm là giáo dục, y tế, vệ sinh.
Có mấy yếu tố giúp hoạt động từ thiện phát triển mạnh. Thứ nhất, nước Mỹ
ngày càng lắm người giàu, có nhiều của cải dư thừa để chia cho người
nghèo. Năm 1880 cả nước có chưa đầy 100 triệu phú, năm 1916 đă có hơn 40
ngh́n, trong đó có người sở hữu tài sản trên 100 triệu USD. Hàng năm các
tạp chí Forbes, Fortune công bố danh sách người giàu nhất và người làm
từ thiện nhiều nhất nước Mỹ, nhằm tôn vinh và nhắc nhở bổn phận nhân đạo
của họ.
Thứ hai, Chính phủ Mỹ có biện pháp cụ thể khuyến khích dân làm từ thiện,
như chính sách giảm hoặc miễn thuế thu nhập đối với người có quyên góp
từ thiện, và áp thuế suất cao đánh vào tài sản thừa kế. Năm 1913, Chính
phủ Mỹ bắt đầu thu thuế thu nhập cá nhân. Bốn năm sau, Quốc hội thông
qua luật cho phép giảm thuế thu nhập đối với người dùng tiền hoặc hiện
vật quyên góp từ thiện. V́ thế người giàu làm từ thiện là có lợi cho
chính họ, lại được tiếng thơm.
Năm 1797 chính phủ Mỹ bắt đầu thu thuế tài sản thừa kế (thuế di sản,
inheritance tax) để lấy tiền xây dựng hải quân. Từ năm 1916, thuế di sản
trở thành thành thuế cố định, có thuế suất lũy tiến, phải nộp thuế rồi
mới được thừa kế di sản (trừ tài sản để lại cho vợ hoặc chồng). Thí dụ
để thừa kế di sản trị giá 10.000 USD, người thừa kế phải nộp 5000 USD.
Di sản lớn chịu thuế suất 55%. Những người khôn ngoan đều hiến cho xă
hội tài sản lớn họ được thừa kế. Rất nhiều người giàu trước khi chết đều
hiến tài sản cho các tổ chức từ thiện.
V́ là sự tái phân phối của cải xă hội nên hoạt động từ thiện phụ thuộc
vào t́nh h́nh kinh tế. Mấy năm nay kinh tế Mỹ suy thoái, tiền quyên góp
từ thiện giảm theo. Ngoài ra, cá biệt quỹ từ thiện có hành vi gian dối
hoặc tham nhũng cũng làm giảm ḷng tin của dân chúng, do đó giảm lượng
tiền quyên góp.
Xă hội công dân là một xă hội văn minh tiến bộ
Qua khảo sát XHCD Mỹ, có thể thấy các tổ chức công dân (TCCD) đă giúp
người dân có được năng lực chưa từng thấy trong lịch sử để thực thi
quyền làm chủ đất nước. Qua TCCD, mọi người có dịp thống nhất quan điểm
trước các vấn đề chung, liên kết nhau giám sát hoạt động của chính
quyền, bảo vệ lợi ích chung. Khi cần, họ có thể gây sức ép đ̣i chính phủ
thay đổi chính sách hoặc người lănh đạo và các đ̣i hỏi đó thực hiện
trong khuôn khổ luật pháp.
XHCD phát huy được ư thức làm chủ, tinh thần trách nhiệm đối với xă hội
và ḷng yêu nước của mỗi người dân, làm cho xă hội trở nên ổn định, trật
tự, văn minh, đạo đức.
XHCD tạo sức ép buộc chính quyền phải lắng nghe dân, làm việc v́ dân,
công bằng, liêm chính; qua đó hạn chế sự tập trung quyền lực và hậu quả
kèm theo như lạm quyền, độc đoán và tham nhũng. XHCD đă làm nước Mỹ thay
đổi theo hướng có một chính quyền quy mô gọn nhẹ và thực sự phục vụ dân.
XHCD với hàng triệu TCCD tạo ra một nguồn vốn xă hội phong phú rất cần
cho chính quyền, nhất là khi nước Mỹ ngày càng hiếm những lănh tụ đức
tài cao siêu như Lincoln, Wilson, F.Roosevelt. Các chính phủ Mỹ đều biết
tận dụng nguồn vốn đó, nhất là nguồn trí tuệ nằm ở các trường đại học,
Think-tank v.v.., nhờ thế tránh được những sai lầm chiến lược. Các TT
đều dựa vào một hoặc một nhóm Think-tank nào đó chuyên tham mưu hiến kế
về chiến lược đối nội đối ngoại và cung cấp cán bộ.
Các NGO, đặc biệt là hội Chữ thập đỏ, thường được chính phủ dùng làm
kênh phi chính thức để giải quyết các vấn đề đối ngoại nhạy cảm mà chính
phủ không tiện đứng ra làm.
XHCD c̣n giúp tái phân phối của cải cho người nghèo một cách công bằng,
làm cho xă hội ḥa hợp, đoàn kết, bớt mâu thuẫn nội bộ. Các NGO thực
hiện tốt việc viện trợ nhân đạo quy mô lớn cho các nước nghèo, góp phần
quảng bá trên thế giới các giá trị nhân đạo, nhân quyền, dân chủ, b́nh
đẳng, qua đó nâng cao vị thế của nước Mỹ.
V́ XHCD san xẻ bớt công việc quản lư xă hội nên chính phủ Mỹ ủng hộ
XHCD. Toàn bộ các tổ chức phi chính phủ đều được miễn thuế, một số được
chính quyền tài trợ. Nhà nước coi trọng giáo dục ư thức công dân cho lớp
trẻ. Sách Giáo dục công dân viết: Nếu chính quyền có sai trái th́ bạn
phải phê b́nh họ, như vậy là bạn có thái độ xây dựng. Nếu thấy nhà nước
sai mà bạn vẫn nói là đúng, th́ đó là thái độ phá hoại [3]. Chính quyền
và xă hội hỗ trợ lẫn nhau cùng v́ lợi ích của nước Mỹ, nhờ thế quốc gia
này giữ được ổn định chính trị suốt hơn 200 năm nay, kể cả trong các
cuộc khủng hoảng-suy thoái kinh tế nghiêm trọng.
XHCD góp phần quyết định khiến người dân cảm thấy ḿnh thực sự là chủ
nhân của đất nước; do đó họ thực ḷng yêu tổ quốc – điều quư giá nhất
không nhà nước nào không mong muốn. XHCD làm cho nước Mỹ có một dạng sức
mạnh mềm hiếm thấy, khiến nước này luôn đứng đầu danh sách quốc gia thu
hút dân từ các nước khác di cư đến, trong đó có nhiều nhân tài. Trung
tướng Lưu Á Châu Chính ủy ĐH Quốc pḥng Trung Quốc nhận xét: Nước Mỹ có
một sức mạnh vĩ đại về tinh thần và đạo đức, là quốc gia do nhiều triệu
con người không yêu tổ quốc ḿnh họp thành nhưng họ đều rất yêu nước Mỹ
[11].
Xem thêm:
——————
Ghi chú
[1] “Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely.”
[2]Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học. A.M.Rumiantxep. Nxb Sự thật, Hà
Nội 1986
[3] Tạp chí Tia Sáng số 14 (20/7/2011), tr. 32
[4] “The reason why men enter into society is the preservation of their
property”
http://thinkexist.com/quotation/the_reason_why_men_enter_into_society_is_the/211689.html
[5] “Private property was the original source of freedom. It still is
its main bulwark”
[7] Who Are We? The Challenges to America’s National Identity. Samuel
Huntington
[8] http://www.usflag.org/american.creed.html
[9] Vấn đề phân chia tầng lớp giai cấp ở Mỹ rất phức tạp (thí dụ hiện có
nhiều triệu cựu chiến binh hưởng trợ cấp, rất khó xếp vào tầng lớp nào).
Có nhiều cách phân chia khác nhau. Ở đây dùng cách của Dennis Gilbert.
Mỹ hiện có 311 triệu dân. Trong đó có 11,60 triệu công nhân nhà máy
(chiếm 9% working class); xét về thu nhập, họ thuộc tầng lớp trung lưu
(lương trung b́nh mỗi giờ 15-20 USD). Người lao động nghèo chiếm 13% số
dân. Tầng lớp nghèo chiếm 12%, chủ yếu là thất nghiệp.
[10] Calvinism: học thuyết thần học do John Calvin (1509-1564) đề xướng,
phủ nhận uy quyền của giáo hội La Mă, chủ trương bất cứ ai cũng không
được có quyền lực vô hạn, tín đồ phải làm tṛn bổn phận công dân, nhấn
mạnh nỗ lực của cá nhân chứ không coi trọng các định chế, loại trừ xu
hướng huyền bí nặng về nghi thức. Có tác dụng thúc đẩy sự ra đời chủ
nghĩa tư bản.
[11] Niềm tin và Đạo đức.
http://tuanvietnam.net/2010-08-15-niem-tin-va-dao-duc.