MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
v White House v National Archives v
v Federal Register v Congressional Record
v USA Government v Congressional Record
v Associated Press v Commieblaster
v Reuter News v Real Clear Politics
v MediaMatters v C-SPAN v.CBS
v Videos Library v Judicial Watch v
v New World Order v Illuminatti News
v New Max v CNSv Daily Storm v
v Observe v American Progress v
v The Guardian v Political Insider v
v Ramussen Report v Wikileaks v
v The Online Books Page v Breibart
v American Free Press v Politico Mag
v National Review - Public Broacast v
v Federation of Anerican Scientist v
v Propublica v Inter Investigate v
v ACLU Ten v CNBC v Fox News v
v CNN v FoxAtlanta v Gateway
v Indonesian News v Philippine News v
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển Bách Khoa VN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v
v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v
v Khoa HọcTV v Sai Gon Echo v
v Viễn Đông v Người Việt v
v Việt Báo v Việt List v Xây Dựngv
v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu
v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv
v Việt Tribune v Saigon Times USA v
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v
vLao Động vThanh Niên vTiền Phong
vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới v Đỉnh Sóng
vChúng Ta v Eurasia v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ
v
Văn Học v
Điện Ảnh
v
Cám Ơn Anh
v
TPBVNCH
v1GĐ/1TPB
v
Bia Miệng
VỀ TRƯỜNG PHÁI THƠ “TÂN… CON CÓC” CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
TRẦN MẠNH HẢO
(Tham luận của TMH gửi cuộc hội thảo: ”Nguyễn Quang Thiều trong sự đổi mới thơ Việt Nam đương đại" do Viện Văn học tổ chức sắp tới)
Có thể nói, trong làng báo, làng văn ở Việt Nam hôm nay, Nguyễn Quang Thiều là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất. Về sự đa tài của ông Thiều ( nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch bản điện ảnh, họa sĩ, nhà dịch thuật văn học…) chỉ kém trung tướng Hữu Ước (nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà điện ảnh, họa sĩ, nhạc sĩ, nhà nhiếp ảnh…)
Riêng về thơ, Nguyễn Quang Thiều đang được các nhà “Thiều học” ca ngợi c̣n hơn cả Nguyễn Du, Nguyễn Trăi, Hồ Xuân Hương; rằng Nguyễn Quang Thiều là “Cây ánh sáng” soi sáng cho nền thơ hiện đại Việt Nam; rằng Nguyễn Quang Thiều là người bẻ ghi cho con tàu thi ca Việt Nam ra với thế giới…
Công bằng mà nói, trong biển cả miên man vô tận của thứ thơ phi truyền thống, phi h́nh tượng, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi biểu tượng, phi nội hàm, phi truyền cảm… của Nguyễn Quang Thiều, ta vẫn t́m được đây đó một số câu và đoạn thơ hay:
Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Bằng khúc ruột tôi đă chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành con giun đất
Ḅ âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Ḅ quằn quại qua khu mồ ḍng họ
Ḅ qua băi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy ṛng ṛng
Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên ḷ gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi.
Ông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngơ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát cơn đau tôi là tóc mẹ bến ṃn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.
Mẹ tôi đă già như cát bên bờ - Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi - Tôi qú xuống vốc cát ấp vào mặt - Tôi khóc - Cát từ mặt tôi chảy xuống ḍng ḍng”
Theo tiêu chuẩn tối thượng HAY –DỞ định giá trị thi ca, muốn t́m năm bài thơ hay của Nguyễn Quang Thiều để in vào tuyển tập thơ Việt Nam là điều không thể.
Theo tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật: http://www.tienve.org, nơi in tất cả các sáng tác của Nguyễn Quang Thiều, viết về tiểu sử của ông như sau:
“Sinh năm 1957 tại Hà Tây. Hiện sống ở Hà Đông. Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia, và dịch giả, đă đoạt nhiều giải thưởng văn học ở Việt Nam.
Ông đă xuất bản nhiều tập thơ, gồm có: Ngôi nhà tuổi 17 (1990); Sự mất ngủ của lửa (1992); Những người đàn bà gánh nước sông (1995); Những người lính của làng (1996); Thơ Nguyễn Quang Thiều (1997); Nhịp điệu châu thổ mới (1997); và Bài ca những con chim đêm (2000). Tập thơ The Women Carry Water (bản Anh ngữ của cuốn Những người đàn bà gánh nước sông) được University of Massachusetts Press xuất bản năm 1997, và được The National Translation Association of America trao giải thưởng vào năm 1998. Thơ của ông đă được dịch và đăng trên rất nhiều tập san văn học trên thế giới.
Ông đă xuất bản 2 tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 tập truyện cho thiếu nhi, và 1 tập tiểu luận. Hai tập truyện ngắn của ông đă được dịch và xuất bản tại Pháp: La Fille Du Fleuve (1997), và La Petite Marchande De Vermaicelles (1998). Ông cũng tham gia vào lĩnh vực điện ảnh và sân khấu, và nhiều kịch bản của ông đă được dựng thành phim.
http://www.tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=113
NGUYỄN QUANG THIỀU NỔI LÊN NHỜ HỮU ƯỚC
“Nguyễn Quang Thiều nổi lên nhờ Hữu Ước” là kết luận của Hai Xe Ôm ( Phạm Viết Đào) trong bài viết: “Con bài Nguyễn Quang Thiều trong ván cờ chính trị của Hữu Thỉnh” chúng tôi sẽ dẫn dưới đây. Trước hết, chúng tôi xin trích lời nhà thơ, nhà báo Hữu Việt in trong bài “Nguyễn Quang Thiều rời báo Văn Nghệ như anh kép hát rời sân khấu” in trên http://vietbao.vn như sau:
Ông (tức Nguyễn Quang Thiều) tiếp tục cuộc chơi của ḿnh, lần này trên An ninh Thế giới cuối tháng. Ông là người chủ chốt lập đề cương và tổ chức thực hiện.
Tờ báo này nổi đ́nh nổi đám một thời gian dài có lẽ nhờ phần đóng góp không nhỏ của Nguyễn Quang Thiều. C̣n nhớ, khi chiến tranh Mỹ - Afghanistan xảy ra, vào năm 2001, Thiều đă xung phong sang chiến trường này, và hoạt động như một phóng viên chiến tranh.
Bởi vậy, nhà văn, TBT Hữu Ước đă có những cách đối xử rất "anh Hai" với ông. Chính xác hơn, đây là cách ứng xử của một người anh với thằng em mà ḿnh rất yêu quư. Cho dù có chuyện ǵ xảy ra th́ Nguyễn Quang Thiều vẫn là “công thần” của ANTG.
Năm 2003, ông không tham gia ANTG cuối tháng nữa, nhưng hàng tháng, ông vẫn nhận được một khoản tiền thù lao. Khi ông cố từ chối th́ nhà văn Hữu Ước đă nói, đại ư: Đây là tiền "bản quyền tác giả" ANTG cuối tháng của ông. Ông phải nhận nó khi nào Hữu Ước c̣n là TBT và tờ ANTG cuối tháng c̣n xuất bản...
“Trước khi về báo Văn Nghệ, đại khái người ta chỉ biết ông tốt nghiệp đại học ở Cuba và vào thời điểm ấy ông là một trong số hiếm hoi các nhà văn trẻ biết tiếng Anh khá.
Ông làm việc ở một cơ quan quan trọng nào đó, nhưng khi ra ngoài công khai, giấy tờ chính thức của ông là cán bộ Bộ Y tế. Ít ai ngờ, nhà thơ trẻ ấy sau này lại trở thành một người làm báo - và viết báo.”
Đây là từ điển mạng http://vi.wikipedia.org viết về Nguyễn Quang Thiều:
“Ông được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo tương đối phổ biến ở Việt Nam hiện nay là tờ An ninh thế giới cuối tháng và cảnh sát toàn cầu[5]”
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Quang_Thi%E1%BB%81u
Nhà thơ Phạm Khải trên tờ Công an nhân dân viết về Nguyễn Quang Thiều như sau:
Với nhà văn Hữu Ước, Nguyễn Quang Thiều nhớ lại lần anh để xảy "tai nạn nghề nghiệp" khi phụ giúp ông làm tờ An ninh thế giới Cuối tháng: Nhà văn Hữu Ước, mặc dù - nói như Nguyễn Quang Thiều "nổi tiếng là người thẳng tính và nóng tính", song lúc ấy "ông chỉ hút thuốc lào vặt hết điếu này đến điếu khác. Những lúc ấy tôi có cảm giác như ông đă làm xong mọi việc mà cuộc đời ông phải làm hoặc là trong cuộc đời này ông chẳng có việc ǵ phải làm cả. Chỉ có hút thuốc lào và uống rượu trong im lặng".
Từ đây, Nguyễn Quang Thiều có những khái quát về bản lĩnh của ông nhà văn đang giữ cương vị Tổng biên tập: "Bây giờ tôi hiểu ra rằng: Có những lúc ông rơi vào những hoàn cảnh khó khăn như vực thẳm, như núi cao mà ông vẫn thanh thản đối mặt và thanh thản đi qua với một thái độ "chẳng có ǵ quan trọng".
"Chẳng có ǵ quan trọng" không phải là không có ǵ quan trọng mà bởi trong ḷng ông ngập tràn ḷng tin và thanh thản chấp nhận mọi điều có thể xảy ra như ông đă từng chấp nhận".
(Nhân đọc tập sách “ Người” của Nguyễn Quang Thiều và Lê Thiết Cương – Phạm Khải)
http://vnca.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=53314
Trên trang mạng của Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, nhà báo Mai Hồng viết về Nguyễn Quang Thiều như sau:
“Nhà văn, Thiếu tướng Hữu Ước có mặt tại triển lăm cười thật tươi mà nói rằng: "Lê Thiết Cương và Nguyễn Quang Thiều là những người bạn, người em của tôi.”
(Bài Chung niềm yêu thương với Người- Mai Hồng)
http://vov.vn/Home/Chung-niem-yeu-thuong-voi-NGUOI/200810/98487.vov
Trên trang mạng của báo Công an nhân dân, nhà báo Duy Hiển viết về Nguyễn Quang Thiều như sau:
“Nói về những kỷ niệm làm tờ An ninh thế giới cuối tháng (sau thêm số giữa tháng), nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kể: Khi tờ An ninh thế giới hằng tuần đă có vị thế lớn, anh Hữu Ước quyết định làm một tờ báo sang trọng hơn và chúng tôi đă giúp anh thực hiện quyết định đó. Đến nay, tờ An ninh thế giới cuối tháng (giữa tháng) vẫn giữ vị trí đáng nể trong số vô vàn các ấn phẩm báo chí…”
(Bài : Gặp mặt những người làm nên thương hiệu An ninh thế giới và Văn hóa Văn nghệ công an- Duy Hiển)
http://www.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=160115
Nhà thơ đại tá công an Hồng Thanh Quang viết về Nguyễn Quang Thiều trên tờ Công an nhân dân như sau:
Tổng biên tập Hữu Ước giao cho nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (người danh chính ngôn thuận biên chế thuộc báo Văn nghệ nhưng từ lâu đă gắn bó với ANTG, được Tổng biên tập biệt đăi vừa như em, vừa như khách) và tôi phác thảo đề cương tờ báo mới. Khi đă thống nhất được những chuyên mục chính của báo, anh lập tức "bật đèn xanh" cho ra đời một ban biên tập do anh trực tiếp nắm.
(Bài: “Anh ninh thế giới cuối tháng- 5 năm là bấy nhiêu t́nh-Hồng Thanh Quang)
Một bài trên tờ Lao động viết về chuyến đi thực tế cuộc chiến tranh ở Afghanistan của đại tá công an Nguyễn Như Phong và Nguyễn Quang Thiều như sau:
Đây là sáng kiến của Hữu Ước, Tổng Biên tập báo An Ninh Thế Giới và Văn Nghệ Công An Nhân Dân. Cái đáng kể nhất là tài chính, cũng do báo này lo hết.
Trích bài: (hai nhà báo đến với chiến trường Afghanistan)
http://www1.laodong.com.vn/pls/bld/display$.htnoidung
(40,16535)
Nhà thơ đại tá công an Hồng Thanh Quang viết trên tờ Công an nhân dân như sau:
“Tôi không rơ anh đă phải uống hết bao nhiêu ly rượu nhưng anh đă nghĩ ra được một độc chiêu: biết là kiểu ǵ Mỹ cũng sẽ tấn công Afghanistan (lúc ấy đang do Taliban cai quản), anh cử ngay hai cây bút vào hàng cự phách của toà soạn là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Phó Tổng biên tập ANTG Nguyễn Như Phong sang Pakistan với nhiệm vụ làm sao thổi được không khí nóng bỏng từ đó lên những trang báo các ấn phẩm của ANTG, cả tờ tuần lẫn tờ cuối tháng.”
(bài : ANTG cuối tháng-5 năm là bấy nhiêu t́nh-Hồng Thanh Quang)
http://ca.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=84544
(DVT.vn) - 9 giờ ngày 5/2, Hội Nhà văn Việt Nam đă khai mạc Liên hoan Thơ châu Á - Thái B́nh Dương lần thứ nhất và Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 10. Đây là h́nh ảnh Nguyễn Quang Thiều trong ngày hội liên hoan thơ châu Á Thái B́nh Dương lúc 9 giờ sáng ngày 5/2/2012 tức 14 tháng Giêng âm lịch, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam đă long trọng khai mạc Liên hoan Thơ châu Á - Thái B́nh Dương lần thứ nhất và Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 10.
Bài: “Liên hoan Thơ châu Á - Thái B́nh Dương và Ngày Thơ Việt Nam”-
Chủ nhật, 05/02/2012 19:35
Trên mạng của nhà văn Phạm Viết Đào trong bài “CON BÀI NGUYỄN QUANG THIỀU: TRONG VÁN CỜ CHÍNH TRỊ CỦA HỮU THỈNH?” có đoạn viết như sau:
Nguyễn Quang Thiều một thời đầu quân cho Hữu Ước làm tờ An ninh thế giới cuối tháng.
C̣n Nguyễn Quang Thiều nổi lên là nhờ Hữu Ước và Vietnamnet chứ nếu xem xét dưới góc văn chương th́ Thiều cũng chưa chứng minh được ǵ nhiều trong những năm gần đây
“Quan Văn” Thiều vốn là một chiến binh có kinh nghiệm và khả năng chinh phạt thương trường qua thức thách của những việc làm tại làm 2 tờ báo Vietnamnet và An nin cuối tháng; hiện nay Thiều đang làm tờ Cảnh sát H́nh sự”
Khi làm An ninh cuối tháng, Cảnh sát H́nh sự, Thiều chỉ lo phần bài vở c̣n phần hậu cần quân lương đă có Hữu Ước lo
Trúng cử được vào Ban chấp hành và chức vụ Phó Chủ tịch, rất nhiều người thấy ngộ khi nh́n thấy Thiều ngay lập tức xuất hiện trên báo Công an nhân dân với trang phục Comple cà vạt.
Nh́n nét mặt Thiều quả rất ngộ: quắc thước, mắt ngước nh́n lên như Stalin, như Gorbachop nhưng thần thái th́ vẫn chưa dấu được cái đuôi sĩ; tức đuôi hề…
Trong 5 năm gần đây, giới văn chương không thấy năng lực văn chương của Thiều phát tiết ǵ nhiều”
Trên trang mạng http://vnexpress.net có bài viết về những lời ca tụng của Nguyễn Quang Thiều với Hữu Ước như sau:
24 chân dung bằng chữ của Nguyễn Quang Thiều và 10 bức chân dung bằng đường nét và màu sắc của Lê Thiết Cương hội tụ trong triển lăm mang tên "Người", khai mạc tại Gallery 39 Lư Quốc Sư, Hà Nội, chiều 27/10.
Cuốn sách của Nguyễn Quang Thiều tập hợp 24 bài viết về những nhân vật nổi tiếng trong giới văn nghệ mà anh từng gặp gỡ như: Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Bảo Ninh, Hữu Ước...
( Bài : Nhà thơ và họa sĩ vẽ “ Người”)
http://vnexpress.net/gl/van-hoa/my-thuat/2008/10/3ba07d6f/
Trên website http://vietbao.vn Nhà thơ, nhà báo Hữu Việt đă hé mở VÙNG TỐI NGUYỄN QUANG THIỀU, từ VÙNG TỐI hết sức bí mật này, ông Thiều được những cơ quan chức năng siêu bí mật làm giả hồ sơ, biến ông từ một nơi CƠ QUAN QUAN TRỌNG- hoạt động bí mật sau khi học ở Cu Ba về VỚI MỘT LƯ LỊCH GIẢ để ông ra công khai, rằng ông Thiều từng làm ở cơ quan y tế, nay được chuyển sang hoạt động văn học nghệ thuật như sau:
Trước khi về báo Văn Nghệ, đại khái người ta chỉ biết ông tốt nghiệp đại học ở Cuba và vào thời điểm ấy ông là một trong số hiếm hoi các nhà văn trẻ biết tiếng Anh khá.
Ông làm việc ở một cơ quan quan trọng nào đó, nhưng khi ra ngoài công khai, giấy tờ chính thức của ông là cán bộ Bộ Y tế. Ít ai ngờ, nhà thơ trẻ ấy sau này lại trở thành một người làm báo - và viết báo.
Trích bài: “Nguyễn Quang Thiều rời báo Văn Nghệ: Nỗi buồn của anh kép rời sân khấu”- nhà thơ, nhà báo Hữu Việt”
QUAN ĐIỂM THI CA CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
Trong bài viết: “Trong khu vườn của người đàn bà tên Thúy”, như một định đề nghệ thuật, một xác tín thi pháp, một ẩn dụ tiêu chí thi ca, một định hướng thi pháp, một tuyên ngôn thơ thông qua trường hợp sáng tác của nhà thơ nữ trẻ Đinh Thị Như Thúy, Nguyễn Quang Thiều trang trọng đến rưng rưng thơ hóa lư luận, như sau:
“Nhưng quan niệm về nghệ thuật thơ ca của tôi đang tiến đến điểm cuối của một quan niệm mà tôi đă từng đọc, đă từng chống đối, đă nh́n lại, đă bị thuyết phục và trở thành đồng nhất. Đó là: ngôn ngữ thơ ca gần với tiếng nói đời thường nhất
….
Sự quyến rũ của ngôn ngữ không phải là sự tầng tầng lớp lớp những nghĩa và những cấu trúc đầy tính h́nh thức mà chúng ta cố tạo ra cho nó hay t́m cách gán ép cho nó. Mà sự quyến rũ của ngôn ngữ là khi nó bị ném thẳng vào bức tường của sự thật và ngay lập tức bật trở lại như chúng ta ném một quả bóng.
…
…Với cách nh́n đó, Đinh Thị Như Thuư là một trong không nhiều những nhà thơ tôi đọc đi đọc lại. Đinh Thị Như Thuư là nhà thơ của ai và thuộc thế hệ nào của thơ ca Việt Nam?
...
Tôi đọc tất cả những tập thơ Đinh Thị Như Thuư đă xuất bản. Có những bài thơ của chị tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Có những lần đọc nhưng không chú tâm để hiểu và cũng không lợi dụng những điểm tương đồng để tự tạo những cảm xúc cho ḿnh. Đọc như đi qua một cánh đồng, một ḍng sông hay một thị trấn mà không có mục đích. Và chính xác hơn, đọc như đứng trong một ngôi nhà đă mở hết các ô cửa, không có ai ở đó, không có bất kỳ sự chỉ dẫn nào, mà đứng với một sự mở bốn phía để bắt đầu cuộc tṛ chuyện. Sự đọc ấy giống như người ta vẫn đi trên con đường từ nhà ra cánh đồng và trở về trong suốt cuộc đời ḿnh. Và hành tŕnh liên tục như sự tự nhiên của đời sống này làm cho ta một ngày không thể rời xa được.Nhưng trong bài viết này, tôi lấy bài thơ dài Nơi ngày đông gió thổi để tṛ chuyện. Mà thực ra, tôi cũng không dùng những câu thơ trích để nói về thơ chị hay con người chị. Đó thực sự chưa hẳn là mục đích của bài viết này. Tôi nói về thơ chị như bấy lâu nay những bài thơ của chị vẫn chập chờn đâu đó. Nó nhiều lúc chẳng rơ ràng trong tôi. Nó luôn luôn tạo ra một cảm giác “ở đâu đấy” quanh tôi. Vừa gần gũi vừa xa lạ. Vừa đóng lại và vừa mở ra. Vừa như những bài thơ có khả năng giấu đi mọi phô diễn của kỹ thuật ngôn từ và vừa như là sự liên tiếp của những hành động vụng về nhưng chính xác đến không tưởng. Nhưng có một điều bất biến kể từ khi tôi đọc tập thơ đầu tiên cho đến những bài thơ mới nhất của chị. Điều bất biến đó là tôi chưa bao giờ đi ra khỏi ư nghĩ của ḿnh khi đọc những câu thơ của chị — ư nghĩ về người đàn bà mang tên Thuư chỉ sống trong một khu vườn từ lúc sinh ra đến bây giờ và chắc chắn đến giây phút chị rời bỏ sự hiện hữu của chị trên thế gian. Nhưng quả thực, ư nghĩ đó không phải là trí tưởng tượng và tồi tệ hơn nữa nếu Ċó lại lại sự suy đoán. Ư nghĩ ấy là một hiện thực minh bạch đến kỳ lạ.
…
Và trong khu vườn nhỏ của ḿnh, người đàn bà tên Thuư đă lúc nào cũng mở to đôi mắt nh́n đời sống này như một đứa trẻ nhiều đau ốm và sợ hăi và hoảng sợ và khát vọng. Tất cả những ngơ ngác, những đau ốm, những hoảng sợ, những tuyệt vọng và những khát vọng của người đàn bà tên Thuư là của chúng ta. Những trạng thái ấy chính là đức hạnh thực sự của con người. Những điều đó đẩy chúng ta trở lại nguồn gốc đời sống của con người. Khi chị viết: Người đàn bà chăm chú dơi t́m trái đỏ trong cây là tôi hiểu chị viết về những người đàn bà trong mùa thu hoạch cà phê. Nhưng ánh sáng của câu thơ đă rời khỏi thân xác của một hiện thực đen tối như ánh lửa rời thân xác của một khúc gỗ. Khó có thể t́m một h́nh ảnh nào giản dị hơn và đẹp hơn câu thơ này khi viết từ hiện thực thô lược ấy. Nó giản dị đến mức làm cho rất nhiều các nhà thơ có thể cười khẩy với tôi. Điều đó thật hiển nhiên và thật dễ hiểu. Nhưng để viết câu thơ đó, chị đă mở đôi mắt đến không c̣n khả năng mở hơn nữa và nh́n thẳng vào cái trái đỏ trong ṿm lá thẫm tối kia với một lượng thời gian bằng đúng tuổi đời chị. Cái nh́n đó giống như người ta điều chỉnh ống kính máy ảnh vào một điểm để cuối cùng để nó hiện lên sắc nét như một sự tinh kết cao nhất. H́nh ảnh ấy ngày từ đầu đă dựng lên trong tôi h́nh ảnh một Nữ thần ái t́nh đang bay trong ṿm trời màu lục và vươn những ngón tay mảnh rẻ và run rấy để chạm vào ngôi sao lấp lánh kia. Chị không áp đặt t́nh yêu những người lao động vào tôi, không lên tiếng với tôi về sự khổ hạnh của những người đàn bà vất vả và ngèo đói, chị không được phép làm thế v́ chị là một nhà thơ.”
Xin vào: www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid
Và tiếp tục vào hai mươi đợt, sẽ đọc được bài thơ dài miên man “ Nơi ngày động gió thổi” của Đinh Thị Như Thúy, hay đánh vào http://google.com tiêu đề “Nơi ngày đông gió thổi Tiền vệ” sẽ đọc được bài thơ dài này)
Với Nguyễn Quang Thiều, sau bao nhiêu năm tím kiếm, vật vă, phản biện, day dứt, cuốu cùng ông mới chợt ngộ ra chân lư nghệ thuật nói chung, chân lư thi ca nói riêng là làm sao cho: “NGÔN NGỮ THƠ CA GẦN VỚI TIẾNG NÓI ĐỜI THƯỜNG NHẤT”. Tưởng chuyện ǵ ghê gớm, hóa ra là tiêu chí của các trào lưu hiện thực trong nghệ thuật đă ra đời từ rất sớm, quyết đưa thi ca trở về gần với ngôn ngữ thường nhật, ngôn ngữ b́nh dân, mà một đứa trẻ học cấp hai ở Việt Nam đă học: tính hiện thực của văn học, của thi ca.
Về chuyện “ ngôn ngữ thi ca gần với ngôn ngữ đời thường” th́ từ thời cổ đại, khi chưa có chữ viết, nhân loại đă sáng tạo ra ḍng VĂN CHƯƠNG TRUYỀN MIỆNG là ca dao tục ngữ, như ca dao Việt Nam hay Kinh Thi của Trung Quốc, kinh Vệ đà Ấn độ…dân gian đă thực thi nhiệm vụ mà Nguyễn Quang thiều vừa đặt ra : “ đưa thi ca về gần với tiếng nói thường nhật”.
Khi nhân loại có chữ viết, ḍng văn chương bác học xuất hiện, những nhà lập thuyết nghệ thuật đầu tiên như Aristote thề kỷ thứ bốn trước công nguyên, với cuốn “ Thi pháp” ( Poetics) đă đưa ra một khẩu hiện tuyệt vời cho Thi Ca: “Văn học hay thi ca là sự mô phỏng (phản ánh) cuộc sống” cổ xúy cho việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ ( nhưng phải chọn lọc) đó sao?
Nhà lập thuyết văn học cổ đại Ấn độ là Bharata trong cuốn “Natyasastra” ( sách dạy lư thuyết sân khấu) cũng lấy tiêu chuẩn chân thực, đưa ngôn ngữ b́nh dân lên kịch, lên thơ nhưng phải mài giũa, mở ra ba thế giới là thế giới thực tại, thế giới tâm linh và thế giới thần linh, gọi là cảm thức linh hồn của kịch thơ( bi hài kịch) đó sao?
Thế kỷ thứ sáu sau công nguyên thời Ngụy - Tấn, nhà lư luận văn nghệ đầu tiên của Trung Quốc là Lưu Hiệp, trong chương “Nguyên đạo” mở đầu cho tác phẩm “Văn tâm điêu long” phê phán thứ nghệ thuật hoang đường, đưa nghệ thuật thi ca từ mộng xuống ḥa với thực, tuy văn phải đẹp như vảy rồng (điêu long) nhưng xuất phát từ Tâm (Văn tâm), mà Tâm th́ bắt nguồn từ thực đó sao?
Nói chung, yêu cầu của nhà thơ, nhà thi pháp Nguyễn Quang Thiều vừa phát hiện ra được ông coi như sẽ chân động thi đàn, tựu trung đă có từ thời cổ đại. Về việc này, cũng giống như ông Thiều vừa phát hiện ra một chân lư và vội công bố với toàn thế giới rằng : mặt trời cư ngụ nơi ban ngày, mặt trăng cư ngụ nơi ban đêm vậy.
Nhưng Nguyễn Quang Thiều đă vượt qua tiêu chuẩn “đưa thi ca xuống GẦN với ngôn ngữ thường nhật” bằng bước “đại nhảy vọt” như sau:
“Sự quyến rũ của ngôn ngữ không phải là sự tầng tầng lớp lớp những nghĩa và những cấu trúc đầy tính h́nh thức mà chúng ta cố tạo ra cho nó hay t́m cách gán ép cho nó. Mà sự quyến rũ của ngôn ngữ là khi nó bị ném thẳng vào bức tường của sự thật và ngay lập tức bật trở lại như chúng ta ném một quả bóng.”
…
Từ đây, Nguyễn Quang Thiều đă làm cuộc đại cách mạng văn hóa thi ca: đơn nghĩa hóa sự đa nghĩa của thi ca từ trước đến giờ. Tức là làm thơ là nói như người ta nói hàng ngày, không cần chọn lọc, không cần trau chuốt, không cần nghệ thuật, không cần ẩn nghĩa, hàm nghĩa, tức xóa sổ nghĩa bóng của thi ca, đả đảo đa ngữ nghĩa thi ca, đả đảo khẩu hiệu “thi tại ngôn ngoại” của cổ nhân, đả đảo các biểu tượng, ẩn tượng, hàm tượng thi ca. Thơ với Nguyễn Quang Thiều là có ǵ nói toẹt ra ngay, hoan hô nghĩa đen, nghĩa đen tuyệt đối, xử tử bọn phản động HÀM NGÔN, bọn lên đồng có tên là NGHĨA BÓNG.
Làm thơ, với Nguyễn Quang Thiều là hành vi ném thẳng NGÔN NGỮ vào BỨC TƯỜNG SỰ THẬT NHƯ NÉM MỘT QUẢ BÓNG, nó sẽ bật trở lại ngay lập tức một quả bóng: “như chúng ta ném một quả bóng”. Nghĩa là, sự vật được phóng chiếu qua đôi mắt, qua tư tưởng, tâm hồn nhà thơ, bật ra y nguyên như h́nh ảnh ban đầu nhà thơ ngó thấy. Thơ đối với Nguyễn Quang Thiều là nh́n thấy sự vật tồn tại, hoạt động như thế nào th́ viết ra như thế, thật hơn cả máy chụp h́nh. Chẳng hạn, khi nh́n thấy con mèo đen leo lên lưng một con mèo trắng, ông Thiều sẽ viết y như lư luận thơ phi thơ ông vừa công bố với thế giới mà rằng:
Một con mèo đen ḅ lên mái nhà sau khi ôm bầu trời gào thét
Nó thấy một con mèo trắng cũng gào như cha chết
Ôi t́nh yêu khởi thủy từ những tiếng gào
Chú linh miêu của thần linh bước qua mái nhà lợp bằng ngói nâu quê hương ta
Dễ sợ chưa cả loài người ơi
Hai con miu miu ngừng gào im lặng như chú kiến đang ngủ
Chúng leo lên lưng nhau như leo lên chiếc thang hạnh phúc
….
Viết thơ như thế này, trước Nguyễn Quang Thiều hàng mấy trăm năm, tác giả (hay tập thể tác giả) đă làm nên bài “thơhay” là “Bài thơ con cóc”, sáng tác ra phương pháp “tuyệt đối chân” trong thi ca mà Nguyễn Quang Thiều vừa khám phá:
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đấy
Con cóc ngồi đấy
Con cóc nhảy đi
Xin quư bạn đọc tham khảo bài viết ca ngợi bài thơ này của nhà phê b́nh văn học, giáo sư Nguyễn Hưng Quốc: “Nguyễn Hưng Quốc – thơ con cóc, một bài thơ hay”
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=785
Thi pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống: truyền thống cho thơ phài đa nghĩa th́ ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải kiệm lời th́ thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc th́ ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xóa mọi hàm ngôn ( tâm hồn lạnh tanh máu cá/ nhiệt t́nh xuống quá độ âm - Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai, phải có nhạc tính th́ thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền thống cho thơ phải có âm dương điều ḥa trong ngữ nghĩa th́ ông Thiều chủ trương thơ phải độc âm hay độc dương, không có thể đưa chủ nghĩa hài ḥa của đồng chí Hồ Cẩm Đào vào đây được à ghen(!)
Tuy cùng thi pháp NÓI TOẸT RA như trường thơ Con cóc, nhưng Nguyễn Quang Thiều (có lẽ) c̣n phải cách tân TRƯỜNG THƠ CON CÓC thêm một lần nữa là tuyệt đối cấm kiệm lời trong thơ; rằng thơ th́ phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo. Có lẽ, rồi đây, chủ soái trường phài thơ TÂN CON CÓC, sẽ sửa lại bài thơ “tuyệt bút” Con cóc theo “thi pháp kẹo kéo” của ông cho hợp với môn phái TÂN H̀NH THỨC - TÂN CON CÓC mà ông vừa sáng tạo ra.
Kẻ viết bài này xin phép học theo lối thơ ông Thiều mà thử múa ŕu qua mắt thợ, chuyển bài thơ Con cóc từ cổ điển sang trường phái HẬU HIỆN ĐẠI - TÂN CON CÓC của ông Thiều, xem ông có hài ḷng hay không về món “TÂN … CON CÓC”, tức thơ con cóc hiện đại, như sau:
“Con cóc ngồi trong hang tư duy về thế giới sao mày có mặt nơi đây
Con cóc ḅ ra ngó lên vũ trụ thắc mắc : tồn tại hay không tồn tại
Con cóc nhảy đi t́m hư vô, t́m sự cô đơn vô nghĩa có tên là vũ trụ
Con cóc nhảy đi cũng như không nhảy v́ sự giới hạn không cho phép nó vô hạn
Con cóc bèn tọa thiền ngồi im thít thít như cục thịt đông của cái thế giới mà lửa cũng đóng thành băng tuyết
Con cóc nhảy vào hư vô mà cái hang chính là bầu trời, thi ca ơi, thượng đế ơi trả ta con cóc siêu h́nh con cóc nhân văn
…
Chúng tôi xin thông báo một điều mà chắc ông Nguyễn Quang Thiều sẽ giật thót : trước ông mấy chục năm, thi hào Xuân Diệu (Thơ thơ, Gửi hương cho gió”) sau khi được giác ngộ cách mạng từ bỏ chủ nghĩa lăng mạn trong thơ, đi theo tiêu chí văn nghệ phục vụ chính trị, đă cách tân bài thơ con cóc trước cả Nguyễn Quang Thiều. Thực ra, chủ nghĩa hậu hiện đại tân thời con cóc trong thơ phải lấy Xuân Diệu làm tiên sư chứ không phải ông Thiều như ông đang nhầm lẫn.
Chúng tôi nhớ cách đây hơn 50 năm, vào đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước, lúc c̣n ngồi trên ghế nhà trường, chúng tôi đă tập tành làm thơ theo khẩu hiệu “ duy thật” của Xuan Diệu : Chân chân chân – thật thật thật, với “thi pháp con đỉa” lấy câu thơ mà đi đâu Xuận Diệu cũng b́nh là một câu thơ hay nhất của đời ông làm chuẩn mực thi ca: “CON ĐỈA B̉ QUA MÔ ĐẤT CHẾT”… Cũng như Nguyễn Quang Thiều lấy câu thơ của Đinh Thị Như Thúy: “ Khi chị (Đinh Thị Như Thúy) viết câu thơ: “NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂM CHÚ DƠI T̀M TRÁI ĐỎ TRONG CÂY” là tôi hiểu chị viết về những người đàn bà trong mùa thu hoạch cà phê. Nhưng ánh sáng của câu thơ đă rời khỏi thân xác của một hiện thực đen tối như ánh lửa rời thân xác của một khúc gỗ. Khó có thể t́m một h́nh ảnh nào giản dị hơn và đẹp hơn câu thơ này khi viết từ hiện thực thô lược ấy. Nó giản dị đến mức làm cho rất nhiều các nhà thơ có thể cười khẩy với tôi. Điều đó thật hiển nhiên và thật dễ hiểu. Nhưng để viết câu thơ đó, chị đă mở đôi mắt đến không c̣n khả năng mở hơn nữa và nh́n thẳng vào cái trái đỏ trong ṿm lá thẫm tối kia với một lượng thời gian bằng đúng tuổi đời chị. Cái nh́n đó giống như người ta điều chỉnh ống kính máy ảnh vào một điểm để cuối cùng để nó hiện lên sắc nét như một sự tinh kết cao nhất. H́nh ảnh ấy ngày từ đầu đă dựng lên trong tôi h́nh ảnh một Nữ thần ái t́nh đang bay trong ṿm trời màu lục và vươn những ngón tay mảnh rẻ và run rấy để chạm vào ngôi sao lấp lánh kia
(đă dẫn)
Câu văn trần thuật đơn giản, tầm thường “Người đàn bà chăm chú dơi t́m trái đỏ trong cây” của Đinh Thị Như Thúy chợt lóe sáng trong đầu nhà lập thuyết thi ca Nguyễn Quang Thiều một ẩn dụ triết học thi thiên để sinh ra trường phái thơ “Tân… con cóc”, quả t́nh là điều bí hiểm mà người trần mắt thịt chúng ta hầu như chưa lĩnh hội được. Như thế này, chắc sẽ có hàng ngàn nữ thi hữu trẻ bắt chước câu văn đơn giản: “Người đàn bà chăm chú dơi t́m trái đỏ trong cây” mà ông Thiều cho vào hàng câu thơ hay kiệt xuất, để xuất hiện hàng ngh́n sự kiện văn học khác làm chấn động thế giới; ví như: ”Em gái mê mẩn vọc đất săn t́m một củ khoai lang tím sót”, “Mẹ ngước mắt lên bầu trời t́m xem có ngôi sao nào con của ḿnh không?”, “Anh đi đâu mà không đi vô đường làng em xem hội”…
Bắt chước Xuân Diệu xưa dùng câu văn trần thuật thô thiển rồi hoang tưởng gọi là thơ: “CON ĐỈA B̉ QUA MÔ ĐẤT CHẾT” để tạo ra trường thơ hiện thực xă hội chủ nghĩa, nay Nguyễn Quang Thiều cũng dùng một câu văn trần thuật thô thiển của Đinh Thị Như Thúy: “NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂM CHÚ DƠI T̀M TRÁI ĐỎ TRONG CÂY” làm hứng khởi cho nguồn sáng tạo ra thi pháp “TÂN… CON CÓC” của ḿnh. Chỉ có điều, Nguyễn Quang Thiều đă thó thi pháp này của Xuân Diệu.
TRƯỜNG THƠ “TÂN CON CÓC” ĐANG LÀM CHỦ THI ĐÀN
Là người chủ soái của trường thơ “Tân con cóc”, tất nhiên Nguyễn Quang Thiều hằng làm gương sáng cho các thi hữu noi theo. Chúng tôi xin dẫn ra mấy bài thơ theo trường phái “Tân con cóc” của ông Thiều để bạn đọc kiểm chứng:
Trích bài thơ ”H. đang về nhà” của Nguyễn Quang Thiều:
Phía trên những ṿm lá bất ổn
Treo một bầu trời
Những con chim vừa bay
Vừa xé rách những lông vũ
Và một con khóc
Và một con không đập cánh
Trôi tựa đám mây theo chiều gió
Và một con khác ngủ
Và con bay cuối đàn
Không nói ǵ
Các từ ngữ (sáo) hay motif (cải lương) được lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Quang Thiều:
“em ung thư vú”, “thân xác em”, “điên dại”, “da thịt”, (khóc: con mèo khóc, anh khóc, em khóc, chiếc gối khóc, cái chăn khóc, con voi khóc, con kiến khóc, con rệp khóc, giời khóc, chim khóc, bướm khóc, một tỉ cái cùng khóc trong thơ NQT)
“chiếc giường”, “bộ phận sinh dục”, ”loạn luân”, “con chó đái”, ”thủ dâm”, bán dâm”, ”trần truồng”, “khỏa thân trong giường”, “làm t́nh ban ngày”, “kỳ vĩ”, “tinh khiết”, “ ngập tràn”, “chuyển động”, “mộng du”, “miên man”, “người đàn bà tội lỗi”, “ác mộng”, “vô vọng”, “trống rỗng”…
Bài thơ: “Những công việc của tháng mười một” của Nguyễn Quang Thiều:
“Cuối cùng ngươi cũng phải cất giọng, hỡi những lừa, lạc đà, những ngựa của con đường vô định
Những sư tử, những báo gấm, những hổ của rừng mang dáng vẻ kỳ vĩ đang mục ruỗng từ bên trong
Những dê, những chim ưng, những ong của mùa đông khan hiếm phấn hoa
Những chim non của tổ chim xác xơ v́ gió, những bướm của những cái kén thẫm tối
Những cá của nước xiết, những côn trùng của lá mục
Và những chúng ta của ngôn từ chết mai táng trong thân xác chuyển động
Không thể nào c̣n nghe thấy lời của tháng Mười vừa mới lướt trên những cái lưỡi ướt và nóng
Tháng Mười Một mạnh hơn tất cả bởi sự trần trụi hơn cả những bộ xương ḅ nấu phở
Chưa có chút dấu vết ǵ của tháng Mười Hai. Đừng lục t́m trong cổ thư
Lưỡi dao sự thật của tháng Mười Một rạch một đường dọc những cái lưỡi phản bội
lại những ngôn từ nổ ra từ đó với một cái bóng hoang tưởng rướn chạy
Ḱa những cái cây lộng lẫy và kiêu hănh trong gió gào rít giữa đêm
Và một kẻ đang gắng sức t́m lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên
Bởi gă bị đôi giày mới mua ở cửa hiệu bán đồ Trung Quốc xoá mất đôi mắt
Và sự nhầm lẫn tồi tệ khi đưa tay lần t́m tháng Mười Hai theo thứ tự của số đếm
Từ thế gian tội lỗi và lú lẫn đến Thiên đường không phải là những bậc cầu thang ốp bằng loại đá Tây Ban Nha gă lựa chọn
Gă không phải là một kẻ điên. Gă làm âm bản của chúng ta. Một lần nữa
Chúng ta lại không nhận ra một sự thật là không có cái ǵ gọi là tháng Mười Hai lúc này
Và những công việc của tháng Mười Một vẫn tiếp tục cho đến khi bắt đầu một lối rẽ
11/2007
Bài thơ: “Hoa tiêu” của Nguyễn Quang Thiều: Thư gửi một người đă chết:
hăy nhắm mắt và đặt từng bước chân như đặt từng quân cờ
nếu mở mắt anh sẽ chẳng thể nào đi qua cái quảng trường ấy được
chúng sẽ lao vào anh — những kẻ rồ dại của thế kỷ trên xứ sở chúng ta
hăy đi thật nhẹ và tự đọc bản thảo cuốn sách anh viết trong sợ hăi mê dại
một con rắn rúc vào đám tóc anh và nằm phục cái lưỡi anh lộ ra
nó muốn giết anh khi đơn âm đầu tiên của anh phát nổ
hăy rẽ sang bên trái. Có nghe thấy tôi nói không. Nhưng đừng mở mắt
chỉ hé mở một lần anh sẽ suốt đời không dám bước thêm một bước
anh có nhớ cái cây ở ngă tư đường nơi có một kẻ đi theo anh
và gă viết một con số vào chiếc sổ nhỏ hơn ḷng tay của gă
hăy rẽ trái một lần nữa. Anh không nh́n thấy tôi đâu. V́ thế đừng ngoái lại
và đừng mở mắt. Phía trước có rất nhiều kẻ đang lao tới nhưng chúng sẽ không đâm vào anh
chúng vẫn nghĩ anh là một gă mù và chúng sẽ không tức tối v́ nghĩ anh cản đường chúng
hăy rẽ trái một lần nữa. Chúng nhổ nước bọt trước mặt anh. Nhưng đừng cho chúng biết anh đă nh́n thấy
chúng phóng một cú đấm gió về phía mặt anh. Đừng giật ḿnh. Anh phải làm như là một gă mù thực sự
nghĩa là anh không nh́n thấy ǵ kể cả khi một người yêu dấu của anh đang đứng khóc trước anh
nếu anh mở mắt ra, dù mở giống một cái chớp mắt, chúng sẽ rú lên
trong sự khoái trá chúng đánh mất từ lâu giờ t́m lại được
với bằng chứng là anh đă mở đôi mắt của ḿnh
và sự khoái trá ấy chỉ ăn một thứ thức ăn là máu
tôi vẫn đứng ở nơi anh xuất phát. Tôi không hề thay đổi dù một cái nhích chân
tôi đang dơi theo anh với đôi mắt mở không được phép nhắm lại
dù cái khoảnh khắc nhắm mắt ấy chỉ bằng 1/10 thời gian của một cái chớp mắt
khoảng thời gian ấy đủ cho anh bị nghiền nát
anh lại phải rẽ trái một lần nữa. Đừng dừng lại ngờ vực, và chuẩn bị rẽ trái một lần nữa
tôi đă thấy anh cố giấu bước chân lưỡng lự. Anh cố giấu sự nghi ngờ
nhưng tôi vẫn nhận ra bởi cái nuốt nước bọt của nặng nhọc và khó khăn anh.
nào, chuẩn bị rẽ thêm lần nữa. Nhưng vẫn là rẽ trái. Chỉ có rẽ trái. Đấy là lần rẽ trái cuối cùng
và bây giờ anh hăy mở mắt ra
thị xă Hà Đông, đêm 4/10
Bài thơ: “Những con mồi” của Nguyễn Quang Thiều:
Đêm qua những con cá bơi quanh chiếc giường
Ngửi chúng ta rồi bỏ đi
Và bực dọc nói:
Chúng ta không bao giờ ăn những con mồi chết
Chúng ta có chết không?
Một người thức giấc hỏi.
Nhưng chẳng có câu trả lời nào.
Ngoài bóng một bác sỹ tâm thần ghi bệnh án
In trên bức tường phía đông
Trên đầu chúng ta những con cá
Bơi lùi về quá khứ
Chúng muốn xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu
Nhưng chỉ c̣n lại một nhà kho mục nát
Trong đó một chiếc đồng hồ
Chạy từ lúc chúng ta chưa biết đến thời gian
Giữa bất tận những con mồi
Bầy cá nhắm mắt
Chỉ mở ra khi nghe lệnh
Nhưng một con không chịu nhắm mắt
Trong suốt cuộc săn t́m
Rời bỏ bầy quay lại
Và nói với một con mồi
Ngươi đă hết thời gian chết
Bài thơ “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ” của Nguyễn Quang Thiều:
Người hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người mua: Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc gần sáng tiếng những cành khô găy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ đau lắm”
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen Cuba đă tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nh́n tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn: (đă bỏ nghề)
Người mua: H́nh như không phải tấm thảm tôi đă mua
Chủ nhân: Tôi nh́n thấy những người thân đă chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ 22.
Một nhà “Thiều học” là ông Nguyễn Chí Hoan, hiện phụ trách ban lư luận phê b́nh báo Văn Nghệ, đă viết một bài giải mă thơ Nguyễn Quang Thiều có tên: “Lịch sử tấm thảm Thổ nhĩ kỳ” - “THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU” in trên báo Văn Nghệ tết Canh Dần, như một ch́a khóa siêu đẳng giúp mọi người biết cách thưởng ngoạn thơ của vị chủ soái trường thơ ”Tân… con cóc” này. Rằng Nguyễn Quang Thiều làm thơ bằng vô thức nên không dùng sự hiểu để tiếp cận được. Hăy nhắm tít t́n tịt mắt lại, ngôi co người vào mà tưởng tượng, may ra mới thưởng thức được siêu thơ “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ kỳ” trên.
Chúng tôi đă viết bài phê phán quan điểm tầm phào này của Nguyễn Chí Hoan, một nhà lư luận phê b́nh giỏi nhất của Hội nhà văn, c̣n giỏi hơn ông đại tá Lê Thành Nghị hiện là chủ tịch hội đồng lí luận phê b́nh Hội nhà văn VN. Xin các bạn vào trang mạng này:
“http://dohoang.vnweblogs.com/post/3360/365172”
, http://dohoang.vnweblogspot.com
Hoặc đánh vào công cụ t́m kiếm http://google.com tiêu đề: “Tấm thảm Thổ nhĩ kỳ” - Thơ không thể hiểu” sẽ đọc được bài của chúng tôi phê b́nh quan điểm tào lao của Nguyễn Chí Hoan.
Nhân việc công bố trường thơ “tân con cóc” của Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi cũng muốn ăn theo mà làm ngay lập tức một bài thơ theo trường thơ “ Tân… con cóc”, ngơ hầu tranh đua tài cán với chủ soái thi đàn Nguyễn Quang Thiều:
Bài thơ ứng tác: NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM NỖI BUỒN CỐ HƯƠNG MÀ NGỦ
Người đàn bà Làng Chiền mang một âm hộ cũ từ dưới sông lên
Những con cá khỏa thân quẫy trắng sông đành đạch vỗ tay đưa tiễn nàng tiên cá lên bờ u uẩn
Bà đi vào Làng Chiền thu không cả buổi chiều quên mặc yếm
Hai bầu vú của bà thơng xuống làm bọn mướp sắp hái trên giàn xấu hổ trốn sạch
Làng Chiền của tôi khóc bằng con mắt chó con ngồi tứa nước bọt xem bà mẹ rán mỡ
Bà nghe Làng Chiền thơm khen khét mùi lông cháy từ những căn bếp bồ hóng đang âm mưu đen
Rồi người đàn bà trút hết quần áo vào hoàng hôn
Bà trút cả guốc dép vào con đường giun dế đang mưng mủ v́ cơn sốt tư tưởng
Người đàn bà ôm chiếc gối làm chồng, ôm cái chăn làm t́nh nhân bà rưng rức đau thương
Người đàn bà nghe chiếc b́nh vôi khóc miếng trầu vừa tự sát
Bà hổn hển mơ thấy ḿnh hổn hển
Than ôi quê hương tôi- tôi ôm vào ḷng cả nỗi buồn của con nhái bén
Những con dế tỉ tê với bà v́ chuyện ông trời góa vợ
Và mặt trăng Làng Chiền là cái muôi lâu ngày không được múc canh
Cái th́a của quê hương tôi nằm ngửa lên mà khoe bụng rỗng
Người đàn bà ôm khói bếp Làng Chiền ngủ vùi cho sao đêm tiết canh
Nhưng khói bếp đă bay rồi chỉ c̣n con mèo mướp trong ḷng bà gào đ̣i làm t́nh
Người đàn bà ôm cả nỗi buồn cố hương mà ngủ
Ngủ như khi nằm mơ bà vẫn thấy ḿnh ngủ
Ngủ như giun dế trong đất thi thoảng thức bằng giấc mơ
Ôi cát đổ một ban mai Làng Chiền tương tư quá khứ
Bà ôm những hồn ma ngủ vùi cho đến khi ngày xưa xuất hiện
Ngày xưa đến đập cửa gọi người đàn bà có bầu vú dài như sông Đáy:
Dậy nào, bà ơi, cố hương không c̣n chỉ c̣n nỗi buồn tím chiều hoa xoan tang lễ
(hết mô phỏng trường thơ “ Tân … con cóc”)
Cứ đà ngoáy bút nhanh hơn sóc chạy này, trong hai ngày hai đêm, có lẽ tín đồ mới (TMH) của trường thơ” Tân… con cóc” này sẽ đuổi kịp ba mươi năm làm thơ “ Tân… con cóc” của Nguyễn Quang Thiều chăng?
Trong bài: Việt Nam là một cường quốc thơ in trên báo văn hóa thể thao ngày 01/02/2012, Nguyễn Quang Thiều tuyên bố với thế giới:
“Tôi có thể nói không ngần ngại rằng VN là một cường quốc về thơ, ít nhất là trong khuôn khổ châu Á”.
http://thethaovanhoa.vn/173N20120201084338836T133/nguyen-quang-thieu-vn-la-mot-cuong-quoc-ve-tho.htm
Ôi cường quốc thơ “tân… con cóc”: cường quốc thơ dễ dăi miên man, cường quốc thơ ngô ngọng, cường quốc thơ giả cầy, cường quốc thơ tào lao xích bột… muôn năm…
Sài G̣n ngày 18-6-2012
T.M.H.
Nguyễn Hưng Quốc
'Thơ Con Cóc': Một bài thơ hay
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Yêu thơ, thuộc khá nhiều thơ, tôi có thói quen hay đọc thơ, khe khẽ, một ḿnh, nhất là vào những buổi chiều, đi làm về, nh́n nắng ngẩn ngơ vàng, ḷng bỗng dưng, nói như Xuân Diệu, ‘hiu hiu khẽ buồn’. Những lúc ấy, dù không mong, thơ vẫn hiện về, thầm th́, như một lời đồng điệu. Thường là thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và nhiều nhà thơ khác, trước năm 1945; những bài thơ ngọt ngào vô hạn, đọc lên, ngỡ có hương thơm thoang thoảng quanh ḿnh và ngỡ ḷng ḿnh, giống như Hồ Dzếnh ngày nào, hoá thành rừng, thành mây, đầy một niềm chiều.
Thế nhưng, lạ, dễ đă mấy năm rồi, không hiểu tại sao, càng ngày tôi càng mất dần cái thói quen thơ mộng ấy. Tôi vẫn đọc thơ nhưng hầu như bài thơ nào đang đọc dở dang cũng đều bị cắt ngang bởi một bài thơ rất vô duyên: ‘Thơ con cóc’. Từ đâu đó, tận trong tiềm thức, bài ‘Thơ con cóc’ nhảy chồm ra, giành giật, chen lấn, xô đẩy, cuối cùng, thật oái oăm, bao giờ nó cũng thắng thế.
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao...
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra...
Cứ thế. Có thể nói, suốt mấy năm nay, cơ hồ tôi không đọc trọn vẹn một bài thơ nào ngoài bài ‘Thơ con cóc’. Bận bịu quá, quên đi th́ thôi, c̣n hễ nhớ đến thơ th́ bao giờ cũng thế, bài ‘Thơ con cóc’ lại hiện ra, sừng sững, án ngữ hết mọi nẻo đường, không cho bài thơ nào khác có được cái quyền được ngâm nga nữa. Quái.
Mà quái thật. Đâu phải tôi không biết đó là một bài thơ dở, cực kỳ dở, hơn nữa, với người Việt Nam, c̣n là điển h́nh của cái dở nói chung. Mỗi lần bắt gặp bài thơ nào kém cỏi, chỉ có vần điệu ê a mà t́nh ư hoặc rỗng tuếch hoặc nhạt nhẽo, người Việt chúng ta - trong đó có tôi, dĩ nhiên - thường có thói quen phán: ‘Thơ con cóc!’. ‘Thơ con cóc’, do đó, được coi là lời chê bai nặng nề nhất, một sự phủ định hoàn toàn. Tôi biết. Biết vậy mà vẫn bị nó ám ảnh măi. Xua, nó không đi. Nó cứ phục kích đâu đó, trong một ngóc ngách nào của tâm hồn, chực có cơ hội, những lúc ‘tôi buồn không hiểu v́ sao tôi buồn’, lại hiện ra, thoạt đầu, như một sự nghịch ngợm, sau, dần dần, thật lạ lùng, cứ như một lời đồng điệu.
Vâng, như một lời đồng điệu. Tôi mơ hồ cảm thấy bài ‘Thơ con cóc’ đă nói hộ giùm tôi bao nhiêu niềm u uẩn, cứ day dứt trong ḷng. Những nỗi niềm ấy nhoi nhói đ̣i phát ngôn, đ̣i t́m tri âm mới sau khi đă giă từ những người bạn cũ, rất mực hiền lành, chỉ quen một điệu ‘ví dầu cầu ván đóng đinh’... ‘ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung’... Từ sự cảm nhận mơ hồ này, dần dần, tôi khám phá ra một điều, là, trái hẳn những định kiến quen thuộc của chúng ta lâu nay, bài ‘Thơ con cóc’ không chừng là một bài thơ hay.
Mà đâu chỉ có một ḿnh tôi nhận ra điều đó. Dường như, tự thâm tâm và một cách thiếu tự giác, rất nhiều, nếu không nói là hầu hết người Việt Nam đều công nhận như thế. Có hai chứng cứ:
(i) một là, mọi người đều ghi khắc măi bài thơ ấy vào trí nhớ;
(ii) hai là, mọi người đều coi nó là điển h́nh của cái dở nói chung.
Trong số những bài thơ khuyết danh tại Việt Nam, dễ không có bài thơ nào được nhiều người nhớ như bài ‘Thơ con cóc’. Ngay cả những người hoàn toàn hờ hững với thơ ca cũng thuộc ḷng bài thơ ấy. Trong ngôn ngữ của chúng ta, chữ ‘Thơ con cóc’ được dùng để chỉ sự nôm na, cọc cạch cũng như chữ Hoạn Thư chỉ sự ghen tuông, chữ Thúc Sinh chỉ sự sợ vợ, chữ Tào Tháo chỉ sự gian hùng.
Hai sự kiện này hoàn toàn mâu thuẫn với những lời lẽ bỉ thử chúng ta dành cho bài ‘Thơ con cóc’ v́ lư do giản dị: một tác phẩm văn học đă trở thành điển h́nh và được mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác, ghi nhớ th́ không thể nào dở được. Trong khi cái dở, nói như Hoài Thanh, ‘không tiêu biểu ǵ hết’,[1] điển h́nh, một thuật ngữ quen thuộc trong trào lưu Tân cổ điển, được Engels và sau đó, giới nghiên cứu văn học mác xít mượn lại, là cái ǵ có tính khái quát cao, thể hiện bản chất sự vật, là đại diện cho số đông và do đó, chỉ có thể là kết quả của tài hoa và trí tuệ. Hạng người đểu giả và đồi bại trong t́nh yêu bao giờ cũng nhan nhản trong cả cuộc đời lẫn văn chương ở mọi thời nhưng phải đợi đến ng̣i bút thiên tài của Nguyễn Du, trong vài câu, với vài nét chấm phá, mới thành một điển h́nh: Sở Khanh. Hạng người hợm ḿnh và láu cá hẳn không hiếm trong xă hội Việt Nam, đặc biệt trong những buổi giao thời, được nhiều nhà văn quan tâm phản ánh, nhưng phải đợi đến ng̣i bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng nó mới thành một điển h́nh: Xuân tóc đỏ. Khuôn mặt ‘hao hao như mặt lợn’, trên đó gắn cái mũi ‘vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành’, một đôi môi như ‘miếng thịt trâu xám ngoách’ phải nhờ Nam Cao mới trở thành một điển h́nh cho cái xấu nói chung, cái Xấu viết hoa: Thị Nở.
Về phương diện giá trị điển h́nh, h́nh tượng con cóc không hề thua kém h́nh tượng Sở Khanh, Xuân tóc đỏ hay Thị Nở. Về phương diện sức sống, nó cũng đă vượt qua bao nhiêu thử thách, từ đời này qua đời khác, cứ tồn tại hoài. Không ngoa chút nào nếu gọi ‘Thơ con cóc’ theo cách nói quen thuộc đă thành sáo ngữ của chúng ta là bài thơ ‘vượt thời gian’. Nhà văn Nhất Linh, trong quyển Viết và đọc tiểu thuyết, đă coi tính chất ‘vượt thời gian’ là cơ sở chắc chắn nhất để xác định một tác phẩm lớn. Nhà thơ Xuân Diệu có cách ví von khá thú vị:
Chiếc thuyền thơ thả trong biển thời gian, lúc đầu mới hạ thuỷ c̣n chao lên chao xuống, gió băo từng kỳ làm cḥng đi chành lại, cứ cho thăng trầm mỗi đợt là mất hai mươi năm đi, th́ trải qua năm đợt hai mươi năm, mà vẫn cứ giong lèo giương buồm phơi phới, như vậy có thể nói được rằng: từ đây vào bất hủ được rồi.[2]
Bài ‘Thơ con cóc’ ra đời đă lâu, lâu lắm, được Trương Vĩnh Kư sưu tập, in trong quyển Chuyện đời xưa xuất bản lần đầu tiên năm 1866, cho đến bây giờ, vượt xa thời hạn Xuân Diệu đă nêu, vẫn c̣n âm vang trong ḷng mọi người, c̣n ǵ mà ngờ nữa?
Tôi đoán, sẽ có người biện bạch, cho hiện tượng ‘vượt thời gian’ của bài ‘Thơ con cóc’ xuất phát từ những nguyên nhân khác, không phải là giá trị nghệ thuật của nó, chẳng hạn, v́ nó ngắn nên dễ nhớ, v́ nó dở đến cực độ của cái dở hoặc v́ nó gắn liền với một câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng.[3] Theo tôi, những luận cứ này đều không vững. Đồng ư ngắn th́ dễ nhớ nhưng không phải cứ hễ ngắn là được người ta nhớ. Có khối bài thơ ngắn hơn hoặc bằng bài ‘Thơ con cóc’. Thơ 14 chữ của Thi Vũ hoặc thơ mini của Trần Dần, chẳng hạn. C̣n cái dở th́ hiếm ǵ, đầy dẫy, có bài nào được nhớ đâu? Trong ngôn ngữ xưa nay, chúng ta thường nói: làm thơ hay như Đỗ Phủ, phóng túng như Lư Bạch, giản dị như Bạch Cư Dị, đẽo gọt kỳ khu như Giả Đảo, nhưng không hề có cách nói nào đại loại như làm thơ dở như ông A bà B. Tuyệt đối không. Đă dở th́ bị diệt vong, bị tiêu tán tức khắc, không c̣n lại ǵ cả, kể cả một cái tên, đừng nói ǵ là nguyên vẹn một tác phẩm. Bài ‘Thơ con cóc’ được tồn tại cũng không phải nhờ câu chuyện tiếu lâm gắn liền với nó nếu không muốn nói, ngược lại, câu chuyện tiếu lâm ấy sở dĩ c̣n được lưu truyền là nhờ bài ‘Thơ con cóc’. Có ba lư do để khẳng định điều này: một là, nếu bỏ bài thơ đi, câu chuyện sẽ trở thành hoàn toàn nhảm nhí và vô nghĩa; hai là, đă nhiều người dùng lại câu chuyện ấy, chỉ thay đổi những lời thơ xướng hoạ, có những lời thơ tục, vui và ngộ nghĩnh hơn bài ‘Thơ con cóc’ nhiều,[4] song tất cả đều rơi hút vào quên lăng; ba là, rất nhiều người chỉ nhớ bài ‘Thơ con cóc’ nhưng lại không nhớ được câu chuyện tiếu lâm kia, nghĩa là, nói cách khác, với họ, bài ‘Thơ con cóc’ được ghi nhận như một tác phẩm độc lập.
Như vậy, có thể nói, qua việc nhớ bài ‘Thơ con cóc’, việc coi ‘Thơ con cóc’ như là một điển h́nh của cái dở, từ trong vô thức, chúng ta đă thừa nhận giá trị của nó, đă linh cảm được đó là một bài thơ hay. Song có lẽ v́ cái hay của nó quá lạ, khác hẳn những cái hay chúng ta quen thưởng thức, cho nên lư trí chúng ta tự nhiên đâm ngờ vực, cuối cùng, lư trí thắng thế: bài thơ bị liệt vào loại dở. Sự hàm oan của bài ‘Thơ con cóc’, do đó, gắn liền với sự hàm oan của một quan điểm thẩm mỹ. Khôi phục giá trị của bài ‘Thơ con cóc’ cũng có nghĩa là đặt thành nghi vấn đối với những quan điểm thẩm mỹ quen thuộc, đang giữ vai tṛ thống trị trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lâu nay.
Bài ‘Thơ con cóc’ hay ở chỗ nào?
Trước hết và có lẽ cũng hiển nhiên hơn hết, đó là bài thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó, có thể coi ‘Thơ con cóc’ cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị Nở là điển h́nh của cái Xấu, ‘Thơ con cóc‘ sẽ là điển h́nh của cái Dở. Chỉ riêng ở khía cạnh này, ‘Thơ con cóc’ đă là một cái ǵ khá mới mẻ và đầy táo bạo, khác hẳn mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật miêu tả, từ đó, h́nh thành một lối đi độc đạo trong sáng tác: mọi người đều chăm chăm chọn những nhân vật đẹp, những khung cảnh đẹp. Văn học dân gian và tiểu thuyết thoát ly ra khỏi quan điểm hẹp ḥi này khá sớm có lẽ do bản chất dân chủ của chúng. Thơ cứ đắm đuối măi trong cơi mộng mơ. Cái xấu, cái tầm thường bị gạt qua một bên, trở thành lănh địa dành riêng cho thơ trào phúng.
Ngay trong giới hạn của thơ trào phúng, cho đến nay, người ta cũng chỉ thành công trong việc khắc hoạ những cái xấu theo nghĩa đạo đức học hoặc xă hội học, tức những nhân vật, những sự kiện lố bịch, nhố nhăng, chướng tai gai mắt, nhưng lại không thành công trong việc miêu tả cái xấu theo nghĩa thẩm mỹ học. Tất cả những bài thơ phê phán cái dở đều... khá dở. C̣n lại, chỉ c̣n lại trong suốt lịch sử văn học Việt Nam, hai câu thơ này của Hồ Xuân Hương:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông.
Nhưng Hồ Xuân Hương, trong hai câu thơ này, không có chủ tâm nói về cái dở. Bà chỉ nhằm chế diễu sự bất tài mà thôi.
Như thế, có thể coi bài ‘Thơ con cóc’ là bài thơ duy nhất thành công trong việc nêu bật đặc điểm của những bài-thơ-thị-nở vốn ê hề, xưa cũng như nay, trong cũng như ngoài nước.
Tuy nhiên, giá trị bài ‘Thơ con cóc’ không phải chỉ có như vậy. Đọc bài thơ một cách nghiêm chỉnh như đọc một bài thơ trữ t́nh và quên đi câu chuyện tiếu lâm ngớ ngẩn chung quanh nó, chúng ta sẽ phát hiện ra một số điều rất lạ.
Trước hết, về phương diện kết cấu, bài thơ rất ngắn, chỉ có sáu câu, lại được cắt ra làm ba đoạn. Câu đầu của đoạn sau lặp lại nguyên vẹn câu cuối của đoạn trước. Thành ra, trừ câu đầu và câu cuối, tất cả các câu thơ c̣n lại đều xuất hiện hai lần, cách nhau một quăng ngắt hơi, một quăng im lặng dài v́ là thuộc hai đoạn thơ khác nhau. Cái quăng ngắt hơi ấy tạo ra cảm giác nghiêm trang, trịnh trọng cho cái động tác được miêu tả. Đây chỉ là một kỹ thuật thông thường khi kể chuyện, đặc biệt những chuyện có vẻ ly kỳ, rùng rợn. Thế nhưng, khác với các câu chuyện ma, chẳng hạn, sau mỗi lần người kể lặng im để tạo tâm thế căng thẳng, hồi hộp cho người nghe hoặc người đọc là một chi tiết bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ, bài ‘Thơ con cóc’, ngược lại, sau mỗi lần ngắt hơi, lại lặp lại nguyên văn những điều đă nói. Điều này tạo nên một cảm giác nghịch lư: nó vừa nghiêm trang, trịnh trọng lại vừa rất nhàm, rất nhảm.
Tính chất nghịch lư ấy lại được nh́n thấy ở một phương diện khác: h́nh tượng ‘con cóc’, lặp đi lặp lại sáu lần, chiếm nửa số lượng từ vựng trong bài, luôn luôn đứng làm chủ ngữ trong mọi câu thơ, nổi bật, uy nghi, vừa như một tượng đài lại vừa như một quyền lực. Nửa số từ vựng c̣n lại chỉ vừa đủ để diễn tả bốn động tác căn bản của con cóc: ở trong hang, nhảy ra, ngồi lại và cuối cùng, nhảy đi. Những động tác này không những nhàm, nhảm mà c̣n vô nghĩa nữa. Sự vô nghĩa này lại được cố t́nh tŕnh bày một cách trịnh trọng: yếu tố hài hước của bài thơ được khơi dậy từ đây; lư do chính khiến ‘Thơ con cóc’ bị coi là điển h́nh của cái dở nằm ở đây. Và cũng từ đây, chúng ta thấy được chủ đề của bài thơ: nó không phải là bài thơ tả con cóc mà, qua con cóc, bài thơ nói về những sự trịnh-trọng-vô-nghĩa.
Sự kết hợp giữa hai yếu tố trịnh trọng và vô nghĩa góp phần mở rộng trường liên tưởng của bài thơ: với loài cóc, chỉ có thể có sự vô nghĩa chứ không có sự trịnh trọng. Trịnh trọng là khái niệm dùng cho con người, một loài vật có trí tuệ và khả năng tự giác để gán cho hành động của ḿnh một giá trị nào đó có khi chính nó không có.
Bài ‘Thơ con cóc’, như thế, đang nói về con người. Về tôi. Về chị. Về anh. Về tất cả chúng ta. Trong cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một cách cực kỳ nghiêm cẩn. Chúng ta đắn đo trước khi khởi sự. Đă đành. Chúng ta c̣n có thói quen tự chiêm ngưỡng ḿnh lúc đang hành động. Chúng ta tự khoác lên chúng ta cơ man những hào quang lấp lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả, để tô vẽ việc làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn dịch về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời. Huyền thoại lên ngôi. Ảo ảnh che khuất hiện thực. Lê Duẩn và những người lănh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1975, khi hứa hẹn chỉ trong ṿng 10, 15 năm Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc, là nạn nhân của chính cái nh́n tự mê hoặc của họ: thay v́ nh́n đất nước Việt Nam như một xứ sở tan nát sau cuộc chiến tranh khốc liệt và dai dẳng, họ chỉ nh́n nó như là sự anh hùng và sự sáng suốt, những khả năng có thể làm được phép lạ. Hiện nay, Đảng cộng sản cứ tiếp tục sống trong thế giới phi thực ấy khi họ khăng khăng khẳng định chỉ có họ mới đủ sức cứu văn đất nước và một mực từ chối yêu cầu dân chủ hoá chế độ. Và cả chúng ta nữa, liệu chúng ta có thoát khỏi sự diễn dịch về hành động bỏ nước ra đi của chúng ta để nh́n thẳng vào thực tế của cuộc đời? Bài ‘Thơ con cóc’ nhắc nhở chúng ta một sự thật: cuộc đời là cái nó là chứ không phải cái nó được nghĩ là. Bỏ hết những tính từ lộng lẫy, những sự diễn dịch đầy chủ quan, và do đó, đầy ảo tưởng, cuộc đời nào cũng chỉ c̣n lại vài động tác căn bản, đại khái nhảy vào, nhảy ra, thế thôi. Ừ, th́ cuối cùng cũng chẳng ra làm sao cả. Ở trong nước nhảy vọt qua Indonesia; từ Indonesia nhảy vọt qua Pháp, rồi từ Pháp lại nhảy vọt qua Úc, tưởng làm được điều ǵ ghê gớm lắm; té ra, không, chỉ ngồi ỳ một chỗ với áo cơm, với nợ nần, với mộng tưởng, với nhớ nhung lan man, chờ một ngày lại nhảy đi nữa.
Mà đi đâu? Bài thơ mở ra bằng một không gian hẹp, xác định và không chừng ấm áp lắm: cái hang. Các động từ kế tiếp đều là những động từ chỉ phương hướng, rơ ràng: nhảy ra, ngồi đó. Ở câu cuối cùng, bài thơ đóng lại bằng một động từ không phương hướng để mở ra một không gian vô định: nhảy đi. Đi đâu? Ai mà biết. Chỉ nhảy đi. Vậy thôi. ‘Bể vô tận sá ǵ phương hướng nữa’ (Vũ Hoàng Chương). Trời đất bao la, ai hơi đâu theo dơi cóc làm ǵ. Khác với tất cả những từ ở trên kết thúc bằng những nguyên âm mở (a/o), động từ ‘nhảy đi’ kết thúc bằng một nguyên âm hẹp, hẹp nhất trong các nguyên âm: i. Nó gợi nhớ cái âm hao áo năo ê chề trong thơ của Tú Xương ngày nào:
Tấp tểnh người đi, tớ cũng đi
Cũng lều cũng chơng cũng vô thi
(Đi thi)
Bụng buồn c̣n biết nói năng chi
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
(Thi hỏng)
Con đường đi vào cơi Hư không mênh mông và tịch lặng, như thế, lại là một con đường hẹp. Và ngậm ngùi. Vô cùng ngậm ngùi.
Trong văn học dân gian, rất gần với bài ‘Thơ con cóc’ là bài ca dao:
Cái kiến mày đậu cành đào
Leo phải cành cọc leo vào leo ra
Cái kiến mày đậu cành đa
Leo phải cành cọc leo ra leo vào.
hoặc bài đồng dao:
Ông Nỉnh ông Ninh
Ông ra đầu đ́nh
Ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang
Ông ra đầu làng
Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh.
Bài đồng dao này được nhà văn B́nh Nguyên Lộc khen hay, hơn nữa, c̣n có ngầm ư cho Tản Đà cũng không thể làm nổi.[5] Tôi đồng ư. Có điều, chủ đề của bài đồng dao chỉ là sự chật chội, tù túng, quẩn quanh trong đời sống cộng đồng thôn xă Việt Nam ngày xưa cũng như chủ đề bài ca dao trên chỉ là sự bế tắc, cùng quẫn, khốn khó của những thân phận con ong cái kiến trôi giạt giữa đời. Nó không có cái ‘bận tâm lớn’, cái ‘băn khoăn siêu h́nh’ - chữ của nhà văn Vơ Phiến[6] -- như bài ‘Thơ con cóc’. Ở phương diện này, có lẽ gần hơn với bài ‘Thơ con cóc’ là bài ‘Một ḿnh đi luồn vô luồn ra trong núi chơi‘ của Nguyễn Đức Sơn:
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục ră tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt băi hư vô.
Nguyễn Đức Sơn loăng quăng líu quíu đi luồn vô luồn ra trong núi cũng giống như con cóc cứ nhảy, rồi ngồi, rồi lại nhảy đi. Thế thôi. Hai bài thơ đều có cùng một chủ đề: sự vô nghĩa của kiếp người. Đi đâu cũng thấy hư vô. Chất ngất trước mắt. Rợn ngợp trong ḷng.
Cùng một chủ đề, nhưng rơ ràng bài ‘Thơ con cóc’ mạnh và sắc hơn bài thơ của Nguyễn Đức Sơn nhiều. Họ Nguyễn, tuy mỏi mệt và tuyệt vọng đến năo nề, nhưng tâm hồn ít ra cũng c̣n chút thanh thản đủ để nh́n ngắm ngoại cảnh chung quanh ḿnh, từ băi cỏ, cành cây đến nắng tàn; hơn nữa, c̣n chú ư đến thời gian, thoạt đầu, chỉ là chiều tà, sau, dần dần, biến thành hoàng hôn đang thoi thóp. Chút điểm trang trong h́nh thức câu thơ, dù rất nhạt, cũng đủ làm cho cảm xúc của Nguyễn Đức Sơn nhẹ đi, lênh ra. Như một niềm hiu hắt. Chỉ là một niềm hiu hắt. Mà như thế bài thơ lại có cái ǵ chênh vênh: h́nh tượng đi ‘luồn vô, luồn ra’ trong núi như muốn nói điều ǵ dữ dội hơn nhiều.
Bài ‘Thơ con cóc’, ngược lại, trần trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói ǵ là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. Và cũng có thể nói, nó tàn nhẫn nữa. Nó xoá bỏ hết mọi son phấn và loại trừ hết tất cả cảm xúc thừa thăi để bắt người đọc một ḿnh sững sờ đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời. Không thể có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa. Nó có phần giống thứ ngôn ngữ Albert Camus dùng khi viết Người xa lạ: rời, tẻ, lạnh, không chỉ những từ thêu thùa, đẩy đưa mà cả những từ nối, những từ có chức năng diễn giải, phân tích cũng bị tước hết.
Không phải tôi chủ trương văn chương, muốn hay, phải cực kỳ giản dị. Có cái đẹp giản dị và có cái đẹp đài các, đầy son phấn. Ở đây, vấn đề không phải là từ ngữ mà là thái độ: đặc điểm nổi bật nhất của ‘Thơ con cóc’ là sự tự kiềm chế khi nói đến một chuyện cực cùng bi thảm.
Các nhà phê b́nh văn học hay đả kích trường-phái-thơ-thị-nở vụng về, ngọng nghịu hoặc trường-phái-thơ-đồ-chiểu khệnh khạng, lúc nào cũng lên gân, làm thơ cứ như giảng bài hoặc như bắn súng mà thường quên đi hoặc có khi đồng t́nh với trường-phái-thơ-thuư-kiều đến nay vẫn là ḍng chủ đạo trong nền thơ Việt Nam, đẹp th́ cũng có thể gọi là đẹp, nhưng là một cái đẹp rất sáo, rất cũ, đặc biệt, rất ru em và rất dầm dề. Ru em ở nhạc điệu: lúc nào cũng du dương, cũng nhè nhẹ, cũng à ơi. Dầm dề ở cảm xúc: động một chút là thở than, là rơi nước mắt, là ‘Ôi Kim lang, hỡi Kim lang’.
Việt Nam không phải là dân tộc duy nhất theo ‘đạo’ thuư kiều. Đó là hiện tượng khá phổ biến trên thế giới ở thế kỷ trước, gắn liền với chủ nghĩa lăng mạn, xuất phát từ cái nh́n duy cảm, thói quen thi vị hoá và niềm say mê găi những vết mụn âu sầu trong hồn ḿnh. Thoạt đầu, nó là một cuộc cách mạng, chống lại tính chất duy lư, tính chất quy phạm, sự sùng bái cái đẹp vĩnh cửu và bất biến của chủ nghĩa cổ điển, mở ra con đường mới cho văn học bằng cách đưa ra một cái nh́n mới đối với vai tṛ của trí tưởng tượng, một thái độ mới đối với thiên nhiên, nhưng càng về sau tính chất sáng tạo càng phôi pha dần, các nhà thơ biến thành những chuyên viên đi sụt sùi trước những nấm mồ vô chủ, khóc lặng lẽ dưới mưa, ngẩn ngơ khi hoàng hôn xuống, lâu lâu lại gào lên năo nuột: ‘Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm / Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em.’..
Ở Tây phương, người ta từ bỏ thói quen sướt mướt này khá sớm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, các nhà thơ trong nhóm Thi Sơn (Parnassians) của Pháp đă chủ trương đè nén cảm xúc và đề cao cái nh́n khách quan trong thơ; từ đầu thế kỷ 20, các nhà thơ thuộc phái Duy h́nh tượng (Imagism) của Anh và Mỹ đề ra một số nguyên tắc làm thơ, trong đó, về phương diện ngôn ngữ, nguyên tắc đầu tiên là không dùng tính từ, những từ, theo họ, chỉ làm nhăo cảm xúc chứ không gợi ra điều ǵ cả; T.S. Eliot đưa ra quan niệm phi ngă trong thơ: nhà thơ không phải là người có một cá tính để thể hiện mà là người có một phương tiện đặc biệt để dùng: ngôn ngữ. Riêng ở Việt Nam, chủ nghĩa lăng mạn được du nhập khá muộn màng, từ đầu thập niên 30, từ đó, nó cứ măi măi giữ địa vị thống trị trong thơ. Những thành tựu huy hoàng của Thơ Mới đă điều kiện hoá cách cảm thụ văn học của chúng ta. Ư thức thẩm mỹ của chúng ta trở thành hẹp ḥi, phiến diện và cứng nhắc. Trong khi nhiều nhà thơ vẫn c̣n loay hoay dưới bóng của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử... phần đông độc giả của thơ vẫn mang nguyên tâm trạng và tâm thế của thời 32-45.
Thay đổi một cách cảm bao giờ cũng khó khăn hơn là thay đổi một cách nghĩ, do đó, nói chung, những sự thay đổi trong thơ bao giờ cũng chậm chạp và nhiều trăn trở hơn các lănh vực nghệ thuật hoặc các thể tài văn học khác. Nói theo ngôn ngữ chính trị, không ở đâu có nhiều thành phần lạc hậu, bảo thủ và phản động như là thế giới thơ. Từ thập niên 20, văn xuôi đă chuyển ḿnh trong khi thơ cứ ́ ạch măi trong lối ṃn. Đầu thập niên 30, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn ra đời được hoan nghênh tức khắc, nhưng cùng lúc, phong trào Thơ Mới xuất hiện kéo theo bao nhiêu là tiếng la ó, phản đối, phần lớn từ những người làm thơ hoặc tự nhận là yêu thơ. Cuối thập niên 50, ở miền Nam, chúng ta làm thân dễ dàng với câu văn xuôi của Mai Thảo song đến tận cuối thập niên 70 và không chừng đến cả hiện nay nữa, rất nhiều người trong chúng ta vẫn ngỡ ngàng trước những câu thơ của Thanh Tâm Tuyền. Sau năm 1975, ở hải ngoại, chúng ta đón nhận sự táo bạo trong truyện ngắn của Trần Vũ một cách đầy thiện cảm nhưng lại ngờ vực những cố gắng làm mới thơ của Chân Phương, Đỗ Kh.. Sau năm 1986, ở trong nước, truyện dài và truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn, thay đổi khá nhiều với những thể nghiệm thông minh và tài hoa của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, riêng thơ, trừ một số ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi, vẫn tiếp tục ầu ơ như cũ. Dường như, trong thơ, sau khi lột bỏ chiếc áo tứ thân, cho đến tận bây giờ, đa số trong chúng ta vẫn mặc hoài chiếc áo dài Le Mur, cái mốt của thời Thơ Mới. Thơ, do đó, thay v́ là sứ giả của tương lai, lại biến thành một thứ viện bảo tàng chất chứa các di chỉ một thời xưa cũ, cái thời, nói như Thường Quán, trong bài ‘Xưa thơ’:
Xưa thơ niềm b́nh dị nắng trời cổ lục
Màu gió xanh câu hát níu câu ḥ
Chảy măi suối nguồn núi sông uốn khúc
Nước đưa người qua bến nắng thơm tho...
...Chỗ trú của thơ là nơi nào trong tóc bỏ đuôi gà kia thầm lặng
Nắng thả rơi lên một lá trúc đào.
Buồn.
(Đă in trong cuốn Thơ, v.v... và v.v..., Văn Nghệ xuất bản tại California, 1996)
_________________________
[1]Hoài Thanh và Hoài Chân (1967), Thi nhân Việt Nam, Thiều Quang (tái bản), Saigon, tr. 329.
[2] Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 2, nxb Văn học, Hà Nội, tr. 227.
[3]Câu chuyện có thể tóm tắt đại khái như sau: Có ba anh học tṛ dốt, một hôm, nh́n một con cóc, nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh. Anh thứ nhất đọc: Con cóc trong hang / Con cóc nhảy ra. Anh thứ hai tiếp: Con cóc nhảy ra / Con cóc ngồi đó. Anh thứ ba nối lời: Con cóc ngồi đó / Con cóc nhảy đi. Làm xong bài thơ, tự trầm trồ khen ḿnh giỏi, rồi sực nhớ lời người xưa nói kẻ tài hoa thường mệnh yểu, ba anh rất lo, sai tiểu đồng ra phố mua sẵn ba cái quan tài. Ngoài phố, nghe lời tiểu đồng kể lại, một khách qua đường dặn: - Mày mua luôn giùm tao một cái nữa, để lỡ cười quá, tao chết mất.
[4]Ví dụ lời thơ trong truyện 'Thơ cái chuông': Chùa này có cái chuông / Đánh tiếng kêu boong boong / Treo lên như cái vại / Ấy nó vốn bằng đồng. hoặc trong truyện 'Thơ con ngựa': - Chậu nước thả cây kim / Cha tôi cưỡi ngựa chạy như chim / Chạy đi chạy lại cây kim chưa ch́m. - Ḷ than để cái lông / Cha tôi cưỡi ngựa chạy như giông / Chạy đi chạy lại, cái lông chưa hồng. - Mẹ tôi xáng cái địt / Cha tôi phi ngựa chạy như hít / Chạy đi chạy lại cái đít mẹ tôi chưa khít.
[5] Nhà văn B́nh Nguyên Lộc trả lời phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, Văn số 199 ra ngày 1.4.1972, tr. 12.
[6] Vơ Phiến (1989), Tạp bút, Văn Nghệ, California, tr. 51-59.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge ֎ Mười điều răn ֎ Ten Commandements
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.