Ngô Đ́nh Nhu
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
(Tùng Phong dịch)
3
Phần II
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI VỪA TR̀NH BÀY
(tiếp theo)
Lănh đạo quốc gia gián đoạn
Như thế nào là một sự lănh đạo quốc gia bị gián đoạn?
Trong một t́nh trạng b́nh thường chủ quyền của quốc gia chuyền tay một cách êm thắm từ lớp người lănh đạo này sang lớp người lănh đạo sau. Sự liên tục trong sự lănh đạo nằm ở chỗ các bí mật lănh đạo và các bí mật quốc gia được mật truyền cho nhau. Đời sống của người ngắn ngủi sánh với đời sổng của quốc gia, sự liên tục lănh đạo thực hiện được nhờ ở sự mật truyền nói trên và nhờ ở các văn khố và ở chỗ có người biết sử dụng văn khố. Ngoài ra thuật lănh đạo được truyền cho nhau nguyên vẹn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với thời gian, các bí mật chồng chất, các văn khố lưu trữ, sự trau dồi thuật lănh đạo càng ngày càng tinh vi, và kinh nghiệm lănh đạo súc tích là một di sản quư báu không thể lường được cho một dân tộc.
Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đă thực hiện được việc liên tục lănh đạo quốc gia trong gần 200 năm. Một nhà lănh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng ḿnh có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quư báu không có ǵ thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường. Với các hậu thuẫn đó, họ có thể hiểu biết và giải quyết những việc ngoài khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu, nhưng thiếu hậu thuẫn của dĩ văng. Mỗi biến cố xảy ra bất cứ nơi nào trên thế giới đều có thể đối chiếu với một biến cố tương tự đă xảy ra trước đây và đă được ghi chép vào văn khố của họ. Nhờ vậy mà họ biết rơ bí mật lănh đạo của hầu hết các nước khác hơn là chính người lănh đạo của những nước đó. Trên phương diện này nước Pháp, nước Đức hay cả nước Nga cũng không sánh được với nước Anh. Và nước Pháp, nước Đức và nước Nga chưa thực hiện được sự liên tục lănh đạo như nước Anh. V́ vậy chúng ta không lấy làm lạ khi biết rằng ngày nay chính là chính sách ngoại giao của Anh, Mỹ lănh đạo thế giới ngày nay.
Trên phương diện này, và với thời gian qua, cách mạng năm 1789 của Pháp, mang đến nhiều cuộc xáo trộn trong xă hội Pháp, là một biến cố có hại nhiều hơn có lợi cho quốc gia Pháp. Việc lănh đạo quốc gia bị một gián đoạn sâu rộng và đến ngày nay việc chuyển quyền trong sự lănh đạo quốc gia một cách liên tục, nước Pháp vẫn chưa giải quyết được một cách ổn thoả. Những biến cố không hay cho nước Pháp cho đến ngày nay, từ cách mạng 1789, đều là hậu quả của những sự kiện trên. Và trong việc chạy đua chiếm thuộc địa giữa các cường quốc Âu Châu trong các thế kỷ vừa qua, sở dĩ Anh thắng thế cũng nhờ ở hậu thuẫn vô biên của gần 400 năm liên tục trong việc lănh đạo quốc gia.
Dân tộc Đức, trên mọi lănh vực của đời sống, đă tỏ ra có nhiều đức tính, mà các dân tộc khác không b́ kịp, và đă góp vào văn minh của nhân loại những sáng tạo cao cả. Nhưng sở dĩ ngày nay vẫn c̣n điêu đứng cũng chỉ v́ không giải quyết được vấn đề chuyển quyền và lănh đạo liên tục quốc gia.
Nước Nga sau cuộc cách mạng 1917 đă thành công trong cuộc phát triển dân tộc và duy tân xă hội. Nhưng họ phải trả bằng một giá rất đắt và phải sau hơn ba mươi năm, mới chế ngự được các chấn động do sự gián đoạn về lănh đạo gây nên. Mặc dầu như vậy, ngày nay nhược điểm của Nga Xô vẫn c̣n ở chỗ bộ máy chính quyền của Cộng Sản vẫn chưa giải quyết được vấn đề chuyển quyền và vấn đề lănh đạo liên tục quốc gia.
Với thời gian qua, các cuộc cách mạng bạo động trong lịch sử đều là những cái hại, dù là có cần thiết đi nữa, vẫn là những cái hại cho quốc gia và dân tộc. Nếu cân nhắc hai bên, một bên là cuộc cách mạng bạo động để thanh toán các tệ đoan trước mắt của xă hội và một bên là sự bảo đảm cho sự lănh đạo liên tục quốc gia, th́ lịch sử trả lời rằng sự lănh đạo liên tục quốc gia quan hệ hơn, v́ nó là một quan điểm dài hạn, c̣n cách mạng bạo động là một quan điểm ngắn hạn. Mà lịch sử là một quan điểm dài hạn so sánh với đời sống cá nhân là một quan điểm ngắn hạn. Một dân tộc càng trưởng thành quan điểm càng dài hạn, và quan điểm càng dài hạn, dân tộc càng có cơ hội và phương tiện để trưởng thành. Hơn nữa những cái tệ đoan có thể thanh toán bằng nhiều lối, ngoài lối cách mạng bạo động.
Sự lănh đạo quốc gia liên tục
Như trên đă tŕnh bày, sự lănh đạo quốc gia được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thoả măn:
1. Sự chuyển quyền được b́nh thường từ lớp người trước cho tới lớp người sau.
2. Các bí mật quốc gia được truyền lại.
3. Thuật lănh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh vi.
4. Các kinh nghiệm của dĩ văng được xếp vào văn khố, được truyền lại và có người biết sử dụng văn khố.
Cứ theo các điều kiện trên đây, một chế độ độc tài hay quân chủ chuyên chế hoàn toàn bất lực trong việc bảo đảm một sự lănh đạo quốc gia liên tục. V́ cái mầm bạo động lúc nào cũng được tạo ra và bị đàn áp bởi các chế độ trên. Nhưng càng đàn áp lại càng nuôi dưỡng đúng theo luật tự nhiên của lịch sử và cuối cùng bạo động sẽ bùng nổ và mang lại sự gián đoạn trong vấn đề lănh đạo quốc gia. Nhận xét trên đây sẽ ảnh hưởng nặng trên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Nếu việc lănh đạo quốc gia được liên tục nhờ ở sự thoả măn các điều kiện trên đây, th́ dĩ nhiên, sự thiếu một hay nhiều điều kiện trên đây sẽ đem đến sự gián đoạn trong việc lănh đạo. Và tuỳ theo điều kiện thiếu nhiều hay ít, sự gián đoạn ấy sẽ dung nạp được hay trầm trọng. Chúng ta có thể phân biệt ba tŕnh độ gián đoạn.
Tŕnh độ gián đoạn nhẹ nhất xảy ra khi sự chuyển quyền từ lớp người trước cho lớp người sau không được b́nh thường, các bí mật quốc gia trong giai đoạn ngắn trước đó sẽ mất. Tuy nhiên văn khố hăy c̣n và thuật lănh đạo không đến nỗi mất hẳn. Các cuộc đảo chánh ở Nam Mỹ rất là điển h́nh cho tŕnh độ này.
Tŕnh độ gián đoạn trầm trọng xảy ra khi sự chuyển quyền từ lớp người trước cho lớp người sau, chẳng những không được b́nh thường, mà lại c̣n diễn ra trong những hoàn cảnh bạo động kinh khủng. Các bí mật quốc gia mất hết, văn khố bị thiêu huỷ, người sử dụng văn khố không c̣n. Thuật lănh đạo và kinh nghiệm của dĩ văng được thay thế bằng sự hăng hái của dân chúng và sáng kiến cá nhân. Di sản của dĩ văng không c̣n nữa, v́ sự điên rồ của người đời làm cho họ tin rằng họ cần san bằng tất cả dĩ văng đế xây dựng tương lai. Cách mạng năm 1789 của Pháp là một ví dụ cụ thể nhất cho trường hợp này. Biết như vậy rồi chúng ta không lấy làm lạ tại sao cho đến ngày nay người Pháp vẫn chưa giải quyết được một cách ổn thoả vấn đề lănh đạo liên tục cho quốc gia của họ.
Cũng trên phương diện này, sự chính quyền Việt Minh, vô t́nh hay cố ư, không bảo vệ được phần văn khố của triều Nguyễn mà người Pháp c̣n để lại, để cho dân chúng Huế đốt phá một phần quan trọng của di sản kinh nghiệm của chúng ta, là một lỗi rất lớn, không có ǵ tha thứ được đối với quốc gia và dân tộc. Tuy nhiên, dù vô t́nh hay cố ư việc đó đă xảy ra, chứng minh cho sự kiện chính: v́ chúng ta đă mất truyền thống lănh đạo, cho nên những người có trách nhiệm trong chính phủ Việt Minh lúc bấy giờ ở Huế không ư thức được tính cách quan trọng và quốc gia cần thiết của sự bảo vệ văn khố. Càng mất truyền thống lănh đạo lại càng phá huỷ những di sản khả dĩ bảo vệ sự lănh đạo quốc gia. Tục ngữ thường nói “nghèo lại càng nghèo” là vậy.
Tŕnh độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật lănh đạo và bí mật quốc gia đều mất. Thuật lănh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ văng không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.
Lớp người lănh đạo trước của chúng ta đă mất, lớp người lănh đạo sau của chúng ta không có. Di sản dĩ văng tiêu tan. T́nh trạng của chúng ta thật là khủng khiếp nếu chúng ta tưởng tượng rằng, trước mặt một nhà lănh đạo Anh tựa lưng vững chăi trên di sản dày 400 năm, sẵn sàng ứng phó với mọi biến cố, nhà lănh đạo của chúng ta đứng lên, cô độc, sau lưng không có lấy được một tờ di sản làm hậu thuẫn.
Hoàn cảnh, trong đó chúng ta phải chiến đấu để thực hiện cuộc phát triển dân tộc, nghiêm khắc là vậy đó. Ư nghĩa của chữ “chậm tiến” là vậy đó.
Điều kiện của một sự lănh đạo liên tục
V́ vậy cho nên dốc hết nỗ lực của toàn dân vào công cuộc chung cũng chưa chắc là đủ. Nhưng đó là việc chúng ta sẽ bàn tới sau này. Giờ đây để hết tâm trí chúng ta vào một điều tối quan trọng là đường lối của chúng ta sau này sẽ được lựa chọn như thế nào để khả dĩ bảo đảm cho sự lănh đạo liên tục quốc gia và tiết kiệm được người lănh đạo mà chúng ta vô cùng khan hiếm sau thời kỳ Pháp thuộc. Điều này như trên đă nói chắc chắn một chính thể độc tài không làm được.
Một sự kiện khác chứng minh cho tính cách thiết yếu của sự lănh đạo liên tục quốc gia, là t́nh trạng của các nước Nam Mỹ. Ở các nước này, những sự gián đoạn trong việc lănh đạo tuy với h́nh thức nhẹ nhưng xảy ra luôn v́ những cuộc đảo chánh liền liền. Nhiều gián đoạn nhỏ liên tiếp trở thành những gián đoạn lớn, cho nên các nước Nam Mỹ trải qua nhiều thế hệ vẫn là chậm tiến. Một mặt khác, ví dụ trên đây lại chứng minh cho một sự kiện khác: muốn chặn sự phát triển của một dân tộc th́ không có biện pháp nào hiệu quả bằng biện pháp gây ra nhiều gián đoạn trong việc lănh đạo quốc gia của dân tộc ấy. Đây là một thủ đoạn thường dùng của các cường quốc Tây Âu trước đây khi mang kỹ thuật Tây phương đi chinh phục thế giới.
Sự gián đoạn trong vấn đề lănh đạo làm cho quốc gia suy nhược theo một thể thức cơ biến như thế nào chúng ta đă rơ. Nhưng nếu sự gián đoạn diễn ra trong những hoàn cảnh bạo động gây sự giết chóc giữa nhiều phe phái, th́ lại c̣n gây nhiều thảm hại to tát cho quốc gia trên một lĩnh vực khác. Trở về ví dụ của nước Anh một lần nữa, chúng ta sẽ ư thức rơ ràng sự thảm hại vừa nói trên. Ở nước Anh việc lănh đạo quốc gia liên tục đă được giải quyết hoàn bị. Khi cần thay đổi một nhà lănh đạo, tức khắc bộ máy hiến pháp vận chuyển, và một người lănh đạo khác lên thay thế, người lănh đạo trước buông việc, về tịnh dưỡng và suy nghiệm các hành vi đă qua của ḿnh.
Những người lănh đạo xứng danh bao giờ cũng hành động theo một triết lư chính trị mà họ đă nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang ra thực hành. Nếu khi đụng chạm với thực tế, những tư tưởng đang hướng dẫn hành động của họ đă tỏ ra sai lạc, hay v́ hoàn cảnh bên ngoài đă biến đổi nên không c̣n phù hợp với những tư tưởng ấy nữa th́ cần phải có một sự thay đổi ngay. Nhưng thay đổi như thế nào? Người lănh đạo phải thay đổi tư tưởng, hay là phải thay đổi người lănh đạo.
Kinh nghiệm chỉ rằng không bao giờ người lănh đạo thay đổi tư tưởng trong lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ phải mất nhiều th́ giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lư chính trị mà họ chủ trương. Nay nếu nó không phù hợp với hoàn cảnh, họ phải có đủ thời giờ để một là xét v́ sao triết lư ấy không phù hợp và hai là để t́m triết lư khác thay thế vào. Điều mà họ không thể làm được nếu họ vẫn bị hành động lôi cuốn. V́ vậy cho nên yêu cầu một người lănh đạo thay đổi tư tưởng của họ đang khi hành động là một việc không bao giờ thực hiện được. Giả sử mà họ có thay đổi được th́ việc lănh đạo lại sẽ gặp một nguy cơ lớn hơn nữa. Bởi v́ thay đổi hấp tấp và không suy nghiệm như vậy, người lănh đạo sẽ không c̣n là chính họ nữa. Và đương nhiên hiệu quả trong hành động của họ sẽ kém bội phần.
Như vậy chỉ c̣n cách là phải thay đổi người lănh đạo. Thoát khỏi không khí náo nhiệt và thúc giục của hành động, người lănh đạo bị thay đổi sẽ suy nghiệm hành động đă qua, rút kinh nghiệm cho bản thân và viết thành sách những kinh nghiệm ấy để làm giàu thêm cho di sản dĩ văng của quốc gia. Hơn thế nữa, người lănh đạo bị thay đổi lại có ngày giờ nghiền ngẫm một triết lư chính trị khác hợp với t́nh thế hơn, và nếu có cơ hội cho họ trở ra hoạt động, th́ quốc gia lại có một người lănh đạo kinh nghiệm hơn gấp mấy lần người lănh đạo đă bị thay đổi trước đây. Nay, nếu thay v́ một sự chuyển quyền b́nh thường, nhiều bạo động lại diễn ra làm thiệt mạng những người lănh đạo trước, chúng ta sẽ mất, ngoài những bí mật lănh đạo mà chúng ta đă nói rồi trên kia, vừa các kinh nghiệm lănh đạo có thể làm cho di sản dĩ văng chúng ta thêm phong phú, vừa một người lănh đạo mà quốc gia lúc nào cũng khan hiếm.
Lư luận trên đây lại c̣n làm cho chúng ta nhận xét thêm rằng:
1. Không bao giờ thay đổi được tư tưởng của người lănh đạo trong lúc họ đang hành động.
2. Người lănh đạo dù tài ba đến đâu cũng có lúc cần phải được thay đổi, v́ tư tưởng không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế.
3. Sự lănh đạo quốc gia liên tục một khi được bảo đảm, di sản dĩ văng của quốc gia càng thêm phong phú, và quốc gia càng giàu người lănh đạo. Di sản quốc gia càng thêm phong phú và quốc gia càng giàu người lănh đạo th́ việc lănh đạo quốc gia liên tục lại càng thêm bảo đảm.
4. Ngược lại, sự lănh đạo quốc gia liên tục không thực hiện được, th́ di sản dĩ văng của quốc gia càng ngày càng suy vi và quốc gia càng ngày càng nghèo người lănh đạo. Và di sản dĩ văng càng suy vi và quốc gia càng nghèo người lănh đạo th́ việc lănh đạo quốc gia liên tục lại càng khó thực hiện được.
V́ những lư do trên, nên một chế độ độc tài, mà bản chất là dựa trước hết trên nguyên tắc không thay đổi người lănh đạo, không thể phù hợp với thực tế. Và không phù hợp với thực tế là không thực hiện được sự lănh đạo quốc gia liên tục. Và chúng ta đă thấy sự tai hại cho quốc gia như thế nào nếu sự lănh đạo liên tục không thực hiện được. Nhận xét này sẽ ảnh hưởng nặng trên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Sau khi đă giải thích v́ sao sự lănh đạo quốc gia bị gián đoạn là một điều kiện nghiêm khắc cho chúng ta, chúng ta c̣n phải giải thích v́ sao mà sự kiện xă hội chúng ta đă tan ră lại là một điều kiện nghiêm khắc khác.
Xă hội bị tan ră
Như thế nào là một xă hội bị tan ră?
Như trong một phần trên chúng ta đă nói, một xă hội b́nh thường, có một nền văn minh đă tiến bộ, đều có một toàn bộ giá trị tiêu chuẩn làm mực thước cho hoạt động của xă hội trong mọi lĩnh vực. Những giá trị tiêu chuẩn không nhất thiết ảnh hưởng theo một chiều, nhưng tất cả, với thời gian, quân b́nh lẫn nhau và lập thành một trạng thái điều hoà cho toàn bộ. Nếu trạng thái điều hoà là một thế thăng bằng động tiến th́ nền văn minh của xă hội đó đang thời phát triển. Nếu trạng thái điều hoà là một thế thăng bằng tĩnh chỉ th́ nền văn minh của xă hội đó đang đương lúc ngưng trệ. Nhưng trong trường hợp nào xă hội đó cũng sống trong một trạng thái điều hoà và tất cả phần tử trong xă hội đều tin tưởng tuyệt đối vào những giá trị tiêu chuẩn trên, và mọi người trong xă hội đều cố gắng hành động phù hợp với các tiêu chuẩn trên. Và v́ mọi người đều tin tưởng vào các tiêu chuẩn trên, nên bất cứ hành động nào phù hợp với các tiêu chuẩn trên đều t́m được ở trong tâm hay trí của mỗi người một sự rung động ăn nhịp theo. Do đó các giá trị tiêu chuẩn là những tín hiệu tập hợp cho các phần tử trong xă hội. Ví dụ trong xă hội Việt Nam xưa kia, quan niệm quân tử là một giá trị tiêu chuẩn. Trung, hiếu là những giá trị tiêu chuẩn. Nói lên những danh từ quân tử, trung, hiếu, mọi người đều hội ư với của người nói.
Trong một xă hội, những giá trị tiêu chuẩn không phải là bất di bất dịch, nhưng bao giờ cũng có. Và các giá trị tiêu chuẩn, tuỳ theo sự tiến hoá của xă hội cũng sinh ra, phát triển, trưởng thành, già cỗi và chết đi như một sinh vật. Tuy nhiên, lúc nào các giá trị tiêu chuẩn cũng hợp thành một trạng thái điều hoà, có khả năng duy tŕ và nuôi dưỡng sức kết hợp các phần tử trong xă hội thành một cộng đồng.
Do đó xă hội sẽ tan ră khi nào tất cả hay phần lớn các giá trị tiêu chuẩn đều phá sản mà không được thay thế. Trường hợp này rất rơ rệt trong xă hội Việt Nam sau khi thời kỳ Pháp thuộc. Như chúng ta đă thấy rơ trong một đoạn phân tách trên kia, sau khi chiến bại, chủ quyền bị mất, trách nhiệm lèo lái con thuyền Việt Nam sang tay người ngoại quốc nên dân tộc Việt Nam hoàn toàn mất chủ động đối với chính vận mạng của ḿnh. Trong khi đó văn minh của chúng ta bị sự tấn công của văn minh Tây phương, nghĩa là các giá trị tiêu chuẩn của chúng ta bị các giá trị tiêu chuẩn của Tây phương đả phá. Và chúng ta đă thấy v́ nguyên nhân nào mà xă hội chúng ta không chống trả nổi. Trước làn sóng ồ ạt của văn minh Tây phương các giá trị tiêu chuẩn của chúng ta khô héo và chết dần, và không được thay thế. Ngày nay những danh từ quân tử, trung quân, hiếu tử không c̣n làm rung động được bao nhiêu người. Và chúng ta không c̣n những tín hiệu để tập hợp những phần tử trong xă hội nữa. Không tập hợp được tức là các phần tử sống rời rạc, không c̣n hưởng ứng nhịp nhàng theo một giá trị tiêu chuẩn nào nữa. Và như thế là xă hội tan ră.
Các giá trị tiêu chuẩn cũ đă mất hết uy tín, nhưng những người tự xem ḿnh là theo mới lại hướng về những giá trị tiêu chuẩn nào?
Thật ra, công cuộc theo mới dưới thời Pháp thuộc không được hướng dẫn, nên rất là hỗn độn và không mục đích. V́ thế những người theo mới không hề lên được đến tŕnh độ t́m ra những giá trị tiêu chuẩn mới để theo. Họ chỉ bắt chước lối ăn mặc và lối sống Tây phương. Và chưa bao giờ có ai nghĩ đến việc cần thay thế những giá trị tiêu chuẩn đă chết bằng những giá trị tiêu chuẩn khác. Đó là vấn đề mà chúng ta cần phải xét tỉ mỉ sau này khi đặt đường lối cho chúng ta.
Xă hội tan ră là một hoàn cảnh khắc nghiệt
Giờ đây chúng ta đă thấy rằng xă hội chúng ta tan ră v́ không c̣n tiêu chuẩn giá trị để kết hợp các phần tử lại. V́ sao mà một t́nh trạng như vậy là một hoàn cảnh khắc nghiệt cho chúng ta khi chúng ta bắt tay vào công cuộc phát triển dân tộc. V́ lư do sau đây:
Trước hết, chúng ta sẽ thấy sau này, công cuộc phát triển dân tộc là một công cuộc to tát mặc dầu đầy kích thích, nhưng đ̣i hỏi ở toàn dân nhiều nỗ lực liên tục chóng làm mệt mỏi mọi người và nhiều hy sinh nặng nề chóng làm cho mọi người chán nản và sau đó phẫn nộ, và oán ghét. Nếu chúng ta không có một mănh lực ǵ để thuyết phục toàn dân và huy động họ để cùng nhau mạnh bước trên đường tiến bộ, th́ hy vọng thành công của chúng ta không có ǵ bảo đảm. Nay nếu xă hội chúng ta đă tan ră v́ gần một thế kỷ mang ách nô lệ, th́ chúng ta c̣n trong tay giá trị tiêu chuẩn nào để giúp cho chúng ta thâu phục được sự hưởng ứng của mọi người hầu thực hiện cuộc huy động thiết yếu cho công cuộc phát triển?
Khi nước Nhật nắm cơ hội duy tân, xă hội Nhật c̣n nguyên vẹn, và các lănh đạo Nhật đă dùng những giá trị tiêu chuẩn của nền văn minh xưa để huy động dân tộc họ thực hiện công cuộc phát triển. Các nhà lănh đạo đă kêu gọi ḷng ái quốc sâu xa và sự tôn thờ Thiên Hoàng của dân tộc Nhật. Đó là hai giá trị tiêu chuẩn căn bản của xă hội Nhật có mănh lực thúc đẩy mọi người đến sự hy sinh cuối cùng cho tập thể. Những khí giới sắc bén vô song đó đă được các nhà lănh đạo Nhật sử dụng đúng mức để thực hiện công cuộc Tây phương hoá với kết quả mà chúng ta thấy ngày nay.
Người Mỹ sau khi chiến thắng và chiếm đóng nước Nhật đă áp dụng một chính sách vô cùng cứng rắn để làm suy giảm uy tín của Thiên Hoàng bằng mọi cách. Lư do chính là v́ họ tin rằng quân phiệt chủ nghĩa Nhật Bản đă khai thác giá trị tiêu chuẩn tôn sùng Thiên Hoàng của xă hội Nhật để làm sức mạnh cho họ. Như thế th́, đả phá giá trị tiêu chuẩn đó là đả phá quân phiệt chủ nghĩa đến tận gốc rễ. Nhưng các nhà lănh đạo Nhật sở dĩ vận dụng hết cái nỗ lực để cứu văn uy tín của Thiên Hoàng cũng v́ họ ư thức được rằng giá trị tiêu chuẩn căn bản của xă hội Nhật là sự tôn sùng Thiên Hoàng.
Trường hợp của người Nhật lại giúp cho chúng ta nhận định được thêm rằng:
1. Sự lỡ cơ hội phát triển lần thứ nhất cho dân tộc Việt Nam của triều đ́nh nhà Nguyễn chẳng những đưa dân tộc chúng ta vào ṿng nô lệ với tất cả các sự thảm hại tàn khốc, lại c̣n làm cho chúng ta mất nhiều khí giời vô song để chúng ta có thể thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc, khi đă dành lại được độc lập.
2. Ngoài các lư do chính trị ngắn hạn và dài hạn, sở dĩ Trung Cộng, sau khi dành lại được toàn vẹn chủ quyền đă chọn chủ trương huy động quần chúng bằng chính sách độc tài, theo lối Cộng Sản để phát triển, cũng v́ các nhà lănh đạo Trung Cộng đă nhận thấy, mặc dầu xă hội của họ chưa đến giai đoạn tan ră như xă hội của chúng ta nhưng sự phá sản của các giá trị tiêu chuẩn cũ của Trung Hoa đă làm mất những tín hiệu tập hợp của văn minh cũ c̣n có thể sử dụng được. Sau này chúng ta sẽ phân tích tỉ mỉ xem hoàn cảnh có nhiều yếu tố giống hoàn cảnh của chúng ta, có thể áp dụng cho chúng ta không.
Trở lại vấn đề sự tan ră của xă hội Việt Nam, sự tŕnh bày trên đây đă cho chúng ta thấy rơ như thế nào là một xă hội tan ră, và v́ sao mà t́nh trạng đó lại là một hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt cho công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta.
Một h́nh ảnh
Nói một cách khác, trước khi người Pháp đến chinh phục chúng ta, và đưa văn minh của họ vào đàn áp văn minh của chúng ta, trên sân khấu Việt Nam, dân tộc chúng ta đă diễn một vở tuồng, tuy có nhiều lớp hay, dở không đều nhau, nhưng trong toàn bộ, toàn thể dân tộc đều ưa thích. Người Pháp đến đây chiếm sân khấu mang một vở tuồng hoàn toàn mới lạ có nhiều đặc tính đầy hấp dẫn nên mặc dầu trong thâm ư đă sẵn thành kiến bài ngoại, nhưng lần lần một số dân chúng đă bị lôi cuốn. Tuy nhiên, sự ưa thích chỉ đối với các chi tiết sắc phục và dàn cảnh bên ngoài, chớ cái thâm thuư của cốt truyện bên trong vẫn chưa được thấu hiểu và thưởng thức.
Sự kiện lịch sử xoay dần, người Pháp dọn gánh ra đi trả sân khấu lại cho chúng ta. Và một số người đinh ninh rằng lớp tuồng cũ của chúng ta sau thời gian gián đoạn sẽ được đem ra tiếp tục diễn lại, trong sự tiếp đón nồng nhiệt của khán giả. Nhưng họ kinh ngạc thấy rằng dân chúng không c̣n hoan nghênh nữa. Bởi v́ lớp tuồng của người Pháp đưa đến, chẳng những đă chiếm sân khấu và lôi cuốn một số đông dân chúng, nhưng lại c̣n đả phá ngấm ngầm những giá trị căn bản của lớp tuồng cũ, cho nên ngày nay dân chúng không c̣n thấy sự thích hợp của những giá trị căn bản đó nữa. Nhưng vở tuồng của người Pháp lẫn cả đào kép của họ dân chúng càng không ưa. Tuồng Pháp nhất định phải bỏ đi, tuồng cũ không tái diễn được, cố nhiên là chỉ c̣n có một cách là sắp đặt một vở tuồng mới.
Ví dụ trên đây, cốt mượn một h́nh ảnh ở một phạm vi nhỏ hẹp, đế làm cho vấn đề dễ nhận xét. Trong thực tế vấn đề phức tạp hơn nhiều bởi v́, phạm vi chính trị, nghĩa là phạm vi quốc sự là hoạt động trường của nhiều người, trong khi đó công việc sắp đặt trong một gánh hát, là công việc của một người.
Ví dụ trên lại giúp cho chúng ta nhận thấy thêm rằng, lịch sử không bao giờ là một sự tái diễn không ngừng. Quan điểm lịch sử là một sự tái diễn không ngừng là một quan điểm không thiết thực của những lối suy nghĩ lười biếng và nhát sợ. Lười biếng bởi v́ thay v́ phải nát óc t́m hiểu các sự kiện phức tạp của đời sống, sự chấp nhận rằng trong hoàn cảnh nào đó và khi những điều kiện nào đó đă được thoả măn th́ tự nhiên các sự kiện lịch sử tương tự sẽ xảy ra, có vẻ giải quyết một lần một và bằng một cách dễ dàng các sự phức tạp của lịch sử. Nhát sợ v́ nếu được soi xét tường tận và phân tích tỉ mỉ các sự kiện lịch sử sẽ lọc ra hết tính cách phức tạp kinh khủng để làm cho nhiều trí óc phải khiếp sợ, v́ không thể bao quát nổi. Cho nên thái độ lo rằng lịch sử là một sự tái diễn không ngừng là một lối trốn tránh không dám nh́n sự thật. Sự thật là, nếu có nhiều sự kiện lịch sử giống nhau xảy ra trong những thời gian khác nhau, nhưng không bao giờ hoàn cảnh chung quanh và các yếu tố đều giống nhau cả. Đă như thế chắc chắn rằng không bao giờ một sự kiện lịch sử lại xảy ra hai lần. Sự thật là không bao giờ chúng ta có thể tắm hai lần trong một gịng sông, và lịch sử là một gịng sông.
Để chứng minh cho quan điểm trên đây chúng ta đă thấy rằng cơ hội phát triển dân tộc đến với chúng ta đă hai lần, nhưng lần sau hoàn toàn khác lần trước, khác v́ hoàn cảnh bên ngoài khác và khác như chúng ta đă phân tích trên đây, v́ hoàn cảnh nội bộ đă khác.
Dưới đây chúng ta lại có dịp phân tích tỉ mỉ hơn nữa về hai cơ hội phát triển dân tộc đó.
Ngoài ba hậu quả tai hại nhất mà chúng ta đă kể ra trên đây và đă thử phân tích và t́m hiểu nguyên nhân: không có người lănh đạo, có sự gián đoạn trầm trọng trong việc lănh đạo quốc gia, và xă hội chúng ta tan ră, thời kỳ thống trị của đế quốc c̣n để lại cho chúng ta nhiều hậu quả khác, tuy cũng ảnh hưởng trên đời sống của dân tộc nhưng, so sánh với ba loại mà chúng ta đă xem xét trên đây với nhiều chi tiết, có thể vào hàng thứ yếu.
Sự bang giao và ranh giới giữa chúng ta và các nước láng giềng, trong đó, có cả các nước đă hay không cùng với chúng ta cùng chung lệ thuộc một đế quốc, là những hậu quả của thời kỳ thực dân có thể liệt vào loại này. Vấn đề chuyển ngữ trong đời sống của quốc gia là một hậu quả khác cũng nằm trong loại này.
Việt Nam đang cần phải Tây phương hoá để phát triển dân tộc
V́ sao phải Tây phương hoá?
Kể từ thế kỷ 15, khi các nước Âu Châu chế ngự được kỹ thuật vượt biển, và bắt đầu cuộc xâm chiếm thế giới, tất cả các quốc gia không thuộc vào xă hội Tây phương, không trừ một nước nào đều bị sự tấn công mănh liệt của họ. Hoàn cảnh mỗi quốc gia bị tấn công đều khác, nhưng chung quy tất cả các phản ứng đều có thể liệt vào hai loại.
Các cuộc chinh phục thường thường tuần tự diễn ra theo một bối cảnh không thay đổi. Trước hết, các chiến thuyền ngoại quốc đến yêu cầu được trao đổi thương măi với người bản xứ. Một thời gian sau họ thương thuyết được đặt những thương quán thường trực tại các hải cảng họ thường lui tới và theo liền với các thương quán, những phong tục mới được đưa vào cùng với những người có nhiệm vụ thương măi. Nếu số người càng ngày càng đông th́ chẳng bao lâu nhu cầu về tinh thần lại đ̣i hỏi sự có mặt của những nhà tu sĩ. Cho tới giai đoạn này các nhà cầm quyền bản xứ, dầu có ngạc nhiên và ít nhiều báo động đối với các kỹ thuật tiến bộ của người ngoại quốc, cũng chưa thấy cần phải có một thái độ đối phó. Nhưng từ giai đoạn này, mănh lực của tín ngưỡng mà giáo lư Gia Tô đă hun đúc cho người Tây phương trong mấy thế kỷ, bắt đầu làm cho các nhà cầm quyền bản xứ lo ngại. Họ lo ngại trật tự cổ truyền của dân tộc sẽ bị sự xâm nhập của một vật ngoại lai, bởi v́ các tu sĩ Gia Tô, tin tưởng nơi sứ mạng thiêng liêng của ḿnh đối với nhân loại, nên lúc nào cũng t́m cách thi hành phận sự truyền giáo.
Bản năng tự vệ
Phản ứng tự nhiên của các nhà cầm quyền bản xứ, là bản năng tự vệ của một sinh vật đối với sự xâm nhập của một vật ngoại lai vào trong nội bộ cơ thể của ḿnh. Mà một tôn giáo mới là một vật ngoại lai vô cùng nguy hiểm cho trạng thái điều hoà của một xă hội. Bởi vậy cho nên, phản ứng của các nhà cầm quyền là bảo vệ trạng thái điều hoà của xă hội bằng cách đóng cửa không để cho vật ngoại lai xâm nhập. Trong thực tế và trong lĩnh vực chính trị một thái độ như vậy có nghĩa là bài ngoại, và bế quan toả cảng không tiếp nhận những luồng gió ở ngoài đưa vào. Đó là thái độ tự nhiên và hợp với bản năng tự vệ của mọi sinh vật, và cũng là thái độ của hầu hết các dân tộc bị Tây phương tấn công khi nhận thức nguy cơ đe doạ xă hội ḿnh. Lịch sử đă chứng minh rằng một thái độ như vậy sẽ đắc thắng nếu đồng thời, kỹ thuật vật chất có đủ tiến bộ và lực lượng vơ trang có đủ hùng hậu để làm hậu thuẫn, bằng không, thái độ đó sẽ là một tử lộ.
Lư trí phản công
Thái độ thứ hai là thái độ của một vài nước như Nga, Nhật và sau này là Thổ Nhĩ Kỳ. Thay v́ đóng cửa lại để sống trong nhà và phủ nhận thực tế đang xảy ra ngoài ngơ ḿnh, v́ sợ vật ngoại lai xâm nhập vào và gây xáo trộn trong nội bộ, các nước trên đây đă có can đảm để nh́n nhận sự thật và đủ lư trí để trấn áp bản năng, phân tích thực tế và t́m được đường sống. Một sự t́nh cờ lịch sử đă đặt vào nhiệm vụ lănh đạo các quốc gia đó, những người sáng suốt khác thường khả dĩ dẫn dắt dân tộc họ lựa chọn t́m được sanh lộ trong một giai đoạn quyết định cực kỳ nguy hiểm.
Thái độ thứ nhất có tính cách pḥng thủ và bản năng. Thái độ thứ hai có tính cách lư trí và phản công. Đứng trước nguy cơ, thái độ thứ nhất có nghĩa là thi hành một biện pháp dễ nhưng đưa đến thất bại, thái độ thứ hai là thi hành một biện pháp khó nhưng đưa đến sự thành công.
Trong thực tế, trong các quốc gia đă lựa chọn thái độ thứ nhất, các nhà lănh đạo đă đóng cửa các hải cảng, đánh đuổi người ngoại quốc ra khỏi lănh thổ, bài trừ tất cả các di tích của họ để lại. Nhưng những người này, chẳng bao lâu sẽ trở lại với những khí giới tân tiến hơn, và những lực lượng vơ trang tổ chức hoàn bị hơn và sẽ chiến thắng dễ dàng những khí giới lạc hậu và những lực lượng vô tổ chức của người bản xứ. Và sau đó, tất cả điều ǵ mà họ không chiếm được bằng lối thương thuyết th́ họ lại chiếm được bằng vơ lực. Hơn nữa, sự giao hảo giữa hai quốc gia sẽ không c̣n và nhường chỗ lại cho sự kiện người chiến thắng thống trị kẻ chiến bại. Hậu quả dành cho các dân tộc lâm vào hoàn cảnh ấy như thế nào, chúng ta đă rơ. Nguyên nhân của sự thảm bại cho nhiều dân tộc chỉ ở chỗ bản năng tự vệ của họ quá mạnh lấn áp cả trí sáng suốt, nên các nhà lănh đạo không nhận thức rằng kỹ thuật lạc hậu của ḿnh kém xa kỹ thuật của địch, và kỹ thuật đă kém thế th́ không làm thế nào hậu thuẫn cho bất cứ chủ trương chính trị nào được.
Trái lại, trong các quốc gia đă lựa chọn thái độ thứ hai, th́ các nhà lănh đạo đă nhận thấy nguy cơ do vật ngoại lai mang đến cho trạng thái điều hoà của xă hội ḿnh. Tuy nhiên, đồng thời họ cũng đủ sáng suốt và óc thiết thực để nhận xét rằng kỹ thuật lạc hậu của nước ḿnh không làm sao bảo đảm thắng lợi trong một cuộc chiến tranh. Và v́ vậy mà phương pháp hay nhất để bảo vệ xă hội bị đe doạ bởi các sự vật ngoại lai lại chính là việc mở cửa để đón các luồng gió ngoại lai vào. Bởi v́ chỉ có cách đó mới giúp cho họ chế ngự được những kỹ thuật của địch thủ, để chống lại địch thủ.
Như chúng ta đă thấy, đằng nào chúng ta cũng không tránh được sự xâm nhập vào nội bộ xă hội chúng ta của các vật ngoại lai. Nhưng trong thái độ thứ nhất sự xâm nhập sẽ xảy ra bằng vơ lực, ngoài ư muốn của chúng ta và chúng ta sẽ không chủ động được. Trong thái độ thứ nh́, chúng ta tự ư để cho sự xâm nhập thực hiện và v́ vậy nên chúng ta chủ động được sự xâm nhập đó. Và chính v́ chúng ta chủ động được sự xâm nhập đó mà các giá trị ngoại lai thay v́ phá vỡ được trạng thái điều hoà của xă hội chúng ta, chỉ có thể thay đổi được trạng thái đó. Trong khi đó một sự xâm nhập không thể kiểm soát được sẽ làm sụp đổ trạng thái điều hoà của xă hội. Và, trong một xă hội b́nh thường, việc thay đổi trạng thái điều hoà là một sự kiện thông thường, trái lại sự sụp đổ là một tai biến.
Tóm lại, đứng trước sự tấn công của Tây phương, con đường chết là con đường bế quan toả cảng ngăn cấm không cho văn minh Tây phương xâm nhập vào xă hội của nước bị tấn công; con đường sống lại là con đường mở cửa đón rước văn minh Tây phương để học chế ngự kỹ thuật của Tây phương mà chống lại Tây phương.
Nước Nga, sau nhiều thế kỷ chống lại sự tấn công của Tây phương, đă t́m thấy sự thật như trên, và nhiều lần trong lịch sử nước Nga đă chiến thắng các cường quốc Tây phương sau khi đă Tây phương hoá kỹ thuật của ḿnh. Nhưng cũng nhiều lần bị Tây phương chiến thắng v́ kỹ thuật của Tây phương tiến triển không ngừng trong khi người Nga không làm cho kỹ thuật đă lấy của Tây phương phát triển. Đây cũng là một điều vô cùng quan trọng trong việc Tây phương hoá mà chúng ta sẽ phân tích tỉ mỉ sau này.
Những nhà lănh đạo Nhật, trong giai đoạn nước Nhật bị Tây phương tấn công, đă nhận thấy được ngay những biện pháp cần thiết phải thi hành trong giờ phút quyết liệt cho dân tộc. Thành công của họ như chúng ta mục kích ngày nay là một xác nhận rơ rệt nhất về sự lựa chọn đúng hay không giữa hai thái độ.
Ngày nay, thái độ mà nước Nga và nước Nhật đă lựa chọn trước một sự tấn công của một nước tiến bộ hơn về kỹ thuật, đă được công nhận khắp nơi, và đă được nghiên cứu và đúc thành một giải pháp khoa học, khả dĩ áp dụng cho các nước khác trong hoàn cảnh đó. Công cuộc mà ngày nay Trung Hoa đang dốc hết cố gắng của toàn dân để thực hiện chỉ là một sự chấp nhận thái độ của Nga và Nhật đă chọn. Và các nước chậm tiến khác hiện nay cũng đang cố gắng đi vào con đường đó.
Tuy nhiên, trước đây có nhiều người lănh đạo chủ trương một thái độ vô cùng cực đoan. Sau khi chiến bại rồi, và nước nhà đă bị ngoại quốc thống trị, hay chủ quyền đă sứt mẻ, và vận mạng quốc gia không c̣n do ḿnh chủ động được nữa, nhiều nhà lănh đạo vẫn chủ trương bảo vệ cho đến kỳ cùng trạng thái điều hoà của xă hội cũ. Đó là một công cuộc nhất định phải thất bại.
Bởi v́ các giá trị tiêu chuẩn của xă hội kết hợp thành một trạng thái điều hoà, cũng có một đời sống như sinh vật. Nghĩa là giá trị tiêu chuẩn cũng sinh nở, phát triển, trưởng thành, suy đồi và chết. Như vậy trong trường hợp chiến bại, các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền sẽ chết lần, v́ chủ quyền không phải người bản xứ trọn nắm, vận mạng quốc gia không phải họ chủ động, th́ các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền một mặt không ai vun tưới, một mặt bị các giá trị ngoại lai, đang chiến thắng, tấn công ồ ạt và đả phá uy tín.
Như vậy, các sự kiện lịch sử, trong ṿng năm thế kỷ sau này, đă chứng minh rằng khi một nền văn minh bị một nền văn minh khác, chế ngự được những kỹ thuật tinh xảo hơn, tấn công, th́ con đường sống của nền văn minh bị tấn công, là mở cửa đón lấy các kỹ thuật của địch thủ.
Trường hợp Ấn Độ
Tuy nhiên, năm trăm năm là nhiều đối với đời sống của một người. Nhưng với đời sống của các quốc gia, năm trăm năm không phải là nhiều. Và chúng ta có thể tự hỏi rằng: thái độ trên, đành rằng là thái độ lợi nhất mà các quốc gia bị tấn công phải lựa chọn, trong thời gian vài thế kỷ. Nhưng nếu thời gian dài hơn, liệu thái độ ấy có lợi cho quốc gia hơn thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ không? Chắc chắn rằng những người hành động không bao giờ nghi ngờ nữa. Câu hỏi trên tiêu biểu cho quan điểm của một sử gia. Và trường hợp Ấn Độ là một trường hợp có thể đưa ra để làm hậu thuẫn cho thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sau thời gian thống trị của đế quốc, các giá trị tiêu chuẩn cũ của Ấn Độ có vẻ, chẳng những c̣n đủ sinh lực để hấp dẫn quần chúng, lại c̣n có vẻ sáng chói ra khắp hoàn cầu, mang các thần-thể-tính của văn minh Ấn Độ để đối chọi lại với tính cách kỹ thuật vật chất của văn minh Âu Mỹ.
Các nghi vấn nói trên, có thể giải đáp bằng các nhận xét dưới đây:
– Nếu năm trăm năm là một thời gian chưa đủ dài để chứng minh rằng thái độ tiếp đón các kỹ thuật ngoại lai là thích hợp nhất, chúng ta có thể t́m trong lịch sử, những thời đại có những biến cố như thời đại của chúng ta, và lấy phản ứng của các quốc gia lúc bấy giờ, làm tài liệu nghiên cứu để soi tỏ thêm vấn đề.
Trong lịch sử, thời đại đế quốc La Mă hưng thịnh và chinh phục các quốc gia trong cái thế giới được biết lúc bấy giờ, là một thời đại có nhiều biến cố có thể so sánh được với những biến cố của thời đại hiện nay. Cũng có một nước mạnh, thuộc một nền văn minh tiến bộ, đi chinh phục những nước kém về kỹ thuật, thuộc một nền văn minh đă suy nhược. Cũng có những quốc gia, nhất định không theo mới, và, cuốn ḿnh lại, sống cô lập và chết ṃn để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn truyền thống. Cũng có những quốc gia, mở cửa đón tiếp các kỹ thuật mới, và, thực hiện công cuộc phát triển dân tộc, để sống ăn nhịp với các cường quốc. Lịch sử là một bài học. Bài học của lịch sử Hy Lạp - La Mă mà chúng ta dẫn chứng đây lại xác nhận rằng thái độ của các nước tiếp nhận kỹ thuật của kẻ địch là đúng.
– Trường hợp của Ấn Độ là một trường hợp khác thường khiến cho chúng ta nhận định sai lầm về thực tế. Ông Gandhi là người đă chủ trương mạnh mẽ nhất thái độ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ và triệt để bài xích văn minh Tây phương. ông cực đoan đến nỗi hô hào đồng bào của ông, không nên mặc áo bằng vải dệt ở các xưởng ở Anh quốc hay dệt ở Ấn Độ, trong các xưởng của người Anh nhập cảng từ Anh quốc, mà chỉ nên mặc bằng vải tự tay ḿnh dệt lấy. Sức mạnh tinh thần của ông Gandhi rất phi thường và ông đă tỏ ra nh́n thấy vấn đề một cách sâu sắc, do đó ông đă khắc phục được sự trọng vọng của nhân loại. Và ngày nay, sự thất bại của ông bộc lộ rơ rệt ở chỗ các đệ tử trung thành của ông đang xây dựng cho Ấn Độ một bộ máy quốc gia theo kiểu Tây phương và các đồng bào của ông đang nỗ lực Tây phương hoá.
Những cuộc tranh đấu anh dũng và uy tín cá nhân xán lạn của ông Gandhi, hợp với sự ca tụng, chính của người Tây phương, đối với thần-thể-tính của triết lư Ấn Độ, cả trước và sau thời kỳ bị đế quốc thống trị, làm cho một số đông có cảm tưởng rằng thái độ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ có thể thích hợp hơn thái độ đón tiếp các kỹ thuật mới của Tây phương. Và, văn minh Ấn Độ, xây dựng trên nền triết lư tôn trọng thần-thể-tính được xem như có thể đối phó một cách đắc thắng với nền văn minh thường được gọi là kỹ thuật và vật chất của Tây phương. Nhưng một cuộc phân tích tỉ mỉ và một sự đối chiếu với thực tế không xác nhận cảm tưởng trên.
Người Tây phương ca tụng thần-thể-tính của triết lư Ấn Độ cũng như ca tụng bất cứ sáng tạo nào của nhân loại có một giá trị thật là cao cả. Và thái độ khách quan, khoa học, và t́m hiểu đó là một trong các bí quyết thành công của văn minh Tây phương. Cho nên sự ca tụng của người Tây phương đối với triết lư Ấn Độ không có nghĩa là triết lư của Tây phương khiếm khuyết thần-thể-tính. Và sự kiện thần-thể-tính của triết lư Ấn Độ đạt đến chỗ cao siêu và hấp dẫn lư trí thuần tuư, lại không có nghĩa là triết lư Ấn Độ có thể thiết thực giải quyết các thực tế đời sống cho nhân loại, mục đích cuối cùng của mọi hệ thống triết lư.
Lư do của t́nh trạng đó ở chỗ, khi phải lựa chọn một trong hai quan điểm căn bản cho các hệ thống triết lư: nhận sự sống hay là không nhận sự sống, th́ triết lư Ấn Độ đă chọn quan điểm không nhận sự sống. Theo quan điểm ấy, cho sự sống ở cuộc đời này là không có thực và nhân loại cần t́m và đạt cho được sự sống ở một nơi ngoài thế gian này, chúng ta không phán đoán xem quan điểm đó đúng hay là không đúng. Chúng ta chỉ nhận xét rằng, ngay lúc khởi điểm, quan điểm ấy đă tự mâu thuẫn với ḿnh bới v́, sự sống của nhân loại, nghĩa là sự phát triển hay suy vong của các nền văn minh trên thế giới, cũng như sự sống hằng ngày của mỗi người, là một sự kiện mà không ai có thể phủ nhận được. T́m cách giải quyết các vấn đề đặt ra bởi sự sống, bằng cách phủ nhận sự sống th́ đương nhiên các vấn đề đặt ra bởi sự sống không c̣n nữa. Nhưng như thế th́ hoá ra không giải quyết ǵ cả.
Chính v́ chỗ đó mà triết lư Ấn Độ, mặc dù đă đạt đến một mức độ cao siêu mà ít khi tư tưởng của nhân loại đă với tới được, lại không thể giải đáp được các vấn đề của nhân loại cũng như đă không giải đáp được các vấn đề của dân tộc Ấn.
Sau một thời gian biến hoá lâu dài, triết lư của Tây phương, ngày nay xây dựng trên căn bản thiết thực nhận sự sống, đă tẩy xuất được mâu thuẫn nguyên khởi giữa hệ thống tư tưởng và thực tế của đời sống, mà các triết lư không nhận sự sống đều mắc phải, nên đă thổi vào nền văn minh của Tây phương một sinh lực chưa từng thấy trong lịch sử của nhân loại. Và chính sinh lực đó đă bảo đảm cho người Tây phương ưu thế mà họ vẫn giữ đến ngày nay. Các sự kiện trên càng rơ rệt hơn nữa, nếu chúng ta nhớ lại rằng, đă có một thời, triết lư Tây phương cũng đă lấy sự không nhận sự sống làm căn bản, và lúc bấy giờ nền văn minh của họ cũng đă trầm lặng thay v́ chói sáng và chinh phục như ngày hôm nay. Chỉ từ khi nền triết lư của Tây phương thoát khỏi sự tự kiềm hăm ḿnh trong một quan điểm trừu tượng của lư trí, để mạnh bạo đụng đầu vào thực tế của đời sống, th́ văn minh của Tây phương mới phát triển như chúng ta thấy ngày nay.
Nếu phải dùng một h́nh ảnh để cho lư luận được nhận thức dễ dàng hơn, th́ chúng ta có thể nói rằng triết lư của Tây phương đă có lúc, một ḿnh, lên đến và sống say mê trong không khí cao siêu của đỉnh núi thần-thể-tính. Nhưng triết lư đó lại đủ khách quan và can đảm để nhận thấy rằng nhiều vấn đề của nhân loại không giải quyết được từ trên đỉnh núi đó, và, nếu các vấn đề của nhân loại không giải quyết được th́ triết lư đă thất bại trong nhiệm vụ của ḿnh.
V́ vậy cho nên triết lư Tây phương đă mạnh bạo từ bỏ không khí cao siêu và thoát tục của đỉnh núi, vùi ḿnh xuống đống lầy của thực tế, sống với nhân loại để t́m cách giải quyết các vấn đề của sự sống. Triết lư của Tây phương đang thành công, và hiện nay nó đang cùng nhân loại leo lên triền của một ngọn núi khác. Nhưng mặc dù đang thành công, triết lư Tây phương lại đầy cái khiêm tốn của những người đă đụng chạm với thực tế và đang cố gắng đi lên.
Trái lại, triết lư của Ấn Độ vẫn c̣n say mê với không khí cao siêu và thoát tục của đỉnh núi thần-thể-tính, không rứt nổi ḿnh ra khỏi không khí trong và thoát khỏi đó, nên chưa ư thức rằng, từ trên đỉnh núi đó, các vấn đề mà đời sống đặt ra cho dân tộc Ấn không giải quyết được. Ngày nay, khi đụng đầu với triết lư Tây phương và mặc dù, hay, chính là v́, bị dồn vào thế yếu, triết lư Ấn Độ vẫn c̣n trù trừ, chưa cương quyết lội xuống bùn lầy của thực tế v́ sợ mất tính chất cao siêu và thoát tục của ḿnh. V́ tính chất cao siêu và thoát tục là lư do hănh diện của những người chưa có vật lộn với thực tế.
Nói một cách khác nữa, và dùng một h́nh ảnh thô sơ, th́ triết lư Tây phương có thái độ của các vị Bồ Tát và triết lư Ấn Độ có thái độ của người nhập Niết Bàn.
V́ những lư do trên đây mà, mặc dầu cái bề ngoài có vẻ trái ngược với luật chung, ngày nay xă hội Ấn Độ, cũng như xă hội của tất cả quốc gia đă bị đế quốc thống trị, cùng lâm vào một hoàn cảnh trầm trọng, như chúng ta thấy trên đây. Và các biện pháp mà các nhà lănh đạo Ấn Độ cần áp dụng cũng là những biện pháp cần thiết cho các quốc gia đồng hoàn cảnh. Và công cuộc phát triển dân tộc Ấn Độ mà chính phủ Nehru và chính phủ kế tiếp đang theo đuổi hàm một sự thú nhận rơ rệt rằng Ấn Độ mặc dù có Gandhi và mặc dù có một triết lư cổ truyền cao siêu, vẫn phải đương đầu với các vấn đề thiết thực và vật chất của các quốc gia chậm tiến.
Tây phương hoá là một sự kiện không từ chối được
Trên đây chúng ta đă phải suy luận dông dài về trường hợp của Ấn Độ. Bởi v́, công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá là một công cuộc liên hệ đến sự sống c̣n của dân tộc. Và, mặc dầu đầy khích động, nhưng sẽ đ̣i hỏi nhiều cố gắng liên tục trong nhiều năm, ở mọi người, và đ̣i hỏi nhiều hy sinh nặng nề ở mọi tầng lớp nhân dân. Cố gắng liên tục sẽ làm cho dân chúng mệt mỏi, hy sinh nặng nề sẽ gây phẫn nộ cho dân chúng. Trong hoàn cảnh đó nếu người lănh đạo không quả quyết tin vào công cuộc phát triển, nếu toàn dân không tin rằng công cuộc phát triển là con đường sống duy nhất của dân tộc, th́ công cuộc phát triển không sao thực hiện được.
V́ vậy cho nên, một điều vô cùng thiết yếu là sự tin tưởng rằng, công cuộc phát triển dân tộc chúng ta bằng cách Tây phương hoá là một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được và ngoài công cuộc phát triển ấy ra, dân tộc chúng ta không c̣n một lối thoát thứ hai. Một sự tin tưởng tuyệt đối như vậy chỉ có thể có được khi nào các trường hợp đều được xem xét một cách không thiếu sót để cho các nghi vấn đều được giải đáp.
Và khi các điều kiện trên đă thoả măn đầy đủ rồi, th́ tất cả mọi người Việt Nam chúng ta đều phải quả quyết tin rằng, chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc, bằng cách Tây phương hoá xă hội chúng ta, một cách toàn diện mà không do dự.
Thật sự ra, công cuộc Tây phương hoá xă hội chúng ta đă tự nó bắt đầu thực hiện từ ngày người Pháp bước chân lên đất này. Chúng ta chỉ cần nh́n quanh chúng ta: nhà ở cũng kiến trúc theo kỹ thuật và kiểu mẫu Tây phương, giải trí cũng tổ chức theo Tây phương, thức ăn cũng nấu theo Tây phương. Phần lớn các cử động trong đời sống của chúng ta đều rập khuôn theo Tây phương. Nh́n lại chính con người của chúng ta, dù chúng ta ở thành thị hay thôn quê, chúng ta thấy rằng tất cả con người chúng ta đều Tây phương hoá từ đầu tới chân: tóc hớt theo Tây phương, áo và quần cắt theo lối Tây phương, may bằng những cái máy do Tây phương sáng chế, giây nịt và giày là sản phẩm của Tây phương. Đi ra, chúng ta dùng xe đạp của Tây phương hay xe hơi của Tây phương. V́ vậy cho nên, những người c̣n ngồi nhà mà nói là phải giữ lại phong tục Việt Nam để bảo vệ quốc hồn quốc tuư là những người tự dối ḿnh.
Nếu đă như thế th́, trên kia chúng ta c̣n đặt thành vấn đề sự cần thiết của công cuộc Tây phương hoá, có phải là một hành động thừa không? Thừa, mà cũng không thừa. Thừa đối với những người vẫn chưa chịu nhận rằng, dầu họ không có muốn Tây phương hoá và họ có chủ trương bảo cựu đến mức độ nào đi nữa, th́ chính con người của họ cũng đă Tây phương hoá đi rồi. Không thừa, đối với chúng ta, là những người mong muốn thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá toàn diện.
Công cuộc Tây phương hoá xă hội chúng ta mà ngày nay chúng ta mục kích những hiện tượng, như trên đă kể, là một công cuộc Tây phương hoá bắt buộc, dẫn dắt đến t́nh trạng tan ră của xă hội chúng ta. Xă hội chúng ta bị Tây phương hoá, chớ không phải tự ư Tây phương hoá. V́ vậy mà cuộc Tây phương hoá đă được thực hiện một cách không đường hướng, không mục đích và chỉ lên đến một mức độ thấp kém. Cũng v́ vậy mà chúng ta không chủ động được công cuộc Tây phương hoá đă qua của chúng ta, và không có thể dẫn dắt nó vào một chiều hướng và đến một mức độ có ích cho công cuộc phát triển dân tộc.
Trái lại công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta phải thực hiện cho dân tộc là một công cuộc Tây phương hoá tự ư muốn, do đó có đường hướng và có mục đích. Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hoá này và sẽ đưa nó đến một mức độ đủ cao để xă hội chúng ta t́m được những tiêu chuẩn giá trị mới khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hoà mới.
Như thế nào là Tây phương hoá có đường hướng? Dưới đây chúng ta sẽ chứng minh rằng, trên phương diện dân tộc, một công cuộc Tây phương hoá chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện toàn diện và đạt đến mức độ đủ cao.
Như thế nào là Tây phương hoá toàn diện?
Trong số các nhà lănh đạo các quốc gia bị Tây phương tấn công, những người có thái độ đóng cửa bảo vệ giá trị cũ, như ở Trung Hoa và ở Việt Nam, cũng như những người có thái độ mở cửa để đón văn minh Tây phương như ở Nga và ở Nhật, tất cả đều sớm nhận định rằng sở dĩ Tây phương thắng thế là, trước tiên, nhờ ở kỹ thuật vơ trang và kỹ thuật tổ chức. Và giữa hai thái độ cực đoan như chúng ta đă phân tích trên đây phần đông lại lựa chọn một thái độ dung hoà và khôn ngoan nhất. Thái độ nửa chừng dựa trên lư luận sau đây:
Tây phương hoá có giới hạn
Chúng ta chiến bại v́ vũ khí của chúng ta kém về độ tinh xảo và quân đội chúng ta thua về tổ chức. Vậy, để chống lại địch thủ một cách hiệu quả và lâm thời thắng địch thủ, chúng ta chỉ cần học, một là kỹ thuật sử dụng vũ khí tối tân, lúc đầu mua của chính những quốc gia Tây phương, sau học kỹ thuật để chế tạo lấy; hai là kỹ thuật tổ chức quân đội theo Tây phương. Với hai khí giới đó chúng ta có thể hy vọng thắng địch để bảo vệ được các tiêu chuẩn giá trị truyền thống của xă hội của chúng ta. Như thế có nghĩa là chúng ta chỉ cần canh tân quân trang và cải tổ quân đội là đủ, mọi cơ cấu khác trong xă hội vẫn giữ nguyên vẹn. Nhưng, lịch sử của các quốc gia đă áp dụng thái độ đó trong hành động lại chứng minh rằng, sự thật th́ các sự kiện đă xảy ra không như những người lănh đạo của các quốc gia ấy dự định.
Sau khi đă quyết định canh tân quân trang và cải tổ quân đội các nhà lănh đạo nói trên một mặt gởi người xuất dương du học các nước Tây phương để hấp thụ kỹ thuật mới, một mặt mướn người chuyên viên Tây phương đến tại xứ để vừa huấn luyện người, vừa để xây cất các xưởng chế tạo vũ khí.
V́ sao người Tây phương lại đến nhận lănh trách nhiệm chế tạo các vũ khí đó và v́ sao các cường quốc Tây phương nhận đào tạo các chuyên viên ngoại quốc như vậy, mặc dù họ vẫn biết, cũng như mọi người đều biết, rằng làm như vậy là họ sẽ trao cho địch thủ những khí giới đang bảo đảm ưu thế của họ? Có nhiều lư do khiến cho người Tây phương, cũng như những cá nhân của các quốc gia khác, đă hành động như vậy. Trước hết là v́ bị quyền lợi vật chất quyến rũ. Thứ hai giữa các cường quốc trong nội bộ xă hội Tây phương cũng có nhiều mâu thuẫn chính trị khiến cho mỗi cường quốc, trong một cuộc tranh giành ảnh hưởng ác liệt, sẵn sàng t́m đồng minh cho ḿnh ở những quốc gia ngoài xă hội Tây phương. Và sau hết, trong thời kỳ đi chinh phục thế giới, kỹ thuật Tây phương đă đạt đến một tŕnh độ rất cao và tạo cho người Tây phương một sự hănh diện và tự tin mănh liệt cho đến nỗi, nếu không phải v́ lợi và v́ ngoại giao, th́ họ cũng không ngần ngại mà hành động như họ đă làm. Dầu sao, như chúng ta sẽ thấy sau này, những lư do trên là những yếu tố thuận lợi, mà toàn bộ tạo thành cơ hội giúp cho các dân tộc ngoài xă hội Tây phương thực hiện công cuộc phát triển của ḿnh.
Tây phương hoá có giới hạn nhất định thất bại
Trở lại vấn đề canh tân quân trang và cải tổ quân đội.
Sau giai đoạn thi hành các biện pháp nói trên một thời gian, các nhà lănh đạo thu lượm được một kết quả mong muốn: quân đội, vơ trang bằng vũ khí của Tây phương và tổ chức theo lối của họ, đă trở thành một lực lượng làm cho ngoại quốc phải kính nể. Nhưng, cũng chẳng bao lâu sau đó, sang giai đoạn thứ hai, chính các nhà lănh đạo đó lại nhận thấy thêm rằng, nếu muốn duy tŕ cái lực lượng quư báu vừa mới tạo được th́ việc huấn luyện chuyên viên, chỉ giới hạn trong lănh vực quân sự, lại không đủ. Đi sâu vào một chút, lại t́m ra là tinh xảo của vũ khí Tây phương bắt nguồn từ các phát minh của khoa học Tây phương, và, ngoại trừ mọi vấn đề tổ chức vật chất, sức mạnh tinh thần của quân đội Tây phương lại do tư tưởng cá nhân của mỗi người chiến binh và tư tưởng cá nhận lại do hoàn cảnh xă hội tạo ra.
Như vậy, muốn nuôi dưỡng một lực lượng quân sự, đă được canh tân, lại phải đặt vấn đề hấp thụ học vấn Tây phương và như thế, là phải canh tân nền giáo dục. Và muốn gieo cho người chiến binh một sức mạnh tinh thần như của người chiến binh Tây phương lại phải tạo cho họ hoàn cảnh xă hội tương tự, nghĩa là phải cải tạo xă hội. Mà cải tạo xă hội th́ phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn cũ. Như vậy th́, rốt cuộc lại, phải bỏ giá trị tiêu chuẩn cũ, điều mà các nhà lănh đạo đang nói đây không dự định làm và cũng không muốn làm, v́ sở dĩ các nhà lănh đạo này chủ trương canh tân quân đội là với mục đích bảo vệ các giá trị truyền thống của xă hội của họ.
Ngoài ra, sự canh tân quân đội lại đương nhiên mang đến một hậu quả khác mà các nhà lănh đạo cũng không ngờ. Những người muốn học về tổ chức quân đội theo Tây phương, trước tiên phải học ngôn ngữ Tây phương để đọc sách về kỹ thuật tổ chức quân đội của Tây phương. Nhưng khi đọc được ngôn ngữ của Tây phương rồi, th́ không làm thế nào cấm họ đọc các sách khác của Tây phương trong những lĩnh vực khác: chính trị, văn hoá, hay xă hội. Do đó, và v́ đă sẵn trong đầu sự cảm phục chính đáng đối với Tây phương trong lĩnh vực quân sự, những người này tự nhiên nẩy ra sự cảm phục Tây phương trong lĩnh vực xă hội và chính trị. Và họ sớm nhận thức rằng sức mạnh của quân đội Tây phương cũng như tính cách tinh xảo của vũ khí Tây phương là những kết quả đương nhiên, trong lĩnh vực quân sự, của tổ chức xă hội và chính trị của Tây phương. Như vậy, họ tin rằng không thể nào có được một quân đội hùng mạnh theo mới mà không có một tổ chức xă hội và chính trị theo mới. Và chính những người này sẽ biến thành những cái mầm của cuộc cách mạng chính trị và xă hội sau này. Các sự kiện trên đây lại giải nghĩa cho chúng ta thấy v́ sao mà ở một nước Thổ Nhĩ Kỳ, và nhiều nước khác ở Cận Đông, chính quân đội lại hướng dẫn các cuộc cách mạng chính trị và xă hội trong đầu thế kỷ hai mươi.
Trở lại vấn đề canh tân quân đội trên đây, sau khi đă canh tân quân đội, trong giai đoạn thứ nhất đến giai đoạn thứ hai, các nhà lănh đạo sẽ đứng vào một t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu họ tiếp tục cuộc canh tân quân đội, th́ bắt buộc họ phải đi đến chỗ cải tạo xă hội. Đó là điều họ không thể làm được, bởi v́ mục đích của họ khi canh tân quân đội là để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ.
Nhưng nếu họ ngưng lại cuộc canh tân quân đội, th́ việc bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, cũng sẽ không thực hiện được đối với sự tấn công của Tây phương. Hơn nữa, một cuộc duy tân, một khi đă manh nha, tự nó sẽ tạo ra trong cơ thể của xă hội, bắt đầu duy tân, những lực lượng càng ngày càng bành trướng để phát triển cuộc duy tân. Nếu những lực lượng ấy được hướng dẫn sẽ đưa đến một cuộc duy tân có mục đích, nếu không, cuộc duy tân sẽ hỗn loạn. Nếu các nhà lănh đạo lại dùng bạo quyền, như đă xảy ra ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu thế kỷ hai mươi, để hoặc là băi bỏ công cuộc theo mới hoặc là ngưng cuộc canh tân trong những giới hạn họ muốn, mặc dù họ vẫn biết rằng hành động như vậy vẫn không cho phép họ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, th́ lực lượng cách mạng, lănh đạo do những người ở trong quân đội đă hấp thụ được, chẳng những kỹ thuật quân sự mới, mà lại thêm những tư tưởng chính trị và xă hội mới, sẽ nổi lên lật đổ các nhà lănh đạo này.
Công cuộc Tây phương hoá, nhất định phải toàn diện
Tóm lại, nếu đóng cửa không đón tiếp văn minh Tây phương, th́, v́ kém kỹ thuật, sẽ bị Tây phương chiến bại, và biến thành thuộc địa hay bán thuộc địa. Sau khi chiến bại rồi sẽ bị Tây phương hoá nhưng công cuộc Tây phương hoá sẽ không được hướng dẫn và sẽ đưa đến những kết quả thảm hại mà chúng ta biết.
Nếu muốn Tây phương hoá có giới hạn để bảo vệ các giá trị cũ th́, một là công cuộc bảo vệ sẽ không thực hiện được và quốc gia sẽ lâm vào t́nh trạng của các nước đóng cửa không tiếp đón kỹ thuật Tây phương. Hai là sẽ tạo hoàn cảnh cho một cuộc cách mạng nội bộ để đưa đến một cuộc Tây phương hoá toàn diện. Như vậy th́, đằng nào rồi những sự kiện lịch sử cũng sẽ đưa đến một cuộc Tây phương hoá toàn diện. Nếu đă thế th́ thượng sách không phải là nên tự ư Tây phương hoá toàn diện hay sao? Có như vậy một mặt chúng ta sẽ có thể rút ngắn thời gian, một mặt chúng tạ mới có thể chủ động được công cuộc Tây phương hoá đế cho những chấn động, mà chắc chắn một công cuộc như vậy sẽ gây ra cho xă hội ta, không có thể phá hoại xă hội ta, như trong trường hợp một cuộc Tây phương hoá không hướng dẫn.
Tóm lại, một công cuộc Tây phương hoá chỉ hữu hiệu khi nào chúng ta được tự ư thực hiện nó và thực hiện toàn diện, nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xă hội và theo đó là kinh tế và văn hoá.
Nếu ta tự ư Tây phương hoá, th́ chúng ta chủ động được công cuộc Tây phương hoá của chúng ta và chúng ta sẽ bảo vệ được độc lập và xă hội, nhưng nhiều giá trị tiêu chuẩn phải được đổi mới.
Nếu chúng ta không tự ư Tây phương hoá th́ rồi cũng bị Tây phương hoá. Nhưng cuộc Tây phương hoá sẽ không được hướng dẫn, không đường lối và không mục đích. Sở dĩ sự kiện phải diễn tiến theo cơ thức như đă phân tích trên đây là bởi v́ một nền văn minh là một toàn bộ quân b́nh, gồm có các tiêu chuẩn giá trị, có hiệu lực trong các lĩnh vực.
Nếu chúng ta thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực nào đó th́ sớm hay muộn những thực hiện đó cũng lần lần kéo đến và bắt buộc chúng ta thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực khác có liên hệ. Một mặt khác, nếu chúng ta đă thâu nhận những kỹ thuật trong một lĩnh vực th́ lần lần chúng ta sẽ thâu nhận những nguyên tắc khoa học, đă làm căn bản cho sự phát minh ra các kỹ thuật đó. Và nếu chúng ta thâu nhận các nguyên tắc khoa học, th́ chúng ta lại đi đền chỗ thâu nhận lối suy luận đă tạo ra các nguyên tắc khoa học. Nghĩa là cơ thức của sự Tây phương hoá đi từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, và từ cương vị thấp đến cương vị cao, từ lĩnh vực cụ thể đến lĩnh vực trừu tượng. Và sự diễn biến, tự nhiên sẽ đến không có ǵ ngăn trở được. Bởi v́ những yếu tố, mà toàn bộ hợp thành một trạng thái thăng bằng, trong một nền văn minh, không thể tách rời ra được. Sự sống, của từng yếu tố, tuỳ thuộc sự có mặt của các yếu tố khác. Nếu chúng ta nhận yếu tố kỹ thuật quân sự, sớm muộn ǵ chúng ta cũng phải nhận yếu tố khoa học, bởi v́, mỗi yếu tố, không thể sống một ḿnh được, tất sẽ tự gây lại trạng thái thăng bằng từ đó nó đă phát sinh, và trong đó nó có thể sống mạnh.
Trong sự liên lạc giữa hai văn minh, một việc này lại mang đến một việc khác và tuần tự sẽ mang đến hết toàn bộ văn minh mới.
Ví dụ, nếu chúng ta mặc vải dệt ở các nhà máy Tây phương, th́ chẳng bao lâu chúng ta lại nhập cảng những nhà máy tương tự để dệt vải theo Tây phương tại xứ ta. Lần lần, chúng ta lại sản xuất các nhà máy tại chỗ, và, chừng đó người nông dân của chúng ta lại bỏ đồng ruộng để lên làm việc tại các nhà máy, và lúc bấy giờ, ngoài giờ làm việc họ lại thích các lối giải trí của Tây phương, và lần lần đầu óc của họ cũng nghĩ theo Tây phương, và cuối cùng, họ sẽ Tây phương hoá, từ vật chất lẫn tinh thần. Đó là một định luật xă hội nghiêm khắc.
Như thế nào là tây phương hoá đến mức độ đủ cao
Bài học của nước Nga
Trong lĩnh vực này lịch sử của nước Nga là một bài học vô cùng quư báu.
Nước Nga ở phía Đông Âu châu. Đối với Âu châu, nước Nga là một tiền đồn, mỗi khi các bộ lạc du mục Mông Cổ và Hung Nô ở các đồng hoang phía Đông Bắc Á châu xua quân đánh phá các dân tộc đă định cư trên hai đại lục Âu, Á. Vị trí địa dư ấy, đă dẫn dắt đến các sự kiện lịch sử quan trọng sau đây. Quan trọng đến nỗi, sau mấy ngàn năm biến cố khuynh đảo, nó vẫn c̣n chi phối nặng nề các nguyên tắc ngoại giao giữa Nga và các cường quốc Âu Mỹ. Và đây là một ví dụ, hết sức sáng tỏ, để chứng minh rằng, trong đời sống của một dân tộc, một thời gian mấy thế kỷ hay mấy ngàn năm vẫn chưa thấm vào đâu. Và cuộc cách mạng Xô Viết của nước Nga lại làm cho các sự kiện này trở thành một bằng cớ hết sức đích xác để chứng minh rằng dĩ văng của một dân tộc do hoàn cảnh địa dư và sự kiện lịch sử tạo thành, không có thể san bằng được dù là bằng một cuộc cách mạng vô cùng táo bạo, để xây dựng tương lai.
Ngay từ thế kỷ thứ X, nước Nga đă có những sự liên lạc thường xuyên và chặt chẽ với đế quốc La Mă; khi đế quốc này chỉ c̣n ảnh hưởng ở phía Đông Địa Trung Hải và đặt kinh đô tại Constantinople, phía Bắc nước Hy Lạp, Gia Tô giáo cũng đă chia làm hai phái, Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mă và Đông phái, Giáo chủ ở tại Constantinople, chống báng nhau v́ nhiều điểm về hành giáo và nghi lễ. Nước Nga, v́ liên lạc với Constantinople nên ngả theo Gia Tô Đông phái, trong khi các nước Âu châu đều được Tây phái La Mă truyền giáo. Sự kiện này vừa là cái mầm chia rẽ giữa nước Nga và các nước Âu châu, lại vừa là một di sản tinh thần chung cho hai bên. V́ vậy mà trong lịch sử bang giao giữa Nga và Âu châu, tuỳ theo hoàn cảnh, có lúc th́ sự kiện trên có hiệu lực như là một cái mầm chia rẽ, có lúc lại có hiệu lực là một di sản tinh thần chung.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIII, tính cách di sản tinh thần chung lấn thế, nên sự mậu dịch rất thịnh hành giữa hai bên. Và nhiều cuộc hôn nhân chính trị, một yếu tố vô cùng quan trọng trong thời quân chủ, đă xảy ra giữa gịng vua Nga và các gịng vua Anh Pháp. Nếu t́nh trạng này kéo dài th́, mặc dầu những điểm dị đồng giữa hai phái Gia Tô, di sản tinh thần chung có lẽ đă thắt chặt các nước Âu châu và nước Nga lại làm thành một khối, và lịch sử đă có nhiều sự thay đổi lớn lao.
Nhưng sau đó, vào thế kỷ thứ XIII, các bộ lạc Mông Cổ, dưới sự lănh đạo của Thành Cát Tư Hăn và các vị vua kế tiếp đă đưa quân đánh chiếm gần hết Châu Á và một phần lớn Âu châu, lập thành một đế quốc gồm các nước Đông Âu ngày nay (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Ru-ma-ni, Bulgarie) cả nước Nga, hết trung bộ Châu Á, nội Mông Cổ, Tây Tạng và hết nước Tàu. Sự đế quốc Mông Cổ thống trị nước Nga trên 150 năm, ngày nay, vẫn c̣n lưu lại nhiều di tích vật chất và nhất là một sự kiện mà hậu quả lịch sử vô cùng lớn lao trong nhiều thế kỷ: sự thống trị của Mông Cổ đă cắt đứt hết các dây liên lạc nối liền nước Nga với khối văn minh Tây phương đang phát triển.
Trong khi nước Nga bị xâm chiếm, và, nhờ vị trí tiền đồn của nước Nga mà các nước khác ở Tây Âu đă thoát sự đô hộ của Mông Cổ, th́ các nước này, chẳng những không có lúc nào t́m cách cứu viện một đồng minh cùng chung một di sản tinh thần, ngược lại, đă lợi dụng hoàn cảnh suy vong của Nga, để cắt xén và chiếm nhiều phần đất thuộc lănh thổ Nga. Trong những lúc đó, chính là tính cách mầm chia rẽ đă thắng tính cách di sản tinh thần chung của sự kiện mà chúng ta vừa nêu lên ở trên. Và sau khi đế quốc Mông Cổ tan ră, nước Nga thâu hồi độc lập, th́ từ đó sự bang giao giữa Nga và các nước Tây Âu lúc nào cũng mang dấu vết cay đắng của thời kỳ vừa qua. Do đó, lịch sử của cuộc bang giao giữa hai bên chỉ là một cuộc chiến đấu không ngừng, kéo dài cho tới ngày nay, lúc th́ Tây Âu chiến thắng, lúc th́ Nga chiến thắng, và chúng ta đang sống vào một thời kỳ mà Nga đang chiến thắng Tây Âu.
Luôn luôn, Tây Âu nắm phần thắng những lúc nào mà kỹ thuật của họ tiến bộ hơn của Nga. Nhưng yếu tố dân đông và đất rộng của Nga lần nào cũng cứu Nga thoát khỏi một sự chiến bại hoàn toàn. Sau đó, các nhà lănh đạo Nga lại t́m cách thâu thập các kỹ thuật mới và khi hai bên đă ngang nhau trên phương diện kỹ thuật th́ yếu tố dân đông lại đưa phần thắng cho Nga. Thời gian qua, kỹ thuật của Tây phương lại tiến bộ hơn trước và đồng thời mang thắng lợi về cho Tây phương. Tấn tuồng lại cứ như thế mà tiếp tục diễn tiến qua nhiều thế kỷ, lúc bên này được bên kia thua, và lúc bên kia được bên này thua.
Thâu thập kỹ thuật
Lúc đầu sự thâu nhập kỹ thuật Tây phương không khó khăn, bởi v́ sự cách biệt giữa hai nền kỹ thuật chỉ nằm trong một vài phát minh được xem như là những bí mật quan trọng.
Kỹ thuật chưa tiến bộ nhiều, phương pháp nghiên cứu chưa có quy củ, các phát minh c̣n thô sơ và rời rạc, thỉnh thoảng t́nh cờ mới t́m được một phát minh mới. Và quốc gia nào nắm được một phát minh mới, tuy thô sơ nhưng hiếm có đó, th́ đă nắm được trong tay một sức mạnh vô địch làm nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phía ḿnh.
Ở Trung Hoa, thời đại nhà Đường, vào thế kỷ thứ VII, sự t́nh cờ đă đưa đến cho Đường Thế Dân một phát minh, ngày nay chúng ta xem là thông thường, nhưng đă làm đảo lộn thế giới lúc bấy giờ: yên ngựa có chân đứng. Trước đó, người cưỡi ngựa chỉ ngồi trên ngựa, hai chân buông lỏng, v́ vậy mà thăng bằng không vững và kỵ binh chỉ là một phương tiện vận tải. Với phát minh mới, người ngồi trên lưng ngựa vững như dính liền với thú và kỵ binh trở thành một khí giới tấn công vô cùng sắc bén và dũng mănh. Chỉ nhờ có hai sợi dây da thô sơ buộc vào yên ngựa nhưng lại có một tầm quan trọng rộng lớn không ngờ, mà nhà Đường đă chuyển thế lâm nguy của Trung Hoa lúc bấy giờ, đang sống dưới sự đe doạ xâm lăng thường xuyên của các dân tộc du mục Trung Á, thành một thế chiến thắng. Và nhà Đường chẳng những đă đánh bại các dân tộc xâm lăng, giữ vững độc lập cho Trung Hoa, lại c̣n chinh phục ngược lại các lănh thổ của họ, lập thành một đế quốc hùng cường mà nền văn minh đă chói sáng khắp thế giới lúc bấy giờ trong hơn ba thế kỷ. Tất cả những thành tựu đó chỉ nhờ cặp chân đứng yên ngựa.
Hơn thế nữa, cặp chân đứng yên ngựa, sau khi đă chấn hưng Trung Hoa đến cực độ, lại c̣n mănh lực xoay chiều luồng sóng chinh phục, lúc đó đang chảy từ Tây sang Đông, thành một luồng sóng chinh phục từ Đông sang Tây. Các dân tộc du mục Trung Á sau khi bị Trưng Hoa chinh phục và đồng thời thâu thập được phát minh mới, nguyên nhân chính yếu của sức mạnh của nhà Đường, đă quay lại chinh phục các dân tộc láng giềng ở phía Tây và lân hồi làn sóng chinh phục lại chuyển từ Đông sang Tây. Phát minh chân đứng yên ngựa cũng theo làn sóng đó mà đi từ Đông sang Tây. Cuối thế kỷ VII cặp chân đứng yên ngựa đă nhập vào xă hội Hồi Giáo, và nhờ nó mà xă hội này đă chinh phục gần hết các phần đất bao quanh Địa Trung Hải.
Ví dụ trên kia cho ta thấy vai tṛ vô cùng quan trọng của kỹ thuật trong đời sống của các dân tộc. Lịch sử, trong thời kỳ khoa học chưa phôi thai, c̣n nhiều trường hợp như vậy: làm chủ được một phát minh kỹ thuật mới có nghĩa là làm bá chủ một vùng.
Nhưng, cũng chính kư ức những trường hợp như vậy đă làm cho những nhà lănh đạo các quốc gia ngoài xă hội Tây phương sau này, như chúng ta đă thấy, lầm tưởng rằng chỉ thâu nhận được kỹ thuật mới của Tây phương là đủ bảo vệ nền văn minh cũ. Họ lầm, bởi v́ sau khi khoa học đă phát triển sự nghiên cứu đă có quy củ, sự t́m ṭi đă có phương pháp, các phát minh không c̣n rời rạc nữa và trở thành một toàn bộ di sản của một nền văn minh. Cho nên, như chúng ta đă biết, nếu chúng ta thâu thập một kỹ thuật Tây phương th́ chúng ta phải thâu thập hết toàn bộ kỹ thuật Tây phương.
Trở lại vấn đề cuộc chiến đấu giữa Nga và các cường quốc Tây phương, chúng ta hiểu rơ v́ sao, lúc đầu, sự thâu thập kỹ thuật Tây phương không khó đối với Nga. Nhưng về sau, từ lúc khoa học đă bắt đầu phôi thai, các phát minh kỹ thuật càng phức tạp hơn, và sự thâu thập càng khó khăn hơn.
Chúng ta thấy rơ sự tiến triển của cường độ khó khăn, khi chúng ta ư thức rằng lúc đầu sự thâu thập một kỹ thuật mới có thể thực hiện được một cách âm thầm, sau các chiến trận hoặc trong những cuộc trao đổi thương măi. Nhưng về sau, có lúc chính đại đế Pierre nước Nga đă phải đích thân hai lần cải trang sang viếng các nước Âu Châu cùng với một đội binh chuyên viên để thâu thập kỹ thuật Tây phương. Và sau đó đă bắt đầu kêu gọi đến kỹ thuật gia Tây phương bằng những lợi lộc hấp dẫn.
Thâu thập khá năng sáng tạo kỹ thuật
Sự thâu thập càng ngày càng khó khăn này là một lư do khả dĩ giải thích một phần v́ sao mà trong cuộc chiến đấu với Tây phương, Nga nhiều lần bị kỹ thuật của Tây phương lấn áp. Lư do thứ hai dưới đây, có tính cách trừu tượng hơn nhưng lại minh biện hơn.
Trong việc thâu thập kỹ thuật, Nga vẫn theo các nếp cũ, cho nên vẫn t́m cách thâu thập các kỹ thuật, chớ không bao giờ t́m cách thâu thập khả năng của lư trí, khả dĩ sáng tạo được kỹ thuật. Do đó, một khi Nga vừa chế ngự được một mớ kỹ thuật, th́ óc sáng tạo của Tây phương đă đẻ ra những kỹ thuật mới, tinh xảo hơn. Thành ra lối thâu thập cũ nếu có thể áp dụng ở thời kỳ tiền khoa học, th́ vào thời kỳ khoa học chỉ vừa đủ để cho những người áp dụng chạy theo đuôi Tây phương.
Nguyên do ở chỗ trước kia các phát minh kỹ thuật là một sự t́nh cờ, thỉnh thoảng mới nẩy ra lúc th́ nơi này lúc th́ nơi khác. Nhưng từ ngày xă hội Tây phương đă chế ngự được khoa học, phương pháp hoá sự nghiên cứu, quy củ hoá sự t́m ṭi th́ các cuộc phát minh trở thành liên tục và biến thành một thế độc quyền của những ai chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học. V́ vậy mà vấn đề thâu thập kỹ thuật trước kia đơn sơ và ở vào tŕnh độ bắt chước, sau khi khoa học đă phát triển, phải được đưa lên đến tŕnh độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học. Phải như vậy, nếu những người thâu thập kỹ thuật Tây phương không muốn lúc nào cũng chỉ chạy theo đuôi Tây phương và lúc nào cũng bị kỹ thuật Tây phương chi phối. Nghĩa là công cuộc Tây phương hoá chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện đúng đến mức độ đủ cao.
Đó là bài học mà nước Nga, sau nhiều thế kỷ kinh nghiệm và bằng một giá rất đắt, đă thâu thập được. Và đó là một bài học vô giá cho các nước ở trong t́nh trạng phải Tây phương hoá để bảo vệ sự sinh tồn của ḿnh.
Chính nước Nga đă áp dụng ngay bài học đó trong cuộc cách mạng 1917. Và chung quy cuộc cách mạng 1917 của Nga chỉ là một cuộc Tây phương hoá toàn diện và tự đặt cho mục đích phải đến mức độ đủ cao. Nghĩa là phải làm thế nào khắc phục được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cuộc Tây phương hoá ở Nga đă toàn diện, nhưng cuộc Tây phương hoá của Nga đă đến mức độ đủ cao chưa? Thời gian c̣n sớm quá nên chúng ta chưa có thể trả lời quả quyết được. Tuy nhiên, sự sáng tạo các hoả tiễn liên lục địa, các vệ tinh và hành tinh nhân tạo, các phi thuyền không gian, và nhiều phát minh khác trong mọi lĩnh vực, tuy không kích thích dư luận đại chúng, nhưng vẫn không kém phần quan trọng trên địa hạt khoa học, vượt hẳn khả năng sáng tạo của nhiều quốc gia Tây phương, là những triệu chứng cho chúng ta đoán rằng Nga đă thành công. Tuy nhiên, hăy c̣n sớm quá để chúng ta trả lời một cách dứt khoát.
Ví dụ dưới đây lại thêm phần rơ rệt về tính cách tối quan trọng của mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hoá.
Trường hợp của Nhật
Cái hay phi thường của các nhà lănh đạo Nhật thời Minh Trị lúc bị Tây phương tấn công, là, mặc dầu không có cái kinh nghiệm chiến đấu trong mấy thế kỷ chống Tây phương như Nga, lại nh́n thấy ngay sự cần thiết của một công cuộc Tây phương hoá toàn diện. Nhưng có lẽ quan niệm về cao độ của công cuộc Tây phương hoá không được rơ rệt lắm cho nên đến ngày nay, mặc dầu công cuộc Tây phương hoá của Nhật đă thành tựu một cách không ai phủ nhận được, sự chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của Nhật chưa có dịp xuất lộ một cách rơ rệt như của Nga. Trái lại một vài trường hợp lịch sử chứng minh rằng người Nhật trong công cuộc Tây phương hoá toàn diện, chưa đạt đến mức độ đủ cao.
Lúc khởi đầu cuộc chiến tranh Thái B́nh Dương giữa Nhật và Mỹ, các phi công Mỹ đều khiếp sợ thành tích, tốc độ tầm hoạt động, sự dễ lái, hoả lực và sức chịu đựng của loại phi cơ khu trục của Nhật gọi là Zéro. Và các cường quốc đều xem khu trục cơ của Nhật là một thực hiện bậc nhất trong thế giới của khoa học hàng không Nhật. Nhưng sau hai năm chiến tranh, trong khi Mỹ lần lần cho xuất hiện những loại phi cơ vượt hẳn loại phi cơ Zéro về mọi mặt; th́ Tổng Tham Mưu Nhật và kỹ thuật hàng không Nhật vẫn không sáng chế được một loại phi cơ nào hơn loại Zéro được. Do đó sự làm chủ không phận lọt vào tay Mỹ và chiến thắng cuối cùng về Mỹ như chúng ta đều biết.
Có thể nhiều yếu tố đă ảnh hưởng cùng một lúc để đưa đến sự kiện trên. Nhưng một điều chắc chắn là trong số các yếu tố đó, có sự kiện là cuộc Tây phương hoá của Nhật, mặc dù đă kết quả rất tốt đẹp, vẫn chưa đi đến chỗ chế ngự một cách đầy đủ khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Trong thời b́nh, mặc dầu những bí mật của quốc pḥng vẫn được mỗi quốc gia giữ ǵn kỹ lưỡng, các tin tức khoa học vẫn được trao đổi giữa các cường quốc tiến bộ, hoặc bằng lối trao đổi văn hoá thông thường, hoặc bằng lối t́nh báo bí mật. Do đó, sự chênh lệch giữa các nước về kỹ thuật không đến đỗi to tát lắm. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh, cố nhiên là những luồng giao hoán đều gián đoạn và mỗi nước phải sống với cái vốn sáng tạo riêng của ḿnh. Lúc bấy giờ, nếu tŕnh độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của nước ḿnh chưa đủ cao th́ kỹ thuật sẽ sút kém và ảnh hưởng nặng nề đến chiến cuộc.
Trường hợp trên đây của Nhật xác nhận hai điểm:
Tây phương hoá đến mức độ đủ cao
1. Tính cách thiết yếu của sự đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hoá.
2. Đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hoá là một điều vô cùng khó khăn.
Nếu chúng ta không đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương hoá th́ chính là mục đích của công cuộc Tây phương hoá chúng ta không đạt được. Nghĩa là những kết quả của một công cuộc Tây phương hoá không đủ cao, sẽ không giúp cho chúng ta bảo vệ được sự tồn tại của dân tộc, lư do chính, v́ đó mà chúng ta nhận định rằng công cuộc Tây phương hoá là cần thiết.
Nước Nhật, trong công cuộc Tây phương hoá của họ, đă đạt được nhiều kết quả mà, chẳng những chúng ta và các nước cùng đang theo đuổi công cuộc Tây phương hoá, đều thán phục, mà đến các nước Âu Mỹ cũng ngợi khen. Thế mà, trong giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu quyết định sự thắng bại của dân tộc, th́ kỹ thuật của họ vẫn chưa sánh kịp với kỹ thuật Tây phương. Xem thế đủ biết rằng, việc chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học không phải là việc dễ làm. Nếu chúng ta đă quan niệm rằng sự đạt đến mức độ đó là thiết yếu, th́ việc đạt được vẫn c̣n là một việc vô cùng khó khăn. Nay nếu chúng ta không đặt vấn đề ấy là cần thiết, th́ chắc chắn là không bao giờ chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Và như thế là chúng ta đă đầu hàng trước khi ra trận.
Tất cả các điều tŕnh bày trên kia lại càng xác nhận quan điểm cho rằng, công cuộc Tây phương hoá toàn diện và việc đạt được đến mức độ đủ cao là thiết yếu cho sự sống c̣n của dân tộc chúng ta. Và bởi v́ một công cuộc Tây phương hoá như vậy sẽ vô cùng khó khăn và đ̣i hỏi ở toàn dân những nỗ lực lớn lao và những hy sinh nặng nề, th́ nếu không phải chính chúng ta chủ trương và lănh đạo lấy, th́ chắc chắn rằng không làm thế nào chúng ta có thể thực hiện được công cuộc Tây phương hoá của chúng ta.
Độc lập để Tây phương hoá
Sau khi đă phân tích như vậy rồi, chúng ta mới nhận thấy rằng chủ trương của một số nhà cách mạng trước đây, đề nghị nên hợp tác với Pháp để duy tân Việt Nam, là một chủ trương sai lầm. Sai lầm v́ những người ấy đă không phân tích vấn đề thấu đến tâm, nên tưởng rằng người ngoại quốc có thể trách nhiệm một công cuộc Tây phương hoá như chúng ta đă tŕnh bày ở trên. Thật sự, trong thời kỳ người Pháp ở đây, chúng ta đă có một cuộc Tây phương hoá. Nhưng chính v́ sự thống trị của người Pháp ở đây, nên cuộc Tây phương hoá đó không làm sao được hướng dẫn theo một chiều hướng có ích lợi cho đần tộc. V́ vậy cho nên đă mang đến những hậu quả vô cùng tai hại, mà chúng ta đều biết. Như thế, điều kiện tiên quyết và thiết yếu để thực hiện cho được công cuộc Tây phương hoá là phải độc lập. Có độc lập chúng ta mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lănh đạo được công cuộc Tây phương hoá, mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp tới đây.
Theo đó th́ những nhà cách mạng đă chủ trương hợp tác với Pháp đă đi sai đường lối. Chủ trương của họ chỉ có thể dung nạp với tác dụng của một chiến thuật giai đoạn, để có thể đỡ khổ cho dân chúng. Chính chủ trương của những nhà cách mạng chống Pháp một cách cực đoan là một chủ trương đúng. V́ vậy mà như chúng ta đă biết, và như chúng ta sẽ phân tích chi tiết hơn sau này, các nhà lănh đạo Việt Nam theo đường lối Cộng Sản, đă hành động đúng hoàn cảnh khi họ tự quy tụ dưới lá cờ Cộng Sản của Nga Xô trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập. Nhưng độc lập không phải là mục đích, mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết, như chúng ta vừa thấy trên đây, để có thể thực hiện được cuộc phát triển dân tộc. Và khi bước sang giai đoạn phát triển dân tộc, sự tự quy tụ dưới lá cờ Cộng Sản c̣n có phải là một hành động lợi ích cho dân tộc không? Sau này chúng ta sẽ trả lời với chi tiết câu hỏi đă nêu lên. Bây giờ ta chỉ nên biết rằng mặc dầu sự tự quy tụ dưới lá cờ Cộng Sản đă đưa đến nhiều kết quả trong công cuộc chiến đấu giành độc lập, nhưng không phải v́ những thành tích ấy mà có thể quả quyết rằng nếu muốn đạt đến những thành tích khả quan tương tự trong giai đoạn phát triển, chúng ta lại cần phải quy tụ dưới lá cờ Cộng Sản như nhiều người đă nghĩ. Hoàn cảnh đă thay đổi và vấn đề đă thay đổi, th́ giải pháp không thể giữ như cũ được.
Tây phương hoá và bản chất dân tộc
Trong phạm vi vấn đề Tây phương hoá, chúng ta c̣n phải trả lời một câu hỏi. Nếu chúng ta phải thực hiện cuộc Tây phương hoá toàn diện và đến mức độ đủ cao như trên đă nói th́ liệu bản chất của dân tộc chúng ta có c̣n tồn tại nữa không? Và, nếu sau cuộc Tây phương hoá mà bản chất của dân tộc đă mất, th́ công cuộc Tây phưỡn hoá có c̣n đáng để chúng ta theo đuổi để thực hiện với tất cả sự gian lao và hy sinh của toàn dân chăng? Và đă như vậy th́ chúng ta thực hiện công cuộc Tây phương hoá để bảo vệ cái ǵ?
Trước hết chúng ta nên nhận xét các sự kiện đă xảy ra nếu chúng ta không tự ư Tây phương hoá. Như chúng ta đă thấy, nếu chúng ta không tự ư Tây phương hoá, th́ trước hết chúng ta sẽ mất độc lập và sẽ mất chủ quyền định đoạt vận mạng của dân tộc chúng ta. Sau đó, cuộc Tây phương hoá vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lănh đạo và hường dẫn. Một cuộc Tây phương hoá không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan ră của xă hội chúng ta. Và nếu thật sự một cuộc Tây phương hoá tự ư và có lănh đạo không làm tan ră xă hội, lại có thể làm mất bản chất của dân tộc, th́ chúng ta có thề quả quyết rằng một cuộc Tây phương hoá bắt buộc và không hương dẫn, làm tan ră xă hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất dân tộc của chúng ta.
Như vậy giữa hai thái độ tự ư Tây phương hoá và bắt buộc Tây phương hoá, không c̣n có thể do dự nữa. Làm thế nào cũng phải lựa thái độ tự ư Tây phương hoá, dù mà, v́ cuộc Tây phương hoá đó mà bản tính dân tộc của chúng ta có bị mất. Nếu thật sự có mất, ít ra chúng ta cũng c̣n bảo vệ được độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn của xă hội.
Nhưng chúng ta sẽ chứng minh dưới đây rằng, không có ǵ có thể cho chúng ta quả quyết là công cuộc Tây phương hoá, như chúng ta chủ trương, sẽ đưa đến sự mất bản chất dân tộc.
Trước hết chúng ta cần phải t́m hiểu một công cuộc Tây phương hoá toàn diện đ̣i hỏi ở chúng ta những thực hiện ǵ. Sau đó chúng ta cũng t́m hiểu một công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao đ̣i hỏi ở chúng ta những thực hiện ǵ? Dựa trên đó chúng ta sẽ có đủ tài liệu để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này.
(c̣n tiếp)
Tùng Phong Lê Văn Đồng
* Báo Chí
* Mục Lục
* Pháp Lư
* Biệt kích trong gịng lịch sử
* Mapquest
* Thời Thế
* Lưu Trữ
* Nam Nhân
* Tân Dân
* VietEdit
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Trang Chủ . Kim Âu . Video . Lưu Trữ . Báo Chí . BBC . RFI . RFA . Tác Phẩm . Kỹ thuật . Dịch Thuật . Tự Điển . Groups . Portal . Forum .Tinh Hoa . Da Lat . Thư Quán . ChinhNghia Media . Liên lạc