MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Diễn Đàn ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZ
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS
vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm
vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
NHỮNG HỌC GIẢ MỞ ĐƯỜNG CHO
THUYẾT VIỆT NHO
KIM ĐỊNH
Có vài bạn rất hoan nghênh triết thuyết Việt Nho theo nghĩa an vi , nhưng muốn tôi từ bỏ Việt Nho theo nghĩa thứ hai là Nho của Lạc Việt , v́ quá động trời , không những trái với sử sách mà c̣n có thể gây bất tiện hoặc làm tṛ cười cho người, v́ sợ tôi nói ẩu theo ḷng ái quốc quá khích chứ không có căn cứ khoa học . Mấy bạn đó muốn đă viết ra là phải viết sao cho quốc tế đọc, chứ không chỉ viết cho người ḿnh. Đó là những lo ngại do cảm t́nh với chúng tôi , v́ thế mới có những gịng này để các bạn đó yên tâm .
Trước hết tôi thấy không có ǵ gọi được là di hại cho ai cả. Trước hết là riêng cho tôi v́ đó chỉ là giả thuyết có chiếm nhiều lắm cũng mới chừng 10 % trong công tŕnh chung của tôi, nếu sau này có ai bác được th́ triết thuyết an vi vẫn c̣n đó, v́ hai đàng có nền tảng độc lập .
Thứ đến cũng không có di hại cho sinh viên , v́ theo tôi th́ đại học không những truyền đạt những tri thức đă sở đắc mà c̣n phải t́m thêm những chân trời mới . Mà đă nói t́m cái mới th́ phải đặt giả thuyết làm việc để hướng dẫn sự t́m kiếm. Sau này nếu không bị loại bỏ th́ giả thuyết trở thành một chủ thuyết, tức là mở rộng thêm chân trời, c̣n nếu bị bác bỏ th́ cũng c̣n lại được một số khám phá. Đó là nhiệm vụ của đại học. Đưa ra lư thuyết rồi lại đem ra một thí dụ để thực tập, sai đâu sửa đó . Thế th́ có chi di hại đâu . Nhất là tôi chỉ coi đó là phần phụ nên ít khi đem ra thuyết trinh ở đại học. Đôi khi có nói đến th́ cũng phớt qua, và là những lúc giải trí. V́ tuy chỉ là một thử thách đi t́m cái mới đưa ra cho sinh viên tập làm việc, nhưng v́ chiến tranh liên miên, nên tŕnh độ sinh viên chưa đủ sức với tới và nhất là tài liệu quá thiếu thốn không đủ tạo điều kiện làm việc , nên tôi giảng về triết thuyết an vi quá 90 % , c̣n Việt Nho chỉ lâu lâu nhắc đến cho vui, chờ đợi thời b́nh sẽ đi sâu .
Sau cùng tôi cũng không thấy có bất tiện nào đối với Tàu hay giới học giả quốc tế , v́ đây không là chính trị, mà chỉ là vấn đề văn học khoa học, th́ ai cũng có quyền đặt giả thuyết , miễn là phải theo phương pháp khoa học. Mà cho được như thế th́ cần nền tảng khoa học, mà trước hết các tài liệu đă được giới học gỉa quốc tế nh́n nhận là đứng đắn , được dùng khắp trên thế giới; sau là các khoa phù trợ cũng phải được nh́n nhận như tâm phân, xă hội học, nhân chủng học. Có người hỏi tại sao có quyền thâu gọn vào vài điểm như du mục và nông nghiệp. Xin thưa nhờ những khoa nhân văn mới đó . Thí dụ Cơ cấu luận th́ mục đích là đi tới tổng hợp, đi tới mấy hằng số , . . . nhờ đó mà tôi dám đưa ra nhũng cặp danh từ nông du, chiêu mục, số hoá , số phá . . . . Nhưng đây là phần tế vi đă đi sâu vào triết rồi , nên xin thông qua .Bây giờ tôi chỉ xin nói đến các tài liệu đă được sử dụng trong việc đưa ra giả thuyết Việt Nho.
Có người cho là tôi bất kể tới lịch sử . Điếu đó không đơn sơ như vậy .
Tuy không chú ư đến lịch sử do người Tàu và Ta viết , nhưng c̣n do những học giả quốc tế th́ có chứ. Sở dĩ như vậy v́ nghĩ rằng cái nh́n của họ vừa vô tư, vừa theo phương pháp khoa học hơn các tác giả Tàu và Việt .
Trong bài này tôi nói đến một số người mà tôi có may mắn được đọc. Tôi gọi may mắn v́ sự t́m tài liệu về cổ sử nước nhà cả là một chuyện diệu vợi, tôi không hề dám tự phụ là biết hết như có người gán bừa cho tôi rồi lại chứng minh là chưa biết hết! Thuyết Việt Nho gồm hai đề quyết lớn :
.- Một là người Lạc Việt làm chủ nước Tàu trước .
- Hai là người Lạc Việt đă góp công vào việc h́nh thành Nho giáo sơ khởi .
Theo đó, các tác gỉa gọi được là mở đường cũng có hai loại:
Loại đầu giúp cho thấy sự thực thứ nhất là các ông D’Hervey, De Lacouperie, Eberhard , và nhóm đại học Yale v . v . . . C̣n đề quyết thứ hai th́ các ông Granet và Paul Mus v . v . . Hai chữ vân vân muốn nói đây chỉ là những đại biểu v́ không thề kê khai hết mọi sách đă đọc : việc đó buồn tẻ. Nhưng điều muốn nói ở đây là đuờng hướng của mấy người đại biểu kia .
Người đấu tiên phải kể là bá tuớc D’Hervey De Saint Denys.
Dịch giả bộ “ Văn hiến thông khảo ” của Mă Đoan Lâm ( một Tống Nho thế kỷ 13 ) với nhan đề là Ethnographie des peuples étrangers à la Chine par Ma Toan Lin. 1876. D’Hervey là giáo sư dạy tiếng Tàu tại Paris và có chân trong Viện Hàn Lâm Pháp .Ông là nguời đầu tiên đă hé nh́n thấy sự thực khác với cái nh́n thông thường của các học giả . Ông viết về học giả Klaproth cũng như các người đương thời khi họ than phiền v́ thiếu tài liệu nói đến những dân đă vào nước Tàu trước , thế mà lại không nhận thấy là đă có khá nhiều rồi đó , trong quyển “ Văn hiến thông khảo ”. Là v́ quá quen với quan niệm coi toàn nước Tàu này đă được chia ra như vậy từ lâu, ngay từ đời Mă Đoan Lâm , mà không ngờ là họ Mă nói đến những dân bên ngoài bờ cơi nước Tàu ( lúc ấy ) Chính tôi ( D’Hervey ) cũng bị lầm như vậy khi đọc đến phần dành cho các chi tộc miền Nam . Tôi cứ tưởng Nam là những miền thuộc Vân Nam hay bán đảo sông Hằng bên Ấn Độ, ai ngờ Nam ở đây lại là bờ sông Dương Tử ở giữa nước Tàu, nơi ấy tôi thấy họ c̣n giữ được một nửa địa bàn tổ và dần dần tôi mới nhận ra sự giả tạo của cái nền thống nhất chính trị ( nước Tàu ) đă lừa gạt biết bao nhà nghiên cứu về Đông phương ”
“ Sự thực là từ Đông sang Tây một miền nằm từ Bắc sông Dương Tử mấy trăm dặm mà trở xuống toàn là thổ dân chưa hẳn suy phục Tàu, mà chỉ có mấy ông quan người Tàu cai trị . Phía Nam nữa là những nước c̣n đứng nguyên vẹn, có vua và luật pháp riêng, thuộc chủng tộc riêng . Vua Tàu có phong tước ban ấn và bắt nạp một số cống phẩm th́ chẳng qua là để che đậy những sự sát nhập hăo huyền . Chứ thực ra th́ thế kỷ 13 nước Tàu chưa to bằng một nửa ngày nay, vả tuy đế quốc Tàu có lịch sử văn minh và thể chế lâu đời cả hàng 30 thế kỷ nhưng xét về diện tích và nền thống nhất như nay th́ kể là c̣n khá mới ( P . III.)
Ta có thể thấy chứng minh điều đó khi họ Mă kể lại chuyện Tù trưởng của man Di tên là Hoàn Đản đă mở rộng biên cương đến bờ sông Hoàng Hà và đặt nền ngoại giao với triều đại Bắc Ngụy là Hiếu Văn, niên hiệu Diên Hưng ( 471– 475 ) và nhận được chức “ Chính Nam tướng quân , Kinh Châu thứ sử Tương Dương vương ” . Đó là chỗ ông D’Hervey nhận xét về địa bàn của chủng Bàn Hồ ăn tới bờ sông Hà , c̣n miền Nam th́ họ không đi qua phía Quư Châu và miền Nam . Tù trưởng của chủng này tên là Hoàn Đản đóng đô ở Tương Dương ( hầu chắc là Hồ Bắc cách Dương Tử Giang 400 dặm ).Nước Tương Dương này không c̣n để dấu vết nào trong sử sách nhưng nó rộng hơn bất cứ nước chư hầu nào đời Chu. Sở dĩ họ đi với Bắc Nguỵ là để đối địch với Tống triều đang đóng đô ở Biện Phong ( nay là Khai Phong , phủ Hà Nam ) ( Mă 23 ) Sử liệu trên cho thấy rơ biên cương Tàu vào thế kỷ thứ 6 hảy c̣n hẹp, sau này mở xuống dần dần nhưng toàn bằng lối nạp cống, là thứ gây tốn kém cho Tàu nhiều, nên năm 1163 Tống Hiến Tôn đă băi bỏ việc triều cống và cấm người Tàu mua bán đất với người Man Dao ( Mă 32, xem thêm 34 ).
Trở lên là ít trang tôi trích dịch từ bài tựa của bá tước D’Hervey. Tuy không đồng ư với ông hết, nhưng dầu sao ông cũng gióng lên một tiếng chuông để pḥng sự tin tưởng quá đơn sơ vào nền thống nhất của nước Tàu mênh mông.
Sự thực th́ nó không mênh mông như người Tàu quen tưởng .
Bây giờ dẫn chứng học giả thứ hai là ông Terrien De Lacouperie, ông là người có chân trong Hàn Lâm viện Anh , Pháp,Tàu và dạy các ngôn ngữ ở Đông Dương tại đại học London , có trước tác nhiều, nhưng ở đây chỉ chú ư cách riêng đến quyển The languages of China before the Chinese. London 1887. Tái bản tại Đài Loan năm 1970. Trong quyển này tác giả đă phàn nàn về sự ít tài liệu khi cần nghiên cứu về các dân đă đến cư ngụ nước Tàu trước người Tàu . Lâu lâu sử Tàu dành cho họ vài chi tiết cách khinh thường . Người Tàu ngại sự nh́n nhận sự có mặt của những dân không phải là Tàu sống độc lập ngay trong giữa miền họ cai trị. Tuy họ không thể dấu sự kiện là họ đă xâm lăng , nhưng họ đă quen dùng những danh từ lớn , những tên địa dư rộng, để bịt mắt những độc gỉa không chú ư, hầu che đậy buổi sơ khai tương đối bé nhỏ của họ ( They have tried to the use of big werde and large geographical denominations, which blind the unwary readers to shield their comparatively small beginning. p. 3 ) .
“ Muốn t́m hiểu dân đó th́ chỉ c̣n cách đi ḍ vết tích, nhưng vết tích quá ít v́ cho tới nay người ta ít chú ư tới sự quan trọng lịch sử của các chủng tộc tiền Tàu trừ một hai chuyện gợi ṭ ṃ . tr. 140 ” Ông kết luận rằng: “ Niềm tin là nước Tàu vốn lớn lao măi đă từ xưa và thường xuyên như thế chỉ là một huyền thoại. Trái hẳn lại đó là một việc mới xẩy ra về sau. Văn minh Tàu không phải tự nó sinh ra nó mà là hậu qủa của sự thâu hoá. Việc thâu hoá th́ nay được nhiều người công nhận , c̣n thâu hoá tự đâu th́ xưa cho là phía Tây, nhưng càng về sau th́ càng đông người cho là tự Đông Nam . p. 4 ”.
Nguời thứ ba là ông Wolfram Eberhard giáo sư đại học Californa, có dậy tại đại học Bắc Kinh và là tác giả quyển : “ A history of China ” do đại học California xuất bản năm 1955. Ông viết : “ Ư kiến cho rằng chủng tộc Hán đă sản xuất ra nền văn minh cao đại hoàn toàn tự lực do những tài năng đặc biệt của họ th́ nay đă không thể đứng vững, mà nó phải chịu cùng một số phận như những thuyết cho rằng họ đă thâu nhận của Tây Âu . Hiện nay nguời ta biết rằng xưa kia không có một chủng tộc Tàu, cũng chẳng có đến cả người Tàu nữa , y như trước đây 2000 năm không có người Pháp, người Suisse vậy . p..XIV .“ Nguời Tàu ” chỉ là sản phẩm của một sự pha trộn dần dần theo một tiến tŕnh vừa phiền toái vưà lâu dài của nhiều chi tộc khác, y như các dân của các nền văn hoá cao hơn vậy . p. XV.” Ông viết tiếp : “ Ta thấy rằng đă không có một nước Tàu văn minh c̣n chung quanh toàn là man rợ, nhưng chỉ có một quốc gia Tàu sống ổn thoả với các nước chung quanh cũng văn minh bằng, tuy theo đường lối khác ”
Xin nhắc qua lại rằng Ông Eberhard đă dạy học bên Tàu và đă để ra nhiều chục năm nghiên cứu về phong tục, lễ lạy của các chi tộc mạn Nam có ghi trong quyển Chinese festival mà chúng tôi đă trưng trong quyển “ Triết lư cái Đ́nh ” . Trong đó tôi cũng có nhắc đến tài liệu của nhóm giáo sư đại học Yale bên Mỹ do ông Herold Wiens đúc kết trong quyển “ Han Chinese expansion in South China 1967 , nên ở đây tôi không nói chi thêm mà chỉ nhắc qua đến ư kiến của Conrady trong quyển China ( Berlin 1908 ) được Henry Maspéro nhắc tới trong quyển Chine Antique p. 17 đại để như sau :
Theo sử gia trước th́ cái nôi văn hoá Tàu nằm trong đồng bằng sông Vị và mạn Nam Sơn Tây , rồi tự đó tỏa ra vùng đồng bằng bên Đông ( Sơn Đông ) .
Conrady cho rằng thuyết đó tuy được công nhận v́ lâu đời nhưng thực ra không có nền tảng vững. . Trái lại phải đặt nôi đó vào trung lưu sông Hoàng Hà ( vùng Lạc Dương ) rồi từ đó toả ra Tây và Đông. Ông H. Maspéro cho là giả thuyết của ông Conrady đúng hơn thuyết xưa nhưng gặp khó khăn này là lúc ấy các vùng núi non miền Lạc Dương c̣n nằm trong tay Man Di, chẻ đôi miền trung nguyên ra. Đó là ư kiến Maspéro, nhưng tôi có nhận xét rằng : sự hiện diện này không ngăn trở mà c̣n giúp vào việc cộng tác của văn hoá hai chủng tộc và hợp với khám phá mới hơn như đă nói ở chương đầu , và do đó Lạc Thư không thể là sông Lạc ở Thiểm Tây , mà phải là sông lạc ở Hà Nam, nơi có lu bù tên Lạc : Lạc Dương, Lạc Ấp, Lạc Thành. . . , nghĩa là đă ngấm sâu biểu lộ nơi phát xuất chính .
Sau đây là số tác gỉả chú ư đến nghệ thuật nhưng cũng có nhiều nhận xét cùng chiều hướng .Trong quyển Civilisation de l’Orient phần la Chine ông René Grousset viết : “ Đời sống người Tàu cổ rất hung dữ và rất giống dân Mễ ây Cơ trong việc coi thường mạng sống con người ”. Câu này chứng tỏ tính du mục ưa vơ biền của người Tàu thái cổ .
Sau đây là một sự phân biệt rất quan trọng đă được bà Paul David đua ra trong quyển Arts et Styles de la Chine, Larousse 1951 .“ Không nên nói nước Tàu mà phải nói những nước Tàu : có nước Tàu mạn Bắc gọi là Cathay , có nước Tàu mạn Nam gọi là Manzi. Có Tàu xám mạn Bắc mặc áo len lông thú, uống sữa. Có Tàu xanh phương Nam mặc áo bông ăn gạo . Có Tàu đường sá, có Tàu sông ng̣i, có Tàu xe ngựa, có Tàu thuyền bè”. p. 7 ”.Có thể nói thêm về nghệ thuật là có Tàu Thao thiết , có Tàu Quỳ Long , có Tàu Điểu Long , có Tàu Ngư Thú . Nhưng đây là vấn đề nghệ thuật dành lại cho một quyển riêng .
Trở lên là những tác giả mở đường cho đề quyết đầu tiên là người Lạc Việt vào nước Tàu trước . . . Nhưng các tàc giả này dừng lại đấy và không một ai bước vào phần hai, là : Người Lạc Việt đă đặt nền cho Nho giáo sơ khai .Đề quyết động trời này th́ chỉ có một tác giả giúp tôi vài nhận định sơ sài , đó là Marcel Granet .Ông theo phương pháp mới là t́m sự thực xuyên qua huyền thoại, rồi kiểm chứng bằng xă hội học. Đó là một phương pháp rất gần với phương pháp huyền sử của chúng tôi. Với cặp danh từ huyền sử tôi muốn nói lên hai tính chất, một là huyển, hai là sử.
Về huyền th́ không là sử mà là lư tưởng được diễn tả bằng các sơ nguyên tượng , nên gọi là huyền thoại. Huyền thoại có hai thứ là thần thoại ( thần làm chủ ) và nhân thoại ( người làm chủ ) . Đúng hơn là sơ nguyên tượng của nhân làm chủ . V́ thế mà huyền sử được dùng những tài liệu mà sử kư không được dùng, thí dụ :
- Lĩnh Nam trích quái.
- Việt Điện u linh .
- Liệt Tử.
- Nam Hoa chân kinh .
- Hoài Nam tử .
- Trúc Thư kỷ niên.
- Một số chương của Xuân Thu .
- Ngô Việt Xuân Thu .
- Thuỷ kinh chú .
- Sơn Hải kinh.
và bao sách khác. Đây là cả một cánh rừng cổ đại hoang vu mà huyền sử phải đi vào đặng t́m vết tích. Nhưng đó là việc diệu vợi, v́ người Tàu đă phá huyền thoại hoặc bằng cách huỷ bỏ hoặc đảo lộn thứ tự , đem râu ông lắp cằm bà . Làm thế nào t́m đủ tài liệu, rồi sau đó làm thế nào để đọc ra được cái ẩn ư của người xưa. May thay ông M. Granet đă khởi công đi vào lối này , nên tôi nhờ được khá nhiều do các công tŕnh của ông như hai quyển Dances et Légendes và Fêtes et chansons .
Người thứ hai là ông Paul Mus với quyển Việt Nam sociology d’une guerre . Đây la quyển sách bàn về xă hội học cũng như văn hoá Việt Nam sâu sắc nhất mà tôi đọc được. Chương giúp tôi nh́n ra hướng Việt Nho hơn hết có lẽ là những trang 17 – 20. Đại để ông cho rằng Việt Nam có một cái bí quyết về sự độc lập, và cái bí quyết đó phải t́m ở đâu ? Không ở trong địa thế, v́ địa thế bất lợi : Bắc bị Tàu chắn, Tây bị núi, Đông biển , chỉ c̣n mạn Nam th́ đă có người chiếm cứ rồi và do những dân rất mạnh. Chứng cớ là trước kia người Chàm đă nhiều lần uy hiếp Việt Nam , nhưng cuối cùng đă bị Việt Nam tiêu diệt. Vậy người Việt học bí quyết đó với Tàu chăng. Nhưng nếu học với Tàu th́ tại sao lại chống được cuộc đồng hoá của Tàu. Tại sao các dân ở Lưỡng Quảng, Quư Châu, Vân Nam gồm cả hàng mấy trăm chi tộc đă bị đồng hoá mà riêng Việt Nam từ bao thế kỷ vẫn lẩn tránh văn minh Tàu, hầu bảo vệ và duy tŕ nền văn hoá của họ. Nghĩa là người Việt mang trong ḿnh những yếu tố của một nền văn hoá mạnh, và nơi biểu lộ nền văn hoá chính là cái Làng. Phải, cái làng Việt Nam mới chính là di sản sống động nhất của nền văn hoá Việt nam. Nó khác với làng Tàu ở 3 điểm :
1.- Ở chỗ b́nh quyền : ai cũng có thể dự hàng kỳ mục . Làng Tàu trái lại là thị tộc từ trong cơ cấu nên dành quyền đó cho một họ .
2 .- Thứ đến là b́nh sản giữ được đến 20 – 26 % , c̣n Tàu nhiều khi 4 % như cuối đời Tống là thí dụ.
3 .- Tàu có rất nhiều công thương ( yếu tố du mục ) biểu lộ bằng sự có đông thị dân hơn hẳn Việt Nam . Chỉ Việt Nam mới hoàn toàn nông nghiệp, nên tinh thần nông nghiệp sống mạnh bên Việt Nam hơn cả bên Tàu .
Đó là mấy nét chính có thể dùng làm tiêu điểm cho nhiều cuộc t́m kiếm nhất là lúc trở về nguồn gốc để t́m ấn tích Tổ tiên xuyên qua huyền thoại. Tôi gọi vệc đó là huyền sử , và định nghĩa huyền sử là nền minh triết của dân tộc được diễn tả bằng những mảnh vụn của lịch sử. Nói mảnh vụn v́ nó rải rác lộn xộn , lu mờ.
Vậy phải t́m ở đâu : Thưa cả trong huyền thoại, cả trong Kinh Điển tức Tứ Thư Ngủ Kinh. Về loại này chúng tôi dùng hai bộ nổi tiếng một là của James Legge gồm 5 quyển lớn trong bộ Chinese classic 1872. Hai là của Couvreur trong bộ Les Humanités d’Extrême Orient ( Cathasia Paris 1951 ). Những bộ bằng tiếng Latinh chúng tôi cũng có nhưng chỉ để xem riêng chứ không trưng. Và khi trưng chúng tôi theo hai nguyên tắc sau: Dùng những bộ đứng đắn nhất. Thứ đến nếu có bằng tiếng Việt th́ trưng theo bản Việt để giúp nguời đọc dễ t́m tài liệu .
Có thể hỏi tại sao chúng tôi không dùng bản chữ Nho là v́ chúng tôi khởi nghiên cứu khi ở Paris , nên chỉ có thể có sách Tây . Đến sau nhận ra phương pháp làm việc của các tác giả Tây “ khoa học ”hơn Tàu nhiều, nên không nghĩ tới thay đổi làm ǵ. Nhất là những bản trên đều đầy đủ nguyên văn chữ Nho .. Nhân tiện ở đây cũng nên nói về khả năng tư tưởng của người Tàu và Việt. . . , rất kém nên đọc chán quá . Ban đầu tôi c̣n đọc qua về sau không buồn rớ tới tác giả nào nữa . Bao nhiêu biểu tượng đă trở thành biểu hiệu rổng, nếu không là khung chở những suy luận nhảm. Đọc họ tôi có cảm tưởng như ông Keun nghĩ về những thợ Tàu rất giỏi nhưng không hiểu ǵ về nghệ thuật .
Về sau tôi nhận ra nhiều học giả cũng nhận xét y như tôi nghĩ, thí dụ Keyserling trong Journal 133 và Granet trong Socio.. 69 – 70 . Phương pháp xă hội th́ mới được đưa vào , c̣n trước kia toàn là văn học kiểu chú sớ tầm chương đọc sao nổi . Thế là tạm xong phần huyền .
Bây giờ đến phần sử th́ chúng tôi chỉ dùng của người Tàu có hai tác giả : một là Tư Mă Thiên và hai là Mă Đoan Lâm . Ngoài ra ít dùng các tác giả khác , phần v́ chưa t́m được tài liệu và th́ giờ nhưng nhất là v́ không muốn nh́n theo lối người Tàu , bởi họ đă bị thiên kiến như chúng tôi sẽ trưng bằng chứng nơi khác, chỉ có vài tác giả chúng tôi dùng tạm như Mộng Văn Thông và Chu Cốc Thành . Nhưng sau chúng tôi đă bổ khuyết bằng tài liệu của đại học Yale, nhất là của học giả Eberhard và Herold Wiens đúc kết nhiều công tŕnh nghiên cứu khác. Ngoài ra các học gỉa quốc tế về Trung Hoa ( Sinologues ) th́ chúng tôi cũng t́m được phần lớn như Joseph Needham trong bộ Science et Civilisation in China . Cambridge University 1954 và H. G. Creel . La naissance de la Chine . Payot 1937. Nói tóm lại th́ chúng tôi cố dùng những tài liệu đúng đắn nhất được quốc tế thừa nhận.
Như vậy bảo chúng tôi không coi sử ra ǵ là sai .
Chúng tôi nghĩ căn cứ trên bấy nhiêu tài liệu là đủ, v́ chỉ cần lư chứng cái nhiên đă đủ đưa ra giả thuyết. C̣n chứng minh là việc làm dài hơi, nhưng dài hơi chưa hẳn là cần lâu năm v́ trong triết lư cũng như khoa học có những yếu tố quan trọng hơn thời gian nhiều, thí dụ cái nh́n trực thị mà đôi khi có người gặp được th́ đi mau hơn cả một hai ba đời dầy công mà thiếu nó .
Có người lấy làm lạ tại sai tôi không dùng tài liệu của BEFEO. Xin thưa cũng có chứ nhưng ít thôi , không những v́ họ là người Pháp có thể thiên lệch ( nói chung , chứ có nhiều ngoại lệ như trường hợp các ông Tavernier, Briffault . . . ) nhưng nhất là v́ đối tượng của họ hầu hết rút gọn vào Đông Dương . C̣n đối tượng của tôi là trận tuyến văn hoá bao la, dàn dài ra khắp miền Viễn Đông; bên kia là Hoa Hán, bên này là Viêm Việt , tức là toàn khối Nhung, Man, Di, Địch . . . . với một nền văn hoá phôi thai, mang tính chất nông nghiệp, mà đại biểu lúc xưa được nhiều học giả công nhận là Việt và cho tới nay cũng c̣n được là thế ( Need I . 89 )
Trở lên là những tài liệu tôi đă dùng, tất cả đều có giá trị quốc tế và nói chung là những tài liệu đă vượt giai đoạn ấu trĩ của Hoa học ( Sinologie ) .Vậy là tôi nói đường đường trên quốc tế , chứ không có chuyện nói thầm trong góc nhà Việt Nam đâu . V́ thế ai muốn bác bỏ th́ cũng phải theo những tiêu chuẩn quốc tế về tài liệu lẫn phong thái và cần trước hết là t́m hiểu xem tác giả muốn nói cái chi đă. Không hiểu điều đó mà cũng phi bác bâng quơ th́ chỉ tổ làm mất cảm t́nh. Sau này ai bác bỏ được thuyết Việt Nho, th́ tôi cũng sẵn sàng từ bỏ, không một chút ngần ngại, bởi v́ nó chỉ là món phụ thoạt kỳ thuỷ được đưa vào v́ lư do hầu hết người đọc chưa hiểu triết thuyết an vi là ǵ, nên trong khi chờ đợi hảy dùng “ bốn món ăn chơi ” cái đă để cho triết thuyết an vi ngấm dần. Khi đă ngấm th́ sẽ nhận ra triết thuyết an vi mới quan trọng hơn thập bội triết sử Việt Nho . Bởi chưng cần triết lư phụng sự con người, c̣n triết đó bởi đâu phát xuất là vấn đề hết sức tuỳ phụ. Có nó hay không có nó triết thuyết an vi vẫn toàn vẹn . Thế nhưng sự vụ lại xẩy ra quá điều tác giả dự trù : hầu hết món ăn chơi này nên dùng đă đời rồi tráng miệng ra về luôn. Có kẻ th́ lại la lối ầm ỷ làm cho một số người th́ thầm với nhau phen này Việt Nho xuống đất đen. Thế nhưng ầm ỷ mặc , cối cứ xay đều, và v́ đứng bên bờ duy sử mà ḥ với hét ( có độc gỉả viết cho chúng tôi như vậy ) th́ làm sao mà hiểu nổi để mà bác với bỏ. V́ thế tôi cứ để thuyết Việt Nho y nguyên cho bầu khí văn học Việt Nam thêm sinh động, ít nhất nó cũng giúp cho nh́n được kỹ lượng hơn khuôn mặt của triết lư an vi.
KIM ĐỊNH
Nguồn: www.anviettoancau.net
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.