NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN
TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE
NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI
QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN
TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY
DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook:
Kim Âu
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà c̣n (ngại ngùng) tŕ hoăn
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
Chưa có khúc điệu ǵ mà nghe đă hữu t́nh
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ư
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy măi
Giăi bày hết tâm sự vô cùng hạn
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
Dây lớn ào ào như mưa rào
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống băi
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành b́nh bạc vị phá
vỡ
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
Nhà ở lăng Hà Mô
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
Em trai đi lính, rồi d́ chết
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lăo đi
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
Tháng trước đi Phù Lương mua trà
Từ đó đến giờ ở đầu sông một ḿnh với con thuyền không
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
Tôi nghe tiếng tỳ bà đă thán tức
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
Gặp gỡ nhau đây hà tất đă từng quen biết
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
Lau vàng, trúc vơ mọc quanh nhà
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những ǵ
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
Tôi thường thường đem rượu ra uống một ḿnh
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rơ ràng
Xin ngồi lại đàn một khúc
Tôi sẽ v́ nàng làm bài Tỳ Bà hành
Cảm động v́ lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
Tư mă Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh
Lời tự:
Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận tư mă. Minh niên thu,
tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm,
tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng
nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ
thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc băi mẫn
nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ,
chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm
tư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ư, nhân vi trường cú
ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.
(Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức tư mă ở quận Cửu Giang. Qua mùa
thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có
tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu
nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng “Tôi vốn là
con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay
tuổi đă cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền
buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đăi, xin nàng đàn lại cho
nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời ḿnh từ lúc c̣n
trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm
quan đă được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói
chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng
nàng ta, gồm 616 chữ, gọi là Tỳ bà hành.)
Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương tŕnh SGK Văn học
10 giai đoạn 1990-2006.
Bản dịch của Phan Huy Thực
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đ́u hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm t́nh,
Chong đèn, thêm rượu, c̣n dành tiệc vui.
Mời mọc măi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, t́nh đà thoảng hay.
Nghe năo nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giăi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan d́u dặt,
Trước “Nghê thường”, sau thoắt “Lục yêu”.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như tṛ chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuông róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
B́nh bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt ḷng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gă thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc găy tay nhịp gơ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu d́ thác,
Lần hôm mai đổi khác h́nh dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dăi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ ṿng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đă chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc vơ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tṛn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hăy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ v́ nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe năo nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư Mă đượm mùi áo xanh.
Một số tài liệu (trong đó có Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng
Hàm) chép người dịch là Phan Huy Vịnh (tức con của Phan Huy Thực) là
không chính xác. Chi tiết xin xem thêm các bài viết ở dưới.
Thi nhân kư gởi vào bài thơ nỗi ḷng của kẻ luân lạc, không nói đến chữ
oán, mà nặng về chữ nghiệp, khóc thương cho hoàn cảnh, mà không trách
móc đến ǵ, đến ai. Người đọc thấy ḿnh cũng như kẻ trên tiệc, nước mắt
đầm đ́a, thương cho thân phận con người, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh như một
chiếc thuyền lao đao ngoài biển cho cuộc đời, khi vinh hoa th́ vậy, khi
luân lạc th́ vậy, nếu dứt hết mọi trần duyên, th́ không biết kiếp con
người sinh ra để làm ǵ? Để tu chăng? Đối với một kiếp người nghệ sĩ, có
lẽ để tận hưởng cái ngọt ngào đắng cay,... th́ phải hơn. Nhất là một
người nghệ sĩ, dạt dào t́nh cảm, tinh tế, nhạy cảm như Bạch Cư Dị,
thương xót cho đời mà cũng thiết tha v́ đời... Bài thơ có nhiều chỗ diễn
tả âm nhạc rất hay, có chỗ nói đến lúc tiếng đàn ngừng mà nghe “biệt hữu
sầu ám hận sinh”, Bạch Cư Dị là người thưởng thức âm nhạc thật cao diệu.
Tiếng đàn trên sông (Tỳ bà hành)
Gửi bởi Vanachi ngày 24/03/2006 02:21
Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người Thiểm Tây, có bản
chất thông minh từ nhỏ, năm 6 tuổi đă bắt đầu học làm thơ. Ông đă lớn
lên trong một bối cảnh lịch sử triền miên khói lửa binh đao, nên ông gần
gũi và thông cảm với nỗi khốn khổ, nghèo khó và cảnh cơ hàn cay đắng của
tầng lớp lao động do vương triều phong kiến gây ra, cũng như ông đă đồng
t́nh với niềm ước vọng và phẫn uất của người dân lao động. Những sự cảm
thụ đó đă ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thi ca của ông. Bạch Cư Dị
đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, được bổ làm quan trong triều đ́nh giữ chức Tả
thập di. Ông đă sống trong một thời kỳ đen tối, lúc mà xă hội Trung Quốc
đang trên con đường suy thoái, những mâu thuẫn của các phe cánh thống
trị trong triều đ́nh khó hàn gắn được. Với bản tính trung thực dám nói
thẳng (dù với tinh thần tôn quân), ông đă dám phê phán gay gắt và can
đảm đấu tranh cho chính nghĩa, nên ông đă làm mất ḷng vua và các quan
đại thần. Nhiều kẻ nịnh thần căm ghét, dèm pha, và hạch tội ông. Ông bị
giáng chức làm tư mă Giang Châu (815-818), là một chức vị nhàn rỗi,
không có công việc ǵ làm, mang một tâm sự buồn bă chán ngán thế thái
nhân t́nh. Trong thời gian nầy ông sống trong một mái nhà tranh bên ngôi
chùa, và dành nhiều th́ giờ để tu tiên học đạo. Bài thơ nổi tiếng Tỳ bà
hành của ông đă được sáng tác trong giai đoạn nầy, được phổ biến rộng
răi trong quần chúng b́nh dân và được xă hội đón tiếp thưởng thức quí
trọng. Đó là bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xă hội, hiện thực đă được
truyền tụng trong nhân gian, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ. Trên
bước đường phiêu bạt, ông đă thấy nhiều khách thập phương yêu thơ ông đă
ghi chép lại những bài thơ trên bờ tường của trường làng, chùa chiền,
quán trọ, quán rượu, cũng như dán trên mui thuyền và những hội quán thi
phú, tập văn của các nho sinh. Ông rất vui sướng, lạc quan tin rằng thơ
ông gần gũi với dân chúng và được nhiều người quí trọng và ưa thích.
Bạch Cư Dị đại diện cho ḍng thơ hiện thực phê phán v́ khi ông đă phải
sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ quan liêu phong kiến
đồi truỵ, Bạch Cư Dị đă dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực
để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công
trong xă hội, cũng như sự bóc lột của bọn quan lại quư tộc. Thơ của ông
phản ảnh được nỗi ḷng uất nghẹn và nỗi trầm luân thống khổ của dân
chúng trước thế sự thời cuộc ba ch́m bảy nổi..
Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thi ca, ông muốn thi ca phải gắn bó với
đời sống, phản ảnh hiện thực xă hội, tràn đầy tư tưởng nhân đạo, nhân
văn. Bạch Cư Dị đă nói “Làm văn phải v́ thời thế mà làm, làm thơ phải v́
thực tại mà viết” (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự
nhi tác). Thơ Bạch Cư Dị phù hợp chủ nghĩa hiện thực theo con đường
“phục cổ để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn
cản bước tiến của xă hội và đất nước. Bài Trường hận ca của ông diễn tả
mối t́nh đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi, nhưng cũng có những
ư tưởng sâu sắc thầm kín mỉa mai.
Bài Tỳ bà hành của ông có t́nh tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động,
theo lối “thuật hoài” (miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn
riêng tư thầm kín của tác giả như một người mang số phận hẩm hiu, để mà
thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu truyện, gặp nhiều cảnh éo
le, không may mắn trên đường đời. Bài thơ ngân vang một cảm xúc ngậm
ngùi, một nỗi buồn thắm thía… Ông đă nói “sự việc dẫn dắt ở ngoài, t́nh
lư rung động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh”. Đó
là những lời bộc bạch chân t́nh, nói lên cái tâm huyết của một người trí
thức muốn bày tỏ tấm ḷng ưu thời mẫn thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác
giả bị chèn ép, bạc đăi trong một xă hội phong kiến đầy dẫy bất công.
Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đă gióng lên tiếng chuông
cảnh cáo một chế độ phong kiến đă chà đạp lên nhân phẩm, t́nh cảm, hạnh
phúc, và quyền sống của người phụ nữ. Nhà thơ đă t́m thấy một tâm hồn
đồng điệu, một tương thức tri âm qua người kỹ nữ gặp trên sông Tầm
Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ t́nh của ngữ
điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt,
thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như
quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống. Bạch Cư Dị trong một lá
thư gửi người bạn đă nói lên những suy nghĩ sâu sắc về thi ca: “Cái cảm
hoá được ḷng người chẳng ǵ trọng yếu bằng t́nh cảm, chẳng ǵ đi trước
được ngôn ngữ, chẳng ǵ gần gũi bằng âm thanh, chẳng ǵ sâu sắc bằng ư
nghĩa. Với thơ gốc là t́nh cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả
là ư nghĩa” (Nguyễn Khắc Phi dịch). Bài thơ Tỳ bà hành đă tạo nên một
phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thuư bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu
tố: t́nh cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ư nghĩa.
Năm Nguyên Hoà thứ 10 (815) Bạch Cư Dị bị giáng chức và đổi đi làm Tư mă
Giang Châu, và ông cũng đă trút niềm tâm sự u uẩn nầy qua bài thơ:
Chu trung dạ vũ
Giang vân ám du du
Giang phong lănh tu tu
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lăng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu
Trong thuyền đêm mưa (Hải Đà dịch)
Mây đen nghịt, nước sông trôi
Gió sông lạnh ngắt bồi hồi khách thơ
Mui thuyền thánh thót hạt mưa
Bập bềnh sóng vỗ đong đưa mái thuyền
Trong khoang khách bệnh nằm yên
Chẳng may giáng chức về miền Giang Châu
Bài Tỳ bà hành được viết vào thời gian nầy (lúc Bạch Cư Dị bị giáng chức
làm Tư mă Giang Châu), bài thơ gồm 616 chữ được sáng tác ngay trên
thuyền. Giang Châu có núi Khuông Lư, bến Tầm Dương đều là nơi danh lam
thắng cảnh. Một bữa xuống thuyền thong dong dạo chơi, trong một đêm
trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe một tiếng đàn thánh
thót văng vẳng, lúc biến hoá lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc
ngưng bặt luyến tiếc từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó. Ông ghé
thuyền, và gặp người kỹ nữ đang gảy đàn tỳ bà. Bạch Cư Dị đă cảm thấy
ḿnh đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc trên bến sông đêm thanh vắng.
Cô đào đă gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt hảo, trầm bổng
xao động người nghe.Sau đó người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng
nhan đa truân và đă bộc bạch thổ lộ tâm t́nh riêng tư của ḿnh cho ông
nghe. Cảnh và t́nh hoà hợp. Âm đàn và tâm trạng chan hoà cảm xúc, cảnh
ngộ. Mỗi tiếng đàn ngân lên như nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca
nữ hoà ḿnh với nhịp đập bồi hồi thổn thức của con tim người thơ. Chợt
có mối đồng cảm, đồng t́nh giữa người thơ long đong trên bước đường sự
nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lăng của người ca
nữ đáng thương. Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị đă tài
hoa sáng tác một mạch bài Tỳ bà hành đầy những h́nh ảnh tâm trạng thực
và sinh động, và ông ngâm bài thơ luôn cho cô nghe. Xúc động trước chân
t́nh tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những ngón tay mềm mại
lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên
sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lăng đăng che phủ khoan thuyền.
Trời không lất phất những hạt mưa.. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót
gieo vang những âm điệu buồn vời vợi trong ḷng ai?
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu tư mă đượm mùi áo xanh
Bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh được nhiều người công nhận là bản
dịch xuất sắc nhất. Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616
chữ. Phan Huy Vịnh dịch Nôm theo thể song thất lục bát (7-7-6-8), thành
22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ. Theo tác giả Trần Thị Băng Thanh
(Từ điển văn học, NXB Khoa học xă hội): “cho đến nay, những người yêu
thích văn chương biết đến Phan Huy Vịnh là nhờ bản dịch của bài Tỳ bà
hành - nguyên tác là của Bạch Cư Dị. Tỳ bà hành miêu tả tâm trạng quan
Tư mă Giang Châu họ Bạch trong đêm nghe người ca nữ đă luống tuổi ở bến
Tầm Dương, đánh đàn tỳ bà và kể chuyện cuộc đời ch́m nổi của ḿnh. Bản
dịch gồm 22 khổ thơ song thất lục bát. Đóng góp lớn nhất của Phan Huy
Vịnh là sử dụng tiếng Việt. Cũng là những từ ngữ thông thường, những thủ
pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, đă
làm cho tác phẩm có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ
thuật dịch. Từ lâu bản dịch Tỳ bà hành đă được phổ cập rộng răi và coi
là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời sống độc lập với nguyên tác. Nó
đă chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt
Nam” (TTB)
Cũng theo tác giả Ngô Văn Phú: “Riêng bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư
Dị, sau này là một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho,
các quan viên hát ả đào (kể cả thời Tây học) rất yêu thích. Năm 1986,
trong một cuộc tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của các quốc gia của
UNESCO thuộc Liên hợp quốc, bài Tỳ bà hành (bản dịch), được nghệ sĩ
Quách thị Hồ thể hiện bằng thể hát nói, đă được tặng giải thưởng cao. Đó
cũng là sự phát triễn, kết hợp tài t́nh giữa bản dịch thơ (lời) và âm
nhạc”.
Tỳ bà hành là một bài thơ cổ kính, súc tích, lồng vào một câu chuyện thi
vị, tạo ra một âm hưởng nhạc thơ nhẹ nhàng, tha thiết làm xao động ḷng
người. Cái thân phận bèo bọt của người thiếu phụ đă dùng tiếng đàn để
bộc lộ nỗi than oán và uất hận của ḿnh. Bạch Cư Dị là nhà thơ đă mạnh
dạn đề cập đến giá trị của người phụ nữ, cái bất công của xă hội phong
kiến đối với vai tṛ của người phụ nữ. Những âm thanh của tiếng đàn được
diễn tả rất tài hoa, những uẩn khúc thầm kín riêng tư của nỗi ḷng,
những ưu tư dằn vặt thăm thẳm đáy ḷng như đă tuôn trào ra để hoà nhịp
cùng với những âm thanh của tiếng mưa rào rạt, tiếng oanh ríu rít, tiếng
nước tuôn róc rách, tiếng dao xô xát, tiếng lụa xé kêu vang.. lúc trầm
lúc bổng, những giây phút ngừng lại im bật, th́ lại bỗng rung lên những
tiếng tơ lạnh ngắt run rẫy, lối diễn tả thật tuyệt vời. Những đợt sóng
cảm xúc cứ dạt dào tuôn trào ra, tạo nên những chấn động dư ba, làm nao
ḷng, ủ rũ người nghe. Những tiếng rung luyến láy chuyển nhịp theo từng
ngón tay mềm mại nơn nà của người thiếu nữ, như muốn níu kéo lại âm vang
của một thời niên thiếu ngây thơ, như muốn thở ra những tiếng năo nuột
của một tâm trạng chán chường, như buồn thương nuối tiếc một dĩ văng
vàng son đă mất hút tự hôm nào. Bỗng tiếng đàn tắt lịm, hụt hẫng như
tiếng khóc khô không lệ, buồn tủi tiếc thương cho một thiên đàn ước vọng
đă xụp đổ tan tành. Người thơ đă dùng những ước lệ, ẩn dụ, những cái đẹp
trữ t́nh lăng mạn của thi ảnh qua những ngôn từ chắt lọc tinh tế tạo
thành những h́nh tượng tinh tuư khơi động cảm xúc ḷng người, làm trái
tim rung động bần thần, làm tâm hồn xao xuyến, man mác bâng khuâng. Đó
là thanh âm rung vang của tiếng đàn tỳ bà.
Em bước xuống từ trong tranh
Cây tỳ bà nức nở
Ngón đàn em trăn trở
Vần thơ em buông lửng lơ
Bỏ lại vầng trăng quạnh hiu
Bỏ lại sau lưng khoảng không nham nhở
Em bước xuống vẫn ôm cây tỳ bà nức nở
Lang thang cuối đất cùng trời
Tiếng tỳ bà gơ cửa
Tiếng tỳ bà đ̣i nợ cho nàng Kiều
Kiếp đoạn trường muôn thuở
Đàn trăn trở thơ buông lửng lơ
(Hồn tỳ bà, nhạc sĩ Ngọc Khuê)Câu chuyện trong bài thơ Tỳ bà hành của
Bạch Cư Dị đă thầm nói lên một triết lư nhân sinh, cái chua xót ngậm
ngùi của cảnh đời dâu bể, ba ch́m bảy nổi, cảnh đoạn trường hưng phế của
tạo hoá, mà con người chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi, bất lực trước cuộc
đời hư ảo như bóng câu bên cửa sổ, như thoáng mây bay cuối trời. Chung
cái tâm sự hận sầu ray rức được diễn đạt qua cung điệu đàn, lời ca,
tiếng hát đó là bài Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du. Nguyễn Du trong
một bài ca về người găy đàn đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), có
kể rằng vào tuổi thiếu niên, ông đến kinh đô để thăm người anh, và có
dịp được dự một hội nữ nhạc, trong đó có một thiếu nữ đất Long Thành,
gảy đàn Nguyễn (tức là đàn Nguyệt, do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền
vườn Trúc đời Tấn sáng chế), rất điêu luyện, đă gảy những khúc đàn hay
nhất trời đất (tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh) tài danh
lừng lẫy, lại hát hay và ăn nói duyên dáng quyến rũ vô cùng. Sau đó
Nguyễn Du trở vào Nam, măi một thời gian sau ông phụng mệnh đi sứ Trung
Quốc, tạt ngang Long Thành, bạn bè mở tiệc, khoản đăi ông và có gọi đoàn
nữ nhạc đến giúp vui, mà ông không quen mặt biết tên, và bất chợt gặp
lại người kỹ nữ đó. Sau đây trích một đoạn trong lời tiểu dẫn của Nguyễn
Du (Quách Tấn dịch): “Tiệc khởi múa hát. Kế tiếng đàn trổi lên, nghe
trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Ḷng tôi kinh dị.
Nh́n người gảy đàn, th́ thấy thân gầy, thần khô, mặt đen, sắc trong như
quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm ĺ
ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, h́nh trạng thật khó coi. Tôi
không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn th́ dường như có quen, nên động
ḷng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm th́ ra là người trước kia đă gặp. Than
ôi! Người ấy sao đến nỗi thế nầy! Cuối ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ
kim, ḷng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục
buồn vui thật không sao lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm
thương khôn nén, nên soạn bài ca để gởi hứng: Người đẹp đất Long Thành –
Long Thành giai nhân” (Nguyễn Du)
Xin trích dịch một đoạn cuối của bài ca lúc Nguyễn Du gặp lại người ca
kỹ này trong bữa tiệc do bạn bè đăi ông ở dinh Tuyên Phủ):
Trong yến tiệc các nàng đều son trẻ
Duy một người ca kỹ tóc hoa râm
Sắc thần khô gầy guộc đứng âm thầm
Chẳng điểm phấn tô son nh́n hốc hác
Ai biết nàng một thời danh tiếng nhất
Khúc đàn ngân, ta mắt lệ tuôn tràn
Lắng tai nghe mà đau đớn vô vàn
Hai mươi năm vẫn hoài thương nhớ tiếc
Hồ Gươm xưa tưng bừng đêm yến tiệc
Đời phế hưng thành quách đă thay dời
Băi nương dâu hoá biển sóng trùng khơi
Cả cơ nghiệp Tây Sơn đều suy thoái
Làng ca múa một người c̣n sót lại
Đời trăm năm một nháy mắt trôi qua
Nhớ chuyện xưa mà áo thấm lệ nhoà
Từ Nam về đầu ta đầy tóc bạc
Trách chi nàng đă tàn phai nhan sắc
Kể chuyện xưa hai mắt xót thương sầu
Giáp mặt nhau mà chẳng nhận ra nhau.
(Trích Long Thành cầm giải ca của Nguyễn Du - Hải Đà phỏng dịch)
Đời Đường âm nhạc đă được phát triển rơ rệt, nhờ hấp thu nhiều giai điệu
của ngoại quốc nhập vào. Ngoài những dụng cụ nhạc cũ tạo âm thanh bằng
cách thổi như tiêu, sáo, kèn, c̣i v.v... hoặc găy như huyền cầm, thập
lục, thất huyền.. hoặc bằng cách gơ như chiêng, trống, phách, ngọc
thạch, mă năo. Để làm phong phú cho dàn nhạc cũ này th́ có những nhạc cụ
khác T́ bà, Hồ già, Giốc lật, Khương địch. Bát âm của âm nhạc thời Đường
là dựa trên chất liệu của nhạc khí làm tiêu biểu như: Ti (đàn), Thạch
(khánh), Kim (chuông), Trúc (sáo), Mộc (mơ gỗ), Thô (trống đất), Bào (vỏ
bầu), Cách (trống da).. Ngũ âm của họ là Cung (như vua), Thương, Giốc,
Chuỷ (như việc), Vũ (như vật)… Trong những loại đàn cổ xưa của Trung
Quốc phải kể đến đàn sắt và đàn cầm gồm 50 dây (ngũ thập huyền).
Theo truyền thuyết, theo lệnh vua Phục Hy, Tố Nữ gẩy đàn sắt (gồm 50
dây) tế trời. Nhưng Phục Hy không bằng ḷng và ngăn cấm xử dụng v́ nghe
tiếng đàn quá tê tái, năo nuột bi ai thảm thiết. V́ thấy dân chúng vẫn
lén lút xử dụng nên Phục Hy đành phải ra lệnh sửa đổi đàn sắt chỉ c̣n
lại 25 dây. Đàn tranh của âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhiều người cho
rằng xuất xứ từ cây đàn sắt của Trung Quốc nhưng chỉ gồm có 16 dây thôi
(c̣n gọi là đàn Thập Lục), giống như 16 tiếng chim nhạn, âm nhạc Việt
Nam là ngũ cung (mỗi âm giai có tên Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ, so
sánh với Ḥ, Xự, Xàng, Xê, Cống. 15 nốt chính tạo từ 3 âm giai (mỗi 5
giai là 5 tiếng đàn Ḥ Xự xàng Xê Cống), cọng thêm một nốt chúa đàn, nên
có tất cả là 16 dây.
Đàn tỳ bà (pipa) là loại đàn “luưt” (lute), nhạc cụ dây, thân có h́nh
trái lê, chơi bằng cách gảy ngón tay, và gồm có 4 dây (four-stringed
lute), được gảy bằng 2 ngón tay. Đời nhà Hán (206-220), đàn tỳ bà có 4
dây và 12 phím đàn. Tuyên Phủ (đời Tấn) đă viết “Đàn tỳ bà xuất hiện,
được dùng nhiều vào cuối đời Tần (222-207), khi dân chúng bị triều đại
phong kiến bắt đi lao động khổ sai để xây dựng Vạn Lư Trường Thành và họ
đă gảy đàn tỳ bà để dùng tiếng đàn thê lương ảo năo nói lên sự than oán
uất nghẹn trong ḷng mà họ không được quyền nói ra bằng lời”.
Cái kỹ thuật của đàn tỳ bà được diễn tả đ̣i hỏi khéo léo bằng những ngón
tay và tŕnh độ điêu luyện của người nghệ sĩ. Những âm thanh rung lên
kéo dài tạo tiếng vang rền, hoà lẫn với các đoạn nhạc bật (pizzicato),
tiếng vỗ nhịp bằng tay, thêm vào phần hoà âm rung động, với những tiếng
động hoặc âm thanh chát chúa của vũ khí thêm vào âm điệu của bài thơ
diễn tả những cảnh chiến trường như những trận đánh nổi tiếng trong thế
kỷ thứ hai BC giữa Sở (Hạng Vơ) và Hán (Lưu Bang) như bài Thập diện mai
phục.
Tiếng đàn tỳ bà đó cũng thấy trong những bài thơ tả cảnh biên tái, chiến
trường thê lương, diễn tả những cảm xúc hùng tráng hiên ngang của người
chiến binh lên đường, cũng như những tư duy ngậm ngùi thầm kín chấp nhận
cho số phận an bài trước cảnh chia ly năo nùng:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi
Tuư ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Lương Châu từ - Vương Hàn)
Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Ly chưa cạn, tiếng tỳ bà giục đi
Sa trường say, mỉa làm chi
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về
(Hải Đà phỏng dịch)
Hăn hải lan can bách trượng băng
Sầu vân thảm đạm vạn lư ngưng
Trung quân trí tửu ấm quy khách
Hồ cầm t́ bà dữ Khương địch
(Trích Bạch tuyết – Sầm Tham)
Biển cát làn băng trắng vạn phương
Mây sầu muôn hướng phủ thê lương
Trại quân bày rượu nâng ly tiễn
Tiếng nhạc Hồ, T́ quyện sáo Khương
(Hải Đà phỏng dịch)
Tỳ bà cũng là một nhạc cụ được dùng trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam,
thuộc loại “họ dây” (chordophone). Những loại đàn cùng họ này như: đàn
nguyệt, đàn tranh, đàn nhị, đàn bầu, đàn đáy, đàn hồ v.v..
Tỳ bà tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đă cho
biết, tỳ bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật
Bản với tên gọi BiWa. Người ta chế tác tỳ bà bằng gỗ ngô đồng. Cần đàn
và thùng đàn liền nhau có dáng như h́nh quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ
nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi
là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là
h́nh chữ thọ, khi là h́nh con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên
dây.
Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có
gắn 4 miếng ngà voi cong ṿm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính
làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở
xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người
ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quăng 4, mỗi
quăng 4 cách nhau một quăng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol - Đô1 - Rê1
- Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng
nhựa. Ở Việt Nam đàn tỳ bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhă nhạc, Thi nhạc
của cung đ́nh, Thiền nhạc của phật giáo, ban Nhạc tài tử, Phường bát âm,
Dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mặc dù đàn tỳ bà có xuất xứ từ các nước khác,
nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đă được bản địa hoá và trở thành cây
đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong
cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.
Hải Đà
Lộ ṭng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆ 23.00Chia sẻ
trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện
Bản dịch của Lam Nguyên
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Vanachi ngày 02/06/2006 06:05
Có 1 người thích
Lá thu động bông lau xào xạc
Đêm tiễn người hiu hắt Tầm Dương.
Thuyền neo bến, ngựa dừng cương
Rượu mời muốn uống sáo đàn vắng tanh.
Cùng nâng chén rồi đành ly biệt,
Sông nước in bóng nguyệt u sầu.
Tỳ bà chợt vẳng đêm thâu,
Chủ quên trở gót, khách đâu muốn về.
Theo tiếng nhạc hỏi ḱa ai đó?
Đàn vụt im muốn tỏ c̣n e.
Cập thuyền đến hỏi mọi bề,
Đèn khêu rượu chuốc đề huề tiệc vui.
Cạn lời mời gót hài lưỡng lự,
Đàn nâng cao che nửa mặt hoa.
So dây vặn trục thử qua,
Chưa thành khúc điệu thiết tha tâm t́nh.
Lựa cung bậc âm thanh diễn tả,
Nỗi bất b́nh lă chă nhặt thưa.
Lặng thinh cúi mặt đón đưa,
Đắn đo nắn nót đường tơ gợi sầu.
Tiếng d́u dặt cung cao cung thấp,
Dứt Nghê Thường tiếp gấp Lục Yêu.
Đại huyền tựa tiếng mưa rào,
Tiểu huyền như tiếng th́ thào mông lung.
Khi thánh thót rơi trong dạ yến,
Lúc dập dồn dường quyện không gian.
Giữa hoa oanh hót rộn ràng,
Bên ghềnh suối vắng nước mang mang buồn!
Tiếng đàn vọng suối nguồn lạnh ngắt,
Nước ngừng trôi u uất lời than.
Lắng nghe ḷng những bàng hoàng,
Phút giây yên lặng lại càng tuyệt hay.
Tựa nguồn đổ b́nh bay lọ vỡ,
Tựa gươm va pháo nổ chiến trường.
Thôi dài dứt cuối một chương,
Bốn dây âm hưởng tựa đương xé là.
Đông Tây ngạn thuyền đà yên lặng.
Giữa ḍng sông nguyệt rạng trời thu.
Trầm ngâm ngón tựa đường tơ,
Dung y chỉnh đốn bước ra ngỏ lời.
Rằng thơ ấu sống nơi thành thị,
Lăng Hà Mô vốn dĩ quê nhà,
Rành đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất tiếng đà dội vang.
Thiện Tài phục tay đàn độ ấy,
Thu Nương ghen lúc thấy điểm trang.
Tranh đua lớp trẻ Ngũ Lăng,
Khăn điều tặng thưởng khi ngưng mỗi bài.
Lược theo nhịp chiếc rơi chiếc găy,
Vết rượu hoen đầy dẫy quần là.
Cuộc vui suốt những năm qua,
Xuân thu trăng gió la cà ăn chơi.
D́ quá văng em nơi biên thú,
Sắc phai theo tháng cũ năm tàn.
Ngựa xe vắng vẻ trước sân,
Về già chọn một thương nhân bạn đường.
Người ham lợi tháng trường đi biệt,
Buôn bán trà ở miệt Phù Lương.
Thuyền nan sóng nước bẽ bàng,
Ḍng sông lạnh lẽo trăng vàng ngẩn ngơ!
Đêm qua mộng chuyện xưa ngày cũ,
Lệ đầm đ́a mặt ủ mày chau.
Tiếng tỳ giục khách nao nao,
Giờ nghe nàng kể dạt dào thương tâm.
Cùng cảnh ngộ, cảm thân lưu lạc,
Lọ phải là quen trước hay sao?
Đế kinh từ biệt năm nào,
Tầm Dương đất trích yếu đau tháng ngày.
Ca hát vắng cơi ngoài hoang dă,
Tiếng trúc tơ im đă một năm.
Bồn Tŕ bến thấp kề gần,
Lau già trúc cỗi mấy tầng bao quanh.
Sớm chiều những âm thanh ǵ nhỉ?
Chỉ chuốc sầu vượn nỉ non than.
Xuân thu hoa nguyệt quen dần,
Một ḿnh say tít đâu cần thế nhân.
Chẳng nghe cả trùng than, sáo trổi,
Tiếng chim ca gió thổi ngàn cây.
Tỳ bà chợt vẳng đêm nay,
Nghe như tiên nhạc khoan thai rơ ràng.
Xin tiếp nối cung đàn dang dở,
Tỳ bà hành tác tự v́ ai?
Một hồi đứng lặng câm lời,
Lại ngồi nắn nót chơi vơi tiếng đàn.
Giờ khác trước, cung than dây oán,
Khiến người nghe tâm trạng ngẩn ngơ.
Khóc nhiều hơn cả bấy giờ,
Giang Châu Tư Mă đậm tà áo xanh!
Lộ ṭng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆ 24.50Chia sẻ
trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:15
Đêm đưa khách bến Tầm Dương,
Gió thu sàn sạt lá vàng bông lau.
Người xuống ngựa, khách đón chào,
Rượu kèo mời uống, có đâu sáo đàn.
Chén suông ngán nỗi hợp tan,
Trăng sông man mác, chứa chan nỗi ḷng.
Tiếng t́ chợt vẳng trên sông,
Chủ quên trở lại, khách không vội về.
Lần t́m sẽ hỏi ai kia,
Tiếng đàn nín bặt, người e ngỏ lời.
Ghé thuyền đến cạnh chào mời,
Khêu đèn thêm rượu, lại bày tiệc hoa.
Nằn ń mời măi mới ra,
Ôm đàn che nửa, mặt hoa thẫn thờ.
Ướm dây vặn trục dạo qua,
Chưa thành khúc điệu, thiết tha hữu t́nh.
Đắn đo, nắn nót, rơ rành
Dường như tố cáo b́nh sinh nỗi buồn.
Dang tay cúi mặt gảy luôn,
Xiết bao tâm sự như tuôn mạch sầu.
Tiếng đàn đi tựa thấp cao,
Nghê Thường vừa dứt, lại vào Lục yêu.
Dây to sầm sập mưa dào,
Nỉ non dây nhỏ, th́ thào nỗi tây.
Nhặt thưa réo rắt mấy dây,
Hạt châu to nhỏ rơi đầy trên mâm.
Trong hoa ríu rít oanh ngâm,
Cuối ghềnh nước suối réo ngầm băi khơi.
Tiếng đàn, suối lạnh không trôi,
Không trôi ngập ngừng, tạm thôi nhịp nhàng.
Lắng nghe sầu oán ngổn ngang,
Bấy giờ lặng lẽ, lại càng hay hơn.
Nước tuôn b́nh bạc vỡ tan,
Giáo gươm thiết kỵ tiếng ran rợn người.
Khúc xong gảy một tiếng dài,
Bốn dây một tiếng như ai xé là.
Đông tây thuyền lặng như tờ,
Giữa sông bóng sáng thẫn thờ gương nga.
Trên dây cày móng ngẩn ngơ,
Dung y chỉnh đốn, đứng xa phân tŕnh.
Kể rằng xưa ở kinh thành,
Hà Mô lăng ấy gần quanh là nhà.
Học đàn từ thửa mười ba,
Giáo phường đệ nhất, tiếng đà đồn xa.
Thiện tài phục ngón tỳ bà,
Thu nương tấm tức, khi đà giồi trau.
Ngũ lăng tuổi trẻ đua nhau,
Đàn xong một khúc biết bao khăn điều.
Lược trăm gơ nhịp găy nhiều,
Chén mời, giọt rượu quần điều ố hoen.
Năm qua năm lại bao phen,
Xuân thu trăng gió đă quen vui vầy.
Nỗi buồn d́ chết em đày,
Sớm chiều thấm thoắt, mặt mày kém xuân.
Ngựa xe lẻ tẻ trước sân,
Về già lấy một thương nhân bạn bè.
Trọng tài lợi, nhẹ biệt ly,
Phu lương tháng trước chồng đi buôn chè.
Một ḿnh nấp bóng chiếc ghe,
Quanh thuyền nước lạnh trăng kề vẩn vơ.
Đêm qua mộng thấy chuyện xưa,
Lệ rơi tầm tă, mắt mờ đỏ hoen.
Tiếng t́ đă gợi nỗi phiền,
Lại nghe mụ nói, chẳng yên nỗi ḷng.
Cùng nhau góc bể long đong,
Gặp nhau lọ phải đă cùng quen nhau
Đế kinh từ biệt bấy lâu,
Tầm Dương bị chích lại đau bấy chầy.
Có đâu âm nhạc chốn này,
Suốt năm tơ trúc chẳng ngày nào nghe.
Bến Bồn đất thấp ở kề,
Lau vàng trúc cỗi bao vi bốn bề.
Sớm chiều nghe tiếng vật ǵ,
Cuốc kêu vượn hú, ùa bi đêm ngày.
Xuân thu hoa nguyệt khoả khuây,
Thường thường chuốc chén lại say một ḿnh.
Ca rừng sáo nội đă đành,
Liu lo ríu rít nào ḿnh có hay.
T́ bà giọng ấy đêm nay,
Nghe như tiên nhạc bên tai rach ṛi.
Gảy thêm khúc nữa hăy ngồi,
T́ bà hành sẽ v́ ai đặt thành.
Cảm lời, đứng lúc lặng thinh,
Lại ngồi lựa ngón, lanh lanh gảy bài.
Véo von khác trước một hồi,
Những người ngồi đó lệ rơi ngắn dài.
Khóc nhiều hơn cả là ai,
Giang Châu tư mă đẫm mùi áo xanh.
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
Lộ ṭng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆ 13.00Chia sẻ
trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện
Bản dịch của Trần Nhất Lang @www.hoasontrang.us
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:16
Tầm Dương bến đêm khuya tiễn khách
Lá phong bay, hiu hắt bờ lau
Xuống yên, thuyền khách đón chào
Chén hoa mong cạn, t́m đâu sáo đàn.
Say ngán nỗi hợp tan chia cách
Trăng soi ḍng man mác, mênh mông
Tỳ Bà tiếng vẳng trên sông
Chủ vui vẻ lại, khách không nỡ rời.
Lần theo tiếng, hỏi ai đàn đó
Bặt dây tơ, chẳng ngỏ lời qua
Ghé thuyền hỏi chuyện lân la
Đèn khêu, rượu rót tiệc hoa lại bầy.
Mời mấy lượt, đàn tay ôm đến
Khuôn mặt nàng tơ phím nửa che
Lên dây, đàn dạo thoảng nghe
Chưa thành khúc điệu, có bề thiết tha.
Những ngao ngán cùng là buồn bực
Như than niềm uẩn ức từ lâu
Khúc buồn tay gẩy, mày chau
Nỗi ḷng u ẩn trước sau giăi bầy.
Nắn nhẹ gẩy, đường dây buông bắt
Trước Nghê Thường, bỗng thoắt Lục Yêu
Dây to như đổ mưa rào
Véo von dây nhỏ th́ thào niềm tây.
Cung cao thấp, lựa dây nhấn phím
Mâm ngọc đâu như tiếng châu rơi
Dưới hoa oanh ríu rít cười
Ŕ rào suối chẩy về xuôi cuối bờ.
Đàn ngừng, đứt dây tơ suối lạnh
Ngưng cung đàn, im hẳn tiếng ngân
U t́nh, nỗi hận chan chan
Bây giờ lặng ngắt lại càng hay hơn.
Như b́nh bạc vỡ tuôn nước chẩy
Quân kỵ xông, tiếng gẫy thương đao
Phím đàn dứt khúc thanh tao
Tiếng ngân xé lụa phổ vào bốn dây.
Thuyền thấp thoáng đông tây yên lặng
Vầng trăng thu chiếu sáng trên sông
Ngậm ngùi đàn phím xếp xong
Áo xiêm chỉnh đốn những mong tỏ lời.
"Ngày xưa vốn là người kinh khuyết
Nhà bên cồn ở miệt Hà Mô
Tỳ Bà học tuổi c̣n thơ
Giáo phường đệ nhất bấy giờ có tên.
Thiện tài cũng nhiều phen thán phục
Ả Thu Nương ghen tức điểm trang
Ganh đua chàng trẻ Ngũ Lăng
Biết bao gấm lụa, tiếng đàn đuổi đeo.
Thoa vàng, lược gẫy theo nhịp gơ
Quần lụa hồng rượu ố giọt rơi
Bao năm đàn hát, vui cười
Xuân thu trăng gió qua trôi đă nhiều.
Em lính thú, lo điều d́ thác
Tháng ngày qua nhan sắc tàn phai
Trước sân xe, ngựa đâu ai?
Đến khi luống tuổi duyên hài khách thương.
Khách tham lợi, nhẹ đường ly biệt
Đi buôn trà mải miết Phù Lương
Bên sông đậu chiếc thuyền suông
Dưới bầu trăng dăi, nước tuôn lạnh lùng.
Canh khuya chợt nhớ nhung thời trẻ
Phai phấn son, ḍng lệ mơ tràn"
Đă buồn v́ nỗi nghe đàn
Lại rầu thêm nỗi thở than đôi lời.
"Cũng là kẻ chân trời tang hải
Gặp gỡ nhau lọ phải từng quen
Đế kinh từ giă mấy niên
Giáng ra, nằm bệnh ở miền Tầm Dương.
Chốn hẻo lánh chẳng thường tiếng nhạc
Suốt năm không nghe được trúc tơ
Sông Bồn gần băi cát nhơ
Trúc gầy, lau úa phất phơ quanh nhà.
Sáng lại tối tiếng đà như hú
Vượn khóc than, cuốc rũ kêu sầu
Xuân hoa nở, đêm trăng thâu
Riêng ḿnh nâng chén, ai đâu bạn cùng.
Há chẳng có sáo đồng, ca núi
Tiếng khó nghe, giọng nói líu lo
Tỳ Bà nàng lướt trên tơ
Nghe như tiên nhạc, thẫn thờ ḷng ai!
Gượm ngồi lại, đàn vài ba khúc
Ta v́ nàng sáng tác bài ca"
Ngập ngừng, nàng cảm lời ta
Lựa dây, nắn phím tay ngà gẩy mau.
Sao ai oán, giống đâu khúc trước?
Khách tiệc hoa lệ rớt từng hàng
Ai người nước mắt chứa chan?
Giang Châu Tư Mă lệ tràn áo xanh.
Lộ ṭng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆Chia sẻ trên
FacebookTrả lời
Ảnh đại diện
Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu
Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:16
Tầm Dương tiễn khách lúc canh tàn
Xào xạc lau thu động lá vàng.
Khách xuống thuyền rồi người xuống ngựa
Chén đưa không sáo cũng không đàn.
Từ biệt cùng say, chẳng cuộc vui
Trăng dầm sông nước lững lờ trôi
Chợt nghe văng vẳng tỳ bà vọng
Chủ khách bâng khuâng chẳng muốn rời.
Đến nơi sẽ hỏi: "ai đàn tá?"
Ngừng bặt muốn thưa, ngại chẳng ra.
Thuyền đến gần bên xin gặp mặt
Giong đèn thêm rượu tiệc vui mà.
Hết lời mời mọc thuận t́nh ra
Ôm chiếc tỳ bà khuất mặt hoa
Vặn trục dạo dây đôi ba tiếng
Dẫu chưa thành điệu, ư t́nh xa.
Dây ngân ấm ức bấy nhiêu t́nh
Dường kể cho vơi nỗi bất b́nh
Khẻ nhíu đôi mày tay găy nhẹ
Nỗi niềm tâm sự cả đời ḿnh.
Nắn nhẹ bắt khoan rồi lại dạo
Lục Yêu nối tiếp khúc Nghê thường
Dây to rào rạt mưa sầm sập
Dây nhỏ tỉ tê nỗi khổ riêng.
Rào rạt tỉ tê xen lẫn nhịp
Như bao châu ngọc đỗ mâm vàng
Dưới hoa oanh líu lo trơn giọng
Nhịp suối ngập ngừng thác nước tuôn
Dây đàn ngưng bặt suối ngừng reo
Cả một trời thu vắng lặng theo
Thầm kín hiện ra niềm hận tủi
Lặng nghe t́nh tứ hơn đàn nhiều.
Bỗng như b́nh vỡ, nước rơi tung
Đao kiếm gầm gừ, thiết kỵ xung.
Ngưng khóc, mặt đàn tay phất mạnh
Bốn dây xé lụa tiếng tưng bừng.
Thuyền mảng đông tây lặng gió đùa
Trăng thu trắng xóa nước sông đưa
Gài que gẫy giữa dây cầm sắt
Xốc áo dịu dàng đứng dậy thưa:
"Em vốn là người chốn đế đô
"Nhà xa làng tận ở Hà Mô
"Mười ba tuổi học tỳ bà thạo
"Hạng nhất trong bao đám hát tṛ.
"Thiện tài phải phục tiếng đàn em
"Trang điểm Thu nương lại ghét ghen
"Bao lụa đào trao không đếm xuể
"Ngủ Lăng bọn trẻ kháo nhau khen.
"Lược bạc, hoa vàng găy nhịp xong
"Rượu rơi hoen ố đốm quần hồng
"Gió xuân trăng tỏ thờ ơ ngắm
"Năm lại sang năm cuộc lạc hoan.
"Mất d́, em lại phải ṭng quân
"Sớm lại chiều qua kém mỹ quan
"Trước cửa lặng tanh xe ngựa vắng
"Về già gá nghĩa với người buôn.
"Lái buôn tham lợi biệt ly thường
"Tháng trước buôn trà tận phủ Lương
"Từ đấy một ḿnh trên thuyền vắng
"Trăng dọi quanh thuyền, nước lạnh băng.
"Đêm sâu mơ lại tuổi xuân xưa
"Mơ mộng ngổn ngang rớt lệ thừa"...
Nghe tiếng tỳ bà ta cảm động
Lại nghe câu chuyện mắt đầy mưa.
Chân trời lưu lạc khách tha hương
Biết trước hay không, gặp chuyện thường
Năm ngoái giả từ Kinh tráng lệ
Giáng quan nằm ốm ở Tầm Dương.
Tầm Dương hẻo lánh đâu âm nhạc
Năm tháng không nghe tiếng sáo đàn
Nhà lại gần sông Bồn ẩm ướt
Quanh nhà lau trúc gió mênh mang.
Sớm tối ở đây thấy được ǵ ?
Quyên kêu khắc khoải vượn sầu bi
Cảnh sông, hoa sớm, trăng thu tỏ
Ta rót chén về nốc chen đi.
Há phải sáo đồng câu hát núi
Líu lo đến nổi khó nghe thêm
Đêm nay nàng găy tỳ bà khúc
Khoan khoái dường như bản nhạc tiên.
Vui ḷng ngồi lại đàn thêm nữa
Ta sẽ v́ nàng chuyển khúc hành
Cả nể bồi hồi nàng đứng lựa
Rồi ngồi nắn nót nhộn âm thanh.
Rầu rầu khác hẳn tiếng đàn qua
Cả tiệc đều bưng mặt khóc ̣a.
Trong đó khóc nhiều hơn hết thảy:
Tư mă áo xanh đẫm lệ nhoà.
Lộ ṭng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆Chia sẻ trên
FacebookTrả lời
Ảnh đại diện
Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn @www.hoasontrang.us
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:16
Tiễn người đêm bến Tầm Dương
Lau, phong xào xạc, thu vương dịu hiền
Chủ xuống ngựa, khách lên thuyền
Không đàn chẳng sáo chén buồn vân vê
Say nào vui lúc phân ly
Trăng ch́m đáy nước, sông chia đôi t́nh
Chợt nghe tiếng nhạc lênh đênh
Khách ngơ, chủ ngẩn chẳng đành bước đi
Rằng sao âm quá năo nề ?
Đàn ngưng ngỡ đáp, nào dè kín môi
Ghé thuyền gạn hỏi đôi lời
Chong đèn, rượu tiếp, tiệc vui đậm đà
Cạn lời nàng mới bước ra
Nửa phần má phấn t́ bà khuất che
Chỉnh đàn tay ngọc vân vê
Dạo qua vài tiếng đă nghe tài t́nh
Đàn rung nghèn nghẹn, bồng bềnh
Xót xa như tả nỗi ḿnh đắng cay
Tay đàn, cúi nhẹ, chau mày
Âm nghe kể lể dăi bày tâm tư
Bắt khoan, nắn nhẹ, dạo, vê
Hết Nghê Thường lại tiếp về Lục Yêu
Dây to rào rạt mưa gào
Dây con ngỡ tiếng lời nào oán than
Tiếng trầm tiếng bổng tràn lan
Tựa trên mâm ngọc rớt ngàn hạt châu
Lời oanh trơn giọng nhuốm sầu
Ngập ngừng tiếng suối, thác sâu nước gầm
Suối đông lạnh, đàn lặng câm
Nét sầu phảng phất, vẻ trầm bi ai
Bâng khuâng ḷng khách ngậm ngùi
Bỗng âm oà vỡ tả tơi ngọc b́nh
Vó câu dồn dập đao binh
Giữa đàn tay ngọc th́nh ĺnh phất lên
Âm như xé lụa giữa đêm
Đông, tây tĩnh lặng... khắp thuyền ngẩn ngơ
Trên sông trăng bạc dật dờ
Nhẹ cài que gẩy vào khe dây đàn
Đứng lên khép nép dịu dàng
Nguồn cơn nàng kể rơ ràng đầu đuôi:
"Chốn thành đô thiếp ra đời
"Chính quê xưa vốn là người Hà-Mô
"Thạo tỳ bà thuở mười ba
"Nhất danh đào hát chẳng là thua ai
"Ngón đàn át cả Thiện tài
"Thu c̣n ghen nét trang đài thắm xinh
"Ngũ Lăng tài tử nặng t́nh
"Lụa đào trao tặng quanh ḿnh biết bao
"Hoa vàng, vành lược cài đầu
"Gẫy theo nhịp gơ, rượu mầu vương y
"Vui triền miên tuổi xuân th́
"Thu trong, xuân mát qua đi chẳng cần
"Bỗng người em phải ṭng quân
"Người d́ vắn số, muôn phần xót xa
"Xuân tàn, sớm lại, chiều qua
"Ngựa xe thưa thớt, cửa nhà vắng tanh
"Về chiều kết nghĩa tơ mành
"Chồng người buôn bán, nhẹ t́nh biệt ly
"Phù Lương tháng trước chàng đi
"Thuyền không lẻ bóng sầu bi năo nùng
"Nh́n trăng lạnh lẽo trên sông
"Tơ vương lại thuở má hồng xa xưa
"Xót thương thân phận đong đưa
"Nhạt nḥa má phấn hoen mờ lệ sa"
Đă buồn theo tiếng tỳ bà
Càng thêm se sắt nghe qua chuyện nàng
Cùng thân lưu lạc trên đường
Chả cần quen biết cũng vương nặng t́nh
"Tṛn năm ta đă rời kinh
"Tủi buồn nằm bệnh nơi thành Tầm Dương
"Chốn này hẻo lánh nhiễu nhương
"Quanh năm đàn nhạc chả thường được nghe
"Cạnh sông Bồn ẩm, trũng kia
"Trúc gầy, lau úm c̣n ǵ nữa đâu
"Sớm khuya nghe măi thêm rầu
"Quyên kêu, vượn hú nỗi sầu khó vơi
"Sông xuân, hoa sớm, trăng ngời
"Một thân quạnh quẽ đầy vơi chén nồng
"Giá đừng hát núi, sáo đồng
"Líu lo th́ hẳn bớt không bực ḿnh
"Đêm nay nghe khúc nhạc t́nh
"Tưởng như từ chốn thiên đ́nh vọng ra
"Xin nàng hăy niệm t́nh ta
"Đàn thêm khúc nữa gọi là tri âm
"Bài Tỳ Bà tạ t́nh thâm"
Cảm lời nàng đứng lặng câm tần ngần
Trầm ngâm tay vuốt dây đàn
Âm nghe ray rứt chứa chan giọt sầu
Khách nghe mắt lệ rầu rầu
Áo xanh Tư Mă Giang Châu ướt dầm.
Lộ ṭng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆Chia sẻ trên
FacebookTrả lời
Ảnh đại diện
Lại thêm một tư liệu về người dịch “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 06/12/2007 09:48
Gần đây do một sự t́nh cờ chúng tôi phát hiện được một bài viết có nhan
đề Tỳ bà hành bạt chép chung trong cuốn Nam phong giải trào ở Thư viện
Quốc gia (R1674). Bài dài khoảng 450 chữ. Sau lời bạt là nguyên văn chữ
Hán bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và lời dịch ra quốc âm. Đáng chú ư là
bài viết có ghi cụ thể ḍng lạc khoản “Minh Mệnh thập nhị niên ngô
nguyệt trung hoán. (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ H́nh bộ Thị lang
sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt”. Hà Tốn Phủ
chính là Hà Tông Quyền bạn đồng liêu với dịch giả bài Tỳ bà hành mà ở
đoạn đầu lời bạt ông đă giới thiệu dịch giả là “Cựu Bộ trưởng Xuân
Khanh” (Tên hiệu Phan Huy Thực).
Hà Tông Quyền (1789-1893) quê huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, đỗ Hội
nguyên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), lúc nhỏ đi học nổi tiếng thông minh,
làm quan đến chức Lại bộ Tham tri, Sung đại thần Viện cơ luật, khi mất
được truy tặng Thượng thư bộ Lại. Ông là một nhà khoa bảng nổi tiếng văn
chương, được các sĩ phu đương thời ca ngợi. Ngoài thơ chữ Hán ông c̣n để
lại 30 bài vịnh Kiều bằng chữ Nôm hưởng ứng cuộc thi vịnh Kiều do Minh
Mệnh đề xướng năm 1830. Ông được Minh Mệnh tin dùng và thường xuyên được
vào bái kiến nhà vua.
Trong lời bạt ông ca ngợi và đánh giá cao bài dịch Tỳ bà hành của họ
Phan, đồng thời ông cũng nêu lên quan điểm về dịch thuật của ḿnh là
không nên quá chú trọng về mặt kỹ xảo mà làm sai lạc nội dung của nguyên
tác. Qua lời bạt chúng ta c̣n được biết thêm về thời điểm ra đời của bản
dịch (trước năm 1831).
Thực ra từ trước tới nay đă có nhiều người đề cập đến dịch giả bài Tỳ bà
hành nổi tiếng của Bạch Cư Dị. Ngay từ năm 1926, Đông Châu Nguyễn Hữu
Tiến cũng đă thông báo trên tạp chí Nam Phong dịch giả Tỳ bà hành là
Phan Huy Thực. Tiếp đó Hoàng Xuân Hăn, Hoàng Ly, Trương Linh Tử và sau
này Phạm Văn Diêu, Tạ Ngọc Diễn, Hoàng Thị Ngọ cũng khẳng định như vậy.
Khi viết về ḍng họ Phan Huy ở Sài Sơn, GS. Phan Huy Lê cho biết gia phả
họ Phan ở Thạch Châu và Sài Sơn đều chép thống nhất người dịch Tỳ bà
hành là Phan Huy Thực. Chúng tôi cũng đă được đọc cuốn Phan tộc công phả
hiện đang lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (A2963) do Phan Huy Dũng - cháu
nội Phan Huy Thực biên tập, trong đó có ghi tóm tắt tiểu sử 6 người con
của Phan Huy ích. Trong đoạn nói về Phan Huy Thực, gia phả có ghi rơ các
trước tác của ông như: Hoa thiều tạp vịnh, Tỳ bà hành diễn âm khúc, Nhân
ảnh vấn đáp... Riêng đối với Phan Huy Vịnh th́ gia phả không hề nói đến
việc ông dịch Tỳ bà hành.
Như vậy gia phả họ Phan Huy là nguồn tư liệu duy nhất đáng tin cậy để
xác định người dịch Tỳ bà hành và đồng thời cũng để đính chính những ngộ
nhận lâu nay được gán ghép cho Phan Huy Vịnh. Sở dĩ có sự nhầm lẫn kéo
dài có lẽ là do nguồn tư liệu của Trần Trung Viên trong cuốn Văn đàn bảo
giám (soạn năm 1926) và nhất là cuốn Thi văn hợp tuyển dùng trong các
trường trung học trước năm 1945 đă có ảnh hưởng sâu rộng trong giới học
sinh lúc bấy giờ. Hai cuốn sách này gần đây đă được in lại vài ba lần
nhưng vẫn không được đính chính, ngay cả bộ Từ điển văn học 2 tập in năm
1983-1984 cũng ghi Phan Huy Vịnh là người dịch Tỳ bà hành và Phan Huy
Thực không có tên trong bộ Từ điển này (Cuốn Từ điển văn học bộ mới in
năm 2004 đă có đính chính và bổ sung). V́ đă thành thói quen nên những
cuốn sách mới gần đây như Thơ Đường trong nhà trường dùng cho học sinh
Trung học, sinh viên và người yêu thích thơ Đường hoặc cuốn Bạch Cư Dị -
Tỳ bà hành của Hồ Sỹ Hiệp tập hợp những bài viết của nhiều nhà nghiên
cứu và cuốn Thơ Bạch Cư Dị của NXB Hội Nhà văn vừa mới in xong trong quí
IV-2006, vẫn để tên người dịch là Phan Huy Vịnh.
Để góp thêm một minh chứng cho vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu toàn
văn lời bạt của Hà Tông Quyền cho bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực.
*
Lời bạt cho bài dịch Tỳ bà hành
Tỳ bà hành là tác phẩm của Bạch Lạc Thiên, các sĩ phu nước ta rất hâm mộ
và đă diễn ra quốc âm, nhưng v́ lời văn dài mà ngôn ngữ lại có phần mới
nên đôi khi vẫn gặp những chỗ khó dịch và người dịch thường giữ lấy ư
chính mà lại bỏ qua nhiều chi tiết trong nguyên bản. Khi dịch một bài
văn nếu chỉ chú ư về mặt kỹ xảo (cầu công) mà không bám sát nội dung của
nguyên tác th́ có khác ǵ “găi không đúng chỗ ngứa” và thử hỏi như vậy
đă phải là người hiểu được thi sĩ họ Bạch chưa?
Khi tôi tiếp xúc với bài diễn âm của cựu Bộ trưởng Xuân Khanh họ Phan,
tiên sinh bảo: Đó là bài tôi dịch ra đấy. Khi xem tôi thấy lời dịch bám
sát nội dung, từng chữ từng câu răm rắp không sai mà âm vận th́ lại vừa
khoan thai vừa hùng tráng. Tôi đă ngâm nga, đọc đi đọc lại nhiều lần và
rất lấy làm tâm đắc tưởng như đang được tiếp xúc với thi nhân cự phách
đời Đường - người đang bị biếm trích ở đất Giang Châu trước cảnh thê
lương của hơi thu và lau lách đ́u hiu để tạo nên một thiên tuyệt bút,
như đang được chứng kiến cảnh:
B́nh bạc vỡ tuôn đầy mặt nước
Ngựa sắt dong sàn sạt tiếng đao (1)
Tiên sinh đă diễn ra quốc âm trong lúc chưa gặp vận c̣n đang phải ẩn náu
nơi sơn dă, chẳng khác cảnh sông Bồn và đă mượn chén rượu của người khác
để giải nỗi sầu riêng, nếu không phải là người có thiên tư và chịu ảnh
hưởng truyền thống học vấn của gia đ́nh th́ làm sao mà có được? Tiên
sinh vốn sở trường về văn chương, thanh luật, nên âm vận trong câu dịch
hài hoà toát lên cảnh phong lưu tao nhă, xứng đáng cùng với Lạc Thiên là
những bậc hào hoa một thủa. Có những chỗ Lạc Thiên chưa diễn đạt hết th́
tiên sinh lại dùng thanh âm mà giăi bày một cách tường tận.
Tôi thô vụng và quê mùa, không biết được nhiều, nhưng bề trên đă bảo,
tôi không dám từ nan, bèn mạo muội viết ra lời bạt này và nếu như tác
phẩm của tiên sinh nổi tiếng th́ tôi cũng được thơm lây và cũng coi như
được dự buổi tiễn đưa trong đêm trăng trên bến Tầm Dương để được cùng
chia sẻ nỗi niềm u hoài của kẻ cô thần khoáng phụ, như thế c̣n ǵ sung
sướng cho hơn, chắc tiên sinh cũng không cười tôi là kẻ ngông cuồng và
Bạch Lạc Thiên cũng sẽ thông cảm cho tôi.
Trung tuần tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 12 (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến
sĩ H́nh bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn
bạt.
Qua lời bạt ta thấy Hà Tông Quyền đánh giá rất cao bài dịch của Phan Huy
Thực. Trước Phan Huy Thực cũng đă có người dịch Tỳ bà hành. Trên tạp chí
Văn học số 4/1975, Trần Thị Băng Thanh cho biết đă t́m được một bản dịch
chép trong cuốn Thạch Động tiên sinh thi tập. Sau Phan Huy Thực, Phan
Văn Ái cũng dịch Tỳ bà hành thành hai bài: một bài theo thể thất ngôn
trường thiên, một bài theo thể thất ngôn bát cú. Trên tạp chí Nam Phong
thỉnh thoảng cũng có sưu tầm được một vài bài dịch không đề tên người
dịch. Tuy nhiên những bài xuất hiện trước và sau bản dịch của Phan Huy
Thực đều không có mấy tiếng vang và đă nhanh chóng bị quên lăng. Tỳ bà
hành được phổ biến rộng răi và xem như một di sản văn học quí giá của
Việt Nam chủ yếu là thông qua bản dịch của Phan Huy Thực. Nghệ thuật hát
ca trù tồn tại đă lâu đời và từ khi có bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy
Thực th́ nó đă lan nhanh và đă trở thành một điệu hát trữ t́nh, giàu
chất thơ, nhạc điệu, làm phong phú và bổ sung thêm cho hàng chục làn
điệu ca trù khác trong các ca quán thời xưa. Những người mê ca trù trước
đây thường thuê thuyền đón ả đào hát Tỳ bà hành trong những đêm trăng
huyền ảo để thưởng thức và làm sống lại nguồn cảm xúc của nhà thơ với
người ca nữ trên bến nước Tầm Dương.
Tỳ bà hành không những là nguồn cảm hứng cho những nhà Nho tài tử và các
bậc tao nhân mặc khách trước đây như Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh… mà
cả những thi nhân hiện đại cũng mượn trăng nước Tầm Dương đưa vào tác
phẩm của ḿnh. Nhà thơ t́nh Xuân Diệu th́ “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ
người” hoặc “Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi”, Vũ Hoàng Chương cũng than
“Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu”, nữ sĩ Ngân Giang th́ “Bến Tầm
Dương trăng nước một con thuyền, ngán t́nh ca nữ” và nhà thơ chân quê
Nguyễn Bính th́ dành Cây đàn tỳ bà cho một chuyện thơ dài.
Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một kiệt tác đă có những câu
thần bút làm say đắm bao thế hệ các nhà thơ. Xuân Diệu cũng đă phải thốt
lên: “Ai đă đọc bản dịch Tỳ bà hành quên những đoạn nào th́ quên, thậm
chí nếu quên cả bài, th́ bốn câu mở đầu cũng không quên được”.
Bốn câu mở đầu đó là:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đ́u hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Nguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét như sau khi ông so sánh mấy câu trên đây
với câu thơ của Bạch Cư Dị:
Mới đầu chúng ta thấy có cái ǵ khác nhau, mặc dù cũng bảy chữ và bản
dịch rất sát nguyên bản: “Tầm Dương giang đầu dạ tống khách” không buồn,
không vắng vẻ, không mông lung bằng “Bến Tầm Dương canh khuya đưa
khách”. Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ do chữ “dạ” dịch ra là “canh
khuya”. “Dạ” (đêm) không gợi ư nhiều bằng “canh khuya”. Tài năng của họ
Phan, tinh thần của tiếng Việt ở chỗ đó.
Đọc câu thơ thứ hai: “Phong diệp địch hoa thu sắt sắt” và câu dịch
“Quạnh hơi thu lau lách đ́u hiu” th́ câu của họ Phan làm tôi rung động
hơn nhiều nhờ những chữ “lau lách đ́u hiu”, cả chữ “quạnh”, chữ “hơi”
nữa, v́ tôi thấy “lau lách” buồn hơn “địch hoa”; “hơi thu, đ́u hiu” gợi
cảm hơn là “thu sắt sắt”.
Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một tác phẩm toàn bích, và có
lẽ cũng v́ thế mà Tản Đà tài hoa cũng không dịch lại bài này và nhà thơ
đă chọn một bài trường thiên nổi tiếng khác của Bạch Cư Dị là bài Trường
hận ca và ông cũng đă thành công.
(1) Lấy hai câu dịch của Phan Huy Thực để diễn đạt ư “ngân b́nh thiết
kỵ”.