MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt

֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Đại Kỷ Nguyên

֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports

֎ Vietnamese Commandos ֎ Video/TV ֎ Lottery

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Diễn Đàn

֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record vCBO

v US Gov vCongressional Record vPBS

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune 

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v MediaMattersvSourceIntelvFRUSvIntelnews

v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvArchive

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia

v RamussenvWikileaksvFederalistvHistory

v The Online Books vBreibart vInterceipt

v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic

v National Public Radio vForeignTrade vSlate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v ChúngTa v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v NVSeatle v CaliToday v NVR

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v

CIA và các tướng lĩnh Sài G̣n.

 

 

 

 

Kỳ 1: Vai tṛ của CIA trong cuộc chiến Việt Nam

 

LTS: Năm 2009, Cơ quan T́nh báo Trung ương Mỹ (CIA) đă cho giải mật tài liệu mang tên “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông Thomas L.Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng làm việc tại Sài G̣n từ năm 1963 đến đầu năm 1965, đúc kết từ những tài liệu mật của CIA. Tài liệu dài 243 trang này vừa được ông Trần B́nh Nam, một học giả người Việt ở nước ngoài, tóm tắt lại và phổ biến nhằm “ôn cố tri tân” về một giai đoạn lịch sử đă qua nhưng c̣n ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của mỗi người Việt trong cũng như ngoài nước. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Báo SGGP xin trích lược và giới thiệu đến bạn đọc tài liệu này như một dạng thông tin tham khảo từ phía bên kia cuộc chiến, góp phần lư giải một kết cục tất yếu - sự sụp đổ của chế độ Sài G̣n.

 

 

Người dân Việt Nam sống giữa 2 gọng thép Mỹ - ngụy. Ảnh: Tư liệu

 

Cái chết của ông Diệm

 

Trong phần nhập đề, ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa từ năm 1954 cho đến ngày 30-4-1975.

 

Ông viết rằng sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp v́ người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đ́nh Diệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đ́nh Nhu, em ruột của ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào tự vệ để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam.

 

Chương tŕnh của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần Cộng sản c̣n lại ở miền Nam trước khi rút ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Đến năm 1959, hầu hết tổ chức Cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương tŕnh bài Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa băi đụng chạm đến các thành phần không Cộng sản trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác và không có chương tŕnh nâng cao đời sống nông thôn để thu phục ḷng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn ngày càng lỏng dần.

 

Để cứu chế độ Diệm, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật giáo nổ ra tại miền Trung, Mỹ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam.

 

Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Mỹ làm cho Mỹ bất măn, đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm ngày càng sa sút, nên vào tháng 8-1963, theo đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge, Mỹ quyết định hạ bệ ông Diệm.

 

Sau khi quân đảo chính chiếm Bộ Tổng tham mưu và giết Đại tá Lê Quang Tung, người làm việc cận kề với CIA và là Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt, các tướng đảo chính kêu gọi anh em ông Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời Dinh Độc Lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó Đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng khi ông Diệm và ông Nhu bị bắt không thấy Mỹ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn Minh, người lănh đạo cuộc đảo chính đă bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp…

 

“Ḥa b́nh ló dạng”

 

T́nh h́nh chính trị tạm ổn định sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống vào tháng 9-1967 qua một bản Hiến pháp mới. Tháng 2-1968, Cộng sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam (cuộc tổng tấn công Mậu Thân).

 

Cuộc tấn công không thành công nhưng làm cho chương tŕnh b́nh định của ông Thiệu giậm chân tại chỗ, tạo một tâm lư bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới Mỹ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao buộc Tổng thống Johnson vào cuối tháng 3-1968 tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai và đề nghị thương thuyết với Hà Nội.

 

Tháng 5-1968, khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Mỹ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, Cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân 2 nhưng cũng không thành công, giúp quân đội Việt Nam Cộng ḥa và Mỹ lấy lại thế tấn công và cuối năm 1968 xem như b́nh định và kiểm soát 73% dân chúng miền Nam.

 

“Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động t́nh báo, là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương tŕnh t́nh báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” cũng không nằm ngoài quy luật đó”.

 

Tuy nhiên, t́nh h́nh này không giúp cho Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương tŕnh Việt Nam hóa chiến tranh.

 

Giữa năm 1969, Tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Đặc điểm của t́nh h́nh chiến trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Mỹ ra sức cải tiến và trang bị cho quân đội miền Nam th́ Liên Xô và Trung Quốc cũng viện trợ dồi dào cho Bắc Việt. Hai bên Nam-Bắc cố giành đất và dân chuẩn bị cho một giải pháp chính trị từ cuộc ḥa đàm Paris.

 

Mùa xuân năm 1972, Cộng sản Bắc Việt mở cuộc đại tấn công miền Nam đe dọa các tỉnh cửa ngơ dẫn vào Sài G̣n, nhưng không được như ư muốn bởi quân đội Nam Việt Nam với sự yểm trợ của không lực Mỹ.

 

Tháng 10-1972, Hà Nội tuyên bố đồng ư về một văn bản ngừng bắn và chấm dứt chiến tranh. Dựa vào đó, trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ, Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger tuyên bố “ḥa b́nh ló dạng”. Ḥa b́nh thật sự chưa ló dạng nhưng lời tuyên bố của Kissinger đă giúp Tổng thống Nixon đắc cử nhiệm kỳ 2 một cách áp đảo.

 

Sau cuộc bầu cử, Mỹ đ̣i thay đổi vài điều khoản trong bản hiệp định dự thảo. Hà Nội phản ứng bằng cách rút ra khỏi cuộc ḥa đàm nhưng sau đó đă trở lại bàn hội nghị và kư Hiệp định Paris vào tháng 1-1973. Bản hiệp định không buộc quân đội Bắc Việt rút khỏi miền Nam. Mỹ t́m cách thi hành hiệp định và giúp Nam Việt Nam tự lực. Nhưng sau đó Nixon dính vào vụ Watergate phải từ chức (tháng 8-1974), Phó Tổng thống Gerald Ford trở thành Tổng thống Mỹ.

 

Vào thời điểm này, Ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n được tin t́nh báo cho biết quân đội Bắc Việt chuẩn bị tổng tấn công vào năm 1975. Cuộc tấn công mở màn ngày 10-3-1975 tại cao nguyên miền Trung Việt Nam và kết thúc ngày 30-4-1975 khi xe tăng Bắc Việt tiến vào Sài G̣n và trực thăng của Đại sứ Mỹ rời mái nhà ṭa đại sứ trước khi trời sáng.

 

Quân số CIA tại Sài G̣n khi ông Diệm bị lật đổ gồm khoảng 200 người. Một bộ phận lo việc b́nh định và t́nh báo. Bộ phận khác lo việc tuyển mộ người làm việc cho CIA hay mở rộng sự liên hệ với các viên chức chính quyền và thành phần đối lập phi Cộng sản để thu lượm tin tức và thúc đẩy xây dựng dân chủ.

 

Khi trận Mậu Thân xảy ra, quân số CIA đă lên đến 1.000 người, trong đó có 600 nhân viên làm việc tại 4 văn pḥng CIA ở 4 vùng chiến thuật. Từ năm 1969 khi Mỹ bắt đầu kế hoạch giảm quân, nhân sự CIA giảm dần. Bốn vùng vẫn duy tŕ văn pḥng nhưng mọi công tác quan trọng đều dồn về trung tâm CIA tại Sài G̣n.

 

Nỗ lực bất thành của CIA

 

Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” nói về hoạt động của CIA trong nỗ lực không cho Hà Nội chiếm miền Nam sau khi ông Diệm bị lật đổ. Thoạt tiên Đại sứ Cabot Lodge cấm CIA liên lạc mật thiết với các ông tướng để duy tŕ tính độc lập của chính quyền miền Nam trước dư luận quốc tế.

 

Nhưng mấy tháng sau, khi thấy t́nh h́nh bất ổn (v́ các ông tướng bất lực), Đại sứ Lodge cho phép CIA làm việc chặt chẽ với các ông tướng để theo dơi và điều chỉnh t́nh h́nh đảo chính. Quan hệ đặc biệt này của CIA đối với các ông tướng làm cho CIA đóng một vai tṛ quan trọng trong các biến chuyển chính trị tại Sài G̣n, chủ yếu là ổn định chính trị, không khác ǵ ảnh hưởng CIA đă có dưới thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.

 

Vào năm 1966, CIA dùng ảnh hưởng của ḿnh để thuyết phục các ông tướng hưởng ứng chính sách của chính quyền Johnson lúc đó đang t́m cách liên lạc với các thành phần ôn ḥa của Mặt trận Giải phóng miền Nam.

 

Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 9-1967, CIA nhận được chỉ thị của Washington ủng hộ liên danh tướng Thiệu và tướng Kỳ, nhưng cần tỏ vẻ trung lập và dùng ảnh hưởng tạo ra một cuộc bầu cử dân chủ. Sau khi thắng cử, ông Thiệu loại hết những người miền Bắc thân tướng Kỳ trong chính quyền, CIA lại phải một phen vận động và tuyển mộ người miền Nam (làm việc cho CIA).

 

Sau cuộc tấn công Mậu Thân, CIA triển khai một kế hoạch thành lập những đảng chính trị có căn bản quần chúng theo mô thức của Mỹ, nhưng ông Thiệu chưa sẵn sàng xây dựng một nền tảng dân chủ cho miền Nam nên nỗ lực này không đưa đến kết quả nào.

 

Tuy nhiên, Mỹ nghĩ rằng ông Thiệu cần thiết cho sự ổn định chính trị nên Mỹ không thúc bách ông Thiệu. Từ đầu năm 1970, CIA đă có kế hoạch giúp ông Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ 2 dự trù vào cuối năm 1971 nhưng vẫn với cách thức nhằm tạo một h́nh ảnh bầu cử dân chủ.

 

Qua cuộc tấn công Mậu Thân, CIA nhận ra rằng chừng nào Nga và Trung Quốc c̣n ồ ạt giúp Hà Nội th́ chừng đó Mỹ c̣n cần cố vấn và yểm trợ không lực cho Nam Việt Nam nếu muốn Nam Việt Nam c̣n tồn tại.

 

Khi cuộc tấn công lắng xuống, ḥa đàm Paris bắt đầu, công tác chính yếu của CIA là vận động để ông Thiệu chấp thuận hướng thương thuyết của Mỹ tại Paris. Trong công tác này CIA vận dụng nhân sự đă gài trong chính quyền ông Thiệu để gây áp lực với ông Thiệu một cách hữu hiệu. Sau khi kư Hiệp định Paris, nhiệm vụ của CIA là thúc đẩy ông Thiệu thi hành hiệp định.

 

Vào cuối năm 1974, CIA biết Hà Nội sắp mở cuộc tổng tấn công vào đầu năm 1975, nhưng không có kế hoạch ǵ để ngăn chặn. Sau khi ông Thiệu ra lệnh rút quân khỏi cao nguyên miền Trung Việt Nam tạo ra sự hỗn loạn. Trước cảnh hỗn loạn tại Đà Nẵng, CIA biết rằng khó có đủ th́ giờ di tản an toàn nhân viên Mỹ, quân nhân và viên chức Nam Việt Nam ra khỏi Việt Nam, CIA đă thi hành kế hoạch tŕ hoăn bằng cách vờ thương thuyết với Hà Nội để có thời gian rút lui.

 

Đó là công tác cuối cùng của CIA trong cuộc chiến Việt Nam.

 

Kỳ 2: CIA sau đảo chính ông Diệm

 

Theo CIA, mọi nỗ lực của Mỹ đối với ông Ngô Đ́nh Diệm trong năm 1955, cũng như sau này đối với tướng Minh, tướng Khánh chỉ có kết quả kéo dài một t́nh trạng không tránh được là sụp đổ.

 

Đại sứ Cabot Lodge và “ông tướng ngây thơ”

 

Một ngày sau đảo chính, ông Bùi Diễm, một chính trị gia gốc đảng Đại Việt có nhiều quan hệ với CIA cho CIA biết các tướng đảo chính sẵn sàng nghe lời khuyến cáo của CIA trong việc xây dựng chế độ mới. Nhưng Đại sứ Cabot Lodge không muốn CIA quan hệ quá cận kề với các ông tướng.

 

Thêm nữa, mới mấy ngày đầu, giữa ṭa đại sứ Mỹ và tướng Minh đă có sự bất ḥa. Ṭa đại sứ Mỹ yêu cầu trả tự do cho ông Trần Quốc Bửu, một lănh tụ Nghiệp đoàn Lao công nhưng ông Minh không đồng ư. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, bạn của tướng Minh, can thiệp với ông Minh cũng không có kết quả.

 

Ngày 4-11-1963, do sự khẩn khoản của tướng Trần Văn Đôn, Đại sứ Lodge cho phép CIA thuyết tŕnh với tướng Minh về các chương tŕnh “mật” mà CIA đang tiến hành và CIA muốn nhân cơ hội này cố vấn tướng Minh về một số vấn đề chính trị. Nhưng Đại sứ Lodge chỉ cho phép CIA cố vấn trong lĩnh vực t́nh báo và an ninh thôi. Trưởng cơ sở tạm thời của CIA ở Sài G̣n là David Smith sau này nhớ lại việc này cho rằng sự hạn chế của Đại sứ Lodge đă làm mất một cơ hội tốt cho CIA, giúp chính quyền quân nhân đặt một nền móng chính trị cho chế độ mới.

 

Theo các báo cáo hàng ngày CIA gửi về Tổng hành dinh CIA ở Langley (bang Virginia gần thủ đô Washington D.C.) th́ sau đảo chính không khí chính trị Sài G̣n rất bấp bênh v́ thiếu lănh đạo. Tướng Dương Văn Minh có uy tín hơn các tướng khác nhưng chỉ đủ để giữ các ông tướng đảo chính và các chính trị gia ngồi làm việc với nhau. CIA miêu tả tướng Minh như một quân nhân kín đáo và “đơn giản đến độ thơ ngây về chính trị” như ông Mohammad Naguib, Tổng thống đầu tiên của Ai Cập (6-1953 - 11-1954). CIA đặt một câu hỏi giả tưởng: “Nếu tướng Minh là Naguib th́ ai sẽ là Nasser (người lật đổ ông Naguib và trở thành tổng thống thứ hai của Ai Cập) của ông Minh?”. Và câu hỏi đă trở thành sự thật.

 

Ngoài tướng Minh, CIA c̣n nhức đầu với tướng Tôn Thất Đính. Tướng Đính yêu cầu CIA cho Đại tá Gilbert Layton về nước v́ ông này là cố vấn của Đại tá Lê Quang Tung. Trong khi đó, Phó Giám đốc CIA Richard Helms ngỏ ư muốn Đại tá Lucien Conein, người liên lạc với hội đồng tướng lĩnh trong vụ đảo chính nên rời nước một thời gian nhưng David Smith cho rằng Conein c̣n cần trong nhiệm vụ liên lạc và kiềm chế các tướng lĩnh tại Sài G̣n. Ngày 5-11-1963, William Colby, người phụ trách Cục Viễn Đông tại Langley đến Sài G̣n và có nhiều cuộc tiếp xúc chính trị với các tướng lĩnh, một công việc mà Đại tá Conein không đủ kinh nghiệm để làm.

 

Qua chuyến công tác, ông Colby báo cáo về Langley rằng Đại sứ Cabot Lodge muốn chỉ huy mọi chuyện ở Sài G̣n theo ư ông. Trước đây, Đại sứ Lodge đă thuyên chuyển John Richardson, trưởng cơ sở CIA ở Sài G̣n và nay  muốn vận động để thay tướng Paul Karkins, người cầm đầu phái bộ hỗ trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV). Richardson và tướng Paul Harkins đều muốn được tự do hơn trong lĩnh vực chuyên môn của ḿnh.

 

Lúc này, tướng Khánh bất măn với các tướng đảo chính. Tướng Khánh vốn là người đầu tiên yêu cầu CIA nên sẵn sàng cho một kế hoạch đảo chính ông Diệm, nhưng sau đó CIA chọn tướng Trần Văn Đôn làm người liên lạc chính.

 

 

Đại sứ Cabot Lodge (bên phải) và tướng Dương Văn Minh. Ảnh: TƯ LIỆU

Cuộc đảo chính thanh trừng phe trung lập

 

Kể từ ngày Tổng thống Kennedy nhậm chức cho đến khi bị ám sát tại Dallas (22-11-1963), lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam tăng từ 875 người lên đến 16.000 người. Nhân viên dân sự, kể cả nhân viên CIA, cũng tăng theo đà tăng quân số nhưng đă không làm cho t́nh h́nh miền Nam sáng sủa hơn. Tổng thống Johnson thay Kennedy cương quyết giải quyết t́nh trạng bế tắc. Cuối tháng 12-1963, ông gửi một phái đoàn gồm Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara và Giám đốc Trung ương t́nh báo John A.McCone đến Sài G̣n. Tổng thống Johnson yêu cầu John McCone bổ nhiệm một nhân vật đủ trọng lượng để thay trưởng cơ sở CIA tại Sài G̣n John Richardson (đă rời Sài G̣n và Phó cơ sở David Smith tạm thời thay thế). John McCone chọn Peer de Silva. Trước khi Peer de Silva rời Washington đi Sài G̣n nhậm chức, Tổng thống Johnson mời ông này đến Nhà Trắng vào phút chót dặn ḍ rằng đừng quên năm tới (1964) là năm bầu cử tổng thống Mỹ. Tổng thống Johnson không muốn thấy ṭa đại sứ và cơ sở t́nh báo cứ chống lại nhau như giữa Lodge và Richardson. Ngày 7-12-1963, Tổng thống Johnson điện cho Đại sứ Lodge rằng ông muốn thấy một mối quan hệ làm việc tốt đẹp giữa đại sứ và tân trưởng cơ sở.

 

Ngày 18-12-1963, phái đoàn McNamara đến Sài G̣n. CIA báo cáo Hội đồng quân nhân bất lực v́ chia rẽ và tham nhũng và lực lượng Cộng sản mạnh hơn trước. McCone kết luận rằng t́nh h́nh sống c̣n của miền Nam rất mong manh và những ǵ được báo cáo về Washington những năm trước đây đều xa với sự thật.

 

Trước t́nh h́nh đó, các tướng vẫn không ngừng chia rẽ và hất cẳng nhau. Giữa tháng 12-1963, tướng Dương Văn Minh thuyên chuyển tướng Nguyễn Khánh ra Vùng I chiến thuật ở Đà Nẵng. Đầu tháng 1-1964 tướng Minh tự phong làm Tổng tư lệnh quân đội. Hai tuần sau, CIA nhận được một báo cáo của Chỉ huy trưởng Lực lượng đặc biệt (người thay Đại tá Lê Quang Tung) rằng tướng Trần Văn Đôn có thảo luận giải pháp trung lập hóa miền Nam Việt Nam với một giới chức người Pháp đang thăm viếng Sài G̣n. Trước tin này, CIA không có động tĩnh ǵ v́ vắng hai nhân vật chính yếu là Al Spera, nhân viên CIA liên lạc với tướng Khánh (và đă được tướng Khánh cho biết dự định đảo chính) và Lucien Conein. Al Spera bị đổi về Mỹ v́ tính t́nh nóng nảy khó làm việc với người khác. C̣n Lucien Conein th́ được bộ Ngoại giao triệu về Washington để tham khảo. Conein đề nghị nên phái cho mỗi vị tướng đảo chính một cố vấn Mỹ làm việc trực tiếp dưới quyền đại sứ Mỹ. Đại sứ Lodge bác bỏ ư kiến này.

 

Khi Peer de Silva đến Sài G̣n, tướng Khánh muốn gặp để thông báo tin tức mà ông có về vụ các tướng âm mưu trung lập hóa miền Nam nhưng Peer de Silva chần chừ chưa muốn gặp. Tướng Khánh bèn chuyển tin cho một người quen cũ là Đại tá Jasper Wilson thuộc phái bộ MACV rằng Chính phủ Pháp đang vận động trung lập miền Nam qua tướng Mai Hữu Xuân, vốn là một nhân vật t́nh báo của Pháp. Cùng với các nguồn tin khác, Peer de Silva báo cáo âm mưu trung lập về Washington. Ngày 29-1, tướng Khánh cho Đại tá Wilson biết thêm rằng ngoài tướng Mai Hữu Xuân, hai tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim cũng theo phe trung lập và tướng Khánh cho biết sẽ dùng vũ lực để bẻ găy âm mưu này. Đại sứ Lodge (khi được Đại tá Wilson báo cáo) điện tin này về Washington và thông báo ngay cho tướng Harkins. Riêng Peer de Silva chỉ được thông báo sau khi CIA vặn hỏi ṭa đại sứ mục đích của tướng Khánh khi gặp đại tá Wilson.

 

Vào lúc 3 giờ 15 sáng 30-1-1964, Đại tá Wilson từ bộ chỉ huy Lữ đoàn Dù thông báo với ṭa đại sứ rằng tướng Khánh cùng tướng Trần Thiện Khiêm sẽ làm đảo chính trong ṿng vài giờ nữa để loại các tướng trung lập ra khỏi thành phần chính phủ, và rằng tướng Minh đă được thông báo và đồng ư. Cuộc đảo chính (gọi là chỉnh lư) đă diễn ra như dự tính (của tướng Khánh và CIA). Năm tướng trung lập Xuân, Kim, Đôn, Đính và Nguyễn Văn Vỹ bị bắt và được quản thúc tại gia ở Đà Lạt. Tướng Minh tạm thời được giữ lại ở chức vụ tổng thống.

 

Thất vọng

 

Sau chỉnh lư không lâu, CIA nhận ra rằng tướng Khánh không có khả năng huy động quân đội và quần chúng đoàn kết lại để ngăn chặn Cộng sản, do đó CIA chuyển nỗ lực qua việc tuyển mộ và làm quen với các sĩ quan hay nhân viên dân sự cấp dưới - những người không tuyệt đối trung thành với Khánh để chuẩn bị thế hành động về sau. Một trong những sĩ quan đó là Đại tá Không quân Nguyễn Cao Kỳ, vừa mới nhận chức Tư lệnh Không quân. CIA miêu tả Kỳ là một sĩ quan thích “bề ngoài” nhưng có khả năng lôi cuốn quần chúng. Tháng 2-1964, Kỳ nói với Russ Miller - một nhân vật CIA đang ở thăm Sài G̣n rằng các sĩ quan trẻ cần được giao các chức vụ chỉ huy xứng đáng, nếu không chế độ của tướng Khánh cũng sẽ có cùng số phận như chế độ Dương Văn Minh!

 

Người khác là tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tham mưu trưởng liên quân. Thiệu là người kín đáo, âm thầm bổ nhiệm các sĩ quan gốc Đại Việt vào các chức vụ quan trọng và giải thích với David Smith rằng các sĩ quan này có kinh nghiệm và khả năng phá hủy tổ chức của Cộng sản. Nhưng CIA biết rằng tướng Thiệu muốn dùng các sĩ quan Đại Việt để âm mưu lật ông Khánh.

 

Như từng làm đối với tướng Minh, Peer de Silva thuyết tŕnh cho tướng Khánh các chương tŕnh của CIA về b́nh định và t́nh báo. Khánh đồng ư với chương tŕnh b́nh định và ủy nhiệm Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) làm việc với CIA về chương tŕnh b́nh định. Ông Nguyễn Tôn Hoàn có những quan hệ đặc biệt với CIA từ giữa thập niên 50. Peer de Silva cho Khánh biết CIA cũng đang làm việc với các chính trị gia đối lập không Cộng sản và khuyên tướng Khánh không nên lo ngại ǵ v́ mục đích của CIA là nắm bắt không khí chính trị tại Sài G̣n. Cũng do yêu cầu của tướng Khánh, CIA huấn luyện toán vệ sĩ bảo vệ tướng Khánh.

 

Theo đánh giá của CIA, tướng Khánh thông minh, năng động và có tài tổ chức, nhưng ông không làm được việc ǵ v́ một phần do không khí chia rẽ tại Sài G̣n, một phần v́ “cái tôi” của ông quá lớn. Trong bối cảnh đó, tướng Khánh - cũng như ông Diệm và ông Minh - chỉ biết trông cậy vào sự ủng hộ của người Mỹ…

 

Câu hỏi đối với CIA là: Giúp tướng Minh, rồi giúp tướng Khánh, Mỹ có làm cho các tướng đoàn kết với nhau và có huy động được sự ủng hộ của quần chúng miền Nam trong công cuộc chống Cộng không? Câu trả lời h́nh như là “không”. Theo CIA, mọi nỗ lực của Mỹ đối với ông Ngô Đ́nh Diệm trong năm 1955, cũng như sau này đối với tướng Minh, tướng Khánh chỉ có kết quả kéo dài một t́nh trạng không tránh được là sụp đổ.

 

Kỳ 3: “Ngôi sao” Thiệu - Kỳ xuất hiện

 

Nguyễn Khánh, sau một thời gian lên nắm quyền, tỏ ra không mấy hiệu quả, trong khi nội bộ lại chia rẽ. CIA chán Khánh và bắt đầu cho một cuộc lật đổ…

 

Thành lập “tam đầu chế”

 

Tháng 6-1964, đại sứ Cabot Lodge về Mỹ tham gia cuộc vận động tranh cử tổng thống cho ứng cử viên Barry Goldwater. Tổng thống Johnson bổ nhiệm Đại tướng Maxwell Taylor thay thế. Maxwell Taylor nổi tiếng là một viên tướng tài, từng chiến đấu trong Thế chiến 2, từng là Tham mưu trưởng liên quân và cố vấn quân sự của cố Tổng thống Kennedy.

 

Đến Sài G̣n, tướng Maxwell mở cuộc tiếp xúc với thành phần quân - dân - chính nhưng với tác phong huynh trưởng tự cao tự đại ông đă làm mất ḷng các tướng lĩnh Việt Nam, buộc CIA phải làm trung gian ḥa giải - một điều cần thiết nhưng đại sứ Maxwell Taylor không muốn CIA làm.

 

Cuộc tranh cử tại Mỹ làm cho quan hệ giữa tướng Khánh và Maxwell Taylor trở nên nặng nề hơn. Vào tháng 5-1964, Khánh thuyết phục McNamara oanh tạc miền Bắc để gỡ áp lực Cộng sản đang đè nặng các tỉnh địa đầu Nam Việt Nam. Các chiến lược gia Mỹ cũng có tính toán như vậy nhưng chưa quyết định dứt khoát nên Washington khuyên tướng Khánh không nên tuyên bố ǵ v́ Đảng Dân chủ đang tố cáo ông Barry Goldwater muốn mở rộng chiến tranh. Nhưng ngày 19-7-1964, Khánh kêu gọi “Bắc tiến”, và sau đó Kỳ nói đă đến lúc dội bom Bắc Việt. Maxwell Taylor nổi giận th́ Khánh bảo đó là ư của Mỹ chứ không phải ư kiến cá nhân của ông.

 

Số phận của tướng Minh là một nguồn bất ḥa khác giữa ṭa đại sứ Mỹ và Khánh. Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk muốn Khánh dùng uy tín của Minh và khối Phật giáo đang ủng hộ tướng Minh cho nỗ lực chiến tranh, trong khi các sĩ quan Công giáo trong quân đội muốn đẩy Minh ra khỏi chức vụ quốc trưởng dù chỉ là một chức hờ.

 

Tháng 8-1964, do t́nh h́nh xấu đi và (có thể) do nhu cầu tranh cử…, Tổng thống Johnson ra lệnh oanh tạc các căn cứ tàu chiến nhỏ của Bắc Việt. Ngày 7-8, Quốc hội thông qua quyết nghị vịnh Bắc bộ cho phép Tổng thống Johnson rộng tay sử dụng sức mạnh quân sự.

 

Lợi dụng t́nh h́nh, ngày 16-8, các tướng họp mặt tại Vũng Tàu (không có tướng Minh tham dự) và do đề nghị của Kỳ, biểu quyết cách chức Dương Văn Minh, cử Khánh làm Quốc trưởng, và công bố Hiến chương Vũng Tàu.

 

Các thành phần Phật giáo và Công giáo đều xuống đường phản đối (CIA nghi có bàn tay bên trong của tướng Trần Thiện Khiêm) buộc Khánh hủy bỏ Hiến chương, thành lập “tam đầu chế” gồm Khánh – Minh - Khiêm do Khánh cầm đầu để lănh đạo Nam Việt Nam và hứa sẽ thành lập chính phủ dân sự trong ṿng 60 ngày. 

 

Tướng Nguyễn Cao Kỳ (bên trái) và Nguyễn Văn Thiệu (đứng) trong một buổi họp báo.

 

Chia rẽ

 

Thời gian này, trong quân đội có hai tụ điểm quyền lực chống nhau quyết liệt, một do đa số người gốc miền Bắc và một do các thành phần thuộc Đảng Đại Việt. Tướng Khánh ở trong nhóm thứ nhất ra sức đẩy các thành phần Đại Việt ra khỏi chính phủ; trong khi nhóm Đại Việt tính toán đảo chính Khánh. CIA bắt đầu chán Khánh v́ quân đội chia rẽ và sự bất ḥa gia tăng giữa tướng Khánh và đại sứ Maxwell Taylor. Một hôm Khánh mời Lucien Conein lên Đà Lạt để than phiền về đại sứ Taylor và yêu cầu Conein tŕnh lại cho đại sứ Taylor. Conein bàn với Peer de Silva và Silva đồng ư nên cho đại sứ Taylor biết. Sau khi nghe Conein thuật lại, đại sứ Taylor nén giận và hỏi Conein “có hiểu tiếng Pháp không?” (Tướng Khánh và Conein dùng tiếng Pháp). Mấy hôm sau vào ngày 2-9, đại sứ Taylor nói với Peer de Silva rằng ông nghĩ Conein không có việc ǵ phải làm ở Sài G̣n nữa.

 

Ngày 11-9, tướng Khánh cho Peer de Silva biết, ông có nhận được một lá thư của Thượng tọa Thích Trí Quang, lănh tụ khối Phật giáo Ấn Quang hứa ủng hộ, nhưng Khánh nói ông không tin vào lời hứa này. Trong khi đó có nguồn tin cho CIA hay các sĩ quan Đại Việt sắp hành động chống tướng Khánh. Trong khi đó, tướng Khánh đang cùng Tướng Kỳ và Phạm Ngọc Thảo tính toán kế hoạch thanh trừng nhóm Đại Việt.

 

Ngày 13-9, một nhóm sĩ quan Công giáo miền Nam và Đại Việt cùng Chuẩn tướng Nguyễn Văn Thiệu chuyển quân về Sài G̣n định đảo chính tướng Khánh nhưng bất thành do sự can thiệp của Tướng Kỳ - Tư lệnh Không quân. Tướng Khánh nhân cơ hội này loại trừ các sĩ quan Đại Việt ra khỏi các chức vụ quan trọng.

 

Ỷ vào công trạng, Kỳ tuyên bố tùy tiện làm CIA rất lo âu. Mặc dù Kỳ là người chủ trương dội bom miền Bắc, đường dây của CIA báo cáo rằng Kỳ có thể bỏ trốn ra Hà Nội. Tổng hành dinh CIA ở Langley yêu cầu CIA Sài G̣n tích cực điều tra xem thật sự Kỳ đang suy tính ǵ. CIA Sài G̣n đánh giá Kỳ là một người tầm thường, không có tham vọng chính trị. Ông ta chỉ là người ưa nổi tiếng và cho rằng ḿnh có vị thế tạo ra người lănh đạo. Cũng theo CIA, ông Kỳ đôi khi hành động bốc đồng vô trách nhiệm, thiếu thông minh và không làm người khác kính nể. CIA suy tính nên cho Russ Miller (một nhân viên CIA thân thiết với Kỳ và Khánh) trở lại Sài G̣n làm việc với Kỳ.

 

Cuối tháng 9-1964 Miller đến Sài G̣n công tác. Gặp Kỳ (lúc này tự coi ḿnh như đại diện cho nhóm tướng trẻ) và tướng Cao Văn Viên, Tham mưu trưởng Liên quân, Kỳ xác nhận vẫn ủng hộ Khánh. Riêng Tướng Viên nhận xét với Miller rằng “cuộc chiến này chỉ có thể thắng nếu các tướng miền Nam có thêm uy tín chính trị”.

 

Ngày 3-10, William Colby, Giám đốc Vụ Viễn Đông của Langley đến Sài G̣n t́m hiểu t́nh h́nh. Khánh than phiền CIA đă thuyên chuyển những người thân tín của ông như Spera và Conein ra khỏi Sài G̣n trước cuộc binh biến 13-9 là có hậu ư. Ông Colby giải thích rằng Spera và Conein đă “hết công tác” tại Việt Nam và hứa sẽ chuyển người thân tín khác với Khánh là Miller đến Sài G̣n. Ông Colby báo cáo về Langley rằng cần phục hồi quan hệ giữa hai chính phủ Việt Nam Cộng ḥa và Mỹ v́ sự bất ḥa giữa đại sứ Taylor với Khánh vào cuối tháng 9-1964 quá căng thẳng và “không phải không có lư do”, ám chỉ thái độ kênh kiệu của đại sứ Maxwell Taylor cũng là nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng này. T́nh h́nh xáo trộn nội bộ phía các tướng Việt Nam làm cho CIA thiếu cảnh giác đối với tướng Trần Thiện Khiêm.

 

Khiêm là người liên lạc chính yếu của Miller và có một vai tṛ quan trọng và khó hiểu trong Chính quyền Khánh. Khiêm là Bộ trưởng Quốc pḥng của Khánh nhưng người ta nghi ông này đă xúi giục cuộc biểu t́nh chống Khánh hồi mùa hè 1964. Tháng 8-1964, Khiêm trở thành một trong “tam đầu chế”. Tháng 10-1964, Khánh sắp xếp thành công việc gửi Khiêm đi công tác Tây Đức. Trong buổi làm việc cuối cùng với Russ Miller, Khiêm than phiền Khánh quá nhượng bộ phe Phật giáo và v́ chưa có bằng chứng ǵ rơ ràng cho thấy phe Phật giáo đang chủ trương trung lập và chống Mỹ nên ông ta chưa đảo chính ông Khánh.

 

Nguyễn Khánh hết vai tṛ

 

Như đă hứa về việc thành lập chính phủ dân sự, tháng 10-1964, Khánh mời ông Trần Văn Hương làm thủ tướng. Riêng Khánh vẫn giữ chức tư lệnh quân đội, đồng thời “nói ra nói vào” để làm suy giảm uy tín của Tướng Minh đối với Mỹ. Trong khi đó, Russ Miller theo sát sự chuyển biến động thái của Kỳ. Kỳ bắt đầu ư thức về các vấn đề chính trị và nói với Miller là ông ngại rằng sau cuộc bầu cử tổng thống, Mỹ sẽ không giúp Nam Việt Nam nữa. Lúc này Kỳ nghiễm nhiên là lănh tụ của nhóm tướng trẻ và CIA đánh giá là người có quyền lực nhất tại Sài G̣n.

 

Rạng sáng ngày 20-12-1964, Khánh gọi Miller và thông báo ông sắp công bố quyết định giải tán Hội đồng Quốc gia Tối cao (thành lập hai tháng trước để khoác một chiếc áo dân sự lên chính quyền quân nhân) v́ hội đồng này không đồng ư với các tướng trẻ về việc cho các tướng già - trong đó có Dương Văn Minh – nghỉ hưu. Trước đây đại sứ Taylor đă khuyên Khánh không nên ép tướng Minh nghỉ hưu, nên Taylor hết sức bất b́nh. Taylor mời 4 tướng trẻ có liên quan trong nội vụ (gồm Khánh, Khiêm, Thiệu, Kỳ) đến ṭa đại sứ than phiền các tướng làm hỏng nỗ lực giúp đỡ Việt Nam của Mỹ. Khánh không tới và Maxwell Taylor đích thân đến Bộ Tổng Tham mưu gặp Khánh và tuyên bố thẳng thừng rằng Khánh không c̣n nhận được sự ủng hộ của Mỹ nữa. Khánh nói (nếu vậy) ông sẽ từ chức và đại sứ Taylor nói ông không thấy có vấn đề ǵ.

 

Nhưng măi không thấy Khánh từ chức. Ngày 22-12, đại sứ Taylor phái Miller xuống Vũng Tàu gặp Khánh để hỏi Khánh tính sao. Khánh nói Khánh sẽ từ chức để duy tŕ nỗ lực chiến tranh và yêu cầu Miller nên sắp xếp để Bộ trưởng McNamara và Giám đốc CIA McCone đến thăm Việt Nam cho biết t́nh h́nh. Khánh nói rằng ông ta hay các tướng trẻ có thể sẽ họp báo tố cáo đại sứ Taylor can thiệp vào công việc nội bộ và dọa rằng cuộc họp báo có thể đưa đến các cuộc biểu t́nh chống Mỹ tại Sài G̣n.

 

Cuộc họp báo không xảy ra, nhưng các tướng trẻ bắt đầu vận động Washington thuyên chuyển đại sứ Maxwell Taylor, đồng thời cũng gây áp lực đẩy Khánh đi để duy tŕ sự viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ. Tháng 1-1965, Khánh lập chính phủ dân sự với ông Phan Huy Quát (Đảng Đại Việt) làm thủ tướng. Đa số các bộ do các chuyên viên dân sự nắm giữ, ngoại trừ tướng Thiệu giữ chức Bộ trưởng Quân lực kiêm Phó Thủ tướng sau khi được thăng Thiếu tướng, và Kỳ giữ Bộ Thanh niên - Thể thao kiêm Tư lệnh Không quân.

 

Ngày 3-2-1965, Kỳ nói với Miller rằng các tướng trẻ không c̣n ủng hộ Khánh và đă đến lúc Khánh phải ra đi. Ngày 5-2-1965, khi Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy đến Sài G̣n chuẩn bị một đợt tăng quân th́ Cộng sản cho đánh bom một căn cứ không quân Mỹ tại Pleiku làm 8 quân nhân thiệt mạng. Mỹ trả đũa bằng một đợt dội bom Bắc Việt. Hai tuần sau, ngày 19-2, một cuộc đảo chính để lật Khánh xảy ra nhưng không bắt được Khánh. Vụ đảo chính này do các sĩ quan Đại Việt và Công giáo trong đó có tướng Lâm Văn Phát (giống như thành phần chủ chốt cuộc đảo chính tháng 9-1964) tiến hành. Cuộc đảo chính bất thành v́ không được các tướng trẻ ủng hộ. Ngày 21-2, Kỳ nói với Miller rằng cần để cho Khánh tự nguyện từ chức hơn là lật ông ta.

 

Kỳ 5

Mỹ t́m đường rút lui

 

Giữa năm 1966, khi Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến, CIA lại liên hệ với các ông tướng trong việc hỗ trợ vận động. Qua yêu cầu của Tướng Nguyễn Ngọc Loan – Giám đốc Cảnh sát quốc gia và An ninh quân đội, với sự đồng ư của Đại sứ Lodge, ngày 25-8, CIA cấp cho Loan 10 triệu đồng (tương đương 85.000 USD) để bù vào ngân khoản của cảnh sát mà Loan đă dùng để hỗ trợ cuộc vận động tranh cử của các ứng cử viên thân Kỳ. Sau đó, John Hart đến Sài G̣n thay cho Gordon Jorgensen làm Trưởng cơ sở CIA Sài G̣n.

 

Vai tṛ của Nguyễn Ngọc Loan

John Hart muốn làm việc chặt chẽ hơn với các ông tướng và giữa tháng 11-1966 đă yêu cầu Langley cấp 14 triệu đồng cho Nguyễn Ngọc Loan để củng cố vị trí của Kỳ. Loan nói Kỳ cần số tiền này để tránh sự chỉ trích của các tướng trong Hội đồng lănh đạo quốc gia rằng Kỳ đă dùng quỹ đen của văn pḥng thủ tướng cho mục tiêu chính trị, và sự chỉ trích này đang đe dọa vị trí của Kỳ.

 

Langley không chấp thuận đề nghị của John Hart v́ nghi ngờ Loan và đề nghị thay thế Loan. Số tiền 10 triệu đồng đă giúp Loan chỉ làm cho Kỳ bớt lúng túng (trước sự nḥm ngó của Hội đồng Lănh đạo) nhưng đă không giúp ích ǵ vào kết quả cuộc bầu cử. Hai ứng cử viên thân Kỳ tại Đà Nẵng đều thất cử.

 

Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một sĩ quan quyền biến và tuyệt đối trung thành với Kỳ nhưng Loan có tính độc lập và đôi khi có tác phong rất “hề” như đi làm mặc đồ ra trận, chân đi dép cao su và không bao giờ đúng hẹn. Đặc biệt là coi thường quyền cá nhân của người khác và xem thường các chương tŕnh của chính phủ để thu phục ḷng dân.

 

Khi Langley tính thay thế Loan, CIA và ṭa đại sứ Mỹ đứng trước một vấn đề nan giải là ai có khả năng thay Loan. Hart nói rằng nếu Mỹ muốn ủng hộ Kỳ th́ không thể thay thế Loan. Loan đă chứng tỏ rất hữu ích trong hai nỗ lực của CIA năm 1967 là: Phát triển một đường dây tiếp xúc với thành phần Mặt trận giải phóng (MTGP) có khả năng độc lập với Hà Nội và duy tŕ sự ổn định của chính phủ Kỳ.

 

Mỹ có ư t́m một giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam từ mùa xuân năm 1966 khi John Hart đến Sài G̣n thay thế Peer de Silva. Hart cho mở một pḥng (gọi là VietCong Branch) chuyên lo việc t́m đường dây tiếp xúc với MTGP không qua các thông tin từ phía Việt Nam Cộng ḥa. Đến cuối năm 1966, văn pḥng này đă mở được vài đường dây.

 

Tại Washington, từ đầu năm 1966, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara đă nghĩ đến việc cuộc chiến không thể thắng bằng quân sự và Tổng thống Johnson đă có khuynh hướng t́m một giải pháp chính trị khi bổ nhiệm Đại sứ W.Arerell Harriman làm đại sứ ḥa b́nh.

 

Ngày 1-4-1967, Quốc hội Lập hiến thông qua bản hiến pháp và dự trù bầu tổng thống vào mùa thu. Ngày 1-5-1967, Đại sứ Ellworth Bunker đến Sài G̣n thay Lodge. Ông Bunker tích cực can thiệp vào cuộc bầu cử mà CIA đă chuẩn bị sân chơi từ tháng 2-1967 khi yêu cầu Kỳ thành lập một mặt trận đoàn kết quốc gia để chuẩn bị ra ứng cử tổng thống. Tướng Westmoreland và Đại sứ Bunker có ư ủng hộ Thiệu. Trong khi đó, Washington muốn Mỹ giữ thái độ trung lập giữa Thiệu và Kỳ.

 

Tháng 3-1967, một nhà xuất bản Mỹ đề nghị xuất bản một cuốn sách cho Kỳ. CIA muốn nhân dịp này yêu cầu Kỳ công khai xác định lập trường hợp tác với Mỹ, đồng thời (để tăng uy tín của Kỳ) đề nghị Kỳ tuyên bố tặng tiền bán sách cho các cơ sở từ thiện. Dự tính này bị rơi vào quên lăng. Ngày 12-5, Kỳ tuyên bố ra ứng cử tổng thống.

 

Lính Mỹ tại Việt Nam.

 

Tháng 5-1967 Loan đi Mỹ và công khai nói rằng tại sao Kỳ không thể dùng bộ máy chính quyền trong tay để vận động tranh cử. Phó Giám đốc CIA Richard Helm và Giám đốc Cục Viễn Đông của CIA William Colby lạnh nhạt trước ư kiến này và lưu ư Loan nên để tâm đến việc tiếp xúc với MTGP miền Nam Việt Nam. Loan không phản đối và đề nghị CIA cứ làm việc đó với đường dây riêng của ḿnh.

 

Việc Loan muốn dùng uy thế chính phủ để vận động cho Kỳ, trong khi ṭa đại sứ Mỹ muốn giữ thế trung lập giữa Thiệu và Kỳ buộc Đại sứ Bunker t́m cách vận động cách chức Loan. Nhưng Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ muốn dùng Kỳ bảo Loan không nên làm quá trớn.

 

Miller gặp Kỳ ngày 21-6 để gây áp lực. Kỳ hứa sẽ nói với Loan và sẽ chuyển chức vụ Giám đốc An ninh quân đội (của Loan) cho người khác. Trước đó, Miller đă dùng hai đàn em thân tín của Kỳ (làm việc cho CIA) đề nghị Kỳ nên triệu tập các tỉnh trưởng và quận trưởng toàn quốc về họp và chỉ thị không được dùng uy thế chính quyền để ủng hộ Kỳ. Việc này nhằm chứng tỏ Kỳ không lạm dụng quyền lực. Trong buổi gặp này, Kỳ nói với Miller rằng Kỳ có sáng kiến sẽ triệu tập các tỉnh, quận trưởng cũng với mục đích như vậy. Miller biết “sáng kiến” này đến từ đâu!

 

Đại sứ Bunker hài ḷng với cách thức gián tiếp “thuyết phục Kỳ” như vậy để thực hiện bề ngoài trung lập theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao.

 

Nội các Thiệu – Kỳ.

 

Thiệu – Kỳ đắc cử

 

Nhưng một chuyển biến bất ngờ xảy ra. Hội đồng Tướng lĩnh Sài G̣n ngày 30-8-1967 tuyên bố đă ép Kỳ đứng phó cho liên danh Thiệu – Kỳ để tránh chia rẽ trong quân đội. Kỳ giải thích quyết định này một cách riêng tư rằng ông làm vậy v́ “quyền lợi quốc gia” và ông Thiệu đồng ư sau khi đắc cử, mọi quyền hành đều giao cho Kỳ (như Kỳ là tổng thống) và Thiệu chỉ là tổng thống bù nh́n.

 

Ngoài liên danh Thiệu – Kỳ c̣n có nhiều liên danh dân sự trong đó có liên danh của ông Trần Văn Hương là nổi bật nhất. Mỹ không muốn thấy một tổng thống dân sự nhưng vẫn tỏ ra trung lập giữa hai ứng cử viên Thiệu và Hương.

 

Ngày 21-6, Kỳ gặp Miller và đề nghị cử Nguyễn Xuân Phong, một nhân vật thân CIA và là một viên chức trong bộ máy tranh cử của liên danh Thiệu – Kỳ làm trung gian giữa liên danh Thiệu – Kỳ với CIA. Phong có nhiệm vụ thông báo cho Miller mọi kế hoạch tranh cử của liên danh và nhận đề nghị của Miller.

 

Ngày 20-7, Phong báo cáo với Miller rằng Thiệu sẵn sàng đóng vai tṛ phụ sau khi đắc cử như Kỳ đă nói trước đây. Qua Phong, trong tháng 7-1967, Kỳ nhận của Mỹ 5 triệu đồng để tổ chức một mặt trận tôn giáo và chính trị ủng hộ liên danh quân nhân.

 

Dù hỗ trợ như vậy, CIA vẫn lo ngại liên danh Thiệu – Kỳ có thể thất cử nên đồng ư với đề nghị của Phong để cho Loan dùng cảnh sát công an “vận động” phiếu cho Thiệu – Kỳ trong những vùng Thiệu – Kỳ có khả năng không có phiếu.

 

Ngày 26-7, Miller chuyển cho Phong một cương lĩnh vận động tranh cử (sau khi Đại sứ Bunker đă duyệt) gồm hứa tăng lương cho quân nhân và công chức, chống tham nhũng và phát triển đời sống vùng nông thôn. Kỳ đồng ư và h́nh như không thông báo ǵ cho Thiệu. Kỳ yêu cầu Mỹ hỗ trợ thêm tiền và dọa rằng nếu Mỹ không giúp, Kỳ phải dùng Loan “mượn tiền” một số người.

 

Dù vậy, Mỹ vẫn không giúp thêm và vài ngày sau Phong cho Miller biết Kỳ đă giải tỏa 8 triệu đồng cho bộ máy tranh cử trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tiền đâu ra? CIA thắc mắc th́ Phong cho biết tiền do Loan xoay. Đại sứ Bunker c̣n một đề nghị sau cùng là Kỳ từ chức thủ tướng 2 tuần trước ngày bầu cử nhưng Kỳ thẳng thừng gạt bỏ ư kiến của Bunker.

 

Giữa tháng 8-1967, liên danh Trần Văn Hương yêu cầu Mỹ hỗ trợ tài chính tranh cử. Đă giúp liên danh Thiệu – Kỳ, Đại sứ Bunker muốn giúp Hương để giữ thế trung lập nhưng Washington không thuận.

 

Một điều đáng ghi nhận là trong cuộc tranh cử, Thiệu âm thầm để Kỳ và Loan tự do làm việc với ṭa đại sứ Mỹ qua trung gian Nguyễn Xuân Phong.

 

Ngày 3-9-1967, Thiệu – Kỳ thắng cử với 35% số phiếu bầu, một kết quả quá khiêm nhường so với ưu thế của liên danh quân đội. CIA cho rằng có lẽ nhân viên các cấp bỏ tiền vận động vào túi thay v́ dùng để vận động. Sau cuộc bầu cử, người ta thấy Thiệu không im lặng như trước bầu cử và không đóng vai tṛ phụ cho Kỳ như mọi người tưởng. Mỹ lo ngại sự thể này có thể làm Kỳ từ chức Phó Tổng thống hay tệ hơn là công khai cạnh tranh với Thiệu gây tổn hại đến tinh thần quân đội và nỗ lực chiến tranh.

 

Đụng chạm đầu tiên: Đài truyền h́nh NBC muốn phỏng vấn Thiệu và Kỳ trong chương tŕnh “Meet The Press”. Thiệu nói với NBC chỉ cần phỏng vấn tổng thống là đủ. Kỳ nổi giận và Miller phải t́m cách khuyên Kỳ kiềm chế.

 

Trong khi đó, Hart lo việc vận động Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa kết quả bầu cử và dọn đường làm việc với Thiệu. Mười ngày sau Miller gặp Thiệu và Thiệu đồng ư nhận Miller làm trung gian giữa phủ tổng thống với ṭa đại sứ. Ngày 2-10, Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa sự đắc cử của liên danh Thiệu – Kỳ và ngày 31-10, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tuyên thệ nhậm chức.

 

CIA cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị cuộc bầu cử quốc hội dự trù tổ chức vào tháng 12-1967. Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ư chi 3.000 USD cho mỗi đối tượng dân biểu thân Mỹ (Bunker chỉ đề nghị 1.500 USD).

 

Kỳ 6: Nỗ lực chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam

 

CIA thừa nhận: Sự thể t́nh báo Mỹ không nắm được tin tức chính xác trước cuộc tấn công (Tết Mậu Thân 1968) rộng lớn như vậy làm cho CIA rất lúng túng. Cuộc tổng tấn công tuy không lật đổ được chính phủ Việt Nam Cộng ḥa (VNCH) nhưng đă làm tŕ trệ chương tŕnh b́nh định nông thôn, khiến Mỹ phải nỗ lực thực hiện con đường chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam.

 

Phóng viên nước ngoài tác nghiệp trên đường phố Sài G̣n.

 

Cú sốc Mậu Thân

 

Tháng 12-1967 t́nh báo Mỹ đoán biết Cộng sản sắp mở một cuộc tấn công. Và cuộc tấn công đă diễn ra tại Sài G̣n ngày 31-1-1968 vào lúc ngừng bắn nhân dịp Tết Mậu Thân. Dù không lật đổ được chính phủ VNCH như dự tính nhưng đă làm tŕ trệ chương tŕnh b́nh định nông thôn. Tướng Westmoreland xin thêm quân số mặc dù lúc đó Mỹ đă có 495.000 binh sĩ tại Việt Nam.

 

Sự thể t́nh báo Mỹ không nắm được tin tức chính xác trước một cuộc tấn công rộng lớn toàn quốc như vậy làm cho CIA rất lúng túng. CIA chỉ biết một vài tin tức và không đủ để có được một bức tranh tổng quát. Theo nguồn tin t́nh báo từ tỉnh Long An, CIA biết Cộng sản định dùng cuộc tấn công để gây áp lực buộc Sài G̣n phải thành lập chính phủ liên hiệp với sự tham dự của Mặt trận Giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam (MTGP). Theo tin tức từ Nha Trang, CIA biết Cộng sản dự tính chiếm Pleiku và Kon Tum. Hai ngày trước cuộc tấn công, CIA biết thêm tin Cộng sản cho thành lập 6 phân khu quanh Sài G̣n nhưng không đoán ra đó là sự chuẩn bị của Cộng sản để đánh vào Sài G̣n.

 

Trước các tin t́nh báo này, Westmoreland cho chuyển một số tiểu đoàn quân Mỹ về Sài G̣n và ra lệnh quân đội đặt trong t́nh trạng báo động. Ngày 29-1 t́nh báo VNCH biết rơ rằng Cộng sản sẽ tấn công vào dịp tết nhưng đă quá trễ để ban hành thêm những biện pháp đối phó. Một số quân nhân đă đi nghỉ phép nhân dịp ngừng bắn. Và Hà Nội đă có lợi thế “bất ngờ chiến thuật”.

 

Khi quân đội VNCH và quân đội Mỹ đă chặn đứng được cuộc tấn công của Cộng sản, George Carver thuộc trung ương CIA phụ trách Việt Nam và ban tham mưu của ông bắt đầu bắt tay vào việc phân tích sự mạnh yếu quân sự và chính trị của Hà Nội và VNCH qua cuộc tấn công và phản công. Sau khi đúc kết, George Carver đưa ra một kế hoạch chấn chỉnh rộng lớn mang tên “Operation shock”. CIA nhận định rằng quân đội VNCH thắng về mặt quân sự v́ đă gây tổn thất lớn cho quân đội Cộng sản và tiêu diệt được hạ tầng. Nhưng việc Cộng sản có thể giữ kín chi tiết một cuộc tấn công như vậy cho thấy VNCH chưa tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng nông thôn. Và trận tấn công Tết Mậu Thân đă tạo một cú sốc lớn đối với chính quyền, báo chí và dư luận Mỹ.

 

Phúc tŕnh của George Carver kết luận rằng tâm lư của tướng lĩnh Việt Nam là ỷ lại vào Mỹ nên VNCH không có chương tŕnh vận động và tranh thủ quần chúng nên các tướng chỉ đánh cầm chừng. CIA nhận định cần thay đổi tức khắc tâm lư nguy hiểm này và cần chọn người có khả năng để giao trách nhiệm.

 

Mỹ đề nghị Tổng thống Thiệu giao các Bộ Quốc pḥng, Nội vụ và Phát triển nông thôn cho tướng Nguyễn Đức Thắng và giao cho Kỳ thực hiện một chương tŕnh thanh lọc sĩ quan và công chức cấp cao tham nhũng và bất tài.

 

Mỹ dự tính yêu cầu Thiệu hoàn tất chương tŕnh trong 100 ngày với sự giúp đỡ vật chất của Mỹ ngoài các chương tŕnh viện trợ hiện hữu. Mỹ tính rằng sau 100 ngày nếu Thiệu không làm được th́ Mỹ sẽ gây áp lực buộc Thiệu từ chức để thay thế bằng một nhân vật có khả năng, có thể oanh tạc Bắc Việt và mở đường thương thuyết với Hà Nội để chuẩn bị rút quân, và coi MTGP là một thực thể chính trị để tiến đến sự thành lập một chính phủ liên hiệp. Phó Giám đốc CIA Richard Helm gửi bản phúc tŕnh đến các cơ sở có trách nhiệm hoạch định chính sách về Việt Nam nhưng không thấy cơ sở nào chính thức trả lời. Ngoại trừ những nhân vật “bồ câu” như trợ lư Ngoại trưởng Nicolas Katzenback và Thứ trưởng Quốc pḥng Paul Nitze khen bản phúc tŕnh, trong khi những nhân vật “diều hâu” như Walt Rostow ở Bộ Ngoại giao và tướng Earl Wheeler, Tham mưu trưởng Liên quân th́ phê phán, cho rằng thiếu thực tế.

 

Bản phúc tŕnh của George Carver rơi vào quên lăng. Tuy nhiên bản điều tra nghiên cứu này của trung ương CIA thể hiện sự thấu triệt và dứt khoát nhất của Mỹ đối với cuộc chiến Việt Nam sau trận Mậu Thân. Nó ảnh hưởng lớn đến quyết định của Tổng thống Johnson ngày 31-3-1968 khi ông tuyên bố ngừng ném bom một phần Bắc Việt, đề nghị với Hà Nội mở cuộc thương thuyết và không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 1968-1972 nữa.

 

Nhược điểm trầm kha của miền Nam là không có nhân sự đủ khả năng để giúp người lănh đạo. Người có chút uy tín lúc đó là Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, cựu tướng lĩnh, có khả năng thu hút và c̣n được dân chúng mến chuộng. Đặng Đức Khôi, một người thân tín của Kỳ và có nhiều quan hệ với CIA đă giúp Đôn thành lập Mặt trận Cứu nguy dân tộc ra mắt ngày 18-2-1968 với sự hỗ trợ tiền bạc của CIA. Khôi, dù trung thành với Kỳ cũng nghĩ rằng việc kèn cựa giữa Thiệu và Kỳ cần chấm dứt và Mỹ hy vọng Mặt trận Cứu nguy sẽ làm việc với Thiệu. Nhưng Tổng thống Thiệu không có ảo vọng Mặt trận Cứu nguy (vốn do người của Kỳ kiểm soát) sẽ ủng hộ ḿnh nên ông xúc tiến thành lập một phong trào quần chúng khác lấy tên là Lực lượng Tự do Dân chủ ra mắt tại Sài G̣n vào tháng 3-1968. Trong bối cảnh chính trị chia rẽ này, theo CIA, thật không phù hợp với quyết định của Mỹ xuống thang chiến tranh và bỏ ư định đánh bại Hà Nội bằng quân sự qua tuyên bố của Tổng thống Johnson ngày 31-3.

 

Bắt đầu chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam

Nhân vật mới cầm đầu cơ sở CIA Sài G̣n là Ralp Katrosh sang thay thế Russ Miller (Miller đă tạm thay John Hart trước đó). Katrosh làm việc như con thoi với cả Thiệu và Kỳ nên Thiệu và Kỳ đều tưởng rằng CIA chỉ ủng hộ ḿnh. Trong khi đó, Mặt trận Cứu nguy của Kỳ và Lực lượng Tự do Dân chủ của Thiệu đều thất bại trong việc đoàn kết quần chúng hậu thuẫn cho chính phủ. Qua Katrosh, Bunker thuyết phục Thiệu và Kỳ lập một liên minh chung do hai người cùng yểm trợ gồm mọi đảng phái. Liên minh ra mắt ngày 4-7-1968 với sự đồng hiện diện của Thiệu và Kỳ (do áp lực của Ṭa Đại sứ) và gồm mặt trận của Kỳ, lực lượng của Thiệu, Nghiệp đoàn Công nông của Trần Quốc Bửu và 25 nhóm chính trị nhỏ khác. Thiệu không có thiện cảm và cũng không có th́ giờ dành cho liên minh nhưng ông tham gia chỉ v́ áp lực của Mỹ.

 

Tổng thống Thiệu thường nói bóng gió với Katrosh (để Katrosh báo cáo lại cho Đại sứ Bunker) rằng tṛ chơi mặt trận quần chúng kiểu phương Tây không có hiệu quả tại Việt Nam, nơi mà trong chiến tranh tại nông thôn, quân sự là chính.

 

Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Johnson. Ảnh: T.L.

 

Để làm việc với Thiệu và Kỳ, Katrosh dùng Nguyễn Xuân Phong và Tướng Khiêm (do Tổng thống Thiệu đưa về từ Washington và đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Tháng 5-1968 Đại tá Trần Văn Hai thay tướng Loan sau khi Loan bị thương khi đánh nhau với Cộng sản tại Chợ Lớn trong cuộc tấn công Mậu Thân đợt 2. Đại tá Hai cũng là một nhân vật cận kề với CIA.

 

Tháng 6-1968, Thiệu hoàn tất chương tŕnh cô lập Kỳ. Các nhân vật thân cận Kỳ và đa số làm việc với CIA đều bị gạt ra khỏi các chức vụ then chốt và CIA lúng túng v́ thiếu người trung thành hợp tác làm việc. Thành phần CIA đă móc nối c̣n làm việc cạnh ông Thiệu đều là người không đáng tin, trong đó có một nhân vật làm việc gần gũi và có ảnh hưởng giới hạn nào đó đối với quan điểm của Thiệu về mặt nỗ lực vận động quần chúng. CIA không biết sự việc này do Cộng sản giật giây hay chỉ v́ quyền lợi cá nhân và hiểu biết giới hạn. Thiệu biết nhân vật này làm việc với CIA và đôi khi dùng sự quan hệ giữa y với Russ Miller (và sau này với Katrosh) để gián tiếp chuyển quan điểm của ḿnh đến Đại sứ Bunker.

 

Trong tháng 9 và tháng 10-1968, trước áp lực của Mỹ yêu cầu Thiệu đồng ư với đường lối thương thuyết của Mỹ tại Paris, Thiệu hai lần báo động có đảo chính, nhằm gián tiếp cho Mỹ biết Kỳ muốn đảo chính. Để trấn an, CIA báo cho các đàn em của Kỳ biết Mỹ không chấp thuận bất cứ âm mưu nào chống Thiệu.

 

Do nhu cầu bầu cử tổng thống Mỹ vào ngày 5-11-1968 nên ngày 31-10-1968, Tổng thống Johnson ra lệnh ngừng oanh tạc trên toàn Bắc Việt và trước đó Tổng thống Johnson gửi một tối hậu thư cho Tổng thống Thiệu cho biết Mỹ sẽ đẩy mạnh cuộc thương thuyết với Hà Nội dù Thiệu có đồng ư hay không. Đáp lại, ngày 2-11, Tổng thống Thiệu đọc diễn văn phản đối Mỹ, cho rằng việc ngưng ném bom và tiến hành thương thuyết với Hà Nội với mọi giá là chủ bại. Ngày 5-11, Richard Nixon đánh bại ứng cử viên đảng Dân chủ Hubert Humphrey và đắc cử tổng thống. Đảng Dân chủ và dư luận cho rằng thái độ chống thương thuyết của Thiệu đă giúp Nixon đắc cử.

 

Ngày 19-11, Katrosh giúp Liên minh Thiệu – Đôn 4 triệu đồng và cho Thiệu biết tổng thống mới đắc cử Nixon vẫn ủng hộ Thiệu.

 

Nixon duy tŕ Đại sứ Bunker tại Sài G̣n và thay trưởng cơ sở CIA Lapham bởi Ted Shackley. Nhiệm vụ của Shackley là chuẩn bị cuộc đấu tranh chính trị khi ḥa đàm Paris có kết quả. Lúc này Tổng thống Thiệu dùng Tướng Đặng Văn Quang và Hoàng Đức Nhă để liên lạc với CIA và quan hệ Mỹ – Việt (chính quyền Sài G̣n) trở nên ấm áp dần.

 

Tháng 1-1969, Thiệu đuổi khéo Kỳ khỏi Sài G̣n bằng cách cử Kỳ sang Paris quan sát cuộc thương thuyết. Tại đây Russ Miller, bạn thân của Kỳ bay từ Mỹ sang để hy vọng nhờ Kỳ đẩy nhanh cuộc ḥa đàm. Ngày 7-2-1969 sau khi gặp Kỳ, Miller báo cáo với Cyrus Vance, Trưởng đoàn thương thuyết Mỹ rằng Kỳ chấp nhận đường lối thương thuyết với Hà Nội và MTGP một cách dễ dàng, khác hẳn với quan điểm cứng rắn của Tổng thống Thiệu.

 

Con đường chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam bắt đầu.

 

Kỳ 7: Phản chiến lan rộng, Mỹ bối rối

 

Vụ quân nhân Mỹ bắn chết thường dân ở Mỹ Lai vừa bị phanh phui th́ giữa năm 1969, CIA dính líu vào một vụ tai tiếng v́ bị nghi ngờ có nhúng tay vào vụ thủ tiêu một điệp viên Cộng sản tại Nha Trang, đă làm dấy lên phong trào phản chiến…

 

Phản chiến tăng cao, Mỹ bỏ rơi liên minh

Giữa năm 1969, một đơn vị lực lượng đặc biệt Mỹ nghi một thanh niên Việt Nam làm việc cho lực lượng là tay trong của Cộng sản, nhưng không muốn giao cho cơ quan an ninh Việt Nam Cộng ḥa (VNCH) xử lư v́ sợ lộ bí mật t́nh báo nên ngỏ ư nhờ CIA xử lư giúp. CIA không nhận nhưng không trả lời rơ ràng nên lực lượng đặc biệt tự xử lư bằng cách đem đương sự ra bắn rồi thả trôi ngoài biển Nha Trang. Shackley báo cáo nội vụ lên Đại sứ Bunker và tướng Abrams và vụ giết người trái phép bị báo chí phanh phui càng làm gia tăng phong trào chống chiến tranh tại Mỹ.

 

Hai sự việc khác là vụ dân biểu Trần Ngọc Châu và Huỳnh Văn Trọng cũng làm cho quan hệ giữa Tổng thống Thiệu với ṭa Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n giữa năm 1969 trở nên căng thẳng, giữa lúc chương tŕnh b́nh định và phát triển nông thôn đang tiến hành khả quan. Trần Ngọc Châu là nhân vật từng làm việc với CIA.

 

Châu là người vạch ra chương tŕnh b́nh định nông thôn sau khi ông Diệm bị lật đổ tại tỉnh Kiến Ḥa nơi ông làm tỉnh trưởng. Ông Châu lập chương tŕnh cho phép dân khiếu kiện chính quyền để qua đó tiếp cận lấy tin tức t́nh báo về nhân sự và cơ sở của Cộng sản. Châu c̣n giúp CIA thí nghiệm một chương tŕnh săn lùng các đảng viên lănh đạo của Cộng sản trong tỉnh Kiến Ḥa. Cuối năm 1965, CIA xin Châu về chỉ huy một trung tâm huấn luyện tại Vũng Tàu. Nhưng “cái tôi” của Châu quá lớn làm mất ḷng các giới chức cao cấp VNCH khác nên vào năm 1967, Châu bỏ công tác b́nh định, ra ứng cử dân biểu Hạ viện. Sau đó, Châu đắc cử và giải ngũ.

 

Tại Quốc hội, Châu chủ trương tiếp xúc với các thành phần không Cộng sản trong Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGP) và đầu năm 1969, Châu yêu cầu CIA giúp tạo thanh thế để Châu có thể thực hiện kế hoạch của ḿnh. CIA không nhiệt t́nh đáp ứng yêu cầu của Châu.

 

Tại Quốc hội, Châu chứng tỏ với mọi người là được Mỹ ủng hộ. Đến giữa năm 1969, ông Thiệu không chịu nổi cuộc vận động chính trị của Châu và quyết định truy tố Châu về tội tiếp xúc với Cộng sản. Trước khi ra tay, Thiệu kiểm chứng với CIA và Shackley nói CIA thấy không trở ngại ǵ nếu mọi sự tiến hành theo luật pháp. Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ hơi e ngại việc truy tố một dân biểu có thể tạo dư luận bất lợi tại Mỹ nên yêu cầu Bunker khuyên Thiệu thận trọng. Thiệu thông qua Hạ viện áp dụng quy định bỏ phiếu tước quyền miễn truy tố của Châu và đưa Châu ra ṭa án quân sự xử 20 năm tù vào đầu năm 1970.

 

Dù Shackley xác nhận Châu không liên hệ ǵ với CIA nhưng Thiệu vẫn nghi Châu là người của CIA v́ sau khi Châu bị truy tố, John Paul Vann, một cố vấn cao cấp Mỹ và Chính phủ Mỹ đă mạnh mẽ can thiệp cho Châu.

 

Ngày 3-11-1969, qua một diễn văn, Nixon xác định chính sách Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam. Ba tuần sau George Carver đến Sài G̣n. Tổng thống Thiệu nghĩ sự yểm trợ của Mỹ cần hơn là liên minh này, lực lượng nọ. Vận động quần chúng là ưu tiên thứ tư của Thiệu, sau các ưu tiên quân sự, b́nh định và kinh tế.

 

Ngày 4-12-1969, ṭa Đại sứ và CIA đi đến nhận định đă đến lúc bỏ rơi các lực lượng và liên minh, ủng hộ khối Liên đoàn Công nông của ông Trần Quốc Bửu và khối quần chúng theo Phật giáo Ấn Quang. Vào tháng 3-1970, Washington chi 225.000 USD giúp Thiệu vận động các đối tượng trên.

 

Shackley sang thay Katrosh và dùng phương pháp gián tiếp để tiếp cận với Thiệu qua trung gian các nhân vật quanh Thiệu thân với CIA. Áp lực của CIA qua khối nhân sự này (trong đó có Khiêm) đến độ làm Khiêm nghi ngờ thiện chí của Mỹ. Khiêm nghi có bàn tay của CIA trong các cuộc biểu t́nh của thương binh và sinh viên chống Thiệu để thành lập một chính phủ liên hiệp tại Sài G̣n giúp Mỹ có điều kiện kết thúc chiến tranh.

 

Để có thời gian cho Mỹ rút quân, cuối tháng 4-1970, Nixon ra lệnh quân đội Mỹ đánh sang Campuchia để phá hủy cơ sở hậu cần của Cộng sản và truy bắt các cấp lănh đạo của Cục R (Trung ương Cục miền Nam) và tháng 5-1970 tái oanh tạc Bắc Việt. Cuộc tấn công vào Campuchia sinh ra nhiều cuộc biểu t́nh tại Mỹ và trong một cuộc xô xát, lực lượng an ninh bang Kansas đă bắn chết 6 sinh viên thuộc Đại học Kent State University và Jackson State College làm cho không khí chính trị tại Mỹ vô cùng căng thẳng. Tháng 6-1970, Mỹ rút quân ra khỏi Campuchia và Nixon ra lệnh rút thêm quân tại Nam Việt Nam.

 

Cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia làm cho tinh thần quân đội VNCH lên cao. Nixon muốn nhân cơ hội dùng Khiêm thúc bách Thiệu thi hành chương tŕnh chống tham nhũng, giảm bớt sự lạm dụng quyền hành của các giới chức chính quyền và tôn trọng Ṭa án tối cao.

 

Đẩy mạnh “Việt Nam hóa chiến tranh”

T́nh h́nh biểu t́nh trên đường phố Sài G̣n trong giai đoạn này giống như những cuộc biểu t́nh trước khi ông Diệm bị lật đổ và CIA muốn dùng cuộc bầu cử bán phần Thượng viện (năm 1970) để đưa các đảng phái chính trị, Công giáo, Phật giáo vào sinh hoạt chính trị. Một liên danh Phật giáo của luật sư Vũ Văn Mẫu đắc cử làm cho phong trào chống đối của Phật giáo Ấn Quang lắng xuống.

 

Sau cuộc bầu cử bán phần Thượng viện, CIA bắt tay vào chương tŕnh chuẩn bị cuộc bầu cử Hạ viện và cuộc bầu cử tổng thống năm sau. Mỹ muốn Tổng thống Thiệu tái đắc cử nhưng Mỹ cần có một cuộc tranh cử với hai ba ứng cử viên để bảo đảm uy tín chính trị của Thiệu. Lúc này, chưa biết Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ có ra tranh cử không, do đó Mỹ vận động tướng Dương Văn Minh ra tranh cử, mặc dù Đại sứ Bunker đánh giá khả năng của Minh thấp và cho rằng Minh tính t́nh bất nhất.

 

Biểu t́nh phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ. Ảnh: T.L.

 

Đối với Hạ viện lúc này CIA đă có trong tay 10 dân biểu “thân hữu” nhưng Mỹ muốn qua cuộc bầu cử có thêm 10 dân biểu nữa để nắm chắc sự thông qua các bộ luật cần thiết sau này. Mỹ cũng có kế hoạch hỗ trợ tài chính cho các ứng cử viên Hạ viện thân với Thiệu, dự trù tổng chi phí 252.000 USD. Chương tŕnh chính của CIA là kiếm thật nhiều phiếu cho Thiệu. Qua tướng Quang, CIA thúc Tổng thống Thiệu tranh thủ khối Công giáo, người Việt gốc Hoa và khối người Thượng.

 

Tại Paris, cuộc đàm phán không có tiến triển, trong khi tại Việt Nam, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chương tŕnh Việt Nam hóa chiến tranh và giảm quân.

 

Tháng 2-1971, để thử nghiệm hiệu quả của chương tŕnh Việt Nam hóa, Mỹ và VNCH đánh qua biên giới Lào với chiến dịch Lam Sơn 719. Cuộc hành quân hoàn toàn do quân đội VNCH đảm trách, Mỹ chỉ yểm trợ không lực. Quân đội VNCH bị tổn thất nặng trong chiến dịch này nhưng tinh thần chung của quân đội không đến nỗi nào và tướng Abrams nhận định rằng sau cuộc tấn công, Nam Việt Nam vẫn có khả năng tồn tại.

 

Tuy nhiên, nhận xét của CIA tại vùng 3 khá bi quan. Don Gregg, phụ trách cơ sở CIA vùng 3 cho biết quân đội VNCH không lấp kịp khoảng trống khi quân đội Mỹ rút đi. Gregg cho rằng t́nh trạng này do chính sách của Thiệu không muốn thấy thêm tổn thất (sau tổn thất trong chiến dịch Lam Sơn) trong năm bầu cử.

 

Đầu tháng 7-1971, Hoàng Đức Nhă, tùy viên báo chí của Thiệu, yêu cầu Shackley vận động mở một văn pḥng để thông tin về cuộc bầu cử tổng thống tại Nam Việt Nam ở Washington nhưng không thành công. Ngày 24-7, 26-7 và 4-8, Tổng thống Thiệu, tướng Minh và Phó Tổng thống Kỳ lần lượt nộp đơn ra tranh cử. Ṭa án tối cao, cơ quan xét đơn tranh cử đă bác đơn của Kỳ v́ các chữ kư giới thiệu (theo luật bầu cử do Quốc hội thân Thiệu đă thông qua nhằm gạt Kỳ) không có giá trị.

 

Sau khi đơn Kỳ bị bác, Minh dọa sẽ rút đơn. Lo ngại Thiệu độc diễn, Bunker gặp Minh yêu cầu ở lại và có tin Bunker hứa chi 3 triệu USD cho Minh làm chi phí tranh cử (CIA nói tin này không đúng), nhưng không có kết quả. Ngày 19-8, Minh rút đơn. Ngày 20-8, Ṭa án tối cao chấp nhận một số chữ kư giới thiệu Kỳ và hợp thức hóa đơn tranh cử của Kỳ. Nhưng ngày 23-8, Kỳ lại rút đơn.

 

Kỳ rút đơn nhưng vẫn chuẩn bị nộp lại nếu có điều kiện tranh cử thuận lợi. Kỳ lén gửi phụ tá thân tín Đặng Đức Khôi qua Phnôm Pênh, từ đó Khôi đi Mỹ. Tại Washington, Khôi móc nối các nhân vật CIA quen biết ngỏ ư muốn cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và Trợ lư Ngoại trưởng William Sullivan yêu cầu Mỹ hứa bảo đảm một cuộc tranh cử ṣng phẳng giữa Thiệu và Kỳ. Mỹ không đáp ứng lời yêu cầu của Kỳ và cuộc tranh cử độc diễn đă trở thành một thực tế.

 

Trước viễn cảnh này, ngày 7-9, Shackley yêu cầu Thiệu cho phép cử tri bỏ phiếu bầu hay bác Thiệu để ghi nhận tỷ số đối lập và đề nghị Thiệu tuyên bố được bao nhiêu phần trăm bầu cho ḿnh. Thiệu bác cả hai đề nghị.

 

Ngày 3-10, Thiệu đắc cử với 91,5% phiếu bầu, tính trong khoảng 90% cử tri có ghi danh. Sau khi Thiệu tuyên thệ nhậm chức, Sài G̣n bắt đầu nghĩ đến hoạt động của Cộng sản nhân dịp tết sắp đến, nhất là lúc này rơi vào thời gian Tổng thống Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Một bận tâm khác là Mỹ được Khiêm báo cáo Thiệu sắp thành lập Đảng Dân chủ theo mô thức Đảng Cần Lao của ông Nhu, tổ chức nửa kín nửa hở và đảng viên được tuyển mộ trong khối sĩ quan và công chức với mục đích dùng đảng để kiểm soát quân đội và bộ máy hành chính. Các đảng viên Đảng Dân chủ thuộc toàn quyền sử dụng và sai phái của Thiệu.

 

Kỳ 8: Ḥa b́nh đă trong tầm tay

 

Tháng 1-1972, Thomas Polgar được Langley cử đến thay Shackley. Polgar gốc Hungary, gia nhập CIA từ năm 1947. Richard Helms nói với Polgar nhiệm vụ mới của CIA tại Sài G̣n là thiết lập quan hệ tốt với Ṭa đại sứ, MACV, với giới truyền thông và các phái đoàn Quốc hội, ư rằng chiến tranh sắp kết thúc và quan hệ với Chính phủ Sài G̣n không c̣n là công tác chính.

 

Mỹ lúng túng về chính sách

 

Các cuộc tấn công năm trước qua Campuchia và Lào làm giảm tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cho quân đội Việt Nam Cộng ḥa (VNCH) một thời gian xả hơi. Đến Sài G̣n, Polgar lạc quan nói với Nguyễn Khắc B́nh, Giám đốc Cảnh sát quốc gia rằng “Chúng ta sẽ thắng không phải bằng sức mạnh quân sự mà bằng t́nh báo và cảnh sát”. Về quan hệ với Phủ tổng thống, Polgar được Khiêm tường tŕnh cho biết tính t́nh Thiệu cũng như tính đa nghi của Thiệu.

 

Mấy tháng đầu năm 1972, quân đội Mỹ tại Việt Nam chỉ c̣n 180.000 người và mọi việc trôi qua lặng lẽ. Không có cuộc tấn công nào đáng kể của Cộng sản trong dịp tết và dịp Nixon thăm viếng Bắc Kinh.

 

Ngày 30-3-1972 quân đội chính quy Bắc Việt ồ ạt đánh qua khu phi quân sự, vùng Kon Tum, Pleiku và Lộc Ninh phía Bắc Sài G̣n. CIA tiên đoán sẽ có cuộc tấn công vào cao nguyên nhưng không tiên đoán Cộng sản sẽ đánh qua biên giới phân chia Nam Bắc. Qua một tuần lễ quan sát chiến cuộc, Polgar nhận ra rằng chiến tranh chưa chấm dứt và tương lai của miền Nam Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào sự viện trợ của Mỹ chừng nào Bắc Việt c̣n được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ. Polgar tin tưởng quân đội VNCH sẽ đứng vững trước cuộc tấn công này dù bị tổn thất nặng.

 

Trong khi cuộc tấn công đang diễn ra tại vùng giới tuyến, trên cao nguyên và Vùng 3 chiến thuật, CIA được báo cáo viên Vùng 3 cho biết đă để cho Cộng sản thu mua lương thực, thuốc men và quân dụng tại địa phương để tiếp tế cho quân đội Bắc Việt. CIA yêu cầu Ṭa đại sứ can thiệp để chận đứng sự việc này nhưng Polgar không có một đáp ứng nào tích cực. Ngoài vụ “Vùng 3”, Polgar c̣n nhức đầu về việc tướng Nguyễn Khắc B́nh, Giám đốc Đặc ủy Trung ương T́nh báo kiêm Tổng Giám đốc Cảnh sát quốc gia than phiền Bộ Tư lệnh cảnh sát có quá nhiều sĩ quan thời Pháp để lại và Tổng thống Thiệu không chấp thuận biệt phái sĩ quan giỏi bên quân đội sang tăng cường.

 

Cũng như trận Mậu Thân, các giới chức Mỹ nhận định về trận tấn công xuân 1972 khác nhau. Khi Cộng sản c̣n đang bao vây An Lộc, Đại sứ Bunker và tướng Abrams vẫn lạc quan cho rằng sau cuộc tấn công này, Hà Nội đuối sức v́ chẳng c̣n ǵ nữa. Trong khi Polgar cho rằng nếu Liên Xô và Trung Quốc c̣n viện trợ và Hà Nội c̣n dùng được đất Lào và Campuchia th́ Cộng sản vẫn c̣n khả năng đánh. Phần Việt Nam, Polgar nhận xét khả năng chịu trận của quân đội VNCH vẫn c̣n cao và có thể cao hơn nửa triệu quân Mỹ mấy năm trước nếu vẫn được không lực Mỹ yểm trợ. Abrams đánh giá quân đội VNCH thấp hơn và cho rằng các tướng lĩnh quanh ông Thiệu không đánh giá đúng mức các sĩ quan cấp tá đang cầm quân và riêng Thiệu có nhiều quyết định sai v́ không biết nghe các báo cáo của các sĩ quan ngoài chiến trường.

 

Tuy nhiên, quan điểm của Polgar thay đổi theo tin tức ông thu thập được. Sau 2 tháng đánh giá, Polgar gửi Bunker một báo cáo phê b́nh rằng đa số các tướng chỉ huy chiến trường thiếu khả năng và được bổ nhiệm do trung thành với Thiệu.

 

Bản báo cáo bi quan đến nỗi Bunker và Abrams không muốn gửi cho Thiệu mặc dù khi tiếp xúc trực tiếp, Abrams đă nói thẳng những điều tương tự như vậy với Thiệu. MACV có thông lệ ít khi phê b́nh quân đội VNCH trong các báo cáo chính thức.

 

Cuộc trao đổi giữa William Colby (lúc đó là giám đốc CIA) và Polgar vào tháng 9-1972 cho thấy đến lúc đó Mỹ vẫn chưa có một mục tiêu chính trị chính xác tại Việt Nam. Colby yêu cầu Polgar do có nhiều quan hệ đặc biệt với giới chức lănh đạo Nam Việt Nam nên giúp Thiệu h́nh thành các cơ cấu và định chế chính trị lâu dài để chuẩn bị cho Nam Việt Nam đấu tranh chính trị với Cộng sản sau khi ḥa đàm tại Paris kết thúc.

 

Trái lại, Polgar nghĩ rằng Mỹ đă tiêu tốn hàng tỷ USD vẫn chưa giúp VNCH đặt được một căn bản dân chủ kiểu phương Tây, vậy cách tốt nhất là Mỹ thành thật hỗ trợ ông Thiệu về vật chất và tinh thần để ông ta tự định liệu lấy, miễn là con đường của ông ta không làm thiệt hại quyền lợi của Mỹ.

 

Polgar nói, chính sách này có thể dẫn đến một chính phủ độc tài thiếu dân chủ nhưng có an ninh và có thể được dân ủng hộ. Polgar kết luận con đường dân chủ hóa Nam Việt Nam mà Mỹ đang theo đuổi có thể không giúp cho Nam Việt Nam tồn tại. Colby đồng ư với Polgar rằng trong chiến tranh th́ không thể có dân chủ, nhưng độc tài cũng không có nghĩa là một chính quyền không đàng hoàng và không lo cho dân.

 

Cuộc tranh luận giữa Colby và Polgar cho thấy 18 năm sau khi Mỹ can thiệp vào Việt Nam, Mỹ vẫn c̣n lúng túng về chính sách.

 

Tổng thống Mỹ Nixon và Ngoại trưởng H.Kissinger.

 

Gây sức ép với Nguyễn Văn Thiệu

 

Hiệp định Paris kư tháng 1-1973. Từ tháng 8-1972 đến tháng 6-1973, công tác chính của CIA là thuyết phục, nói đúng hơn là gây áp lực với Thiệu, theo đường hướng của Mỹ về nội dung văn bản Hiệp định Paris cũng như cung cách thi hành hiệp định. CIA vận dụng nhân sự đă bố trí quanh Thiệu để làm yếu sự phản đối của Thiệu về một điểm chính yếu trong bản hiệp định là để cho quân đội Cộng sản Bắc Việt ở lại miền Nam sau khi ngừng bắn.

 

Ngày 17-8-1972, lần đầu tiên Kissinger đến Sài G̣n để đích thân thuyết phục Thiệu. Polgar và Kissinger từng quen biết nhau từ năm 1958 và việc này giúp công tác của hai người bớt tạo nên căng thẳng trong quan hệ cá nhân. Một câu chuyện cho thấy sự căng thẳng: Tối 17-8, Polgar được mời đến Ṭa đại sứ. Polgar thấy Kissinger mặc pyjama. Kissinger than phiền sự cứng rắn của Tổng thống Thiệu và “chỉ thị” Polgar dùng các đường dây quanh Thiệu để áp lực buộc Thiệu phải thay đổi lập trường. Polgar nói ông không thể gây áp lực lộ liễu như vậy. Kissinger bảo Polgar đó là “lệnh”, rồi lạnh lùng quay sang Đại sứ Bunker hỏi ông xử lư thế nào nếu nhân viên không tuân lệnh cấp trên. Bunker cũng lạnh lùng trả lời ông đồng ư với Polgar!

 

Dù vậy, Kissinger và Polgar vẫn giữ được ḥa khí. Kissinger biết rằng nhờ các đường dây Polgar gài trong giới đầu năo tại Hà Nội mà ông có lợi thế khi trao đổi với đại điện của Hà Nội tại cuộc hội đàm.

 

Sau khi Kissinger trở về Mỹ, Tổng thống Thiệu không tiếp ai trong gần 1 tháng. Ngày 15-9, Khiêm báo cáo với Polgar rằng Thiệu lo ngại v́ nhu cầu tranh cử, có thể Nixon sẽ nhượng bộ những đ̣i hỏi phi lư của Hà Nội.

 

Để nắm vững chính quyền chuẩn bị đấu tranh chính trị với Cộng sản, Tổng thống Thiệu hủy bỏ việc bầu các hội đồng hành chính cấp xă và bổ nhiệm trực tiếp tỉnh, thị trưởng và quận trưởng. Polgar yêu cầu Thiệu hoăn ban hành các biện pháp đó cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, nói rằng phải có sự cứng rắn. Bunker nói với Polgar, Thiệu cứng rắn vậy v́ Kissinger đă nói thẳng với Thiệu rằng nếu Hà Nội đề nghị ngừng bắn và trao trả tù binh Mỹ th́ Mỹ sẽ chấp thuận, dù t́nh h́nh quân sự tại Nam Việt Nam như thế nào.

 

Ngày 12-10, Kissinger và ông Lê Đức Thọ kết thúc bản dự thảo Hiệp định Paris. Ngày 18-10, Kissinger đi Sài G̣n gây áp lực với Thiệu. Chuyến đi này, Kissinger gặp Thiệu và các phụ tá 6 lần. Lần gặp thứ hai, Thiệu yêu cầu Kissinger cho xem bản văn Việt ngữ của Hiệp định dự thảo, Kissinger nói không có và Thiệu cho Kissinger xem bản Hiệp định tóm tắt mà t́nh báo VNCH lấy được. Sau khi CIA dịch ngược lại ra Anh ngữ cho Kissinger xem, Kissinger b́nh luận: “Đây là một sự thật khó nuốt”. Việc này làm cho Kissinger nhức đầu thêm đối với Thiệu v́ chẳng những Thiệu không chấp nhận điều khoản để quân đội Cộng sản Bắc Việt ở lại miền Nam, mà c̣n không đồng ư nhiều điểm khác trong văn bản, đặc biệt điều khoản cho phép chính quyền sẽ được thiết lập tại Sài G̣n sau khi kư hiệp định.

 

Tổng thống Thiệu hoăn cuộc gặp gỡ Kissinger dự trù ngày 21-10. Bunker giận dữ gọi Thiệu. Kết quả, 8 giờ sáng ngày 22-10, Thiệu gặp Kissinger. Thiệu b́nh tĩnh hơn thường lệ và dùng tiếng Anh để trao đổi. Nhưng vào buổi họp chiều, Thiệu không kiềm chế cơn giận và nói bác bỏ toàn bộ văn bản. Kissinger lập luận rằng nội dung Mỹ thỏa thuận với Hà Nội như vậy là điều không thể tránh được. Kissinger nói với Thiệu, Nixon đang gặp khó khăn với Quốc hội v́ ông đă dùng ngân khoản nhiều tỷ USD mà Quốc hội chưa chuẩn chi để ném bom Bắc Việt và chuyển quân dụng dự trữ cho VNCH.

 

Chỉ c̣n chưa đầy 1 tháng, người dân Mỹ sẽ đi bầu tổng thống. Thiệu tính rằng cách tốt nhất là giúp Nixon tái đắc cử. Thiệu ra lệnh cho giới chức chính phủ và Quốc hội không được công khai chỉ trích Chính phủ Mỹ.

 

Ngày 26-10, Hà Nội tuyên bố đă đạt được thỏa thuận với Mỹ và tiết lộ rằng quân đội Bắc Việt có quyền ở lại miền Nam và Mỹ hứa cung cấp 7 tỷ USD tái thiết Bắc Việt. Đồng thời tại Washington, Kissinger họp báo cho biết “ḥa b́nh đă ở trong tầm tay”.

 

Nhưng tại Sài G̣n, CIA báo cáo, Thiệu vẫn chống lại Hiệp định. Kissinger phong tỏa tin này tại Washington. Nhờ phong tỏa tin tức và lời tuyên bố “ḥa b́nh đă ở trong tầm tay”, Tổng thống Nixon đă đánh bại ứng cử viên đảng Dân chủ George McGovern và đắc cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai vào ngày 7-11-1972.

 

Bước sang tháng 12-1972, Thiệu vẫn chống điều khoản liên quan đến quân đội Bắc Việt và Bunker dọa Thiệu rằng Mỹ có thể cắt viện trợ nếu Hiệp định Paris cứ nh́ nhằng v́ thái độ của Thiệu… Và sau một buổi họp gồm các thân tín thu hẹp tại Dinh Độc Lập, tướng về hưu Phạm Văn Đổng, Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh báo cáo với CIA, Thiệu nói rằng “kư hiệp định chấp nhận quân đội Bắc Việt ở lại Nam Việt Nam giống như uống một chén thuốc độc, nhưng nếu không kư th́ Nam Việt Nam cũng từ từ sụp đổ v́ Mỹ cắt viện trợ”…

 

Kỳ 9: Tiên đoán về một cuộc tấn công định mệnh

 

Dưới áp lực liên tục của Mỹ và nội các, cuối cùng, Thiệu đă phải kư vào Hiệp định Paris. Và sau khi Nixon từ chức (9-8-1974) v́ dính vào vụ Watergate, Shackley (khi đó phụ trách Cục Viễn Đông của CIA) yêu cầu Polgar giám định mối nguy của miền Nam Việt Nam. Trong báo cáo, Polgar tiên đoán: “Cuộc tấn công định mệnh sẽ đến sớm và rất có thể sẽ đến trong mùa khô 1975”.

 

“Chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa”

 

Ngày 19-12, Alexander Haig, phụ tá Kissinger đến Sài G̣n. Thiệu tiếp Haig một cách thoải mái hơn (so với Kissinger). Haig chuyển cho Thiệu một thư tay của Nixon và Thiệu cũng đưa cho Haig một thư cầm về cho Nixon mà không nói ǵ nhiều với Haig. Bunker nói với Haig ông tin rằng nội dung lá thư của Thiệu sẽ không làm Tổng thống Nixon hài ḷng. Và Haig nói thẳng với Thiệu rằng kư Hiệp định Paris là một nhu cầu chính trị của Mỹ nên ngôn từ trong đó không phải là chuyện quan trọng. Bunker nghĩ Thiệu hiểu t́nh h́nh, nhưng tâm lư bực bội Kissinger làm ông ta không thay đổi thái độ một cách dễ dàng được.

 

Ngày 21-12, Khiêm nói với Polgar ông hiểu sự thúc bách của dư luận và Quốc hội Mỹ (muốn chấm dứt chiến tranh và thấy tù binh Mỹ trở về) và tốt hơn hết Thiệu nên kư hiệp định để bảo đảm nguồn viện trợ. Khiêm nói Thiệu có thể bị thuyết phục bằng cung cách mềm dẻo hơn là bằng áp lực và đe dọa như Kissinger và Haig đă làm. Hơn nữa Thiệu chỉ c̣n chống khoản liên quan đến quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam và Khiêm nghĩ Tổng thống Nixon có đủ uy tín để giải thích với Quốc hội Mỹ. Tuy nhiên, Khiêm hứa sẽ thuyết phục Thiệu và yêu cầu Bunker tiếp tục thúc bách Thiệu.

 

Sau khi ông Lê Đức Thọ từ Hội đàm Paris trở về Hà Nội, Nixon ra lệnh oanh tạc Hà Nội, Hải Pḥng bằng B52 trong suốt 1 tuần lễ vào dịp Giáng sinh. Ông Thọ trở lại Paris tiếp tục đàm phán. Mỹ ngừng ném bom. Ngày 12-1-1973, sau khi Mỹ ngừng ném bom, t́nh báo CIA tại Hà Nội cho biết Hà Nội sẵn sàng kư hiệp định vào ngày 20-1-1973.

 

Ngày 16-1, Haig đến Sài G̣n với một thư tay khác của Nixon gửi cho Tổng thống Thiệu rằng nếu vẫn không kư, ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản ḥa b́nh. Thiệu vẫn hoăn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.

 

Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội đồng An ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho hội đồng nghe. Sau đó, hội đồng bàn về cách thức thi hành hiệp định. Việc kư kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng “trong thâm tâm, Thiệu biết trước sau cũng phải kư theo ư Mỹ nhưng ông ta đă làm những ǵ cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam”.

 

Sáng 20-1, Thiệu triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia thông báo quyết định kư hiệp định. Phó Tổng thống Trần Văn Hương khóc nói rằng miền Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc cầu găy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa và kư hiệp định th́ tai họa nhỏ hơn.

 

Tiên đoán về một “cuộc tấn công định mệnh”

Tháng 7-1973, Đại sứ Martin đến Sài G̣n. Martin từng là đại sứ tại Italia và Thái Lan. Cũng như Bunker, Martin dùng sự tiếp cận của CIA đối với các tướng lĩnh Việt Nam để kín đáo vận dụng chính sách của Mỹ. Qua trung gian của Khiêm, Quang và đôi khi là B́nh, và với các nhân vật trong Quốc hội, Ṭa đại sứ ḍ biết được suy nghĩ và tính toán của Thiệu. Các nhân vật này sẵn sàng khuyến cáo Thiệu theo chính sách Mỹ, dù đó là chính sách thực chất hay chỉ là hào nhoáng.

 

Tháng 8-1973, Nixon từ chức v́ dính vào vụ Watergate. Lúc này Mỹ đă hoàn tất áp lực buộc Thiệu phải kư Hiệp định Paris (1-1973) và Nghị định thư (6-1973) thi hành hiệp định. Cả hai văn kiện đều bất lợi cho Việt Nam Cộng ḥa (VNCH).

 

Từ mùa thu 1973 cho đến mùa đông 1974, Hà Nội chơi tṛ “mèo vờn chuột” với quân đội VNCH, và cũng là thời gian quan hệ giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại sứ Martin lạnh nhạt nhất.

 

Cuối năm 1974, tin t́nh báo cho biết Cộng sản sẽ mở cuộc tấn công đông xuân 1974-1975. Và cuộc tấn công đă diễn ra cuối năm 1974. Ngày 6-1-1975 tỉnh lỵ Phước Long thất thủ.

 

Trong buổi chất vấn của Thượng viện Mỹ để phê chuẩn Henry Kissinger vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao, Kissinger nói trước Thượng viện rằng “chiến tranh Việt Nam xem như đă qua”. Polgar ở Sài G̣n cho rằng Kissinger không diễn tả hiện trạng của cuộc chiến tranh, v́ cuộc chiến chưa chấm dứt. Langley đồng ư với Polgar và tiên đoán chiến cuộc sẽ bùng nổ vào khoảng tháng 11-1974.

 

Tháng 12-1973, Đại sứ Martin đi Paris tham dự hội nghị thi hành hiệp định. Trở về Sài G̣n ngày 22-12-1973, Martin – theo khuyến cáo của Ngoại trưởng Kissinger – yêu cầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đơn phương tuyên bố ngừng bắn, chấp nhận bản đồ phân chia ranh giới kiểm soát và trao đổi tù binh.

 

Tháng 2-1974, Tổng thống Thiệu thông qua Quốc hội sửa đổi Hiến pháp cho phép ông ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba, sau đó ông cải tổ nội các. Sự cải tổ làm CIA mất một số người đưa tin quan trọng. Ông Nguyễn Văn Ngăi rời ghế Bộ trưởng Phát triển nông thôn sang đảng Dân chủ. Bộ trưởng Cựu Chiến binh Phạm Văn Đổng bị rắc rối v́ một vụ chứa bạc lậu nên cũng mất sự tiếp cận với Thiệu. Đổng dùng quan hệ với CIA để chạy tội nhưng CIA không giúp. Kết quả, tháng 4-1974 Đổng bị bắt và bị tù cho đến tháng 7-1974. Tuy nhiên tướng về hưu Trần Văn Đôn (kiêm Thượng nghị sĩ) trở lại chức vụ Phó Thủ tướng Đặc trách Thanh tra và An ninh. Đôn vốn có nhiều quan hệ với CIA và là một nguồn đưa tin tốt. Khiêm th́ vẫn thường xuyên hợp tác với CIA.

 

Đầu năm 1974, tại Mỹ, lợi dụng lúc Tổng thống Nixon đang gặp khó khăn về vụ Watergate, báo chí Mỹ – dẫn đầu bởi tờ báo New York Times – dấy lên phong trào nói xấu chính quyền Nam Việt Nam để thuyết phục Quốc hội thôi ủng hộ Nam Việt Nam. Báo chí Mỹ c̣n tố cáo CIA tiếp tay cho cảnh sát VNCH tra tấn tù nhân chính trị. Đại sứ Martin đă yêu cầu Thượng nghị sĩ William Fulbright (đảng Dân chủ, bang Arkansas) quan tâm đến vấn đề này…

 

Trong khi Đại sứ Martin nghi ngờ báo chí Mỹ muốn miền Nam Việt Nam sụp đổ th́ Tổng thống Thiệu nghi ngờ Chính phủ Mỹ cũng có chủ trương này.

 

Sau khi Nixon từ chức (9-8-1974), Shackley (khi đó phụ trách Cục Viễn Đông của CIA) yêu cầu Polgar giám định mối nguy của Nam Việt Nam. Trong báo cáo, Polgar tiên đoán: “Cuộc tấn công định mệnh sẽ đến sớm và rất có thể sẽ đến trong mùa khô 1975”.

 

Biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam tại Mỹ. Ảnh: T.L.

 

Thiệu vẫn cố trông chờ “bầu sữa mẹ”

Ngày 8-11-1974, Polgar nhận được báo cáo t́nh báo từ Hà Nội qua cơ sở CIA tại Biên Ḥa cho biết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam vừa họp thông qua Nghị quyết 75 quyết định tiến hành một cuộc đại tấn công miền Nam trong năm 1975 và cuộc tấn công này sẽ lớn hơn mức độ cuộc tấn công 1972. Nghị quyết 75 nhận định rằng Hà Nội chỉ dùng 1/3 lực lượng hiện có tại miền Nam đă có thể kiềm chế toàn bộ quân đội VNCH và rằng cuộc tấn công trải rộng toàn quốc trên cả ba mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Lệnh thu mua lúa gạo và các thực phẩm khác chuẩn bị cho một chiến dịch dài ngày đă được Hà Nội ban hành.

 

Polgar do dự chưa chuyển tin t́nh báo này về Langley th́ giới t́nh báo Mỹ hỏi Polgar nghĩ ǵ về phân tích t́nh báo trước đó của Hội đồng T́nh báo Trung ương rằng có thể Hà Nội sẽ không mở một cuộc tấn công quy mô trong mùa khô từ 8-1974 đến 6-1975. Trả lời ngày 11-11-1974, Polgar không nhắc lại lời tiên đoán của ông phù hợp với nội dung của tin t́nh báo “khá tế nhị” mà ông vừa nhận được và viết rằng CIA Sài G̣n cũng chưa có cơ sở nào để nghĩ khác với Hội đồng T́nh báo. Tuy nhiên, Polgar đính kèm “bản tin t́nh báo từ Hà Nội” để Hội đồng T́nh báo xem xét với lưu ư rằng nguồn cung cấp tin này là nguồn đă cung cấp tin rất chính xác về vụ tấn công 1972. Ṭa đại sứ cũng nhận được một tin đặc biệt rằng Hà Nội sẽ mở một cuộc tấn công lớn nếu trong ṿng 3 hay 4 tháng, Tổng thống Thiệu chưa từ chức…

 

Trước t́nh h́nh quân sự không mấy sáng sủa cho miền Nam, Mỹ lấy lư do các nước Ảrập phong tỏa dầu lửa đă cắt bớt viện trợ kinh tế cho miền Nam Việt Nam. Tổng thống Thiệu nghi ngờ đây là sự đáp trả của Mỹ v́ trước đó ông đă bác bỏ đề nghị cải tổ nội các của Martin.

 

Khiêm thông báo cho CIA biết, t́nh h́nh năm 1975 sẽ không sáng sủa về cả hai mặt quân sự và kinh tế. Khiêm nói với Mỹ rằng Hà Nội thừa biết quân đội VNCH không có khả năng bảo vệ tất cả 44 tỉnh miền Nam. Sự thông báo này hàm ư Tổng thống Thiệu có thể sẽ bỏ một số nơi. Khiêm nói úp mở rằng thí dụ giữ được Kon Tum th́ tốt nhưng không có lư do ǵ phải hy sinh một sư đoàn để giữ Kon Tum.

 

Ngày 6-1-1975, Phước Long thất thủ. Đại sứ Martin báo cáo với Washington rằng Hà Nội đă thành lập 4 sư đoàn với nhân lực địa phương nên có khả năng nới rộng sự kiểm soát đất mà không cần di chuyển các sư đoàn từ miền Bắc vào. Nhưng Martin cho biết, theo ông, Thiệu vẫn c̣n khả năng đáp trả…

 

Thiệu nghĩ một cách đơn giản rằng trước sau Quốc hội Mỹ cũng chuẩn chi 700 triệu đôla và ông sẽ có đủ đạn dược, xăng dầu chống lại cuộc tấn công vào năm 1975 của Hà Nội. Nếu không, ông sẽ tái phối trí (được hiểu là bỏ đất). Để hỗ trợ Thiệu, Polgar gửi điện về Washington rằng: “Nếu Mỹ không viện trợ cho Sài G̣n th́ Hà Nội không thấy có lư do ǵ thỏa thuận những đề nghị có tính ḥa hoăn của ông Thiệu như Mỹ muốn”.

 

Cuối tháng 2-1975, Tổng thống Ford đề nghị một gói viện trợ 3 năm cho VNCH. Ngày 26-2, Polgar gửi điện yêu cầu Kissinger dùng “uy tín cá nhân và khả năng trí tuệ” của ḿnh để vận động Quốc hội thông qua gói viện trợ này. Polgar viết, gói viện trợ 3 năm này sẽ làm cho Hà Nội suy nghĩ lại về các tính toán của họ và do đó, mới có điều kiện thi hành Hiệp định Paris.

 

Theo đánh giá của Polgar, số đạn dược Hà Nội chuyển vào Nam rất lớn, gồm đạn dược dự trữ bảo vệ miền Bắc và đạn dược do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ gộp lại. Đánh giá này cho thấy Hà Nội dự tính tổng lực cho chiến dịch 1975. Polgar phân tích rằng nếu Mỹ viện trợ đầy đủ cho miền Nam Việt Nam th́ sau khi dốc cạn vốn mà không thắng, Hà Nội bắt buộc phải từ bỏ ư định tấn công miền Nam bằng vũ lực.

 

Kỳ 10: Thời điểm sinh tử

 

 

Ngày 10-3-1975, Cộng sản mở màn cuộc tấn công và chiếm lĩnh Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc. TP Pleiku bị đe dọa và trưởng cơ sở CIA Don Nicol tại Pleiku gửi báo cáo khẩn hàng ngày về cơ sở CIA Nha Trang. Không nhận được chỉ thị nào của Sài G̣n, ngày 13-3, Nicol họp toàn bộ nhân viên t́nh báo tại Pleiku và tự động phác họa một kế hoạch dự pḥng di tản cho toàn bộ nhân viên Mỹ – Việt có liên hệ với CIA.

 

Pleiku, Kon Tum thất thủ

 

Trong khi đang họp, Nicol nhận được điện thoại của đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 cho biết các vị trí của quân đội Việt Nam Cộng ḥa (VNCH) đang bị đe dọa và khuyên người Mỹ nên rút khỏi Pleiku. Lư cho Nicol biết ngày 14-3, tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với Tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Quy Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lư hứa với Nicol có tin ǵ sau khi Phú đi họp về, Lư sẽ cho hay…

 

Chiều 14-3, sau khi Nicol đă đi Nha Trang, Stephens (phụ tá của Nicol) đến Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 kiếm tin về cuộc họp giữa Phú và Thiệu. Stephens gặp Lư trước, Lư chưa nói được ǵ th́ Phú bước vào. Stephens thấy Phú có vẻ thất sắc và mất b́nh tĩnh nhưng Stephens nghĩ Phú đang lo về t́nh h́nh quân sự xấu đi của vùng 2 chứ không liên quan ǵ đến nội dung chỉ thị của Thiệu trong cuộc họp buổi sáng tại Cam Ranh.

 

Hôm đó, Stephens không lấy được tin ǵ. Ngày hôm sau, Stephens trở lại với hy vọng có tin mới. Khi xe chạy qua sân bay Pleiku, Stephens không thấy các máy bay phản lực của Không quân VNCH thường đậu ở đó. Đến Bộ Tư lệnh, Stephens thấy đồ đạc vương văi như đang dọn nhà. Nửa giờ sau, Stephens t́m được Lư. Lư kéo Stephens ra một chỗ vắng và sau khi căn dặn tuyệt đối giữ kín, Lư cho Stephens biết Thiệu ra lệnh tướng Phú bỏ Pleiku và Kon Tum. Stephens vội vàng thông báo tin cho cố vấn tỉnh Đắc Lắc Earl Thieme, rồi đi t́m gặp Phú để xác nhận. Thi hành lệnh của Tổng thống Thiệu không cho người Mỹ biết quyết định rút quân ra khỏi Pleiku và Kon Tum, tướng Phú nói với Stephens, ông cho dời Bộ Chỉ huy Quân đoàn về Nha Trang cho an toàn chứ không có ư bỏ Pleiku và Kon Tum. Tuy nhiên – cũng như đại tá Lư – Phú khuyên người Mỹ nên rời khỏi Pleiku.

 

Nhận được báo cáo của Chin, Polgar c̣n đang lượng định sự xác tín của nguồn tin, th́ lănh sự Mỹ tại Nha Trang Moncrieff Spear và Chin đă khẩn khoản yêu cầu và Polgar chấp thuận cho tất cả nhân viên Mỹ rời khỏi Pleiku và Kon Tum. Sau khi toàn bộ nhân sự t́nh báo về đến Nha Trang với máy giải mă và vũ khí, Phó CIA Sài G̣n LaGueux dùng máy bay đích thân bay quan sát và chụp h́nh đoàn quân rút lui của tướng Phú trên đoạn đường Pleiku – Phú Bổn. LaGueux thấy cuộc rút lui vô cùng hỗn độn.

 

Ngày 17-3, tướng Viên, được phép của Thiệu, chính thức thông báo cho tướng Homer Smith, tùy viên quân lực Mỹ biết quân đội VNCH đang rút ra khỏi Pleiku và Kon Tum. Viên xin lỗi tướng Smith đă không thông báo sớm hơn v́ lệnh của Tổng thống Thiệu.

 

Ngày 14-3, trong khi Tổng thống Thiệu gặp các tướng Phú, Khiêm, Viên, Quang tại Cam Ranh th́ Polgar đang nhức đầu v́ mất Buôn Ma Thuột và áp lực Cộng sản nặng nề tại tỉnh Tây Ninh. Theo Polgar, cường độ của cuộc tấn công vượt quá trận tấn công 1972. B́nh nói với Polgar rằng quân đội VNCH đang cố gắng tái chiếm Buôn Ma Thuột và việc chiếm lại được hay không sẽ quyết định vận mệnh của Nam Việt Nam…

 

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng. Ảnh: T.L.

 

Tháo chạy khỏi cao nguyên

Trong khi Hà Nội đang mở cuộc tấn công, Đại sứ Martin đang chữa răng ở Mỹ, và – theo Polgar – các phụ tá của Martin không đủ khả năng để nắm t́nh h́nh cho nên các báo cáo có chất lượng phản ánh thực tế đều do CIA báo cáo.

 

Ngày 20-3, Langley yêu cầu Polgar cho biết sự tính toán của Thiệu trước t́nh h́nh đổ vỡ nhanh chóng và cho Polgar biết Washington đang chuẩn bị một chương tŕnh giúp người tị nạn từ miền Trung vào.

 

Ngày 21-3, trong khi quân đội miền Nam Việt Nam đang rút chạy từ cao nguyên về miền duyên hải th́Ṭa Đại sứ Mỹ một mặt làm ra vẻ b́nh tĩnh để trấn an dư luận, một mặt không cho thân nhân của nhân viên Ṭa đại sứ đến Sài G̣n nữa và không làm ǵ khác để đối phó với t́nh h́nh.

 

Thấy được tâm lư đó, Polgar và LaGueux ra sức làm những ǵ có thể để che đậy tâm lư chủ bại của Ṭa đại sứ. Polgar thuyết phục Tổng thống Thiệu tái tổ chức, t́m cách nâng cao tinh thần binh sĩ và không ngừng mời Quang, B́nh, Nhă dùng cơm để bàn việc.

 

Ngày 22-3, Polgar cho Khiêm và Quang xem các tấm ảnh chụp từ trên không cảnh rút quân hỗn loạn và những tổn thất của quân đội VNCH trên đường Pleiku – Phú Bổn. Ngày hôm sau, Quang tŕnh các tấm ảnh đó cho Thiệu xem. Đại tá William Legro cũng thuyết tŕnh cho một số tướng lĩnh VNCH t́nh h́nh bi đát qua những bức ảnh này.

 

Chủ nhật 23-3, Polgar báo cáo về Washington rằng, Hà Nội đang thắng lớn, Nam Việt Nam đang thua đậm trong khi Ṭa Đại sứ Mỹ bất động! Polgar cho biết Hà Nội đă đưa 5 sư đoàn trù bị (có nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc) vào Nam, bỏ ngỏ miền Bắc và yêu cầu Langley thông báo cho Ngoại trưởng Kissinger và Bộ trưởng Quốc pḥng Schlesinger rằng – theo nhận xét của ông – miền Nam Việt Nam đang sụp đổ.

 

Chiều hôm đó, Langley hỏi Polgar quân đội Nam Việt Nam tổn thất đến mức độ nào và Thiệu tính phản công ra sao để Mỹ kịp gửi vũ khí cần thiết tới. Langley lượng định ông Thiệu có thể sẽ mất Đà Nẵng, có thể cả Tây Ninh và muốn biết ông Thiệu định giữ trận tuyến ở đường ranh nào. Trả lời trong ngày, Polgar nói t́nh h́nh bi đát hơn người ta có thể tiên đoán 10 ngày trước. Nhưng các TP Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết có thể giữ làm nơi gom quân và bảo vệ tiềm năng quân đội cho một trận đánh quyết liệt sắp tới. Thiệu chưa có ư định lập một pḥng tuyến nào ngoài nỗ lực cứu văn những ǵ có thể cứu văn được.

 

Ngày 25-3, Langley định cho phép Polgar bắt đầu di tản những đối tượng cần di tản nhưng tỏ ư quan ngại phản ứng bất lợi trong dân chúng. Polgar cho biết sự lo ngại đó không cần thiết v́ với thái độ bất hợp tác của Quốc hội Mỹ cộng thêm việc hàng ngàn nhân viên Việt – Mỹ hốt hoảng từ các tỉnh phía Bắc chạy xuống đă đủ gây kinh hăi cho dân chúng tại Sài G̣n. Về chiến lược, Polgar nhận thấy cả hai phía Mỹ và Nam Việt Nam đều lúng túng, thiếu đường lối chỉ đạo. Ông đề nghị tướng Fred C. Weyend, nguyên Tư lệnh MACV nên đến Sài G̣n t́m hiểu t́nh h́nh. Washington chấp thuận đề nghị của Polgar và phái đoàn gồm tướng Weyand, Shackley, George Carver và Martin lên đường ngày 27-3.

 

Ngày 26-3, Polgar báo cáo rằng tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội VNCH “như chúng ta từng biết” không c̣n nữa sau vụ rút khỏi cao nguyên và Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH một cách nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ có áp lực quân sự và chính trị đối với Hà Nội, chẳng hạn như Mỹ lợi dụng miền Bắc đang bỏ trống và vận động Nga khuyên Hà Nội đừng hấp tấp. Chiều 26-3, Mỹ rút khỏi Tây Ninh bằng trực thăng.

 

Hỗn loạn Đà Nẵng

Tại Sài G̣n, Thiệu ra lệnh cho Quang và B́nh t́m mọi cách chặn đứng các tiếng nói phản chiến của bà Ngô Bá Thành và các linh mục Công giáo. Ngày 28-3, sau những cảnh hỗn loạn tại sân bay Đà Nẵng hôm 27-3, Shackley báo cáo cho Colby biết kế hoạch giữ Đà Nẵng không thể thực hiện được. Ngày 27-3, sân bay Đà Nẵng mất an ninh v́ quân lính và dân chúng chen chúc nhau giành chỗ và chuyến bay thứ nhất của Mỹ chỉ chở được 1/3 số người trong danh sách do Mỹ thiết lập. Chuyến bay thứ hai phải lén đậu một chỗ khuất trên đường băng mới lấy được đủ số người trong danh sách. Riêng nhân viên t́nh báo Mỹ an toàn rời Đà Nẵng trong ngày bằng phương tiện chuyên chở riêng của CIA.

 

Polgar thúc giục Quang cho Thiệu biết nếu không tái lập được an ninh tại sân bay th́ Mỹ sẽ hủy bỏ nỗ lực di tản người Mỹ và người Việt bằng máy bay. H́nh như Tổng thống Thiệu không được báo cáo chính xác về t́nh h́nh hỗn loạn tại sân bay Đà Nẵng.

 

Được lệnh của Thiệu nhưng tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 2, cũng bó tay không tái lập được trật tự tại sân bay. Ngày 28-3, Lănh sự Mỹ tại Đà Nẵng Albert Francis ra lệnh chấm dứt chương tŕnh di tản bằng máy bay và chuyển sang dùng đường biển.

 

Rạng sáng 28-3, lợi dụng trời c̣n tối, Mỹ cho một chiếc phà cập bến sông Đà Nẵng để di tản 3.000 người Việt làm việc với Mỹ. Tin bị lộ, khoảng 1.000 người không có trong danh sách tràn lên phà, chen lấn xô đẩy nhau, ngă xuống sông và nhiều người chết đuối. Phà được kéo ra, một số đông trong danh sách 3.000 người của Mỹ c̣n lại trên bờ. Đêm hôm sau, Ṭa lănh sự lại cho nhiều phà cập bến nhưng chỉ có một số vào được…

 

Tổng kết lại, Ṭa Lănh sự Mỹ và CIA phối hợp nhau đă di tản được khoảng 50.000 người ra khỏi Đà Nẵng nhưng nhiều người Việt trong số từ 3.000 đến 4.000 người làm việc với Mỹ và thân nhân của họ vẫn c̣n kẹt lại.

 

Ngày 27-3, trên chiếc máy bay chở phái đoàn tướng Weyand đi Việt Nam, Shackley tóm tắt cho Đại sứ Martin biết t́nh h́nh hỗn loạn tại sân bay Đà Nẵng, Martin có vẻ không tin. Đến Sài G̣n, và sau khi Đà Nẵng đă rơi vào tay Cộng sản, Polgar đưa Vince Daly, một nhân viên CIA của trạm Đà Nẵng đến gặp để tường tŕnh trực tiếp cho Martin, Martin vẫn chưa tin và nói có thể ông sẽ đi Đà Nẵng để đích thân quan sát t́nh h́nh. Polgar hỏi máy bay ông đại sứ làm sao có thể đáp xuống một sân bay do Cộng sản kiểm soát? Hoạt cảnh này có lẽ do Đại sứ Martin bắt đầu đóng để bảo đảm một cuộc rút chạy an toàn cho đến ngày 30-4-1975! Theo chính sách của Đại sứ Martin, Polgar bắt đầu đưa ra những tin tức lạc quan.

 

Đà Nẵng thất thủ trong hỗn loạn như một gáo nước lạnh dội suốt miền Nam. Tổng thống Thiệu cũng mất b́nh tĩnh. Ngày 30-3, không một viên chức có tầm cỡ nào ứng trực tại dinh tổng thống. Ngày 2-4, Shackley và Polgar gặp Tổng thống Thiệu và thấy ông không kiềm chế được xúc động phải bật khóc. Shackley ghi nhận việc Vùng 1 và Vùng 2 mất đă làm cho tinh thần binh sĩ và dân chúng miền Nam hoàn toàn suy sụp. Dân cũng như quân miền Nam đều cho rằng Mỹ phản bội và đồng ư với nhau một điều là miền Nam chỉ có thể tồn tại nếu Mỹ dùng B-52 dội bom vào các đoàn quân Bắc Việt đang tiến về Sài G̣n.

 

Kỳ 11: Đầu hàng và tháo chạy

 

Trong hai thông điệp Shackley gửi về Langley trong hai ngày 31-3 và 2-4, Shackley tiên đoán hai điều có thể xảy ra. Thứ nhất là quân đội miền Bắc tiến thẳng vào Sài G̣n tiêu diệt chính quyền miền Nam bằng vũ lực. Thứ hai, Hà Nội ngừng tiến quân, ép thành lập một chính phủ liên hiệp để khiến cho miền Nam đầu hàng. Polgar và Martin luôn luôn chờ đợi tín hiệu thứ hai, nhưng nó không bao giờ tới…

 

Không c̣n ǵ ngoài thất bại

Sau khi giành được Đà Nẵng, quân đội Cộng sản tiến ra vùng duyên hải. Ngày 1-4, Cộng sản tiến sát Nha Trang. 10 giờ 30 sáng, đại tá Lư Bá Phẩm, Tỉnh trưởng Khánh Ḥa kiêm tiểu khu trưởng báo cho Mỹ biết Nha Trang đă bị bỏ ngỏ. Tổng Lănh sự Mỹ vội rời Nha Trang.

 

Vào lúc 11 giờ 17 sáng, cơ sở CIA đóng cửa và khoảng xế trưa chủ sự CIA Robert Chin và toàn bộ nhân viên rời Nha Trang bay về Sài G̣n. Chương tŕnh di tản nhân viên người Việt làm việc với Mỹ và thân nhân bằng đường biển không thực hiện được v́ sự ra đi đột ngột của người Mỹ. Sau này, kiểm điểm lại có 50% trong số này tự xoay xở vào đến Sài G̣n.

 

Ngày 2-4, Langley cho Polgar biết Bộ Ngoại giao sắp ra lệnh di tản toàn bộ nhân viên Mỹ và một số đối tượng người Việt ra khỏi Sài G̣n. Con số này ước lượng 1 triệu người. George Carver nói kế hoạch di tản này là kế hoạch của “người điên”, v́ việc di tản sẽ tạo ra sự hỗn loạn c̣n hơn cả sự hỗn loạn trong trường hợp không làm ǵ cả.

 

Carver chỉ thị Polgar không nên động tĩnh ǵ cho đến khi có lệnh và nếu di tản rất có thể phải đổ bộ một sư đoàn Thủy quân Lục chiến được yểm trợ bởi Không quân chiến thuật. Phụ tá Bộ trưởng Quốc pḥng Philip Habib quyết định di chuyển thân nhân c̣n nhân viên và công chức Mỹ th́ cho di tản nhỏ giọt từng nhóm nhỏ để tránh tin đồn “Mỹ bỏ chạy”.

 

William Colby, Giám đốc CIA dặn rằng nếu phía chính quyền Việt Nam chất vấn th́ nói Vùng 1 và Vùng 2 đă mất, công việc ít nên các cơ sở Mỹ tại Việt Nam giảm nhân số theo nguyên tắc hành chính thôi. CIA chỉ định William Johnson bố trí người ở lại sau khi Sài G̣n sụp đổ để lấy tin. Không biết Johnson làm ăn thế nào mà sau này CIA không nhận được một tin tức t́nh báo nào cả.

 

Ngày 2-4, Thiệu cho Shackley và Polgar biết ông dự tính lập một chính phủ rộng răi để hy vọng Hà Nội thấy thích hợp bàn chuyện ngừng bắn. Ngày 3-4, Polgar báo cáo với Langley rằng tướng Nguyễn Cao Kỳ và Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm cũng định thành lập một chính phủ như vậy mà không có Thiệu. Kế hoạch là Thượng viện thông qua một quyết nghị yêu cầu Thiệu từ chức. Polgar thấy kế hoạch của Kỳ khó thực hiện v́ Thiệu sẽ không dễ bị sức ép như vậy.

 

Sáng 8-4, Trung úy Nguyễn Thành Trung của Không quân Việt Nam Cộng ḥa (VNCH) đào ngũ dùng phản lực cơ ném bom Dinh Độc Lập. Cũng trong ngày, tin t́nh báo của CIA từ Hà Nội cho biết Hà Nội đă quyết định tiêu diệt Nam Việt Nam bằng sức mạnh quân sự vào thời điểm do Hà Nội chọn lựa mà không thương thuyết, không liên hiệp, dù Thiệu từ chức hay Mỹ mở lại đường tiếp vận quân trang vũ khí cho quân đội VNCH.

 

Di tản khỏi Sài G̣n bằng máy bay. Ảnh: T.L.

 

Lúc này, nội các của Khiêm hoàn toàn tê liệt. Tổng thống Thiệu cũng không liên lạc với Martin. Ngày 10-4, khi báo cáo về Washington các cuộc tấn công của quân Cộng sản quanh Sài G̣n, Polgar tiên đoán Hà Nội sẽ tiến vào Sài G̣n khoảng tháng 6-1975.

 

Martin lúc này nghĩ Thiệu ra đi là tốt nhưng ông không thấy ai có thể thay thế. Riêng Polgar nhận định rằng ngoại trừ Mỹ đổi ư mạnh tay can thiệp bằng vũ lực, cách tốt nhất c̣n lại để tránh đổ máu là Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ gọi là “liên hiệp quốc gia” như một cách đầu hàng và Mỹ vận dụng mọi sức ép quốc tế (như cách Mỹ đă làm khi quân đội Do Thái tiến vào Ai Cập năm 1973) kêu gọi Hà Nội ngừng tiến quân. Nếu không, Nam Việt Nam sẽ bị đánh gục trong một thời gian ngắn.

 

Ngày 10-4, trong một báo cáo với lời lẽ trung thực, Polgar kết luận: “Tháng 2-1975, chúng ta có nhiều đường an toàn rút khỏi Việt Nam và Nam Việt Nam c̣n nhiều ưu thế để tồn tại nhưng chúng ta đă để cho cơ hội vuột khỏi tầm tay (ư Polgar muốn nói sau khi Cộng sản đánh chiếm Phước Long mà Mỹ vẫn án binh bất động), khuyến khích Hà Nội làm tới. Và bây giờ th́ không c̣n ǵ nữa, ngoài sự thất bại!

 

Theo Polgar lúc này chỉ c̣n 4 bước: Di tản nhanh chóng người Mỹ ở một mức độ sao cho không tạo ra cảm tưởng Mỹ đang trốn chạy; vận động ngừng bắn qua Liên Xô và Pháp; ép Thiệu từ chức và thành lập chính phủ liên hiệp để đầu hàng; thương thuyết với Hà Nội để có th́ giờ di tản người Việt.

 

T́m cách đầu hàng và di tản

Ngày 11-4, quân đội Cộng sản bị chặn lại ở mặt trận Xuân Lộc. Tại Sài G̣n, Khiêm từ chức Thủ tướng; Nguyễn Bá Cẩn, Chủ tịch Hạ viện thay thế nhưng chính quyền vẫn tê liệt. Nhiều bộ trưởng t́m đường ra đi. Ngày 19-4, Bộ Ngoại giao Mỹ giảm số nhân viên Ṭa đại sứ xuống c̣n 1.250 người, trong số đó có 270 nhân viên CIA.

 

Đại sứ Martin và Polgar có hai công tác chính. Thứ nhất là triển khai một chương tŕnh di tản người Mỹ và người Việt làm việc với Mỹ cùng thân nhân mà không làm cho dư luận xôn xao. Nhưng trước viễn cảnh một cuộc di tản khó thành công nếu Hà Nội dùng lực lượng quân sự ngăn cản, công tác chính thứ hai là thương thuyết với Hà Nội t́m một giải pháp chính trị để di tản an toàn mọi đối tượng có liên hệ ra khỏi Việt Nam. Mỹ c̣n hy vọng qua vận động với Liên Xô sẽ duy tŕ một Ṭa đại sứ tại Sài G̣n để duy tŕ sự liên tục về ngoại giao.

 

Công tác chính trị chính yếu là thuyết phục Tổng thống Thiệu từ chức và t́m cách chuyển quyền cho tướng Dương Văn Minh nhằm thành lập một chính phủ “liên hiệp” gọi là chính phủ “đoàn kết quốc gia” để chuyển chính quyền cho Cộng sản. Hà Nội cho biết, chỉ nói chuyện với Minh.

 

Thuyết phục Thiệu, Mỹ không thấy khó, khó là làm sao chuyển quyền cho Minh mà không vi phạm Hiến pháp VNCH.

 

Tuy nhiên, tin chiến sự càng ngày càng xấu. Ngày 16-4, quân đội Bắc Việt giành được Phan Rang, quê của Thiệu; bắt sống tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và một sĩ quan t́nh báo Mỹ. Tin t́nh báo của CIA từ Hà Nội xác nhận tin đă biết rằng Hà Nội quyết định chiếm Sài G̣n bằng vũ lực càng sớm càng tốt, chậm nhất là trước ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, 19-5.

 

Trong khi đó, tại Washington có nhiều diễn biến bất lợi cho sự ổn định t́nh h́nh tại Sài G̣n. Thứ nhất, một viên chức cao cấp tuyên bố Chính phủ Mỹ không can dự ǵ đến một giải pháp chính trị để cho Nam Việt Nam đầu hàng. Thứ hai, Thứ trưởng Ngoại giao Philip Habib khi được giới truyền thông yêu cầu Mỹ giúp di tản các phóng viên của họ làm việc tại Sài G̣n đă trả lời rằng Mỹ không có chương tŕnh di tản người Việt làm việc với các cơ sở của người Mỹ. Trong khi đó, thật ra Đại sứ Martin đă im lặng cho di tản hơn 350 người Việt làm việc với các cơ sở truyền thông Mỹ ra khỏi Việt Nam.

 

Ngày 18-4, Janos G. Toth, một đại tá người Hungary trong phái đoàn quốc tế kiểm soát đ́nh chiến gặp Polgar và cho biết qua các cuộc nói chuyện với phái đoàn Hà Nội, ông ghi nhận rằng Hà Nội chỉ muốn tăng sức ép để Sài G̣n sụp đổ dần chứ không muốn có một cuộc tấn công quân sự để kết thúc chế độ. Đại tá Toth nói Hà Nội không muốn ép Mỹ phải tháo chạy như đă tháo chạy tại Phnôm Pênh mấy ngày trước đó.

 

Toth nói Hungary từng nếm mùi thất trận và tàn phá nên không muốn thấy Sài G̣n bị tàn phá như Berlin năm 1945. Polgar hiểu đây là lời nhắn của Hà Nội, nên bên cạnh việc di tản, Polgar và Đại sứ Martin lo t́m cách thuyết phục Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ liên hiệp.

 

Chuyển giao quyền lực

 

Ngày 21-4, Kissinger điện cho Martin thông báo Liên Xô hứa sẽ thuyết phục Hà Nội chấp nhận giải pháp chính trị và tránh không làm bẽ mặt Mỹ. Trong khi đó, nhiều tin tức, thật có, giả có được loan truyền tại Sài G̣n. Hai tin giả: Quốc hội Mỹ chuẩn chi 350 triệu USD viện trợ quân dụng và Chính phủ Cộng ḥa miền Nam Việt Nam cho biết Martin phải ra đi nhưng Ṭa Đại sứ Mỹ có thể được duy tŕ tại Sài G̣n. Tin thật: Mỹ gây áp lực buộc Thiệu từ chức nhưng không muốn các tướng lĩnh làm đảo chính như năm 1963 đối với cựu Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.

 

Trước t́nh h́nh này, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn nói ông không muốn ngồi ở ghế Thủ tướng khi Minh thay Thiệu v́ ông ngại các thành phần cực hữu trong quân đội sẽ giết hại ông và ông muốn từ chức. CIA yêu cầu Cẩn nán lại trước khi có một giải pháp rơ ràng hơn.

 

Ngày 19-4 trước đó, Martin yêu cầu tướng Timmes thuộc Phái bộ Tùy viên quốc pḥng (hậu thân của MACV) gặp Thiệu để thảo luận một h́nh thức từ chức, rồi Phó Tổng thống Hương thay thế trước khi chuyển quyền cho Minh.

 

Chiều ngày 19-4 và sáng ngày 20-4, Martin gặp Thiệu hai lần. Martin nói với Thiệu rằng: “Tôi không ép ngài từ chức nhưng ngài biết quân Cộng sản có khả năng đánh vào Sài G̣n bất cứ lúc nào và nếu ngài không từ chức tôi ngại rằng các tướng của ngài cũng yêu cầu ngài từ chức”. Nhớ đến Lucien Conein với cuộc đảo chính ông Diệm năm 1963, Thiệu im lặng nghe và trả lời: “Tôi sẽ làm những ǵ có lợi nhất cho đất nước tôi”. Martin nói: “Tôi biết ngài sẽ làm!”.

 

Ngày 21-4, Thiệu cho biết sẽ từ chức trong ngày. Polgar vội vàng thông báo cho Toth. Vài giờ sau Thiệu từ chức, trao quyền tổng thống cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu đọc một bài diễn văn từ chức nảy lửa kết án Mỹ và Kissinger “đă đưa Nam Việt Nam vào chỗ chết”.

 

Ngay sau khi Thiệu từ chức, Mỹ bắt tay vào việc sắp xếp để Hương trao quyền cho Minh. Hà Nội cho biết sẽ không thương thuyết với Hương, một người nổi tiếng chống Cộng sản. Vấn đề là t́m một cách hợp hiến để trao quyền cho Minh. Theo Hiến pháp VNCH, nếu Hương từ chức th́ quyền tổng thống vào tay Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm. Bế tắc vẫn bế tắc.

 

Ngày 24-4, để tôn trọng Hiến pháp, Mỹ có sáng kiến đề nghị Minh thay Cẩn làm Thủ tướng toàn quyền nhưng Minh từ chối. Minh nói với tướng Timmes sẽ gặp Hương trong ngày để yêu cầu Hương từ chức. Đồng thời Polgar vận động các tướng nhắn lời với Hương rằng “các tướng đồng ḷng ủng hộ Minh và nếu không nhường chức tổng thống cho Minh, các tướng có thể đảo chính Hương”. Tuy vậy, Hương vẫn chần chừ và yêu cầu giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thay Cẩn lập chính phủ. Giáo sư Huy từ chối.

 

Cuối cùng, chiều 24-4, Hương gặp Martin đồng ư trao quyền cho Minh và yêu cầu Mỹ t́m một cách thức chuyển quyền hợp hiến. Hương cũng đồng ư với Minh yêu cầu Mỹ đưa Thiệu ra khỏi nước. Sự hiện diện của Thiệu tại Sài G̣n là một bất tiện cho mọi người.

 

Kỳ cuối: Người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.

 

 

Không có sự lựa chọn nào khác, Đại sứ Graham Martin cuốn cờ bước lên trực thăng. Theo chân ông là Polgar, LaGueux và Jacobson. Máy bay đưa ông đại sứ ra chiến hạm USS Blue Ridge. Ḥa b́nh đă thực sự đến với đất nước Việt Nam…

 

Thất bại của người Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Ảnh: T.L.

 

Cuộc di tản bí mật của Nguyễn Văn Thiệu

 

Ngày 25-4-1975, Polgar lái xe lên Tân Sơn Nhất gặp đại tá Vơ Đông Giang, người đại diện của Chính phủ Cộng ḥa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) trong Ủy ban quân sự 4 bên. Giang xác nhận một giải pháp chính trị có thể h́nh thành và Hà Nội sẵn sàng chấp nhận Minh là đối tác và lần đầu tiên nói chính phủ CHMNVN không phản đối sự hiện diện của Ṭa Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n.

 

Giang nói ḿnh đang chờ đợi việc Minh thay Hương và yêu cầu Polgar thông báo nếu có diễn tiến mới. Cũng trong ngày 25-4, đại tá Toth gặp Polgar cho biết, Hà Nội muốn biết có những ai trong danh sách nội các khi Minh thay Hương và hạm đội Mỹ túc trực ngoài hải phận quốc tế của Việt Nam để làm ǵ? Polgar nói, hạm đội chờ làm công tác di tản và cứu trợ. Polgar yêu cầu Toth cho Hà Nội biết Mỹ không muốn thấy các cuộc không kích vào Sài G̣n như đă xảy ra trước đây. Những cuộc ném bom như vậy có thể làm cho các thành phần quân nhân cực hữu tại Sài G̣n bạo động và sẽ không thể sắp xếp được một giải pháp êm thấm. Polgar nhấn mạnh việc Hương trao quyền cho Minh sẽ diễn ra nhanh chóng.

 

Để chuẩn bị việc chuyển giao quyền lực, ngày 24-4, Martin yêu cầu Polgar sắp xếp để Thiệu rời khỏi Việt Nam. Sự ra đi của Thiệu và Khiêm được Polgar sắp xếp một cách tối mật. Không một người Việt Nam nào biết (ngoài những người cùng đi với Thiệu và Khiêm) và chỉ những người Mỹ liên hệ sắp xếp kế hoạch ra đi mới được biết. Thận trọng đến nỗi Polgar phải nhờ Frank Snepp, chuyên viên phân tích cao cấp của Ṭa Đại sứ Mỹ làm tài xế cho Thiệu và Khiêm.

 

Cuộc di tản được tổ chức vào đêm 25-4 và CIA dùng một máy bay trước nay không dùng tới. Chiếc máy bay C-118 tầm xa do Tổng thống Johnson dành riêng cho Đại sứ Bunker dùng để thỉnh thoảng đi thăm vợ là bà Carol Bunker tại Cátmanđu, Nepal. Sau khi ông Bunker hết làm đại sứ tại Việt Nam, chiếc máy bay C-118 vẫn nằm trong kho tại sân bay Tân Sơn Nhất, không ai dùng tới kể cả Đại sứ Martin. Polgar hỏi và được biết chỉ cần vài giờ bảo tŕ và chuẩn bị là máy bay có thể sử dụng được.

 

Thiệu giao cho Khiêm liên hệ với Polgar sắp xếp nhân sự và hành tŕnh. Đoàn người kể cả Thiệu và Khiêm được lên danh sách gồm 14 người. Mỗi người được mang một túi hành lư và tối 25-4 tập trung tại nhà của Khiêm trong Bộ Tổng tham mưu gần sân bay Tân Sơn Nhất. Từ nhà ḿnh, cũng ở trong Bộ Tổng tham mưu, Thiệu chờ trời thật tối mới bước sang nhà Khiêm.

 

Polgar sau khi đến sân bay Tân Sơn Nhất gặp Giang đă ghé qua nhà Khiêm gặp tướng Timmes. Timmes và Polgar dùng chiếc đàn dương cầm ở nhà Khiêm làm bàn viết để điền giấy tờ tị nạn (parolee) cho đoàn người. Tổng cộng 12 người. Có hai người bỏ cuộc.

 

Vào sân bay, xe phải đi qua hai trạm mà Polgar cho là nguy hiểm: Cổng ra Bộ Tổng tham mưu và nhất là cổng vào sân bay nên Polgar thận trọng dùng xe của Đại sứ Martin với biển số và cờ ngoại giao đoàn để chở Thiệu và Khiêm, giả như một đoàn xe đưa đón một phái đoàn ngoại giao cao cấp. Qua cổng sân bay, Polgar yêu cầu Thiệu cúi thấp người và Thiệu làm theo.

 

Đại sứ Martin đứng đợi tiễn Thiệu tại chân cầu thang máy bay trong bóng tối mờ nhạt. Polgar lên máy bay cho cơ trưởng biết mục đích của công tác và ông ta cần làm những thủ tục ǵ khi máy bay đến Đài Bắc. Khi chiếc C-118 khuất dạng trong bóng đêm, Polgar điện cho cơ sở CIA ở Đài Bắc biết giờ phỏng định máy bay tới, sau đó gửi điện văn báo cáo với Langley: “Thông báo quư cấp, thi hành lệnh trên, CIA Sài G̣n đă di tản thành công cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tùy tùng 10 người khác. Máy bay cất cánh lúc 21 giờ 20 phút ngày 25 tháng 4, giờ địa phương”.

 

Những thủ tục cuối cùng

Ngày 26-4, sau khi Thiệu đi, Hà Nội tăng áp lực quân sự quanh Sài G̣n buộc sân bay Biên Ḥa đóng cửa. Trong khi đó, Thái Lan vẫn chưa quyết định có cho Mỹ di tản người Việt qua Thái Lan không. Và Philippines cho biết không nhận người Việt làm việc với CIA.

 

Polgar cho rằng Hà Nội hành động v́ sự chậm trễ của Hương. Trong khi đó, đại tá Toth cho Polgar biết Hà Nội muốn biết có những ai trong danh sách nội các của Minh. Minh đồng ư có bà Ngô Bá Thành nhưng nhất định không chịu cho linh mục Chân Tín tham gia nội các.

 

Trong thời gian Polgar thảo luận với Minh nên giữ và từ chối ai trong danh sách Hà Nội đề nghị th́ tờ New York Times tiết lộ một báo cáo của Polgar gửi cho Kissinger về công tác này và trả lời của Kissinger rằng ông không tin tưởng một giải pháp chính trị do Toth làm trung gian có thể thành công. Polgar nghi ngờ chính Kissinger tiết lộ tin này v́ Kissinger không muốn thấy nỗ lực của Chính phủ Hungary ảnh hưởng đến cuộc vận động của ông với Liên Xô.

 

Cho đến ngày 26-4, Cẩn theo khuyến cáo của CIA vẫn c̣n giữ ghế Thủ tướng nhưng bắt đầu sốt ruột. Cẩn yêu cầu Đại sứ Martin cho ông phương tiện rời Việt Nam. Ngày 27-4, Martin thấy không ai cần Cẩn nữa nên yêu cầu CIA sắp xếp cho Cẩn ra đi. Cẩn rời Sài G̣n ngày 28-4 cùng gia đ́nh tướng Nguyễn Khắc B́nh và vợ con của tướng Đặng Văn Quang trên một chiếc máy bay C-130. Quang nói ông không thể rời nước khi đang c̣n chức vụ. Sau khi Thiệu từ chức, Quang đă xin Tổng thống Hương miễn nhiệm nhưng không ai xét đơn của ông.

 

Trong ngày 27-4, với sự đồng ư của Đại sứ Martin, hai viện Quốc hội Việt Nam Cộng ḥa họp thông qua quyết định giao trọn quyền cho tướng Minh. Minh tuyên thệ nhậm chức tổng thống lúc 5 giờ chiều ngày 28-4 trong một bầu không khí ảm đạm. Minh ngỏ ư với Hà Nội muốn thương thuyết theo tinh thần của Hiệp định Paris. Các cuộc tiếp xúc có thể diễn ra tại Paris trước khi hai bên đồng ư một địa điểm thích hợp tại Việt Nam…

 

Tại Washington, Shackley được Polgar báo cáo Minh đă nhậm chức nhưng Shackley không quan tâm lắm và chỉ lo việc di tản. Shackley biết Hà Nội có khả năng pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất bất cứ lúc nào và đă chuyển lệnh của Washington cho tướng Homer Smith, Trưởng pḥng Tùy viên quốc pḥng Mỹ rằng nếu sân bay bị pháo kích, ông ta có quyền lấy quyết định khi nào th́ ngừng các chuyến bay di tản bằng C-130.

 

Đại sứ Martin đang bị bệnh sưng phổi không nói được nhưng cũng đến Ṭa đại sứ lúc 6 giờ sáng cho yên ḷng nhân viên và mọi việc liên lạc với tướng Smith ở sân bay Tân Sơn Nhất, với Đô đốc Noel Gayler, Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái B́nh Dương ở Honolulu, và với Kissinger, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ ở Washington, đều do Polgar đảm trách.

 

8 giờ sáng, Ṭa đại sứ nhận được thông báo của Minh yêu cầu tất cả nhân viên thuộc Pḥng Tùy viên quốc pḥng Mỹ phải rời Sài G̣n trong ṿng 24 giờ. Đại sứ Martin hứa thi hành và lệnh di tản toàn diện bắt đầu.

 

Tướng Smith báo cáo cho Đại sứ Martin biết sân bay không thể sử dụng được nữa và đề nghị Martin chuyển qua chương tŕnh di tản bằng trực thăng. Không tin, Đại sứ Martin đích thân lên sân bay Tân Sơn Nhất để quan sát bất chấp sự ngăn cản của các phụ tá. Trở về Ṭa đại sứ, 10 giờ 30 sáng, Martin ra lệnh chuẩn bị di tản bằng trực thăng.

 

11 giờ sáng, lệnh di tản bằng trực thăng của lực lượng Thái B́nh Dương được ban hành. Ngoài ṿng thành Ṭa đại sứ, nhiều người Việt bắt đầu tụ tập xin đi. Vào khoảng 3 giờ chiều, cuộc di tản bằng trực thăng do hạm đội 7 điều động bắt đầu. Trực thăng lớn C-53 di tản nhân sự tại sân bay Tân Sơn Nhất, ưu tiên cho nhân viên thuộc Pḥng Tùy viên quốc pḥng. Trực thăng C-47 nhỏ hơn di tản nhân sự tại Ṭa đại sứ. Mọi người phải ra đi ngoại trừ 200 nhân viên tối cần thiết, trong đó có 50 nhân viên CIA ở lại cho đến các chuyến bay cuối cùng để thanh lư mọi việc…

 

Đại sứ Martin cuốn cờ bước lên trực thăng

 

Trên nguyên tắc, Đại sứ Martin đă hết nhiệm vụ nên ông có thể rời Ṭa đại sứ bay ra hạm đội. Nhưng ông Đại sứ đặc biệt xin phép Tổng thống Ford để ông và vài phụ tá ở lại. Ông hy vọng – qua cuộc vận động của Kissinger với Mátxcơva – phút chót Hà Nội chấp nhận Ṭa Đại sứ Mỹ có thể ở lại và tránh được cái nhục cho Mỹ cuốn cờ bỏ chạy.

 

Ngoài một số lư do như quản lư kém, quân đội Việt Nam Cộng ḥa tan ră quá nhanh, lệnh di tản bằng trực thăng ban hành quá trễ là trở ngại lớn nhất làm cho Mỹ không thể thực hiện một cuộc di tản trong trật tự. Nhiều nhân viên người Việt và người nước ngoài làm việc cho Mỹ bị bỏ lại…

 

Trong lúc bối rối, Polgar đă quên chỉ thị cho các cơ sở của ḿnh tại các vùng chiến thuật khi nào th́ cần di tản và di tản bằng cách nào. Sau này, ông nói ông tin tưởng các nhân viên đầy kinh nghiệm t́nh báo của ḿnh thế nào cũng t́m đường xoay xở an toàn!

 

Xế chiều 28-4, các đơn vị Cộng sản bố trí ở phía Đông Sài G̣n bắt đầu pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Hạm đội 7 cho biết có thể ngừng di tản bất cứ lúc nào. Đại sứ Martin dù c̣n yếu vẫn lên máy kêu gọi Bộ Ngoại giao, Bộ Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái B́nh Dương và Nhà Trắng duy tŕ các chuyến bay di tản tại Ṭa đại sứ. Ông không ước lượng giờ có thể chấm dứt v́ số người lọt vào Ṭa đại sứ càng lúc càng đông.

 

8 giờ tối 28-4, Washington cho lệnh cuộc di tản phải chấm dứt vào lúc 3 giờ 45 sáng ngày 30-4. Được lệnh, Polgar báo cáo cần 20 phút để phá máy truyền tin đặc biệt và 3 giờ 20 sẽ là hạn chót chấm dứt mọi liên lạc với Washington.

 

9 giờ tối 28-4, Polgar báo cáo c̣n 8 nhân viên CIA ở lại, trong đó có ông, và CINCPAC yêu cầu Martin phải ra đi trước 11 giờ đêm để bảo đảm an toàn.

 

11 giờ khuya 28-4, Langley thúc Polgar cho mọi người ra đi và cho biết chỉ c̣n 35 chuyến trực thăng nữa. Polgar cho biết Đại sứ Martin quyết định sẽ ra đi trong chuyến máy bay cuối cùng.

 

Do có lệnh từ Hà Nội, các đơn vị Cộng sản án binh bất động để cho Mỹ di tản nhưng Polgar biết họ có thể pháo kích vào thành phố bất cứ lúc nào.

 

Colby, Giám đốc CIA gửi điện văn cuối cùng khen ngợi Polgar. Trả lời, Polgar nói: “Mọi việc không kết thúc như ư muốn nhưng tận trong thâm tâm tôi biết chúng ta đă nỗ lực tối đa”.

 

Vào lúc 4 giờ sáng ngày 30-4-1975, một viên thiếu tá Thủy quân Lục chiến bước đến gần Đại sứ Martin và nói với ông rằng: “Nếu ông không bước lên chiếc trực thăng đang chờ sẵn th́ tôi thừa lệnh đặc biệt của tổng thống sẽ phải khiêng ông đi”.

 

Không có sự lựa chọn nào khác, Đại sứ Graham Martin cuốn cờ bước lên trực thăng. Theo chân ông là Polgar, LaGueux và Jacobson. Máy bay đưa ông đại sứ ra chiến hạm USS Blue Ridge.

 

Trần B́nh Nam

 

https://hosotulieu.wordpress.com/

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: