MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHÂN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.(1)
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookings
vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen Culture vSyndicate vCapital Research
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS
vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm
vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc
THAY LỜI TỰA
Từ ngày sang định cư tại Mỹ, chúng tôi đă được đọc nhiều tác giả Việt cũng như Mỹ viết về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Phần đông đánh giá ông là một người yêu nước. Nhưng cũng có nhiều người bảo ông không có tài năng ǵ đặc biệt, chỉ là một ông quan giỏi về quản trị, không phải là một chính trị gia lỗi lạc. Có một số khác thậm chí coi ông là tay sai của Pháp thời thực dân. Đến năm 1954 th́ được Mỹ và Vatican “bồng lên đặt vào ghế thủ tướng”. Ông tồn tại được 9 năm là nhờ có bàn tay Mỹ nâng đỡ. Ông bị giết là v́ mất ḷng dân, nhất là v́ ông là người Công Giáo đă nghe lệnh Vatican đàn áp Phật Giáo “chiếm đến 80-90 phần trăm dân số Việt Nam”. Hơn nữa ông đă tính bắt tay với Cộng Sản miền Bắc, “bán đứng miền Nam cho Cộng Sản”.
Những luận điệu ấy phần nhiều đọc được trong sách của những nhà văn Mỹ bị ảnh hưởng của mấy nhà báo trẻ thường trú tại Sài G̣n thời ông Diệm, như David Halberstam, Neil Sheehan, Malcolm Browne… Về phía Việt Nam th́ có những tác phẩm hồi kư chiến tranh của những tướng tá, hay chính khách thuộc một vài đảng phái có tham gia hay dính líu đến các cuộc đảo chính 11-11-1960 và nhất là 1-11-1963.Cũng có một số sách viết bởi nhóm tranh đấu Phật Giáo trước 1975, nhất là nhóm Giao Điểm do ông Trần Chung Ngọc cầm đầu.
Đọc những tác phẩm đó, th́ thấy ông Ngô Đ́nh Diệm quá tệ, và tội lỗi của ông và gia đ́nh ông quá nhiều. Nhưng may là chúng tôi cũng ṭ ṃ đi t́m thêm nhiều nguồn tin khác, th́ thấy những nhận định khác hẳn.
Năm 1998 chúng tôi đă soạn cuốn Ngô Đ́nh Diệm Lời Khen Tiếng Chê để tŕnh bày với độc giả cả hai bức chân dung của ông Diệm căn cứ vào những lời khen và tiếng chê. Hai bức chân dung ấy chỉ là phác thảo mấy nét sơ sài.
Đến nay, sau đúng 10 năm, sau một thời gian nghiên cứu, tham khảo thêm nhiều hơn nữa th́ thấy càng ngày những sách báo và tài liệu về ông Diệm càng nhiều và những nhận định về ông càng ngày càng có chiều thay đổi. Cuối cùng được thấy một chân dung Ngô Đ́nh Diệm hoàn toàn trái ngược.
V́ thế lần này chúng tôi sẽ tổng hợp tất cả những nhận định đó vào trong phần đầu của tập sách này để nói sơ lược về con người, cuộc đời và hoạt động chính trị của ông. V́ cuộc đời một nhân vật lịch sử gắn bó chặt với các biến cố lịch sử, nên không thể nào không thuật lại và b́nh luận về các biến cố ấy. Nhưng như vậy e rằng phần cốt lơi của tiểu sử sẽ quá nặng nề hoặc loăng ra. Cho nên xin bạn đọc theo dơi những chi tiết các biến cố nơi các chú thích. Hơn một trăm chú thích này cũng sẽ cung cấp những bằng chứng trên giấy trắng mực đen về những điều chúng tôi tŕnh bày. Có thể là qua đó bạn đọc cũng sẽ thấy bản tóm lược tiểu sử đỡ buồn tẻ, khô khan.
Chúng tôi hy vọng rằng những lời chân thực, mộc mạc nhưng “nói có sách, mách có chứng” (1) chứa đựng trong tập sách này sẽ cho độc giả một bức chân dung gần với sự thực hơn của ông Ngô Đ́nh Diệm. Để cho người ghét bớt ghét ông, và người yêu cũng có dịp t́m hiểu tại sao ông đă bị hại hay thất bại.
Chúng tôi cũng ôm một hoài băo là những trang sách viết trong lúc ở tuổi bát tuần, sẽ làm cho các Phật tử từng có định kiến rằng ông Diệm Công Giáo kỳ thị và đàn áp Phật Giáo sẽ có dịp hiểu ông hơn, để giải tỏa những hiểu lầm và oán thù có hại cho sự đoàn kết giữa người cùng chung một Tổ Quốc.
Trong phần II cuốn sách, chúng tôi sẽ tŕnh bày kỹ hơn về một điểm gây nhiều tranh căi và thắc mắc liên quan đến đường lối và hành động chiến tranh ư thức hệ đặc biệt của anh em ông Diệm. Đó là những toan tính hiệp thương với miền Bắc Cộng Sản.
Phần III gồm những vấn đề linh tinh liên quan đến Tổng Thống Diệm.
Và Phần IV là lược tóm 2 cuốn sách liên quan đến Đệ Nhất Cộng Ḥa.
Trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, chúng tôi chỉ là một sĩ quan cấp úy, giữ một chức vụ nhỏ nhất trong cấp bậc hành chánh là chủ sự pḥng, chưa bao giờ được gặp cấp tổng giám đốc chứ đừng nói đến các cấp cao hơn, nhất là Tổng Thống hay ông Ngô Đ́nh Nhu. Hơn nữa trong khi “biến cố Phật Giáo” xảy ra đưa đến cuộc đảo chính đẫm máu, th́ chúng tôi đang tu nghiệp tại ngoại quốc, đến tháng Tư năm sau mới hồi hương. V́ vậy chúng tôi không có được cái lợi thế làm nhân chứng trong một biến cố quan trọng được tŕnh bày ở đây. Nhưng trong khi biên soạn tập tài liệu này chúng tôi cũng có dịp được gặp một số nhân chứng hiếm hoi c̣n sống, nhất là được đọc những tác phẩm của họ.
Chúng tôi không được đặc ân ǵ của chế độ. Cũng không lập được thành tích ǵ đáng kể. Suốt trong thời gian 9 năm chỉ được thăng một cấp, mặc dù khi ra trường c̣n thời quốc trưởng Bảo Đại, đă được giữ ở lại làm huấn luyện viên của trường lúc ấy c̣n giảng dạy bằng tiếng Pháp và do một thiếu tá Pháp chỉ huy. Những ǵ chúng tôi làm được thời Đệ Nhất Cộng Ḥa duy nhất chỉ có một cuốn sách viết về sách lược cộng sản, chứ không phải về thành tích hay công trạng của chế độ.
V́ vậy xin bạn đọc hăy tin rằng chúng tôi viết cuốn sách này với tinh thần khách quan, chứ không phải để đền ơn, hay ca tụng một tổng thống quá cố. Mục đích của tập sách là kéo độc giả nh́n về một số sự kiện lịch sử khách quan mà phần đông tác giả đi trước đă quên hay cố t́nh bỏ qua. Nếu có ǵ sai sót th́ đó là do khả năng có hạn. Và xin được thông cảm và bổ khuyết.
Minh Vơ
Nam Cali, ngày 7-7-2008
(1) Phần lớn những chứng từ quan trọng liên quan đến từng vấn đề then chốt đều được chúng tôi lấy từ chính những nguồn tin của phía chống đối ông Diệm. Chẳng hạn như Trần Văn Đôn, Nguyễn Cao Kỳ, Hồ Sỹ Khuê hay Stanley Karnow, Neil Sheehan…
MỤC LỤC
Thay Lời Tựa
Mục Lục
PHẦN I
1- Sơ lược tiểu sử Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
PHẦN II
2- Cành đào Xuân Quí Măo
3- Tết Con Heo nhớ Xuân Con Mèo
4- Một số thắc mắc về toan tính hiệp thương
PHẦN III
5- Từ vinh quang đến tử nạn
6- Cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và vấn đề chính nghĩa dân tộc
7- Ba giờ nghe một nhân chứng
8- Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ
9- Di cư, một kỷ niệm đắng cay sau trở nên ngọt ngào
10- Nước mắt dập tắt lửa hận thù
11- Công Tử Hà Đông bị hiểu lầm
PHẦN IV
12- Chiến thắng bỏ lỡ
13- Xin cứu chúng tôi khỏi sự dữ
PHỤ LỤC
Một lá thư dài của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Lời cuối sách
Thư Mục
PHẦN I
MinhVơ
1- SƠ LƯỢC (1) TIỂU SỬ TỔNG THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM
GIA THẾ
Ngô Đ́nh Diệm là con thứ bốn trong số chín người con của ông Ngô Đ́nh Khả và bà Phạm Thị Thân (2) nguyên quán làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh, phía bắc vĩ tuyến 17. Tổ tiên ông, ḍng họ Ngô Đ́nh, từng theo đạo Công Giáo từ thế kỷ 17. Năm 1870 hàng trăm người họ Ngô Đ́nh đă bị thiêu sống trong một nhà thờ. Đó là thời gian giáo dân cả nước đang trải qua những cuộc bách hại quy mô theo lệnh các vua Minh Mạng và Tự Đức (3)
Cha ông, cụ Ngô Đ́nh Khả (1857-1925) là đại thần nhà Nguyễn, từng là Phụ Đạo Đại Thần, thượng thư bộ Lễ, và Hiệp Tá Đại Học Sĩ. Ông là người vừa thâm nho, vừa thông thạo Pháp văn và La Tinh.
Ông cũng có công sáng lập và điều khiển trường Quốc Học Huế.(4) Ông nổi tiếng là bậc “trung quân” theo truyền thống Nho Giáo cho nên khi nhà cầm quyền Pháp ép các quan trong triều kư giấy yêu cầu đầy vị vua yêu nước Thành Thái, là vị vua đă học ông và trọng dụng ông, th́ ông là người duy nhất không chịu kư. V́ thế Triều đ́nh đă chịu sức ép của Thực Dân lột hết mọi chức tước, quyền lợi của ông và cho về hưu năm 1907.(5) Lúc ấy Ngô Đ́nh Diệm mới được 6 tuổi, Ông Diệm sinh tại Huế ngày 3 tháng 1 năm 1901.
V́ là vị đại quan rất mực thanh liêm, nên khi đă mất hết chức tước và bổng lộc, gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Khả lâm cảnh túng bấn.(6) Ông đem vợ con về sống với nghề nông và lo dạy dỗ các con nên người hữu dụng cho tổ quốc. Vốn là một nhà giáo dục khuôn mẫu, từng dạy vua, ông đem hết tài chuyên môn ra để uốn nắn các con theo lư tưởng của ḿnh. Ông bắt các con ḥa ḿnh vào đời sống cực nhọc vất vả trên những cánh đồng bùn lầy như nhà nông là thành phần chiếm tuyệt đại đa số quốc dân. Ông thường nói với các con trai: “Đàn ông con trai phải sống như nông gia.”
THIẾU THỜI
Thuở thiếu thời Ngô Đ́nh Diệm rất ngoan đạo và chăm học. Năm 6 tuổi đă được giải nhất của nhà trường về sự chăm chỉ. Có lần v́ chăm quá mà bị cha đánh đ̣n. Đó là một hôm trời mưa, nước lớn, các anh bị cha cấm không được đến trường v́ nguy hiểm, nhưng Diệm đă lén ra đi một ḿnh, nương theo bờ đê. Ông Ngô Đ́nh Khả đă truyền lại cho các con, đặc biệt là Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Diệm ḷng yêu nước và sự sùng đạo của ḿnh, nhất là tinh thần chống Pháp. Tuy chống Pháp nhưng ông vẫn cho các con theo học trường Pháp, v́ lúc ấy chỉ những trường này mới cung cấp những kiến thức cần thiết cho những nhà lănh đạo tương lai của xứ sở. Ông đă trao Ngô Đ́nh Diệm cho thượng thư Nguyễn Hữu Bài coi sóc dạy dỗ như con. Chính ông Bài đă dọn đường cho Ngô Đ́nh Diệm bước vào quan trường trong chế độ bảo hộ. Ông c̣n tạo điều kiện để ông Diệm có dịp gặp ái nữ của ḿnh mong có được chàng rể quư. Nhưng ông Diệm luôn luôn tránh né v́ không muốn vướng mắc bận bịu với thê nhi.
Năm 15 tuổi Ngô Đ́nh Diệm c̣n tỏ ư muốn đi tu để làm linh mục và đă vào chủng viện. Nhưng chỉ mấy tháng sau đă bỏ ư định đó, v́ thấy cuộc sống nhà tu không hợp với chí tang bồng của ông. Nhờ thành tích học đường xuất sắc, Diệm đă được một học bổng ở Paris nhưng ông đă từ chối. Ngay lúc ấy ông đă nuôi chí lớn và có tham vọng sẽ làm được cái ǵ để giành lại độc lập cho quê hương. Bà mẹ ông đă từng bảo, Diệm là con người thuần túy Việt Nam, không giống các anh em khác từng có dịp du học ở ngoại quốc.(7)
Sau khi học xong chương tŕnh trung học của trường Quốc Học Huế, Ngô Đ́nh Diệm ra Hà Nội vào học tại trường đại học do người Pháp điều khiển. Môn học chính là Luật và Quản Trị. Một bài báo ông Diệm viết bằng tiếng Pháp đăng trên tập san Bulletin des amis du vieux Huế năm 1917 cho thấy thiếu niên 16 tuổi Ngô Đ́nh Diệm đă sớm có một kiến thức đáng nể chẳng những về cả Pháp văn lẫn Hán văn, mà c̣n về khảo cổ. V́ nội dung bài viết đó tả chi tiết về một cổ vật được coi như vật quốc bảo, được vua Tự Đức nhân cách hóa và phong tước hầu. Đó là chiếc nghiên mực Tức Mặc Hầu. Dưới đáy nghiên mực vô giá này có khắc một bài thơ ngự chế của nhà vua được Ngô Đ́nh Diệm chuyển ngữ và b́nh chú bằng Pháp văn.
BƯỚC VÀO QUAN TRƯỜNG
Năm 20 tuổi ông tốt nghiệp thủ khoa và được cử làm tri phủ, giống như quận trưởng thời Việt Nam Cộng Ḥa. Tuy ông được cấp một chiếc xe kéo với phu xe và lính lệ theo hầu, nhưng thường ông thích cưỡi ngựa rong ruổi khắp nơi để được trực tiếp với dân hầu biết rơ dân t́nh và t́m cách giải quyết nhanh những vấn đề của dân.
Chính trong thời gian này thượng thư Nguyễn Hữu Bài đă trực tiếp giới thiệu con gái với vị quan trẻ. Nhưng ông Diệm đă thẳng thắn bày tỏ nỗi ḷng khiến vị thượng thư thất vọng và người thục nữ cũng bẽ bàng. Sau đó cô đă vào ḍng tu để quên mối t́nh vô vọng. Cô Nguyễn Thị Tài, ái nữ thượng thư Nguyễn Hữu Bài, trở thành nữ tu Aimée và cuối đời thành mẹ bề trên ḍng kín Carmelô ở Huế.
Năm 1929, ở tuổi 28 ông Diệm được bổ nhậm chức vụ tuần vũ đứng đầu tỉnh Phan Thiết. Trong 4 năm làm việc tại đây ông đă chứng tỏ là một ông quan thanh liêm để hết tâm trí lo cho dân.??? Nhưng ông cũng quyết liệt cải hóa, hoặc vô hiệu hóa những phần tử cộng sản trong vùng lúc ấy đă bắt đầu xuất hiện với chiêu bài cách mạng chống Pháp, nhưng hành động của họ chỉ là phá rối cuộc sống yên ổn của người dân. Ngay từ lúc ấy ông đă nghiên cứu về Cộng Sản, và thấy chủ trương cách mạng ngoại lai từ học thuyết Mác-xít không hợp với xă hội và truyền thống dân tộc Việt Nam. Hơn nữa những hành động của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh với chủ trương “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” càng khiến ông quyết liệt ra tay tảo thanh các phần tử quá khích hoạt động dưới chiêu bài cách mạng chống Pháp. Về sau Cộng Sản, và những phần tử thân Cộng thường cho rằng ông là tay sai của Pháp. Nhưng đă hiểu con người ông và theo dơi hành động của ông trong suốt cuộc đời làm cách mạng, làm chính trị của ông th́ thấy rơ ông quả thực là một nhà ái quốc .(8)
Với những thành tích xuất sắc, đầu năm 1933 ông được vua Bảo Đại cử làm thượng thư bộ Lại là bộ đứng đầu lục bộ, tương đương với chức vụ thủ tướng thời nay. Lúc ấy ông mới có 32 tuổi, những bộ trưởng dưới quyền ông hầu hết đều hơn ông cả chục tuổi. Ngoài chức thượng thư bộ Lại, nhà vua c̣n đặt ông đứng đầu Ủy Ban Cải Cách là một cơ quan tối cao hỗn hợp Việt Pháp, nhằm đem lại nhiều quyền hành hơn cho Triều Đ́nh và chủ quyền cho người dân Việt Nam. Tiếc rằng những cố gắng của ông đụng phải sự ngoan cố của nhà cầm quyền thực dân, khiến ông dứt khoát rời bỏ chức quyền không luyến tiếc. Trái lại nhà vua rất luyến tiếc ông, mặc dù bị ông tố cáo là nhu nhược trước sức ép của Thực Dân. Trong cuốn hồi kư Le Dragon D’Annam (Con Rồng Việt Nam) Bảo Đại đă ghi lại lời ông nói với ông Diệm lúc đó: “mong rằng sự ra đi của quan thượng sẽ mở mắt cho người Pháp.” (9)
Hành vi “rũ áo từ quan” này đă được nhà vua thông cảm, nhiều người cảm phục. Nhà cách mạng lừng danh Phan Bội Châu nhân dịp này đă ca ngợi ông Diệm là chí sĩ, vĩ nhân và làm một bài thơ vô đề để bày tỏ ḷng kính phục. Nguyên văn bài thơ thất ngôn bát cú đă được đăng trên báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng ngày 27-12-1933. Bài này là một trong 10 bài Vô Đề của cụ Phan:
Ai biết trời Nam hăy có người
Xịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng
… (câu 4 kiểm duyệt bỏ) (10)
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui
Ví chăng kịp lúc làm vai vế
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Sào Nam Phan Bội Châu
(Tiếng Dân 27-12-1933)
17 NĂM HOẠT ĐỘNG BÍ MẬT
Sau khi từ bỏ mọi chức tước và bổng lộc của triều đ́nh, ông Ngô Đ́nh Diệm dùng hết thời gian cho việc đọc sách, nghiên cứu chính trị và không ngừng liên lạc với các nhà ái quốc như Phan Bội Châu… ở trong nước và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lúc ấy đang lưu vong ở Nhật.
Nhà ông lúc ấy thường có nhiều nhân vật yêu nước lui tới bàn thảo các vấn đề quốc sự. Có tài liệu nói ông có tiếp xúc với Vơ Nguyên Giáp là người đồng hương khi chưa phải đảng viên Cộng Sản, nhưng đă có xu hướng xă hội tả phái rơ rệt. Hai người cố thuyết phục nhau theo ḿnh nhưng không ai thành công.
Nơi ông sống lâu nhất trong thời gian này là Huế, tại nhà cha mẹ, ở Phủ Cam, lúc ấy em ông là Ngô Đ́nh Cẩn lúc nào cũng có mặt bên cạnh bà Ngô Đ́nh Khả. Ngày nào ông Diệm cũng đi lễ ở nhà thờ. Sau đó đọc sách nghiên cứu. Những lúc rảnh rỗi th́ cỡi ngựa, đi săn hay chụp h́nh, làm vườn.
Một nhân chứng là cụ Vơ Như Nguyện hiện ở Lons, miền Nam nước Pháp, và là thân phụ nha sĩ Vơ Trọng Di ở San Diego, đă kể về ông Diệm trong thời gian này như sau: Bề ngoài ông Diệm có vẻ an phận. Nhưng thực ra ông có những hoạt động bí mật ít người biết. Cụ Nguyện có kể cho cựu trung tá Nguyễn Văn Minh, tác giả cuốn Ḍng Họ Ngô Đ́nh, Giấc Mơ Chưa Đạt câu chuyện sau:
Nguyên cụ Nguyện là con của cụ Vơ Bá Hạp, đồng song với cụ Phan Bội Châu,(11) nên có thời gian được gần gụi cụ Phan như con cháu trong nhà. V́ thế có lúc cụ Phan sai chàng trai Vơ Như Nguyện đi theo pḥ cụ Ngô. Một hôm cụ Ngô sai chàng trai Vơ Như Nguyện vào Sài G̣n vận động cho hai đồng chí của cụ Ngô đang bị Pháp giam giữ. Từ đó Vơ Như Nguyện mới được biết hoạt động yêu nước của cụ Ngô, và cũng từ đó trở nên đệ tử thân tín của cụ Ngô.
Cùng thời gian ấy thỉnh thoảng Cụ Ngô cũng ghé thăm người anh cả là Ngô Đ́nh Khôi đang làm tổng đốc Quảng Nam, mặc dầu người Pháp đă cảnh cáo ông “không được dùng tư tưởng quá khích của ḿnh làm hại đến sự nghiệp của ông anh”. Có lẽ v́ những cuộc tiếp xúc này mà vào năm 1942 ông Khôi đă bị buộc phải từ chức.
Ông Diệm cũng trao đổi thư từ với các nhà ái quốc của một số nước trong vùng như Subha Chandra Bose của Ấn Độ, Soekarno của Nam Dương (Indonesia) là những người đang trông vào sức mạnh đang lên của Nhật Bản sẽ giúp họ giành độc lập cho xứ sở. Tuy nhiên ông Diệm có lư riêng để không chỉ t́m sự viện trợ vật chất hay tinh thần của riêng một cường quốc nào. Mà cố suy nghĩ để t́m ra một con đường riêng cho dân tộc Việt.
Khoảng đầu thập niên 40 thế kỷ 20, sau khi cụ Sào Nam Phan Bội Châu, tục gọi Ông Già Bến Ngự, qua đời (1940), ông Diệm lập một hội kín lấy tên là Đại Việt Phục Hưng Hội gồm đại đa số là người Công Giáo miền Trung, gần quê hương ông. Mùa hè năm 1944 cảnh sát Pháp hay tin bèn bắt giam các thành viên của tổ chức này. Ông cũng có một tờ báo riêng. Chủ bút bị Pháp giết. Ông Diệm đă thoát được, nhờ người Nhật giúp che giấu rồi cải trang thành một sỹ quan của Quân Đội Hoàng Gia. Tới Sài G̣n, những tháng sau đó ông tiếp tục được quân Nhật che chở khỏi tai mắt lính kín Pháp.
Năm 1943 ông đă phái một đồng chí sang Nhật tiếp xúc với hoàng thân Cường Để là người đang được nước Nhật “cưu mang”. Ư ông muốn đưa hoàng thân về thay vua Bảo Đại là người mà ông không đến nỗi ghét, nhưng chê là “công cụ của Thực Dân”. Nếu kế hoạch này thành th́ có thể ông sẽ là thủ tướng trong một chính thể Quân Chủ Lập Hiến.
Nhưng tiếc là người Nhật, lúc ấy đang chia làm hai phe theo hai xu hướng khác nhau. Phe cấp tiến, có lư tưởng muốn giúp các nước vùng Đông Á được hoàn toàn độc lập tự do. Phe bảo thủ hăy c̣n muốn chi phối giới lănh đạo bản xứ. Chẳng may phe sau này lại thắng thế và tư lệnh quân đội Nhật tại Đông Dương lúc ấy lại theo phe này. Họ muốn giữ vua Bảo Đại để “dễ bảo”. Đúng ra họ sợ ông Diệm hơn là ông Cường Để.(12)
Trong năm 1944 ông Diệm thường bị thực dân Pháp theo dơi để ngăn cản ông hoạt động chống Pháp. V́ vậy ông thường thay đổi chỗ ở luôn. Lúc th́ ở Huế với ông Ngô Đ́nh Cẩn, lúc th́ vào Sài G̣n hay xuống Vĩnh Long với giám mục Ngô Đ́nh Thục. Một hôm ông từ nhà ông Cẩn ra phố đến khi trở về th́ thấy từ xa xa, gần nhà ông Cẩn có chuyện bất thường. Ông nghi là quân Pháp đă đến t́m bắt ông. Và đúng vậy. Nên ông lỉnh đi t́m một nhà người quen ẩn náu.
Hôm sau th́ có tin ông có tên trong danh sách những kẻ bị truy nă. Lập tức ông trốn vào Sài G̣n ẩn náu ở những nhà bạn thân và đồng chí.
Từ đó có lúc ông phải nhờ đến quân đội Nhật che chở. Ta đă biết rằng người Nhật lúc ấy đang cho hoàng thân Cường Để (Kỳ Ngoại Hầu Cường Để) cư trú tại nước Nhật. Họ cũng có cảm t́nh với nhà cách mạng Phan Bội Châu với phong trào Đông Du. Mà cụ Phan th́ lại mến phục ông Diệm, kể từ khi được tin ông này từ chức thượng thư bộ Lại để phản đối người Pháp. Cho nên trong thời gian cụ Phan gần như bị giam lỏng ở Bến Ngự th́ lúc ấy ông Diệm cũng hay lui tới nhà ông Ngô Đ́nh Cẩn ở Phủ Cam cách Bến Ngự độ mươi mười lăm phút đi bộ. V́ vậy nhiều người, trong số đó ông Vơ Như Nguyện, cho biết cụ Phan thỉnh thoảng kín đáo tiếp ông Diệm tại nhà và cho các đồng chí của cụ giúp đỡ trong những lúc ông Diệm bị Pháp truy lùng, sách nhiễu.
Sau vụ đảo chính 9-3-1945, người Nhật đă giấu không cho vua Bảo Đại biết ông Diệm ở đâu để mời lên làm thủ tướng.(13)
Chờ gần một tháng (từ 19 tháng 3 đến 17 tháng 4) không có hồi âm của ông Diệm, nhà vua đă chọn sử gia Trần Trọng Kim thay vào đó. Theo một số người, như Bernard Fall, th́ như thế lại càng hay cho ông Diệm, v́ ông khỏi mang tiếng là thủ tướng bù nh́n do người Nhật dựng lên. Nhưng cũng có người nghĩ, nếu ông Diệm ở vào vị thế của ông Trần Trọng Kim, có thể nhóm ông Hồ đă không có thể cướp được chính quyền một cách quá dễ dàng.
Biến cố gọi là cách mạng tháng tám (19-8-1945) khi phát khởi tại miền Trung đă thiêu hủy của ông Diệm một tủ sách gồm gần chục ngàn cuốn tích lũy từ khi ông c̣n là sinh viên.
Sau khi Việt Minh cướp chính quyền trên toàn quốc, ông Ngô Đ́nh Diệm đă bị Việt Minh bắt ở Tuy Ḥa và giải ra giam ở Tuyên Quang. Khi ông bị bệnh v́ thiếu ăn và quá cực khổ, th́ Hồ Chí Minh ra lệnh đưa ông về Hà Nội. Tại đây ông đă được lănh tụ Việt Minh mời tham gia chính phủ Liên Hiêp với cương vị bộ trưởng nội vụ. Nhưng ông đă sáng suốt và can đảm từ chối.(14)
Cũng có tài liệu cho rằng đă có lúc ông Diệm tính hợp tác với Việt Minh. Nhưng ông đă đặt điều kiện là ông phải được quyền hoạch định chính sách. Dĩ nhiên Hồ Chí Minh không thể nhượng bộ trong vấn đề sinh tử ấy.(15)
Ông bị Việt Minh giam một thời gian tại phủ Chủ Tịch. Rồi được phóng thích theo lệnh Hồ Chí Minh. Về sau nhiều cán bộ cao cấp của Việt Minh hối tiếc về sự phóng thích này, và có ư phiền trách “Hồ chủ tịch đă quá rộng lượng mà thả hổ về rừng”. Nhưng lúc ấy ông Hồ cólư để lấy ḷng giới Công Giáo, v́ ông Diệm là một lănh tụ Công Giáo có nhiều ảnh hưởng. Khi bị đàn em như Lê Giản, Vũ Đ́nh Huỳnh can ngăn, ông Hồ đă bảo họ: “hăy v́ người Cha mà thả người con”. Ông Hồ đă nhắc nhở họ bằng câu đồng dao “Đầy vua không Khả, Đào Mả không Bài” (ông Ngô Đ́nh Khả nổi tiếng với câu đồng dao này).(16)
Thoát nạn, ông Diệm tập trung tư tưởng vào việc t́m cách tạo một lực lượng thứ 3 vừa chống Pháp vừa chống Việt Minh. Ông tiếp xúc với người kháng chiến để thuyết phục họ bỏ đường lối Cộng Sản. Ông liên lạc với những người có tinh thần quốc gia đang hợp tác với Pháp chống Việt Minh để khuyên họ theo ông.
Theo báo cáo của t́nh báo Pháp th́ lập trường của ông được nhiều phần tử Việt Minh ở Nam Bộ quan tâm và cũng có tin là ông suưt có thể giúp cho tướng Nguyễn B́nh đào thoát khỏi hàng ngũ Việt Minh một cách an toàn. Nguyễn B́nh lúc ấy là tư lệnh Việt Minh ở Nam Bộ. Sau đă bị Việt Minh khử trừ qua tay người Pháp.(17)
Năm 1947 Ngô Đ́nh Diệm đă cùng với Nguyễn Tôn Hoàn, một người đồng đạo, đang lănh đạo Đại Việt Quốc Dân Đảng lập một liên minh mới lấy tên là Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp. Đă có lúc tổ chức này có triển vọng thành công, v́ hai người đă rút được kinh nghiệm về sự thất bại của mặt trận Thống Nhất Quốc Gia đă được thành lập vào đầu năm ấy tại hội nghị giữa các đảng chống cộng ở Nam Kinh, Trung Quốc. Theo ông Hồ Sỹ Khuê viết trong cuốn Hồ Chí Minh-Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam th́ thời gian này ông Diệm có hai tờ báo: Hoa Lư và Tinh Thần và ông Khuê có công đóng góp trong đó. Đó là lúc cựu hoàng Bảo Đại đang ở Hồng Kông sau một chuyến đi công tác do Hồ Chí Minh trao phó. Ông đă lợi dụng dịp này để thoát khỏi vai tṛ trớ trêu dở khóc dở cười phải đóng trong chức cố vấn tối cao của chính phủ Liên Hiệp do Hồ lănh đạo.
Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Tôn Hoàn đă cùng với một số lănh tụ các đảng phái quốc gia cố vấn cho Bảo Đại, yêu cầu ông đứng ra lănh đạo phe Quốc Gia chống Cộng, đồng thời tranh đấu với chính quyền Pháp để thu hồi độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.
Trong thời gian ở Hồng Kông, ông Diệm ngụ tại khách sạn Paramount. Ngày nào cựu hoàng cũng cho người đón ông Diệm đến để bàn tính cách đối phó với đại diện của cao ủy Pháp Émile Bollaert trong cuộc điều đ́nh về nền độc lập của Việt Nam.
Ban đầu mọi người chung quanh Bảo Đại đều tán thành “giải pháp Ngô Đ́nh Diệm”. V́ theo lời cựu thủ hiến Bắc Việt Phạm Văn Bính th́ “Hồi tôi giúp việc Cựu Hoàng ở Hồng Kông tôi chưa từng thấy một chính khách Việt Nam nào được người trong nước và ngoài nước ủng hộ như cụ Ngô”.(18) Nhưng v́ tính cương nghị và lập trường quá cứng rắn (Tout ou rien =có tất cả, hoặc chẳng có ǵ) của ông Diệm trong vấn đề độc lập nên về sau một số tỏ ư chống. Họ bị ông Diệm coi là yếu hèn không đủ sức đương đầu với sự ngoan cố của Thực Dân. C̣n họ th́ tâu với cựu hoàng rằng “Diệm đă vô ơn và vô lễ với cựu hoàng khi từ chức Lại bộ thượng thư, bỏ triều đ́nh, bỏ vua mà ra đi không nghĩ ǵ đến t́nh nghĩa vua tôi. Như vậy th́ lần này không nên trọng dụng hay nghe lời sàm tấu của ông ta nữa.”
Nhưng Bảo Đại vẫn quư trọng Ngô Đ́nh Diệm và ủy thác cho ông đại diện cựu hoàng để thương thuyết với cao ủy Pháp Émile Bollaert về tương lai Việt Nam.
Trước đó, trong khi cố thuyết phục cựu hoàng và các nhân vật chung quanh cựu hoàng về một lập trường cứng rắn đối với Pháp, ông cũng vận động riêng với các giới chức Pháp để hỗ trợ cho lập trường này. Nhưng không có kết quả.
Điều có ư nghĩa, và đáng chú ư là các cuộc đàm luận và tranh căi để vận động cho một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập của ông đă phản ánh một quan niệm rơ rệt về một nền cộng ḥa tương lai.(19)
Cuối cùng ông Diệm đă thất bại sau một cuộc tranh luận nảy lửa với Bollaert tại dinh Norodom. (20)
Không đạt được mục đích là cố đ̣i cho Việt Nam một nền độc lập rộng răi, giống như chế độ Dominion mà người Anh đă dành cho Ấn Độ và Pakistan trước đó một năm, ông Diệm bèn rút ra khỏi đám cận thần của Bảo Đại. Tướng Nguyễn Văn Xuân được cử làm thủ tướng để kư với Bollaert bản thông cáo chung Vịnh Hạ Long ngày 5-6-1948. Theo thông cáo này, Pháp “long trọng nh́n nhận nền độc lập của Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp.”(21)
Ngày 22-2-1948 ông Diệm mời một số lănh tụ các đảng phái kể cả các giáo phái và đại biểu các tỉnh miền Nam họp tại Sài G̣n để thảo luận về những điều kiện cần đưa ra trong các cuộc thương thuyết với Pháp. Những điều kiện đó là người Pháp phải điều đ́nh với “Đại Hội Các Nhân Sỹ” và chấp nhận vị đại diện do hội đồng này chỉ định như lănh tụ có thẩm quyền nhất của Việt Nam.Nhưng Bollaert đă thoái thác.
Một tháng sau, trong một cuộc hội kiến với ông Diệm, Bollaert đă nói thẳng với ông Diệm rằng Việt Nam không thể nào có một thể chế giống như thể chế Dominion của Liên Hiệp Anh được.(22)
Ngày 24-3-1948, do sáng kiến của ông Diệm, Hội Đồng Nhân Sỹ làm một kiến nghị xin thành lập một ủy ban nghiên cứu về một chính phủ lâm thời đoàn kết quốc gia. Ông Diệm cho rằng với một chính quyền như thế th́ phe Quốc Gia có thể đương đầu với phe Việt Minh. Lúc ấy Việt Minh đă có hiến pháp, quốc hội do dân bầu. Nhưng những nhân vật xung quanh cựu hoàng Bảo Đại đă nôn nóng có một chính quyền sớm chừng nào tốt chừng đó, bất kể nó có đại diện cho toàn dân hay không.
Vào tháng 6 năm 1948, cả Bảo Đại lẫn người Pháp thấy chính phủ mà họ lập nên không hoạt động được. Họ đă xin ông Diệm giúp ư kiến.
Ngày 14-6-1948, ông Bảo Đại nhậm chức Quốctrưởng. Liền sau đó mời ông Diệm làm thủ tướng, nhưng bị từ chối. Ông Diệm đ̣i có cải tổ về xă hội, kinh tế và chính trị, là những điều mà người Pháp không thể nào làm được. Những đề xuất đó, đă được phổ biến dưới dạng một bản tuyên ngôn, đă không mang lại kết quả.
Không đạt được những cải tổ cần thiết, ông đă tạm lui vào bóng tối, không c̣n xuất hiện trước công chúng nữa.(23)
Một tài liệu t́nh báo Pháp được sử gia Pháp Bernard B. Fall nhắc đến trong tác phẩm The Two Vietnams cho biết ngay vào thời gian này, ông Diệm đă nghĩ tới việc sẽ phải nhờ tới Hoa Kỳ giúp, khi chắc chắn sẽ có ngày Pháp bị thất bại và bỏ Việt Nam. Fall cho rằng “đó là một lời tiên tri, nhưng lúc ấy chẳng ai để ư”.(24)
Sau khi kư được với Tổng Thống Vincent Auriol hiệp ước Élysée ngày 8-3-1949, theo đó Pháp đă nhượng bộ và dành cho Việt Nam một nền độc lập rộng răi bảo đảm hơn, cựu hoàng Bảo Đại lại nhớ đến Ngô Đ́nh Diệm, mời ông ra làm thủ tướng. Nhưng ông Diệm lại một lần nữa từ chối. V́ thấy qua hiệp ước Élysée, Pháp vẫn c̣n nắm giữ quá nhiều quyền hoạch định các chính sách kinh tế, quốc pḥng và ngoại giao.
Tờ L’Écho du Vietnam, ngày 16-6-1949 đă ghi lại lời tuyên bố nói lên tinh túy của lập trường của ông về một nền độc lập thực sự, đầy đủ và quan điểm của ông đối với các người kháng chiến chống Pháp:
“Nguyện vọng của người Việt Nam ỵêu nước chỉ được thỏa măn khi nào dân tộc ta đạt được một quy chế chính trị y hệt như quy chế mà Ấn Độ và Pakistan đă đạt được… Tôi tin rằng muốn công b́nh th́ phải dành những địa vị tốt nhất của xứ sở cho những người xứng đáng nhất: Tôi muốn nói là những thành phần kháng chiến chống Pháp.”
Với câu cuối, ông đă phát đi lời kêu gọi tới các thành phần đang theo Việt Minh, v́ bị lầm, tưởng Việt Minh là một phong trào yêu nước. Và đây cũng là đường lối chính sách mà ông theo đuổi cho đến khi lên làm tổng thống và cho đến chết. V́ ông nhận định một cách chính xác rằng chỉ có dành được độc lập hoàn toàn và giữ đúng cương vị của một quốc gia có chủ quyền mới có thể thi đua với Việt Minh, và đánh thắng Việt Minh. Và chỉ có nêu cao được chính nghĩa đó mới ḥng lôi kéo các phần tử kháng chiến yêu nước rời bỏ hàng ngũ Việt Minh để cùng với các người quốc gia chân chính chiến thắng thực dân Pháp và Việt Minh Cộng Sản.(25)
Quả thực trong “Lời tuyên bố” nói trên ông Ngô Đ́nh Diệm đă nêu rơ một cách dứt khoát chẳng những lập trường mà cả đường lối và đại cương chương tŕnh hành động của ông. Đó là đấu tranh giành độc lập chính trị và làm cách mạng xă hội đem lại những quyền lợi thiết thực về kinh tế xă hội cho nông dân và công nhân, là những người nghèo, tạo điều kiện cho họ được sống trong tự do và nhân phẩm.
NHỮNG NĂM SỐNG LƯU VONG
Mùa xuân năm 1950, được tin bị Việt Minh kết án tử h́nh khiếm diện, ông Diệm xin nhà cầm quyền Pháp bảo vệ an ninh. Nhưng được trả lời là không đủ cảnh sát để làm việc đó. Ông liền tự hỏi, nên t́m đường sống ở nước ngoài hay là chịu chết ở trong nước? Đến tháng 8, xin được phép đi dự “Năm Thánh” ở Rome, ông đă cùng với bào huynh là giám mục Ngô Đ́nh Thục lên đường sang Ư qua Nhật và Mỹ. Lợi dụng dịp này ông đến thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Theo những ǵ ông Diệm về sau viết cho Wesley Fishel th́ cuộc tiếp kiến giữa hai đồng chí đă diễn ra thân mật và nhiều hứa hẹn.
Trước khi rời Sài G̣n sang Nhật ông Diệm đă toan tính để có thể đưa hoàng tử Bảo Long lên thay cha là Bảo Đại để trở lại chế độ quân chủ, và sẽ đưa hoàng thân Cường Để về nhiếp chính v́ lúc ấy Bảo Long hăy c̣n nhỏ. Cường Để có vẻ thích thú với kế hoạch này. Mà thực ra sau đó ông đă t́m cách trở về Việt Nam bằng đường biển. Nhưng đến nơi th́ nhà cầm quyền Pháp không cho nhập cảnh. Đó là lần cuối cùng ông cố về quê hương mà không được. Ông đă qua đời tại Tokyo ngày 6-4-1951, sau 36 năm sống lưu vong. Khi đă lên cầm quyền, ông Diệm đă thu xếp để hài cốt hoàng thân được đưa về an táng tại cố đô Huế. Một lễ truy điệu đă được tổ chức tại ṭa đô chánh Sài G̣n ngày 10-1-1957. (26)
Wesley Fishel là người mà ông Diệm gặp tại Tokyo một cách t́nh cờ. Ông ta là một giáo sư đại học Michigan, chuyên đi t́m nhân tài ở Á Châu để giúp trở thành những nhà lănh đạo quốc gia. Ông đă khuyên ông Diệm nên sang Hoa Kỳ để t́m sự ủng hộ của chính quyền.
Không cần Fishel khuyên th́ ngay trước khi rời Sài G̣n ông Diệm đă có ư đó rồi. Thế là đầu tháng 9 năm ấy ông Diệm và bào huynh là giám mục Ngô Đ́nh Thục bay sang Mỹ. Khi vừa tới Mỹ hai ông đă ngụ tại Học Viện Văn Hóa Trung Hoa. Hai ông được hồng y Francis J. Spellman, tổng giám mục New York là bạn học cũ của giám mục Ngô Đ́nh Thục tiếp.
Ngày 21-9-50 hai ông có tiếp xúc với ông William S. B. Lacy, giám đốc Văn Pḥng Phi Luật Tân và Nam Á Châu tại bộ ngoại giao. Lacy nhận xét, ông Diệm không có chương tŕnh cụ thể hữu hiệu nào để giải quyết những vấn đề trọng yếu của nước ông. V́ vậy bộ ngoại giao Mỹ tỏ ra lạnh nhạt.
Thực ra lúc ấy chính quyền Truman đang coi giải pháp Bảo Đại là một giải pháp tốt, và dầu sao Pháp vẫn đang là một đồng minh. Họ thấy lập trường của ông Diệm đối với Pháp quá cứng rắn và không thực tế.
Thấy ở lại thêm cũng chẳng ích lợi ǵ, tháng sau ông Diệm bay sang Âu Châu. Ông đă cùng ông anh, giám mục Ngô Đ́nh Thục đến Vatican yết kiến giáo hoàng Pio XII. Sau đó sang Pháp và Bỉ. Tại Pháp ông có tiếp xúc với nhiều giới chức trong chính quyền Pháp và Bảo Đại. Ông cũng ngỏ ư sẵn sàng đứng ra điều khiển chính phủ nếu cựu hoàng muốn. Nhưng Bảo Đại chưa muốn thay đổi người vào lúc này, mặc dù ông Diệm đă tỏ ra mềm dẻo hơn.
Có thể nói cho đến cuối năm 1950 thời vận của ông Diệm chẳng có ǵ khả quan. Về nước th́ không được, v́ có thể bị ám sát. Ở lại Âu châu cũng không được. V́ chínhquyền Pháp thấy ông tiếp xúc với nhiều người ghét Pháp, muốn đuổi ông đi. Ông bèn quay trở lại Mỹ và t́m đến những người có cảm t́nh với ông. Trong số này phải kể trước tiên thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William O. Douglas, người đă biết rơ ông khi c̣n đang rong ruổi vùng Đông Nam Á, nghiên cứu về các dân tộc Thái, Lào, Miến Điện, Việt Nam, Mă Lai, Tân Gia Ba… để viết tác phẩm nổi tiếng “North From Malaya”. Sau đó là người sáng lập OSS, tiền thân của CIA, và cũng đă từng điều khiển cơ quan t́nh báo này, là William J. Donovan và nhiều nhà báo và chính khách thuộc lữơng viện quốc hội Mỹ như các nghị sĩ John Fitzgerald Kennedy, Mike Mansfield, dân biểu Walter Judd… Trong báo giới th́ đặc biệt có kư giả tên tuổi Gouverneur Paulding.
Phần nhiều những nhân vật trên đều chú ư đến tinh thần và lập trường chống cộng và chống thực dân của ông Diệm. Họ ủng hộ ông Diệm chính v́ hai yếu tố chính trị nổi bật ấy, chứ không phải v́ ông là người Công Giáo. Tuy nhiên những nhân vật này, cũng như hồng y Spelman không phải là những người có quyền quyết định đối với chính sách ngoại giao của chính quyền Truman lúc ấy.
Đối với các giới chức trong bộ ngoại giao Mỹ, ông Diệm chú trọng đến khía cạnh kỹ thuật mà chính phủ Truman đang viện trợ cho các nước trên thế giới theo một kế hoạch mệnh danh “chương tŕnh điểm 4” có thể coi như sự tiếp nối của kế hoạch Marshall vào năm 1947 dành cho việc tái thiết Âu Châu sau Thế Chiến II. Nhưng chương tŕnh điểm 4 này có một phạm vi hoạt động rộng hơn, bao trùm khắp thế giới.
Dưới cái nh́n của các nhà lănh đạo Mỹ, Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh lạnh rất cần được sự viện trợ này. Ông Diệm đă nêu lên đúng yêu cầu của xứ sở và của t́nh h́nh. V́ vậy khi ông nên làm Tổng Thống, ông đă nhận được thứ viện trợ kỹ thuật phi quân sự này một cách rất dồi dào.
Về mặt này, giáo sư Wesley R. Fishel đă giúp ông một cách đắc lực. Ngay khi vừa tới nhận việc ở trường đại học Michigan, ông đă thu xếp để ông Diệm có việc làm tại trường như một tham vấn chuyên môn. Với nhiệm vụ này, ông Diệm có thể hợp tác với ông Fishel để soạn bản đề nghị xin chính phủ viện trợ cho Việt Nam. Những đề án xin viện trợ này một phần lớn do ư kiến của ông Diệm. Cũng nhờ ông mà cố đô Huế đă sớm nhận được viện trợ kỹ thuật ngay trước khi ông về nước làm thủ tướng.
Ngoài ra giới Công Giáo Mỹ cũng giúp ông để có chỗ ở và phương tiên di chuyển sinh sống. Ông thường trú ngụ ở các tu viện Công Giáo, như Mary Knoll ở Ossining, New York, hay ở Lakewood, New Jersey. Từ đó ông đi thuyết tŕnh tại một số trường, đạo có, đời có.(27)
Ông cũng tiếp xúc với những người Việt Nam đang sinh sống ở Mỹ và những du học sinh. Trong số này có linh mục Trần Văn Kiệm và gia đ́nh ông Bùi Công Văn là những người giúp ông nhiều nhất. Trong dịp ra mắt bộ Từ Điển Văn Học Việt Nam đồ sộ ba tập của ông ở Quận Cam cuối năm 2007, vị linh mục gần chín chục tuổi này đă kể lại cho người viết về hoạt động và tư tưởng của ông Diệm trong những năm 1951-1953 ở Mỹ. Theo linh mục Kiệm th́ ông Diệm luôn ôm ấp hoài băo đem lại độc lập cho nước và đời sống no ấm, tự do cho dân. Tuy ông phê b́nh ông Bảo Đại hơi mềm yếu, nhưng lúc nào cũng tỏ ra tôn kính và h́nh như muốn ủng hộ ông ấy trở lại ngôi vua trong một chính thể quân chủ lập hiến trong đó ông Diệm sẽ là thủ tướng. Được hỏi có bao giờ ông Diệm ngỏ ư muốn đi tu không, linh mục Kiệm tỏ vẻ ngạc nhiên: “Làm ǵ có chuyện ấy? Trong 2 năm gần ông Diệm, có những lúc ngồi ăn với ông ấy tại ṭa Tổng Giám Mục New York cùng với hồng y Spellman, chưa hề bao giờ tôi nghe ông ấy nói có ư đi tu.”
Khi ông Diệm đă lên cầm quyền, linh mục Kiệm cũng có nhiều dịp tiếp xúc với ông và các ông Nhu, đức cha Thục. Ông nhận xét ông Diệm vẫn luôn là người b́nh dị, cởi mở không như ông Nhu hay ông Thục.
Trong số những sinh viên Việt Nam đang du học ở Mỹ mà ông Diệm gặp lúc ấy có một số chủng sinh và ông Nguyễn Ngọc Linh, người đă có lần lái xe đưa ông Diệm đi đây đi đó. Khi về nước làm thủ tướng ông Diệm có nhớ tới ông Linh, muốn dùng. Nhưng ông Linh không hợp tác.
Đến tháng 5 năm 1953 ông Diệm quyết định trở lại Âu Châu. V́ nhận thấy những nhân vật Mỹ ủng hộ ông nêu trên đều không phải là những giới chức có quyền quyết định. C̣n chính quyền Truman lúc ấy th́ hăy c̣n ủng hộ chính sách của Pháp và giải pháp Bảo Đại tại Việt Nam.
Ngày 8-5-53, thẩm phán tối cao William J. Douglas đă tổ chức một bữa ăn trưa thịnh soạn mời những nhân vật tên tuổi có cảm t́nh nêu trên cùng dự đễ tiễn chân ông Diệm.(28)
Sang Âu châu lần này ông Diệm đến ngụ tại một nhà ḍng thánh Bê Nê Đích Tô ở Bỉ. Tại đây ông có dịp gặp và trao đổi với linh mục Raymond de Jaegher là một học giả uyên thâm về các vấn đề Cộng Sản Á Châu, nhất là Trung Cộng. Khi ông Diệm đă lên làm tổng thống người ta thấy vị linh mục này trong số những cố vấn của chính phủ Việt Nam.
Trong lúc bôn ba nơi hải ngoại, ông Diệm vẫn theo dơi và trông chờ vào hoạt động của người em uyên bác là Ngô Đ́nh Nhu ở trong nước. Ông Nhu từng du học tại Pháp, có bằng cử nhân Pháp, sau lại tốt nghiệp tại trường École des Chartes nổi tiếng lúc ấy. Ông Nhu đă chịu ảnh hưởng của hai triết gia Công Giáo là Emmanuel Mounier và Jacques Maritain. Thuyết “ngôi vị” (personalisme) của Mounier và thuyết nhân bản (Humanisme Intégrale) của Maritain đă gợi hứng cho ông Nhu đưa ra thuyết Nhân Vị Việt Nam, lấy đó làm chủ thuyết của một đảng mới. Năm 1952 ông Nhu đă âm thầm cùng với một nhà hoạt động công đoàn là ông Trần Quốc Bửu thành lập đảng bí mật này. Ông Bửu, tuy không phải Công Giáo, nhưng lại chịu ảnh hưởng của các tổ chức công đoàn Ki Tô Giáo ở Paris, là nơi ông đă từng sinh sống trong một thời gian vắn, trước khi về hợp tác với ông Ngô Đ́nh Nhu.
Ông Nhu, một lư thuyết gia, và ông Bửu, một nhà hoạt động công đoàn, đă đặt tên cho đảng mới của hai ông là đảng Công Nông, sau đổi thành Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng.(29) Sau khi đệ nhất Cộng Ḥa bị lật đổ, những người không ưa ông Nhu thường gọi tắt là đảng Cần Lao, với hàm ư xấu. Nhưng thực ra hai chữ cần lao gói ghém tất cả chủ trương và đường lối mà ông Diệm đă công bố trong một bản tuyên ngôn trước đó đă lâu. Hai chữ đó bao hàm sự lao động cực nhọc của hai giới thợ và dân cầy, những người nghèo khổ chiếm đa số dân Việt. Nó cũngtương tự na ná như sự “liên minh công nông” trong đường lối của Lê-nin. Theo Henry G. Fairbanks th́ “Cộng Sản sợ cái ư thức hệ này c̣n hơn 170,000 quân của ông Diệm được trang bị bằng vũ khí của Mỹ.” (30)
NDD_ChinhNghia_MinhVo_hinh1
H́nh 1: Gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Nhu và 2 bào huynh
Dĩ nhiên các ông Diệm, Nhu có đọc Lê-nin. Nhưng, là người Công Giáo ngoan đạo, họ đă lấy hứng từ học thuyết xă hội Công Giáo hàm chứa trong Tông huấn (Encyclical, mà nhiều người cũng dịch là Thông Điệp) Tân Sự (Rerum Novarum, ban hành năm 1891) của cố giáo hoàng Lê-ô XIII. Trí thức Công Giáo ai cũng biết Tông huấn này. Ông Nhu chủ trương học thuyết xă hội theo lư tưởng đó và đă cùng với ông Bửu lập một tờ báo lấy tên Xă Hội.
Đặt trụ sở tại số 8 đường Ypres, Sài G̣n. Tờ báo này đă cổ vơ cho tổ chức và các hoạt động công đoàn của ông Bửu. Công Đoàn này lúc ấy (1953) đă trở thành một chi nhánh của Nghiệp Đoàn Lao Động Ki Tô Giáo thế giới có trụ sở ở Brussel, thủ đô Bỉ.
Trong khi ông Diệm hoạt động ở Âu Châu để chờ thời, th́ ở Việt Nam, ông Nhu đă vận động được một số đông người vốn ủng hộ ông Bảo Đại để đưa ra một sức ép đ̣i Bảo Đại phải cứng rắn hơn với Pháp.
Nhân vụ Pháp tự ư phá giá đồng bạc Đông Dương vào tháng 5-1953, gây bất b́nh cho nhiều phần tử quốc gia, ông Nhu đă vận động những phần tử này để họp đại hội lấy tên là “Đại Hội Đoàn Kết” vào đầu tháng 9-1953, khi ông Bảo Đại vừa rời Sài G̣n sang Pháp.
Mục đích của đại hội là đ̣i độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Trong đại hội này ông Nhu đă quy tụ được đông người thuộc các giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo và cả tướng Bảy Viễn của B́nh Xuyên.
Tuy đại hội này không thành công theo ư muốn, nhưng nó đă khiến Bảo Đại phải cho mở một đại hội của ông tại Sài G̣n vào ngày 12-10-53, với mục đích lấy lại uy thế đă bị sứt mẻ do đại hội đoàn kết gây ra. Nhưng kết quả lại cũng ngoài ư muốn của Bảo Đại. V́ cuối cùng vào ngày 16-10, các đại biểu bỗng thông qua một nghị quyết đ̣i Việt Nam được độc lập hoàn toàn, đúng như đ̣i hỏi mà ông Diệm đă một mực đ̣i cho bằng được ngay từ ban đầu.
Có lẽ ông Bảo Đại đă đoán trước được kết quả ấy, cho nên đă thay đổi hẳn thái độ với ông Diệm. Ông đă tiếp ông Diệm lần đầu trong 4 năm tại Paris. Và sau đại hội, ngày 26 -10-1953, trong một cuộc tiếp kiến lần thứ hai, ông đă ḍ ư liệu ông Diệm có muốn nhận chức thủ tướng không.
Nhưng theo Devillers trong End of a war (trang 223) th́ quan trọng hơn cả là mặt trận An Toàn Quốc Gia (Front of National Safety) của ông Nhu thành lập ngày 27-5-54 đ̣i “thành lập ngay tức khắc một chế độ mới để chống Cộng và nhấn mạnh rằng Ngô Đ́nh Diệm là người đủ khả năng lănh đạo”.
Trong khi liên hệ giữa cựu hoàng và cựu thương thư bộ lại ấm áp trở lại, th́ chiến cuộc trong nước trở nên sôi động và có chiều nghiêng hẳn về phía Cộng Sản.
Tại hội nghị Genève, Thụy Sỹ (bắt đầu họp ngày 26-4-54 để bàn về vấn đề Cao Ly) người ta cũng bắt đầu bàn đến vấn đề Đông Dương.
Tại Việt Nam, vào trung tuần tháng 3-1954, Tướng Navarre, tư lệnh quân Pháp đă muốn giương một cái bẫy để nhử Cộng Quân vào chết tại một khu ḷng chảo gầnbiên giới Việt-Lào là Điện Biên Phủ. Nhưng, tương kế tựu kế, Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp đă được các tướngTầu Trần Canh và Vi Quốc Thanh cố vấn và giúp điều động quân sĩ và hàng vạn dân phu bí mật ngày đêm kéo đại pháo lên các sườn núi vây quanh quân Pháp, xuất kỳ bất ư tấn công tiêu diệt và làm bị thương gần mười ngàn quân Pháp. Sau 55 ngày cầm cự, tướng thủ thành De Castries đă đầu hàng và trao Điện Biên cho quân chiến thắng. Số thương vong của bên thắng c̣n có phần nhiều hơn bên thua. Đó là ngày 7-5-54.
Biến cố này đă khiến Pháp phải tính chuyện rút khỏi Bắc Việt để tập trung phương tiện đối phó với vấn đề Algérie đang trở nên cấp bách.
Trong t́nh h́nh nước sôi lửa bỏng ấy, Bảo Đại đă cho vời Ngô Đ́nh Luyện là em út của Ngô Đ́nh Diệm và cũng là bạn học khá thân với Bảo Đại khi nhà vua c̣n du học ở Pháp trước khi trở về nước. Cựu hoàng nhờ người em đi t́m người anh đến gặp gấp.
Lần này Bảo Đại đă tính thay thế hoàng thân Bửu Lộc bằng Ngô Đ́nh Diệm trong chức thủ tướng. Th́ cũng vừa đúng lúc nước Pháp không c̣n muốn bấu víu lấy Đông Dương nữa, nên ngày 4 -6-54 đă kư với chính phủ Bửu Lộc một hiệp ước trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.
Trước khi trao trọng trách cho ông Diệm, ông Bảo Đại đă ḍ ư nhiều người kể cả Mỹ, Pháp. Đối với các đảng phái Quốc Gia, ông đă ghi lại trong hồi kư Con Rồng Việt Nam (trang 514-515) rằng ông đă “vời tới Cannes các lănh tụ của tất cả các phong trào chính trị và tôn giáo ở Việt Nam để hỏi ư kiến… về việc thay Bửu Lộc bằng Ngô Đ́nh Diệm để cầm đầu chính phủ. Tất cả hoan nghênh ư kiến của tôi.”
Hai ngày sau Pháp cho Bảo Đại biết họ không c̣n chống việc để con người “tout ou rien” lănh đạo chính phủ.
1 Đây chỉ là bản tóm tắt hết sức đại cương. V́ tuổi tác và bệnh tật, người viết đă phải bỏ tham vọng viết một tiểu sử tương đối đầy đủ hơn.
2 Chín người con cụ Ngô Đ́nh Khả xếp theo thứ tự như sau Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Thị Giao (tức bà Thừa Tùng), Ngô Đ́nh Thục (sau là tổng giám mục), Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Thị Hiệp tức bà Nguyển Văn Ấm (thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận), Ngô Đ́nh Thị Hoàng, tức bà Cả Lễ, Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn, Ngô Đ́nh Luyện.
3 Theo Anthony Travick Bouscaren, The Last of the Mandarins: Diem Of Vietnam, Duquesne University Press, Pittsburg, PA, 1965, trang 13.
Có nguồn tin trái ngược cho rằng ông Ngô Đ́nh Khả là bổn đạo mới? Nhưng có một điều chắc chắn là thuở thiếu thời ông đă vào tu trong chủng viện và được nhà chung cho đi du học tại Pi-năng, thuộc Mă Lai.
4 Trường Quốc Học được thành lập năm 1896 và tồn tại cho đến năm 1975, khi Cộng Quân chiếm miền Nam. Tại trường này ở Huế từng có tấm bia kỷ niệm với những vần thơ sau:
“Trường Quốc Học ấy ai xây dựng?
Sáu mươi năm đứng vững giữa trời.
Đế Kinh nhắc nhở tên người
Cụ Ngô Đ́nh Khả muôn đời tiếng thơm…
Dựng bia kỷ niệm đôi lời,
Ghi ơn người trước, nhắn đời người sau.”
(Kư tên Tôn Thất Sa).
5 Ông rời kinh đô, đem gia đ́nh về quê sống một cuộc đời nông dân cực khổ. Dân Huế đă một thời ngưỡng mộ, ca tụng ông qua câu đồng dao: “Đầy vua không Khả, Đào mả không Bài” mà chính ông Hồ Chí Minh đă từng nhắc lại coi như cái cớ để tha chết cho con ông là Ngô Đ́nh Diệm khi ông này sa vào tay Việt Minh hồi 1945.
Theo Giáo Sư Nguyễn Ngọc Phách, tác giả cuốn Việt Sử Đương Đại qua 200 câu vè bất hủ (Melbourne, Australia, 2007 trang 42) th́ vào năm 1906 viên khâm sứ (Pháp) Lévêque đă ép các quan đại thần kư kiến nghị đầy vua Thành Thái. Nhưng Ngô Đ́nh Khả là vị quan duy nhất không chịu kư. Ít lâu sau một viên khâm sứ tên Mahé lại đ̣i quật mồ vua Tự Đức để t́m quư vật. Lần này chỉ duy có đại thần Nguyễn Hữu Bài không chịu kư. Trong bộ Việt Sử Tân Biên (tập VII), sử gia Phạm Văn Sơn cũng ghi như vậy. C̣n về việc ông Hồ Chí Minh nhắc câu ca dao trên để lấy cớ tha ông Diệm th́ do nhà văn Vũ Thư Hiên, con ông Vũ Đ́nh Huỳnh từng là thư kư riêng của ông Hồ thuật lại trong tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày (Văn Nghệ xuất bản tại Cali năm 1997, trang 226 và 227) mà chúng tôi đă trích đăng trong phần Phụ Lục cuốn Ngô Đ́nh Diệm Lời Khen Tiếng Chê (Thông Vũ tái bản lần thứ 2 năm 2002) trang 339-340.
Trái lại, trong một cuốn về lịch sử Phật Giáo ở trong nước do nhà sư đă hoàn tục Lê Mạnh Thát đề tựa có đổi câu ca dao trên thành “Đầy vua ông Khả, Đào Mả ông Bài” có ư kết tội hai ông này thay v́ ca ngợi. Về chuyện đổi trắng thay đen này, tác giả Huỳnh Hữu Ủy, trong một bài khảo luận dài 11 trang về cụ Phan Bội Châu đăng trên nguyệt san Thế Kỷ 21 số 208, tháng 8 năm 2006 (trang 35) đă viết: “Tôi là người Huế, mới 5 tuổi đă biết đến câu đồng dao ấy rồi. Vậy mà gần đây, trong quyển sách Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế của Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, với lời đề tựa của Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát, viết rằng: “Ngô Đ́nh Khả người làng Đại Phong, Quảng B́nh, là người đă kư giấy cho bọn thực dân Pháp đầy vua Thành Thái sang Réunion. Dân Huế c̣n truyền tụng câu: “Đầy vua ông Khả, Đào mả ông Bài”, tức Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đ́nh Khả cũng làm đến chức thượng thư trong triều đ́nh Huế.”(Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế, nxb Tp HCM, trang 356. Hỡi ôi, viết sử mà như thế th́ chẳng biết họ viết cái ǵ? Lịch sử PGXH in rất đẹp, dầy hơn 730 trang, biên soạn có vẻ công phu với một thư mục tham khảo rất phong phú, nhưng đáng tiếc thay, chỉ là một nguồn tài liệu bất khả tín!”
6 Ông được vị đại thần số một lúc ấy là cụ Tôn Thất Hân, phó quan quận vương, phụ chánh thân thần, giúp đỡ một cách kín đáo, mỗi tháng cấp cho 10 Đồng để sinh sống. Măi đến thời vua Khải Định ông mới được vị vua này bênh đỡ cho truy lănh lương bổng trong những năm bị tước hết bổng lộc. (Xem Nguyễn Văn Minh, Ḍng Họ Ngô Đ́nh, giấc mơ chưa đạt, nxb Hoàng Nguyên 2003, trang 14)
7 Xin xem Our Vietnam nightmare của Marguerite Higgins, nxb Harper & Row, 1965, trang 159.
8 Robert Shaplen, A Reporter in Vietnam, N. Y. Sept 22, 1962, trang 103 Và Bernard Fall, The Two Vietnams, NY Praeger, 1963, trang 239.
9 Xin xem Con Rồng Việt Nam, bản dịch của Nguyễn Phước Tộc, California, 1990, trang 93.
10 Câu bị kiểm duyệt này về sau được cụ Phan xác nhận với ông Thiết Mai Tôn Thất Cảnh trong một cuộc phỏng vấn đăng trên báo Ánh Sáng số ngày 11-11-1935 như sau: “Ngôi báu xem nhường dép nửa đôi.”
Về hai câu cuối, ông Vương Đ́nh Quang nguyên là thư kư của cụ Phan đă có dịp được hỏi cụ Phan, sao cụ lại hạ ḿnh đến thế, v́ dù sao Ngô Đ́nh Diệm chỉ là kẻ hậu bối. Cụ Phan bèn trả lời đại ư, cụ là người hoạt động cách mạng. Chứ nếu ở trong quan trường th́ chưa chắc được như ông Diệm. (Xem Thế Kỷ 21 tháng 8-06, trang 29.)
11 Cụ Vơ Bá Hạp c̣n là đồng song với thân phụ ông Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc. Nên đă có thời gian, sau khi bị cách chức, ông Nguyễn Sinh Sắc đă dẫn các con vào Huế tá túc tại nhà thân phụ của cụ Vơ Bá Hạp là Vơ Văn Giáp. Đó là Nguyễn Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Thị Thanh, tự Liên. Xem Nguyễn Lư Tưởng: Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, Nam Cali, 2001, trang 73-75.
12 Anthony Trawick Bouscaren, tác giả cuốn The Last Of The Mandarins: Diem of Vietnam (Ông quan cuối cùng, Diệm của Việt Nam), Duquesne University Press, Pittsburg, PA, 1965 đă trích dẫn Joseph Buttinger, tác giả Viet Nam, The First Five Years, Ann Arbor: University of Michgan Press, 1959, pp 43, 30, để cho rằng mặc dầu dân Huế có biểu t́nh ủng hộ ông Diệm, muốn ông ra chấp chính, ông Diệm đă từ chối lời mời của Bảo Đại.
13 Trong cuốn Histoire Du Viet-Nam de 1940 à 1952, troisième édition revue et corrigée, Édition du Seuil, Paris VIè, 1952, p. 126, tác giả, sử gia Philippe Devillers cho biết ngày 19-3- 1945 toàn thể nội các (6 bộ) từ chức theo lời yêu cầu của vua Bảo Đại. Nhà vua tham khảo ư kiến của nhiều người th́ hầu hết cũng đề cử Ngô Đ́nh Diệm đứng ra lập nội các. Nhưng ông Diệm đă không trả lời hai thông điệp của nhà vua. Tác giả cho rằng v́ ông Diệm không ưa ông Bảo Đại, mà chỉ gắn bó với hoàng thân Cường Để. Đợi lâu không được, cuối cùng, ngày 17 tháng 4 vua Bảo Đại đă chỉ định sử gia Trần Trọng Kim. Nơi trang 63 Tác phẩm trên, Devillers đă viết ông Diệm là người nổi tiếng về sự liêm khiết toàn hảo, về khả năng và sự thông minh (réputé pour sa parfaite intégrité, sa compétence, et son intelligence).
Theo nữ tiến sĩ Ellen Hammer th́ lúc ấy ở Huế có biểu t́nh lớn ủng hộ ông Diệm, kêu gọi ông đứng ra lập nội các. (Xem Richard W. Lindholm, Viet-Nam, The First Five Years (1954-1959), Michigan State University Press, 1959, trang 43)
Theo kư giả và sử gia Joseph Buttinger th́ lúc ấy ông Diệm và người Nhật đă không tin nhau nữa. (Xem The Smaller Dragon, nxb Frederick A. Praeger, NY 1958, trang 443)
Nhà thơ Thái Thủy, hiện ở miền Nam Cali, có lần cho người viết biết chính ông, hồi c̣n nhỏ, đă được đọc chiếu của vua Bảo Đại cử ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Trong tờ chiếu nhà vua nêu rơ lư do bổ nhiệm này là v́ “đă nhiều lần mời “Ngô Huynh” không được nên cử “Trần học sĩ”.” Khi được mời làm thủ tướng, chính ông Trần Trọng Kim cũng đă xin nhà vua hăy chọn Ngô Đ́nh Diệm. Chỉ đến khi biết không liên lạc được với ông Diệm, ông Kim mới nhận.
14 Về việc này, sử gia Pháp Bernard B. Fall đă thuật lại như sau trong cuốn The Two Vietnams (Fredrick A. Praeger, USA 1967, trang 240): “Ông Hồ vốn biết ông Diệm có thiên tài về hành chính và quản trị, và cũng thấy rơ sự kém cỏi khủng khiếp của đàn em ḿnh trong lănh vực khó khăn đó, nên đă cho mời vị quan này đứng về phe ḿnh và đề nghị trao ông chính cái công việc mà ông đă làm dưới quyền Bảo Đại: Bộ Nội Vụ. Ông Diệm đáp lại mời đó bằng thái độ tiêu biểu của con người ông: “Tại sao ông giết anh tôi?” Ông Diệm hỏi. “Đó là một sự lầm lẫn” Ông Hồ trả lời. “Đất nước đang rối bời. Không sao tránh được.” Ông Diệm giận dữ, quay gót đi ra.”
15 Edward Miller: Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Đ́nh Diệm, Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3) pp 433-458 October 2004. Printed in the United Kingdom.
16 Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Văn Nghệ, Nam Cali, 1997 trang 226-227.
17 Trần Thị Liên, Les Catholiques et La République Démocratique du Vietnam, do Edward Miller trưng dẫn.
18 Trích bài “Ông vua của nền Cộng Ḥa Đệ Nhất: Ngô Đ́nh Diệm” đăng trên báo Đời số 29, Sài G̣n, ngày 23-10-1970. Cựu thủ hiến Bắc Việt c̣n cho biết chi tiết:
“Nhiều nhà cách mạng lưu vong như Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long yêu cầu tôi yểm trợ giải pháp Ngô Đ́nh Diệm. Những lănh tụ chống cộng có tâm huyết như Phan Quang Đán, Đinh Xuân Quảng, Nghiêm Văn Tri tỏ ư rất nhiệt thành với giải pháp Ngô Đ́nh Diệm.
“Ở trong nước, ngoài Bắc có nhóm Nghiêm Xuân Thiện, Trần Trung Dung, trong Trung có nhóm Trần Văn Lư, trong Nam có nhóm Trần Văn Đỗ đại diện các nhà trí thức, mỗi người đều đặt tin tưởng vào giải pháp Ngô Đ́nh Diệm. Ngoài ra, đồng bào Công Giáo, đồng bào di cư cũng nhiệt liệt ủng hộ cụ Ngô. Tuy nhiên, tôi phải thanh minh rằng sở dĩ tôi đặt hy vọng vào giải pháp Ngô Đ́nh Diệm một phần lớn v́ t́nh cảm và quá khứ: tôi đă chứng kiến cụ Ngô trưởng thành trong khung cảnh thanh cao, đạo đức và liêm khiết.”
19 Devillers, Histoire du Viet-Nam, trang 425-429 được Edward Miller dẫn trong Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngo Dinh Diem.
20 Về vấn đề này ông Phạm Văn Bính, nguyên thủ hiến Bắc Việt, đă nói rơ trên báo Đời số 29 ngày 23-10-1970. Chúng tôi xin trích mấy hàng sau đây:
“Tôi nhớ lại hồi ở Hồng Kông, ngày nào Cựu Hoàng cũng muốn gặp cụ Ngô một lần để thảo luận về cách đối phó với đại diện của cao ủy Bollaert đến điều đ́nh. Một sự kỳ lạ là chỉ khi nào tôi mang xe hơi xuống khách sạn Paramount đón, cụ Ngô mới bằng ḷng lên gặp Cựu Hoàng. Ngoài tôi ra, Cựu Hoàng phái bất kỳ ai đi triệu, cụ Ngô cũng cương quyết khước từ. Về vấn đề cá nhân, phẩm hạnh, cụ Ngô bao giờ cũng tỏ ra khó tính, cứng rắn gần như bướng bỉnh.
“Nhiều khi cụ ngồi trong pḥng riêng, đàm thoại tay đôi với Cựu Hoàng trong ba bốn tiếng đồng hồ luôn. Lúc ra về, nét mặt cụ thường đăm chiêu, có khi rơm rớm nước mắt. Do đó, tôi nhận thấy cụ là một người giàu cảm t́nh, dưới một bề ngoài khắc khổ nghiêm trang.
“Điều tôi chú trọng hơn hết ở cụ Ngô là đối với Cựu Hoàng bao giờ cụ cũng giữ lễ vua tôi, mặc dầu Cựu Hoàng đối với cụ lúc nào cũng ân cần niềm nở. Chưa bao giờ tôi thấy cụ bỏ giọng nói đều đều từ tốn cùng một cử chỉ điềm đạm, một dáng điệu uy nghi nhưng không kém phần lễ độ.
“Trong sự giao tiếp hàng ngày giữa Cựu Hoàng và cụ Ngô, tôi thấy thiếu một sự thông cảm có thể ràng buộc hai người trong một cuộc hợp tác chân thành và bền vững.
“Cụ Ngô thuộc hạng người quân tử theo đạo Khổng Mạnh, ngay thẳng quen sống khắc khổ trong tinh thần, không thể chấp thuận một cuộc đời phóng khoáng, cởi mở, dân chủ, hồn nhiên như đời sống tự do của Cựu Hoàng do phong tục Tây phương đưa lại.
“Từ lúc ban đầu, khi c̣n sống lưu vong với Cựu Hoàng ở Hồng Kông, tôi có cảm tưởng rơ rệt cụ Ngô có ư định giúp Cựu Hoàng lập một chế độ quân chủ lập hiến trong đó cụ sẽ là vị thủ tướng được vua trao cho trọn quyền điều khiển, lập một nội các chiến tranh do cụ lănh đạo, giống như nội các Winston Churchill ở nước Anh trong thời thế chiến thứ hai.
“Tuy nhiên, trong giới “cận thần” của Cựu Hoàng, một số đông không muốn có một thủ tướng cứng rắn như cụ Ngô. Đă có lần cụ Ngô bảo tôi: “- Chú tâu với Ngài nếu Ngài muốn tôi lên chầu Ngài luôn, trước hết Ngài hăy cho phép tôi quét sạch cửa ngơ. Tôi không muốn bọn Việt gian thân Pháp lúc nào cũng lẩn quẩn bên Ngài.
“Lời nói quyết liệt của cụ Ngô làm phật ư nhiều người trong giới cận thần của Cựu Hoàng và thúc đẩy sự thành lập một phe phản đối giải pháp Ngô Đ́nh Diệm. Nhóm phản đối Ngô Đ́nh Diệm nói với Cựu Hoàng:“- Ngô Đ́nh Diệm đă ly khai với Ngài một lần ở Huế khi c̣n là Lại Bộ Thượng Thư. V́ ghen tức với Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Diệm đă đóng mạnh cửa ra đi, không kể đến t́nh nghĩa vua tôi. Họ Ngô không phải là bề tôi trung thành của nhà Nguyễn.
“Thay mặt nhóm ủng hộ giải pháp Ngô Đ́nh Diệm, tôi phản công lại: “- Cử chỉ của Ngô Đ́nh Diệm đối với Phạm Quỳnh là một cử chỉ cao quí. Những người dám treo ấn từ quan để tỏ rơ thái độ, bỏ hết công danh phú quư đi theo tiếng gọi của lương tâm, đếm trên đầu ngón tay không được mấy người. Một lănh tụ được cả nước trọng vọng về tính t́nh trong sạch liêm chính như Ngô Đ́nh Diệm rất hiếm. Bệnh tham nhũng là một thứ ung thư của dân tộc Việt Nam, cần phải có một người cương nghị như họ Ngô mới ḥng chữa nổi bệnh này.
“Kẻ bàn đi, người nói lại, kết cục giải pháp Ngô Đ́nh Diệm không thành h́nh sau một cuộc đàm phán nẩy lửa giữa cụ Ngô, đại diện Cựu Hoàng và cao ủy Bollaert, đại diện nước Pháp trong dinh Norodom bây giờ là dinh Độc Lập.”
21 Đây là một thỏa ước mang chữ kư của cao ủy Pháp Émile Bollaert và thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, có sự phê chuẩn của quốc trưởng Bảo Đại, nhưng được phổ biến dưới h́nh thức một thông cáo chung. Thường gọi là Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long. Theo thỏa ước này th́ Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam. Và Việt Nam chấp nhận ở trong Liên Hiệp Pháp. Nền độc lập của Việt Nam chỉ bị giới hạn bởi khuôn khổ của Liên Hiệp Pháp. Việt Nam cam kết tôn trọng các quyền lợi quốc gia của Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và sẽ ưu tiên dùng cố vấn và kỹ thuật viên người Pháp cho nhu cầu tổ chức nội bộ và kinh tế của Việt Nam. (Devillers, SĐD trang 431-432).
Theo Phụ Đính III nơi trang 576 cuốn Con Rồng Việt Nam th́ liền sau và dưới chữ kư của thủ tướng Xuân có ghi tên các vị sau đây: Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch. Nhưng không thấy danh tánh của quốc trưởng Bảo Đại. Nhưng các tài liệu của Pháp Mỹ đều nói Bảo Đại chứng kiến và kư phê chuẩn (contresigner).
Những tài liệu nói Bollaert kư với Bảo Đại là sai. Bảo Đại chỉ kư với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol thỏa ước Élysée ngày 8-3-1949.
22 Devillers SĐD trang 425-427.
23 The Last of the mandarins: Ngo Dinh Diem of Vietnam by Anthony Trawick Bouscaren, trang 28.
24 SĐD trang 241-242. Cuốn The Two Vietnams, xuất bản năm 1963 trước khi ông Diệm bị lật đổ, được sửa chữa, bổ sung và tái bản 2 lần vào những năm 1964 và 1967. Ư này lấy từ lần tái bản thứ 2, năm 1967. Xem nguyên văn đầy đủ trong Ngô Đ́nh Diệm, Lời Khen Tiếng Chê của Minh Vơ lần tái bản thứ 2 năm 2002, trang 91-92 và 97.
25 Xin xem “Lời tuyên bố của chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm ngày 16- 6-1949” được in lại trong tập san “Con Đường Chính Nghĩa: Độc lập, Dân chủ: Hiệu triệu và diễn văn quan trọng của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm”, tập I, do Sở Báo Chí và Thông Tin, Phủ Tổng Thống, năm 1956, trang 221-222.
26 Xem Struggle For Indochina của Ellen Hamer trang 275 và Việc Từng Ngày của Đoàn Thêm tr. 211.
27 Trong thời gian này ông Diệm có làm một bài thơ gửi gắm tâm tư về sau có người ghi lại. Chúng tôi đă được Giáo Sư Nguyễn Ngọc Phách ở Úc gửi cho cùng với bài họa của cụ Tôn Thất Tuệ ở Montréal, Canada. Xin ghi lại đây để độc giả thưởng lăm.
Bài thơ ông NĐD làm khi ở Mỹ năm 1953
Nỗi ḷng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không lái cũng không
Xe muối nặng nề thương vó kư
Đường mây rộng răi tiếc chim hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi nước thuở nào trong?
Ngô Đ́nh Diệm, Hoa Kỳ 1953
Bài họa của cụ Tôn Thất Tuệ Montréal, Canada, 2007, nhan đề:
Danh thơm ngời thanh sử
Sống thác đành theo vận núi sông.
Bao nhiêu tâm huyết hóa thành không.
Tài năng nguyền hiến quê Nam Việt.
Tiết tháo thề dâng giống Lạc Hồng.
Quân tử trung kiên chừng thấy ít,
Tiểu nhân loạn tặc quả rằng đông.
Danh thơm muôn thuở ngời thanh sử,
Hậu thế ngh́n sau rơ đục trong.
Tôn Thất Tuệ (Montréal, 2007)
28 Ngoài ông Ngô Đ́nh Diệm và 6 nhân vật kể trên, trong bữa tiệc c̣n có sự hiện diện của giám mục Việt Nam Hoàng Văn Đoàn và 3 người Mỹ khác là Bill Costello phóng viên hăng CBS; Ray Newton, một viên chức của ủy ban phụ trách những người bạn Mỹ; và Edmund S. Gullion, một viên chức bộ Ngoại Giao phụ trách hoạch định chính sách. Chú thích này ghi theo Giáo sư Edward Miller, Journal of Southeast Asian Studies, tháng 10-2004
29 Theo ông Cao Xuân Vỹ th́ cùng với 2 ông Bửu và Nhu c̣n có thêm ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Và thoạt tiên các ông đặt tên đảng là đảng Công Nông. Nhưng sau đó không muốn cái tên đó nhắc nhở đến liên minh Công Nông của Cộng Sản, nên đổi ra là Cần Lao Nhân Vị.
30 Xem The Enigma of Ngô Đ́nh Diệm, The Commonwealth September 21, 1962, trang 516-517. Fairbanks cũng cho rằng viễn kiến của Ngô Đ́nh Diệm hơn hẳn của Nehru (Ấn Độ) và Sukarno(Nam Dương), v́ ông trên c̣n hoài nghi, và ông dưới th́ cơ hội. Chỉ có tư tưởng của họ Ngô đủ sức đương đầu với thách đố của Cộng Sản.
(xem tiếp trang s
Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc: Phần II (Minh Vơ)
Posted on January 4, 2013 by Lê Thy
2- Cành đào Xuân Quí Măo
Cách nay hơn một thập kỷ, khi giáo sư Francis X. Winters cho ra cuốn The Year of the Hare,1 ông có nói đến cành đào có đính danh thiếp của “Chủ Tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Hồ Chí Minh tặng Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh Diệm” được trưng bày tại pḥng khánh tiết phủ Tổng Thống, (lúc ấy là dinh Gia Long) trong ngày Tết Quư Măo (1963). Nhiều người đă hết sức ngạc nhiên. Làm sao một sự việc quan trọng như vậy mà cho đến nay mới nghe nói? Chính người viết cũng bán tín bán nghi. Nhưng mới đây, khoảng đầu năm 2006, ông Quách Ṭng Đức, nguyên đổng lư văn pḥng phủ Tổng Thống, đă xác nhận điều đó với luật sư Lâm Lễ Trinh, trong một cuộc phỏng vấn được đăng trên nhiều báo ở Mỹ. Sau đó cựu nghị sĩ Lê Châu Lộc, lúc ấy c̣n là tùy viên của Tổng Thống Diệm, cho chúng tôi biết thêm là chính ông đă nhận cành đào đó từ trụ sở Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến (ICC). Cành đào rất lớn, nhưng có lẽ v́ danh thiếp nhỏ, nên ít người để ư.
Từ ngày hoa đào xuất hiện tại Dinh Tổng Thống cho đến ngày vị Tổng Thống đầu tiên đổ máu đào trong một cuộc đảo chính chỉ có 9 tháng. Nhưng đây là thời gian xảy ra không biết bao nhiêu sự việc liên quan đến hoa đào và máu đào mà cho đến nay vẫn c̣n bị che phủ dưới những lớp màn bí ẩn.
Người ta đă có thể ví cành đào của ông Hồ với ả đào Điêu Thuyền của Vương Doăn (Môi son tươi thắm cánh đào xuân) từng là cái cớ cho Lữ Bố giết cha nuôi là Đổng Trác. Hay nhắc lại mưu sâu của Chu Du xúi Tôn Quyền gả em gái cho Lưu Bị để thừa dịp họ Lưu tới đón dâu giết quách đi. Nhưng mưu người em không qua mắt đượcngười anh là Khổng Minh Gia Cát Lượng. Sự mưu hại không thành. Lưu Huyền Đức đă không hề hấn ǵ mà lại được vợ đẹp. Tiếc rằng “nhà Ngô” không có được một Khổng Minh như nhà Thục. Ngô Đ́nh Nhu đă được một tác giả ẩn danh nào đó 2 so sánh với Khổng Minh, trong một tác phẩm 3 tập, dài cả ngàn trang, không đưa anh em ḿnh thoát ra khỏi cái lưới nhện đă giăng ra. Âu cũng là định mệnh của con người và vận nước.
NHỮNG DỮ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN CÀNH ĐÀO
Chúng tôi thiết nghĩ, cành đào không phải là nguyên nhân chính, càng không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến cái chết của Tổng Thống Diệm. Chúng tôi cũng không đa nghi đến độ cho rằng ông Hồ, dù nổi tiếng là thâm hiểm, đă cố t́nh giăng bẫy để gián tiếp giết ông Diệm qua một vài nhà ngoại giao Mỹ và mấy tướng phản bội.
Theo thiển ư, cành đào có thể được coi như cái bắt tay mở đầu môt cuộc đối thoại ḥng đi tới hiệp thương giữa hai chế độ thù địch. Tiếc rằng đoạn kết lại là máu. Sự liên hệ Hồ – Ngô xem ra có nhiều nguồn gốc sâu xa trong đó phải kể đến xu hướng trung lập nói chung của Ấn Độ trong khối các quốc gia không liên kết và tham vọng trung lập hóa Đông Dương của tướng De Gaulle của Pháp. Lúc ấy đại sứ Ấn Độ ở Sài G̣n đồng thời cũng là chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến (ICC) tại Đông Dương. Cho nên đại sứ Ấn Độ Goburdhun và đại sứ Pháp Roger Lalouette là hai người đóng vai chính trong việc bắc cây “cầu Hiền Lương” qua sông Bến Hải.
Giáo Sư Bửu Hội, nhà vật lư nguyên tử nổi danh quốc tế, và là nhà bác học duy nhất của Việt Nam lúc ấy, từng có lúc là cố vấn của Hồ Chí Minh, lại tán thành đường lối chính sách của Tổng Thống Diệm, và đang giữ một chức đại sứ của Cộng Ḥa Việt Nam. Biết được tham vọng trung lập hóa Đông Dương của De Gaulle, ông đă tiếp xúc với vị Tổng Thống Pháp, đề nghị để đại sứ Lalouette thu xếp cùng với đại sứ Ấn Độ làm thế nào tạo cơ hội cho trưởng đoàn Ba Lan trong ủy hội Kiểm Soát Đ́nh Chiến là Mieczyslaw Maneli có thể gặp ông Ngô Đ́nh Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Diệm. Xem ra “đồng lơa” với hai vị này c̣n có đại sứ Ư Giovanni d’Orlandi và đại diện của Vatican tại Việt Nam là Đức Cha Salvatore D’Asta.
Ông Cao Xuân Vỹ, phó thủ lănh Thanh Niên Cộng Ḥa, mà ông Ngô Đ́nh Nhu là thủ lănh, cho người viết biết: Năm 1962 ông đă được chứng kiến việc ông Nhu tiếp xúc với cựu thủ tướng Pháp Antoine Pinay, lúc ấy là bộ trưởng phủ Tổng Thống, đại diện Tổng Thống De Gaulle về vấn đề này. Đó là dịp Quốc Vương Ma-rốc đăng quang. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm được mời tham dự. Nhưng Tổng Thống Diệm đă cử ông Ngô Đ́nh Nhu đại diện, và ông Cao Xuân Vỹ tháp tùng ông Nhu. Ông Vỹ nói rằng khi ở Ma-rốc về nước, hai ông có ghé Paris và tại đây ông Nhu đă gặp ông Pinay đại diện Tổng Thống Pháp bàn về đề nghị của Bắc Việt muốn có một cuộc tiếp xúc giữa cấp cao của hai miền. Cuộc tiếp xúc này lúc ấy không được loan báo.
B́nh luận gia nổi tiếng Joseph Alsop viết trên tờ New York Herald Tribune ngày 18-9-1963 rằng Tổng Thống Diệm đă từng tiết lộ với ông về việc viên tổng lănh sự Pháp ở Hà Nội là Jacques de Buzon nhờ đại sứ Lalouette xin phép được vào Sài G̣n “đổi gió”. Tổng Thống đồng ư. Và ông Hồ cũng chấp thuận. Khi Lalouette dẫn Buzon vào găp Tổng Thống th́ Buzon cho biết là lúc đó thái độ của nhà cầm quyền Hà Nội đối với ông Diệm đă có chiều thay đổi. Ông Hồ gọi ông Diệm là người tốt và yêu nước. Lạ một điều là ngoài chi tiết nhỏ đó, Buzon không mang một thông điệp nào quan trọng hơn. Phải chăng đây là mộtcách bắn tiếng hai bên có thể xích lại gần nhau, trước khi có một cử chỉ thân thiện là tặng cành đào chúc Tết?
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, cháu gọi Tổng Thống Diệm bằng bác ruột trong một chuyến viếng thăm Nam Cali ít lâu trước khi qua đời đă tiết lộ sự việc sau với cựu trung tá Nguyễn Văn Minh, từng là chánh văn pḥng của ông Ngô Đ́nh Cẩn trong 8 năm: Khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ trước, Hồng Y có đến thăm một công cán ủy viên của Vua Bỉ th́ được ông này cho biết chiếc ghế mà Hồng Y ngồi chính là chỗ một cán bộ cao cấp của Hà Nội đă ngồi trước kia để xin ông công cán ủy viên làm môi giới tiếp xúc với Tổng Thống Diệm bàn tính chuyện hai miền Nam Bắc hiệp thương. Tưởng cần thêm rằng vị công cán ủy viên này, mà ông Minh quên (hay chưa muốn tiết lộ?) danh tánh, đă từng tiếp đón và săn sóc ông Diệm trong thời gian ông mới từ Mỹ sang Âu Châu năm 1953.
Cựu trung tá Nguyễn Văn Minh c̣n cho biết, sau đảo chính tướng Tôn Thất Đính, tổng trưởng Nội Vụ, đă mời ông tới văn pḥng chỉ cho xem một đống tài liệu mà tướng Đính bảo là trong đó có những thư từ liên lạc giữa hai bên và là “tang chứng rành rành về việc anh em ông Diệm bán đứng miền Nam cho CS, đâm sau lưng chiến sĩ. V́ vậy mà chúng tôi phải lật ông.” 3
Một số giới chức Đệ Nhất Cộng Ḥa c̣n nói đến “tin đồn” về những cuộc gặp gỡ bí mật giữa Ngô Đ́nh Nhu và Phạm Hùng tại B́nh Tuy, trong những cuộc đi săn trá h́nh nào đó.
Theo Stanley Karnow, nhà báo thiên tả, trở thành sử gia nổi tiếng nhờ cuốn Vietnam a history, cho biết chính bà Ngô Đ́nh Nhu đă xác nhận những cuôc tiếp xúc giữa hai miền và c̣n nói bà đă chuẩn bị để gửi hai người con lớn ra Hà Nội, coi như một “cử chỉ huynh đệ”. Karnow đă để hai từ “fraternal gesture” trong ngoặc kép.4
Vừa đây trong một cuộc phỏng vấn dành độc quyền cho nhà văn, nhà báo Trần Phong Vũ, ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă nói, anh em ông Diệm biết trung tá Phạm Ngọc Thảo là điệp viên Cộng Sản nhưng vẫn dùng để pḥng hờ có lúc cần liên lạc với đối phương. Người ta c̣n nhớ trong cuộc đảo chính 1-11-63, chính Phạm Ngọc Thảo đă đến dinh Gia Long định đón ông Diệm. Nhưng khi đến nơi th́ ông đă vào Chợ Lớn. Nhiều người c̣n nói Phạm Ngọc Thảo là gián điệp hai, ba mang nữa. Họ dựa vào 2 sự kiện mâu thuẫn: sau biến cố 30 tháng tư, CS đă tuyên dương Phạm Ngọc Thảo, nhưng vợ con của ông ta th́ lại được Mỹ giúp phương tiện sang định cư ở San Diego County, Nam Cali.
Theo giáo sư Francis X. Winters, liền sau khi được tin ông Diệm đă đầu hàng, ngoại trưởng Dean Rusk đă gửi một điện văn dài nồng nhiệt chúc mừng đại sứ Lodge đă thành công vẻ vang và hối thúc ông Lodge công bố ngay việc ông Diệm tính chuyện bắt tay với Hồ Chí Minh.5
Nữ giáo sư khoa sử Marilyn Young, tác giả cuốn Vietnam War 1945-1990 cho biết trong khi chính quyền Kennedy đang bàn thảo kế hoạch đối phó với t́nh h́nh Việt Nam th́ được tin ông Nhu đang công nhiên bàn về khả năng trực tiếp thương lượng với Hà Nội. Bà viết: “Theo Roger Hilsman (phụ tá ngoại trưởng. MV), th́ mục đích tối thiểu của Nhu là giảm bớt thật nhiều sự có mặt của cố vấn Mỹ; c̣n mục tiêu tối đa của ông ta là chấm dứt hoàn toàn sự có mặt của người Mỹ, và biến Nam Việt Nam thành một nước trung lập, hay theo thể chế Ti-tô, nhưng vẫn tách rời khỏi Bắc Việt…”6
Trên đây chỉ là một số tài liệu trong số những bài báo và trang sách đă nói đến toan tính hiệp thương giữa hai miền Nam – Bắc. Chỉ với ngần ấy tài liệu chúng ta cũng có thể xác quyết, quả thực đă có một nỗ lực từ cả hai phía cho mục tiêu này, mặc dù cho đến nay chưa hề có một tài liệu chính thức nào của Đệ Nhất Cộng Ḥa, hay của nhà cầm quyền CS được công bố.
TẠI SAO ANH EM ÔNG DIỆM TOAN TÍNH HIỆP THƯƠNG?
Một vài tài liệu khác có thể giúp giải đáp câu hỏi này.
Trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi7 tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu trích dẫn bức thư của ông Vơ Như Nguyện gửi một người bạn của ông, cũng là bạn của tác giả, là Hoàng Đồng Tiếu. Bức thư đề ngày 24-11-1977. Cuối thư có đoạn thuật lại lời ông Diệm tâm sự với ông Nguyện:
“… Vả tôi với chú Nhu có ư dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp nhưng đều là máu mủ ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản. Rồi bên nào kéo dài, chung quy sẽ bị lệ thuộc vào một cường quốc và đất nước chia rẽ, v́ các cường quốc có ư định chia rẽ cả…”
Trưng dẫn lá thư này, ông Đỗ Mâu nhằm tố cáo ông Diệm đă manh nha ư đồ bắt tay với Hồ Chí Minh, coi đó như một cái tội “đâm sau lưng chiến sĩ chống Cộng”.
Nhưng, nh́n vấn đề dưới góc độ khác, người ta sẽ thấy ông Diệm muốn tránh đổ máu chừng nào tốt chừng đó và không muốn để các cường quốc đắc lợi trong cuộc tranh chấp nội bộ.
Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của trung tá John Paul Vann, cố vấn sư đoàn 7 thời ấy đă tố cáo ông Diệm có khẩu lệnh mật cho các tư lệnh Việt Nam tránh các cuộc hành quân lớn gây thương vong nhiều. Ông Vann cũng như một vài nhà báo và sử gia sau này trưng dẫn lời ông Vann, đă hàm ư rằng ông Diệm không muốn đánh CS, chỉ muốn duy tŕ lực lượng để bảo vệ cái ghế Tổng Thống của ông, hay chỉ muốn đánh cầm chừng, nh́ nhằng, kéo dài chiến tranh, ḥng tiếp tục nhận tiền viện trợ…Nhưng nếu nh́n lời tố cáo dưới khía cạnh khác, th́ rất có thể khi có khẩu lệnh mật đó, anh em ông Diệm đang toan tính nói chuyện với Bắc Việt, và không muốn những cuộc giao tranh lớn làm trở ngại việc thương thuyết.8
Trong Nguyên Sa Hồi Kư (ấn hành năm 1998), giáo sư Trần Bích Lan, tức nhà thơ Nguyên Sa nổi tiếng với những vần thơ hay đến huyễn hoặc ḷng người, đă thuật lại chuyện ông và hai giáo sư Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Xuân Nghiên đă có dịp nghe Tổng Thống Diệm trả lời một trong 3 câu hỏi của các ông một cách tương tự. Câu hỏi là tại sao ta không dồn lực lượng đánh một vài trận lớn để giải quyết chiến tranh mau chóng mà cứ đánh cầm chừng nh́ nhằng như thế này. Ông Diệm đă nói đại ư: Bản chất cái chiến tranh này nó như thế. Mở rộng chỉ chết thêm lính và dân, mà cũng chẳng giải quyết được nhanh. Ba mươi lăm năm sau, nh́n lại, nhà giáo và nhà thơ của chúng ta đă thấy câu trả lời của ông Diệm không phải ngụy biện như các ông nghĩ lúc trước, mà là những lời tiên đoán thời cuộc rất chính xác.
Chúng tôi nhắc chuyện này theo như những ǵ c̣n nhớ về lời phát biểu của nhà giáo Lưu Trung Khảo, là một người thân của nhà thơ Nguyên Sa, trong một dịp ra mắt sách ở Quận Cam năm 1998. Những ǵ ông Ngô Đ́nh Nhu nói trong một lễ bế mạc lớp học tập về Ấp Chiến Lược khóa XII, ngày 22-6-1963, cũng tương tự như thế: “Chúng ta là một nước nhỏ bé đứng giữa hai khối. Nếu bên thế giới tự do tăng cường viện trợ cho ta th́ thế giới cộng sản cũng sẽ tăng viện trợ cho phía họ. Hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng ngày càng lên cao. Và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?”9
Đă rơ anh em ông Diệm không muốn đánh lớn v́ sẽ phải lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, và sẽ làm cớ cho Liên Xô và Trung Cộng nhảy vào xâu xé Việt Nam. Cứ nh́n vào lư thuyết Ấp Chiến Lược, với những chính sách Tam Túc,10 Tam Giác của ông Nhu th́ càng thấy các ông đă chuẩn bị từ trước, để cố thoát khỏi sự ràng buộc tai hại của ngoại viện.
TƯ LIỆU CỦA MỘT BÀ “THỦY-CHUNG” VỚI ÔNG DIỆM
Có lẽ người cung cấp nhiều tài liệu nhất về vấn đề này là nữ tiến sĩ Ellen Hammer. Bà là sử gia, nhà báo và học giả sớm nổi tiếng về các vấn đề Việt Nam. Năm 1947, mới ra trường, c̣n độc thân ở tuổi 25, bà đă có một tác phẩm loại này nhan đề The Emergence Of Vietnam. Bà là bạn rất thân với nhà bác học Bửu Hội, và hoàn toàn chia sẻ với ông về việc ủng hộ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.
Douglas Pike đă mỉa mai bảo bà trung thành riêng vớí ông Diệm –personally loyal to Diệm. Có thể nói là “thủy chung” đến nỗi từ khi ông Diệm chết, bà bỏ hẳn việc viết lách, không màng bày tỏ ư kiến về thời cuộc nữa.11 Nhưng rồi đùng một cái, năm 1987, 24 năm sau, bà lại cầm bút, chỉ để bênh vực ông Diệm và chỉ trích chính quyền Kennedy, trong đó có một vài người trong bộ ngoại giao đă dùng những mánh lới không hay ho ǵ để cố lật cho bằng được ông Diệm. Đó là cuốn A Death In November: America In Vietnam, 1963.12
Theo Ellen Hammer th́ khi luật sư Mieczyslaw Maneli, trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy hội kiểm soát đ́nh chiến từ Hà Nội vào Sài G̣n mùa xuân năm 1963 liền được một số nhà ngoại giao tiếp xúc để đưa đến giói thiệu với ông Ngô Đ́nh Nhu. Trong khi họ đang t́m một dịp may để hai người gặp nhau, th́ biến cố Phật Giáo xảy ra. V́ vậy cuối tháng 8 việc đó mới thực hiện được. Họ gặp nhau trong buổi tiếp tân ngoại giao đoàn đầu tiên của tân ngoại trưởng Trương Công Cừu. Ông Cabot Lodge cũng có mặt thành cái đinh của buổi lễ. V́ vậy chẳng thấy có dấu hiệu nào bất thường trước sự hiện diện của Maneli, một người Cộng Sản, trong buổi tiếp tân của ngoại trưởng VNCH. Maneli đứng nói chuyện với Đức Cha Asta, đại diện Vatican. Một lát sau ông này quay sang ông Ngô Đ́nh Nhu và giới thiệu Maneli. Lập tức 3 nhà ngoại giao khác cùng tiến về phía họ. Đó là các ông Lalouette, đại sứ Pháp; Goburdhun, đại sứ Ấn, chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế; và d’Orlandi, đại sứ Ư.
Hammer thuật lại:
“Ông Nhu nói với Maneli: “Tôi đă nghe các bạn của chúng tôi nói nhiều về ông”… Ông ta tiếp: “Nhân dân Việt Nam có một sự nhậy cảm và không tin cậy chẳng những đối với người Trung Hoa, mà đối với tất cả những nước thực dân hay chiếm đóng. Tất cả.” Maneli tự hỏi, phải chăng ông Nhu có ư nói Hoa Kỳ, và có lẽ ông ta không phải là người duy nhất trong số những nhà ngoại giao nghe chuyện tự hỏi như thế. Rồi ông Nhu lại nói: “Lúc này đây, chúng tôi đang quan tâm tới ḥa b́nh, và chỉ quan tâm tới ḥa b́nh mà thôi. Tôi tin rằng Ủy Hội Quốc Tế có thể và nên đóng một vai tṛ quan trọng trong việc đem lại ḥa b́nh cho Việt Nam.”
“Maneli trả lời sẵn sàng giữ vai tṛ tích cực nhất.”…
“Sau đó Maneli nhận được thư mời tới gặp ông Nhutại dinh Gia Long vào ngày 2-9-63.
“Khi ông Goburdhun đi Hà Nội với tư cách chủ tịch UHQT ông ta thấy chính phủ miền Bắc không có vẻ ǵ coi cuộc chiến tại miền Nam là lư do để từ chối giao thương với chế độ Sài G̣n. Hồ Chí Minh bảo Goburdhun: “Ngô Đ́nh Diệm là người yêu nước theo cách của ông ta… Hăy bắt tay ông ấy thay tôi, nếu gặp.”
“Đến Hà Nội mùa xuân 1963, Maneli đă chuyển lời của đại sứ Pháp cho Hồ Chí Minh: Ông Diệm sẽ đáp ứng, nếu Hà Nội đi bước trước. Ông ấy muốn làm giảm áp lực của Mỹ. Hà Nội đáp: Cứ để ông ta chứng tỏ thiện chí đi. Ông ta có thể dần dần mở liên lạc bưu chính với miền Bắc và nhận than đá của miền Bắc đổi gạo của miền Nam. Miền Bắc sẵn sàng chấp nhận một nền dân chủ kiểu Tây
phương ở miền Nam và sẽ không thúc ép phải mau chóng thống nhất.
Sau đó vài tháng ông Hồ đă đưa ra lời kêu gọi công khai về một thỏa hiệp đ́nh chiến.
Hammer viết tiếp:
“Người Bắc nh́n thấy những mối lợi trong việc thương lượng với ông Nhu trong giai đoạn này. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Dầu sao ông Nhu chắc chắn có khả năng tư duy một cách lô-gích; ông ta tốt nghiệp đại học École Des Chartes mà.” Maneli hỏi nên làm ǵ, nếu gặp ông Nhu, th́ Đồng nói: “Cứ đến và nghe cho thật kỹ. Có một điều chắc chắn: Người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam. Trên căn bản chính trị đó chúng tôi có thể thương lượng về mọi việc. Chúng tôi thực ḷng muốn chấm dứt chiến tranh, tái lập ḥa b́nh trên căn bản thực tiễn. Chúng tôi rất thực tiễn.”
Theo Ellen Hammer th́ đại sứ Pháp rất lo lắng khi nghe tin sẽ có đảo chính. Ông bảo Maneli rằng chỉ có Ngô Đ́nh Diệm đủ can đảm để làm việc cho ḥa b́nh. Ngoài ra bất cứ kẻ nào lên thay cũng sẽ lệ thuộc hơn vào Mỹ.
Nỗi lo của Lalouette dịu đi khi biết Maneli đă có thể gặp Ngô Đ́nh Nhu đúng hẹn (2-9-63). Nhưng khi biết ông Nhu c̣n quá dè dặt trong câu chuyện với Maneli, th́ lại thất vọng. Dường như ông ta c̣n sợ Mỹ và tính thối lui trong ư định hiệp thương. Sau này, biết ông Nhu tiết lộ với Cabot Lodge về những cuộc tiếp xúc mà ông ta phủ nhận với Maneli, hay đúng ra không dám minh thị công nhận trước những câu hỏi của Manli, th́ Lalouette bảo Maneli: (nguyên văn lời của Hammer) “Nếu ông ta không dứt được những ảo tưởng với người Mỹ, ông ta sẽ tiêu mất.Thực là một lỗi lầm bị thảm.”
Sau này Lalouette đă nói với Hammer rằng thời gian ấy ông ta đă cố thuyết phục Cabot Lodge đừng làm đảo chính. Nhưng không sao lay chuyển được Cabot Lodge, và, lời của Hammer, “Cuối cùng ông ta (Lalouette) bó buộc phải tin rằng người Mỹ này (Lodge) đă được phái tới Việt Nam với mệnh lệnh là phải sớm loại bỏ ông Diệm cho bằng được.”
Về vai tṛ của Roger Hilsman trong việc loại bỏ ông Diệm, Hammer viết:
“Tại Washington, Roger Hilsman trong giác thư ngày 16-9 đă định nghĩa cái mà ông tin là mục tiêu tối thiểu của ông Nhu, “giảm thiểu rơ rệt sự có mặt của người Mỹ tại những vị trí có ư nghĩa chính trị ở các tỉnh và trong chương tŕnh Ấp Chiến Lược”. C̣n mục tiêu tối đa của ông ta là “thương lượng với miền Bắc để ngưng chiến, chấm dứt hoàn toàn sự hiện diện của người Mỹ…” Và đó là lư do Hilsman đưa ra để bác bỏ đường lối ḥa hoăn đối với ông Diệm. Nghĩa là quyết phải hạ ông Diệm cho bằng được.
Hammer cho biết, chính sách áp lực với Diệm mà Hilsman đề nghị đă được hội đồng an ninh quốc gia chấp thuận ngày 17-9-63.13
TIẾNG NÓI CỦA VAI CHÍNH
Đến đây, chắc độc giả nóng ḷng muốn biết nhân vât chính là Mieczyslaw Maneli đă viết ǵ về vấn đề này.
Mieczyslaw Maneli, sinh năm 1922, là giáo sư đại học luật Warsaw, năm 1963 được cử làm trưởng đoàn Balan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến (UHQT).
Là một người CS có xu hướng tự do, lại dính líu vào việc liên lạc giữa Sài G̣n và Hà Nội nên năm 1968 đă bị trục xuất khỏi đảng và khỏi nước. Ông đến Nữu Ước dạy về chính trị học.
Trong tác phẩm The War Of The Vanquished (cuộc chiến của những kẻ chiến bại),14 Maneli đă dành nguyên chương 6 (dài 20 trang) để kể chi tiết về vai tṛ con thoi của ḿnh. Mở đầu chương sách, tác giả đă nói đến dư luận báo chí khắp thế giới xôn xao về việc trưởng đoàn Ba Lan trong UHQT đă trở thành môi giới để ông Diệm bán đứng miền Nam cho CS. Sau khi nhắc lại lời tuyên bố chính thức của nhóm tướng lănh đảo chính kết án ông Diệm phản quốc qua trung gian tác giả, ông đă nhắc lại làn sóng tố khổ và làm nhục gia đ́nh họ Ngô qua báo chí Sài G̣n những ngày liền sau đảo chính.
Tấm h́nh bà Ngô Đ́nh Nhu đang thoát y đứng bên cạnh một người ngoại quốc chỉ mặc quần tắm được đưa lên mặt báo.15 V́ có băng đen che nửa mặt người đàn ông nên người ta cứ bảo đó là h́nh của Maneli. Tác giả đă tốn công cải chính. Nhưng càng cải chính th́ lại càng có vẻ gián tiếp xác nhận. Dí dỏm ở chỗ tác giả bảo ông chỉ cải chính lấy lệ, một cách miễn cưỡng. Phải chăng v́ ông cũng muốn nổi tiếng với người được ví như Lucretia de Borgia, hay Cleopatre? Nữ kư giả Marguerite Higgins, một người rất mến phục và bênh vực ông Diệm đă đặc biệt chú ư tới tấm h́nh này. Maneli viết: “Marguerite mê câu chuyện tôi có dính dáng đến cuộc “giao du thân mật” (chữ của bà Ngô Đ́nh Nhu, tác giả luật gia đ́nh) này. Cô ấy hỏi tôi nhiều câu hỏi thăm ḍ. Có lẽ cô ta rất lấy làm tiếc không thể cung cấp cho độc giả Mỹ những nhận xét của cá nhân tôi về sự duyên dáng hấp dẫn của một phu nhân mà nhiều người đàn ông thèm muốn và tranh giành c̣n hơn cả Cleopatra.”16
Sau đó Maneli nhắc đến chuyện bịa đặt của tờ Jeune Afrique là ông đă gặp ông Nhu ngày Quốc Khánh của Pháp (14 tháng 7) tại nhà riêng đại sứ Roger Lalouette. Rồi Maneli xác nhận là có gặp ông Nhu hai lần, ngày 25 tháng 8 và mồng 2 tháng 9. Ông cũng khẳng định sáng kiến không phải do ông mà là do nhiều nguồn khác nhau, và được chuẩn bị xếp đặt từ nhiều tháng trước, vào khoảng thời điểm gần trùng nhau. Tác giả có ư nhắc tới bốn tên tuổi trong giới ngoại giao mà bà Ellen Hammer đă nói trên.
(Riêng về cuộc gặp gỡ giữa ông Nhu và Manelli tại dinh Gia Long ngày 2-9-1963, chúng tôi xin mở một dấu ngoặc để thêm một nhân chứng. Giáo sư Tôn Thất Thiện, từng là tùy viên báo chí của phủ Tổng Thống thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, đă cho người viết biết qua một điện thư (17-2- 2008) như sau: Cuộc đàm thoại giữa Maneli và ông Ngô Đ́nh Nhu kéo dài trong 3 tiếng. Chính ông Nhu đă bảo ông Thiện “hăy ngồi nghe cho biết”. Ngoài ra trong bức điện thư Giáo Sư Thiện cũng cho biết là chính ông Nhu đă có lần cho báo chí biết ông đă có lần ông tiếp tướng CS Trần Độ ngay tại dinh Gia Long. Và trong dịp tiếp báo chí ngoại quốc này chính giáo sư Thiện đă đóng vai thông dịch viên.)
Đáp lại lời khuyên của mọi người là Maneli nên gặp ông Nhu, Maneli một mực bảo ḿnh thuộc một nước CS không nh́n nhận chế độ Sài G̣n, nên không tiện đi t́m gặp. Nhưng nếu được mời th́ sẽ tới.
Đại sứ Ấn Độ khuyên Maneli nên bớt ca tụng Bắc Việt, và hăy cố nói những lời tốt đẹp về miền Nam vào lúc và tại nơi thích hợp. Ông khen khái niệm của ông Nhu về xă hội chủ nghĩa, không phải thứ xă hội chủ nghĩa dựa trên triết lư duy vật, hay thứ xhcn của Trung Cộng, Liên Xô. Nhưng nó là xă hội chủ nghĩa ǵ th́ chẳng rơ. Ông Nhu từng đă có lúc nói, trên thế giới chỉ có ông ta là người xă hội chủ nghĩa đích thực. Phải chăng ông ta được soi sáng và gợi hứng từ khái niệm của người Ấn? Hay đó chỉ là một cách nói mà thôi? Maneli tự hỏi thế. Dầu sao th́ khái niệm đó cũng làm cho sự ve văn trở nên dễ dàng.
Về đại sứ Pháp Lalouette, Maneli viết:
“Ông ấy đă có một kế hoạch dài hạn và nh́n thấy những phương tiện dẫn đến sự thực hiện nó. Kế hoạch đó là mở đối thoại giữa Sài G̣n và Hà Nội và trao đổi tượng trưng về văn hóa, kinh tế giữa hai miền. Rồi những hội đàm chính trị sẽ được thực hiện trên nền tảng đó. Căng thẳng, nghi ngờ, thù địch giữa hai chính phủ sẽ giảm bớt và ḥa b́nh có thể được bảo đảm. Một nền ḥa b́nh lâu dài và một cuộc đối thoại chính trị là những điều kiện bất khả vô cho những giải pháp chính trị dài hạn, kể cả sự thống nhất trong ḥa b́nh, bầu cử tự do, và quốc tế kiểm soát. Cần phải bắt đầu bằng bước thứ nhất: tôi sẽ điều khiển những cuộc nói chuyện với Hà Nội. C̣n ông ta sẽ duy tŕ sự tiếp xúc với chính quyền miền Nam về vấn đề này.”
Và sau đây là phản ứng của Hà Nội:
“Lần đầu đến Hà Nội, tôi tŕnh kế hoạch của đại sứ Pháp. Chỉ trong 2 ngày đă có sự đáp ứng. Phạm Văn Đồng nói, đề nghị mà chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đă lâu và bản tuyên cáo của chính phủ vẫn c̣n hiệu lực: Đó là chính quyền nhân dân sẵn sàng khởi sự thương thuyết bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai. Bộ trưởng Xuân Thủy, theo chỉ thị của chủ tịch và thủ tướng, sẵn sàng tŕnh lên một danh sách những hàng hóa có thể trao đổi giữa hai miền…”
Về lập trường và quan điểm của đại sứ Ấn, cũng như của người Ấn nói chung, Maneli cho là họ đứng hẳn về phía anh em ông Diệm và sẽ rất buồn nếu mất lá bài này.
Theo Maneli, anh em ông Diệm tinh khôn đủ để thỉnh thoảng nhỏ to với đại sứ Goburdhun về một thứ ǵ đó liên quan đến thái độ “chống thực dân”, “chống đế quốc”, “chống Mỹ” và “yêu thích trung lập”. Riêng hai từ trung lập đặc biệt hấp dẫn đối với người Ấn. V́ họ tưởng tượng ra rằng với ông Diệm có thể họ sẽ có thêm một thành viên vào khối Không Liên Kết mà Ấn Độ đang lănh đạo. V́ vậy người Ấn chẳng những trung thành với chế độ Diệm mà c̣n sốt sắng bênh vực chống lại người Mỹ. Maneli viết:
“Đại sứ Goburdhun nhận vai tṛ biện hộ cho ông Nhu, giới thiệu ông ta như một chính khách lỗi lạc với người Mỹ, người Anh, người Pháp và Vatican. Và dĩ nhiên với tôi, để tôi sẽ quảng bá ư kiến đó khắp nơi cho mọi người biết ông Nhu là người tốt nhất và người duy nhất để thương lượng.”
Về những toan tính của người Pháp mà đại sứ Lalouette có nhiệm vụ thực hiện, Maneli viết một cách bóng bẩy:
“Nhưng đại sứ Lalouette th́ đang chơi tṛ này ở một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, có thể nói là toàn cầu. Xem ra ông ta muốn cứu chế độ Diệm cho nước Pháp khỏi tay người Mỹ vô tâm. Người Mỹ gạt bỏ món hàng này, th́ người Pháp sẽ mua nó với giá hời, cái giá của một cơ sở bị phá sản. Vả người Mỹ cư xử như một người vợ không chung thủy; phản bội chồng, nhưng lại quá ghen không muốn để chồng lọt vào tay ai.”
Khi biến cố Phật Giáo xảy ra th́ Maneli đang ở SàiG̣n. Ngày 27-6-63 ông báo cáo cho chính phủ Hà Nội và ṭa đại sứ Liên Xô: Trong số phe Phật Giáo đấu tranh chống chính phủ Diệm có 2 thành phần: một là những kẻ ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng, hai là những kẻ có liên hệ mật thiết với Mỹ. Có lẽ có một số người Mỹ muốn dùng phong trào Phật Giáo đấu tranh lật ông Diệm, để sau này người ta khỏi tố cáo Mỹ dàn dựng cú đảo chính.”
Trong một báo cáo khác, tối mật, đề ngày 10-7-63, chỉ gửi cho chính phủ Ba Lan và ṭa đại sứ Liên Xô, Maneli lấy làm lạ là Hà Nội và mặt trận Giải Phóng Miền Nam không lợi dụng lúc chế độ Diệm gặp khó khăn này để ra tay. Ông ta suy đoán là ông Hồ muốn để nó sống sót qua cơn ngặt nghèo hầu có thể đi đến một thỏa hiệp với nó sau lưng Mỹ. “Sài G̣n lúc ấy đầy những tin đồn về những Cuộc tiếp xúc mật giữa anh em ông Diệm với ông Hồ. Ở Hà Nội không ai xác nhận những tin này. Nhưng cũng chẳng có ai trả lời câu hỏi của tôi một cách rơ rệt là không có…
“Tôi hỏi Phạm Văn Đồng và Xuân Thủy, nếu Nhu mời tôi tới nói chuyện, tôi sẽ phải hành động ra sao. Họ trả lời ngay: Hăy tới và lắng nghe cho kỹ.
“Tôi lại hỏi: các ông có muốn tôi chuyển đạt điều ǵ không? Th́ được trả lời: “Tất cả những ǵ mà ông biết về lập trường của chúng tôi về trao đổi kinh tế, văn hóa, về ḥa b́nh, thống nhất. Có một điều dứt khoát là người Mỹ phải ra đi. Trên căn bản chính trị đó, chúng ta có thể thương thảo về mọi sự.
“Tôi hỏi Phạm Văn Đồng, trước mặt Hồ Chí Minh (ông này ngồi im, như là sợ sệt, và lắng nghe chúng tôi nói), liệu họ có thấy khả năng có một thứ liên bang với Diệm-Nhu hoặc một thứ chính phủ liên hiệp không. Đồng đáp: Mọi sự đều có thể thương lượng trên cơ sở nền độc lập và chủ quyền tối thượng của dân tộc.”
Cũng trong báo cáo này (10-7-63), Maneli nói hai bên muốn có thể đi tới một thỏa hiệp mà không c̣ sự tham dự của các đại cường, của Moscow, Washington, và chắc chắn không có sự tham dự của Bắc Kinh.
Về phản ứng của ṭa đại sứ Liên Xô, Maneli cho biết tất cả đều cho thấy những kết luận của ḿnh là đúng: “Có lư do để nghi rằng người Việt họ muốn thu xếp riêng với nhau”. Ông đại sứ bảo Maneli thế. C̣n phía ṭa đại sứ Trung Cộng th́ xem ra không biết ǵ về những cuộc tiếp xúc giữa Hà Nội và Sài G̣n, hoặc giả biết nhưng không chấp nhận.
Và Maneli kết thúc chương sách của ông bằng câu: “Xét về mặt chính trị mà nói th́ việc Hà Nội hành động mà không có sự chấp thuận của Bắc Kinh là điều có ư nghĩa nhất.”
KHẢ NĂNG THỰC THI VÀ NHỮNG TRỞ NGẠI
Qua tất cả các thông tin ở trên do nhiều nguồn, từ Karnow với nhà bác học Bửu Hội và bà Ngô Đ́nh Nhu; qua hồng y Nguyễn Văn Thuận với một công cán ủy viên của nhà vua Bỉ; kư giả Joseph Alsop với tổng lănh sự Jacques de Buzon; cựu trung tá Nguyễn Văn Minh với đồ án Tam Túc trong quốc sách Ấp Chiến Lược của ông Ngô Đ́nh Nhu; cho đến Ellen Hammer và Mieczyslaw Maneli với rất nhiều nhân vật ngoại giao và các nhà lănh đạo hai miền Nam Bắc… người ta có thể xác quyết: chuyện tiếp xúc bí mật giữa hai miền là có thật và có lư do thực tiễn của nó. Sở dĩ nó chưa đi đến kết quả cụ thể nào, v́ người Mỹ đă sớm ra tay.
Có nhiều lư do để người Mỹ hạ ông Diệm. Nhưng những cuộc tiếp xúc này đă là cái cớ thuận tiện nhất. Đề nghị của Roger Hilsman đă được hội đồng an ninh quốc gia Mỹ chấp thuận. Ngoại trưởng Mỹ đă hối thúc đại sứCabot Lodge lệnh cho các tướng đảo chính phải công bố ngay lư do đảo chính là anh em ông Diệm bắt tay với HàNội. Những chiến sĩ chống cộng hăng say tại miền Nam ngỡ ngàng. Phần đông cũng lên án âm mưu “bán đứng miền Nam cho CS” và “ngang nhiên đâm sau lưng chiến sĩ”. Ông Cabot Lodge được an toàn không bị lộ diện là sát hại lănh tụ đồng minh, v́ đă có cái cớ chính đáng là tội bội phản, cộng thêm với tội “đàn áp Phật Giáo, cho nên Phật tử đứng lên đạp đổ bạo quyền”.
Khi xảy ra đảo chính th́ người viết chỉ là một sĩ quan cấp úy đang tu nghiệp tại đài BBC, Luân Đôn. Đă 3 tháng xa nhà, không biết ǵ về những diễn biến dồn dập trong mấy tháng đó (và 4 tháng sau). Cho nên tâm trạng cũng hoang mang, không biết “tội” của anh em ông Diệm đúng ra ở chỗ nào. Nhưng nghe bài b́nh luận của đài BBC liền ngay ngày hôm sau đảo chính – lúc ấy tôi có mặt tại pḥng vi âm, và được nghe chính người xướng ngôn viên (ông Thạch Xuân Kỳ, nếu tôi nhớ đúng) đọc trực tiếp – th́ thấy chính phủ Anh 17 không quên nêu lên những việc ích quốc lợi dân mà Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă làm trong 9 năm cầm quyền và kết luận: lịch sử sẽ công b́nh đối với ông.
Những năm gần đây, được đọc lại một số tài liệu lịch sử về các biến cố tại Việt Nam, và theo dơi t́nh h́nh thế giới suốt nửa thế kỷ qua, chúng tôi xin có một vài ư kiến riêng sau đây.
Trước hết xin được bỏ qua những nhược điểm và khuyết điểm của ông Diệm, cũng như vấn đề tế nhị gọi là “cuộc khủng hoảng Phật Giáo” và các vấn đề khác. Chỉ xin chú trọng đến riêng vấn đề toan tính hiệp thương với miền Bắc mà thôi.
Nhiều người nêu thắc mắc, không hiểu tại sao, hồi 1955-1956, khi ông Hồ kêu gọi hiệp thương để chuẩn bị tổng tuyển cử theo đúng quy định của hiệp định Genève, th́ ông Diệm đă cực lực bác bỏ. Thậm chí năm 1954 thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Cộng ngỏ ư muốn ông đặt liên lạc ngoại giao với Bắc Kinh ông cũng gạt đi. Đặc biệt hơn nữa khi Khrutschev đề nghị cả hai miền Nam Bắc đều gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1957 ông cũng nhất định không chịu. Mà đến năm 1962, 1963 anh em ông lại tính chuyện hiệp thương. Như vậy có phải là tự mâu thuẫn không? Hay phải chăng đây chỉ là đ̣n tháu cáy của anh em ông với chính quyền Kennedy, khi chính quyền này đang t́m cách lật ông?
Có thể tạm giải thích mấy thắc trên như sau: Năm 1954, vừa về nước trong hoàn cảnh phe quốc gia gần như bị phá sản, sau chiến thắng Điện Biên của CS. Mọi sự phải trông nhờ vào viện trợ của Mỹ lúc ấy do đảng Cộng Ḥa cầm quyền với Tổng Thống Eisenhower và ngoại trưởng John Foster Dulles là hai nhân vật quyết liệt chống Cộng hơn ai hết. Chứng kiến cảnh Trung Cộng chiếm toàn lục địa Trung Hoa (1949), rồi xua quân tràn qua vĩ tuyến 38 ở Triều Tiên (1953), phái tướng sĩ sang giúp Hồ Chí Minh điều khiển quân của Vơ Nguyên Giáp chiến thắng ở Điện Biên, khiến nửa Việt Nam rơi hẳn vào tay CS, các nhà lănh đạo Hoa Kỳ cương quyết hơn bao giờ hết để đối đầu với khối Cộng. V́ vậy muốn có viện trợ Mỹ, không thể lập liên hệ ngoại giao với Trung Cộng được, dù cho Chu Ân Lai có hảo ư chăng nữa.
C̣n việc từ chối gia nhập Liên Hiệp Quốc cùng với Bắc Việt là do nguyên tắc một nước Việt Nam bắt khả phân mà ông Diệm kiên cường tôn trọng. Có người bảo ông ngoan cố hay cố chấp với nguyên tắc All or Nothing (Tất cả hoặc không có ǵ) th́ có lẽ cũng không quá đáng. Đến như việc không đáp ứng lời kêu gọi, (hay thách đố?) hiệp thương của ông Hồ những năm 1955 và 1956 là v́ cái thế của VNCH lúc ấy c̣n quá yếu so với Bắc Việt. Hiệp thương để tổng tuyển cử lúc ấy là cầm chắc thất bại. V́ vậy ông Diệm đă khôn khéo viện cớ không kư hiệp định Genève để bác bỏ lời kêu gọi hiệp thương. Và Hoa Kỳ lúc ấy cũng tán thành lập trường này.
C̣n việc ông Nhu có ư tháu cáy với Mỹ không th́ chúng tôi nghĩ là không. Trước hết, đây là chiến lược dài hạn anh em ông đă có ư định áp dụng từ lâu trước khi có vụ Phật Giáo và toan tính hạ ông Diệm của người Mỹ. Vả lại, theo Ellen Hammer th́ chính ông Nhu đă tiết lộ cho ông Cabot Lodge biết ông đang tính liên lạc với Bắc Việt để giảm cường độ chiến tranh. Trong khi đó th́ ông ấy lại giấu Maneli, hay đúng ra không dám xác nhận rơ rệt, mà chỉ trả lời câu hỏi của Maneli (về những cuộc tiếp xúc mật giữa hai bên) bằng một câu hỏi thoái thác, cũng giống như Phạm Văn Đồng đă dí dỏm hỏi Maneli một câu tương tự: (“Ông có thích, có tin những tin đồn đó không?”). Chính thái độ không dứt khoát của ông Nhu đă làm đại sứ Pháp thất vọng, v́ ông này vốn bênh vực ông Diệm trước ông Lodge, và cũng nói rơ, với ông Lodge: ông Diệm cần ông Nhu.
Có điều chắc chắn là cả ông Nhu lẫn ông Diệm đều chuẩn bị từ lâu để thoát khỏi sự ràng buộc bởi viện trợ Mỹ, v́ các ông hiểu rơ nó sẽ trói chặt các ông, không cho thực hiện những chính sách đường lối chống cộng trong các điều kiện của ḿnh mà các ông xác tín là hữu hiệu hơn phương pháp thuần túy quân sự của Mỹ. Quốc sách “Ấp Chiến Lược” với lư thuyết Tam Túc và tự lực tự cường được đem thực hiện từ đầu 1962 là một bằng chứng. Những lời phát biểu của ông Nhu trong các khóa huấn luyện về Ấp Chiến Lược ở suối Lồ Ồ, cũng như lời ông Diệm tâm sự vói ông Vơ Như Nguyện được Đỗ Mậu trưng dẫn ở trên là những dấu chỉ khác.
Ngoài ra, tuy rất ghét chủ nghĩa duy vật vô thần trong học thuyết Mác, và những phương pháp hành động tàn bạo dựa trên nguyên lư “cứu cánh biện minh cho phương tiện” mà ông Hồ và đảng của ông ta áp dụng, ông Diệm vẫn có phần nào kính nể, hay ít nhất là nể sợ ông Hồ về phương pháp tuyên truyền hữu hiệu trước quần chúng rằng ông ta chiến đấu chống ngoại xâm, giành độc lập. Mà một trong những điều làm cớ cho luận điệu tuyên truyền đó có tác dụng tốt, là sự hiện diện càng ngày càng đông của người Mỹ trên lănh thổ miền Nam Việt Nam (từ vài trăm năm 1955 đến 16 ngàn năm 1963). Hễ cứ có thêm một toán cố vấn đến Sài G̣n, là báo chí khắp thế giới đều biết. Trong khi hẳn là trên miền Bắc cũng có cố vấn Liên Xô và Trung Cộng, nhưng bên ngoài chẳng mấy ai biết, v́ họ kín tiếng và giấu kỹ lắm. V́ vậy tuyên truyền Cộng Sản Bắc Việt nói Mỹ Diệm th́ nghe xuôi tai. C̣n nếu có ai nói Nga Hồ th́ nghe lại không ổn. V́ vậy muốn chứng minh cho nhân dân toàn quốc rằng miền Nam hoàn toàn độc lập sẽ khó khăn hơn với sự hiện diện càng ngày càng đông của cố vấn Mỹ.
HOÀ-HOĂN, HIỆP-THƯƠNG
MỘT SÁCH-LƯỢC PHI-VŨ-TRANG NH̀N DƯỚI LĂNG-KÍNH Ư-THỨC-HỆ
Dưới lăng kính của chiến tranh ư thực hệ với tính toàn cầu, toàn diện, thường trực của nó, chúng ta thử nh́n lại khối Cộng đă tấn công, xâm lăng, sát nhập các nước Đông Âu và vùng Ba Nhĩ Cán trong và liền sau Thế Chiến II. Cộng sản đă không phải dùng đến chiến tranh quân sự với các đon vị xâm lăng. Phần lớn họ chỉ dùng các biện pháp phi vơ trang. Xâm nhập, thao túng, lũng đoạn, bầu cử gian lận, vi phạm hiệp ước, nói một đàng làm một nẻo. Chính Liên Xô đă xích hóa Trung Hoa Lục Địa bằng sách lược liên minh với Trung Hoa Dân Quốc, hai lần. Đó là nói về đại thể, c̣n nếu đi vào chi tiết th́ dĩ nhiên không thể tránh những trường hợp cá biệt CS không từ bỏ biện pháp bạo lực.
Rồi cũng dưới lăng kính đó, hăy nh́n lại thế giới tự do đă thắng khối cộng vào giai đoạn cuối cùng ra sao. Khi biết ḿnh không thắng được chiến tranh cục bộ ở Việt Nam bằng vũ lực, v́ đă bị sa lầy, và cố bằng mọi cách rút chân khỏi vũng lầy chết người này, Tổng Thống Richard Nixon và ngoại trưởng Henry Kissinger đă dùng chiến thuật “ngoại giao bóng bàn” ở Trung Quốc, dẫn đến những bữa tiệc linh đ́nh do Mao Trạch Đông thết đăi với hàng trăm món sơn hào hải vị, đặc biệt Tầu! Rồi cuối cùng đến Thông Cáo Chung Trung-Mỹ tại Thượng Hải. Với Liên Xô th́ hiệp ước hạn chế vơ khí chiến lược (SALT2).
Đến đời Tổng Thống Bush cha th́ hội kiến với Gorbachev trên tầu Maxim Gorky ở ngoài khơi dẫn tới cuộc hội kiến vô tiền khoáng hậu giữa Gorbachev và Giáo Hoàng John Paul II, tại thư viện của Vatican. (1-12-1989. Xem bản tin New York Times 2-12-89.) Trong cuộc “chạm trán” hy hữu này, vơ khí duy nhất mà giáo hoàng dùng là chuỗi tràng hạt Mân Côi ông tặng cho Raisa Gorbachev phu nhân.18 Và trước đó, dưới thời Ronald Reagan, với sự hỗ trợ và cố vấn thiêng liêng của cũng giáo hoàng uy danh lừng lẫy đó, hàng loạt vơ khí thiêng liêng và tinh thần, ngoại giao và kinh tế v.v… đă đưa đến chiến thắng của Công Đoàn Đoàn Kết19 mà không tốn một viên đạn! Để rồi từ đó tất cả các nước Đông Âu khác sụp đổ và cuối cùng là chính Liên Xô cũng tan ră.
Đặc tính của chiến tranh ư thức hệ là dùng ư tưởng tấn công ư tưởng. Ư tưởng nào mạnh sẽ thắng. Không phải bằng vũ khí mà bằng lời nói, chữ viết và các h́nh thức biểu hiện ư tưởng khác.
Dưới ánh sáng của những sự kiện lịch sử vừa nêu, nh́n lại dĩ văng, chúng tôi thấy sách lược đấu tranh mà hai anh em ông Diệm toan tính áp dụng tại Việt Nam trước khi các ông bị giết rất có cơ sở, và đáng lư nó đă phải thành công. Và nếu nó thành công th́ miền Nam Việt Nam với danh xưng Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tồn tại trong một thời gian khá lâu: hoặc có thể thống nhất một cách vinh quang như nước Đức. Bằng không th́ tối thiểu cũng tồn tại trong phú cường giống như Nam Hàn hay Đài Loan.
Xin nh́n lại một số dữ kiện cụ thể về tương quan lực lượng giữa hai miền lúc đó để phân tích chi tiết hơn. Phải nh́n nhận, cuộc khủng hoảng Phật Giáo không giải quyết ổn thỏa đă làm suy yếu chế độ miền Nam ít ra là ở thủ đô và một phần nào trên b́nh diện ngoại giao và uy tín đối với quốc tế. Nhưng t́nh h́nh nông thôn và đời sống của tuyệt đại đa số nhân dân miền Nam vẫn ổn định và mạnh hơn hẳn miền Bắc. V́ vậy nếu phải thương thuyết th́ ông Diệm vẫn ở thế thượng phong.
Về phía Hà Nội, sau khi thấy hầu hết 20 các cơ sở bí mật ở miền Nam đă bị phá vỡ, tháng 9 năm 1959 Hà Nội đă họp hội nghị bí mật ra nghị quyết số 9 đưa thêm quân vào Nam, rồi lập ra Mặt trận Giải Phóng Miền Nam (20-12-1960) để vớt vát uy tín với quốc tế. Nhưng Quốc Hội miền Nam cũng đă ban hành luật 10/59, mà Nguyễn Văn Linh sợ c̣n hơn B52 sau này.21 C̣n tại miền Bắc th́ sau
thất bại của Cải Cách Ruộng Đất và chiến dịch sửa sai, trong đó không biết bao nhiêu người đă bị chết oan, hoặc bị cho đi tù, hay đi an trí tại những nơi rừng thêng nước độc, các công cuộc hợp tác hoá nông, công, thương nghiệp cũng đi đến thất bại v́ lẽ “cha chung không ai khóc”. Nhân dân v́ thế rất đói khổ và bất măn. Trong hoàn cảnh đó, nếu hiệp thương được với miền Nam để trao đổi than đá lấy gạo th́ sẽ giải quyết được những vấn đề kinh tế, xă hội, chính trị quan trọng.
Một điểm nữa cũng khiến ông Hồ muốn ḥa hoăn, ít là tạm thời, với ông Diệm. Nếu ông Diệm muốn giảm áp lực của Mỹ, th́ ông Hồ cũng có lư do để muốn giảm áp lực của Trung Cộng. Mặc dù là người CS và là cán bộ cao cấp của Quốc Tế CS, không thể nào thoát hẳn sự chi phối sinh tử của các nước đàn anh, ông ấy vẫn thích bị áp lực của đàn anh Trung Cộng ít chừng nào tốt chừng ấy. Chính v́ thế mà lần nào đề nghị của Maneli cũng được các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng chấp thuận và bật đèn xanh cho tự do thương thuyết với ông Nhu. Chỉ có một điều kiện tiên quyết là: Mỹ phải ra đi. Nghĩa là trước tiên ông Diệm phải làm mọi cách để ép Mỹ rút hết cố vấn về nước. Điều này không trái ư ông Diệm. Nhưng thực hiện được th́ thiên nan, vạn nan. Nguy hiểm chết người! Hoa đào của ông Hồ tặng đă thành máu đào của hai anh em ông Diệm.
NỘI-DUNG THƯƠNG-THẢO CHƯA RƠ NÉT
V́ cuộc thương lượng chính thức chưa bắt đầu, hai bên cũng không để lại tài liệu nào chính thức liên quan đến các cuộc tiếp xúc mật, cho nên chúng ta không có ǵ cụ thể để nói về nội dung cuộc thương thuyết. Tuy nhiên theo báo cáo tối mật của Maneli ngày 10-7-63, chỉ gửi cho chính phủ Ba Lan và ṭa đại sứ Liên Xô, th́ ông ta có đề cập với ông Hồ và Phạm Văn Đồng về khả năng của một chính phủ liên hiệp, và khả năng của một liên bang nào đó, trong đó ông Diệm có thể là phó chủ tịch, và ông Nhu phó thủ tuớng.
Cũng nên thêm rằng, về một liên bang nào đó có thể là nội dung của cuộc thương thuyết hay mật đàm, th́, theo tiết lộ của giáo sư Francis X. Winters, quyền đại sứ Trueheart 22 trong công điện ngày 25-5-63 gửi về Hoa Thịnh Đốn có tường tŕnh rằng ông Ngô Đ́nh Nhu có nói với ông về một cuộc họp tại Cam Bốt ngày 19 cùng tháng, trong đó cả Hồ Chí Minh lẫn Ngô Đ́nh Nhu đều có đại diện.23 Phải chăng đây là cuộc họp có bàn tới vấn đề liên bang mà tướng Nguyễn Khánh và John Richardson, trưởng nhiệm sở CIA ở Sài G̣n lúc ấy đă bàn tán với nhau căn cứ vào lời tuyên bố của ông Hồ, khiến ông Nhu muốn liên lạc với Bắc Việt để t́m hiểu về nội dung cụ thể?24
Về vấn đề hiệp thương để đi đến một chính phủ Liên Hiệp với CS, nhiều người sẽ nhắc lại mánh lới liên hiệp của Hồ Chí Minh hồi 1945-1946, với các ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh v.v… Và phê b́nh ông Diệm chưa học được bài học lịch sử chua cay đó.
Tuy nhiên chúng tôi có ư nghĩ hơi khác. Sở dĩ hồi 1945 ông Hồ đă có thể dùng chiêu bài liên hiệp như một vũ khí chính trị để chia rẽ, lợi dụng, và phân hóa các đảng đối lập, rồi sau cùng uy hiếp họ, đến nỗi phần đông phải chạy trốn, là v́ lúc ấy chưa ai có kinh nghiệm đó. Thứ đến lúc ấy các đảng đối lập ở vào thế yếu hơn hẳn Hồ Chí Minh.
Ông này, dưới danh nghĩa chủ tịch mặt trận Việt Minh, đă phỗng tay trên được chiến thắng của cuộc khởi nghĩa 19 tháng 8. Sau đó quân của các đảng phái mới từ Hoa Nam và Việt Bắc lục tục kéo về Hà Nội, quá muộn. C̣n thời 1962-1963 thanh thế của ông Diệm hơn hẳn ông Hồ. Nếu ông Diệm chịu liên hiệp là liên hiệp trong thế mạnh. Hơn nữa ông Diệm không phải là một chính khách non nớt, không biết rơ đối phương như người ta tưởng. Những ǵ nhà báo Úc Denis Warner, nổi tiếng về vấn đề Việt Nam, đă viết trong cuốn The Last Confucian (NXB Macmillan Company, NY, 1963, chương 5), cho thấy ông Diệm có những nhận xét rất sâu sát về Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông và Che Guevara. Trong khi phân tích chiến lược chiến thuật Mao Trạch Đông, ông Diệm chỉ cho nhà báo Úc trên bản đồ về các trận đánh của Việt Minh thời chống Pháp, rồi từ đó suy ra chiến thuật của CS dùng để đánh phá miền Nam. Rồi ông bảo nhà báo: Chiến thuật của Mao Trạch Đông rất giản dị, nhưng ít người hiểu một cách tường tận, trừ chỉ có hai người là Che Guevara (Cuba) và Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên nếu chưa nghiên cứu kỹ về Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Che Guevara và nhiều người khác nữa, th́ không thể nào dám đưa ra một nhận xét chắc nịch như vậy.
V́ những lư do trên, theo ư kiến chủ quan của tôi, nếu, vâng, nếu, một chữ nếu không có trong lịch sử! nếu anh em ông Diệm không bị chết, và việc hiêp thương giữa hai miền Nam Bắc được thể hiện vào thập niên 60 thế kỷ trước, th́ chẳng những Hoa Kỳ đă không phải đổ 2 triệu quân vào Việt Nam khiến hơn 58 ngàn lính Mỹ chết mà Việt Nam cũng tránh được một cuộc chiến tương tàn làm trên 3 triệu tử vong.
KẾT LUẬN
Để kết luận, chúng tôi xin nhắc lại lời nữ sử gia Marilyn Young, sau khi nói về nhận định của phụ tá ngoại trưởng Mỹ Roger Hilsman nêu ở phần đầu bài này. Bà lấy làm tiếc rằng:
“Không có ai trong ban tham mưu của (Tổng Thống) Kennedy đă tự hỏi tại sao điều này25 lại không thể cũng là mục tiêu của Hoa Kỳ.”
Theo thiển kiến, ư của nữ sử gia là anh em ông Diệm đă mở cửa thênh thang cho người Mỹ rút lui khỏi chiến trường Việt Nam trong danh dự một cách an toàn. Nhưng chính quyền Kennedy đă giết người mở cửa rồi đóng sập cửa lại. Kết quả là 12 năm sau phải tự phá cửa mà tháo thân, mang theo 58 ngàn xác chết và “hội chứng Việt Nam”.
Thảm cảnh đó có đáng là một bài học cho những ai c̣n khư khư ôm lấy quan niệm rằng chỉ có vũ khí hay bạo lực mới thắng được Cộng Sản, hay đă có bom hạch tâm th́ đương nhiên bất bại?Ngày nay, c̣n hơn 45 năm về trước, những h́nh thức đấu tranh bất bạo động trong chiến tranh ư thức hệ có thiên h́nh vạn trạng cần được liên tục nghiên cứu để có thể tùy cơ ứng biến, áp dụng trong những trường hợp thích hợp nhất. Mong rằng các tổ chức đấu tranh cho Dân Chủ Tự Do trong nước cũng như ở hải ngoại sẽ vận dụng thành công những kiến thức có hệ thống về một cuộc chiến ư thức hệ phi vũ trang vẫn c̣n đang tiếp diễn.
1 Năm Con Thỏ, tức Năm Măo, Người Việt ta thường gọi là năm Con Mèo, 1963. Sách do University Georgia Press xuất bản, Athens, 1997, chương đầu, trang 12.
2 Xem Ngô Đ́nh Nhu, tác giả FW.09 do Ng. Thị Muôn xuất bản, năm 1990 tại Fresno. (Tập I
3 Ḍng Họ Ngô Đ́nh, Giấc Mơ Chưa Đạt, Nguyễn Văn Minh, NXB Hoàng Nguyên, Nam Cali, 2003, trang 295 và 290.
4 Vietnam, a history, Pinguin group, NY, 1991, trang 307 và 308.
5 SĐD trang 116.
6 SĐĐ trang 101. Về mục tiêu tối thiểu của ông Nhu mà bà Young nói đây th́ chính phái đoàn McNamara-Taylor năm đó cũng báo cáo với tổng thống Mỹ rằng t́nh h́nh nông thôn miền Nam ổn định khiến có thể rút 1000 cố vấn vào năm sau (1964). Cho nên chính Tổng Thống Kennedy cũng có ư định đó, chứ không chỉ là ư kiến riêng của ông Nhu. Tiếc rằng việc toan tính rút hay giảm bớt sự hiện diện của Mỹ, dù từ phía nào đều trái với những toan tính mở rộng chiến tranh để bán, tiêu thụ và thử một số vũ khí nào đó của những tay trùm tư bản, đang nắm một siêu quyền lực.
7 SĐD, NXB Văn Nghệ, Nam Cali, 1993, trang 1007.
8 Xin xem 1)John M. Newman, JFK and Vietnam, NXB A Time Warner Co. 1992, các trang 299, 455. 2)Stanley Karnow, Vietnam a history, NXB Viking Pinguin, 1991, trang 276.
9 Xem Nguyễn Văn Minh, SĐD trang 292.
10 Tam túc: tự túc về tư tưởng; tự túc về tổ chức và tiếp liệu; tự túc về kỹ thuật.
11 Cựu đại sứ Mỹ tại Việt Nam Frederick Nolting cũng bất măn về việc ông Diệm bi hạ và bị giết đă xin được từ bỏ mọi chức vụ công quyền ngày 25-2-64.. (Xin xem From Trust To Tragedy, Praeger, N. Y. 1988)
12 NXB E. P. Dutton, 1987.
13 Roger Hilsman, phụ tá ngoại trưởng về Đông Nam Á, đă cùng với thứ trưởng Averell Harriman, cố vấn an ninh Michael Forestal và một số nhà báo trẻ ở trong nhóm Diem-Must-Go (Diệm phải xuống) do Harriman lănh đạo. V́ thế ta thấy Hilsman đă nhân việc ông Nhu tính thương lượng với miền Bắc thuyết phục dược hội đồng an ninh quốc gia chấp thuận biện pháp dứt khoát loại bỏ ông Diệm. Trước hết họ chỉ nhắm bắt ông Diệm loại ông bà Nhu. Nhưng ông Diệm không chịu. Chúng tôi đă tóm tắt và trích dẫn những câu quan trọng nhất của nữ tiến sĩ Ellen Hammer liên quan đến việc đệ nhất CHVN toan tính thương lượng với Bắc Việt.
Muốn biết đầy đủ chi tiết xin xem A Death In November của tác giả, (NXB E. P. Dutton, 1987) từ trang 220 đến 262)
14 Nguyên tác tiếng Ba Lan. Trích dẫn theo bản dịch Anh ngữ của Maria de Gorgey, NXB Harper & Row, San Francisco 1971. Tác giả Mieczyslaw Maneli đă dành cả chương 6 (từ trang 112 đến trang 132) để nói về vấn đề này.
15 V́ bà Nhu là một người đàn bà đẹp – (Tướng Trần Văn Đôn, vai chính trong cuộc đảo chính viết trong Our Endless War: “She was an immensely attractive woman, beautiful by everybody’s standard.” – Bà ấy là người đàn bà vô cùng hấp dẫn, ai cũng thấy đẹp.) – lại là “một thứ đệ nhất phu nhân” v́ ông anh chồng là tổng thống độc thân, cho nên sau khi chế độ bị lật đổ, những nhà báo muốn câu độc giả bèn cố tạo nên những màn cụp lạc chung quanh bà. Biết đâu tấm h́nh chỉ là h́nh ghép khéo? Dầu sao th́ Maneli cuối cùng cũng tiết lộ đó là h́nh một cựu đại sứ Ân Độ, mấy năm trước cũng từng giữ chưc chủ tịch UHQT.
Hoàng Trọng Miên, một nhà báo nổi tiếng, em ruột Thanh Nghị, một bộ trưởng trong cái gọi là chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam đă viết hẳn một cuốn tiểu thuyết tràng giang đại hải, lấy bà Nhu, khuê danh Trần Lệ Xuân (mà tác giả gọi vắn tắt là Lệ) làm nhân vật chính cho cuốn Đệ Nhất Phu Nhân. (Gần đây, cuốn truyện và tác giả, và những người xuất bản, tái bản nó đă bị Công Tử Hà Đông, tức nhà văn Hoàng Hải Thủy cực lực lên án.) Điều khiến nhiều người ngạc nhiên là trong cuốn truyện hư cấu này đầy rẫy những vụ t́nh vụng trộm giữa cô Lệ với những tướng lănh đương quyền được nêu tên thực, mà nó vẫn được tự do xuất bản. Không lẽ những ông tướng ấy không biết để ngăn chặn? Hay biết mà vẫn hănh diện v́ được “dính” với một “Cleopatre Việt Nam?” Cũng như Maneli tự thú ḿnh cải chính một cách miễn cưỡng, v́ c̣n tiếc cái tiếng “ảo” là được “dính” chút đỉnh?
16 SĐD trang 114
17 Tuy đài BBC, mà hội đồng thống đốc do Nữ Hoàng bổ nhậm, hoàn toàn độc lập, nhưng các chương tŕnh ngoại ngữ th́ lại do bộ ngoại giao chi phối.
18 Chúng tôi không có ư nói Giáo Hoàng đă dùng chuỗi tràng hạt này với chủ đích như một thứ vũ khí thiêng liêng, mặc dù một số người Công Giáo sùng đạo tin Đức Bà Maria đă làm phép lạ cho Liên Xô sụp đổ. Chúng tôi chỉ có ư nhấn mạnh đến đặc điểm là Giáo Hoàng không hề có bất cứ lực lượng quân sự nào, trừ mấy chục người lính canh Thụy Sĩ đứng cho uy nghiêm mà thôi.
19 Uy danh của giáo hoàng John Paul II quả là một nhân tố quan trọng của chiến thắng tại Ba Lan như chính tổng thống Liên Xô Gorbachev đă xác nhận. Nhưng nhân tố quyết định vẫn là nhân dân Ba Lan, trong đó có lực lượng 10 triệu đoàn viên của Công Đoàn Đoàn Kết. Nói đến Công Đoàn Đoàn Kết của Ba Lan do Lech Walesa lănh đạo, chúng tôi không thể không nghĩ tới Công Đoàn Độc Lập của Việt Nam do Nguyễn Khắc Toàn vừa thành lập, mặc dầu khác nhau một trời một vực về số lượng và uy tín cũng như kinh nghiệm.
Cũng như khi nhắc lại ảnh hưởng lớn lao của vị giáohoàng người Ba Lan, “quốc trưởng của quốc gia tí hon Vatican”, ở ngoài tổ quốc Ba Lan có 85 % tín hữu Công Giáo, chúng tôi cũng cầu mong sẽ có một vị hoà thượng hay thiền sư người Việt Nam đạo cao đức cả, được đa số trí thức Phật tử hải ngoại kính trọng và tin tưởng, có trụ sở và cơ ngơi ở ngoại quốc, một thứ lănh thổ “Vatican” nào đó, sẽ gây được uy tín lớn lao nếu không tương đương th́ cũng có thể so sánh phần nào với uy tín của giáo hoàng JP2 đối với thế giới đương thời, để ông sẽ về thăm Việt Nam vài lần và gieo vào cộng đồng Phật tử đông đúc trong nước một niềm tin và sức mạnh tinh thần, đồng thời kích thích sự hoạt động kiên tŕ và dũng cảm của công đoàn mới phôi thai, ngỏ hầu sớm đem lại tự do dân chủ đích thực cho Việt Nam.
20 Theo Nguyễn Văn Linh th́ 75 phần trăm, theo Văn Tiến Dũng th́ 90 phần trăm cán binh CS ở miền Nam đă bị “tiêu diệt”. Hy vọng chiến thắng rất mong manh. Xem Về Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước của Văn Tiến Dũng, chú thích trang 16.
21 Lời Nguyễn Văn Linh nói với nhà báo Neil Sheehan thân Cộng (xem After the War was Over, trang 77…).
Theo hồ sơ an ninh của đoàn công tác đặc biệt miền Trung th́ có rất nhiều cán bộ cao cấp của CS bí mật hoạt động ở Huế đă bị bắt và tự động rời bỏ hàng ngũ CS để về họp tác với chính quyền. Trong số đó có cả những tỉnh ủy viên tỉnh Thừa Thiên, thành ủy thành phố Huế. Một số cán bộ CS đă được nêu đích danh như Mười Hương, Lê Chơn, Phan Thị Chanh, ê Thị Ḥa, Lê Minh Đạt, Nguyễn Đà, Nguyễn Đ́nh Chơn, Lê Tú và Lê Phước Thưởng…
Nơi trang 99 cuốn Ḍng Họ Ngô Đ́nh…, tác giả Nguyễn Văn Minh cho biết: Lê Phước Thưởng là tỉnh ủy viên tỉnh bộ đảng Thừa Thiên đă bị bắt, được thuyết phục và cảm phục ông Ngô Đ́nh Cẩn đến độ, sau 1975, vào tù VC, luôn sẵn sàng đánh những ai nói xấu ông Cẩn, hay Đoàn Công Tác Đặc Biệt. “Người từng chứng kiến những vụ đánh lộn v́ lư do đó là Trung Tá Lê Thiện Phước, ở tù chung với Thưởng…”
Một thủ lănh Việt Nam Quốc Dân Đảng từng là nạn nhân của chế độ Ngô Đ́nh Diệm kể lại cho người viết: Trong tù CS sau 30 tháng tư ông đă gặp một cựu cán bộ cao cấp CS hết lời ca ngợi ông Cẩn là một chính trị gia già giặn. Anh ta cho biết ḿnh đă rời bỏ hàng ngũ CS về hợp tác với chính quyền miền Nam, v́ bị chinh phục hoàn toàn bởi thái độ và cử chỉ của ông Cẩn đối với các cán bộ CS. Ông Cẩn biết anh ta là cán bộ cao cấp (tỉnh ủy viên) đang bí mật hoạt động mà không cho lệnh bắt, cứ để vậy theo dơi trong 2 năm. Rồi cho mời anh ta đến để tranh luận về chính nghĩa dân tộc một cách b́nh đẳng tự do. Sau đó ông ta bảo anh cán bộ: Chúng ta đă nói chuyện với nhau đủ rồi. Bây giờ tôi xin để tùy anh quyết định. Nếu thấy tôi nói đúng th́ hăy về hợp tác với chúng tôi. C̣n nếu anh thấy không phục, th́ tùy anh cứ ra đi tự do. Chúng tôi không bắt giữ anh đâu.
Qua hai câu chuyện này, ta có thể hiểu lư do tại sao chỉ trong ṿng 3 năm, từ 1955 đến 1958, như Nguyễn Văn Linh nói với Sheehan, mà cơ sở của VC ở trong Nam đă bị phá đến 75 phần trăm, c̣n Văn Tiến Dũng th́ xác nhận trên giấy trắng mực đen là mất đến trên 90 phần trăm.
22 Lúc ấy đại sứ Frederick Nolting vừa đi nghỉ ở vùng Địa Trung Hải)
23 Winters SĐD trang 33.
24 Winters SĐD trang 61.
25 Tức mục tiêu tối đa của ông Nhu là “loại hoàn toàn sự có mặt của Mỹ khỏi Việt Nam để thiết lập một nước trung lập, hay theo kiểu Ti-tô nhưng vẫn biệt lập với Bắc Việt” (nguyên văn lời của Marilyn Young)
Không chỉ có Marilyn Young lấy làm tiếc một cơ hội bỏ lỡ để Mỹ khỏi vướng vào một cuộc chiến tranh gây nhiều thương vong mà c̣n làm mất uy tín của một siêu cường. Nhà báo thiên tả Stanley Karnow, trong cuốn Vietnam, A History, (nxb The Viking Press, 3rd Edition, 1991, trang 308), cũng lấy làm tiếc một cơ may có ḥa b́nh bị bỏ lỡ đó, mặc dầu ông viết thêm, “tuy nhiên cứ như t́nh h́nh lúc ấy, khó ḷng tránh được chiến tranh.”
Đọc Argument without End (Public Affaires, New York, 1999), th́ thấy, một cách đại cương, tác giả chính McNamara, cựu bộ trưởng Quốc Pḥng hai thời tổng thống, Kennedy và Johnson và Arthur M. Schlesinger phụ tá Tổng Thống Kennedy, tác giả cuốn A Thousand Days, cũng cùng tâm trạng đó.
Trong cuốn Argument without End, các tác giả c̣n cho biết quan điểm của một giới chức cao cấp Việt Cộng ở Hà Nội là Lưu Doăn Huỳnh cũng cho biết quan điểm cá nhân rằng nếu ông Điệm không bị hạ, có thể Mỹ đă không phải tham chiến một cách tai hại như vậy. (Xin xem Sách Đă Dẫn, các trang 113-201)
Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc: Phần III (Minh Vơ)
Posted on January 4, 2013 by Lê Thy
TT Dwight Eisenhower và TT Ngô Đ́nh Diệm Thi hài TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Nhu trong hầm Thiết Vận Xa M113
5- Từ vinh quang đến tử nạn1
Từ 26 tháng 10 đến mồng 2 tháng 11, chỉ có một tuần thôi.2 Nhưng là tuần lễ định mệnh đưa một nhân vật lịch sử từ Vinh Quang đến Tử Nạn. Đối với một số người th́ tên tuổi, sự nghiệp của cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă lên đến tột đỉnh vào một ngày 26 tháng 10, nhưng rồi đă tiêu tan vào một ngày 2 tháng 11. Nhưng với vô vàn người khác cái chết của ông đă làm ông sống măi với lịch sử nước nhà, sống măi trong ḷng nhân dân khát vọng ḥa b́nh, tự do. Có thể nói cuộc tử nạn của ông đă đưa ông tới đài Vinh Quang bất diệt.
Những ai không có thành kiến hay mặc cảm, và có công tâm để nh́n vào thực tế và so sánh một cách khách quan, những ai c̣n tha thiết với chủ quyền quốc gia, những ai biết thế nào là tự trọng, thế nào là tiết tháo, những ai đă chứng kiến và không quên sự thanh b́nh phồn thịnh của miền Nam3 trong thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền, so với sự đói khổ, áp bức mà nhân dân miền Bắc thời ấy phải chịu dưới ách CS, hay so với một miền Nam ngụp lặn trong rối loạn, chia rẽ, và chiến tranh sau khi ông mất sẽ măi măi nhớ ơn và tiếc thương ông.
Cái vinh quang, theo ông, không phải là chức vị tổng thống, dù là tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Công trạng của ông không phải chỉ ở chỗ dẹp xong loạn thập nhị sứ quân, đưa quốc gia và quân đội về một mối. Khải hoàn của ông không phải ở chỗ được các yếu nhân Mỹ ca ngợi là anh hùng, là con người thần kỳ, là Churchill của thập kỷ tại Á Châu, là vĩ nhân của thế kỷ 20.4 Vinh quang của ông không phải v́ được tổng thống đệ nhất siêu cường đích thân ra đón tận phi trường, rồi đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội, được báo chí Mỹ ca ngợi hết lời, và nhân dân Mỹ hoan hô dọc bên đường phố Nữu Ước, khi ông đứng trên xe mui trần vẫy tay chào họ
Đối với con người đạo dức, dũng cảm, cương trực, thương dân yêu nước như ông, chỉ có hạnh phúc của nhân dân làm ông vui và lấy làm tự hào. Cái hào quang rực rỡ ấy vẫn c̣n chói sáng. Nhưng, than ôi! Hạnh phúc của nhân dân th́ không c̣n, kể từ ngày ông thăng.
Ông đă không đáp lời mời gọi khẩn thiết của cựu hoàng Bảo Đại ra cứu nước, trong lúc hy vọng cứu nước mong manh như sợi chỉ mành trước gió, nếu ông không có một tấm ḷng rộng mở hướng về hạnh phúc của nhân dân, nếu ông không v́ lợi ích quốc gia, dân tộc, dũng cảm gạt sang một bên niềm ước ao từ bao năm, là được dâng trọn cuộc đời cho Chúa trong một tu viện nào đó.
Nhận lời mời của Bảo Đại, xông vào chốn hiểm nguy, tuyệt vọng, ông tự coi ḿnh lănh nhận sứ mạng của Trời đem cuộc đời hiến cho tổ quốc. Hiểm nguy, v́ lúc ấy, ngoài vị vua đă mất ngôi, và một số ít ỏi đồng chí, xung quanh ông toàn những người chống đối. Họ không muốn ông thành công. Họ cầu ông thất bại để sau khi ông đă liều chết dọn đường, làm cỗ sẵn, họ sẽ đưa người của họ ra thay thế ông. Họ là người Pháp mà đại diện lúc ấy tại Việt Nam là tướng Paul Ely, người ghét cay ghét đắng Ngô Đ́nh Diệm. Họ là người Mỹ mà đại diện lúc ấy là tướng J. Lawton Collins, bạn thân và đại diện của cá nhân tổng thống Eisenhower, không ngừng đưa kiến nghị, hàng chục lần, yêu cầu chính quyền Eisenhower phải bằng mọi cách thay thế ông.5 Họ là những nhà thực dân ngoan cố, chỉ muốn Ngô Đ́nh Diệm thất bại và miền Nam Việt Nam nát bấy để uy tín, quyền lợi thực dân c̣n chút hy vọng tồn tại. Họ là những tay sai của thực dân chỉ muốn ăn sống nuốt tươi con người yêu nước, thanh liêm, cương trực lúc nào cũng đe dọa túi tiền, bổng lộc, chức tước của họ.
Tất cả những loại người đó đă cấu kết với nhau, khuyến khích nhau để tấn công ông từ nhiều phía hầu làm cho ông phải nản chí, ngă ḷng.
T́nh h́nh nước nhà lúc ấy đă tuyệt vọng, v́ liền sau khi về nước, trong chuyến kinh lư đầu tiên thăm miền Bắc, vị thủ tướng tân cử đă thấy tất cả không c̣n ǵ. Mọi người chỉ muốn mau chóng rời bỏ phần đất thân yêu ngàn năm văn vật này. Không c̣n ai muốn cùng với Ngô Đ́nh Diệm chiến đấu để cứu văn t́nh thế. Tuyệt vọng v́ chỉ hai tuần sau, sự chia đôi đất nước đă thành hiện thực vô phương đảo ngược. Tuyệt vọng v́ ngân khố trống rỗng, quân đội nằm trong tay một tướng lănh có quốc tịch Pháp,6 sẵn sàng v́ quyền lợi mẫu quốc, theo lệnh người Pháp bất tuân lệnh, uy hiếp vị thủ tướng Việt Nam chân ướt chân ráo, vừa về nước.
Nhưng trong tuyệt vọng ông đă đem lại niềm hy vọng. Từ chỗ hiểm nguy, tứ bề thọ địch, ông đă thoát ra an toàn và gieo vào ḷng nhân dân niềm tin.
Ông đă thắng tất cả. Collins, bạn thân và đặc sứ của tổng thống Eisenhower đă bị triệu hồi về Mỹ. Ely đă cùng với đoàn quân viễn chinh đứng chào hai lá quốc kỳ Việt, Pháp trước khi hạ quốc kỳ Pháp cuốn rút về nước cùng với tướng tá và đoàn quân bại trận.7 Và sự việc đó diễn ra trước sự hiện diện của một Ngô Đ́nh Diệm mà thực dân Pháp căm ghét, nhưng từ nay bó buộc phải nể v́.
Những Bảy (Lê Văn) Viễn, Lai Văn Sang, Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ… tay sai của thực dân, tất cả đều bị loại.
Và cuối cùng chính cựu hoàng Bảo Đại cũng bị truất phế, mặc dù sự việc xảy ra ngoài ư muốn của Ngô Đ́nh Diệm. Ư dân là ư Trời. Sau này cựu hoàng đă chẳng hề oán trách ông, mà c̣n bảo đó chỉ là do sức ép của thời cuộc.8
Thế mà ngày nay c̣n nhiều kẻ trách cứ, lên án Ngô Đ́nh Diệm phản bội, không giữ lời thề trung thành với quốc trưởng, trong khi chính quốc trưởng xác nhận trong hồi kư rằng ông chỉ yêu cầu ông Diệm thề trước tượng Chúa là sẽ bảo vệ tổ quốc chống Cộng sản và nếu cần chống cả Pháp.9
Nỗi oan này cũng tương tự như lời đồn đại đầy ác ư rằng ông giết cố trung tướng Tŕnh Minh Thế, một người bạn, người đồng chí cùng lư tưởng chống cộng đồng thời chống thực dân của ông, người mà chính bào đệ của ông đă phải đến tận núi Bà đen để thuyết phục chiêu dụ, người mà lúc ấy ông rất cần đến sự trung thành và ḷng dũng cảm trước sức tấn công của kẻ thù, người mà khi được tin tử nạn, ông đă khóc đến ngất xỉu.10
Cũng giống như nỗi oan đàn áp, “bách hại Phật Giáo”. Người ta đă quên rằng trong 9 năm thời đệ nhất Cộng Ḥa số chùa chiền miền Nam đă tăng gấp đôi. Có nơi thờ Phật đă được xây cất do tiền chu cấp của chính phủ.11 Toàn bộ món tiền thưởng giải Magsaysay ông đem tặng hết cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.12 Toàn bộ tham mưu phủ Tổng Thống từ đổng lư, phó đổng lư, chánh văn pḥng, chánh vơ pḥng, bí thư, thư kư, tổng thư kư đều là Phật tử ngoan đạo.13 Đó là chưa kể phó tổng thống, đại tướng tổng tham mưu trưởng và nhiều bộ trưởng đều là những Phật tử. Thế mà người ta nhất định bảo ông kỳ thị Phật Giáo, chỉ dùng người nhà và dân Công Giáo!
Người ta đă thổi phồng một lỗi lầm nhỏ bé về hành chánh14 để kết tội ông bách hại Phật Giáo, tàn sát Phật tử, và gây nên những cái chết của một số nhà sư tự thiêu, mặc dù sát sinh là tội nặng theo giới răn của Đức Phật.
Người ta cũng kết tội ông mưu toan hiệp thương với miền Bắc, bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Quả thực ông đă để cố vấn Ngô Đ́nh Nhu tiếp xúc với Hà Nội15 để t́m một giải pháp chính trị cho cuộc nội chiến càng ngày càng gay go, đang có nguy cơ quốc tế hóa để trở thành đại chiến. Lúc ấy ông đang ở thế thượng phong. Khác hẳn cái thế yếu kém của chính quyền đệ nhị Cộng Ḥa sau này, lúc mà ngay cả đồng minh Hoa Kỳ cũng bị Việt Cộng o ép, làm khó dễ trăm chiều tại bàn ḥa đàm.
Về mặt ngoại giao, 81 nước có đại diện ở Sài G̣n. Về mặt an ninh ông đă phá hủy hầu hết các cơ sở hạ tầng của CS đề lại miền Nam, như Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư Cộng đảng đă thú nhận, và sau này Văn Tiến Dũng c̣n xác nhận bằng con số cụ thể là tổn thất của CS lên đến 90 phần trăm.16 Nhiều nhà báo Mỹ chỉ trích ông hạ mật lệnh cho các tướng tá sư đoàn 7 không được mở những trận đánh lớn ḥng tiêu diệt Cộng quân.17 Một số giáo sư Việt trực diện chất vấn ông, sao không mở một trận đánh lớn để dứt điểm mà cứ đánh cầm chừng?18 Ông đáp, v́ không muốn chiến tranh lan rộng khiến các cường quốc hai phe đối địch nhảy vào, chỉ thiệt cho nhân dân ḿnh. Câu trả lời của ông cho thấy một nhăn quan chính trị sâu sắc, mà thực tế đă chứng tỏ đó là một lời tiên tri.
Cành đào có đính danh thiếp của chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Hồ Chí Minh chúc Tết tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh Diệm, từ Hà Nội gửi tới qua một thành viên thuộc Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến (CIC), được trưng bày tại pḥng khánh tiết phủ tổng thống vào dịp xuân Quư Măo (1963) măi gần đây mới được người có thẩm quyền xác nhận. Nhưng lúc ấy đă là nguyên nhân những tin đồn bất lợi.19
Khi muốn triệt hạ một đồng minh ương ngạnh không chịu để quân Mỹ vào tốc chiến tốc thắng (theo một chiến lược riêng), lại c̣n có kế hoạch yêu cầu Mỹ rút dần cố vấn về nước, th́ người ta sẽ t́m ra không thiếu bằng cớ. Nào độc tài gia đ́nh trị, nào đàn áp Phật Giáo, nào bán đứngmiền Nam cho Cộng Sản…
Một vài giới chức cao cấp trong bộ ngoại giao Mỹ từ thứ trưởng trở xuống20 đă năng động hăng hái dùng những mánh lới lươn lẹo đánh lừa cấp trên ḥng có được sự chấp thuận bức điện văn bật đèn xanh cho một số tướng lănh Việt Nam, v́ quyền lợi phe phái hay cá nhân làm cuộc đảo chính. Tổng thống đă muốn tránh đổ máu nên sẵn sàng đến gặp các tướng đảo chính để nếu cần th́ được an toàn rút lui. Nhưng họ đă hạ độc thủ, cho thủ hạ giết ông, rồi phao vu là ông tự sát. Chính Tổng Thống Kennedy đă sửng sốt, giận dữ, và mất b́nh tĩnh khi nghe tin này. Nhưng đă quá muộn.
Tổng thống đă chết đi để cho hàng ngh́n, hàng vạn người khỏi chết, nhất là những quân sĩ trung thành với ông và thường dân vô tội chết v́ bom rơi đạn lạc. Ông đă không chấp thuận đề nghị của tham mưu trưởng Lữ Đoàn Liên Binh pḥng vệ phủ tổng thống đưa thiết giáp lên tấn công bộ chỉ huy cuộc đảo chính.21
Nhưng hậu quả của cái chết của Tổng Thống không thể lường được. T́nh h́nh miền Nam rối loạn trong hai năm. Gần chục chính phủ22 đă thay nhau cầm quyền mà không giải quyết được vấn đề an ninh, và các mâu thuẫn phe phái tranh giành quyền lực. Cuối cùng Mỹ đă phải (hay có dịp thực hiện ư đố từ trước?) đem đại quân vào mà không có một hiệp ước song phương.23 Điều này đă làm cớ cho Bắc Việt tuyên truyền rằng Mỹ xâm lăng, và kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Mỹ. Hàng loạt trí thức miền Nam ra bưng đi theo Việt Cộng.24 Bộ đội CS thề quyết vào Nam đánh Mỹ.
Cuộc chiến đă xoay sang thế hoàn toàn bất lợi cho miền Nam. Cuộc chiến gần một thập kỷ với cường độ khủng khiếp đă giết hại hơn 3 triệu người. Và miền Nam đă mất vào tay CS. Thêm nửa triệu người nữa chết trong các tù cải tạo và trên đường vượt biển, vượt biên đi t́m tự do, chạy trốn nạn CS.
Đă 45 năm qua, những người c̣n biết thế nào là ơn nghĩa đă không nguôi ḷng tiếc thương một vị tổng thống đă có công giữ được một nửa nước khỏi rơi vào tay CS hồi 1954, có công tiếp đón, định cư gần một triệu đồng bào chạy trốn CS miền Bắc, trong đó không chỉ có gần 800 ngàn giáo dân, mà c̣n không biết bao nhiêu Phật tử, văn nghệ sĩ, trí thức, quân cán chính của chính quyền Quốc Gia cũ thoát nạn CS, để có được đời sống ổn định, tự do thờ Chúa, cúng Phật, tự do sáng tác, tự do hành xử quyền công dân, và làm ăn phát đạt.
Một lời chót với dân di cư hồi 1954, chúng tôi tin rằng tất cả những người từng di cư từ miền Bắc, hay con cháu họ không bao giờ quên ơn Ngô Đ́nh Diệm, cho dù ông có lỗi lầm ǵ đi chăng nữa. Nhân vô thập toàn. Thánh nhân c̣n phạm tội. Có nhà lănh đạo quốc gia nào dám tự phụ ḿnh không sai phạm? Những người di cư đó, nhất là giới trí thức, là những chứng nhân sẽ lănh trách nhiệm nói lên sự thật về con người yêu nước Ngô đ́nh Diệm. Dân di cư hồi 1954, cũng như dân tỵ nạn tại Mỹ sau 30 tháng tư năm 1975 dĩ nhiên cũng phải nhớ ơn chính phủ Hoa Kỳ đă tận t́nh giúp đỡ ḿnh hay cha ông ḿnh trong những thời điểm ấy.
1 V́ không muốn một bài tưởng niệm quá dài v́ những dẫn chứng nên chúng tôi đă đưa phần dẫn chứng xuống chú thích. Những chú thích này sẽ cho thấy tất cả những ǵ nêu lên trong bài tưởng niệm không phải là do chủ quan của người viết mà là những sự thực khách quan có cơ sở hoàn toàn.
2 Ngày 26-10-1956 là ngày Quốc Khánh, ngày khai sinh chế độ đệ nhất Cộng Ḥa, mà người khai sáng chính là Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, được coi như ngày Vinh Quang nhất của đời ông. Ngày 2-11-1963, hơn 7 năm sau là ngày Tổng Thống bị tử nạn. Nhóm tướng lănh đảo chính đă hạ lệnh giết ông, rồi vu cáo là ông tự sát. Cuộc đảo chính bắt đầu vào ngày hôm trước, 1-11-63.
3 Thanh b́nh, thịnh vượng: Sau khi dẹp tan bọn phiến loạn B́nh Xuyên, giải tán các toán vũ trang của các giáo phái và thống nhất quân đội, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă dồn nỗ lực vào việc đem lại an ninh cho đồng bào. Chín năm dưới thời ông là những năm thanh b́nh, phồn thịnh nhất mà ngay những người cực lực chỉ trích ông cũng phải ghi lại trong tác phẩm của họ. Chỉ xin trích dẫn một vài đoạn để chứng minh.
– Ông Hồ Sỹ Khuê người chê ông Diệm độc tài, đàn áp Phật Giáo đă viết trong cuốn Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (NXB Văn Nghệ, Nam Cali, 1992, trang 369-370): (Xin xem chương 1, phần I, trước chú thích (58).
Vậy mà, cũng năm 1992 có một cuốn sách khác được xuất bản cũng kịch liệt đả kích ông Diệm. Nhưng tác giả, v́ thành kiến hay ghen ghét, đă chẳng những phủ nhận hoàn toàn những thành quả về xă hội dân sinh mà ông Diệm đă thực hiện cho nhân dân, họ c̣n bịa ra rằng, trong thời ông Diệm, nhân dân miền Nam thực sự sống trong cảnh địa ngục trần gian (Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, trang 298). Tuy cuốn sách ghi tác giả là Hoành Linh (Đỗ Mậu), nhưng ai cũng biết tác giả thực sự là một nhóm người thù ghét ông Diệm, và ghen ghét tập thể người Công Giáo. Họ đă cố t́nh bịt mắt trước những thực tế không thể phủ nhận, mà chính những người không ưa ông Diệm khác đă phải công nhận.
Đă trưng dẫn ông Hồ Sỹ Khuê, một cây viết chỉ trích kịch liệt ông Diệm, thiết tưởng cũng nên trích vài hàng của một tướng trong số hai tướng chủ chốt của cuộc đảo chính 1-11-63, là Trần Văn Đôn.
– Tướng Trần Văn Đôn (1917-1997) là người miền Nam, sinh tại Pháp. Trong cuốn Our Endless War (Cuộc chiến bất tận của chúng tôi, Presido Press 1987), ông cho biết cảm tưởng và nhận xét của ḿnh về ngày quốc khánh 26 tháng 10, năm 1956:
“Đây là những lúc hồ hởi, hân hoan thực sự cho dân Việt Nam chúng tôi. Lần đầu tiên chúng tôi được thấy một lănh tụ thực sự năng động và được dân mến chuộng. Vào thời gian đó tất cả chúng tôi đứng đàng sau ông Diệm: quân nhân, công chức, và nông dân miệt quê trong các làng xă. Sự ủng hộ này hoàn toàn đến nỗi trong cuộc bầu cử ông đă thắng lớn và ngày 26 tháng 10 năm 1956 nền đệ nhất Cộng Ḥa Việt Nam được tuyên bố thành lập với ông Diệm làm tổng thống, đồng thời một hiến pháp được ban hành và lập tức 52 nước đă công nhận Cộng Ḥa Việt Nam.” (SĐD tr. 62)
Và ở một đoạn khác:
“Chương tŕnh Ấp Chiến Lược (thực ra là các chương tŕnh dinh điền và khu trù mật, v́ đến 1962 mới có quốc sách Ấp Chiến Lược. MV) nhằm b́nh định thôn quê, và đấu tranh chống tham nhũng, cờ bạc, nghiện hút và măi dâm là bước đầu được ḷng dân mà Tổng Thống Diệm đă làm, khi chế độ của ông mới thành lập.
“Tôi đă có thể thấy qua nhiều cuộc nói chuyện với dân chúng thuộc mọi giai tầng xă hội là những hành động ban đầu của ông Diệm rất được ḷng dân. Trong quân đội mọi cấp đều phấn khởi trước tinh thần thống nhất, sau khi dẹp xong các phe phái, và chinh phục được các thành viên thuộc các phái đó đứng vào hàng ngũ chúng tôi.
“Các cuộc kinh lư khắp vùng thôn quê của ông Diệm khiến dân rất thương mến ông. Tại hai tỉnh B́nh Định và Quảng Ngăi, trước kia từng là cứ điểm của CS, dân làng đă nói với tôi: “Trong 10 năm dưới quyền ông Hồ Chí Minh, ông ta chưa một lần nào đến thăm chúng tôi. Nhưng mới chỉ 10 ngày (sau khi được giải phóng), ông Ngô Đ́nh Diệm đă tới thăm và nghe chúng tôi kể những nỗi khó khăn của chúng tôi.” Dân chúng ở cả thành thị lẫn xóm làng đều biết về ông Diệm và lấy làm thích thú những ǵ họ được xem thấy.”
Những lời kể trên hoàn toàn trái ngược với những ǵ mà vài nhà báo Mỹ, trẻ măng, như David Halberstam, Neil Seehan, hoặc như Stanley Karnow, v́ sẵn ác cảm, hay v́ nhận xét hời hợt, đă chê ông Diệm không chịu đi ra ngoài để tiếp xúc với dân, mà chỉ khư khư ngồi trong dinh nghe bọn “nịnh thần” báo cáo.
Tuy trong 2 năm cuối (1962, 1963), cộng quân đă mở một vài cuộc tấn công nhỏ, như ở Ấp Bắc, và cán bộ du kích đă có thể xâm nhập, khủng bố các viên chức chính phủ tại thôn ấp. Nhưng t́nh h́nh an ninh vẫn c̣n tốt đẹp. Các trục lộ giao thống chính vẫn tuyệt đối an toàn. Sau đây là những ǵ các giới chức Mỹ ở Sài G̣n lúc ấy đă viết về vấn đền này.
–Đại sứ Frederick Nolting, trong hồi kư From Trust to Tragedy (Praeger, NY, 1988, trang 56) viết:
“By the end of 1962 my family and I could drive to Cap Saint Jacques (Vùng Tầu) or Da Lạt without armed escort” (Khoảng cuối năm 1962, tôi và gia đ́nh tôi đă có thể lái xe đi Vũng Tầu hay Đà Lạt mà không cần hộ thống vũ trang.)
William E. Colby, Giám đốc Trung Ương T́nh Báo Mỹ (CIA) đă viết trong tác phẩm Honorable Men, My Life In The CIA (NXB Simon & Schuster, NY, 1978) rằng khi c̣n là trưởng nhiệm sở CIA ở Sài G̣n, cũng khoảng thời gian 1962, vợ con ông (bà Barbara Colby, và cô con gái tên Catherine) đă có thể đi qua đèo Hải Vân giữa Đà Nẵng và Huế, chỉ với một sĩ quan phụ trách nhiệm sở ở phía Bắc VNCH. (SĐD trang 179).
Chính nhà báo trẻ Neil Sheehan trong cuốn A bright shining lie cũng đă thuật lại trường hợp Trung Tá Vann, cố vấn sư đoàn 7 đă một ḿnh lái xe từ Sài G̣n đi Mỹ Tho vào giữa năm 1962. Tuy nhiên v́ không muốn công khai nh́n nhận một sự thực là ngay vào năm cuối thời đệ nhất Cộng Ḥa t́nh trạng an ninh cũng rất bảo đảm, nên Neil Sheehan đă vụng về giải thích rằng sở dĩ CS để ông đi b́nh an là v́ họ muốn gây cảm t́nh với người Mỹ(!). Xin xem SĐD, NXB Random, NY, 1988, trang 46).
4 Về những lời khen xin chỉ kể một vài nhân vật nổi bật:
– William O. Douglas thẩm phán tối cao pháp viện Mỹ, tác giả cuốn sách nổi tiếng về các nước vùng Đông Nam Á nhan đề North From Malaya, nghiên cứu về các nước Miến Điện, Tân Gia Ba, Thái Lan, Ai-Lao và Việt Nam đă từng gặp Ngô Đ́nh Diệm mùa Hè năm 1952, trong một chuyến chu du khắp vùng Á châu. Ông đă ca ngợi ông Diệm là anh hùng, và được nhiều tác giả sau này trong đó có nữ kư giả Marguerite Higgins nhắc lại.
– Tổng Thống Dwight D. Eisenhower (1890-1969), theo sử gia John M. Newman, đă gọi Ngô Đ́nh Diệm là con người của phép lạ (hay con người thần kỳ, A Miracle Man), Nhiều nhà báo Mỹ Úc, kể cả thiên Cộng, cũng coi việc thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm dẹp tan loạn B́nh Xuyên và thống nhất quân đội các giáo phái vào một mối là một phép lạ chính trị, hiếm thấy trong lịch sử. Xin chỉ dẫn chứng tờ báo uy tín bậc nhất của Mỹ là tờ Foreign Affairs. Tác giả William Henderson nhận xét, trước khi Diệm lên cầm quyền Nam Việt Nam xem ra chắc chắn sẽ rơi xuống vực thẳm của nội chiến đẫm máu, rồi sụp đổ. Nhưng chỉ 2 năm sau… một phép lạ chính trị đă xảy ra.
Nếu coi việc nói tiên tri là một phép lạ, th́ rất nhiều người, kể cả những người chỉ trích ông cũng đă ca ngợi tài tiên tri của ông Diệm. Tưởng chỉ cần nhắc lại ở đây một vài tên tuổi nổi bật:
– Bernard Fall (1926-1967), trong cuốn The Two Vietnams, nxb Frederick and Praeger, USA, 1967, trang 241-242, đă trưng dẫn một báo cáo chính trị của người Pháp viết năm 1948 để chứng tỏ một viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc của ông Diệm, như một nhà tiên tri:
(Về lư do đích thực ông Diệm từ chối lời quốc trưởng Bảo Đại mời ông giữ chức thủ tướng vào tháng 5 năm 1949, sau khi quốc trưởng đă kư với tổng thống Pháp hiệp ước Elyssée, ngày 8-3-1949, trao độc lập cho Việt Nam):
“Thực ra ông Diệm nghĩ rằng những nhượng bộ của Pháp chưa sâu rộng đủ, để ông dấn thân vào thực hiện. Vẫn trên căn bản “Tất cả hoặc không có ǵ” (tout ou rien, all or nothing), ông ta lại thôi ủng hộ Bảo Đại và lập tại Nam và Trung Việt một chính đảng nhỏ mang cái tên nói lên chương tŕnh hành động “Phong trào quốc gia quá khích (?) Phong trào kêu gọi kháng chiến chống cả Pháp lẫn Việt Minh, một cố gắng vô vọng vào năm 1949, nhưng như một báo cáo chính trị của Pháp (năm 1948 MV) đă nói rơ:
“Ông Diệm nhắm tổ chức lại và tăng cường lực lượng Công Giáo để đạt được sự đoàn kết thực sự và nền độc lập của Việt Nam. Ngay sau khi đă đủ mạnh ông ta sẽ bắt tay vào việc giao tế với các ngoại cường, nhất là Mỹ, và sẽ xin họ giúp về kinh tế, ngoại giao.
“C̣n đối với chúng ta (nước Pháp) thái độ của ông ta là thân hữu vào lúc này, v́ nhà cầm quyền Pháp hăy c̣n có ích cho ông ta. Quan điểm của Diệm là chỉ mong Mỹ can thiệp khi nào đă rơ ràng là Pháp trở nên bất lực trong việc giải quyết chiến cuộc Đông Dương.”
“Báo cáo đó, 6 năm sau chứng tỏ hoàn toàn là một lời tiên tri. Nhưng vào năm 1948, chẳng ai đếm xỉa đến.” (That report was to prove fully prophetic six years later, but, in 1948, it was ignored”(SĐD tr. 242)
– Stanley Karnow (1926…), nhà báo trở thành sử gia đă viết trong cuốn Vietnam a history nxb Viking Pinguin, 1991 (3rd Edition) trang 231-232):
“Thâu tóm kinh nghiệm, ông Diệm đă đưa ra một nhận định tiên tri vào lúc ấy: “Những người CS sẽ đánh bại chúng ta. Không phải họ mạnh. Mà v́ chúng ta yếu. Họ sẽ thắng v́ chúng ta bỏ cuộc.”
Nhân câu trên của Karnow, tưởng cũng nên nhắc lại chính lời của Tổng Thống Diệm đă nói với nhiều người (cũng giống như tổng thống Nixon sau này), rằng phía người quốc gia sẽ thua v́ báo chí (phản chiến).
– Ông Hồ Sỹ Khuê, người cực lực chỉ trích ông Diệm độc tài và kỳ thị Phật Giáo, cũng ít nhất hai lần khen ông Diệm tiên liệu t́nh h́nh chính trị như nhà tiên tri, trong cuốn sách đồ sộ của ông, nhan đề Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Trang 164 ông viết:
“Ông Diệm bảo tôi: … Thành ra nguy cơ không phải là óc ly khai của người Nam Kỳ. Nguy cơ là Cộng Sản. Pháp là vấn đề giai đoạn, cộng sản mới thực là vấn đề tâm huyết và dài hạn. Pháp thắng hay bại trong cuộc chiến chống Việt Minh vẫn phải đi đến chỗ công nhận Việt Nam Độc Lập. Điều quan trọng là buộc họ trả chủ quyền trong tay chúng ta (trong tay ông Diệm). Lần khác ông thêm: “Cùng kỳ lư, nếu Pháp không thắng nổi, ta có thể dùng Nam Kỳ làm cứ điểm huy động quần chúng lục tỉnh để tranh thủ với cộng sản. Giữ được Nam Kỳ là giữ được nước.”Tôi suy nghĩ nhiều về điều ông Diệm nói đây, và đi đến kết luận: Trong tư tưởng thầm kín của ông, người Nam Kỳ ly khai, người Nam Kỳ thống nhất, không quan trọng bằng việc người Nam Kỳ có chịu chống cộng với ông không. Tinh thần ly khai của người Nam Kỳ có chỗ ông Diệm dùng được để tranh thủ với ông Hồ. Lời trên của ông Diệm tôi xem như một lời tiên tri. Sáu năm sau đó hiệp định Genève đă đưa ông vào hoàn cảnh Nam Bắc phân tranh mới, đúng như ông đă có vẻ tiên liệu sẵn.”
Hai chục trang sau, trang 184, ông Hồ Sỹ Khuê lại khen ông Diệm tiên tri lần nữa:
“Ông Diệm quả đă tiên tri là Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam”.
– Tổng Thống Lyndon Baine Johnson (1908-1973), khi c̣n là phó tổng thống, trong một dạ yến tại Sài G̣n, năm 1961, đă ca tụng ông Diệm là Churchill của thập kỷ tại Á Châu. Ai cũng biết thủ tướng Anh Winston Churchill (…) được coi là anh hùng cứu quốc của nước Anh thời đệ nhị thế chiến. Đó không phải là lần đầu ông Johnson gọi ông Diệm như vậy. Sáu năm trước khi c̣n là lănh tụ khối đa số thượng viện Mỹ, ông đă nói y như vậy rồi.
– Thị trưởng New York, Robert Wagner trong dịp tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thăm Mỹ năm 1957, “đă mô tả ông như “một người mà lịch sử sẽ có thể liệt vào hàng vĩ nhân của thế kỷ 20” (xin xem Nguyễn Cao Kỳ, Twenty Years and Twenty Days, NXB Stein and Day, NY, 1976, trang 31).
– Kư giả nổi tiếng Henry Luce đă viết trong bài xă luận của tuần báo LIFE ngày 2-5-1955, như sau:
“Hết mọi con cháu của Cách Mạng Mỹ, và cả những kẻ thán phục xa xăm sau này phải hết sức vui mừng và hô lên rằng: “Hoan Hô Ngô Đ́nh Diệm!” Công việc của Diệm chỉ vừa khởi sự, xem ra khá phức tạp, khó khăn hơn cả sứ mạng của George Washington. V́ ông ta không chỉ có một kẻ thù mà là nhiều kẻ thù: Cộng sản, người Pháp, bọn B́nh Xuyên, và các giáo phái… Sức mạnh của Diệm càng lớn mạnh th́ càng làm đơn giản công tác ngoại giao của Hoa Kỳ ở Sài G̣n. Công tác đó là, hay phải là, chỉ đơn giản ủng hộ Diệm hết ḿnh.” (Henry Luce, “Revolution in VN”, Life 38, 9 May 1955, trang 3, trích dẫn theo America’s Miracle Man in Vietnam của Seth Jabobs, duke University Press, Durham andf LOneon 2004, trang 209.)
5 Tướng Lawton Collins, bạn thân và là đặc sứ của tổng thống Eisenhower tại Sài G̣n lúc ấy đă 12 lần trong 6 tháng nhắc đi nhắc lại đề nghị xin tổng thống hăy thay thế thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm bằng bác sĩ Phan Huy Quát, hay bác sĩ Trần Văn Đỗ.
Tướng Paul Ely đại diện tối cao của Pháp tại Việt Nam lúc ấy thường chế diễu những người Mỹ nào c̣n nghĩ ông Ngô Đ́nh Diệm là một lănh tụ ái quốc, v́ “ông ta chỉ là một bù nh́n tệ hại nhất, không được nhân ân ủng hộ. Cho nên v́ lợi ích của VN và của thế giới, không nên cứu Diệm”. Theo Seth Jacobs, tác giả cuốn America’s Miracle Man, th́ khi tướng Mỹ Collins hỏi Ely có ủng hộ Quát hay Đỗ không th́ được trả lời “ai cũng được, trừ Diệm.” (tr. 199)
6 Tướng Nguyễn Văn Hinh, con cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, thường được mệnh danh là con hùm xám Cai Lậy.
Người Quốc gia phần đông không ưa cha con ông. Nhưng họ có thế lực lớn với thực dân Pháp. Đă một thời tướng Hinh dùng đài phát thanh Quân Đội để kịch liệt đả kích thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm qua giọng nói đanh thép và truyền cảm của xướng ngôn viên Văn Thiệt. Nhưng sau khi tướng Hinh bị loại và phải chạy sang Pháp, cũng chính xướng ngôn viên này đă sang sảng trên làn sóng điện ca ngợi vị thủ tướng chiến thắng.
7 Đầu năm 1956 Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm yêu cầu Pháp rút hết quân. Và ngày 26-4-56 những bính lính Pháp cuối cùng rời Sài G̣n.
8 Nhà báo Phan Thế Trường đă ghi lại trong một cuộc phỏng vấn cựu hoàng Bảo Đại tại Pháp khoảng năm 1992. Trong đó nhà báo đă nêu hai câu hỏi quan trọng liên quan đến việc nhà vua thoái vị, nhường quyền cho Hồ Chí Minh, và việc đức quốc trưởng trao toàn quyền dân sự, quân sự cho ông Ngô Đ́nh Diệm. Tờ Diễn Đàn Phụ Nữ của cố kư giả Chử Bá Anh, số tháng 9 năm 1992 đă ghi như sau:
“Hỏi: Tại sao Ngài lại trao quyền cho ông Ngô đ́nh Diệm để rồi ông này lật Ngài?
“Vua Bảo Đại cũng trả lời ngay:
“Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đă thất bại. Phía cộng sản đă được Liên Xô tích cực ủng hộ về mọi mặt, nên tôi khuyên ông Diệm nên t́m sự ủng hộ của Mỹ để có thể ngăn chặn (endiguer) sự bành trướng của Cộng Sản. Việc ông ta lật tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là Người Yêu Nước.Lúc trao quyền tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa, v́ ông ấy rất mộ đạo, là phải giữ vững miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng ấy th́ phải trao quyền lại cho tôi.
Nhưng rồi ông ta đă chết khi thi hành nhiệm vụ. Dù sao ông ta cũng cố giữ lời cam kết mà không được.”
Xin bạn đọc lưu ư những lời “Ông Diệm là Người Yêu Nước”, “cam kết hai điều trước bàn thờ Chúa, v́ ông ấy rất mộ đạo”, và “rồi ông ta đă chết trong khi thi hành nhiệm vụ”
Đó là những lời tuyên dương một nhân vật mà Bảo Đại luôn luôn kính trọng.
Nếu có đọc Con Rồng Việt Nam (Le Dragon d’Annam) của cựu hoàng th́ sẽ thấy ông cũng viết tương tự như vậy, chứ không hề bao giờ có chuyện nhà vua hay hoàng hậu bắt ông Diệm phải quỳ gối trước họ để thề trung thành với nhà vua, như những người cố t́nh xuyên tạc lịch sử cỡ Đỗ Mậu hay những kẻ đứng sau ông này đă viết.
Để đánh tan sự nghi ngờ của những ai c̣n bị luận điệu của ông Đỗ Mậu trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi làm mê hoặc, xin mời đọc một đoạn vắn trong cuốn hồi kư của cựu hoàng Con Rồng Việt Nam, trang 515: Xem chương 1 phần I, trước số chú thích 31.
Cho đến nay th́ đă rơ là ông Diệm không chủ tâm lật ông Bảo Đại. Ông đă bị đứng trước một sự việc đă rồi do 18 đảng phái chính trị lúc ấy họp nhau lại tại dinh Độc Lập để trả lời câu hỏi của thủ tướng Diệm là có nên sang Pháp theo lệnh của quốc trưởng hay không. Trong lúc ông Diệm lui vào thư pḥng để cho mọi người tự do thảo luận và cho ông một lời khuyên, th́ 18 đoàn thể này đă thành lập một hội đồng cách mạng để đồng thanh hạ bệ Bảo Đại. Khi ông Diệm được mời ra để nghe ư kiến của họ, th́ ông đă vô cùng ngạc nhiên và lúng túng. Ảnh của quốc trưởng treo trên tường đă bị giật xuống.
Sau đó tướng Nguyễn Văn Vỹ theo lệnh quốc trưởng đem quân sĩ dưới quyền đến định áp đảo vị thủ tướng, bắt ông trao lại binh quyền từ tay đại tướng Lê Văn Tỵ, liền bị một thành viên của hội đồng nhân dân cách mạng (ông Nhị Lang) tước vũ khí và đe dọa tính mạng, nếu không nhờ ông Diệm che chở, tướng Vỹ đă có thể bị bắn tại chỗ.
9 Xin xem chú thích 8.
10 Tướng Tŕnh Minh Thế thuộc lực lượng Cao Đài Liên Minh. Ông chủ trương giống ông Ngô Đ́nh Diệm, vừa chống Pháp vừa chống Cộng. Ông Diệm đă phái em ruột là ông Ngô Đ́nh Nhu lên tận bản doanh của tướng Thế để thuyết phục ông về hợp tác với chính phủ. Chính luật sư Đinh Thạch Bích từng là phụ tá của tướng Thế cho biết ông đă chứng kiến cuộc gặp gỡ này, và thấy việc thuyết phục của ông Nhu khá khó khăn, nhưng cuối cùng đă thành công. Ông Bích cũng được chứng kiến việc ông Diệm ngất sỉu khi được tin tướng Thế bị giết trong khi chỉ huy liên quân đánh B́nh Xuyên. Tướng Edward Lansdale, trong hồi kư cũng ghi lại sự việc ông Diệm vô cùng xúc động, khi nghe tin tướng Thế bị giết. Lansdale viết rằng đó là lần duy nhất ông thấy ông Diệm biểu lộ t́nh cảm, xúc động đến thế.
Gần đây (tháng 8-2006) bà Tŕnh Minh Thế và người con trai có phát biểu trên đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại tố cáo ông Diệm đă giết chồng bà, làm mọi người ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao cho đến nay bà mới lên tiếng và v́ mục đích ǵ, do động cơ nào? Ít ngày sau, luật sư Đinh Thạch Bích đă lên tiếng đưa ra quan điểm của ông. Theo luật sư Bích th́ lúc ấy ông Diệm đang rất cần tướng Thế, và rất quư mến ông. Khó có thể nghĩ rằng chính ông lại muốn giết ông Thế.
Tờ nguyệt san Diễn Đàn Phụ Nữ số 144 (tháng 3 năm 1996, cách nay hơn 10 năm), đă loan tin là trong cuốn sách của thiếu tá Savani, nguyên trưởng Pḥng Nh́ (T́nh Báo) Pháp thời chiến tranh Đông Dương mới xuất bản đă cho biết, một gián điệp của Pháp đă bắn lén để sát hại tướng Thế mục đích nhằm trả thù cho tướng Chanson mà người của tướng Thế đă tung lựu đạn để giết cùng với ông Thái Lập Thành ngày 31-7-1951. (Xin xem DĐPN số 144, trang 24)
11 Chỉ xin nêu cụ thể trường hợp hai chùa lớn nhất là chùa Xá Lợi và chùa Vĩnh Nghiêm. Chính phủ đă cấp 2 triệu đồng (lúc ấy giá hối đoái chính thức một Mỹ Kim chỉ có 35 đồng bạc VN) để trao cho ông Mai Thọ Truyền lo việc xây cất chùa Xá Lợi. C̣n chùa Vĩnh Nghiêm được xây sau khi tổng thống đă mất. Nhưng khu đất trên đó xây chùa th́ đă được Tổng Thống Diệm chấp thuận bán cho nhà chùa với giá tượng trưng một đồng bạc. Hai việc này các ông Huỳnh Văn Lang và Nguyễn Văn Minh đă đưa bằng chứng và nhân chứng trong các hồi kư của các ông. (Xin xem Ḍng Họ Ngô Đ́nh và giấc mơ chưa đạt, tr. 145-146.)
Trong thời gian xảy ra vụ Phật Giáo từ tháng 5-1963, các ông Quách Ṭng Đức, Nguyễn Thành Cung, Vơ Văn Hải, và Trần Sử toàn là những Phật tử thuần thành trong bộ tham mưu của Tổng Thống đă đến gặp ông để xin ông cho phép công bố những món tiền và công việc chính phủ đă làm để chấn hưng và mở mang Đạo Phật. Nhưng, theo ông Lê Châu Lộc, lúc ấy có mặt bên cạnh Tổng Thống, Tổng Thống đă không đồng ư. Ông nói việc trùng tu, giúp các tôn giáo mở mang là bổn phận của ông, không nên kể công.
Cũng nên thêm rằng ngay khi ông Diệm c̣n là Thủ Tướng, ngày 17-5-1956 (mồng 8 tháng 4 Âm Lịch) đại lễ Phật Đản đă được tổ chức long trong trước đó chưa hề có.
Theo ông Đoàn Thêm, một Phật tử, đă có tới vài chục ngàn người rước ngọc Xá Lợi qua các đường phố Sài G̣n. Và một năm sau, ngày 12-8-1957 tại Chùa Ấn Quang đă có hơn 100 vị sư học xong khóa huấn luyện 3 tháng và được phái đi các tỉnh giảng dạy Phật Pháp.
12 Về chuyện này, khá dài ḍng. Chúng tôi đă ghi lại trong phần phụ lục 3 cuốn Ngô Đ́nh Diệm, Lời Khen Tiếng Chê, lần xuất bản thứ 3, trang 350-352. Trong 2 lần in trước không có phụ lục 3 này.
13 Đổng lư văn pḥng: ông Quách Ṭng Đức; Phó đổng lư văn pḥng: ông Đoàn Thêm; Chánh Văn Pḥng: ông Vơ Văn Hải; Chánh vơ pḥng: trung tá Cao Văn Viên (tham mưu biệt bộ, sau này là tư lệnh Nhảy Dù, và là tổng tham mưu trưởng thời Đệ Nhị Cộng Ḥa); Tổng thư kư: ông Nguyễn Thành Cung; bí thư: ông Trần Sử. Nghĩa là toàn bộ bộ tham mưu của Tổng Thống Diệm đều là Phật tử.
Có thể kể thêm vài ví dụ nữa: Phó tổng thống: ông Nguyễn Ngọc Thơ, tổng tham mưu trưởng: Đại tướng Lê Văn Tỵ, tổng trấn Sài G̣n Gia Định: Thiếu tướng Tôn Thất Đính; Bộ trưởng Phủ Tổng Thống, kiêm bộ trưởng phụ tá Quốc Pḥng (mà chính Tổng Thống là bộ trưởng): ông Nguyễn Đ́nh Thuần; bộ trưởng Ngoại Giao: luật sư thạc sĩ Vũ Văn Mẫu. Bên lập pháp: 75 trong số 123 dân biểu Quốc Hội là Phật tử. Về Công Giáo, trong 19 tướng lănh quyền hành nhất, th́ chỉ có 3 là Công Giáo, v.v…
14 Đó là công điện số 9159, ngày 6-5-1963 của văn pḥng phủ Tổng Thống chuyển chỉ thị của Tổng Thống về việc treo quốc kỳ và cờ của tất cả các tôn giáo. Đáng lẽ đă phải được gửi đi từ hai tháng trước, nhưng lại để gần đến ngày Phật Đản mới gửi đi. Sự chậm trễ này là do một giới chức trong phủ Tổng Thống thi hành lệnh Tổng Thống chậm trễ, và v́ thế đă gây hiểu lầm là Tổng Thống chỉ cấm treo cờ Phật Giáo trong dịp Lễ Phật Đản.
Sở dĩ chỉ v́ một lỗi lầm nhỏ về hành chính liên quan đến vấn đề treo cờ các tôn giáo mà có thể bùng nổ một cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng đưa đến sự sụp đổ một chế độ, và một vị tổng thống bị thảm sát, là v́ đă có sẵn một âm mưu chính trị do một nhà sư đầy mưu trí và tham vọng chính trị.
Cho đến khi miền Nam mất vào tay Cộng Sản, th́ nhiều người đă nh́n rơ điều đó. Một nhân vật người Anh, trong phái đoàn của Sir Robert Thompson là Dennis J. Duncanson đă viết trong cuốn Government and revolution in Vietnam (Oxford University Press, 1968) về thượng tọa Thích Trí Quang và cảm nghĩ của ông Ngô Đ́nh Nhu về vị sư này như sau:
“Ông Ngô Đ́nh Nhu đă từng cho rằng thượng tọa Thích Trí Quang cố t́nh dàn dựng nên cuộc khủng hoảng Phật Giáo để giúp Việt cộng. Lúc ấy các nhà quan sát Tây Phương nói chung, thích nh́n thấy trong các hành động của nhà sư này chỉ có một sự sùng đạo mà thôi. Nhưng vị thế nổi bật của nhà sư trong những vụ xáo trộn c̣n nghiêm trọng hơn vào năm 1964, khi các yêu sách của Phật tử về các vấn đề tôn giáo đă được thỏa măn, đă khiến nhiều người ngoại quốc cuối cùng quay lại đồng ư với ông Nhu…”
Gần 20 năm sau, Tổng Thống Mỹ Richard M Nixon đă thấy rơ hơn và khẳng định trong tác phẩm nổi tiếng của ông No More Vietnams (ấn bản 1985 trang 10 và trang 65):
“Vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn bịa đặt… Trong đầu của những kẻ đứng đàng sau cuộc khủng hoảng là chính trị chứ không phải tôn giáo.”
Cựu hoàng Bảo Đại cũng viết trong hồi kư chính trị Le Dragon d’Annam (Con Rồng Việt Nam, bản Việt ngữ, Nguyễn Phước Tộc, Cali, 1990, trang 543 và 545):
“Tất cả đang tiến tới th́ chính phủ (Ngô Đ́nh Diệm) gặp phải sự chống đối của các nhà sư. Ông Diệm và Nhu là người Công Giáo. Các nhà sư được CS giật giây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại. Vô h́nh chung như mang mặc cảm kỳ thị tôn giáo… Ai đă xúc giục họ gây loạn, ai? Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà Nội vào, hay từ Bắc Kinh tới?…”
Những ư kiến trên của các ông Ngô Đ́nh Nhu, Duncanson, Nixon, Bảo Đại được làm sáng tỏ và xác nhận một cách không c̣n thể nghi ngờ, bởi những hàng sau đây của ông Nguyễn Cao Kỳ, một Phật tử gốc, một trong những tướng lănh làm đảo chính lật Tổng Thống Diệm:
“Thích Trí Quang tưởng Cabot Lodge c̣n giữ cảm t́nh với ḿnh như cuối năm 1963 nên có lần ông ta đến ngỏ ư với ông đại sứ Mỹ muốn lật tôi, th́ bị Cabot Lodge hỏi: “Nhưng giả thử như thượng tọa lật được tướng Kỳ rồi thượng tọa sẽ đặt ai làm thủ tướng thay ông ta? Trí Quang ngồi im một lúc, suy nghĩ lung lắm. Rồi đưa ra một lời nhận xét khiến ông Lodge bàng hoàng: “Chúng tôi sẽ sẵn sàng đặt ông ta ngồi lại ghế thủ tướng.” (Xin xem Nguyễn Cao Kỳ, Twenty Years Twenty Days, Stein and Day, NY, 1976, trang 87)
Đă rơ tham vọng và mục tiêu đấu tranh của nhà sư là làm quốc trưởng, có toàn quyền bổ nhậm thủ tướng, chứ không phải bảo vệ đạo Phật. Những cuộc tự thiêu có dàn dựng xếp đặt trước và được thông báo cho báo chí ngoại quốc trước để chụp h́nh quay phim làm chứng liệu đả kích chính quyền, và bao nhiêu mưu chước tinh vi khác, càng chứng tỏ không phải phát xuất từ ḷng mộ đạo từ bi và hiếu sinh của Đức Phật.
Sau khi CS chiếm toàn miền Nam, và đàn áp Phật Giáo, bắt giam những nhà lănh đạo Phật Giáo, nhà sư muốn làm quốc trưởng ấy không hề lên tiếng hay có hành động ǵ phản đối nhà cầm quyền.
Những sinh viên, Phật tử và một số nhà trí thức từng đi theo thượng tọa Thích Trí Quang nghĩ ǵ trước thài độ đó của ông ta? Thiết nghĩ, nên lấy công tâm và đạo đức của Đức Phật để nói lên sự thực hầu giải tỏa nỗi oan của ông Ngô Đ́nh Diệm trước quần chúng Phật tử. Làm được điều đó sẽ giúp tạo sự đoàn kết rộng răi trong nhân dân hầu chiến thắng Cộng Sản.
15 Việc những cuộc tiếp xúc công khai cũng như bí mật của ông Ngô Đ́nh Nhu với phía bên kia xin xem phần II soạn phẩm này.
16 Nhà báo Neil Sheehan, tác giả cuốn sách nổi tiếng A Bright Shining Lie, (về nhà báo này và tác phẩm nổi tiếng nói trên, xin xem Ngô Đ́nh Diệm, Lời Khen Tiếng Chê, chương 20) sau một chuyến viếng thăm Việt Nam vào năm 1989, đă viết cuốn After The War Was Over, dầy 130 trang, nói tốt đủ điều cho chế độ Hà Nội. Nơi trang 77 ông đă thuật lại lời nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thú nhận là thời đệ nhất Cộng Ḥa số cán binh CS để lại ở miền Nam là 10,000 người th́ đă bị mất đi 75%. Nguyễn Văn Linh đă giấu bớt một phần sự thật với nhà báo Mỹ. V́ theo đại tướng VC Văn Tiến Dũng, trong cuốn Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước, (phần cước chú, trang 16) th́ sự thiệt hại không phải chỉ có 7,500 người (75%) mà chỉ trong ṿng 3 năm 1955-1958, nó đă lên đến trên 90%. Ông tướng này c̣n ghi rơ con số là từ 60,000 chỉ c̣n lại 5000. Xem vậy đủ biết chính sách chiêu hồi và các chiến dịch tố cộng phi vũ trang đă thành công hơn bom đạn của Mỹ và đệ nhị Cộng Ḥa, những năm sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị lật đổ. Những con số 75% và trên 90% này không phải do chúng tôi bịa ra, hay lấy từ những nguồn tin bạn, hay từ văn khố đệ nhất Cộng Ḥa, mà là những con số cụ thể từ chính những nhà lănh đạo CS. Nhất là từ cuốn sách của Văn Tiến Dũng đă xuất bản.
17 Ít nhất có một số sử gia và kư giả Mỹ nói đến việc Tổng Thống Diệm không muốn đánh mạnh, v́ gây thương vong. Trong số đó phải kể đến Stanley Karnow, (Xin xem Vietnam, a history, trang 276), Neil Sheehan, Trung Tá John Paul Vann, và sử gia John M. Newman (Xem JFK and Vietnam của Newman, trang 289 và 299): Nơi trang 299 này có câu, nguyên văn: “Vann discovered Diem had issued a secret verbal order to his commanders not to conduct offensive operations that resulted in serious casualties.” (Trung tá Vann khám phá ra rằng ông Diệm đă ban khẩu lệnh mật bảo các tư lệnh không được mở những cuộc hành quân tấn công gây thương vong nặng.)
18 Trong một bài báo giáo sư Trần Bích Lan, tức nhà thơ Nguyên Sa có thuật lại rằng ông, giáo sư Nguyễn Văn Phú và giáo sư Nguyễn Xuân Nghiên đă hỏi Tổng Thống Diệm câu này và được trả lời là, nếu đánh lớn, chiến tranh sẽ lan rộng và các cường quốc sẽ nhảy vào, đất nước sẽ tang hoang… Giáo sư Lan về sau đă nhận rằng câu nói của ông Diệm là đúng. Trong thâm tâm Tổng Thống Diệm chỉ muốn đánh CS bằng phương tiện hiện hữu, nhất là bằng các chiến lược, sách lược đấu tranh chính trị, chiêu hồi, thuyết phục, tuyên truyền v.v… không muốn để Mỹ đem quân vào. Thực tế lịch sử những năm sau đă chứng minh ông có viễn kiến chính trị sâu sắc.
19 Gần đây (trong năm 2006), luật sư Lâm Lễ Trinh đă cho đăng tải nội dung cuộc mạn đàm của ông với ông Quách Ṭng Đức, nguyên đổng lư văn pḥng của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, trong đó ông Đức đă xác nhận chuyện cành đào có đính danh thiếp của ông Hồ Chí Minh chúc Tết (Quư Măo) Tổng Thống Diệm là có thực. Ông Lê Châu Lộc, lúc ấy là tùy viên của Tổng Thống, sau là nghị sĩ thời Đệ Nhị Cộng Ḥa cũng xác nhận với người viết là chính ông đă đi nhận cành đào đó ở trụ sở Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến.
20 Đáng kể nhất là hai ông Averell Harriman, thứ trưởng ngoại giao, và Rogers Hilsman, phụ tá ngoại trưởng, được sự tiếp tay của ông Forestall, cố vấn an ninh.
21 Lúc ấy Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi, tư lệnh lữ đoàn đă bị các tướng đảo chính giữ tại bộ tổng tham mưu. Nên thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ (sau này là đại tá, tỉnh trưởng Thừa Thiên, thời đệ nhị CH), nắm quyền tư lệnh đă xin Tổng Thống đưa xe tăng, thiết giáp lên đánh úp bộ chỉ huy đảo chính đóng tại bộ tổng tham mưu. Nhưng, theo đại tá Duệ, Tổng Thống không chấp thuận..
22 Chỉ xin kể những lần đảo chính, chỉnh lư và thay đổi chính phủ mà tôi c̣n nhớ:
– Đảo chính Dương Văn Minh 1-11-1963.
– Chỉnh lư Nguyễn Khánh 30-1-1964.
– Sau đó là những xáo trộn, xuống đường biểu t́nh do cái gọi là Hiến Chương Vũng Tầu, những cuộc đánh phá nhau giữa một số Phật tử và dân Công Giáo di cư.
– Cuộc đảo chính của các tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát.
– Cuộc nổi dậy của lực lượng đặc biệt người Thượng.
– Chính phủ dân sự ra đời với sự lănh đạo của các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương.
– Cuộc vùng dậy của các tướng trẻ đ̣i giải tán hội đồng Quốc Gia, chống lại chính phủ Trần Văn Hương.
– Chính Phủ Trần Văn Hương, dưới áp lực của các tướng trẻ phải cải tổ, thêm vào 4 tướng lănh, để rồi ngày 16-2-1965 bị thay thế bởi chính phủ Phan Huy Quát.
– Chỉ sau đó 3 ngày đại tá Phạm Ngọc Thảo đem quân chiếm Sài G̣n, toan làm đảo chính nhưng bất thành. Và một ngày sau, 20-2-65 tướng Khánh bị loại khỏi chức vụ tổng tư lệnh Quân Đội.
– Những cuộc biểu t́nh của sinh viên Phật tử chống Mỹ liên tục xảy ra…
Và sau hết là biến cố ngày 8-3-65 hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, nhắm mục đích ổn định miền Nam, chống Cộng Quân. Nhưng đồng thời cũng mở rộng chiến tranh thành một cuộc chiến ác liệt, mà riêng số bom đạn sử dụng không thua kém thế chiến II. Kết quả là miền Nam bị rơi vào tay CS, v́ siêu cường Mỹ đă không thắng được CS, bằng vơ lực, cho nên không bảo vệ được miền Nam, mà chính Mỹ cũng bị mang tiếng “hội chứng Việt Nam” tận cho đến ngày nay. Không chỉ có kẻ thù mà bạn bè, và chính các nhà lănh đạo Mỹ cũng như các sử gia Mỹ đều phải công nhận đó là một thất bại.
Chỉ có một số ít người không hiểu chiến tranh ư thức hệ là ǵ, và không theo dơi thật sát các sự kiện lịch sử mới dựa vào thông cáo chung Trung-Mỹ tại Thượng Hải và mấy lời đối đáp giữa Chu Ân Lai và Kissinger để quả quyết rằng Mỹ không thua. Và Mỹ chỉ bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa khi đă nắm được Trung Cộng rồi (!).
Do đó mà có sử gia Mỹ như nữ giáo sư Marilyn B. Young (trong cuốn Vietnam War) đă lấy làm tiếc là tại sao chính phủ Mỹ không chấp nhận kế hoạch của ông Ngô Đ́nh Nhu là ít nhất rút một số cố vấn về, hay nhiều nhất là rút toàn bộ cố vấn Mỹ về để đệ nhất Cộng Ḥa giải quyết cuộc tranh chấp với Hà Nội? Tuy nhiên với sự hiện diện của quân Mỹ, kèm theo sự trở lại chính quyền của nhóm tướng lănh, sự ra đời của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia đứng đầu là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và ủy ban hành pháp trung ương, đứng đầu là chủ tịch Nguyễn Cao Kỳ, một thứ thủ tướng quân nhân, t́nh h́nh đă tạm ổn định sau khi ông Kỳ thẳng tay dẹp xong nhóm tranh đấu miền Trung, đứng đầu là sư ông Thích Trí Quang. Nhưng cũng phải đến khi có một hiến pháp mới và sự ra đời của Đệ Nhị Cộng Ḥa, th́ nội bộ miền Nam mới tạm ổn. Nhưng chiến cuộc với CS th́ không v́ những sự kiện trên mà giảm, trái lại càng ngày càng khốc liệt.
23 Như đă nói ở phần trên, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không muốn có sự hiện diện quân tác chiến Mỹ tại Việt Nam. Ngay số cố vấn lúc ấy đă từ vài trăm người lên đến 16,000 vào năm 1963 đối với ông là đă quá nhiều. Cho nên đă nhiều lần ông và cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă có kế hoạch rút số cố vấn dần dần, và việc này chính Tổng Thống Kennedy cũng tán thành, và cũng chủ trương sẽ rút số cố vấn về, sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2. Nhưng lúc ấy những thế lực siêu chính phủ trong chính giới Mỹ chỉ muốn đổ thêm quân vào để, hoặc là tốc chiến tốc thắng, như họ nói, hoặc để tiêu thụ một số lớn vũ khí cũ từ thới thế chiến II, hoặc thí nghiệm một số vũ khí mới, như bom CBU… hoặc theo một chiến lược bí mật chống Trung Cộng nào đó. V́ vậy có giả thuyết cho rằng Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Tổng Thống Mỹ Kennedy đều là nạn nhân của những kẻ chủ trương đem quân tác chiến Mỹ ồ ạt vào Việt Nam. Cho nên, vẫn theo giả thuyết đó, sau khi hai vị tổng thống đă bị giết, và sau khi những người Việt Nam sẵn sàng làm theo ư của Mỹ đă ngồi vào địa vị lănh đạo tại Việt Nam, Mỹ liền đổ quân tác chiến vào Việt Nam, bắt đầu bằng 2 tiểu đoản Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 8-3-65.
Đứng về mặt chiến tranh ư thức hệ, đó là một thảm họa. V́ đối phương sẽ có cớ để kết tội miền Nam làm tay sai hay bù nh́n cho Mỹ. Cuộc chiến mất chính nghĩa! Ít nhất là về phương diện tuyên truyền.
Khi c̣n Tổng Thống Diệm, đă nhiều lần người Mỹ muốn thương lượng với ông về việc đưa quân tác chiến Mỹ vào. Ông chỉ trả lời là t́nh h́nh chưa cần. Và nếu có lúc cần tới th́ sẽ có một hiệp ước song phương quy định các thể thức và địa điểm đóng quân, mà theo ông chỉ có thể đóng sát biên giới sông Bến Hải.
Cựu đại sứ Frederick Nolting đă ghi trong hồi kư của ông From Trust To Tragedy rằng thương thuyết với ông Diệm về vấn đề này thực là khó khăn. Nhưng ông ghi nhận quan điểm của ông Diệm là chính đáng. (Xin xem Ngô Đ́nh Diệm Lời Khen Tiếng Chê, chương 18.)
24 Chỉ xin kể 3 người quan trọng nhất được CS cho nắm chức vụ trong cái gọi là chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam: Trương Như Tảng – bộ trưởng Tư Pháp, (nữ bác sĩ) Dương Quỳnh Hoa – bộ trưởng Y Tế, và Lữ Phương – thứ trưởng Văn Hóa…
Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc: Phần IV (Minh Vơ)
Posted on January 4, 2013 by Lê Thy
12. Chiến thắng bỏ lỡ
Từ trước tới giờ phần đông kư giả và sử gia Mỹ đều cho rằng Hoa Kỳ đă lầm khi ủng hộ miền Nam Việt Nam chống lại Cộng Sản miền Bắc. Họ ca ngợi Hồ Chí Minh là nhà ái quốc, có tài trí hơn người và được ḷng dân. Họ coi các nhà lănh đạo miền Nam, kể cả ông Ngô Đ́nh Diệm đều bất tài, vô tướng và là tay sai thực dân đế quốc. Quan điểm lịch sử đó được mệnh danh là “chính thống” (!) (tạm dịch từ “Orthodox” của tác giả Mark Moyar)
Nhưng gần đây một số sử gia Mỹ đă bắt đầu xét lại quan điểm đó. Trong số này có giáo sư tiến sĩ sử học Mark Moyar. Tiến sĩ Mark Moyar đậu cử nhân (hạng tối ưu với lời khen của ban giám khảo) về môn sử tại đại học Havard danh tiếng nhất của Mỹ. Sau đó đậu tiến sĩ sử học tại đại học Cambridge. Ông từng giảng dạy tại đại học Cambridge, đại học Tiểu Bang Ohio, đại học A&M Texas, và đại học Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ở Quantino, Virginia..
Năm 2006 cơ sở Báo Chí Đại Học Cambridge đă xuất bản cuốn sách 512 trang khổ lớn của ông nhan đề Triumph Forsaken. Đây là tập I của bộ sách 2 tập về cuộc chiến Việt Nam. Theo tác giả, cuộc chiến này đáng lẽ đă kết thúc bằng một chiến thắng oanh liệt, mà lại trở thànhmột chiến bại nhục nhă. Trong cuốn sách này, tác giả đă rà xét lại tất cả mọi dữ kiện, đối chiếu nhiều tài liệu vô số kể của nhiều nguồn thuộc mọi phía, trong đó có những tài liệu mới được giải mật của Mỹ và tài liệu Cộng Sản (Liên Xô cũ, Trung Quốc, và Việt Nam), để đi đến một kết luận có cơ sở vững vàng.
Cuối sách không có phần thư mục như phần lớn các sách biên khảo. Nhưng gần 2000 chú thích ghi chi tiết trong 85 trang sách đă cho thấy hàng trăm tác phẩm và tài liệu được tham khảo và dẫn chứng một cách tỉ mỉ để chứng minh lập luận “xét lại” của tác giả. Ví dụ chỉ nguyên một chương 16 đă có tới 176 chú thích trưng dẫn hàng trăm tác phẩm hay chỉ 3 trang đầu của bài tựa thôi đă có tới 19 chú thích mà chi tiết choán hẳn 3 trang, Cũng trong lời tựa này, nguyên một chú thích 2 đă trưng dẫn gần 100 tác phẩm
Tập I này có 17 chương, trong đó có 10 chương về chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.
Đọc kỹ lời tựa và chương đầu, ta sẽ thấy đại cương về lập luận của tác giả..
Nhà xuất bản trích dẫn lời phê b́nh và đánh giá của 6 tác giả và giáo sư sử học về tác phẩm của Mark Moyar. Sau đây là ư kiến của Giáo sư sử học Thomas Alan Schwartz:
“Triumph forsaken là một cuốn sách đặc sắc. Công tŕnh (biên khảo) của Mark Moyar là sự thách đố mạnh mẽ nhất đối với sự giải thích chính thống về nguồn gốc việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Bằng cái nh́n mới mẻ vào những nguồn tài liệu gốc, cũng như t́m hiểu, khai thác những tư liệu mới từ các văn khố Mỹ cũng như Cộng Sản, Moyar đă tạo nên một lối giải thích khác về cội nguồn của sự dấn thân (tham chiến) của Hoa Kỳ. Tác phẩm của Moyar thúc đẩy các sử gia phải mở lại cuộc tranh luận về ư nghĩa cuộc chiến tranh Việt Nam.”
Sau đây là nhan đề của 17 chương sách trong tập I:
Di sản
Hai nước Việt Nam: Từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 12 năm 1955
Sống chung ḥa b́nh: Từ 1956 đến 1959
Cuộc nổi dậy: 1960
Cam kết nhập cuộc: 1961
Sự trẻ trung hóa: Từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1962
Tấn công: Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1962
Trận Ấp Bắc; Tháng 1 năm 1963
Ông Diệm gặp gian nan: Từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1963
Sự phản bội: Tháng 8 năm 1963
Tự hủy: Từ tháng 9 đến ngày 2 tháng 11 năm 1963
Trở lại t́nh trạng “Thập Nhị Sứ Quân”: Từ 3 tháng 11 đến tháng 12 năm 1963.
Tự chế: Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1964
Những tín hiệu: Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1964
Xâm nhập: Từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1964
Phần thưởng chiến thắng: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1965
Quyết định: Từ tháng 6 đến tháng 7 năm 1965.
Lời tựa.
Sau khi nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu phân tách kỹ những nguồn tài liệu gốc càng ngày càng được phát hiện ra về mọi mặt của cuộc chiến, từ quân sự, chính trị, ngoại giao, do đó tác phẩm phải gồm 2 tập, thay v́ một tập như dư tính ban đầu, tác giả tŕnh bày thực trạng lịch sử Hoa Kỳ do hai xu hướng “chính thống” và “xét lại”.
Quan điểm “chính thống” có vẻ lấn át quan điểm xét lại. Thậm chí trong giới khoa bảng, người ta cho rằng phe xét lại không đáng gọi là sử gia, chỉ là những nhà “ư thức hệ” (ideologues).
Theo quan điểm “chính thống” th́ dân Việt vốn thù dân Tầu, và thường đánh thắng quân Tầu. V́ vậy nếu đừng xua đuổi Hồ Chí Minh, th́ ông ta đă có thể trở thành một Ti Tô của Việt Nam, chứ không đi theo Tầu Cộng, và Liên Xô.
Tác giả đă ghi rằng nghiên cứu kỹ lịch sử Việt Nam th́ sẽ thấy, các cuộc chiến tranh xảy ra phần lớn giữa người Việt với nhau, và giữa người Việt với những sắc dân khác, như Chàm, Khmer hay Mông Cổ… chứ không phải giữa người Việt với người Tầu. Chỉ trừ một vài trường hợp cá biệt. Từ đó ông cho rằng Hồ Chí Minh nếu có ghét Tầu là ghét Tầu Quốc Dân, như phe Tưởng Giới Thạch, chứ không bao giờ ghét Tầu Cộng của Mao Trạch Đông. Trái lại sẵn sàng rước Tầu Cộng vào để đánh người Việt yêu nước. Ông viết:
“Hồ thường tỏ ḷng kính cẩn với quan thầy hơn đối thủ của ông ta ở miền Nam là Ngô Đ́nh Diệm, người đă thà chết hơn là làm theo yêu cầu của đồng minh Hoa Kỳ của ông ta. Hồ là tín đồ nhiệt thành của Mác và Lê-nin, dấn thân sâu đậm vào chủ nghĩa Quốc Tế Cộng Sản, cho nên không thể hy sinh t́nh liên đới Cộng Sản cho quyền lợi “hẹp ḥi” của Việt Nam. Do đó, trái với những suy diễn được nhiều người chia sẻ, ông ta sẽ chẳng bao giờ lại chống người láng giềng Trung Cộng, hay bất cứ nước bạn Cộng sản nào khác, nếu Hoa Kỳ cho phép ông ta thống nhất Việt Nam. Ông ta không bao giờ để Hoa Kỳ biến nước Việt Nam thành một Nam Tư của châu Á.”
Về lănh tụ miền Nam, tác giả viết:
“Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm của miền Nam, không ngừng bị các sử gia phe “chính thống” mô tả như một kẻ đần độn, tên phản động, một bạo chúa. Nhưng thực ra ông là một lănh tụ rất khôn ngoan, uyên bác và đắc lực. Là một người hiến thân cho hạnh phúc của dân tộc ḿnh, ông “dùng uy tín cá nhân để trị nước gần như một nhà độc tài” (12 từ trong ngoặc kép của người viết để tạm dịch từ authoritarian của tác giả) v́ ông cho rằng chế độ dân chủ kiểu Tây phương không thích hợp với một đất nước đang bị phân tán và có một nền văn hóa độc đoán. Những biến cố xảy ra sau khi ông bị giết đă chứng tỏ niềm tin đó là đúng.” (…)
Sau khi nêu đích danh Trung tá John Paul Vann, hai nhà báo trẻ David Halberstam và Neil Sheehan và đại sứ Cabot Lodge, kết tội họ đă loan tin thất thiệt, thiếu lương thiện và đánh lừa thượng cấp để cố hạ uy tín của Tổng Thống Diệm, vu khống là chính quyền của ông bất lực trong việc giữ an ninh, tác giả viết về cuộc đảo chính 1-11-1963:
“Cho đến nay, đă rơ cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 là một lỗi lầm tệ hại nhất của người Mỹ. Trái hẳn với những lời quả đoán sau đó của những kẻ cổ vơ cho cuộc đảo chính, rằng nỗ lực chiến tranh của Nam Việt đă bước vào thời kỳ suy thoái trong những tháng cuối cùng của chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Các nguồn tin từ phía Bắc Việt, cũng như từ phía Hoa Kỳ đă cung cấp bằng chứng cho thấy cuộc chiến lúc ấy đang tiến hành một cách thỏa đáng, thuận lợi.”
Về t́nh trạng rối loạn và sự kém cỏi của các chính quyền hậu đảo chính, tác giả cho rằng chưa mấy người hiểu rơ nguyên nhân. Ông viết:
“Hậu quả của sự điều hành kém cỏi của chính quyền miền Nam từ sau khi ông Diệm chết cho đến năm 1965 th́ hầu như ngày nay ai cũng đă thấy. Nhưng về nhữngnguyên nhân của nó th́ chưa mấy người hiểu. Theo một cách giải thích “chuẩn” th́ chính quyền Sài G̣n thất bại v́ những nhà lănh đạo Việt Nam và những cố vấn Mỹ đă chọn lầm phương pháp để đánh địch. Tuy nhiên thực ra, vấn đề không nằm ở khái niệm mà ở cách thi hành. Một sự giải thích tiến bộ hơn, gần trọng điểm hơn, nhưng vẫn chỉ đúng một phần, đó là miền Nam lúc ấy bị chao đảo, loạng choạng v́ giới thượng lưu cầm quyền đă mất những nhà lănh đạo kiên cường. Nhiều cá nhân giữ những địa vị trong chính quyền trong thời hậu Diệm, đích thực, thiếu các đức tính cần thiết của một nhà lănh đạo, và chẳng ai có tài bằng Ngô Đ́nh Diệm. Nhưng tầm cỡ của tập thể giới lănh đạo nói chung không phải là vấn đề then chốt. Vấn đề quan trọng, thực ra chính là sự loại trừ một số người trong giới thượng lưu ra khỏi chính phủ và sự thao túng của phong trào Phật Giáo trong việc vận dụng các nhà lănh đạo chính phủ. Kể từ tháng 11 năm 1963 về sau những lănh tụ hàng đầu ở Sài G̣n không ngừng lặp đi lặp lại việc loại trừ những người có tài đáng kể, hoặc v́ những người này đă trung thành với ông Diệm, hoặc v́ những lănh tụ đó bị áp lực từ nhóm Phật Giáo tranh đấu…”
Vài trích đoạn trên đây của Lời Tựa đă tóm tắt quan điểm “xét lại” của tác giả về những sự kiện lịch sử liên quan đến ông Hồ Chí Minh, ông Ngô Đ́nh Diệm và chính t́nh miền Nam Việt Nam từ 1945 đến 1965.
Hơn 400 trang sách kế tiếp đă được tác giả dùng để trưng dẫn những tài liệu chính xác để chứng minh quan điểm trên là đúng. V́ là những tài liệu phức tạp, mới có, cũ có từ nhiều nguồn khác nhau nhiều khi trái ngược mâu thuẫn nhau. Nên không thể nào thu gọn trong phạm vi một bài báo. V́ vậy chúng tôi xin để độc giả t́m đọc trong chính tác phẩm Triumph Forsaken tập I. Sau đây chỉ xin tóm tắt vài ư chính và trích dịch một số đoạn đáng chú ư của mấy chương đầu của tập I, v́ tập II chưa xuất bản.
Chương 1:
Di Sản
Mở đầu là quang cảnh tấp nập tưng bừng tại công trường Puginier, Hà Nội (nay là quảng trường Ba Đ́nh) ngày ra đời của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
“Theo lời mời của ông Hồ, vài sĩ quan t́nh báo OSS Mỹ đứng gần khán đài. Hai chiếc máy bay chiến đấu Lightning P-38 t́nh cờ bay trên đám đông trong buổi lễ. Cả hai điều đó đă tạo nên một cảm tưởng sai lầm rằng chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ Hồ Chí Minh.”
Trong lời tuyên bố độc lập mở đầu với lời lẽ lấy từ bản tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ và Pháp, ông Hồ đă kịch liệt đả kích thực dân và xác quyết rằng chính phủ của ông đại diện toàn thể nhân dân Việt Nam.
“Ông ta không nói ǵ đến ư thức hệ chính trị, mà chỉ bàn về mục đích của ông là thành lập một nước Việt Nam độc lập.”
Nhiều người đă cho rằng bản tuyên ngôn này chứng tỏ chủ nghĩa quốc gia chứ không phải chủ nghĩa quốc tế Cộng Sản đă là động lực cách mạng của ông Hồ. V́ vậy nếu như Mỹ đừng ủng hộ Pháp thực dân, và đừng dựng nên những chính phủ tay sai ở miền Nam chống lại ông Hồ th́ Việt Nam và Hoa Kỳ đă có thề là đồng minh, và ông Hồ đă quay lại chống Trung Cộng.
“Nếu người Mỹ hiểu lịch sử Việt Nam, th́ toàn bộ thảm kịch đă có thể tránh được.” (…)
“Cái lối lư luận trên đă sai lầm một cách chết người.”
“V́ lịch sử Việt Nam và lịch sử của ông Hồ thực sự đă hỗ trợ cho những kết luận ngược hẳn.”
Tác giả đă ôn lại lịch sử Việt Nam qua 7 trang sách để chứng minh.
Sau đó tác giả viết:
“Chỉ có một bằng chứng duy nhất có thể dùng để biện luận rằng ông Hồ không ưa người Tầu và những ngoạinhân khác là câu ông ta nói để bào chữa cho việc để quân Pháp vào Bắc Việt. (Theo Paul Mus, MV) ông Hồ đă nói:
“Thà ngửi cứt Pháp một lúc c̣n hơn là phải ăn cứt Tầu suốt đời”.
Nhưng rồi tác giả lại viết:
“Chút bằng chứng nhỏ nhoi đó rất yếu. V́ khi ông Hồ nói câu đó, theo lời thuật lại (của Paul Mus), th́ phần lớn nước Tầu đang ở dưới quyền cai trị của những người Trung Hoa theo chủ nghĩa Dân Tộc hăng hái chống cộng, và là những người đang tích cực ủng hộ những người Việt quốc gia chống cộng, là đối thủ hùng mạnh nhất của Việt Cộng.”
Tác giả thuật lại việc ông Hồ nhanh chóng chớp thời cơ sau khi Nhật đầu hàng, đem quân cướp chính quyền trong khi các toán quân của các đảng Quốc Gia c̣n đang tiến chậm chạp từ Trung quốc về. Ông cũng nhấn mạnh đến việc quân của Hồ đă dùng vũ khí của Trung Hoa Dân Quốc và của Mỹ.
Và yếu tố quan trọng khiến ông Hồ thành công bước đầu là “cá tính” của ông ta được người dân tin phục.
Người dân Việt chú ư đến lănh tụ hơn là đảng và chủ thuyết của lănh tụ.
Tác giả nêu lên sự kiện Hồ Chí Minh cố thuyết phục những người Mỹ mà ông gặp rằng ḿnh không phải Cộng Sản, mà chỉ là người yêu nước, muốn đem lại độc lập cho đất nước. Nhiều sĩ quan OSS đă tin theo và muốn ủng hộ Việt Minh, trong đó có cả đại tá Archimedes Patti (lúc ấy là đại úy, MV). Nhưng tác giả đă trưng dẫn bức điện cùa chính Patti gửi về Hoa Thịnh Đốn ngày 29-8-45 viết rằng, “những phần tử đỏ đang lănh đạo chế độ Việt Minh đi trệch đường, và rằng những nhà lănh đạo chế độ thường nói tốt về chế độ tự do dân chủ, nhưng trong thực tế họ đang chuẩn bị những hành động phi tự do, phi dân chủ.”
Sau đó tác giả đă nêu lên việc Việt Minh giết những người yêu nước như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn (2 lănh tụ VNQDĐ) và Bùi Quang Chiêu (Đảng Lập Hiến), Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trương Đ́nh Thi, Trương Tử Anh (lănh tụ Đại Việt)…
Về chiến thắng Điện Biên của CS, tác giả đă trưng dẫn Janos Radvanyi (Ảo tưởng và thực tại, South Bend: Gateway, 1978) cho biết chính Vơ Nguyên Giáp đă tiết lộ với tác giả (Janos):
“Trận Điện Biên Phủ là cố gắng tuyệt vọng cuối cùng của Quân Đội Việt Minh. Lực lượng chiến đấu của nó sắp sửa kiệt quệ hoàn toàn. Nguồn tiếp tế gạo đă cạn kiệt. Dân chúng đă lănh đạm thờ ơ đến độ thật là khó có thể lấy thêm lính. Nhiều năm chiến đấu trong rừng rậm đă làm cho tinh thần chiến đấu của các đơn vị sa sút tột cùng.”
Sau một số bằng chứng khác, Mark Moyar kết luận:
“Tóm lại cả hai phía đều đă có cơ may chiến thắng trận quyết định tại Điện Biên Phủ.” (trang 26)
Chương 2:
Hai nước Việt Nam
(từ tháng 7-1954 đến tháng 12-1955)
Sau khi mở đầu bằng hiệp định Genève và việc thành lập Tổ Chức Hiệp Ước Liên Pḥng Đông Nam Á (SEATO), tác giả nhắc đến nhu cầu ủng hộ của Mỹ đối với những lănh tụ các Quốc Gia bị trị đang bị Cộng Sản đe dọa. Và ông viết:
“Nam Việt Nam thực sự đang có một người yêu nước cương nghị có thể trở thành nền tảng cho một quốc gia chống cộng, dù rằng vào mùa hè năm 1954 nhiều người Mỹ không tin hẳn như vậy.”
Rồi ông để nhiều trang nói về con người và hoạt động của nhân vật này…
“Ngô Đ́nh Diệm đă rời Việt Nam vào năm 1950, sau khi bị Việt Minh tuyên án tử h́nh, v́ đă phát triển một tổ chức yêu nước mới. Sang Nhật, ông gặp Westley Fishel, giáo sư chính trị học tại đại học California, lúc ấy đang làm việc cho CIA. Theo lời khuyên của Fishel, Diệm sang Mỹ năm 1951 thuyết tŕnh tại các trường cao đẳng và t́m sự ủng hộ của các viên chức chính quyền. Diệm được sự nâng đỡ của một số người Mỹ có địa vị cao, kể cả thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas, hồng y Francis Spellman, dân biểu tiểu bang Montana là Mike Mansfield, và dân biểu John F. Kennedy thuộc tiểu bang Massachusetts. Tháng 6 năm 1954, vào giữa cuộc thương thuyết ở Genève, người Pháp tuyệt vọng, đă trao trả độc lập hoàn toàn cho chính quyền Bảo Đại, và ông này đă yêu cầu Diệm nhận chức thủ tướng.”
“Quyết định của Bảo Đại không do áp lực của Mỹ, như có người suy đoán, mà là v́ nhiều lănh tụ đảng phái quốc gia Việt Nam ủng hộ Diệm. Bảo Đại nói với Diệm: ‘Đất nước có nguy cơ bị chia đôi. Ông không có quyền tránh né trách nhiệm. Sự an toàn của Tổ Quốc đ̣i hỏi như vậy.’ Diệm đă từng khước từ chức thủ tướng do Bảo Đại mời nhiều lần. Nhưng lần này ông ta nói, sẽ nhận, nếu Bảo Đại cho ông ta được toàn quyền kiểm soát toàn bộ các vấn đề dân sự và quân sự. Từ trước Bảo Đại chưa bao giờ cho ai điều đó. Nhưng lần nay ông ta đồng ư. Và Diệm trở thành thủ tướng.”
Sau đó, tác giả nói đến những khó khăn chồng chất ban đầu do di sản chiến tranh và chia rẽ để lại mà ông Diệm phải vượt qua. Cầu đường bị phá, hệ thống viễn thông bị cắt, nông dân thất nghiệp lang thang, kể cả dân tỵ nạn từ miền Bắc trở thành gánh nặng. Nặng nhất là guồng máy hành chính và quân sự tan hoang, sau khi người Pháp ra đi và hàng vạn lính đào ngũ. Riêng về việc chuyển vận, tổ chức tiếp đón và định cư cho gần một triệu dân, tác giả đă trích dẫn nhà báo Bernard Fall, tác giả cuốn The Two Vietnams:
“Bernard Fall, một trong những người từng chỉ trích ông Diệm kịch liệt nhất, đă nhận xét: “Di chuyển gần một triệu lính được huấn luyện thành thục trong thời b́nh đă là một kỳ công về vận chuyển và tiếp liệu. C̣n di chuyển cũng ngần ấy thường dân tỵ nạn chạy trốn vô tổ chức trong ṿng không đầy một năm chắc chắn sẽ c̣n là một thành tích nổi tiếng về lâu về dài.”.”
Trong chương này tác giả nêu lên hai nhân vật Mỹ nổi bật, một người cố giúp ông Diệm lướt thắng mọi trở ngại và một người bằng mọi cách muốn hạ ông Diệm hay thay thế ông bằng những lănh tụ khác. Đó là Edward Geary Lansdale, đại tá, và J. Lawton “Lightning Joe” Collins, đại tướng. Lansdale được ủy nhiệm của Allen Dulles, giám đốc CIA. C̣n Collins là đặc phái viên toàn quyền của tổng thống Mỹ, đồng thời cũng là bạn thân của Tổng Thống Eisenhower.
V́ tin tưởng rằng một chính phủ mạnh phải có một đạo quân mạnh, nên “Tổng Thống Eisenhower đă ngay lập tức thuyên chuyển tướng J. Lawton “Lightning Joe” Collins, nguyên tham mưu trưởng Lục Quân, nguyên đại diện Hoa Kỳ tại ủy ban quân sự thuộc Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tới ngay Sài G̣n thay thế đại sứ Heath để quán xuyến mọi nỗ lực. Khi Collins lên đường đi Sài G̣n, ngoại trưởng Dulles bảo ông, Hoa Kỳ hy vọng cơ may thành công chỉ có một trên mười.”1
Muốn chứng tỏ ông Diệm là người khó hiểu đối với người Mỹ, tác giả đă nêu hai nhận xét trái ngược của tướng Collins về ông Diệm như sau:
“Mới đầu Collins báo cáo: “Diệm là một người nhỏ thó, nhút nhát, thiếu tự tin hầu như không có hấp lực nào…” (…) Vài tháng sau, Collins lại ca tụng phẩm cách của Diệm: “Sự liêm khiết, ḷng yêu nước mănh liệt, sự nhẫn nại và những đức tính linh thiêng khác làm ông ta trở thành vị thủ tướng tốt nhất có thể có để lănh đạo Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Cộng.”2.
Nhưng rồi sau đó Collins lại hàng chục lần yêu cầu Hoa Thịnh Đốn thay thế vị thủ tướng mà ông gọi là bất tài và ương ngạnh này.
Trong bài Tết Con Heo nói chuyện Xuân Con Mèo, chúng tôi đă trưng dẫn Seth Jacobs, tác giả cuốn America’s Miracle Man in Vietnam, nói tướng Collins đă 12 lần đề nghị với Tổng Thống Eisenhower thay thế ông Diệm, bằng một người khác, và nhiều lần ông đă nêu đích danh Bác Sĩ Phan Huy Quát, hay Bác Sĩ Phan Huy Đán (hay Phan Quang Đán). Th́ ở đây Tiến Sĩ Mark Moyar cũng năm lần bảy lượt nói đến chuyện tướng Collins đề nghị với Tổng Thống nên t́m người khác thay thế một ông Diệm ngang bướng, bất phục thiện. Dĩ nhiên Tổng Thống tin người bạn thân của ḿnh, lại là đại diện toàn quyền có mặt tại chỗ. Nên đă nhiều lần Tổng Thống muốn thuận theo. Nhưng những biến cố dồn dập trong ṿng mấy tháng cuối năm 1954 và đầu năm 1955 cho thấy khả năng phi thường của ông Diệm trước những vấn đề nan giải đến tuyệt vọng, đă khiến Ṭa Bạch Ốc thay đổi ư định. Thay v́ thay thế ông Diệm, Tổng Thống Mỹ đă triệu hồi hẳn vị Đại Sứ Toàn Quyền về Mỹ. Rồi Eisenhower ca ngợi Ngô Đ́nh Diệm là “Con Người Thần Kỳ” (A Miracle Man).
Năm 1957 ông cho trải thảm đỏ, ra tận chân cầu thang máy bay đón Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa. Sau đây là một vài trích đoạn về những đề nghị liên tiếp của tướng Collins nhằm đánh đổ Ngô Đ́nh Diệm được tác giả nêu lên giữa lúc ông Diệm phải đối phó với quân đội viễn chinh Pháp hăy c̣n trấn giữ nhiều địa điểm trọng yếu tại thủ đô, và hiện đang ủng hộ loạn tướng Nguyễn Văn Hinh muốn lật ông Diệm; các giáo phái muốn duy tŕ t́nh trạng “Thập nhị sứ quân”, bất tuân lệnh thủ tướng; giữa lúc nhóm B́nh Xuyên vốn được Quốc Trưởng Bảo Đại ưu đăi, hiện đang làm mưa làm gió, v́ toàn bộ lực lượng Cảnh Sát Công An nằm trong tay Lai Văn Sang, cánh tay phải của đầu đảng Lê Văn Viễn tục gọi Bảy Viễn; giữa lúc chương tŕnh định cư gần một triệu dân tỵ nạn CS từ miền Bắc vào đang cần xúc tiến thật nhanh để tạm thời giải quyết những khó khăn trở ngại do tâm lư và phong tục tập quán khác nhau giữa hai miền Nam Bắc…
Trong hoàn cảnh đó, “Giới ngoại giao ở Sài G̣n hầu hết đều tin rằng chính phủ Diệm sắp đổ đến nơi. Và báo chí của Pháp tiên đoán sự sụp đổ của Diệm với sự vui mừng khôn tả. Trong khi đó cả báo Mỹ cũng tiên đoán như vậy, nhưng không vui.”
“Khi Tướng Collins từ Sài G̣n về đến Hoa Thịnh Đốn (đề tường tŕnh), ông đă nói với Tổng Thống Eisenhower rằng cần phải loại bỏ Diệm ngay tức khắc.”
Tổng Thống và Ngoại Trưởng đưa ra nhiều lư do để bác bỏ và đ̣i phải đợi cho đến lúc t́m được người tương xứng để thay thế.
“Nhưng Collins vẫn cứng rắn (như kim cương). Phải loại bỏ Diệm ngay.”
Và hai nhà lănh đạo Mỹ đành nhượng bộ. Mọi văn kiện cần thiết đă soạn thảo gửi đi Paris và Sài G̣n để t́m người thay thế ông Diệm.
“Bộ ngoại giao gửi công điện đi ngày 27 tháng 4 chỉ ít phút sau 6 giờ, giờ Hoa Thịnh Đốn.”
“Vừa đúng lúc xem ra chế độ Diệm đang tiến tới nhà quàn, th́ Diệm lấy một sáng kiến làm đảo lộn kế hoạch của Collins.” (…)
Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đă chiến thắng các phe phái chống ông ra sao, lịch sử đă ghi đầy đủ, và được tác giả nhắc lại một cách tóm tắt.
Sau khi đánh bại mọi thế lực ḱnh chống ông, ông Diệm bắt đầu tập trung nỗ lực vào việc truy lùng những phần tử Cộng Sản được gài lại ở miền Nam, sau khi một số cán bộ đă tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève.
Chương 3:
Sống chung ḥa b́nh:
Từ 1956 đến 1959.
Tác giả dành mấy trang đầu nói về chủ trương sống chung ḥa b́nh của Khrutshchev khiến Hà Nội có vẻ nghiêng về phía Trung Cộng và t́m sự ủng hộ của “anh ba”. Nhưng Trung Cộng c̣n bị vết thương chiến tranh Triều Tiên hành nên lạnh nhạt và dè dặt khuyên đàn em “phải nhẫn nại”.
Rồi ông nói đến hậu quả tai hại của Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc. Những bất măn từ nhiều phía. Những cuộc nổi loạn. Vụ thảm sát tại Quỳnh Lưu, trong đó ông Hồ đă dùng cả sư đoàn 325 để đàn áp giết hàng ngàn người vô tội.
Sau đó là t́nh trạng kinh tế hầu kiệt quệ của miền Bắc do việc công hữu hóa mọi cơ sở thương mại, và chế độ hợp tác hóa công thương nông nghiệp…
Nửa sau của chương sách nói về những thành quả của chính quyền Diệm về phương diện kinh tế, giáo dục, an ninh. Về công cuộc “cải cách điền địa”. Về “bức tường người” (human wall) mà ông Diệm dựng lên ở cao nguyên là lănh thổ chiến lược dùng để chống lại sự xâm nhập tương lai của Cộng Quân. Tác giả đă nhắc lại lời Tổng Thống Diệm từng nói: “ai giữ được cao nguyên th́ giữ được cả nước”.
Về bản chất chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, tác giả phê b́nh nhẹ nhàng rằng tuy theo hiến pháp đó là một chế độ tự do dân chủ theo Tổng Thống Chế, nhưng trên thực tế ông Diệm đă khéo léo nắm giữ cả 2 quyền lập pháp và tư pháp. V́ quốc hội gồm phần lớn người trung thành với ông. Tác giả trưng dẫn lời của Douglas Pike nói về tự do ngôn luận của VNCH như sau: “Một trong những hồi ức mạnh nhất của tôi tại Việt Nam năm 1960 là nghe thấy dân Việt Nam tại những nơi công cộng nói lớn tiếng, rất dễ nghe thấy, rằng ‘chế độ này là chế độ độc tài, và chúng tôi không có tự do ngôn luận’ rồi họ tha hồ kể ra những tội lỗi cũa chính phủ. Dường như có một luật bất thành văn là chống đối vô tổ chức th́ được, nhưng chống đối có tổ chức th́ cấm.” (Xem Việt Cộng của Douglas Pike, Cambridge M.I.T., 1966, tr. 59)
Để phần nào bào chữa cho ông Diệm, tác giả viết:
“Diệm thường nhắc đi nhắc lại lời thú nhận rằng ông ta ước ao có được nền dân chủ trong thời gian này. Nhưng ông ta lại nói dân chủ không thể tới ngay tức khắc. Và thực ra ông ta quan niệm dân chủ không giống người Tây phương, hay những người Việt đă bị Tây phương hóa. Ông ta hiểu dân chủ như thế này: “Dân chủ chủ yếu là một cố gắng thường trực để t́m ra những phương tiện chính trị đúng đắn ngỏ hầu bảo đảm cho người dân cái quyền phát triển tự do và sáng kiến tối đa, phát triển tinh thần trách nhiệm và cuộc sống thiêng liêng.” (trang 75)
Chương 4:
Nổi dậy:
1960
Trong chương này tác giả nói về những cuộc nổi dậy của Cộng quân, đặc biệt ở Bến Tre (Kiến Ḥa), Tây Ninh và cả cuộc nổi loạn của một số sĩ quan VNCH, được biết đến như một chính biến hay đảo chính hụt tháng 11 năm 1960.
Trước hết là vai tṛ lănh đạo những cuộc nổi dậy tại tỉnh Bến Tre của nữ tướng Việt Cộng Nguyễn Thị Định.
“Tất cả những ǵ cộng Sản có thể làm được là tổ chức hàng ngàn phụ nữ bao vây trụ sở các quận lỵ, phóng uế trên đất (defecate on the ground!), và đ̣i trừng phạt quân của chính phủ, đ̣i bồi thường cho các nạn nhân của chúng. Tuy những cuộc nổi dậy này đă làm sống lại phong trào Cộng Sản trong vùng và cho họ một số vũ khí. Nhưng không đạt được mục đích lập một vùng giải phóng lâu dài.”
Hoạt động của Cộng quân ở Tỉnh Tây Ninh gây cho chính phủ nhiều tổn thất hơn. Sáng ngày 26-1-60, 4 đại đội VC tấn công một căn cứ của quân chính phủ, giết chết viên sĩ quan xử lư thường vụ trung đoàn trưởng và 40 quân sĩ khác. V́ thất bại này, viên trung đoàn trưởng bị giáng chức xuống đại úy và sư đoàn trưởng bị cách chức.
Tháng 3 lại có thêm nhiều cuộc đụng độ nữa. Nhưng sau đó các cuộc tấn công bằng quân sự ngừng hẳn. Chính sách của Hà Nội là tạm thời chờ đợi. Văn kiện đảng ghi chỉ thị của Ủy ban Trung Ương Đảng đưa ra vào tháng 4:
“(…) chúng ta cần thời gian để cho phong trào phản đế và đặc biệt là phong trào chống Mỹ ở Đông Nam Á lớn mạnh hơn, và hoạt động với phong trào này nhằm làm suy yếu và cô lập bọn đế quốc Mỹ và đồng minh của chúng.”
Việt Cộng trở lại h́nh thức du kích chiến, ám sát, bắt cóc. Mỗi tháng trong năm tháng đầu năm 1960 có 150 vụ ám sát và 50 vụ bắt cóc!
Dân vệ không đủ sức chống lại những hành động khủng bố này. Theo tác giả là v́ thiếu lănh đạo, và thiếu vũ khí. Ông quy trách cho đại sứ Durbrow không chịu cấp vũ khí theo yêu cầu của ông Diệm.
Trong giai đoạn Cộng quân lui về du kích chiến và khủng bố ám sát, tác giả đưa ra nhận xét là cán bộ Cộng Sản tỏ ra hơn các viên chức chính phủ về phương diện lănh đạo, nhất là về tuyên truyền. Cộng sản biết cách thỏa măn nhu cầu và đ̣i hỏi của người dân. Họ không giảng về lư thuyết chính trị, cũng chẳng nhấn mạnh đến ḷng yêu nước, hay chủ nghĩa dân tộc, càng tránh né không bao giờ nói đến chủ nghĩa Cộng Sản. Mà chỉ hứa chắc nịch rằng, nếu đánh đổ được chính quyền th́ sẽ được chia đất.
Nhưng về cuộc Cải Cách Đẫm Máu ở miền Bắc, th́ có lẽ chẳng những dân quê miền Nam mà ngay cả cán bộ CS ở trong Nam cũng chưa từng nghe biết. Về hiệu quả tai hại của tuyên truyền tác giả nêu một ví dụ của một thanh niên tên Lê Văn Toán, chỉ v́ nghe lời thuyết giảng hấp dẫn của cán bộ CS mà y đă giết cha ḿnh, v́ tin rằng ông làm điều sai trái như CS nói.
Tác giả nói nhiều về việc Tổng Thống Diệm xin viện trợ để trang bị cho 20,000 lính chuyên dùng vào việc bảo vệ dân quê, canh gác cầu đường và trụ sở các thị xă, quận lỵ. Tướng Williams tán thành, nhưng bị đại sứ Durbrow bác bỏ.
Đặc biệt trong cuộc đảo chính hụt đầu tháng 11, tác giả nghi ngờ Durbrow có yểm trợ phe đảo chính. Tuy không có bằng chứng hiển nhiên. Nhưng ông nêu lên rất nhiều sự việc, cũng như lời nói của vị đại sứ này khiến ai đọc cũng phải nghi như vậy. Có lẽ v́ thế mà người ta thấy Tổng Thống Diệm, mặc dù đă dẹp xong cuộc nổi loạn, đă lớn tiếng la mắng kẻ thù, mà ai cũng hiểu ông ám chỉ chính đại sứ Hoa Kỳ, Durbrow.
Sau cuộc đảo chính một nhân viên CIA từng liên lạc chặt chẽ với ṭa đại sứ là Carver đă phải rời Việt Nam, rồi sau đó ít lâu chính ông Durbrow cũng ra đi. Chính bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle cũng được Durbrow sau này cho biết là do một vài người Mỹ giúp soạn thảo. Cựu đại sứ Bùi Diễm, trong In The Jaws of History, th́ viết rằng ông là người giúp soạn thảo bản tuyên ngôn này.3
Điểm khá quan trọng mà chúng tôi muốn nêu lên về chương 4 này, là tác giả Mark Moyar đă trưng dẫn nhiều tài liệu để chứng minh rằng vào thời gian đó cả Liên Xô lẫn Trung Cộng đều không tán thành việc Bắc Việt tấn công miền Nam bằng quân sự, mặc dù vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, họ đă cố đưa một số đảng viên cốt cán vào dựng nên được cái gọi là Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, mà tác giả gọi là một thứ Việt Minh của miền Nam do Đảng Nhân Dân Cách Mạng (một chi nhánh hay đúng hơn, một cái tên khác của đảng Lao Động, tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lănh đạo, cũng giống như năm 1945 Việt Minh cũng do đảng Cộng Sản lănh đạo vậy. Về việc này Mark Moyar viết:
“Bắc Việt liên tục phải đương đầu với sự hạn chế bạo động do Trung Cộng và Liên Xô áp đặt, v́ họ sợ Eisenhower nổi trận lôi đ́nh. Vào tháng 5, Trung Cộng bảo Bắc Việt rằng Nam Việt Nam sẽ phải được giải phóng, nhưng bằng chiến tranh trường kỳ gồm cả chính trị lẫn quân sự, chứ không phải dứt khoát bằng một chiến dịch quân sự.” (trang 101)
Điểm chót về chương này cũng rất quan trọng không thể bỏ qua là trước t́nh h́nh Ai Lao bị Cộng Quân xâm chiếm, Tổng Thống Eisehower đă hết sức quan ngại. “Ông nói: ‘Chúng ta không thể để Ai Lao rơi vào tay Cộng Sản, ngay cả nếu chúng ta phải chiến đấu – cùng với các đồng minh hay ngay cả không có đồng minh’. Nếu cuộc khủng hoảng ở Ai Lao xảy ra sớm hơn, rất có thể Eisenhower đă khởi công đưa lực lượng Mỹ vào Ai Lao.
Nhưng lúc ấy chỉ c̣n vài tuần nữa hết nhiệm kỳ Tổng Thống, nên ông quyết định để cho vị tổng thống kế nhiệm lấy quyết định về Ai Lao và xem xét tường tận chính sách cần áp dụng.” Nhưng theo tác giả vị tổng thống sau này là “người mà ư chí và khả năng có thể khai chiến ở Ai Lao là vấn đề tranh căi.”
Ư tác giả là Tổng Thống Kennedy sẽ không có ư chí và khả năng đánh Cộng như vị tiền nhiệm, là một thống tướng, chiến lược gia hàng đầu của Mỹ đă lănh đạo quân Đồng Minh chiến thắng Phát-xít Đức trong thế chiến II.
Bằng những lời trên tác giả đă kết thúc chương 4.
Chương 5:
Dấn thân nhập cuộc:
1961.
Đầu chương tác giả nói về sự ngưỡng mộ mà Tổng Thống Kennedy, khi c̣n là nghị sĩ đă dành cho ông Diệm.
Về những nhân vật có ảnh hưởng lớn với vị tổng thống mới như McNamara, McGeorge Bundy, Dean Rusk. Rồi ông trưng dẫn câu nói lịch sử của Kennedy trong ngày nhậm chức:
“Mọi dân tộc nên biết, dù họ muốn điều tốt hay điều xấu cho chúng tôi, rằng chúng tôi sẽ trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào, chịu bất cứ cực khổ nào, ủng hộ bất cử thân hữu nào, chống đối bất cứ kẻ thù nào để bảo đảm sự tồn tại và thắng lợi của tự do.”
Trước sự hứa hẹn triệt để ủng hộ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm của Tổng Thống, Đại sứ Durbrow đành bỏ đ̣i hỏi nới rộng dân chủ tự do, đồng thời cũng không c̣n phản đối chuyện trang bị thêm cho 20,000 lính.
Đại tá Lansdale, trước kia bị đại sứ Durbrow ngăn cản, nay đă có thể thăm viếng Việt Nam và đề nghị, “việc đầu tiên là phải thay thế vị đại sứ mất thiện cảm của ông Diệm này”. Chỉ hai ngày sau khi tiếp Lansdale, Tổng Thống Kennedy chấp thuận ngân khoản để tăng thêm 20,000 quân cho Việt Nam Cộng Ḥa.
Tác giả nh́n nhận miền Nam trong hai năm 1960 và 1961 đă thất bại trong việc chống du kích và nổi dậy của Cộng quân. Ông trích lời tướng McGarr ước đoán Diệm chỉ kiểm soát được 40% nông thôn. Nhưng phía VC cũng không lạc quan ǵ. V́ theo Lê Duẩn lực lượng quân sự của Diệm vẫn c̣n nguyên vẹn.
Vấn đề mà Tổng Thống Kennedy quan tâm nhất, tuy vậy, không phải Việt Nam mà là Ai Lao. Tại đây Việt Cộng đă có 12,000 “quân viễn chinh”. Nhưng thay v́ theo lời khuyên của nguyên Tổng Thống Eisenhower đem quân vào Ai Lao, “Tổng Thống Kennedy đă quyết định không dùng vơ lực và chỉ phô trương lực lượng. (…)” (trang 127)
Rồi sau đó giao cho Averell Harriman, người cực lực chống đối việc can thiệp trực tiếp vào Ai Lao, trách nhiệm thương thuyết với đối phương để đạt một thỏa hiệp về trung lập hóa Ai Lao.
“Ngày 29-4-61 Tổng Thống Kennedy chấp thuận đề nghị tăng số cố vấn tại Nam Việt Nam từ 685 lên 785. Đây là lần đầu tăng số cố vấn Mỹ kể từ năm 1956. Dân vệ được tăng từ 32,000 lên 68,000… và Lục Quân tăng từ 170,000 lên 200,000.”
“Tổng thống cũng theo đề nghị của Lansdale là tân đại sứ Frederick Ernest “Fritz” Nolting nên cải thiện mối giao hảo với Tổng Thống Diệm… và đừng áp lực ông này phải loại bỏ ông Nhu…”
Về các cuộc đụng độ giữa quân chính phủ và Cộng quân, tác giả ghi lại những trận đánh ngày đầu tháng 9 và ngày 17 tháng 9, trong đó tỉnh trưởng Phước Thành Nguyễn Minh Mẫn bị giết phân thân, và vợ cũng bị bắn. VC sớm rút lui mang theo một trăm súng, giải thoát và dẫn đi 270 tù nhân CS.
Đầu tháng 3 đặc phái viên của Tổng Thống là Tướng Maxwell Taylor đến quan sát tại chỗ và báo cáo: “Hồ sơcho thấy t́nh h́nh chính trị tại miền Nam xấu đi từ 1959 là do chính phủ không có khả năng bảo vệ dân và điều khiển chiến cuôc một cách hữu hiêu.” Nhưng viễn cảnh không đến nỗi ảm đạm. Taylor viết: “Mặc dầu có khuyết điểm, Diệm vẫn có khả năng phi thường, kiên cường và dũng khí.” Ông khuyên không nên thay thế Diệm, v́ sẽ dẫn đến hỗn loạn.
Cuối năm 1961 hàng viện trợ đổ tới Việt Nam càng ngày càng nhiều. Số người Mỹ cũng gia tăng lên tới 2,600. Kennedy cử tướng Paul Harkins cầm đầu phái bộ quân sự Mỹ tại Việt Nam. Tướng Harkins cũng như tướng McGarr luôn có lập trường ủng hộ và bênh vực Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.
Cuối chương 5, tác giả viết: “Tháng cuối cùng của năm 1961 đánh dấu bước đầu của khúc ngoặt quan trọng trong chiến tranh Việt Nam… Chiến lược của Kennedy nhằm cung cấp cố vấn và viện trợ cho Nam Việt, chứ không gửi quân tác chiến sang là căn cứ vào sự tin tưởng vào khả năng chiến đấu của Nam Việt Nam…”
Chương 6:
Sự trẻ trung hóa,
từ tháng Giêng đến tháng 6 năm 1962.
Kennedy tăng viện, gửi thêm cố vấn vào Việt Nam. Nhưng lại muốn giấu. Kư giả bị cấm bay trên trực thăng trong những phi vụ hành quân. Giảm bớt sự phổ biến tin chiến sự. Kư giả quay ra săn tin để đả kích Diệm. Cả Diệm lẫn hai người ủng hộ ông là đại sứ Nolting và đại tướng Harkins đều kém về thu phục báo giới. “Không thèm lấy tin từ các giới chức Mỹ và chính phủ Diệm, báo giới Mỹ ở Sài G̣n đi lượm tin từ những trí thức người Việt và nhân viên Mỹ không làm việc ở ṭa Đại Sứ hay cạnh bộ chỉ huy cao cấp cố vấn quân sự Mỹ.
Các phóng viên thường không để ư là 2 nguồn tin này thường thiếu sót, sai lạc. Roger Hilsman thuộc bộ Ngoại Giao đă nhận xét đúng trong thư hồi tháng 2 rằng, một số nhân viên Mỹ đă ở Việt Nam quá lâu và từng thất vọng và ác cảm với chính quyền Việt Nam, hoặc bị ảnh hưởng không tốt của những người có quan điểm bất đồng chính kiến với chính quyền. Những phần tử bất măn lâu năm đó mớm cho kư giả Mỹ quan điểm chủ bại. Họ cũng khuyến khích những kẻ bất đồng chính kiến trong số những trí thức Việt Nam từng chịu sự giáo dục của Pháp lúc ấy thường tập trung ở Sài G̣n.”
Sau vụ dinh Độc Lập bị oanh kích và con gái ông bà Nhu thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, báo chí Mỹ làm to chuyện, cho rằng nhân dân oán ghét chế độ, ông Diệm đă cứng rắn hơn với kư giả ngoại quốc. Ông cho lệnh t́m cách trục xuất Homer Bigart của Nữu Ước Thời Báo và Francois Sully của Tuần Tin Tức.
Về mặt quân sự, hai tháng đầu năm 1962, không lấy làm hứa hẹn cho Sài G̣n. Vẫn những cuộc hành quân lớn không kết quả.
“Trong khi đó Cộng quân càng thêm mạnh. T́nh báo Mỹ tháng 2 cho biết, VC đă tăng quân số từ 20,000 lên 25,000 trong tháng 12 năm trước.”
Nhưng đến mùa xuân th́ t́nh h́nh khả quan hơn. Một trong những chiến thắng lớn nhất của chính quyền Sài G̣n trong mùa xuân là trận đánh ngày 6 tháng 4 ở Trà Bồng. Hăng AP loan VC thua chạy để lại 45 xác, và có thể có nhiều xác đă được mang theo. Phía Sài G̣n có 16 chết và 33 bị thương. Đến giữa năm 1962 số cố vấn quân sự Mỹ đă tăng vọt, từ 2,600 lên đến 11,500.
Về hiệu quả của sự cố vấn của Mỹ, tác giả phân biệt:
“Cố vấn về chính trị của người Mỹ thường vô bổ, v́ họ thiếu hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Trong khi đó cố vấn về quân sự trái lại đă giúp ích nhiều cho sự tiến bộ trong công cuộc điều binh bố trận.”
Tác giả đă giành 3 trang để nói về Ấp Chiến Lược mà ông cho rằng của ông Nhu, chứ không phải của Sir Thompson như nhiều người nghĩ. Ông bảo đây là một cuộc cách mạng hóa nỗ lực chiến tranh.
“Khi giải thích về chương tŕnh ACL, Diệm và Nhu thường năng nói đến tính dân chủ của nó, nhưng là thứ dân chủ theo kiểu Việt Nam, chứ không phải dân chủ theo kiểu Tây Phương.”
Người Mỹ có vẻ không hài ḷng v́ chương tŕnh này được thực hiện sau lưng họ, và lại dùng cố vấn chính là người Anh (Sir Thompson) chứ không phải là người Mỹ (Rufus Phillips).
Nhưng dầu sao những tiến bộ về hoạt động quân sự, kèm theo một số cải tổ trong guồng máy cai trị khiến người Mỹ không c̣n muốn ép Tổng Thống Diệm phải mở rộng chính phủ, đưa thêm người của đối lập vào nữa.
Phía Hà Nội thấy Mỹ có vẻ dấn thân và chế độ Sài G̣n xem ra ổn vững nên ngỏ ư muốn thương thảo với cả Diệm lẫn Mỹ, sẵn sàng chấp nhận một miền Nam Việt Nam trung lập với một chính phủ liên hiệp gồm mọi nhóm chính trị tôn giáo và các tổ chức xă hội.
Trong khi đó Hồ Chí Minh được Liên Xô cho 3,000 súng và Trung Cộng cung cấp 90,000 vũ khí đủ để trang bị cho 230 tiểu đoàn mới.
Phần cuối chương 6, tác giả phân tích t́nh h́nh Ai Lao và hiệp định Genève về Ai Lao.
Tháng 4, Tổng Thống Kennedy theo đề nghị của Harriman cắt viện trợ cho chính phủ của hoàng thân Phoumi ḥng tiến tới một chính phủ liên hiệp 3 phe. Tổng Thống Diệm viện dẫn bài học lịch sử về Cộng sản Hy Lạp chỉ bị đánh bại sau khi Ti-tô không cho chúng lợi dụng lănh thổ Nam Tư, để khẩn khoản yêu cầu Hoa Kỳ ngăn cản không cho Việt Cộng lợi dụng lănh thổ Ai Lao để xâm nhập miền Nam Việt Nam. Nhưng không được.
Kennedy quá tin Harriman, nên đă không nghe lời những cố vấn phe “diều hâu”, như McNamara, McCone. Ngày 13 tháng 5, nguyên tổng thống Eisenhower đă nói với hai ông này rằng, “Nếu mất Ai Lao th́ cuối cùng Nam Việt Nam và Thái Lan sẽ mất.” (…) V́ vậy phải giữ Ai Lao bằng mọi giá. Ít nhất cũng phải giữ được một nửa.
Nếu cần đến bom nguyên tử chiến thuật để giữ Ai Lao cũng không từ.
Nhưng Harriman nhất định cho rằng Liên Xô sẽ bảo đảm việc Việt Cộng rút hết khỏi Ai Lao. Quả thực Khrutshchev có gửi cho Tổng Thống Kennedy một lá thư hứa Cộng quân sẽ không có hành động quân sự nào rộng lớn ở Ai Lao. Nhưng thực tế sau này cho thấy đấy chỉ là lời hứa hăo.
V́ đại sứ Nolting tỏ ư không tán thành hiệp ước trung lập hóa Ai Lao, nên Harriman lại một lần nữa vận động để đưa Nolting ra khỏi Nam Việt Nam. Nhưng không thành công.
“Tuy nhiên sự chống đối của Nolting không phải là vấn đề quan trọng đối với Harriman như sự chống đối của Diệm, v́ Diệm là lănh tụ tối cao của Đồng Minh có chủ quyền.”
Nhưng rồi mọi sự cũng xong. Với lời hứa ngọt ngào của Tổng Thống Kennedy, Tổng Thống Diệm cuối cùng đă để cho ngoại trưởng VNCH kư hiệp ước đó một cách bất đắc dĩ, mà trong ḷng thi lo âu. Với hiệp ước này, Ai Lao có chính phủ liên hiệp gồm 3 phe: Phe Trung Lập của hoàng thân Souvanna, phe hữu của hoàng thân Phoumi và phe cộng của hoàng thân Souphanouvong, em hoàng thân Souvanna..
Tác giả kết thúc chương này bằng một nhận định lạc quan về t́nh h́nh Nam Việt Nam, mặc dù có sự xâm nhậpgia tăng của Cộng quân từ Ai Lao. “Một sự tiến bộ đáng ngạc nhiên trong quân đội. Chương tŕnh Ấp Chiến Lược trở thành cốt lơi của công cuộc b́nh định.”
Chương 7:
Tấn công:
từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1962.
Mở đầu là việc bổ nhiệm tướng Paul Harkins làm trưởng đoàn cố vấn và những nỗ lực của ông nhằm ảnh hưởng đến những quyết định cần thiết của Tổng Thống Diệm liên quan đến việc cải tiến các đơn vị tác chiến.
Harkins rất năng động và thường đi xem xét hoạt động của các cố vấn tại hiện trường, trái với lời cáo buộc của một số kư giả Mỹ là ông chỉ ngồi ở văn pḥng.
Tác giả trưng dẫn chiến thắng của sư đoàn 7 tại Đồng Tháp Mười ngày 20 tháng 7 làm ví dụ về kết quả của những khuyến cáo của tướng Harkins về việc chỉ huy và tinh thần tấn công. Tướng Harkins đă nói với Tổng Thống Diệm: “Chỉ có một cách để chiến thắng là tấn công, tấn công, và tấn công.” (Tr.168)
Phó đại sứ William Truehart lớn tiếng ca ngợi những tiến bộ đạt được là “đáng khích lệ kinh khủng”. Nhưng báo giới Mỹ th́ không hào hứng như vậy. Sau khi Homer Bigart và Francois Sully hết hạn hộ chiếu, phải rời Việt Nam, chỉ c̣n một số nhà báo rất trẻ, trong số phải kể đến Neil Sheehan, 25 tuổi, David Halberstam, 28 và Malcolm Browne, 32. Theo tác giả, những nhà báo trẻ này đ̣i rằng họ phải được biết rơ mọi sự thực về chiến tranh, những thắng lợi cũng như những thất bại và khuyết điểm, lỗi lầm của chính phủ và quân đội. V́ vậy họ luôn chỉ trích các giới chức Mỹ và Việt Nam đă không cho họ được toàn quyền tiếp cận các nguồn tin. Tuy nhiên tác giả không kết tội họ là cố t́nh làm lợi cho địch. Ông viết:
“Although they regularly denounce American and south Vietnamese leaders and some of their policies, they supported the basic American goal of defeating the Viet Cong in order to preserve a non-Communist South Vietnam and save the Southeast Asian dominoes.” (Tuy họ thường tố cáo các nhà lănh đạo và một số chính sách của Mỹ và Nam Việt Nam, nhưng họ vẫn ủng hộ mục tiêu cơ bản của người Mỹ là đánh thắng Việt Cộng để duy tŕ một miền Nam Việt Nam không cộng sản và cứu các quân đô-mi-nô Đông Nam Á.”
Trong mùa hè 1962 những phóng viên mới để quá nhiều thời giờ cho một ḿnh sư đoàn 7. Tuy Halberstam và Sheehan và hầu hết các phóng viên khác phần nhiều lấy tin từ những nguồn không chính thức thuộc loại “Radio Catinat”, nhưng quả thực họ có đến thăm sư đoàn 7 và tháp tùng các cuộc hành quân khá đều. Lư do, theo tác giả, là v́ từ Sài G̣n đến bộ tư lệnh sư đoàn 7 ở Mỹ Tho chỉ có 40 dặm đường khá tốt, và nhất là v́ ở đó có sự hiện diện của Trung Tá John Paul Vann rất thích cung cấp tin cho các phóng viên để được nổi tiếng.
Tác giả đưa ra nhiều điều không tốt về ông này, cũng như về bà mẹ của ông ta. Ít ai biết bà từng có con hoang, làm đĩ, và nghiện rượu. Nhiều chỗ, nhất là chương về trận Ấp Bắc, tác giả đă đưa ra nhiều tài liệu để chứng minh Vann nói láo, để chạy tội và đổ lỗi cho sĩ quan Việt Nam không muốn tiếp cứu người Mỹ bị địch bao vây… Chắc là kư giả Neil Seehan “sùng” lắm v́ ông ta đă ca tụng Vann hết lời trong tác phẩm lớn A Bright Shining Lie của ông ta. (Xin xem chương 20, Ngô Đ́nh Diệm, Lời Khen Tiếng Chê của Minh Vơ.) Vann là nguồn tin chính của Sheehan đă nói láo, th́ các tin mà Sheehan đưa ra về những ưu điểm của Cộng quân và những sai trái của quân Quốc Gia c̣n có giá trị bao nhiêu?
Trang cuối tác giả nhắc đến hiệp ước trung lập hóa Ai Lao, công tŕnh của Harriman đă đưa đến việc Cộng quân tha hồ dùng đường ṃn Hồ Chí Minh để xâm nhập miền Nam, v́ vậy nhiều người lấy tên Harriman đặt cho đường ṃn này: “Xa Lộ Tưởng Niệm Averell Harriman”.
Mặc dầu gặp khó khăn bội phần do cái “xa lộ Harriman” này gây ra, chính quyền Diệm vẫn thu lượm được nhiều thắng lợi vào hạ bán niên 1962.
Tác giả kết thúc chương 7 bằng lời nhận xét của kư giả Wilfred Burchett, người Úc thân Cộng, đă từng sống với VC vào thời gian đó như sau:
“Về lănh thổ cũng như về dân số, Diệm đă lấy lại được một phần đáng kể. Quân (của Diệm) đă ghi đựợc một số thắng lợi và chủ động về chiến lược và chiến thuật… Năm 1962 là năm của Diệm.”
Chương 8:
Trận Ấp Bắc:
Tháng Giêng năm 1963.
Tác giả để gần 20 trang để viết về trận đánh cấp tiểu đoàn này, trong khi về những trận đánh khác trong năm 1962, ông chỉ nói qua mấy hàng. Thứ nhất v́ đây là trận phản công đầu tiên của Việt Cộng sau một loạt thất bại trong 6 tháng cuối năm 1962, để cố dành lại thế chủ động. Nhưng VC đă thất bại, để lại trên một trăm xác chết.4
Thứ hai, v́ trận này đă được số đông báo giới và sử gia Mỹ sau này nêu lên để chứng minh sự “yếu kém và ươn hèn của chính quyền miền Nam không muốn chống cộng, chỉ muốn duy tŕ lực lượng hầu bảo vệ nhà Ngô…”
Trong trận này quân của sư đoàn 7 bị thiệt hại nặng, 80 chết 109 bị thương. Lực lượng Mỹ yểm trợ có 3 người chết, 6 bị thương và nặng nhất là có tới 5 máy bay trực thăng bị hư hại. Dư luận phe chính thống coi đây là thất bại lớn chứng tỏ chính quyền đang trên đà suy sụp. Nhưng tác giả đă thuật lại đầy đủ chi tiết trân đánh, địa h́nh địa vật, và quân số hai bên, cũng như diễn tiến trận đánh, để đi đến nhận xét trái ngược. Theo tác giả th́, tướng Harkins và Đô Đốc Felt đều nhận định, đây là một chiến thắng của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Riêng tác giả th́ phân biệt, về mặt chiến thuật, sư đoàn 7 thất bại, v́ không tiêu diệt được đối phương như đă hoạch định. Nhưng về mặt chiến lược th́ thắng v́ không để Cộng quân dành lại được thế chủ động.
Tác giả cũng nêu bằng chứng để quy trách sự tổn thất – không chỉ về phía Mỹ – cho Trung Tá Vann. Hơn nữa c̣n kết tội ông nói dối. Những dẫn chứng chi tiết được nêu lên trong 62 chú thích có thể tạo nên một thách thức nghiêm trọng đối với sự đánh giá của “phe chính thống”.
Chương 9:
Tổng Thống Diệm trước thử thách: Từ tháng 2 đến tháng 7.
T́nh h́nh an ninh và công cuộc b́nh định tiếp tục tiến triển sau trận Ấp Bắc nhờ dân chúng tin tưởng vào chính quyền và cung cấp nhiều tin tức về hoạt động của Cộng quân. Từ tháng 2 đến tháng 7 Cộng quân chỉ có thể chủ động mở tấn công cấp tiểu đoàn 7 lần, so với 35 lần trong 6 tháng đầu năm 1962. Một tài liệu lịch sử của quân khu 5 VC sau này đă ghi: “Chính quyền Diệm đă lấy lại tất cả những ǵ chúng ta chiếm được.”
Kết quả này theo tác giả là nhờ chương tŕnh Ấp Chiến Lược. Ông trưng dẫn các chuyên gia người Úc (đại tá Ted Serong) và Anh (Sir Thompson) nhận định đây là thành tựu to lớn, khiến chính phủ đang trên đà chiến thắng. Cố vấn Mỹ Rufus Phillips cũng lạc quan, tuy dè dặt hơn.
Cuối tháng bảy một toán đặc nhiệm thuộc sư đoàn 7 đă tấn công tiểu đoàn 514 VC khiến chúng phải bỏ chạy để lại 58 xác, và đem theo một số tương đương. Phía quân chính phủ có 18 tử thương.
Phần đông kư giả Mỹ không báo cáo những thành tựu đó. Trái lại có kẻ như Halberstam c̣n cho rằng t́nh h́nh an ninh tồi tệ, nguyên do là tại bà Nhu. Nhưng “Đại tướng Edward Rowny bảo Halberstam:
“Này Dave, anh biết cuộc hành quân thắng lợi đấy chứ? Và dù nó thắng lợi hay không th́ cũng chẳng dính dáng ǵ đến bà Nhu cả. Thậm chí binh sĩ c̣n chẳng biết bà ta là ai nữa. “
Halberstam đáp:
“Đại tướng ơi, độc giả không thích đọc bất cứ cái ǵ liên quan đến những cuộc hành quân bé nhỏ này đâu. Cái mà họ thích đọc là mụ “Long Nữ” (Dragon Lady) cơ.” (tr. 210, chú thích 27)
Thử thách của ông Diệm chẳng những do báo chí Mỹ, do số lớn vũ khí và quân lính Bắc Việt xâm nhập qua đường ṃn Harriman. Mà c̣n do biến cố Phật Giáo. Tài liệu VC cho biết mỗi tháng Bắc Việt chuyển vào Nam 1500 lính để tăng cường cho số quân chỉ vào khoảng 23,000. Đây là một tỷ lệ vô cùng lớn lao. Nhưng số quân VC đào ngũ, hoặc ra đầu thú với chính quyền trong chiến dịch chiêu hồi cũng rất lớn. V́ vậy chính quyền vẫn giữ được thế chủ động.
Về biến cố Phật Giáo, tác giả đưa nhiều bằng chứng để đi đến kết luận giống như Tổng Thống Nixon hay cựu hoàng Bảo Đại đă khẳng định trong No More Vietnams hay Le Dragon D’Annam: Vấn đề không phải kỳ thị tôn giáo, mà là chính trị. Tác giả đă để nhiều trang bàn kỹ về nguồn gốc sự khủng hoảng, và vai tṛ của Thượng Tọa Thích Trí Quang, mà ông bảo là người đă áp dụng những phương pháp đấu tranh giống CS, hoàn toàn trái ngược với nếp sống và tác phong của một tu sĩ Phật Giáo. Ông trưng dẫn bằng chứng về việc Tổng Thống Diệm đă có thiện chí thương lượng, ḥa giải, nhưng Thích Trí Quang luôn luôn chỉ muốn đánh đổ cho bằng được chính phủ. Tác giả cũng nhắc lại chuyện dĩ văng, chính ông Hồ đă từng khoác áo nhà sư trong thời gian c̣n đấu tranh trong bí mật…
Tiếc rằng báo chí Mỹ đă triệt để ủng hộ phong trào đấu tranh của Thích Trí Quang, lên án chế độ. Họ lư luận rằng Phật Giáo chiếm tới 70 hay 80 phần trăm dân, nên đại diện toàn dân và như vậy ông Diệm đă bị toàn dân lên án, không thể nào tồn tại… Tác giả đă bác bỏ hoàn toàn tỷ lệ phần trăm tưởng tượng này, bằng những thống kê chính xác.
Tác giả cũng nói đến vai tṛ của Phạm Xuân Ẩn và Phạm Ngọc Thảo trong vấn đề ảnh hưởng đến dư luận báo chí Mỹ. Các nhà báo trẻ như Neil Sheehan và David Halberstan thường xuyên tiếp xúc với những nguồn tin sẵn ác cảm với chính quyền. V́ thế phần đông dư luận Mỹ và thế giới cũng lên án theo.
Cuối chương tác giả viết:
“Trong khi Truehart, Hilsman, Halberstam và những người Mỹ khác bao vây Diệm với những yêu sách sai lầm về ḥa giải, họ đă ngoảnh mặt làm ngơ trước hai sự thực quan trọng: nỗ lức chiến tranh của Nam Việt Nam đang tiến những bước dài, và vấn đề chính của Nam Việt Nam là sự xâm nhập càng ngày càng tăng của Cộng quân qua ngả Ai Lao.” (tr 228)
Chương 10:
Phản bội:
Tháng 8 năm 1963.
“Xem ra tôi không thể nào làm cho ṭa đại sứ tin được rằng đây là nước Việt Nam chứ không phải Hoa Kỳ”.Chương sách được mở đầu bằng lời Thống Thống Diệm nói với nữ kư giả Marguerite Higgins như vậy. Ông đă để gần 2 trang sách để tóm lược nội dung câu chuyện dài 5 giờ vào đầu tháng 8 giữa vị tổng thống độc thân và cô gái Mỹ trẻ đẹp. Cô này thích xông xáo lặn lội khắp nơi, từ rừng rậm đến đồng ruộng śnh lầy5 ở Nam Việt Nam ḥng săn tin về cuôc khủng hoảng đang diễn ra. Cô là nữ kư giả đầu tiên của Mỹ được giải thưởng Pulitzer về báo chí.
Rồi ông nói về làn sóng phản đối của sư săi và Phật tử xung quanh chùa Xá Lợi. Trong số vài chục ngàn người đó, ông trưng bằng chứng từ phía CS rằng không ít người do VC xúi dục gia nhập cho thêm đông, để làm mất uy tín chính phủ.
Về cuộc lùng bắt và giam giữ một số sư săi và Phật tử trong chùa Xá Lợi đêm 22 tháng 8, tác giả trưng bằng chứng từ nhiều nguồn tài liệu, cho biết chính các tướng lănh sau này làm cuộc đảo chính đă xin TT Diệm được dẹp nhóm quá khích. V́ lúc ấy nhiều người bất măn với TT Diệm, không phải v́ ông quá cứng rắn với nhóm Phật tử quá khích, mà v́ họ cho rằng ông quá mềm yếu. Chính Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ chỉ vài ngày trước khi đảo chính đă tuyên bố với các nhà ngoại giao ngoại quốc rằng đáng lẽ chính quyền đă phải dập tắt phong trào Phật Giáo không nương tay.
Trước khi có cuộc lục soát và bắt giữ nhóm chống đối trong chùa Xá Lợi, chính tướng Trần Văn Đôn đă lên đài phát thanh tuyên bố t́nh trạng thiết quân luật. Rồi sau đó Quân Đội đă bố trí tại các nơi hiểm yếu trong thành phố để cho 3 lực lượng Cảnh Sát, Thanh Niên Cộng Ḥa và Lực Lượng Đặc Biệt xông vào Chùa, bắt giữ bọn người làm loạn.
Hành động quyết liệt của quân đội đă lấy lại được uy tín cho chính quyền. Nhưng các kư giả Mỹ, mà nổi bật là Halberstam đă dựa vào những nguồn tin ác cảm hay sai lạc để tố cáo ông Nhu lộng quyền chỉ huy cuộc “đàn áp”. Tác giả viết: “Tất cả tin tức nêu lên trong bài báo của Halberstam về vụ 22 tháng 8 xuất phát từ những nguồn vô danh mà anh ta náo nức muốn tin là đúng, nhưng tất cả đều sai.”
Tác giả tấn công Halberstam bằng một loạt bằng chứng về những báo cáo láo của anh ta. Chẳng hạn Halberstam báo cáo có 4 người bị bắn chết tại Huế, th́ khi Phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới điều tra, họ đă phỏng vấn cả 4 người (đă chết!) này.
Cùng với 3 nhà báo ác cảm với ông bà Nhu, c̣n có 3 người trong chính quyền Mỹ cũng cùng một tâm trạng. Họ cùng nhau lập thành nhóm Diem-Must-Go (theo đại sứ Frederick Nolting) tiến hành một loạt mánh mung không đường hoàng, nếu không muốn bảo là gian xảo, để áp lực cho ông Diệm phải loại trừ ông Nhu. V́ đây là vấn đề vừa khuất tất vừa khôi hài một cách chết người nên xin dịch nguyên văn một đoạn dài của tác giả:
“Harriman, Hilsman và Forrestal mô tả biến cố 21-8 theo cùng một cách như báo giới Mỹ. Họ quả quyết rằng chính phủ đă quyết định tấn công tàn bạo các chùa chiền.Họ không xét đến sự khiêu khích và chủ ư phản nghịch đă khiến chính phủ phải đuổi những kẻ đấu tranh ra khỏi chùa. V́ không quen với văn hóa của Việt Nam, họ không hiểu rằng dung túng những cuộc chống đối như ở chùa Xá Lợi sẽ làm cho người lănh đạo bị mất uy tín. Trong trí của 3 người Mỹ này, việc dọn sạch các chùa hoàn toàn do Nhu toan tính nhằm bách hại các Phật tử và không cho dân chúng có quyền tự do ngôn luận, và như vậy sẽ khiến cho công chúng phải chống lại nhà Ngô…
“Harriman và Hilsman đă từ lâu hy vọng thấy Nhu phải ra đi. Th́ đây cơ hội bằng vàng đă tới. Trong bản giác thư họ viết: “Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung thứ một t́nh huống trong đó quyền hành nằm trong tay Nhu.” Họ cho phép đài Tiếng Nói Hoa Kỳ và các cơ quan thông tin khác của chính phủ loan báo rằng lỗi ở ông Nhu, chứ không phải quân đội. Đi xa hơn cả những ǵ 4 nguồn tin Việt Nam khuyên làm (các tướng Đôn, Kim, bộ trưởng Thuần và Vơ Văn Hải khuyên nên cho Nhu đi, nhưng giữ Diệm lại v́ không thể có ai thay được ông Diệm, MV), họ xác quyết rằng hăy cho Diệm một cơ may loại Nhu, nhưng nếu không loại được Nhu, th́ chính ông Diệm cũng không thể giữ.” Tác giả bản thông điệp chỉ thị cho đại sứ Lodge cho các tướng lănh biết, nếu Diệm không đưa Nhu đi và nhượng bộ nhiều hơn với phe Phật Giáo, th́ Hoa Kỳ sẽ thôi không ủng hộ Diệm và sẵn ḷng ủng hộ một lănh tụ khác.
“Chiều thứ bảy ấy, Harriman và Hilsman mang bức công điện tới số 9T câu lạc bô Chevy Chase, là nơi thứ trưởng ngoại giao George Ball đang chơi Golf. Ball thích chơi bạo. Ông ta đă chán ghét cuộc đàn áp Phật Giáo của Diệm, như đă được thông báo bởi các kư giả Mỹ mà ông ta thích. Vào một dịp nọ, ông ta đă nói với TT Kennedy rằng “Ngài sẽ có lợi hơn nếu truyện tṛ với những kư giả đang làm việc ở Việt Nam hơn là nói chuyện với những viên chức chính phủ Hoa Kỳ”. Ball khuyên nên xin phép Tổng Thống Kennedy để gửi công điện đi Sài G̣n.
“Hai tác giả công điện và Ball bèn gọi điện cho Tổng Thống lúc ấy đang nghỉ cuối tuần ở Cape Cod, và giục ông duyệt y bản công điện. Kennedy vốn đă có vẻ nghiêng về quan điểm là Nhu phải ra đi và phải ép Diệm một cách đáng kể v́ dư luận báo chí xôn xao về vụ tấn công chùa. Tuy nhiên ông không biết sự tai hại mà bản công điện gây ra cho ông Diệm. Ông vẫn c̣n quư trọng ông Diệm, và về sau, khi đă thấy rơ những ngụ ư đầy đủ của công điện, ông đă ân hận. Từ Cape Cod Kennedy bảo các viên chức bộ ngoại giao rằng ông chấp thuận công điện, với điều kiện là họ phải được sự đồng ư của thủ trưởng của họ, là ngoại trưởng Dean Rusk, và của ông Roswell Gilpatric đang tạm thay bộ trưởng Quốc Pḥng McNamara. Ông này đang leo núi ở Wyoming. Tổng Thống đặc biệt quan tâm đến quan điểm của bộ Quốc Pḥng v́ bộ này kiên quyết ủng hộ ông Diệm.
“Gọi điện đến sân vận động Yankee, người ta bảo ngoại trưởng Rusk rằng Tổng Thống đă duyệt y công điện, mà không nói rằng Tổng Thống duyệt y với điều kiện là Ngoại Trưởng và ông Gilpatric cũng đồng ư. Ông Rusk nói ông đồng ư. Forestal liên lạc với ông Gilpatric và xin ông ấy thuận, lại nhấn mạnh rằng Tổng Thống và ngoại trưởng Rusk đă thuận rồi. Forrestal, cũng như ba viên chức bộ Ngoại Giao, không màng nhắc đến điều kiện của sự chấp thuận của Tổng Thống, khiến ông Gilpatric cũng có cảm tưởng rằng người ta xin sự đồng ư của ḿnh cho có lệ để thông qua một chính sách mà Tổng Thống đă chọn. V́ thế Gilpatric đồng ư.
“Để tránh cho bên CIA khỏi có cảm nghĩ họ bị bỏ qua không hỏi ư, Harriman đă tiếp xúc với phó giám đốc CIA đặc trách về Kế Hoạch là Richard Helms, thay v́ cố t́m gặp chính Giám Đốc là John McCone là người nhiệt liệtủng hộ Diệm. Harriman bảo Helms rằng Tổng Thống đă chọn một con đường hành động mới cho Nam Việt Nam. Nhưng ông ta không xin ư kiến của ông Helms hay của CIA, trước khi cáo từ.
“Những tác giả bản công điện đă không t́m sự đồng thuận của Chủ Tịch Ban Tham Mưu Hỗn Hợp là đại tướng Maxwell Taylor v́ ông này cũng là người ủng hộ ông Diệm một cách mạnh mẽ.
“Nếu như các ông McNamara, McCone và Taylor được tiếp xúc để hỏi ư, hoặc nếu như những kẻ thảo công điện cho các ông Rusk và Gilpatric biết rơ ư của Tổng Thống một cách đường hoàng, th́ chắc công điện đă không bao giờ được gửi đi. V́ các ông McNamara, McCone và Taylor rất kính trọng ông Diệm. Sau này khi biết cái thủ đoạn gian trá này, các ông đă nổi trận lôi đ́nh.
“Ngay tối hôm ấy bản công điện đă được gửi cho đại sứ Lodge.” (trang 238)
Tác giả mô tả ông Lodge là người bị ảnh hưởng nặng của nhóm phóng viên trẻ chỉ muốn hạ ông Diệm. Ông quyết ra tay. Nhưng âm mưu bị bại lộ, v́ ông Nhu biết được và đề pḥng. V́ vậy tất cả công điện liên quan đến âm mưu đảo chính vào cuối tháng 8 bị thiêu hủy hết.
Chương 11:
Tự hủy: Từ tháng 9 đến ngày 2-11-1963
Sau âm mưu đảo chính bất thành, hàng ngũ lănh đạo cao cấp tại Hoa Thịnh Đốn chia hẳn làm hai phe. Harriman, Hilsman, George Ball và Forrestal tiếp tục tấn công Diệm. Phe bênh Diệm gồm những nhân vật quan trọng hơn như Robert McNamara, Maxwell Taylor, Robert Kennedy (bộ trưởng Tư Pháp) và McCone, không kể đại sứ Nolting và William Colby, và cả Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson Tác giả cũng nêu tên cố vấn Anh, Sir Robert Thompson ở Sài G̣n.
Mặc dù sự lươn lẹo xảo trá của nhóm Harriman đă khiến Tổng Thống không tin họ nữa, ông vẫn không dứt khoát ngả về bên nào. V́ dư luận báo chí quá bất lợi qua vụ khủng hoảng Phật Giáo khiến Tổng Thống cũng phải nương theo mà tuyên bố bất lợi cho ông Diệm. Trả lời kư giả Walter Cronkit trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Thống Kennedy nói: “Chúng ta sẵn sàng tiếp tục giúp họ. Nhưng tôi nghĩ sẽ không thắng được trận giặc, nếu nhân dân Việt Nam không ủng hộ những nỗ lực của chính quyền. Và theo ư tôi, trong những tháng qua chính quyền (Sài G̣n) đă xa rời dân. Chúng ta đă thấy cuộc đàn áp các Phật tử thật là không khôn ngoan.”
Hết tin ở ông Lodge, Tổng Thống gửi sang Sài G̣n một phái bộ thanh tra tại chỗ gồm tướng Victor Krulak, thuộc Thủy Quân Lục Chiến, và Joseph Mendenhall thuộc bộ Ngoại Giao do Harriman và Hilsman để cử.
Phúc tŕnh của Krulak dựa vào lời khai của 87 người Mỹ và 22 người Việt trên khắp 4 vùng chiến thuật hoàn toàn có lợi cho ông Diệm. C̣n báo cáo của Mendenhall th́ cũng tốt nhưng không hoàn toàn có lợi. Tác giả Mark Moyar trưng dẫn nhiều nguồn tin khác chứng minh t́nh h́nh an ninh hoàn toàn đúng như phúc tŕnh của Krulak.
Về các Ấp Chiến Lược, th́ tốt ở 3 vùng 1, 2 và 3.
Nhưng tại vùng 4 th́ có một số ấp bị Việt Cộng phá. Những ấp này phần lớn thuộc tỉnh Long An, cạnh thủ đô, được báo chí Mỹ quan tâm nhiều.
Khi Tổng Thống Kennedy gặp tướng Krulak và Mendenhall ngày 10-9-63 để nghe báo cáo, th́ t́nh cờ cũng có mặt Rufus Phillips. Ông này đă đề nghị Tổng Thống nên loại ông Nhu và giữ lại ông Diệm.
Những lời của Mendenhall và Phillips khiến McCone phản ứng kịch liệt, v́ ông có cả một mạng lưới thu thập tin tức t́nh báo đầy đủ hơn họ nhiều. Cuối buổi họp ông khẳng định: “Sĩ quan Việt Nam sẽ làm việc với ông Nhu”.
Về phía đại sứ Lodge, ông cố t́m cách hạn chế quyền hành của ông Nhu và đề nghị đưa ông Thuần lên làm thủ tướng. Nhưng ông Diệm không muốn chịu áp lực của Mỹ. Ông bảo ông “không muốn bị coi như bù nh́n hay tay sai của Mỹ”.
Sau khi gặp Tổng Thống Diệm đại sứ Lodge lại t́m mọi cách lật ông. Thấy trưởng nhiệm sở CIA là Richardson báo cáo thuận lợi cho Diệm, Lodge liền tự tay đánh máy bí mật bản đề nghị triệu hồi ông này về Mỹ. Halberstam dùng ảnh hưởng của ḿnh hỗ trợ cho mưu toan của Lodge.
Trong lúc Kennedy chán ngấy Halberstam đến tận cổ, một nhà báo uy tín mà Kennedy vốn có cảm t́nh là Joseph Alsop đưa ra những nhận xét hoàn toàn tốt đẹp về t́nh h́nh an ninh tại Nam Việt Nam, gián tiếp kết tội các nhà báo Mỹ ở Sài G̣n đă không khách quan, đặc biệt là Halberstam: “… Such optimistic sources are almost never quoted by Halberstam” (Những nguồn tin lạc quan như thế hầu như chẳng bao giờ được Halberstam trưng dẫn).
Kennedy mời chủ báo New York Times ăn trưa và ngỏ ư muốn đưa Halberstam ra khỏi VN. Nhưng Arthur Sulzberger từ chối v́ không muốn bị mang tiếng là chịu áp lực của chính quyền.
Trong chuyến đi thăm Việt Nam, McNamara và Taylor đă cùng với đại sứ Lodge đến thăm TT Diệm. Bộ trưởng Quốc Pḥng Mỹ nêu lên dư luận Mỹ đang bất lợi cho chế độ miền Nam, nếu không có thay đổi, cải tiến…
Nhưng khi về Mỹ hai ông đă báo cáo t́nh h́nh Việt Nam rất tốt đẹp, đến nỗi vào cuối năm có thể rút về 1000 cố vấn. (trang 254)
Tuy nhiên (trước dư luận bất lợi của nhân dân Mỹ do báo giới gây nên) McNamara khuyến cáo, và Taylor cũngmiễn cưỡng nương theo, rằng nên cắt một phần viện trợ để làm áp lực với Diệm, nhưng đừng để hại đến nỗ lực chiến tranh.
Kennedy bèn ra lệnh cắt phần nào viện trợ và chỉ thị cho Lodge tránh khuyến khích đảo chính, nhưng phải tiếp xúc để t́m ra người thay thế lănh đạo.
Trái với điều Kennedy mong muốn, tin Mỹ cắt viện trợ làm mất hẳn uy tín của chính phủ Sài G̣n. Những khó khăn về kinh tế khiến viên chức chính phủ và dân chúng mất ḷng tin ở chính quyền.
Ngày 10-10-63 Lodge để Conein cho các tướng biết Hoa Kỳ không gạt bỏ sự thay đổi chính quyền và “không từ chối viện trợ cho chế độ tương lai nào được dân ủng hộ để thắng Cộng”.
Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, quân chính phủ vẫn thực hiện nhiều cuộc hành quân thắng lợi, mà chính Halbertstam cũng phải công nhận.
Ngày 22 tháng 10, tại một buổi tiếp tân của ṭa đại sứ Anh, đại tướng Harkins đă cảnh cáo tướng Đôn rằng ông không tán thành một cuộc đảo chính. Tướng Đôn làm bộ không biết ǵ về âm mưu đó.
Theo báo cáo của CIA, Tổng Thống biết Lodge đă qua mặt ông, toan tính chuyện đảo chính với các tướng Việt Nam. Ông muốn cất chức Lodge. Nhưng nghĩ Lodge sẽ là đối thủ của ông trong cuộc bầu cử Tổng Thống vào năm tới. Nên lại thôi.
Ngày 27-10-63 Tổng Thống Diệm mời vợ chồng ông Lodge lên Đà Lạt ở biệt thự của Tổng Thống và đề cập vấn đề Hoa Kỳ cắt viện trợ và tố cáo John Mecklin và CIA giúp phe chống chính phủ. Nhân dịp này ông Lodge lại yêu cầu Tổng Thống Diệm cải tổ chính phủ. Tác giả viết:
“Diệm trả lời, nguyên văn tiếng Pháp: “Je ne vais pas servir”, dịch từ chữ sang tiếng Anh là “I am not going to serve”, nghĩa là tôi sẽ không phục vụ.
Lodge báo cáo về DC rằng câu trả lời của Diệm vô nghĩa và phỏng đoán rằng ông Diệm muốn nói một cái ǵ khác. Có lẽ không có ví dụ nào tốt hơn để cho thấy Lodge không đủ khả năng hiểu được t́nh h́nh Việt Nam vào năm 1963, bằng sự việc ông ta không hiểu nổi ư của ông Diệm là ông ta khôngmuốn làm đầy tớ Mỹ.” (tr. 260-261)
Trong khi phe “Diem-Must-Go” mưu toan đảo chính th́ tướng Krulak, một trong những người bênh vực ông Diệm cho phổ biến báo cáo của phái đoàn lập pháp gồm 8 dân biểu do Clement J. Zablocki (DC Wisconsin) lănh đạo.
“Theo Zablocki th́ toàn thể phái đoàn đă đồng ư như sau:
– a. Dù có lỗi ǵ, dù độc đoán và dung túng hối lộ, bạo lực, th́ Diệm vẫn tồn tại và đang thắng.
– b. Không thấy có ai thay thế được Diệm – Ít nhất chẳng có ai bảo đảm được tiến bộ; do đó những hành động của những đại diện Hoa Kỳ nhằm câu kết với những kẻ mưu phản, như đă rơ trong tháng 8, là tai hại.
– C. hái độ của báo giới Hoa Kỳ tại chỗ phản ảnh trầm trọng đến toàn bộ chức nghiệp của họ. Họ hỗn xược, dễ bị xúc động, không khách quan và bị thông tin sai lạc.
Sự chống đối họ được biểu lộ rơ nhất qua việc họ bị xua đuổi bởi nhiều nhà báo Mỹ có tinh thần trách nhiệm.”
Sau khi họp ban tham mưu Tổng Thống Kennedy chỉ thị báo cho Lodge phải tránh đảo chính. Trong số nhiều ư kiến của những kẻ bênh người chống đảo chính, chúng tôi ghi lại đây ư của bộ trưởng Tư Pháp, bào đệ của TT Kennedy:
“Điều chúng ta đang làm thực sự là đặt tất cả tương lai xứ này và Đông Nam Á trong tay một kẻ mà chúng ta không biết rơ. Diệm là một chiến sĩ. Ông ta không phải kẻ giống như (Tổng Thống Cộng Ḥa Dominic Juan) Bosch chỉ muốn bỏ đi. Diệm là một nhân vật cương quyết và tôinghĩ ông ta sẽ quyết chiến… Nếu đảo chính thất bại, tôi nghĩ ông ta sẽ yêu cầu chúng ta cút khỏi miền Nam Việt Nam. Như vậy chúng ta đang đi xuống con đường dẫn tới thảm họa.”
(…)
“Lodge nhận công điện của Bundy sáng 30-10 nhưng măi đến tối hôm đó mới phúc đáp. Vào giờ đó ông ta biện luận rằng không nên cho các tướng lănh biết rằng cuộc đảo chính có thể thất bại. Thực ra Lodge chẳng hề ra lệnh cho Conein chuyển thông điệp tới các kẻ làm phản như Tổng Thống đă chỉ thị ông ta phải làm.”…
“Cũng ngày hôm đó Tướng Harkins gửi tới Hoa Thịnh Đốn 3 công điện, tất cả đều nhanh chóng tới bàn Kennedy. Harkins phản đối việc đại sứ tích cực khuyến khích đảo chính v́ như thế là vi phạm đường lối chính thức của Hoa Kỳ, cũng như việc ông ta đă không cho người cầm đầu phái bộ cố vấn quân sự biết về cuộc mưu phản. Harkins nhận xét, cuộc đảo chính không chắc có thành công hay không. Và tuy có nhiều người không thích Nhu, các tướng vẫn muốn hợp tác với ông Diệm,. Không như Lodge, Harkins biết rơ về khả năng của các tướng. Ông cảnh cáo rằng Nam Việt Nam không có ai có thể thay thế Diệm một cách thích đáng. Ông quả quyết: “Qua các cuộc tiếp xúc ở đây, tôi thấy chẳng có ai có một bản lănh mạnh như Diệm, ít nhất về mặt chống Cộng.”
Ngày 31-10 ông Nhu gọi tướng Đính tới dinh. Tỉnh tưởng Định Tường đă báo cáo, đại tá Có, phụ tá của Đính rủ ông ta làm phản. Đính bảo ông Nhu “để tôi chém đầu tên Có”. Nhưng Nhu không cho, bảo để theo dơi…
Ngày đó, tướng Đôn cũng tới dinh để nhắc ông Diệm về việc cải tổ chính phủ (để xin mấy ghế bộ trưởng cho các tướng). Ông Diệm bảo không cần, v́ nay t́nh h́nh đă khả quan. Đúng ra ông Diệm biết các tướng chỉ hợp cácchức vụ quân sự, không có khả năng chính trị. Tác giả viết:
“Giả như hôm ấy, dù đă rất muộn, ông Diệm thỏa măn yêu cầu của các tướng, họ đă bỏ không đảo chính nữa. Về sau Đôn nói, chính sự từ khước của Diệm đă đưa các tướng đến quyết định dứt khoát là phải làm loạn.” (tr 265)
“Sáng 1-11, ngày ra tay, Lodge cùng với đô đốc Felt đến yết kiến Tổng Thống Diệm. Ông Diệm bảo hai người Mỹ: Tôi biết có một âm mưu đảo chính. Nhưng không biết ai sẽ ra tay.” Lodge nói: “Tôi nghĩ chẳng có ǵ cần lo lắng về chuyện đó”
Ông Diệm nhờ Lodge thưa với TT Kennedy rằng ông ta sẵn sàng xem xét nghiêm chỉnh những đề nghị của Mỹ, và mong sẽ thi hành, nhưng cần có thời gian…
Trong báo cáo, Lodge nh́n nhận câu chuyện đó và đề nghị nên ḥa giải với Diệm. Nhưng ông ta đă gửi báo cáo này với khẩn độ ưu tiên thấp nhất, cho nên nó chỉ tới Hoa Thịnh Đốn nhiều giờ sau khi Bạch Ốc đă bắt đầu nhận những công điện với khẩn độ ưu tiên cao về cuộc đảo chính đă xảy ra ở Sài G̣n.
Sáng hôm ấy, chỉ vài giờ trước khi cuộc nổi loạn khởi sự, những tay làm phản vẫn c̣n chưa tin ở chính ḿnh.
Tướng Khiêm, nước mắt giọt vắn giọt dài, đến gặp tướng Đính và yêu cầu ông này đừng nói với ai về điều ông ta sắp nói đây. Khi Đính hứa không nói, th́ Khiêm bảo muốn hủy bỏ cuộc đảo chính… “không muốn hại ông Cụ”. Đính nghĩ ḿnh bị Khiêm thử thách, nên nói hăy cứ tiến hành đi… Thực ra nhóm chủ trương có ư ngờ vực Đính thật, v́ họ chưa cho Đính biết về các chi tiết cuộc đảo chính, cũng không mời Đính tới bản doanh chỉ huy.
Tác giả viết: “Vào thời điểm này, kẻ cơ hội chủ nghĩa Đính rất có thể dụng tâm tránh một sự dấn thân dứt khoát với cả hai bên, cho đến khi có một bên tỏ ra mạnh thế hơn… Sau nàyKhiêm bảo Đính rằng ông ta đă bôi dầu thuốc của Tầu vào mắt để làm như khóc thật, rồi đến gặp Đính để thử ḷng.
Tuy nhiên lời nói của Khiêm có thể chỉ là muốn cố đánh tan mối nghi ngờ về sự trung thành của ḿnh.” (tr 266)
Chỉ một thời gian vắn trước khi đảo chính nổ ra ở Sài G̣n, đại tá Có đă áp đảo được sư đoàn 7.
Ở Sài G̣n tư lệnh Hải Quân bị tay em giết. Các tướng cầm đầu đảo chính triệu tập các tướng lănh và đại tá không biết ǵ về âm mưu đảo chính đến họp ở bộ Tổng Tham Mưu, bắt giữ những người họ nghi trung thành với ông Diệm trong đó có Đại Tá Cao Văn Viên.
Lực Lượng Đặc Biệt, lúc ấy đă bị đặt dưới quyền Bộ Tổng Tham Mưu, nên hầu hết đă bị các tướng đảo chính thuyên chuyển khỏi Sài G̣n. C̣n lại một số ít, theo tác giả, bị đại tá Lê Quang Tung ra lệnh đầu hàng, v́ ông bị người của nhóm đảo chính dí súng vào đầu bắt ra lệnh.
Lúc 4:30, Tổng Thống Diệm từ dinh Gia Long điện thoại cho Lodge.
Tác giả viết:
“Báo cáo chính thức trong hồ sơ của ông này (Lodge) ghi lại cuộc đối thoại như sau:
“Diệm: Một số đơn vị đă làm loạn. Tôi muốn biết thái độ của quư quốc..
“Lodge: Tôi không có đủ tin tức để cho ông biết. Tôi có nghe súng bắn. Nhưng không rơ tất cả sự việc. Vả lại, giờ này ở Hoa Thịnh Đốn là 4:30 sáng và chính phủ Mỹ không thể đưa ra một quan điểm.
“Diệm: Nhưng ông chắc phải có một vài ư kiến tổng quát chứ. Dầu sao, tôi cũng là quốc trưởng. Tôi đă cố làm nhiệm vụ của tôi. Bây giờ tôi muốn làm điều ǵ bổn phận và lương tri đ̣i hỏi. Tôi tin ở nhiệm vụ trên hết.
“Lodge: Chắc chắn ông đă làm tṛn nhiệm vụ. Như tôi đă thưa với ông sáng nay, tôi ca ngợi sự dũng cảm của ông và những đóng góp của ông cho xứ sở ông. Không ai cóthể lấy đi công lao về những ǵ ông đă làm, Giờ đây tôi lo cho sự an toàn của ông. Tôi được báo cáo là những người đảm trách những hoạt động đang diễn ra sẽ dành cho ông và em ông được sự dễ dăi ra đi khỏi nước, nếu ông từ chức. Ông đă nghe điều đó chưa?
“Diệm: Chưa. (Ngưng giây lát, rồi) Ông có số điện thoại của tôi.
“Lodge: Đúng. Nếu tôi có thể làm ǵ cho sự an toàn của ông, xin hăy gọi cho tôi.
“Diệm: Tôi đang cố tái lập trật tự.
“Những người chứng kiến cuộc điện đàm này nhớ là nội dung cuộc đối thoại có khác. Họ làm chứng rằng Lodge thúc giục Diệm phải ngưng chống lại cuộc đảo chính và trốn khỏi nước, và để việc ra đi được dễ dàng Lodge đă bảo sẽ cho đưa Diệm sang Phi Luật Tân bằng chiếc máy bay phản lực mới được đưa tới để đại sứ xử dụng.
“Frederick Flott, là người đứng cạnh Lodge khi ông này nói, nhớ lại rằng đại sứ Mỹ đă bảo Diệm: “Ngài là một vĩ nhân. Ngài đă làm cho nước Ngài những điều vĩ đại. Tôi nghĩ, điều khôn ngoan cho Ngài là hăy rời khỏi nước và đừng chiến đấu thêm nữa. Tôi sẵn sàng đưa xe tôi cho Ngài dùng và một trong số những sĩ quan của tôi mà Ngài biết sẽ đến gặp Ngài. Chúng tôi sẽ kêu gọi lư trí của đôi bên để họ để Ngài được đưa tới phi Trường. Vừa đúng lúc t́nh cờ tôi có cái máy bay này tại đây.” Flott đáng lẽ sẽ đón Diệm bằng chiếc Limousine có treo cờ Mỹ để đưa Diệm tới phi trường, tại đó ông ấy sẽ lên phi cơ của Lodge. Theo Flott, Diệm trả lời Lodge: “Không, không, ông đại sứ đang hoảng hốt rồi. Ông đă phóng đại sự nguy hiểm.” Flott nhận xét: Ông Diệm thậm chí không màng cám ơn Lodge về đề nghị đó…
“Một cận vệ của Diệm cho biết Tổng Thống la lớn:
“Ngài đại sứ có biết Ngài đang nói với ai không? Tôi xin Ngài biết cho rằng Ngài đang nói với Tổng Thống của một nước độc lập có chủ quyền. Tôi sẽ chỉ rời nước, nếu đó là ư muốn của nhân dân tôi. Tôi sẽ không ra đi theo lời yêu cầu của các tướng làm loạn hay của ông đại sứ Mỹ. Chính phủ Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước thế giới về vấn đề khốn nạn này.”
Sau khi không được các tướng c̣n trung thành tiếp cứu, hai ông Diệm, Nhu rời dinh Gia Long vào Chợ Lớn lúc 8 giờ tối. Và một giờ sau pháo binh và thiết giáp tấn công vào dinh Gia Long. Cầm đầu cuộc tấn công là Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
“Sau này ông Thiệu cho biết, ông chỉ bằng ḷng theo đảo chính, sau khi các tướng chủ mưu đă thuyết phục ông rằng Hoa Kỳ và các nước khác ủng hộ đảo chính và hai ông Diệm Nhu sẽ không bị giết.” (tr.271)
Lúc 6:45 sáng hôm sau, TT Diệm ra lệnh cho Lữ Đoàn Pḥng Vệ buông súng. Rồi hai anh em ông đi tới một nhà thờ gần đó. Tại đây ông Diệm gọi cho Lodge. Lodge không hề cho Hoa Thịnh Đốn biết về cuộc điện đàm này. Nhưng có hai nguồn tin khác nhau xác nhận là có. Mike Dunn, một phụ tá của Lodge có mặt tại chỗ thuật lại: Đại Sứ bảo ông Diệm ông ta sẽ cho ông Diệm tỵ nạn và làm tất cả những ǵ có thể. Nhưng sẽ không thu xếp được phương tiện di chuyển cho vị Tổng Thống vừa bị hạ, trái với những ǵ ông ta hứa ngày hôm trước là sẽ cho Diệm phương tiện để đi Phi Luật Tân. Dunn bảo Lodge anh ta sẵn sàng đi đón hai anh em ông Diệm và bảo vệ họ, không để các kẻ phản loạn làm hại. Nhưng Lodge cấm chỉ.
Dunn nhớ lại: “Thật là ngạc nhiên là chúng ta đă không làm thêm ǵ để giúp họ!” (tr 272)
Khi ông Diệm gọi cho các tướng lănh đảo chính th́ “Đôn hứa sẽ để hai ông ra phi trường, từ đó có thể ra ngoại quốc. Các tướng sẵn sàng một xe thiết giáp và hai xe jeep để đón hai ông ở nhà thờ (nhà thờ Cha Tam, MV).
Sau khi bàn với chỉ vài cộng sự, Tướng Minh tự quyết định số phận cuối cùng của Diệm, Nhu. 7:30, khi đoàn đặc nhiệm sắp lên đường, Minh làm ám hiệu bằng tay, đă xếp đặt trước, rằng hăy giết cả hai anh em nhà Ngô.” (tr 272)
Theo tác giả th́ các tướng cũng như Lodge đều muốn Diệm phải chết, v́ nếu để ông sống ông sẽ có thể trở lại cầm quyền, hay làm khó dễ cho chính phủ hậu đảo chính.
H́nh 15: Nhân viên CIA Conein (đằng sau) và 5 tướng phản loạn Kim, Đính, Đôn, Vỹ và Xuân (từ trái qua).
Kết thúc chương sách, tác giả viết
“Tuy rằng Tổng Thống Việt Nam bị lật và bị giết bởi một số người Việt nào đó, nhưng trách nhiệm chính đổ lên đầu ông Lodge, và Tổng Thống của chúng ta là người đă bổ nhiệm Lodge và không chịu cách chức ông ta. Trách nhiệm cũng thuộc về một số cá nhân từng cung cấp tin tức và cố vấn về t́nh h́nh chính trị. Tôi muốn nói mấy viên chức thuộc bộ Ngoại Giao ở Sài G̣n và ở Hoa Thịnh Đốn và vài tay nhà báo thường trú ở Sài G̣n.”
Căn cứ vào những ǵ tác giả đă viết ở những trang trước, ta có thể thấy rơ danh tánh của những người đó:
George Ball, Averell Harriman, Roger Hilsman, Michael Forrestal, Malcolm Browne, Neil Sheehan và David Halberstam.
Trở lên chúng tôi đă tóm tắt lời tựa và 11 chương trong số 17 chương cuốn Chiến Thắng Bỏ Lỡ. Sáu chương c̣n lại nói về t́nh h́nh rối ren đến hỗn loạn sau khi mọi cơ sở pháp lư của Cộng Ḥa Việt Nam tan tành do cái chết của vị tổng thống đầu tiên đem lại. Nhất là v́ t́nh h́nh an ninh suy sụp do chính quyền mới hủy bỏ chương tŕnh Ấp Chiến Lược. Trước nguy cơ miền Nam bị Cộng quân thôn tính, Mỹ đă phải đem quân vào mà không có một hiệp ước song phương, cũng không do một lời yêu cầu chính thức từ phía Việt Nam. Điều này khiến đối phương có cớ tuyên truyền rằng Miền Nam đă mất chính nghĩa. Nhưng xem ra tác giả không quan tâm đến chuyện cuộc chiến mất chính nghĩa cho bằng việc Tổng Thống Lyndon B. Johnson do dự không dám dùng binh lực để quyết chiến với Bắc Việt.
Vừa phần v́ ông sợ Bắc Kinh can thiệp khiến chiến tranh thế giới bùng nổ. Vừa phần v́ ông sợ dư luận trong nước đang bị phe Bồ Câu chi phối (chương 16, The Prize Of Victory).
Chúng tôi xin dành để độc giả t́m đọc ở nguyên tác, hay một bản dịch đầy đủ trong tương lai.
Sau đây xin có một vài nhận xét về những chương đă lược tóm ở trên.
Trước hết phải nói tác giả đă để nhiều công phu tham khảo không biết bao nhiêu tài liệu ḥng đưa ra những nhận định phần lớn khác hẳn lối phê phán “chính thống” của đa số sử gia và học giả Mỹ từ trước tới nay.
Tuy nhiên cũng phải nói ngay rằng, nếu đă đọc các tác phẩm của Tổng Thống Richard Nixon (No More Vietnams), của Thống Tướng Maxwell Taylor (Swords and Plowshares), hay của học giả và sử gia Tiến sĩ Ellen Hammer (A Death In November), của giáo sư Francis X. Winters (The Year Of The Hare) và kư giả Marguerite Higgins (Our Vietnam Nightmare)… th́ ai cũng thấy, nói chung, những nhận định của tác giả Mark Moyar về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Ḥa không khác các vị này bao nhiêu.
Ngoài ra cũng phải nói rằng tác giả đă ít quan tâm đến các tác giả Việt Nam đă viết về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hay về nền đệ nhất Cộng Ḥa như Giáo Sư Tiến Sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành và phu nhân là Thân Thị Nhân Đức, Giáo sư Phạm Kim Vinh, bút hiệu Trương Tử Pḥng, Luật sư cựu nghị sĩ Nguyễn Văn Chức, Giáo Sư Tiến Sĩ sử học Phạm Văn Lưu, Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn, Giáo sư Tiến Sĩ Cao Thế Dung, nhà báo Vĩnh Phúc, hay của những chứng nhân quan trọng như cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, cựu Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái Huỳnh Văn Lang, cựu Trung Tá Nguyễn Văn Châu, nguyên Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lư thời Đệ Nhất Cộng Ḥa v.v… Có lẽ v́ phần nhiều tác phẩm của những vị này đều viết bằng tiếng Việt, trừ mấy tác phẩm của hai Giáo Sư Hoàng Ngọc Thành và Phạm Kim Vinh đă được chính tác giả dịch ra tiếng Anh.
Trong số những tác phẩm của những tướng đảo chính viết bằng tiếng Anh, có cuốn Our Endless War của Trần Văn Đôn, cũng cung cấp nhiều tài liệu chứng tỏ ông Cabot Lodge cùng với Conein chủ trương đảo chính. Bằng chứng là số tiền 3 triệu đồng bạc Việt Nam (tương đương với 42,000 Mỹ Kim lúc ấy). Hay cuốn Twenty Years Twenty Days của Nguyễn Cao Kỳ cũng cung cấp bằng chứng rơ ràng nhất là Thượng Tọa Thích Trí Quang cầm đầu nhóm tranh đấu Phật Giáo quá khích không phải v́ lư do tôn giáo, mà chỉ v́ mục đích chính trị. Ông muốn làm quốc trưởng, làm vua. Chúng tôi đă trưng dẫn lời ông Kỳ thuật lại chuyện Thích Trí Quang đề nghị với Cabot Lodge lậttướng Kỳ, để rồi sau đó, Thích Trí Quang sẽ đặt lại ông Kỳ vào chức thủ tướng. (Xin xem lại Phần I, chú thích số 65)
V́ tác giả là một học giả, giáo sư sử, nên ông đă cố t́m thật nhiều bằng chứng có tính khoa bảng để thách đố các nhà khoa bảng từng có quan điểm khác ông, nên sách của ông chi chít những trích dẫn từ nhiều tác phẩm, nhiều tài liệu trong các văn khố của các chính phủ, các phủ, bộ v.v… Chứ không giống như những tác phẩm của Nixon, hay Taylor, Marguerite Higgins…
Hơn nữa nội dung tác phẩm Triumph Forsaken quá rộng lớn v́ nó bao gồm toàn bộ chiến tranh Việt Nam, chứ không phải chỉ về cuộc đảo chính 1-11-63, hay về nền đệ nhất Cộng Hoà, hay chỉ về Tổng Thống Diệm. Cho nên có nhiều chi tiết về cuộc đảo chính 1-11-63, tác giả cũng không thể thuật lại đầy đủ chi tiết. Thậm chí có một vài chi tiết, không biết ông dựa vào tài liệu nào, không đúng.
Ví dụ ông bảo chiều ngày 1-11 hai anh em ông Nhu ra khỏi dinh Gia Long bằng đường hầm. Thực ra hai ông ra khỏi hầm (một thứ basement), chứ không qua đường hầm (tunnel) nào. V́ trong dinh Gia Long vốn chẳng có đường hầm nào cả. Chỗ khác ông bảo Đại Tá Lê Quang Tung bị nhóm đảo chính gí súng vào đầu bắt ông ra lệnh quân lực lượng đặc biệt đầu hàng nhóm đảo chính. Những người có mặt tại bộ Tổng Tham Mưu hôm đó cho biết khi ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính liền bị đưa ra ngoài giết chết.
Theo thiển ư, ngoài một vài chi tiết không được chính xác, tác phẩm của Mark Moyar là một công tŕnh biên khảo công phu, giá trị mà các nhà khoa bảng, hay học giả vốn lên án việc các nhà lănh đạo Hoa Kỳ ủng hộ Miền Nam Việt Nam chống Hồ Chí Minh phải xét lại quan điểm của ḿnh và, nếu xứng đáng là một học giả chân chính, một nhà báo lương thiện, th́ cũng nên có lời xin lỗi, hay cải chính.
Có lẽ người mà tác giả chê trách nhiều nhất trong tác phẩm này là nhà báo, trở thành sử gia David Halberstam.
Ông này đă từng ca tụng Hồ Chí Minh: “là một khuôn mặt phi thường của thời đại – một phần là Gandhi, một phần là Lê-nin, tất cả là Việt Nam. Có lẽ, hơn bất cứ nhân vật nào trong thế kỷ, ông Hồ là hiện thân cuộc cách mạng của dân tộc ông đối với dân tộc ông và cả đối với thế giới.” (Hồ, Random House, NY, 1971, trang 12).
Cũng Halberstam đă viết: “Tito, Stalin, Khrutshchev, Mao… hết thảy đều có tật sùng bái cá nhân. Nhưng Hồ th́ không…” (SĐD trang 20)
Nếu là sử gia có lương tâm, nhà báo lương thiện, th́ Halberstam khi biết chính Hồ Chí Minh đă mượn bút danh Trần Dân Tiên để tự đề cao ca ngợi ḿnh, biến ḿnh thành thần tượng, tự tôn ḿnh lên thành cha già dân tộc, ắt đă phải lên tiếng hối hận mới phải. Có lẽ v́ thế mà ông ta đă bị tác giả vạch mặt và quy trách trong việc Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị hạ và bị giết.
Ngoài ông Cabot Lodge là vai chính không kể, người thứ hai bị quy trách là Averell Harriman, người đă thù ông Diệm, quyết bằng những mánh lới bất lương qua mặt thượng cấp để cố bằng mọi cách hạ uy tín và lật ông Diệm. Có người đă nghi Harriman là Cs hay bị cộng sản mua chuộc trong vụ trung lập hóa Ai Lao và có thể cả trong đàm phán với CS tại ḥa đàm Ba Lê đi đến một hiệp định Ba Lê rất bất lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa, mặc dầu ông không cầm đầu phái đoàn Mỹ.
Những lời lẽ xác quyết không dè dặt của tác giả về những người phải chịu trách nhiệm trong cái chết của ông Diệm, trong đó tác giả ghi cả chính Tổng Thống Kennedy chắc sẽ gây phản ứng mạnh từ phía các học giả thuộc trường phái “chính thống”. Nhưng có thay đổi được nếpsuy nghĩ của giới học giả Mỹ, chắc cũng c̣n phải có thời gian.
Về mục đích chính của tác phẩm là chứng minh rằng đáng lẽ Hoa Kỳ đă thắng, nghĩa là, nếu không dẹp tan được nạn CS tại Việt Nam, th́ cũng bảo vệ được Miền Nam khỏi rơi vào tay CS, phải đợi đến khi nào tập 2 xuất bản.
Ở tập một này, có hai điều ông đă cố chứng minh.
Trước hết là trận Điện Biên Phủ. Nếu Hoa Kỳ giúp chính quyền Bảo Đại và đồng minh Pháp th́ đă có thể thắng.
Thứ hai là nếu chính quyền Kennedy không khuyến khích, tài trợ để một số tướng lănh giết ông Diệm, th́ miền Nam đă đứng vững và sẽ chiến thắng.
Có lẽ tác giả muốn tránh không để các học giả và sử gia Mỹ chê ông chỉ là “lư thuyết gia ư thức hệ” (tạm dịch từ ideologues của tác giả), chứ không phải sử gia, nên ông đă không (hay chưa?) minh thị nêu lên thực tại của một trận chiến ư thức hệ do Cộng Sản thế giới khởi xướng đe dọa toàn thể nhân loại, mà chỉ đặt trọng tâm vào những sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc chiến Việt Nam mà thôi.
Nhưng theo thiển kiến, v́ cuộc chiến Việt Nam nằm trong bối cảnh chiến tranh ư thức hệ toàn cầu giữa CS và thế giới tự do, cho nên sử gia nào muốn thấu đáo về cuộc chiến Việt Nam, không thể nào không am tường về lư thuyết ư thức hệ. Nghĩa là phải vừa là sử gia, vừa là lư thuyết gia ư thức hệ.
1 Joseph Lawton Collins, Lightning Joe: An autobiogaphy (Baton Rouge: Lousiana State University, 1979), tr. 379.
2 Thư gửi ngoại trưởng Dulles ngày 20-1-1955, DDRS, 1978, 295A.
3 Không biết nhà báo Joseph Buttinger có phải là một người trong số “vài người Mỹ” này không. Nhưng chính ông ta cho biết “Mùa hè năm 1961 một số nhà dân chủ đă liên lạc với tôi ở cả Paris lẫn New York và đề nghị đưa ra lời kêu gọi nhân dân Việt Nam. Dựa vào đó tôi viết tài liệu sau đây, được in ở Paris. Họ đă kư lời kêu gọi, bằng Pháp văn và Việt văn này…”
Nhân đây tưởng cũng nên phổ biến để độc giả biết “những nhà dân chủ” nào đó đă kêu gọi dân Việt qua văn phong của một ngoại nhân như thế nào. Đây là “tác phẩm cách mạng” của Joseph Buttinger được Minh Vơ chuyển ngữ. Xin nhắc lại, tác phẩm của một Buttinger sau khi đă lột xác từ người ca tụng và ủng hộ thành kẻ lên án và chống đối Ngô Đ́nh Diệm.
Sau đây là bản dịch (của MV) lời kêu gọi do Buttinger viết giúp các lănh tụ “dân chủ” từng liên lạc với ông để t́m cách lật ông Diệm:
“Gửi nhân dân Việt Nam đang bị sống trong nô lệ và áp bức!
“Gửi những bậc nam nhi và thục nữ trên thế giới đang sống trong tự do!
“Bảy năm sau hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, nhưng chia đôi nước chúng tôi thành hai nửa què quặt, nhân dân VN đă không đạt được độc lập cũng chẳng có tự do sau một cuộc chiến anh dũng lâu dài. Ngày nay chẳng những chúng tôi là nạn nhân của hai nền độc tài, tuy nhằm hai mục tiêu đối chọi nhau nhưng cùng quyết liệt như nhau trong việc cai trị bằng bạo lực; nhân dân VN ngày nay c̣n phải chịu đựng một cuộc chiến tranh khốc liệt tàn ác, với chết chóc, hoang tàn.
“Miền Nam mà bảy năm trước hấu hết người dân Việt đặt hết hy vọng vào tự do công b́nh xă hội, đă trở thành một vùng đất hoang về chính trị dưới sự cai trị độc tài của Ngô Đ́nh Diệm khiến tự do đă bị trục xuất bằng gian lận và bạo lực.
“Trong thế giới tự do, nơi Diệm tiếp tục kêu gọi sự giúp đỡ, chính quyền của ông ta, mặc dầu đă mất uy tín, hăy c̣n có thể gợi được sự thương cảm và ủng hộ qua lừa mị chính trị vô liêm sỉ. Tại quốc nội, nơi mà sự lừa phỉnh hết công hiệu, chế độ của ông ta chỉ hoàn toàn dựa vào một nhóm nhỏ những tay sai dễ bảo và dựa vào bạo lực chống những nhóm khác. Để được ngoại quốc ủng hộ, Diệm ca ngợi những lư tưởng của Thế Giới Tự Do. Nhưng báo chí bị khóa mơm, bầu cử gian lận, quốc hội gật và những trại tập trung giam giữ đối lập là một sự chế riễu dành cho dân chủ và nhân quyền.
“Phương pháp cai trị của Diệm chẳng giúp ǵ cho sự bảo vệ miền Nam. Trái lại. V́ nhân dân từ lâu đă quá mệt mỏi với luận điệu của Diệm rằng đất nước chỉ được sống tự do nếu nhân dân bị tước quyền tự do, va v́ chính Diệm thiếu mọi đức tính của một lănh tụ được ḷng dân, và của một nhà tổ chức lớn, nên sự cai trị bằng bạo lực của ông ta không hề mảy may tạo được đoàn kết quốc gia hay sức mạnh quân sự mà c̣n làm hỏng cả hai. Những công dân ngay thẳng đặt sự phục vụ nhân dân trên sự phụng sự bè lũ cầm quyền đă bị loại trừ một cách có hệ thống và bị vu cáo. Chính quyền v́ thế trở thành bộ máy thư lại giết chết mọi sáng kiến, trở thành vô hiệu, lăng phí đưa đến nạn tham nhũng.
“Điều đúng với chính quyền th́ đáng buồn lại cũng đúng với quân đội. Sáng kiến bị coi là bất tuân, thăng chức phải tùy thuộc vào sự tùng phục hoàn toàn sự phán xét và ư muốn của tổng thống, chứ không phải tùy vào tài tổ chức hay chiến công. Những sĩ quan ưu tú chậm khen tổng thống nơi công cộng hoặc quá nổi tiếng trong đơn vị không bao giờ có cơ may nắm một vai tṛ quan trọng trong chiến tranh. Hơn nữa, tính cách cá nhân của chính quyền làm cho cuộc chiến do quân đội chỉ huy mất hẳn ư nghĩa quốc gia. Trong khi đó, sự oán ghét của nhân dân dành cho chế độ, khiến cho quân đội không được dân chúng ủng hộ là điều không có không thể được đối với một cuộc phản du kích chiến có hiệu quả.
“V́ những hy vọng vắn vỏi đối với một miền Nam tự do hùng mạnh đă bị chế độ Diệm phá hủy, nhân dân Việt Nam bây giờ đang phải trải qua một giai đoạn đẫm máu và bi thảm trong cuộc chiến dành độc lập và tự do….”
Lời bàn của người viết về thái độ của Buttinger:
Thoạt kỳ thủy Buttinger đến Việt Nam, chỉ với mục đích chứng kiến sự thất bại của ông Diệm mà ông đánh giá là kẻ yếu kém chẳng có thể làm nên tṛ trống ǵ. Đến là để nh́n tận mắt sự thất bại. Nhưng khi thấy tận mắt những thắng lợi không ngờ của ông Diệm, th́ nói toáng lên là phép lạ. Rồi đâm ra kính phục và triệt để ủng hộ. Nhưng vài năm sau, thấy ông Diệm không chịu mở rộng chính phủ cho một vài lănh tụ đảng phái mà ông ta quen biết th́ ông ta lại phê b́nh chê ông Diệm độc tài. Nhất là v́ ông Diệm “cố chấp” không nghe lời Buttinger yêu cầu để cho các ông Phan Quang Đán, Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) một ghế bộ trưởng. Cho nên từ 1961 Buttinger quay ra giúp các phe phái chống ông Diệm, viết tuyên ngôn, lời kêu gọi chống Sài G̣n. Sau khi ông Diệm chết rồi ông lại viết sách thanh minh thanh nga về chuyện ông ủng hộ ông Diệm trong những năm đầu. Đến khi miền Nam mất vào tay Cộng Sản rồi th́ Buttinger lại quay ra ca tụng Hồ Chí Minh, lên án tất cả các người Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt ông c̣n chê trách các nhà lănh đạo Mỹ đă “ngu dốt” không ủng hộ ông Hồ. Buttinger cho rằng nếu đừng xua đuổi ông Hồ th́ ông ta đă có thể là một thứ Ti-tô hơn cả Ti-tô! (Vietnam, The Unforgettable Tragedy, Horizon Press, NY, 1977, trang 26: “Better Titoist than Tito himself”)
Nh́n vào thái độ xoay như chong chóng đó đủ thấy lập trường chao đảo và tư cách lố lăng của một nhà báo và sử gia “nổi tiếng” trong trường phái tự xưng là “chính thống” của Mỹ.
4 Nhà văn Xuân Vũ trong bộ hồi kư Đường Đi Không Đến, tập Đồng Bằng Gai Góc, trang 89 đă thuật lại lời của một đại đội phó Việt Cộng tên B́nh, họ Lê tham dự trận Ấp Bắc kể lại cho tác giả như sau: Tiểu đoàn em chết gần hết. Ban chỉ huy tiểu đoàn không c̣n ai. Các ban chỉ huy đại đội hi sinh hoàn toàn. Em lúc đó là tiểu đội phó được cho làm đại đội phó. Nhưng đại đội em chỉ được 2 tiểu đội. Cả tiểu đoàn quân số 200, c̣n lại độ năm chục…”
5 Tuần san Thời Đại (TIME) ngày 14-1-1966 viết: “Maggie wears mud like other women wear makeup” (tạm dịch: Maguerite trang điểm bằng bùn thay v́ son phấn như các phụ nữ khác). Cô mất chỉ sau TT Diệm chưa đầy ba năm. Sau một chuyến công tác săn tin ở Việt Nam về nước cô bị bệnh nặng ngay khi c̣n trên máy bay, và qua đời sau đó 3 tháng.
Trong khi bệnh nặng cô vẫn viết mỗi tuần 3 bài xă luận.
Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc: Phần IV (Minh Vơ)
Một lá thư dài của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
ngodinhdiem12
Đây là thư riêng của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm đề ngày 29-5-1956, trả lời thư của kư giả Joseph Buttinger viết cho ông trước đó 9 tháng. Trong cuốn Vietnam, The Unforgettable Tragedy xuất bản năm 1977 Buttinger đă phổ biến cả hai lá thư này để thanh minh với bạn bè trong báo giới về liên hệ phức tạp giữa ông và ông Diệm. Đồng thời cũng chứng tỏ ông đă từng vận động với ông Diệm để các lănh tụ đối lập có chỗ trong chính phủ lúc ấy như thế nào.
Chúng tôi chỉ dịch đăng bức thư phúc đáp của Thủ Tướng Diệm, để nói lên sự liên hệ thân t́nh của ông đối với một kư giả Mỹ, đồng thời cũng cho thấy nhận xét và thái độ của thủ tướng đối với vài nhân vật đảng phái lúc ấy, tại sao ông không trọng dụng họ theo đề nghị của Buttinger.
Trong phần tiểu sử Tổng Thống Diệm, chúng tôi đă trưng dẫn lời kư giả Buttinger hết lời ca tụng thủ tướng Diệm, coi việc ông làm như một phép lạ chính trị. Cho đến măi năm 1957, ông c̣n được Tổng Thống Diệm tin dùng để cho ông làm thông dịch viên chính thức trong các cuộc diễn thuyết hay họp báo tại Hoa Kỳ, nhân chuyến viếng thăm chính thức của Tổng Thống Diệm
Nhưng sau khi ông Diệm bị lật và bị giết, nhất là sau khi Hồ Chí Minh đă toàn thắng và chiếm trọn miền Nam, th́ lập trường của Buttinger thay đổi 180 độ. Ông quay ra mạt sát Tổng Thống Diệm và hết lời ca tụng Hồ Chí Minh, và nặng lời chê trách các nhà lănh đạo Mỹ. Bạn đọc của Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp của Minh Vơ, chương 19 hẳn đă biết.
Joseph Buttinger (1906-1992), người Đức gốc Áo, từng là chủ tịch ban chấp hành đảng Dân Xă Áo Quốc khi mới 28 tuổi. Năm 33 tuổi ông sang Mỹ. Và 4 năm sau thành công dân Mỹ. Ông viết nhiều tác phẩm về Việt Nam trong đó có: Con Rồng Nhỏ, lịch sử chính trị Việt Nam, 1958; Dân thiểu số ở Việt Nam, 1961; Con Rồng nghênh chiến, lịch sử chính trị Việt Nam, 1967; Con Rồng Thách Đấu, lịch sử Việt Nam, 1972 và Việt Nam: Thảm Kịch không thể nào quên, 1977. Đọc Con Rồng Nghênh Chiến gần 1300 trang th́ thấy rơ tác giả có xu hướng xă hội tả phái rơ rệt.
Sau đây là thư phúc đáp của Thủ Tướng Diệm:
(bản dịch của MV từ bản dịch Anh văn của J. Buttinger từ nguyên bản bằng Pháp văn)
Sài G̣n ngày 29 tháng 5 năm 1956
Ông Buttinger thân mến,
Gần đây, nhân khi sửa chữa văn pḥng, nhân viên của tôi đă t́m thấy lá thư tôi trả lời thư tháng 8 năm ngoái của ông…, kẹt giữa 2 ngăn kéo… Xin ông thứ lỗi cho sự chậm trễ vô t́nh này khiến ông đă phải lo phiền trong một thời gian quá lâu cho Việt Nam mà ông đă tỏ t́nh thân hữu rất tích cực..
Nhưng sự bất tiện, phiền hà này lại có lợi cho tôi. V́ nó cho tôi dịp đọc lại một lần nữa với sự xúc động sâu xa thư của ông, một lá thư chứa chan mối thương cảm đối với đất nước tôi và cả sự quan tâm lo lắng nữa. Đó là điều rất đáng trân trọng.
Nó cũng đặc biệt trong sáng và biểu lộ sự sáng suốt của tác giả. V́ một năm trước, ông đă tiên liệu là cộng sản sẽ hành động vận dụng danh từ “tổng tuyển cử” mà thế giới tự do rất nhậy cảm, để t́m cách thôn tính miền Nam VN. Chắc ông biết rằng chúng tôi đă theo lời khuyên của ông để tổ chức các cuộc bầu cử tự do ở miền Nam, bất chấp những cố gắng phá hoại của Việt Cộng và sự e sợ vụ lợi của các đảng phái gọi là yêu nước.
Một số vấn đề ông nêu lên trong thư đă được giải quyết đúng cách. Mặc dầu thời gian đă trả lời cho nhiều câu hỏi khiến ông bận tâm lúc ấy, tôi vẫn c̣n muốn cùng ông trao đổi về đề tài này, v́ tôi nghĩ ông khó có thể đi sâu vào trọng tâm của người và việc của xứ sở này như tôi. Tuy nhiên tôi không mong muốn ông phải có kinh nghiệm đó.
Gần trăm năm đô hộ của thực dân và mười năm chiến tranh khốc liệt đă để lại hậu quả sâu đậm đối với Việt Nam, về thể chất đă đành, nhưng trên hết là về mặt tâm hồn. Thế hệ của những kẻ cấu thành giới thượng lưu để lănh đạo xứ sở này, tất cả đều được đào tạo tại các trường của Pháp. Vào thời gian họ theo học ở đó, có một cái mốt thời thượng, hoài nghi những điều nghiêm chỉnh, ảnh hưởng cả đến thái độ thờ ơ và thế tục.
Nước Pháp đă trả giá và hăy c̣n đang trả giá đắt cho sự sa sút tinh thần và trí tuệ trong khoảng thời gian 1930 đến 1940. Nhưng phản ứng của sự sa sút về văn hóa này là những thanh niên Việt khác tự lao đầu vào chủ nghĩa Phát-xít hay chủ nghĩa Cộng Sản. Chính do nhóm sau này mà các đảng CS ở Đông Dương ra đời. Trong khi đó lần lượt theo thứ tự thời gian các nhóm Việt Quốc, Cao Đài, Đại Việt, Ḥa Hảo cũng thành h́nh. Trái với CS được đào tạo một cách nghiêm chỉnh, các đảng quốc gia Việt và các nhóm Phát-xít vắng bóng giới trí thức không thích dính líu, v́ vậy chẳng đóng vai tṛ ǵ quan trọng cho Việt Minh hay tổ chức nào khác, những đảng quốc gia của chúng tôi rất kém cỏi về mặt chủ thuyết cũng như về tổ chức.
V́ vậy mà họ dễ bị Việt Minh loại trừ và thực dân chế ngự. Không thực tiễn và thiếu tinh thần, họ nghĩ chỉ cần tự xưng là chống cộng cũng đủ để thắng cộng, và họ c̣n nghĩ tất cả những ǵ cần làm là tự xưng cách mạng để được phép làm mọi sự dưới ánh sáng mặt trời. Trong chương tŕnh hành động của những đảng phái này, không thấy có một chữ chống phong kiến hay chống nạn bè phái.
Ngoài ra, mặc dù những tuyên bố của họ, không có lấy một đảng nào thực sự tin tưởng là có thể chống lại CS. Tôi chỉ đă nhận ra điều đó sau sáu tháng cầm quyền. Khi tôi ở sân bay Orly để lấy máy bay về nước với tư cách thủ tướng chính phủ Sài G̣n, ông Hoàng Xuân Hăn đă bảo tôi, ông ta sẽ sẵn sàng để tôi dùng nếu tôi sẵn ḷng thương thuyết với Việt Minh. Đàng khác ông Nguyễn Mạnh Hà lại đang cố gắng thực hiện kế hoạch sống chung (với CS). C̣n ông Hồ Hữu Tường, một người từng theo phe Tờ-rốt-kít (đệ Tứ) th́ đă thiếu lương thiện hơn những kẻ khác, khi giấu không cho ông (Buttinger, MV) biết cái chương tŕnh “Trung Lập Chế “ (Neutralism), mà ông ta có ư dùng làm b́nh phong che giấu chủ nghĩa sống chung cùng tồn tại với Việt Minh, nhưng là cam chịu sự chỉ dẫn của Việt Minh. Qua trung gian một người em là điệp viên CS, Tường đă bắt liên lạc với ông Phạm Công Tắc, ḥng đưa Cao Đài vào bẫy Việt Minh. Một trung tá Cao Đài từng là chính trị viên và cận thần của Phạm Công Tắc đă tiết lộ rằng tất cả những mánh lới đó đă khởi sự ngay từ tháng 7 năm 1954, sau cuộc gặp gỡ giữa Phạm Công Tắc và Phạm Văn Đồng ở Genève.
V́ thế Hồ Hữu Tường đề nghị “cung cấp cho ông Phạm Công Tắc phương tiện tài chính tối cần thiết để thành lập phong trào trung lập tại Đồng Tháp Mười trước đó đă tuyên bố tự trị.”
Cũng chính Hồ Hữu Tường khi trở thành cố vấn của Bảy Viễn đă thúc đẩy Bảy Viễn khai chiến chống chính phủ. Vào thời gian anh ta phàn nàn với ông rằng anh ta bị chính phủ săn đuổi, chính là lúc anh ta di chuyển tự do từ Sài G̣n tới Paris nhiều lần. Ai cũng biết anh ta không thể có phương tiện tự túc để có thể di chuyển rất nhiều chuyến đi loại đó.
C̣n về bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, ông này đă ba lần từ chối làm việc với tôi, viện cớ rằng chỉ có bộ Quốc Pḥng, chứ không thể bộ nào kém hơn, mới xứng với tham vọng của ông ta. Đàng khác các phe Cao Đài, B́nh Xuyên và Ḥa Hảo, không phe nào đồng ư cho Nguyễn Tôn Hoàn nhận bộ đó, v́ tất cả đều âm mưu tranh đấu để riêng phe ḿnh nắm bộ Quốc Pḥng. Đúng là Nguyễn Tôn Hoàn có nói với tôi rằng anh ta sẽ đảm nhận bộ đó với sự cộng tác của một nhóm nhỏ Ḥa Hảo dưới quyền Lâm Thành Nguyên, và nếu không được trao bộ quốc pḥng th́ sẽ nhận chức đại sứ tại Thái Lan. Thực ra, điều mà Hoàn thực sự hằng ước mơ là trở thành lănh tụ của một phái Đại Việt mới có quân đội riêng và một vùng tự trị. Anh ta đă luôn luôn theo đuổi giấc mộng đó một cách hăm hở không ngừng nghỉ. Anh ta đă hợp tác với người Pháp, để có được một vùng riêng cho ḿnh. Chẳng may, thủ lănh biệt động quân Đại Việt mà Pháp đặt ở Cai Lậy, có thể trở thành cái nhân của một phe phái mới, lại ly khai khỏi nhóm Nguyễn Tôn Hoàn để tranh đấu cho mộng riêng của anh ta. Tới nước đó, Hoàn bèn phải quay trở lại vói Lâm Thành Nguyên, một tiểu tướng của Ḥa Hảo ở Châu Đốc. Nguyên lúc ấy đang cố xin tôi cho y coi tỉnh Hà Tiên trong vịnh Xiêm La như phần thưởng về ḷng trung tín. Nguyễn Tôn Hoàn cũng đang vận động một cách hào hứng cho việc thương lượng đó. Khi Hoàn nói sẵn ḷng nhận chức đại sứ ở Băng Cốc, th́ một trong những lư do của anh ta là để có thể giúp Lâm Thành Nguyên một tay (buôn vũ khí, xây dựng chiến khu bí mật ở Thái Lan với những dân tỵ nạn nhờ sự giúp đỡ của bạn hữu, những người thuộc phe Ḥa Hảo). Một lư do khác là anh ta không tin rằng có thể có cách nào chống lại nổi Việt Minh hay Pháp. Đó chính là điều anh ta nói với Ngô Đ́nh Nhu em tôi khi anh ta xin chú ấy can thiệp với phe B́nh Xuyên, đang nắm Cảnh Sát Công An, cấp chiếu khán cho anh ta có thể bay sang Pháp.
Khi Hoàn từ chối không nhận tham gia chính phủ trung ương, tôi đă đưa ra một giải pháp khác mời Đại Việt hợp tác ở những cấp thấp hơn. Bằng cách đó, họ đă được giao ngành Cảnh Sát, Công An và nhân dân tự vệ cấp tỉnh của một tỉnh quan trọng là Quảng Trị ở ngay vĩ tuyến 17. Nhưng Hoàn cho đàn em tin rằng họ sẽ được Mỹ và Pháp ủng hộ, và ra lệnh cho đảng viên ở Quảng Trị và Thừa Thiên, cấu kết với phe Nguyễn Văn Hinh, và với sự khuyến khích của Pháp, quay lại ly khai với chính phủ và thành lập một khu bí mật ở Ba Ḷng. Tuy được Pháp vũ trang và tiếp tế, nhóm ly khai này đă bị đánh bại hầu như ngay tức khắc. Bởi v́ hầu hết binh sĩ đă từng theo họ đă rời bỏ khi vừa nhận ra ḿnh bị lợi dụng và phản bội. Nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn hiện đang ẩn náu nhờ người Pháp che chở, trước nhất ở trong trại Chanson. Tại đây người Pháp đă lập cho họ một đài phát thanh mạnh dùng để đả kích loạn xạ chính phủ hàng ngày bằng những luận điệu tuyên truyền bỉ ổi. Sau đó là ở Seno (Ai Lao. MV) là nơi họ tiếp tục vai tṛ phản bội. Vừa đây Việt Tấn Xă đă công bố một lá thư của Nguyễn Tôn Hoàn gửi cho Guy Mollet xin Pháp can thiệp để bảo vệ Việt Nam. Nguyễn Tôn Hoàn không phải là thí dụ duy nhất về chính trị gia, không được huấn luyện (về chính trị), t́m cách chiếm quyền bằng sức mạnh, mà họ cũng chẳng có.
Một số khác cố vận dụng một nhóm Cao Đài ly khai để thực hiện mộng đảo chính kiểu Phát xít với sự trợ giúp của ngoại bang, như trường hợp bác sĩ Phan Quang Đán chẳng hạn. Anh này đánh lừa tướng Nguyễn Thành Phương bằng cách làm cho Phương tin rằng anh ta được đảng Dân Chủ Mỹ ủng hộ, và được coi như con cưng của đảng Dân Chủ. Một người trong nhóm Phan Quang Đán là Nguyễn Bảo Toàn đă dựng một cửa hàng tại Nữu Ước. Anh ta tới đó sau khi lấy cắp 5 triệu Đồng tức toàn bộ ngân quỹ của đảng Dân Xă Ḥa Hảo do tướng Nguyễn Giác Ngộ lănh đạo. Hiện tướng Ngộ đang chờ anh ta về để nhả số tiền đó ra. Nguyễn Bảo Toàn thường nói tiếng nói Dân Chủ thuần túy, nhưng lại là kẻ chống bầu cử ở miền Nam. Đă bao lần Toàn đến gặp tôi để khuyên không nên dùng biện pháp bầu cử để bầu quốc hội, lấy cớ là chắc chắn Việt Minh sẽ thắng. Theo ông ta, cách khôn ngoan hơn là trưng cầu dân ư về một chủ tịch đoàn gồm những thành viên của nhiều đảng phái khác nhau mà có lẽ tôi sẽ có thể chỉ định. Thực ra đă không có ai trong những vị đó dám đưa tên ứng cử trong các cuộc bầu cử hồi tháng 3. V́ vốn không được nhân dân tín nhiệm, họ sợ sẽ thất bại.
Đây là một vài loại người hay tổ chức cho rằng họ có thể cai trị xứ này, ở giữa những hoàn cảnh ngoại lệ như hoàn cảnh mà Việt Nam đang trải qua. Ngay cả những chính quyền tự do nhất cũng luôn luôn dự trù phải có một hệ thống chuyển quyền đối với một dân tộc đang trải qua trạng thái từ một thuộc địa chuyển sang một nước độc lập, v́ sợ sẽ thụt lùi về trạng thái nô lệ với những thành phần phong kiến đang tồn tại. Hoặc giả v́ thiếu nhân tài để điều hành chính phủ hay để bảo vệ xứ sở khỏi những tham vọng của đế quốc ngoại lai. Khi nh́n vào những khó khăn gặp phải hàng ngày từ mọi lănh vực, người Việt chúng tôi hầu như muốn tin rằng những thế lực (đảng phái) nói trên có thể có lư khi họ nghĩ vậy. Bỏi v́ chúng tôi đă phải cố gắng liên tục căng thẳng không ngừng nghỉ trong khi cơ chế chính quyền quốc gia bị ung thư Cộng Sản tàn phá. Nhưng tự buông thả để rơi vào sự cám dỗ của những giải pháp dễ dàng nhưng cũng ảo tưởng là một sự phản bội đối với vận mệnh của chúng tôi. Bởi v́ không có ǵ dễ dàng trong cuộc sống của một con người hay của một dân tộc. Điều chính yếu là phải có một lư tưởng và cố gắng thực hiện lư tưởng đó bất chấp mọi gió băo thời cuộc. Đó chẳng phải là tinh túy của dân chủ sao?
Bởi v́ dân chủ không phải là thứ ǵ có thể đạt được một lần là xong, mà là một cố gắng kiên tŕ đi t́m những phương tiện thích hợp để bảo đảm cho nhân loại một sự tự do tối đa, một trách nhiệm tối đa và một cơ hội tốt nhất cho cuộc sống tinh thần. (Xin xem thông điệp tôi gửi Quốc Hội ngày 12-4-1956). Mục đích của chúng tôi là với những phương tiện hiện có và trong giới hạn mà lịch sử áp đặt lên chúng tôi, tạo được một thể chế cởi mở, để phân biệt khỏi một hệ thống chính trị đóng kín được dựng lên xung quanh một người hay một đảng.
Trong quá tŕnh tranh đấu và tiến bộ của chúng tôi, lối đi càng ngày càng mở rộng, nhờ Ơn Trên. Chúng tôi đă có một quốc hội dân cử. Nay mai sẽ có hiến pháp. Khi nghĩ đến những nước khác ở Đông Nam Á dù không gặp những khó khăn như chúng tôi mà cũng cần tới 5 năm, hay 8 năm mới có được bản hiến pháp, th́ chúng tôi có thể cảm thấy hài ḷng về những ǵ đă đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. T́nh h́nh hiện nay chắc hẳn đă tốt hơn cách nay một năm. Nhưng năm nay là năm quyết định của chúng tôi. Không thể có chỗ cho những chính khách mạo hiểm hay tay mơ. Phải đối diện với một kẻ thù không thể thắng, bậc thầy về nghệ thuật chính trị, chúng tôi cần phải đưa ra một mặt trận vững chắc để kháng cự, không t́ vết nứt rạn từ mọi góc độ.
Nêu ra như thế để, thưa ông Buttinger thân mến, cho ông biết tôi biết ơn dường nào đối với ông và các bạn của chúng ta ở bên ấy đă nâng đỡ chúng tôi. Tôi hy vọng ông sẽ có dịp trở lại Việt Nam này một lần nữa. Nơi đây chắc chắn ông sẽ được tiếp đăi một cách nồng hậu nhất. Dịp đó ông nên dẫn ông Sachs theo, v́ không dễ dàng để mà viết về lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam từ Paris. Trong ṿng một năm qua đă có nhiều thay đổi tại đây. Các ông sẽ có thể thấy rơ hơn nhiều những ǵ đang xảy ra khi đến xem tại chỗ.
Nhưng tôi thấy đă muộn rồi và phải chuẩn bị tiếp khách đă lấy hẹn. Trong khi mong chờ cái thú được gặp lại ông sớm, xin gửi ông lời chúc tốt đẹp nhất.
NGÔ Đ̀NH DIỆM.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.