MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học ֎ Báo Chí

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider 

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn NghệvSOTT

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

Thiên Chúa Giáo không khác ǵ một loại vi trùng truyển nhiễm cực độc tạo thành khối ung thư ác tính trong tinh thần và cơ thể dân tộc Việt Nam.  Kể từ ngày đầu tiên những nhà truyền nhiễm vi rút Thiên Chúa Giáo đặt chân vào Việt Nam cho đến nay, Những kẻ cuồng tín bỏ bàn thờ ông bà, cam tâm làm tôi tớ cho ngoại giáo chưa bao giờ chấm dứt tác quái, phá nát t́nh tự dân tộc, tư tưởng ái quốc, tinh thần tự chủ của gịng giống Lạc Việt.Những tín đồ Công Giáo (Thiên Chúa Giáo) với bản chất tôi đ̣i cho ngoại bang lúc nào cũng chê bai, khinh bỉ chính dân tộc đă sinh thành ra chúng để  sùng bái tôn thờ một bọn ngoại chủng, ngoại giáo tàn độc.Chừng nào loại tư tưởng, tín ngưỡng độc hại này c̣n tồn tại để gieo rắc mầm bệnh cho các thế hệ tương lai, khối đoàn kết dân tộc rất khó h́nh thành. V́ vậy tất cả mọi tổ chức và các thể chế cầm quyền ở Việt Nam tương lại phải có biện pháp khắc chế mối họa hại Thiên Chúa Gíao để dân tộc Việt Nam toàn tâm, toàn ư xây dựng tổ quốc hùng cường, hưng thịnh. 

Kim Âu

Dec 21/2018

 

Công cụ của đế chế?

Người Công giáo Việt Nam

ở miền Nam Việt Nam

 

Van Nguyen-Marshall

 

 

 

Bài viết này xem xét các hoạt động chính trị xă hội của người Công giáo La Mă Việt Nam tại miền Nam Việt Nam trong giai đoạn từ những năm 1950 đến 1970. Sự tham gia của người Công giáo trong lĩnh vực công cộng, từ việc tham gia các tổ chức nhân đạo đến tổ chức các cuộc biểu t́nh trên đường phố, cho thấy rằng họ có tổ chức cao và chủ động trong việc cố gắng thay đổi môi trường chính trị xă hội. Trong khi người Công giáo giữ một số quan điểm và mục tiêu chính trị chung với chính phủ Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, họ vẫn theo đuổi các mục tiêu của riêng ḿnh, tham gia vào chính trị địa phương và quốc gia, chính sách phê phán của chính phủ và duy tŕ mức độ độc lập quan trọng khỏi quyền lực và ảnh hưởng của nhà nước.

 

Tôn giáo đă đóng một vai tṛ quan trọng trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Các hệ thống và tổ chức Phật giáo và Thiên chúa giáo đă chung tay định h́nh các sự kiện ở Việt Nam Cộng ḥa (Nam Việt Nam) từ năm 1954 đến năm 1975. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, niềm tin tôn giáo, ḷng trung thành và các diễn ngôn ảnh hưởng đến cả hai lựa chọn chính trị của Việt Nam và Mỹ trong thời kỳ này. Công giáo định h́nh các đường viền của miền Nam Việt Nam khi nó được thành lập lần đầu tiên vào năm 1954 và gần một thập kỷ sau đó, vào năm 1963, các cuộc biểu t́nh của Phật giáo đă góp phần lật đổ tổng thống đầu tiên của Nam Việt Nam, Ngô Đ́nh Diệm. Sau khi Đệ nhất Cộng ḥa (1955-1963) sụp đổ, tôn giáo tiếp tục khẳng định tầm ảnh hưởng của ḿnh trong xă hội và chính trị.

 

Trong chiến tranh Việt Nam [1], các cuộc biểu t́nh và phong trào Phật giáo đă thu hút sự chú ư của thế giới không chỉ bởi tính cách kịch tính của họ, bao gồm việc tự thiêu của các tu sĩ nam nữ, mà c̣n bởi v́ lời kêu gọi ḥa b́nh của Phật giáo đang đối mặt bạo lực và cái chết. Sự chú ư của truyền thông trong chiến tranh và nghiên cứu học thuật trong vài thập kỷ qua đă cung cấp cho phương Tây một số kiến thức và sự quen thuộc với các hoạt động của Phật tử Việt Nam, [2] nhưng ít được biết về người Công giáo và các hoạt động của họ ở miền Nam Việt Nam. Có một giả định trong cả văn học tiếng Anh phổ biến và hàn lâm rằng các giáo sĩ và giáo dân Công giáo đă xác định và ủng hộ chính quyền nhà nước trong cả thời kỳ thực dân Pháp và chiến tranh Việt Nam.

 

Học thuật làm việc về thời kỳ thuộc địa Pháp có xu hướng tập trung vào vai tṛ mà các nhà truyền giáo Công giáo đă đóng trong cuộc chinh phạt và cai trị thuộc địa của Pháp. [3] Trong giai đoạn giữa và cuối thế kỷ XX, các nhà sử học chủ yếu tập trung vào việc Công giáo ảnh hưởng đến quyết định của Mỹ ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm và cách Ngô Đ́nh Diệm Thằng định h́nh nền chính sách và hành động của ông. [4] Trong số ít trường hợp ngoại lệ cho xu hướng này là tác phẩm của Trần Thị Liên, người tập trung vào vai tṛ của người Công giáo trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và mối quan hệ của họ với chính phủ của cả Cộng ḥa Dân chủ và Việt Nam Cộng ḥa. [5] Đối với người Công giáo Việt Nam nói chung, họ thường được đề cập trong lịch sử liên quan đến cuộc di cư hàng loạt năm 1954 và vai tṛ của họ là những người ủng hộ Diệm. Các cuộc đàm phán tại Hội nghị Genève, kết thúc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đă quy định sự phân chia tạm thời của Việt Nam tại vĩ tuyến 17 và đưa ra các điều khoản để người Việt Nam chuyển đến khu vực mà họ lựa chọn. Trong số khoảng 810.000 người di cư miền Bắc đă chọn di chuyển đến khu vực phía Nam, hơn 75% là người Công giáo. [6]

 

Những người di cư Công giáo có xu hướng chống cộng một cách kiên quyết và là những người ủng hộ mạnh mẽ của Ngô Đ́nh Diệm, chính phủ đă cung cấp cho họ các nguồn lực (phần lớn đến từ Hoa Kỳ) để tái định cư. Theo Seth Jacobs, chính phủ Diệm đă rất ủng hộ những người tị nạn Công giáo từ miền Bắc: một phần không cân xứng của viện trợ Hoa Kỳ đă dành cho những người tị nạn; người Công giáo miền bắc giữ các vị trí đặc quyền trong quân đội và bộ máy quan liêu nhà nước. [7] Có một số nhà sử học chuyển hướng từ cách giải thích này về mối quan hệ Diễm với người Công giáo Việt Nam. Chẳng hạn, Philip Catton và Lan T. Chu, cho rằng mối quan hệ của Diễm với những người tị nạn Công giáo và Giáo hội Công giáo không đồng đều và đôi lúc đầy căng thẳng. [8] Tuy nhiên, quan điểm này vẫn là thiểu số. Sự đồng thuận dường như là người Công giáo Việt Nam được chính phủ Nam Việt Nam ưa chuộng, đặc biệt là chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.

 

Do hậu quả của sự tập trung chọn lọc này đối với người Công giáo Việt Nam như là một phần của cuộc di cư hàng loạt ở phía nam và là nền tảng của chính quyền chống cộng Diệm, người Công giáo Việt Nam có xu hướng được mô tả như một chiều, với sự phụ thuộc của họ vào chính phủ nước ngoài và hệ thống tôn giáo đôi khi bị cường điệu hóa. Một đặc điểm điển h́nh của người Công giáo Việt Nam là tuyên bố của Joseph Buttinger rằng hầu hết người Công giáo là người ngoài ḍng chính của t́nh cảm dân tộc và chống ngoại bang đă truyền cảm hứng cho đa số người ngoài Công giáo. Nói cách khác, sở thích tôn giáo của người Công giáo khiến họ không ḥa nhập. với phần c̣n lại của xă hội và cũng khiến họ bớt yêu nước và dân tộc. Một lời giải thích khác cho người Công giáo Việt Nam bị cho là xa lánh với phần c̣n lại của xă hội Việt Nam là di sản của cuộc đàn áp mà họ phải chịu đựng trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Pierro Gheddo cho rằng các cuộc đàn áp trong quá khứ đă tạo ra tâm lư của người ghetto, trong số những người Công giáo Việt Nam đến mức họ bị cắt đứt khỏi xă hội chính thống. Hơn nữa, người Việt Nam ngoài Công giáo có xu hướng nh́n người Công giáo, ngay cả trong thế kỷ XX, với sự nghi ngờ. [10]

 

Tuy nhiên, luận điểm về sự tách biệt này bị thách thức bởi học bổng hiện tại về Việt Nam thuộc địa, vẽ nên một bức tranh khác. Trong nghiên cứu của ḿnh về Việt Nam thế kỷ XIX, Nola Cooke cho rằng với nhiều điểm tương đồng với thuyết vật linh và Nho giáo, Công giáo không được coi là một tôn giáo ngoài hành tinh (ngoại nhân) và đến thế kỷ XIX, nó đă được đưa vào xă hội Việt Nam. [11] Tương tự, Jacob Ramsay tuyên bố rằng người Công giáo Việt Nam, đặc biệt là người miền Nam, không bị tách biệt với người ngoài Công giáo: Hồi đầu thế kỷ XIX, nhiều người Công giáo địa phương thuộc một di sản trải qua nhiều thế hệ và tạo thành một cộng đồng ḥa nhập xă hội chính thống. [12] Vào giữa thế kỷ XX (thời kỳ quan tâm ở đây), Công giáo đă có hơn ba thế kỷ lịch sử ở Việt Nam. Mặc dù Công giáo có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử Việt Nam, các tác phẩm về Chiến tranh Việt Nam vẫn liên kết người Công giáo Việt Nam với các cường quốc thực dân và tân thực dân, đầu tiên là với Pháp và sau đó là Hoa Kỳ.

 

Sự kiên tŕ này trong việc xác định người Công giáo Việt Nam là người di cư tỵ nạn hoặc là một phần của chương tŕnh nghị sự của thực dân mới dẫn đến một mô tả điển h́nh khác về họ như sự bế tắc của chính phủ Mỹ và bộ máy quân sự và t́nh báo. Một h́nh ảnh lâu dài và thường xuyên được viện dẫn của người Công giáo Việt Nam là một đàn cừu theo lệnh của linh mục giáo xứ và tuyên truyền của Mỹ để di cư về phía nam sau khi chia cắt đất nước. Bị tước bỏ cơ quan của chính họ, những người di cư Công giáo phía bắc quyết định di chuyển về phía nam được cho là do các chiến thuật hiệu quả của CIA. Như Jacobs mô tả, những lời kêu gọi truyền cảm hứng nhất của Lans Lansdale dành cho người Công giáo Bắc Việt. Những người lính của quân đội miền Nam Việt Nam, vận chuyển lên phía bắc và mặc quần áo như thường dân, phát tờ rơi quảng cáo rằng ‘Chúa Kitô đă đến miền Nam  và Virgin Đức Trinh Nữ Maria đă khởi hành từ miền Bắc. [13]

 

Mặc dù Hoa Kỳ đóng vai tṛ thúc đẩy và khuyến khích người di cư về phía nam, nhưng có rất ít nghiên cứu đă được thực hiện để xem xét động cơ của những người di cư này nhằm đánh giá hiệu quả của việc tuyên truyền đối với các quyết định của người di cư. Trên thực tế, một trong những nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên, nghiêm túc về người di cư Công giáo miền Bắc cho thấy điều ngược lại. Theo Peter Hansen, những người di cư theo Công giáo và không Công giáo không bị lừa bởi tuyên truyền của CIA, nhưng có một loạt các mối quan tâm và lư do khiến họ rời đi. [14] Trần Thị Liên đồng t́nh với quan điểm này: Mạnh Selon nous, cet exode des catholiques fut l vạchexpression d hẹnun choix politique. Ce refus de vivre dans un régime Communiste était basé chắc chắn liêuExérience concrète de vie sous domisteistist. [15] Một số lư do bao gồm sợ bị tịch thu và trả thù. Một số người di cư có thể đă trải qua sự đàn áp cá nhân dưới bàn tay của các thành viên cộng sản thống trị của Việt Minh và do đó hoan nghênh cơ hội ra đi. Tương tự như vậy, không đủ thông tin về khát vọng chính trị của người Công giáo trong suốt cuộc đời của Nam Việt Nam để đảm bảo kết luận rằng người Công giáo không phải là người theo chủ nghĩa dân tộc hoặc giả định rằng họ ủng hộ tất cả các chế độ Nam Việt Nam lên nắm quyền.

 

Bằng cách kiểm tra các hoạt động chính trị xă hội của người Công giáo Việt Nam và các hiệp hội của họ, bài viết này cung cấp một cái nh́n thoáng qua về dân số Công giáo Việt Nam nói chung và nguyện vọng của họ. Trọng tâm chính là các hoạt động cứu trợ xă hội và chính trị của người Công giáo Việt Nam tại các khu vực đô thị, đặc biệt là thủ đô phía Nam, Sài G̣n. Bài viết này không tuyên bố là một cuộc kiểm tra toàn diện hoặc chuyên sâu về tất cả các hoạt động của Công giáo trong suốt cuộc chiến, nhưng là một cuộc thám hiểm khám phá có thể truyền cảm hứng cho việc điều tra thêm.

 

Tài liệu lưu trữ của Việt Nam và Hoa Kỳ và các nguồn báo chí Việt Nam cho rằng người Công giáo Việt Nam với tư cách là một nhóm rất tích cực trong các vấn đề chính trị và xă hội. Các nhà lănh đạo Công giáo tỏ ra sẵn sàng tham gia với cả các cơ sở chính trị của Mỹ và Việt Nam trong nỗ lực gây ảnh hưởng đến các sự kiện và chăm sóc các lợi ích Công giáo. Họ đă làm điều này trong một môi trường đầy thách thức bao gồm sự cai trị độc đoán, chiến tranh và gia tăng sự thống trị của Mỹ. Do đó, người Công giáo Việt Nam có xu hướng t́m đến các tổ chức nhà nước và nước ngoài để được giúp đỡ trong việc thực hiện công tác cứu trợ hoặc huy động sự hỗ trợ chính trị.

 

Sự phụ thuộc này vào sự hỗ trợ của nhà nước tương tự như t́nh trạng khó khăn mà các tổ chức nhân đạo Mỹ phải đối mặt. Một số nghiên cứu được thực hiện trên Hợp tác xă v́ Cứu trợ Hoa Kỳ ở mọi nơi (CARE), Dịch vụ Cứu trợ Công giáo (CRS) và Dịch vụ Cơ đốc giáo Việt Nam đă chỉ ra cách thức các tổ chức phi chính phủ (NGO) này hợp tác và hợp tác sâu sắc với cả người Việt Nam và người Mỹ chính phủ. [16] Mối quan hệ chặt chẽ này là nguồn gốc của sự lo lắng và thất vọng đối với một số thành viên của các tổ chức này, đặc biệt là những người đặt câu hỏi về đạo đức và vô ích của sự can thiệp của Mỹ.

 

Người Công giáo Việt Nam kết nối chặt chẽ với nước ngoài, đặc biệt là Kitô giáo, các tổ chức và chính phủ, cho phép họ có quyền truy cập vào hỗ trợ tài chính và cơ sở hạ tầng. Do kết quả của các liên minh chiến lược này, các tổ chức Công giáo được tổ chức và tài trợ tốt. Tuy nhiên, hệ thống cấp bậc Công giáo Việt Nam, các hiệp hội tự nguyện và giáo dân, quan tâm hàng đầu với việc bảo vệ lợi ích của họ. Đối với nhiều người Công giáo, khả năng tồn tại của một chế độ phi Cộng sản, thân Công giáo ở miền Nam Việt Nam là vô cùng quan trọng. Rằng mục tiêu này có xu hướng phù hợp với mục tiêu của chính phủ Mỹ có thể khiến người Công giáo Việt Nam dường như trở thành công cụ của các chính sách tân thực dân của Mỹ tại Việt Nam; tuy nhiên, khám phá câu hỏi này từ quan điểm của người Công giáo Nam Việt Nam cung cấp một bức tranh khác.

 

Hoạt động cứu trợ Công giáo 

 

Ở Việt Nam công việc nhân đạo không phải là một cái ǵ đó mới mẻ hay duy nhất Kitô giáo. Trong Nho giáo và Phật giáo nhân từ có một vị trí quan trọng; do đó, từ thiện được coi trọng như một hành động xă hội và tôn giáo. Do đó, các nỗ lực từ thiện của Việt Nam trước thời thuộc địa thường nhận được sự công nhận từ nhà nước hoặc cộng đồng địa phương. [17] Trong thời kỳ thuộc địa Pháp, các tổ chức từ thiện Kitô giáo, Phật giáo và thế tục tồn tại. Nhiều đơn đặt hàng Công giáo được thành lập và quản lư các tổ chức từ thiện, chẳng hạn như trường học, bệnh viện và trại trẻ mồ côi. Nhiều tổ chức trong số này đă nhận được trợ cấp từ chính quyền thực dân Pháp. Sau năm 1954, một số tổ chức trong số này vẫn hoạt động, với một số cơ sở ở phía bắc di chuyển tổ chức của họ về phía nam. Một vài tổ chức Công giáo từ thiện trước năm 1954 bao gồm: [18] 

 

• Asile Soeur Antoine, người chăm sóc trẻ mồ côi, người già và bệnh tật. Được thành lập vào năm 1911, tổ chức này có 921 người được chăm sóc vào năm 1948.

 

• Trại trẻ mồ côi Saint Theresa tại Hà Nội, được thành lập năm 1943 bởi Cha Seitz. Năm 1948, nó có 250 trẻ mồ côi.

 

• Asile des Orphelins de Hai Duong, được quản lư bởi một phái bộ Công giáo và có 100 trẻ em được chăm sóc.

 

• Trại trẻ mồ côi Fatima ở Gia Lâm, miền Bắc Việt Nam, được thành lập và chỉ đạo bởi cha Than Đức Mai. Trại trẻ mồ côi này có 60 người con. 

 

Ở miền Nam hậu thuộc địa, các tổ chức Công giáo La Mă tiếp tục tham gia vào công việc nhân đạo. Cũng như thời kỳ thuộc địa, trại trẻ mồ côi tiếp tục là một trọng tâm quan trọng cho công tác từ thiện Công giáo. Trong khi có các trại trẻ mồ côi của tiểu bang, phần lớn các trại trẻ mồ côi và trung tâm chăm sóc ban ngày từ thiện là tư nhân. Tuy nhiên, nhà nước miền Nam đă giúp trợ cấp cho các trại trẻ mồ côi tư nhân theo số lượng trẻ em họ ở. [19] Vào những năm 1950, thập niên 1970, có một số trại trẻ mồ côi nổi tiếng của Công giáo, bao gồm cả trại trẻ mồ côi Thiên Phước được xây dựng vào năm 1878 và được quản lư bởi các nữ tu của Thánh Paul de Sartres. [20] Một trại trẻ mồ côi quan trọng khác là trại trẻ mồ côi Nu Vương Ḥa B́nh, được thành lập năm 1935 tại Thủ Đức, ngoại ô Sài G̣n, nhưng được chuyển đến Sài G̣n vào năm 1956. Trại trẻ mồ côi này được thành lập bởi Caritas International (một tổ chức Công giáo quốc tế tập trung vào viện trợ phát triển) và có tài trợ nước ngoài từ Tổ chức Phụ nữ Hoa Kỳ, nhưng được chỉ đạo và quản lư theo lệnh của Bắc Ái Vinh Son (Con gái Bác ái của Thánh Vincent). Đến năm 1973, trại trẻ mồ côi này chứa 397 trẻ em. [21]

 

Các tổ chức Công giáo nước ngoài đóng một vai tṛ quan trọng trong việc tài trợ và chỉ đạo các hoạt động nhân đạo tại Việt Nam. Nhiều nỗ lực nhân đạo của Công giáo Hoa Kỳ đă được lănh đạo bởi Dịch vụ Cứu trợ Công giáo, đă chuyển hơn 50% viện trợ của Mỹ cho Việt Nam. [22] Trên thực tế, CRS là cơ quan viện trợ lớn nhất ở miền Nam Việt Nam. [23] CRS đặc biệt quan trọng trong tái định cư người tị nạn. Trong chiến tranh, có 318 ngôi làng và các dự án cộng đồng được tài trợ bởi viện trợ nước ngoài và tư nhân của Mỹ. Các cơ quan kết nối với CRS đă giúp xây dựng trường học, bệnh viện, nhà thờ và trại trẻ mồ côi. [24] CRS cũng đă giúp thành lập và tổ chức lại các hiệp hội tự nguyện và công dân bao gồm các trại lao động thanh niên, công đoàn và các ủy ban hành động xă hội. [25]

 

Một tổ chức Công giáo quan trọng khác trong công tác nhân đạo là Caritas Việt Nam. Giám đốc CRS Joseph Harnett đă tham gia thành lập chi nhánh Caritas của Việt Nam vào năm 1957, nhưng tổ chức này đă không hoạt động cho đến năm 1965 khi giám đốc chương tŕnh CRS Lawson Mooney tổ chức lại. [26] Đức cha Phạm Ngọc Chi cũng là người có công trong việc thành lập Caritas Việt Nam và chi nhánh Sài G̣n được lănh đạo bởi cha Hồ Văn Vui, một chiến binh chống cộng, người đóng vai tṛ tích cực trong chính trị. [27] Tổ chức này đă nhận được tài trợ từ văn pḥng của Tổng Giám mục Sài G̣n, Caritas International và Cơ quan Cơ đốc giáo Việt Nam. [28] Năm 1970, Caritas hỗ trợ 267 trại trẻ mồ côi, cung cấp 66 lớp học may và điều hành 69 pḥng y tế. [29] Năm 1969, tổng chi tiêu của Caritas, là 1,1 triệu đô la Mỹ, [30] ngoài 20.000 tấn thực phẩm, quần áo và thuốc men mà tổ chức này đă phân phối.

 

Trong khi các tổ chức nước ngoài và Hoa Kỳ cung cấp hỗ trợ tài chính và lănh đạo cho nhiều nỗ lực cứu trợ và từ thiện này, th́ chính người Công giáo Việt Nam đă tích cực khởi xướng và thực hiện công việc. Chẳng hạn, mệnh lệnh của Bắc Á Vĩnh Sơn là công cụ quản lư một số tổ chức từ thiện của Caritas International. Chúng bao gồm: Trung tâm chăm sóc trẻ em Caritas, Trung tâm xă hội Caritas và Trung tâm dinh dưỡng Caritas và trại trẻ mồ côi Nu Vương Ḥa B́nh đă nói ở trên. [31] Trung tâm chăm sóc trẻ em Caritas được thành lập năm 1953 dưới sự bảo trợ của Hội chữ thập đỏ Pháp và Đức. Nhà giữ trẻ thừa nhận trẻ em của các gia đ́nh lao động trong độ tuổi từ một tháng đến sáu tuổi. Vào cuối những năm 1960, có khoảng 150 trẻ em tại trung tâm này, hầu hết là trẻ em trai. Chính phủ Nam Việt Nam đă bổ sung cho trung tâm với mức lăi hàng tháng là 150 đồng / trẻ em. [32]

 

Trung tâm dinh dưỡng Caritas được thành lập bởi Trường Công tác xă hội Caritas và được quản lư với sự hỗ trợ của Tổ chức Phụ nữ Hoa Kỳ, UNICEF và Bộ Xă hội của chính phủ Nam Việt Nam. Trung tâm cung cấp chăm sóc tạm thời cho trẻ em bị bệnh của các gia đ́nh nghèo. Năm 1970, nó có 100 trẻ em trong độ tuổi từ một đến ba được chăm sóc. [33] Trung tâm xă hội Caritas được thành lập năm 1964 bởi Trường công tác xă hội Caritas trên đường Nguyễn Thông. Nó cung cấp cho sinh viên Trường Công tác xă hội kinh nghiệm thực tế, cũng như cung cấp các dịch vụ xă hội cho khu vực, bao gồm cung cấp lớp mẫu giáo và tiểu học cho trẻ em, chạy xưởng may và thiết lập pḥng đọc sách cho trẻ em. [34] Đơn hàng Bắc Á Vĩnh Sơn cũng giúp thành lập và quản lư Trường Điều dưỡng Caritas, nơi nhận được tài trợ từ Hội Chữ thập đỏ Pháp. Năm 1958, họ thành lập trường đào tạo giáo viên mẫu giáo Caritas - trường đào tạo đầu tiên ở Việt Nam. Trật tự Bắc Á Vĩnh Sơn cũng tham gia vào đào tạo giáo viên tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. [35]

 

Các hoạt động nhân đạo của Công giáo cũng tập trung vào người tị nạn và cứu trợ khẩn cấp. Trong cuộc di cư hàng loạt năm 1954, các linh mục Công giáo đă đóng vai tṛ hàng đầu trong việc giúp đỡ hậu cần tái định cư. Joseph Buttinger mô tả sự lănh đạo của các linh mục Việt Nam trong giai đoạn này là rất quan trọng: Quyền Khả năng lănh đạo [Công giáo] địa phương này có thể tự giúp đỡ người tị nạn có lẽ là đặc điểm đáng chú ư nhất trong toàn bộ nỗ lực tái định cư. Hệ thống cấp bậc Công giáo là tiếng nói trong việc huy động sự quyên góp và t́nh nguyện viên cho những nỗ lực nhân đạo như vậy. Học sinh đặc biệt được huy động cho người tị nạn và cứu trợ khẩn cấp. Các nhóm thanh niên Công giáo đă tham gia cùng với thanh niên thế tục và Phật giáo trong việc xây dựng nơi trú ẩn tạm thời và thu thập và phân phối thực phẩm và đồ dùng cho người tị nạn.

 

Không chỉ có những người tị nạn chiến tranh và trẻ mồ côi để chăm sóc, mà c̣n có những nạn nhân của thảm họa thiên nhiên. Lũ lụt đặc biệt thường xuyên và có xu hướng tàn phá các khu vực ở miền Trung Việt Nam. Bản tin của Hiệp hội Công giáo về Giáo phận Sài G̣n thường xuyên được công bố kêu gọi quyên góp v́ nhiều lư do. Trong số ra tháng 11 năm 1961, Tổng Giám mục Sài G̣n, Nguyễn Văn B́nh, đă đưa ra lời kêu gọi quyên góp cho các nạn nhân lũ lụt ở khu vực phía Tây của miền Nam Việt Nam. [37] Đức Tổng Giám mục B́nh nhắc nhở người Công giáo Việt Nam rằng giúp đỡ người khác là một nghĩa vụ tôn giáo. Đức Tổng Giám mục đă đưa ra một lời kêu gọi đam mê khác trong số tháng 12. Lúc này quyên góp được tổng cộng 400.000 đồng cùng với 200 túi quần áo. Thông báo lưu ư rằng một số đóng góp đến từ những người không Công giáo. [38]

 

Vào giữa những năm 1960, khi cuộc chiến ngày càng căng thẳng, vấn đề người tị nạn càng trở nên khó khăn hơn. Hàng triệu người Việt Nam bị buộc phải rời khỏi làng của họ v́ cuộc chiến. Theo James Carter, có khoảng 380.000 người - 500.000 người tị nạn vào mùa hè năm 1965. Một số người đi cắm trại, trong khi những người khác đổ xô đến các thành phố. [39] Theo Carter, một số người tị nạn chính xác rất khó xác định, v́ có những khuyến khích cho những người giám sát trại tị nạn tăng số lượng. Tuy nhiên, cũng có những suy đoán rằng chính phủ Nam Việt Nam cũng muốn che giấu vấn đề này. [40] Một cuộc điều tra quốc hội Hoa Kỳ ước tính rằng có khoảng 1,6 triệu người tị nạn vào tháng 12 năm 1966. [41]

 

Số người tị nạn đă tăng vọt sau cuộc tấn công Tết bắt đầu vào ngày 30 tháng 1 năm 1968. Được lănh đạo bởi lực lượng Mặt trận Giải phóng dân tộc và Bắc Việt (NLF) trong dịp Tết Nguyên đán, cuộc tấn công bất ngờ vào Nam Việt Nam đă gây ra một cú sốc lớn cho người dân thành thị , người cho đến thời điểm đó đă được cách ly khá nhiều từ chiến đấu trực tiếp. Trong những tuần sau cuộc tấn công vào Sài G̣n, các tổ chức t́nh nguyện thế tục và tôn giáo đă bận rộn chăm sóc những người bị thương và bị trật khớp bởi sự kiện này. Các trại tị nạn tạm thời đă được xây dựng và quyên góp để giúp đỡ những người có nhu cầu. Tại Sài G̣n và các vùng ngoại ô xung quanh, 48 trại được thành lập để giúp đỡ người tị nạn và kháng cáo được thực hiện trên các phương tiện truyền thông cho các t́nh nguyện viên và quyên góp. [42] Vận chuyển cho thực phẩm như gạo và dầu ăn là rất cần thiết. Báo chí Công giáo, chẳng hạn như nhật báo Xay Dung nổi tiếng, đă nhấn mạnh những nỗ lực cứu trợ này, đặc biệt là những nỗ lực được thực hiện bởi các nhóm Công giáo. Theo cha Huỳnh Văn Nghi của Caritas Việt Nam, tổ chức của ông bắt đầu hoạt động vào ngày 2 tháng 2, vài ngày sau vụ tấn công Sài G̣n. Trong thời gian này, Caritas Việt Nam đă hỗ trợ khoảng 280.000 người tị nạn trên khắp khu vực Sài G̣n. [43]

 

Chiến tranh chắc chắn tạo ra một nhu cầu thực sự cho các chương tŕnh từ thiện như những chương tŕnh được tổ chức bởi Giáo hội Công giáo và các hiệp hội giáo dân Công giáo. Người Công giáo Việt Nam đă tiếp nhận những nỗ lực này với sự nhiệt t́nh. Đối với người Công giáo Việt Nam, các hoạt động cứu trợ có hai chiều quan trọng không kém. Một mặt, từ thiện là một giá trị cốt lơi trong Công giáo La Mă và do đó, các linh mục và lănh đạo giáo dân nhấn mạnh khía cạnh tôn giáo của sự cứu trợ để huy động các t́nh nguyện viên và quyên góp. Mặt khác, các hoạt động cứu trợ cho phép người Công giáo đóng góp vào quá tŕnh xây dựng quốc gia và cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đối với các nhà lănh đạo Công giáo hoạt động chính trị, như Cha Hoàng Quỳnh và Hồ Văn Vui, những dự án từ thiện này là những lời nhắc nhở hữu ích cho nhà nước và xă hội nói chung về ḷng yêu nước và cam kết đối với Nam Việt Nam và do đó tầm quan trọng chính trị của họ.

 

Về vấn đề này, các nhà lănh đạo Công giáo đă nỗ lực có ư thức để nhấn mạnh bản chất phi đảng phái trong công việc của họ: họ nhấn mạnh rằng viện trợ được cung cấp cho tất cả mọi người thuộc mọi tôn giáo. Ví dụ, khi thảo luận về công việc của Caritas Việt Nam, một nhà văn của Xay Dung nhấn mạnh rằng tổ chức này đă hỗ trợ tất cả đồng bào (dong bao) bất kể tôn giáo. [44] Trong nỗ lực cứu trợ sau cuộc tấn công Tết, các quan chức Caritas Việt Nam đă nhanh chóng chỉ ra rằng hai phần ba số người tị nạn mà tổ chức hỗ trợ trong các trại tạm thời không phải là người Công giáo. Sẽ rất khó để xác định tính chính xác của tuyên bố này; tuy nhiên, tiết lộ rằng các quan chức của Caritas cảm thấy cần phải thiết lập rằng các tổ chức từ thiện Công giáo không phải là đơn vị trong mối quan tâm của họ, nhưng có lợi ích quốc gia. Lập trường pḥng thủ này cũng được thực hiện bởi các quan chức từ thiện Công giáo, những người nhấn mạnh rằng họ không tuyển mộ lúa gạo chuyển đổi; [45] nói cách khác, chuyển đổi người nhận từ thiện Công giáo không phải là mục tiêu của các hoạt động cứu trợ của họ. Mặc dù sự thịnh vượng này có thể không phải là một mục tiêu chính thức, nhưng nó có lẽ là hy vọng lâu dài của một số nhà lănh đạo tôn giáo làm việc trong cứu trợ. Tuy nhiên, đối với một số nhà lănh đạo tôn giáo khác, thịnh vượng có lẽ không quan trọng trong thời kỳ chiến tranh và bất ổn chính trị như khẳng định tôn giáo nặng nề về chính trị và xă hội ở miền Nam Việt Nam.

 

Hoạt động chính trị Công giáo

 

Trong khi phần lớn các hoạt động công cộng của người Công giáo Việt Nam có xu hướng nằm trong lĩnh vực trợ giúp xă hội, họ cũng tham gia vào chính trị. Theo Allan Goodman, mặc dù Phật tử chiếm đa số ở Việt Nam, người Công giáo được coi là tổ chức chính trị tốt hơn. [46] Trong khi sự đồng thuận là người Công giáo ít bị bẻ găy như một khối chính trị hơn Phật tử, [47] họ không có nghĩa là một phong trào thống nhất. Có nhiều phe phái cạnh tranh, xuất hiện vào giữa những năm 1960 trong một loạt các đảng chính trị và các khối chính trị trong cơ quan lập pháp Việt Nam. Một số bộ phận là đơn vị, bắt nguồn từ ḷng trung thành đối với một linh mục cụ thể. Đến năm 1965, có hai phe phái hùng mạnh, cả hai phe này đều chống cộng mạnh mẽ. Một người đứng đầu là Cha Hoàng Quỳnh, người đă lănh đạo một giáo xứ Công giáo quan trọng (Phát Diệm) tại tỉnh Ninh B́nh của miền Bắc Việt Nam trước khi di cư vào Nam. Phe khác do Fathers Trần Đức Huynh và Mai Ngọc Khuê lănh đạo, người đă lănh đạo giáo xứ Bùi Chu ở Nam Định (Bắc Việt Nam) trước năm 1954. [48] Ngoài ra c̣n có các phe trí thức Công giáo liên quan đến các ấn phẩm khác nhau, như Sống Đạo và Hành Tŕnh. [49]

 

Ngoài ra, như Peter Hansen lập luận, sự khác biệt văn hóa khu vực và giáo hội đă tạo ra một sự phân chia giữa những người di cư Công giáo miền bắc và những người Công giáo sống ở miền Nam Việt Nam trước năm 1954. Hansen cho rằng những người di cư Công giáo miền Bắc có xu hướng chống cộng và dân quân nhiều hơn. [50] Hơn nữa, không phải tất cả người Công giáo và linh mục Công giáo đều chống cộng hoặc ủng hộ nỗ lực chiến tranh. Nguyễn Thị bổ, người tiên phong của công tác xă hội ở Việt Nam, đă viết trong hồi kư của ḿnh về một số linh mục Công giáo tiến bộ, người đă làm việc cho sự thay đổi xă hội có ư nghĩa và không ủng hộ cách các chính phủ miền Nam Việt Nam thực hiện chiến tranh. Trong số các linh mục tiến bộ mà bà đề cập có Cha Trương Bà Cần, một người di cư phương Bắc. [51] Điều này cho thấy rằng ngay cả trong dân số di cư phía bắc cũng có quan điểm chính trị khác nhau. Trần Thị Liên cũng củng cố quan điểm này trong một trong những bài viết của ḿnh, nơi cô cung cấp một cuộc thảo luận ngắn gọn về những người Công giáo nổi tiếng đă phản đối Ngô Đ́nh Diệm và các chính sách của ông. [52] Những đối thủ Công giáo của Diệm chủ yếu là trí thức liên quan đến Nguyễn Mạnh Hà, cựu bộ trưởng kinh tế của chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh năm 1945. Nhiều người đă học cùng nhau ở Paris và Louvain và họ bao gồm Nguyễn Đ́nh Dầu, một trong những người sáng lập tạp chí Song Dao (Living Faith). Những trí thức Công giáo này ủng hộ một giải pháp trung lập để chấm dứt chiến tranh và thúc đẩy lập trường ḥa giải hơn đối với các Phật tử.

 

Do hậu quả của vai tṛ chính trị tích cực của người Công giáo Việt Nam, chính phủ Mỹ đă nỗ lực có ư thức để biết quan điểm của họ và ra ṭa ủng hộ họ. Trong Hồ sơ Trung ương của Bộ Ngoại giao, có rất nhiều hồ sơ liên lạc giữa các nhà lănh đạo Công giáo, đặc biệt là các linh mục chống cộng cánh hữu, và các quan chức đại sứ quán khác nhau. Các cuộc tṛ chuyện đôi khi được khởi xướng bởi các quan chức Mỹ, những người muốn khảo sát quan điểm chính trị của dân số Công giáo. Trong khi các quan chức Mỹ t́m kiếm quan điểm của các linh mục cao cấp như Cha Hoàng Quỳnh, họ cũng nói chuyện với các linh mục ít ảnh hưởng hơn trong nỗ lực t́m hiểu người Công giáo b́nh thường. [53] Đôi khi những tête-à-tête này xảy ra theo lệnh của các linh mục Công giáo Việt Nam, những người t́m kiếm sự hỗ trợ của Mỹ về các vấn đề chính trị khác nhau. Một ví dụ về điều này xảy ra vào tháng 12 năm 1964, ngay sau khi quân đội bắt giữ một số thành viên của Hội đồng cấp cao quốc gia, một nhóm các nhà lănh đạo dân sự kiệt xuất có nhiệm vụ giúp Việt Nam tiến tới cai trị dân sự. . Trong khi ở đó, họ cũng cố gắng thuyết phục Levine rằng Viện truyền bá đức tin (Viên Ḥa Đạo) là một mặt trận cho những người cộng sản. [55]

 

Cũng có những trường hợp khi các linh mục khác nhau sẽ kêu gọi các quan chức Mỹ tại nhà của họ để nói lên mối quan tâm hoặc thậm chí để trút sự thất vọng của họ. Chẳng hạn, cha Nguyễn Quang Lâm, nhà xuất bản báo Xay Dung, đă đến căn hộ của đại sứ quán David Engel, để bày tỏ sự bất b́nh về việc tái bổ nhiệm Henry Cabot Lodge làm đại sứ Mỹ tại Việt Nam. [56] Những ví dụ này cho thấy thay v́ chỉ là đối tượng thao túng cho Hoa Kỳ, các nhà lănh đạo Công giáo chống cộng đă tích cực t́m cách giành được sự ủng hộ chính trị của Mỹ về các vấn đề mà họ cảm thấy bị ảnh hưởng bởi người Công giáo Việt Nam, như tái bổ nhiệm một đại sứ mà họ tin đă có một vai tṛ trong lật đổ và cái chết của Diệm.

 

Ngoại giao yên tĩnh không phải là con đường hành động duy nhất của người Công giáo Việt Nam. Công giáo Việt Nam cũng khai thác hiệu quả lĩnh vực công cộng. Báo chí và tạp chí Công giáo phát triển mạnh ở miền Nam Việt Nam. Năm 1954, đă có 13 tờ báo Công giáo lớn ở Việt Nam. Một số đă không tồn tại sau một vài năm và các ấn phẩm mới nhanh chóng xuất hiện. [57] Từ năm 1954 đến 1963, có 17 ấn phẩm Công giáo xuất hiện và tồn tại ở miền Nam Việt Nam. [58] Một số các ấn phẩm này có lượng độc giả lớn. Xay Dung, chẳng hạn, có số lượng lưu hành hàng ngày là 30.000 vào năm 1967. Trong số 27 tờ nhật báo ở miền Nam Việt Nam vào thời điểm đó, chỉ có một số ít có số lượng lưu thông cao hơn. [59] Một nhật báo Công giáo khác, Ḥa B́nh, có số lượng lưu hành 20.000. Cả hai tờ nhật báo Công giáo cung cấp tin tức chính trị từ góc độ Công giáo. Ví dụ, vào mùa hè năm 1964, Xay Dung đă kỷ niệm mười năm di cư miền bắc. Bài báo đă xuất bản các bài tiểu luận và h́nh ảnh phản ánh về cuộc di cư năm 1954 và ư nghĩa của sự kiện đă thay đổi cuộc sống của gần một triệu người miền Bắc.

 

Ngoài việc sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông in ấn, người Công giáo Việt Nam c̣n hành động thông qua các hiệp hội tự nguyện, chẳng hạn như các nhóm thanh niên và phụ nữ. Các nhóm thanh niên Công giáo đă tích cực trong cả các hoạt động cứu trợ và kích động chính trị. Họ thường được kêu gọi để giúp cứu trợ khẩn cấp cho các nạn nhân lũ lụt hoặc cho những người tị nạn chiến tranh, như đă thảo luận ở trên. Nguồn gốc của các hiệp hội Công giáo này nằm trong thời kỳ thuộc địa Pháp dưới ảnh hưởng của Đức cha Hồ Ngọc Cần. Vào năm 1935, Can là giám mục người Việt thứ hai của Việt Nam. Ông là người thúc đẩy mạnh mẽ các hiệp hội giáo dân Công giáo, như Hướng đạo sinh Công giáo, T́nh nguyện viên Giáo hội, Trái tim linh thiêng và Linh hồn Valliant, Thanh niên Nông nghiệp Công giáo, Thanh niên Công giáo Nông thôn và Công nhân Thanh niên Công giáo. [60]

 

Những người đă quyết tâm ra đi để t́m một cuộc sống mới với tự do tôn giáo

 

 The people who were determined to leave in order to find a new life with religious freedomXay Dung, 19-20 July 1964

 

-> Voir la liste des figures

 

Một người quảng bá khác của các hiệp hội giáo dân Công giáo là Đức cha Lê Hữu Tú, người đă được tấn phong năm 1945. Giống như các hiệp hội được thúc đẩy bởi Đức cha Can, các hiệp hội Tu, có phạm vi rộng. Một số trong các hiệp hội này đă tập trung vào các vấn đề tâm linh, trong khi những người khác có bản chất chính trị xă hội. [61] Trên thực tế, với tư cách là Giám mục Phát Diệm, Tú đảm nhận vai tṛ lănh đạo dân sự cũng như các nhiệm vụ của một nhà lănh đạo tinh thần. Ông nổi tiếng v́ đă thành lập một dân quân tự vệ ở Phát Diệm để bảo vệ giáo phận này khỏi sự xâm lược của Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Mặc dù Giáo hội Công giáo Việt Nam lúc đầu ủng hộ Hồ Chí Minh và Việt Minh, đến năm 1946, mối quan hệ giữa Việt Minh và Giáo hội Công giáo xấu đi khi sự ngờ vực và căng thẳng lẫn nhau nảy sinh. [62] Cảm thấy bị đe dọa, hệ thống cấp bậc Công giáo Việt Nam đă có lập trường chống cộng và khuyến khích người Công giáo Việt Nam đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản. Do đó, trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Giáo hội Công giáo tại Phát Diệm đă đảm nhận vai tṛ của chính phủ và chăm sóc các nhu cầu xă hội và phúc lợi của người dân, cung cấp cho họ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và xă hội. [63] Xu hướng này của các giáo sĩ Công giáo tham gia vào các vấn đề công dân và xă hội vẫn tiếp tục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1960.

 

Vào giữa những năm 1960, có một số nhóm thanh niên Công giáo, nhiều nhóm trong số đó có trụ sở xung quanh các trường đại học. Liên đoàn sinh viên Công giáo (CSF) là một trong những hiệp hội có ảnh hưởng lớn hơn. Chủ tịch của nó là một sinh viên đại học chống cộng, Trần Ngọc Bầu. Liên đoàn gồm có ba tổ chức nhỏ hơn: Các sinh viên Công giáo trẻ, Legion of Mary và Tu hội Mary. CSF cũng bao gồm khoảng 500 sinh viên đại học từ Sài G̣n. [64] Cũng có các hiệp hội liên kết với các phong trào Công giáo quốc tế, như Hiệp hội Công nhân Cơ đốc trẻ. [65]

 

Năm 1974, Tống Liên Đoàn Sinh Viên Công Giao Việt Nam (Tổng liên hiệp sinh viên đại học Công giáo) được thành lập với Nguyễn Văn Cường làm tổng thư kư. Mục tiêu của giải đấu này là điều phối nhiều tổ chức thanh niên Công giáo và thúc đẩy việc mở rộng các hoạt động của họ. Lễ khai mạc có sự tham dự của nhiều quan chức chính phủ cũng như lănh đạo nhà thờ, trong đó có Tổng Giám mục Sài G̣n, Nguyễn Văn B́nh. [66] Các chi nhánh liên kết của tổ chức này được thành lập tại Huế, Nha Trang và Đà Lạt. Các hoạt động của họ bao gồm các sự kiện xă hội và công tác từ thiện; ví dụ, nhóm Đà Lạt đă tổ chức một dự án làm việc tại bệnh viện Tiêu Khu ở Đà Lạt. Các thành viên đă giúp dọn dẹp và sửa chữa tại bệnh viện. Ở Sài G̣n họ tổ chức diễn thuyết và sự kiện xă hội. [67]

 

Một số hiệp hội thanh niên xuất bản các tạp chí riêng của họ, chẳng hạn như Thong Camand Hien Điền. Được thành lập vào năm 1956, Thong Cam được chủ tịch CSF Trần Ngọc Bầu biên tập. Thong Cam tập trung vào chính trị xă hội nhiều hơn các vấn đề tâm linh. Trong khi có những thông báo về các hoạt động tôn giáo và giáo dân Công giáo, tạp chí này khao khát trở thành tiếng nói của sinh viên nói chung. Do Nguyễn Trần Quư biên soạn, Hiền Điền được xuất bản chung bởi bốn hiệp hội đại học Công giáo: những người từ các trường đại học Huế, Đà Lạt, Sài G̣n và Cần Thơ từ 1970 Tiết1971. Các bài viết trong Hiền Điền thảo luận về giáo dục, vai tṛ của sinh viên trong xă hội, các phong trào sinh viên ở Việt Nam và trên thế giới, cũng như tŕnh bày một diễn đàn về thơ và văn xuôi. Tạp chí rơ ràng giữ một quan điểm bảo thủ chính trị, xa rời các nhóm sinh viên cấp tiến hơn, đặc biệt là Hiệp hội sinh viên đại học. Trong một vấn đề, Hiền Điền đă có một cuộc phỏng vấn với một phái đoàn Thanh niên Mỹ v́ Ḥa b́nh, một nhóm có trụ sở tại Washington, D.C., người muốn có ḥa b́nh thực sự cho Việt Nam, nhưng không phải là ḥa b́nh với bất kỳ giá nào. Nói cách khác, Thanh niên Mỹ v́ Ḥa b́nh không ủng hộ một nền ḥa b́nh có nghĩa là một miền Nam Việt Nam do cộng sản kiểm soát. Đáng kể, Tổng hội sinh viên đại học Sài G̣n đă không gặp nhóm này. [68]

 

Mặc dù có quan điểm bảo thủ của tạp chí, nhưng đó không phải là một cơ quan của chính phủ Nam Việt Nam. Trên thực tế, năm 1971 Hiền Điền đă bị phạt v́ vi phạm luật kiểm duyệt và tạm thời bị đóng cửa. [69] Bài báo xúc phạm là một cuộc thảo luận triết học do cha Nguyễn Văn Thành của Huế viết, thảo luận về việc người Việt có nên phản đối chủ nghĩa cộng sản hay không. Bài viết của Cha Thanh Giới có lẽ đă vượt qua giới hạn chấp nhận khi ông cho rằng Marx có một số hiểu biết có giá trị và việc chống lại chủ nghĩa cộng sản bằng súng và đạn không hiệu quả. Hơn nữa, Thanh lập luận rằng các lựa chọn giữa ủng hộ và chống cộng là quá hẹp và không thực tế. [70] Quan điểm phê phán và cởi mở này rơ ràng không được kiểm duyệt bởi chính phủ.

 

Ngoài các phương tiện truyền thông in ấn và các hiệp hội tự nguyện, người Công giáo Việt Nam đôi khi cũng xuống đường. Không chịu thua kém các đối thủ tôn giáo của họ, những người theo đạo Phật, Công giáo đă tổ chức nhiều cuộc mít tinh chính trị và biểu t́nh vào giữa những năm 1960. Vào tháng 1 năm 1964, CSF đă tổ chức hai cuộc mít tinh để phản đối Pháp ủng hộ chủ nghĩa trung lập như một cách để ngăn chặn cuộc nội chiến. Năm 1963, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đă đề xuất một dàn xếp ḥa b́nh ở Việt Nam sẽ bắt đầu bằng việc rút các lực lượng Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam. Vấn đề trung lập lại nổi lên một lần nữa vào tháng 1 năm 1964, khi có tin đồn rằng các thành viên của chính phủ Đại Minh Minh đang cân nhắc nghiêm túc đề nghị ḥa b́nh de Gaulle chanh. [71] Đối với CSF, chủ nghĩa trung lập là một uyển ngữ cho việc tiếp quản cộng sản. Chủ tịch của CSF, Trần Ngọc Bầu, đă tuyên bố trong một cuộc tṛ chuyện với thư kư đầu tiên của đại sứ quán Mỹ rằng nhiều người Công giáo cảm thấy rằng Tướng Dương Văn Minh và chính phủ của ông yếu và không hiệu quả và sẽ không thể đứng lên Bắc Việt Nam. [72]

 

Nam Việt Nam là một hộp tinder vào năm 1964, 191965 khi các cuộc đảo chính quân sự và các cuộc đảo chính đă chứng kiến các chính phủ đến và đi trong vài tháng. Nhiều cuộc biểu t́nh và biểu t́nh trên đường phố diễn ra tại các thành phố lớn là bằng chứng cho thấy người dân thất vọng với sự bất ổn chính trị. Sau khi chính phủ của tướng Minh, bị lật đổ vào tháng 1 năm 1964, tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền. Trong một nỗ lực để xoa dịu các nhà lănh đạo Phật giáo bất măn, những người cáo buộc Khánh vẫn c̣n nuôi dưỡng những người ủng hộ Diệm trong chính phủ của ông ta và các chính sách phân biệt đối xử với Phật tử, Khánh đă thực hiện một số hành động khiến dân chúng Công giáo tức giận. [73] Việc đầu tiên là xử tử Ngô Đ́nh Cần, một trong những anh em của Diễm, v́ đóng vai tṛ là một lănh chúa ảo của Huế. Khánh cũng đă truy tố Thiếu tá Đặng Sỹ, người đă ra lệnh cho quân đội miền Nam nổ súng vào những người biểu t́nh Phật giáo vào tháng 5 năm 1963. V́ Thiếu tá Sy là người Công giáo, điều này đă làm phật ḷng dân chúng Công giáo và báo chí Công giáo chỉ trích gay gắt chính quyền v́ đă gây rối cho phiến quân Phật tử. Tờ báo Xay Dung đă cáo buộc chính phủ sử dụng Sy làm vật tế thần và cho rằng điều này tương tự như vụ Dreyfus ở Pháp. [74] Cung cấp thêm cho người Công giáo Việt Nam quyết định băi bỏ Nghị định 10, coi Phật giáo là một hiệp hội chứ không phải là một tôn giáo, một đạo luật mà những người theo đạo Phật cảm thấy đúng là phân biệt đối xử với họ.

 

Đáp lại những nhượng bộ của Khánh, đối với những người theo đạo Phật và với sự khuyến khích của hệ thống cấp bậc Công giáo, ước tính 35.000 người Công giáo đă tham gia cuộc biểu t́nh vào ngày 7 tháng 6 năm 1964 tại Sài G̣n. [75] Theo báo cáo của Đại sứ quán Mỹ, những người biểu t́nh mang theo cả biểu ngữ tiếng Anh và tiếng Việt với các khẩu hiệu như: Đối lập với chủ nghĩa trung lập và chủ nghĩa cộng sản; Sẵn sàng chiến đấu v́ dân tộc và Giáo hội; Yêu cầu Việt Nam và Hoa Kỳ kiên quyết trong nỗ lực chống cộng. [76] Ngoài ra c̣n có các biểu ngữ chống Lodge, nhưng các quan chức Mỹ quy kết chúng cho những kẻ kích động. đặc biệt, chính phủ miền Nam đă âm thầm hứa với người Công giáo rằng Sy sẽ được ân xá sau khi một khoảng thời gian thích hợp đă trôi qua. [78]

 

June 7th Catholic Demonstration. Xay Dung, 9 June 1964, 1.

 

Biểu t́nh Công giáo ngày 7 tháng 6. Xây Dựng, ngày 9 tháng 6 năm 1964, 1.

Đến cuối mùa hè năm 1964, nhiều cuộc biểu t́nh đă nổ ra ở miền Nam Việt Nam khi Khánh cố gắng sử dụng sự cố Vịnh Bắc Bộ để tiến tới sự cai trị độc đoán. Vào ngày 17 tháng 8, Khánh ban hành một hiến pháp mới sẽ đưa ông trở thành tổng thống của miền Nam Việt Nam. Điều này dẫn đến các cuộc biểu t́nh lớn; lần này Phật tử và sinh viên dẫn đầu. Tại thời điểm này, nhiều nhà lănh đạo Công giáo ủng hộ Hiến pháp mới Khánh Hồi. . [80]

Làn sóng mới của các cuộc biểu t́nh do Phật giáo lănh đạo cũng gây căng thẳng giữa hai cộng đồng tôn giáo, dẫn đến bạo lực vào tháng 8 giữa các sinh viên Phật giáo và Công giáo. Vào ngày 21 tháng 8, các thanh niên Công giáo đă đốt cháy trụ sở của một hội sinh viên Phật giáo. Để trả thù, vào ngày 24 tháng 8, một nhóm 10.000 Phật tử đă tấn công và thiêu rụi một ngôi làng Công giáo bên ngoài Đà Nẵng. [81] Để dập tắt cơn giận, Khánh từ chức, nhưng ông vẫn có ảnh hưởng, góp phần định hướng cho chính quyền mới dưới thời Trần Văn Hương.

 

Nhiệm kỳ Trần Văn Hương kéo dài đến tháng 1 năm 1965 và Phan Huy Quát trở thành Thủ tướng dân sự mới vào tháng Hai. Với kế hoạch đề xuất của Quat, để mở cuộc đàm phán với NLF, các nhà lănh đạo Công giáo cùng với những người đề xướng chống cộng khác một lần nữa tiến hành các cuộc tấn công vào chính phủ này. Các nhà lănh đạo Công giáo cũng buộc tội Quat là người chống Công giáo v́ một số quyết định của ông. Chẳng hạn, Quát sa thải vị thống đốc thân Công giáo Sài G̣n, chỉ huy Công giáo của hải quân, và một số sĩ quan quân đội Công giáo. Quát cũng đă thực hiện một số cuộc hẹn nội các mà người Công giáo không chấp thuận. [82] Đến mùa hè năm 1965, các chiến binh Công giáo, do cha Hoàng Hoàng và Hồ Văn Vui, lănh đạo, đă vận động chống lại Thủ tướng Quát. [83] Cha Mai Ngọc Khuê nói với các quan chức đại sứ quán rằng người Công giáo sẽ không chấp nhận bất cứ điều ǵ ngoài việc loại bỏ Quất khỏi văn pḥng. [84] Cha Vũ Đức Trinh được trích dẫn rằng: Sự thù địch của Công giáo đối với Quát là vượt quá sự ḥa giải; Quát phải đi. Chỉ [85] Rơ ràng, các nhà lănh đạo Công giáo đă thành lập một quỹ đặc biệt để giúp đỡ các chi phí liên quan đến thương vong cho cuộc đấu tranh sắp tới. Một cuộc đối đầu dữ dội đă được tránh khỏi với Quat chanh lật đổ bởi Đại tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ vào tháng Sáu. [86]

 

Kích động chính trị Công giáo sẽ tiếp tục bất cứ khi nào người Công giáo cảm thấy lợi ích của họ bị đe dọa. Vào mùa hè năm 1965, người Công giáo đă tổ chức các cuộc biểu t́nh chống lại Lodge, người đă được bổ nhiệm lại làm đại sứ Mỹ tại Việt Nam. [87] Vào mùa xuân năm 1966, một lần nữa người Công giáo đă tổ chức các cuộc biểu t́nh rầm rộ chống lại những ǵ họ tin là sự bắt bớ của chính phủ đối với tối hậu thư của Phật giáo. họ đă có trong tay, bao gồm quyền truy cập vào các quan chức Mỹ và sự hỗ trợ từ các tổ chức và hệ thống phân cấp của Công giáo Mỹ.

 

Sau năm 1966, t́nh h́nh chính trị xuất hiện tương đối ít biến động. Nguyễn Cao Kỳ  đàn áp dă man các cuộc biểu t́nh của Phật giáo tại Huế và Đà Nẵng vào mùa xuân năm 1966 đă thành công trong việc dập tắt phong trào phản kháng của Phật giáo. Trong khi điều này không dập tắt được sự phản đối của Phật giáo, [89] nó đă đưa một số cuộc biểu t́nh đường phố kịch tính của năm trước chấm dứt vào thời điểm hiện tại. Mức độ biểu t́nh công khai của Công giáo dường như cũng giảm xuống. Các cuộc bầu cử tiếp theo và sự h́nh thành Cộng ḥa thứ hai (1967 191975) đă cung cấp một số con đường cho sự phản đối chính trị. Vào mùa thu năm 1966, các cuộc bầu cử đă được tổ chức để thành lập Quốc hội lập hiến và trong năm tiếp theo, cuộc bầu cử cho thượng viện và hạ viện, và nhiệm kỳ tổng thống đă diễn ra. [90]

 

Trong khi các cuộc bầu cử này có nhiều vấn đề và điều gây tranh căi là liệu cơ quan lập pháp có thực sự có quyền lực thực sự hay không, cuộc bầu cử đă chấm dứt một loạt các cuộc đảo chính quân sự xảy ra trong giai đoạn 1963–1965.

 

Các chính trị gia Công giáo chắc chắn đă lấy các cơ hội do các cuộc bầu cử này đưa ra để khẳng định ḿnh bằng cách điều hành các ứng cử viên của chính họ. Như đă đề cập trước đó, người Công giáo không có nghĩa là thống nhất trong quan điểm chính trị của họ. Đến năm 1967, có hai đảng chính trị Công giáo quốc gia cạnh tranh: Lực lượng Đoàn kết Đại chúng và Công dân Công giáo Khối. [91] Hai đảng này đă thành công trong việc bầu 13 đại biểu vào Hạ viện năm 1967. [92] Ngoài ra, 17 đại diện Công giáo khác đă được bầu vào Hạ viện thông qua các tổ chức Công giáo, địa phương. Ở hạ viện, đại diện Công giáo có xu hướng thành lập liên minh với các khối bảo thủ. Khối Đốc Lập hoặc Khối Độc lập, được Goodman mô tả là phe phe bảo thủ và ổn định nhất, được cấu thành chủ yếu từ những người Công giáo miền Bắc của Lực lượng Đoàn kết Đại chúng và Công dân Công giáo. [93] Có ảnh hưởng lớn vào năm 1965, Khối Độc lập đă chống cộng một cách mạnh mẽ và phản đối mọi nỗ lực đàm phán với NLF và Bắc Việt Nam. Khối cũng phản đối mạnh mẽ bất kỳ nỗ lực nào trong việc tái lập quan hệ với Phật tử. [94]

 

Trong khi những người bảo thủ chính trị và ôn ḥa có thể tranh căi để thay đổi thông qua quá tŕnh bầu cử, các nhà hoạt động cấp tiến hơn vẫn cố gắng nói lên mối quan ngại của họ thông qua nhiều cách khác nhau. Các giấy tờ đối lập của cả người Công giáo và người ngoài Công giáo tiếp tục né tránh kiểm duyệt và quấy rối chính phủ. Đến đầu những năm 1970, một số bài báo của Công giáo đă áp dụng lập trường quan trọng hơn về chiến tranh và các chính sách của Mỹ. [95] Trong khi t́nh cảm chống Mỹ bắt đầu xuất hiện trong số những người không cộng sản vào cuối những năm 1960, đến năm 1970, nó trở nên phổ biến hơn. Việc người Mỹ sử dụng thuốc diệt cỏ ở miền Nam Việt Nam trở thành một vấn đề nóng trên báo chí Việt Nam. Các bài báo Công giáo như Tin Sang và Ḥa B́nh, cùng với các bài báo thế tục, bắt đầu tập trung vào vấn đề này để bày tỏ sự phản đối chung hơn đối với Hoa Kỳ. [96]

 

Chính phủ Mỹ không phải là chủ đề chỉ trích duy nhất trong thập niên 1970. Chính quyền của Nguyễn Văn Thiệu, người nắm quyền từ năm 1967 191975, cũng nhận được sự giám sát của truyền thông. Một số điều này đến từ các bài báo Công giáo. Một tạp chí Công giáo đối lập nổi bật, Doi Điền, được thành lập năm 1970, rất phê phán Thiệu. Được xuất bản bởi một linh mục Cứu thế Cha Chan Tin và giáo sư triết học Nguyễn Ngọc Lan, Doi Điền kêu gọi ḥa b́nh và tập trung vào các vấn đề như lạm dụng nhân quyền trong các nhà tù nhà nước, tham nhũng chính phủ và buôn bán ma túy giữa các nhà lănh đạo quân sự. [97] Đến năm 1972, Doi Điền bị chính quyền đóng cửa và cha Chan Tin đă bị bắt nhiều lần. Bất chấp sự quấy rối này, Chan Tin vẫn tiếp tục kêu gọi sự chú ư đến các hành vi lạm dụng trong hệ thống nhà tù bằng cách đi đầu trong Ủy ban Cải cách Nhà tù ở miền Nam Việt Nam. [98]

 

Năm 1974, Thiệu phải đối mặt với nhiều sự phản đối của một linh mục Công giáo Ḍng Chúa Cứu thế khác, Cha Trần Hữu Thành, người lănh đạo một chiến dịch chống tham nhũng chống lại Thiệu. [99] Cha Thành đă buộc tội Thiệu về sự đồi bại chống chủ nghĩa cộng sản v́ mục đích cá nhân và tham nhũng. [100] Ông buộc tội vợ Thiệu, Nguyễn Thị Mai Anh, người đứng đầu tổ chức từ thiện phụ nữ của ḿnh, lạm dụng các quỹ từ thiện. Thiệu đă đáp lại những lời buộc tội này bằng cách đóng cửa ba tờ báo mang bản cáo trạng của cha Thanh,. V́ Thanh là một người chống cộng kiên quyết có liên hệ với Học viện quân sự Cộng ḥa Việt Nam, nên thách thức của anh ta với Thiệu là ghê gớm - Thiệu không thể đơn giản gạt bỏ anh ta như một kẻ lầm đường bởi tuyên truyền của cộng sản. Chiến dịch của Thanh, cùng với hành động của Thiệu, và t́nh h́nh tuyệt vọng của chiến tranh, đă góp phần làm mất sự hỗ trợ của Công giáo vào năm 1974. Tuy nhiên, sự mất hỗ trợ này ít quan trọng vào thời điểm này, v́ Nam Việt Nam đang nhanh chóng làm sáng tỏ chiến thắng chỉ là vấn đề thời gian.

 

Phần kết luận

Khảo sát ngắn gọn này về một số hoạt động chính trị xă hội của người Công giáo Việt Nam tại miền Nam Việt Nam cho thấy người Công giáo Việt Nam có tổ chức cao và chủ động trong việc cố gắng gây ảnh hưởng đến các sự kiện chính trị xă hội thời đó. Nhiều mệnh lệnh Công giáo và giáo dân t́nh nguyện làm việc lặng lẽ để cung cấp cứu trợ nhân đạo trong chiến tranh; trong nỗ lực này, họ đă làm việc nhiệt t́nh với các cơ quan chính phủ nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ để có được tiền và hỗ trợ tổ chức. Các tổ chức tôn giáo này cũng làm việc chặt chẽ với nhà nước Nam Việt Nam để cung cấp viện trợ cho trẻ mồ côi và người tị nạn. Trong sự phụ thuộc của họ vào nhà nước và các chính phủ và cơ quan nước ngoài, người Công giáo Việt Nam đă không nhận thức được những tác động chính trị tiêu cực trong các mối quan hệ của họ. Tuy nhiên, giống như nhiều người Việt Nam không cộng sản, các tổ chức cứu trợ Công giáo thấy ít lựa chọn nhưng phải chấp nhận viện trợ nước ngoài và nhà nước. Trên thực tế, các tổ chức từ thiện Công giáo Việt Nam đă làm hết sức ḿnh để thu hút viện trợ của nhà nước và nước ngoài, v́ cứu trợ chiến tranh được coi là quan trọng trong việc xây dựng và duy tŕ một miền Nam Việt Nam không cộng sản. Do đó, Giáo hội Công giáo Việt Nam khuyến khích công tác nhân đạo giữa giáo dân và đóng khung nó không chỉ là nghĩa vụ tôn giáo, mà c̣n là trách nhiệm yêu nước của công dân.

 

Người Công giáo và giáo sĩ Việt Nam cũng không ngại tham gia chính trị. Các nhà lănh đạo Công giáo đă sử dụng báo chí, các hiệp hội tự nguyện và các cuộc biểu t́nh công khai để khẳng định ḿnh trong phạm vi công cộng. Vào năm 1964,  người Công giáo đă xuống đường để nói lên những lo ngại của họ về việc quản trị không hiệu quả, nhà nước được cho là chính sách chống Công giáo và lập trường mềm mỏng đối với chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ 1966, 1967, người Công giáo đă tham gia rất nhiều vào chính trị bầu cử, đảm bảo rằng người Công giáo được đại diện tốt ở nhà trên và dưới. Họ tiếp tục làm việc đằng sau hậu trường và dưới ánh đèn sân khấu để bảo vệ những ǵ họ cho là lợi ích của Công giáo. V́ nhiều nhà lănh đạo Công giáo có tiếng nói và tích cực hơn là những người chống cộng và ủng hộ chiến tranh, nên người Công giáo như một nhóm xuất hiện như những con rối của chính phủ Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Tuy nhiên, như bài viết này lập luận, nhiều quan điểm khác nhau tồn tại giữa những người Công giáo, bao gồm cả những người ủng hộ một giải pháp chính trị và trung lập để chấm dứt chiến tranh. Bài viết này cũng cho thấy mặc dù chia sẻ các mục tiêu và quan điểm chính trị tương tự với chính phủ Hoa Kỳ, các nhà lănh đạo và phong trào Công giáo chống cộng mạnh mẽ không phải là công cụ thụ động để bị chính phủ nước ngoài thao túng. Trái lại, họ là những nhà hoạt động và chính trị gia năng động, đă nỗ lực hết sức để củng cố các liên minh chiến lược để đạt được các mục tiêu chính trị mà chính họ đă xác định: duy tŕ một miền Nam Việt Nam không cộng sản và không tạo ra sự phụ thuộc vào quyền lực của thực dân Mỹ mới.

 

 

 

Phụ hồi

 

Tôi xin cảm ơn Hội đồng nghiên cứu khoa học xă hội và nhân văn Canada đă tài trợ cho nghiên cứu này. Tôi cũng muốn cảm ơn Steven Lee và nhà phê b́nh ẩn danh về những gợi ư và nhận xét hữu ích của họ về bài viết này.

 

Ghi chú tiểu sử

 

VĂN NGUYÊN-MARSHALL là Phó giáo sư Lịch sử tại Đại học Trent. Cô đă được xuất bản về từ thiện và từ thiện ở Việt Nam thuộc địa và hiện đang làm việc về bản sắc trung lưu và cuộc sống liên kết ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1960-1970.

 

Image result for Van Nguyen-Marshall

 

https://www.erudit.org/fr/revues/jcha/2009-v20-n2-jcha3903/044402ar/

 

https://www.trentu.ca/history/faculty-research/van-nguyen-marshall

 

 

 

 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: