r
MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lư
* Constitution -Làm Sao -T́m IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
-09/2019 -10/2019 -11/2019 -12/2019 -01/2020 -02/2020
-03/2020 -04/2020 -05/2020 -06/2020 -07/2020 -08/2020
-09/2020 -10/2020 -11/2020 -12/2020 -01/2021 -02/2021
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019. Sep/2019. Oct/2019. Nov/2019. Dec/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
How To Broadcast Videos On You Tube
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
v White House v National Archives v
v Federal Register v Congressional Record
v USA Government v Congressional Record
v Associated Press v Commieblaster
v Reuter News v Real Clear Politics v LawNews
v MediaMatters v C-SPAN vNational Pri Project
v Videos Library v Judicial Watch v Hill
v MediaFactCheck v Infowar TownHall
v New World Order v Illuminatti News
v New Max v CNSv Daily Storm Foreign Policy
v MediaBiasFactCheck v FactReport
v PolitiFact v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation
v Observe v American Progress v Fair
v The Guardian v Political Insider v
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart
v American Free Press v Politico Mag
v National Public Radio v Foreign Trade
v National Review - Public Broacast v
v Federation of American Scientist v
v Propublica v Inter Investigate v CBS
v Tass Defense vRussia Militaty News
v ACLU Ten v CNBC v Fox News v
v Science&Technology v FoxAtlanta
v Gateway v Infowar v Open Culture
v Syndicate v Capital Research v Russia News
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển Bách Khoa VN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v
v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Roman Catholic v Khoa HọcTV v Sai Gon Echo v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v
http://archive.org/stream/causesoriginsles00unit#page/280/mode/2up
http://openlibrary.org/books/OL23285197M/Causes_origins_and_lessons_of_the_Vietnam_War.
Hồ Chí Minh là ai?
Có một cuộc thư hùng về cuộc đời của Hồ Chí
Minh, người đă sở hữu một ư tưởng mà thế giới từ chối nhường chỗ. Đây
không chỉ là giấc mơ của một Việt Nam độc lập, được giải phóng khỏi sự
trói buộc của đế chế, mà là tầm nh́n của Hồ về cuộc cách mạng sẽ mang
lại điều đó. Như đă xảy ra, đó là một cuộc cách mạng đôi khi không đủ
Leninist để phù hợp với những người đứng đầu Đảng của ḿnh, không kể đến
Stalin và Mao sau này, và ban đầu bị sa thải bởi những lư tưởng của kẻ
thù. Tự do, b́nh đẳng và t́nh huynh đệ - cũng là lễ kỷ niệm cuộc kháng
chiến chính nghĩa và mưu cầu hạnh phúc của Cách mạng Mỹ - khá rắc rối
với mục đích khi họ gắn bó với cuộc đấu tranh 30 năm mà ông lănh đạo.
Không có nhà lănh đạo quốc gia nào đứng bướng
bỉnh hay lâu như vậy trước súng của kẻ thù, ông đă viết tạp chí Time khi
Hồ qua đời năm 1969. Tương tự như vậy, không có lănh đạo quốc gia nào
chống lại biện pháp của kẻ thù lâu hơn Washington. Cuộc kháng chiến này
làm sâu sắc thêm sự thất bại của nước Mỹ, nhưng ít nhất là không thể
chấp nhận được, ít nhất là trên chiến trường, để thấy trong cuộc cách
mạng Việt Nam bất cứ điều ǵ khác ngoài một âm mưu, chiến tranh khủng
bố, nổi dậy về mặt khủng bố, có thể (hoặc không thể) bị đánh bại ở miền
Nam Việt Nam với kỹ thuật vượt trội, học thuyết cải cách sặc sỡ và không
ngừng triển khai lực lượng quân sự áp đảo.
Cuốn sách của William Duiker's, tiểu sử toàn
diện đầu tiên bên ngoài Việt Nam, là một sự xâm nhập đáng hoan nghênh
vào sự im lặng đă bao vây Hồ Chí Minh, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Duiker, một
giáo sư đă nghỉ hưu về nghiên cứu Đông Á tại bang Pennsylvania và là tác
giả của một số cuốn sách về Trung Quốc và Việt Nam hiện đại, đă viết một
lịch sử ngoại giao ấn tượng về cuộc đời của Hồ.
Duiker phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn thông
tin t́nh báo, chủ yếu là các nhà soạn thảo tiếng Pháp, Anh, Trung Quốc
và Comitern, được thông tin tốt hơn, một người hy vọng, hơn FBI hoặc
CIA. Từ những nguồn này, Hồ Ho Minh Minh rút ra thông tin chi tiết. Nhân
vật nổi lên: điệp viên trẻ tuổi, Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn yêu nước), Hồ de
guerre trong 25 năm, phóng qua các lục địa, xây dựng liên minh, vô hiệu
hóa kẻ thù và từ từ tổ chức bữa tiệc sẽ giúp thực hiện ước mơ của ḿnh,
là người đàn ông của một trăm bí danh nh́n qua con mắt của một ngàn cảnh
sát.
tôi
Tầm nh́n của Hồ về một Việt Nam độc lập lần đầu
tiên được đặt ra vào năm 1919 tại Versailles, khi ông kêu gọi các nhà
lănh đạo Đồng minh áp dụng lời kêu gọi tự quyết của Woodrow Wilson cho
Đông Dương thuộc Pháp. Anh ta 28 tuổi, một người con trai chính trị của
tầng lớp học giả trung tâm người Việt Nam, không có tương lai ở nhà
ngoài nhà tù. Sinh ra Nguyễn Tất Thành vào năm 1890, ông rời khỏi Sài
G̣n với tư cách là một cậu bé trên tàu Pháp vào năm 1911. Sau bốn năm ở
biển, dừng chân ở Boston và New York, ông định cư ở Paris, nơi ông làm
nghề chỉnh sửa nhiếp ảnh gia và (theo cách nói của Hồ), một họa sĩ của
'cổ vật Trung Quốc' (sản xuất tại Pháp!). Ở đó, ông bắt đầu thăm ḍ dư
luận về những tội ác của thực dân Pháp tại Việt Nam. Ông gia nhập Đảng
Xă hội Pháp, trong đó ông t́m thấy sự đồng cảm với nguyên nhân, và trở
thành thành viên sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp.
Versailles là cảnh đầu tiên trong số rất nhiều
nỗ lực của Hồ nhằm thuyết phục các nền dân chủ phương Tây tôn vinh các
quyền tự do mà họ tán thành. Nhưng ở phương Tây, quyền thiêng liêng của
tất cả các dân tộc quyết định vận mệnh của riêng họ (Ho, nói vào năm
1919) đă không mở rộng cho các dân tộc chủ đề, không phải vào cuối Thế
chiến II, khi những lời hứa tương tự được đưa ra bởi Franklin Roosevelt.
Tuy nhiên, mất tích từ tài khoản của Duiker là
một ư nghĩa, bắt đầu từ Montmartre sau Thế chiến I, nơi mọi người đang
tranh luận về mọi thứ, không chỉ các đồng chí mới của Hồ trong Đảng Xă
hội Pháp, những người đang tranh luận về công trạng của Thứ hai, Thứ
hai- và một nửa và Quốc tế thứ ba (Lenin), nhưng các nghệ sĩ và nhà văn
trẻ từ khắp nơi trên thế giới đă tranh luận trong các quán cà phê, bao
gồm một ở cuối đường phố của Đức Bà, nơi ông Ho sống và ở đâu, gần 50
năm sau, Những người cách mạng trẻ tuổi người Việt sống quá.
Đó là tất cả về những đứa trẻ
NỘI DUNG ĐƯỢC TÀI TRỢ
Đó là tất cả về những đứa trẻ
Bởi UNICEF Hoa Kỳ
Chính xác th́ UNICEF đang giúp đỡ ai? Xem khuôn
mặt của họ và t́m hiểu sự thật.
Cơ hội bị bỏ lỡ thực sự của Duiker là Trung
Quốc, nơi Ho đă dành một phần tốt trong những năm 1920, thập niên 30 và
40 và không nghi ngờ ǵ đă bị cuốn vào chính trị Byzantine của
Kuomintang thông qua người bạn Mikhail Borodin, người buôn bán vũ khí
của Stalin cho Tưởng Giới Thạch. Trong số các nhà văn phương Tây đang lo
lắng về sự hỗn loạn của Trung Quốc thời chiến là Christopher Isherwood,
người có những mô tả đầy màu sắc của đám đông bao gồm cả Tưởng Tưởng
Giới Thạch, Agnes Smedley, Chou En-lai, tướng lĩnh, đại sứ, nhà báo, sĩ
quan hải quân, lính không quân Đàn ông, nhà truyền giáo, gián điệp. Đây
là một số công ty mà Hồ giữ, cải trang thành một doanh nhân Trung Quốc
thịnh vượng tên là ông Ling. Năm 1945 tại Côn Minh, trụ sở của Không
quân 14 Hoa Kỳ, Ho được tuyển dụng làm đặc vụ OSS, tên mă là Lucius. Để
đổi lấy thông tin về người Nhật ở Việt Nam, OSS cung cấp cho quân đội du
kích non trẻ của ông (Việt Minh) vũ khí và huấn luyện. Thật là một thời
gian, nhưng Duiker không đặt bối cảnh.
Năm 1954, sau khi Việt Minh cuối cùng đă đưa
Quân đoàn viễn chinh Pháp do Mỹ hậu thuẫn ra khỏi Việt Nam, những lời
hứa của phương Tây đă bị rút lại. Nhưng cũng vậy, là một cam kết quan
trọng của các đồng minh Cộng sản của Hồ, những người quan tâm đến việc
xoa dịu Washington sau Chiến tranh Triều Tiên hơn là thúc đẩy các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc. Tại Hội nghị Genève năm 1954, các nhà đàm
phán Trung Quốc và Liên Xô đă rút lại sự ủng hộ của họ đối với một Việt
Nam thống nhất ủng hộ kế hoạch thỏa hiệp chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 17
cho đến năm 1956, khi cuộc bầu cử sẽ được tổ chức (họ không) để xác định
xem tàn dư thực dân được gọi là Nam Việt Nam muốn gia nhập Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa (DRV), mà Hồ độc lập đă có sắc lệnh vào năm 1945.
Duiker cung cấp thông tin mới về mối quan hệ
run rẩy mà Ho có với cả Liên Xô và Trung Quốc. Sự quan tâm của Nga đối
với cách mạng Việt Nam đă ở mức thấp, không chỉ sau Thế chiến II và năm
1954 mà kể từ năm 1923, khi Hồ đến Moscow để học việc cho cách mạng thế
giới, và Stalin nghi ngờ rằng Cộng sản đă giành được một quốc gia chứ
không phải một người theo chủ nghĩa quốc tế. Năm 1924, khi Hồ rời
Matxcơva để cố gắng tổ chức một đảng Cộng sản giữa những người di cư
Việt Nam ở Trung Quốc, th́ không có sự im lặng của Stalin. Khi kết thúc
Thế chiến II, ông đă thiết lập một mối quan hệ mỏng manh với Hoa Kỳ -
một bước đi tuyệt vời, đă đánh bại các đối thủ quốc gia của ông và, sau
khi Nhật Bản đầu hàng, cho phép nắm quyền lực nhanh chóng - Stalin nghi
ngờ về ḷng trung thành của anh.
Năm 1947, hai năm sau khi Việt Nam tuyên bố độc
lập - khi Hồ đă giới thiệu chính phủ mới với những từ này: Những người
đàn ông được tạo ra như nhau. Họ được tạo ra bởi Đấng Tạo Hóa của họ với
một số quyền không thể thay đổi. . . "- Cộng sản Trung Quốc công nhận
tính hợp pháp của DRV, c̣n Liên Xô th́ không. (Khi sĩ quan OSS của Mỹ
Archimedes Patti đọc bản thảo bài phát biểu của Hồ vào năm 1945, ông đă
hỏi một cách kinh ngạc nếu Hồ thực sự có ư định mượn Tuyên ngôn Độc lập.
Tôi không biết tại sao nó lại làm tôi buồn, sau đó anh ấy đă viết, có lẽ
là một cảm giác của quyền sở hữu độc quyền. ... Ho Ho dựa lưng vào ghế,
đầu ngón tay chạm vào môi anh, và nhẹ nhàng hỏi, tôi không nên sử dụng
nó?
Năm 1950, một năm sau khi Cộng sản lên nắm
quyền ở Trung Quốc, Hồ được mời đi cùng Mao và Chu Ân Lai trong chuyến
đi tàu tới Moscow, nơi Trung Quốc và Nga sẽ kư hiệp ước 30 năm, và Hồ,
người ta hy vọng, sẽ đánh bại trao đổi với Stalin về cuộc chiến chống
Pháp và giành được sự ủng hộ của Liên Xô. Nhưng Stalin, theo Nikita
Khrushchev, đối xử với anh ta một cách khinh miệt. Tại buổi lễ hiệp ước,
khi Hồ đề nghị Stalin kư một thỏa thuận tương tự với Việt Nam, Stalin đă
trả lời rằng v́ Hồ đang ở Moscow trong một chuyến thăm không chính thức,
điều này là không thể. Ho đề nghị, có lẽ trong tṛ đùa, rằng anh ta sẽ
bay quanh thị trấn trong một chiếc trực thăng và sau đó hạ cánh xuống
sân bay với vẻ hào hoa phù hợp, trong đó Stalin đă chộp lấy, xông Oh,
bạn Phương Đông. Bạn có trí tưởng tượng phong phú như vậy.
Nhưng Ho đă thuyết phục Liên Xô công nhận DRV
năm đó và cung cấp hỗ trợ vật chất cho Việt Minh với điều kiện Stalin
rằng Trung Quốc đóng một vai tṛ nổi bật trong việc chỉ đạo cuộc đấu
tranh. Nh́n lại, người ta thấy Stalin đă sai về Hồ như thế nào; ông là
người theo chủ nghĩa quốc tế và trở thành người Cộng sản v́ ông cũng là
người theo chủ nghĩa dân tộc. Như người bạn cũ của ông Phạm Văn Đồng đă
từng nói (khiến cả Đông và Tây không chắc về ư nghĩa của ông): Cộng sản
là người yêu nước chân chính nhất.
Các vấn đề thực sự của DRV xuất hiện sau đó với
người Trung Quốc, người đă bị thuyết phục vào năm 1950 rằng chiến tranh
với Hoa Kỳ có thể nổ ra tại bất kỳ điểm nào dọc biên giới của họ. (Rốt
cuộc, đó là năm quân đội Trung Quốc vượt qua vĩ tuyến 38 tại Hàn Quốc.)
V́ vậy, điều quan trọng là phải xây dựng hệ thống pḥng thủ của Trung
Quốc ở Đông Dương. Những quyết định này đương nhiên đă kích động chính
quyền Truman tham gia nhiều hơn và đến tháng 4, cả Washington và Bắc
Kinh đều cung cấp vũ khí và gửi các phái đoàn viện trợ cho các đồng minh
của họ tại Việt Nam. Xem xét các sự kiện đầy biến động của năm 1950,
người ta nhận ra Trung Quốc và Hoa Kỳ đă nợ các chiến lược ngăn chặn
tương ứng của họ ở Đông Nam Á như thế nào đối với cuộc thách đấu ở Hàn
Quốc và cuộc chiến tranh của Mỹ bị giam cầm trong Chiến tranh Lạnh từ
lâu trước khi Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ 1954.
II
Những rắc rối của Hồ với sự can thiệp của Trung
Quốc vào các vấn đề đối nội được xây dựng từ từ. Bộ trưởng Quốc pḥng Vơ
Nguyên Giáp đă sử dụng mô h́nh chiến tranh nhân dân Trung Quốc chống
Pháp, và sự xuất hiện của các đội cố vấn của Trung Quốc không phải là
không mong muốn. Nhưng nó đă sớm trở nên rơ ràng rằng chỉ thị của Stalin
đối với Mao bao gồm việc tái lập Đảng Cộng sản Đông Dương (mà Hồ thành
lập ở Hồng Kông năm 1930) cùng với nhiều đường lối chính thống hơn. Theo
hướng dẫn của Hồ, mô h́nh Lênin của một cuộc cách mạng hai giai đoạn -
trong đó một liên minh rộng lớn hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc
trước khi đảng bắt đầu chuyển đổi sang chủ nghĩa xă hội - đă nán lại,
theo ư kiến của những kẻ cứng rắn như Trường Chính (Mao và Stalin cũng
vậy), quá lâu ở giai đoạn đầu tiên. Với chiến thắng của lực lượng Cộng
sản ở Trung Quốc đại lục và tăng triển vọng cho một chiến thắng của Việt
Nam trước Pháp,
Sau khi chuyển sang bên trái, các ổ đĩa như
tiếng Trung Quốc cay đắng nói về cuộc thập tự chinh đă được đưa ra ở cấp
độ làng, nơi các quy định cải cách ruộng đất tập trung vào việc giảm ảnh
hưởng kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ. Duiker, một cựu nhân
viên Bộ Ngoại giao làm việc tại Đại sứ quán Sài G̣n năm 1965, nơi ông
bắt đầu quan tâm đến Hồ Chí Minh, lần đầu tiên theo dơi những cuộc tranh
luận về ư thức hệ trong Cuộc chiến thiêng liêng: Chủ nghĩa dân tộc và
Cách mạng ở Việt Nam bị chia rẽ. tại Núi Hồ Chí Minh, anh ấy rất chú
trọng đến t́nh báo Pháp và lời khai của những người đào tẩu Việt Minh,
với kết quả là các cuộc tranh luận chủ yếu được xem là cuộc đấu tranh
quyền lực giữa các nhà lănh đạo đảng và được đưa ra khỏi một bối cảnh
trong đó cuộc cách mạng chống phong kiến , Có thể hiểu là giai đoạn thứ
hai, có thể hiểu được. Đó là một loại nỗ lực tuyển dụng, một cách để
thưởng cho người nông dân v́ ḷng trung thành của ḿnh và để biện minh
cho sự hy sinh hơn nữa, để phóng to biển cá hồi mà trong đó đảng và quân
đội đă bơi. Hay như Lê Đức Thơ, lúc đó là cán bộ đảng hàng đầu ở miền
nam, nhận xét năm 1952: Kiếm Nếu muốn lănh đạo nông dân cầm vũ khí,
trước tiên cần khơi dậy trong họ sự căm thù đối với kẻ thù cũng như để
nói lên nhu cầu thực tế của họ.
Duiker gợi ư rằng Ho, một người theo chủ nghĩa
dần dần, thích thú với hướng đi mới này v́ nó hạn chế khả năng thao túng
t́nh h́nh quốc tế và v́ nó dẫn đến một mức độ phụ thuộc vào sự giám hộ
của Trung Quốc mà anh ta đă chống lại trong quá khứ. (Thôi không nên
đánh hơi shit Pháp trong một thời gian hơn là ăn thịt người Trung Quốc
trong suốt quăng đời c̣n lại của chúng tôi, ông Hồ Ho nói khoảng năm
1946, apropos cố gắng đàm phán với Pháp trong thời kỳ chiếm đóng sau
chiến tranh của những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa ở miền bắc
Việt Nam.) ca ngợi chính phủ mới ở Bắc Kinh, Duiker nhận xét, đó là một
ví dụ về sự thành thạo của ông về nghệ thuật tâng bốc các nhà hảo tâm
của ông. . . Trong mọi trường hợp, khi chương tŕnh mới được đưa vào
thực tế, nó sủa nhiều hơn cắn; và chính sách xoa dịu người ôn ḥa của Hồ
tồn tại cho đến năm 1954, khi những tiếng nói đối nghịch, được kích động
bởi các cố vấn của Mao, đă nhấn ch́m ông.
Sau khi rơ ràng rằng Washington sẽ ngăn chặn
các cuộc bầu cử ở miền nam, một cuộc cải cách ruộng đất mới đầy thù hận
hơn đă được đưa ra, trong đó chủ nhà tái chiếm, nhiều người Công giáo,
đôi khi bị tra tấn và thậm chí bị giết. Ho đă lên tiếng mạnh mẽ chống
lại chiến tranh giai cấp bừa băi và lỗi của việc sử dụng tra tấn, một
phương pháp man rợ được sử dụng bởi đế quốc: Hồi Tại sao chúng ta phải
sở hữu một chương tŕnh công bằng, sử dụng các phương pháp tàn bạo như
vậy? Nhưng chỉ khi các cựu chiến binh Việt Minh phản đối sự sỉ nhục của
chính gia đ́nh họ, đảng mới lùi lại và kết luận, vào năm 1956, các quan
chức đă đánh giá quá cao kẻ thù. Tuy nhiên, đă quá muộn để ngăn chặn
cuộc di cư của gần 600.000 người Công giáo (900.000 người vẫn c̣n ),
người được các linh mục của họ hô hào đi theo Đức Trinh Nữ Maria,
Duiker gặp khó khăn với Ho trong giai đoạn này,
hay đúng hơn là trên hệ thống trên mạng, đó là chủ nghĩa Cộng sản. Mặc
dù Ho không liên quan trực tiếp đến sự thái quá của cải cách ruộng đất
hay đàn áp bất đồng trí tuệ đi kèm với nó, nhưng ông sẵn sàng tha thứ
cho những hành động đó của cấp dưới v́ lợi ích lớn hơn của sự nghiệp,
ông Duiker tuyên bố. Minh Hồ Chí Minh đă trở thành tù nhân của chính
ḿnh. . . không thể trong t́nh trạng ảnh hưởng đang suy giảm của ḿnh để
thoát khỏi logic phi lư của một hệ thống đă hy sinh số phận của các cá
nhân cho đạo đức cao hơn của kế hoạch tổng thể.
Trong khi đó, sự cảnh giác của Việt Nam đối với
ảnh hưởng của Trung Quốc đă leo thang trong cuộc chiến tranh của Mỹ. Nhu
cầu vật chất to lớn của Hà Nội đôi khi bị bóp nghẹt trong một loạt các
đơn tố cáo giữa Moscow, vốn đă bao trùm sự chung sống ḥa b́nh với
phương Tây vào năm 1956, và Bắc Kinh, vào cuối thập niên 60 đang thúc
đẩy Cách mạng Văn hóa. Vào năm 1967, khi tôi ở miền Bắc Việt Nam, bạn có
thể nghe thấy tiếng sụt pin khi một phái đoàn Trung Quốc đă long trọng
nộp vào một hội trường đông đúc để xem một buổi biểu diễn văn hóa.
“Suy giảm ảnh hưởng” của Hồ Chí Minh song hành
sự trỗi dậy của “Bác Hồ” (Bác Hồ) trong giới truyền thông, một người đàn
ông tử tế không c̣n ăn mặc như một nông dân và đi 30 dặm một ngày với
một gói trên lưng, như ông đă làm trong giải phóng các khu vực vào giữa
những năm 40, kết thúc bằng một trận bóng chuyền hay bơi lội. Khi sức
mạnh huyền thoại của Bắc Hồ thể hiện niềm tin của đất nước vào chính nó,
ư chí tập thể của nó, tăng lên, ảnh hưởng thực sự của ông đối với các
vấn đề đảng đầy phe phái giảm dần. Người kế vị của ông, thật đáng ngạc
nhiên (với tôi), không phải là đồng đội trẻ của ông Giáp và Phạm Văn
Đồng mà là Lê Duẩn và Lê Đức Thơ, những người có tư tưởng mà Duiker rất
quan tâm, người đă giúp chỉ đạo Lyndon Johnson gọi là Tấn công từ miền
Bắc.
Vào những năm 1960, Hồ Chí Minh có một ngôi nhà
nhỏ ở phía sau Dinh Tổng thống tại Hà Nội, nơi Thủ tướng Phạm Văn Đồng
tiếp khách nước ngoài. Đứng bên cánh cửa cao sang của Pháp, đôi khi
người ta có thể nh́n thấy anh ta, mặc quần kaki và dép, đi bộ nhanh qua
bóng cây xanh của những cây keo. Trong một bản di chúc cuối cùng, một
văn bản sau khi Tổng thống Richard Nixon nhậm chức, vài tháng trước khi
Hồ qua đời vào ngày 3 tháng 9 năm 1969, lúc 79 tuổi, ông cảnh báo rằng
cuộc chiến tranh có thể kéo dài. như thực sự đă có; nhưng những người
theo chủ nghĩa đế quốc sẽ phải từ bỏ. Tổ quốc chúng ta sẽ được đoàn tụ.
Chúng tôi, một quốc gia nhỏ, sẽ có được vinh dự độc nhất là đánh bại,
thông qua một cuộc đấu tranh anh hùng, hai đế quốc lớn - Pháp và Mỹ - và
đóng góp xứng đáng cho phong trào giải phóng dân tộc.
Và điều đó đă xảy ra: chỉ sau cuộc chiến mà 1,9
triệu người Việt Nam và 58.000 người Mỹ đă mất mạng, các cuộc nổi dậy
quốc gia ở Nicaragua, Ăng-gô-la, Mozambique và Iran đă chùn bước trước
những vấn đề mà người Việt tránh, trong đó có chủ nghĩa quân phiệt và
thất bại trong việc cô lập về mặt đạo đức. Cũng không có các nhà lănh
đạo cách mạng trước hoặc từ đó có sự táo bạo để tin, như Hồ đă làm, rằng
trong cuộc đấu tranh v́ sự cứu rỗi của quốc gia, các phong trào của họ
đang chiến đấu cho thế giới.
Duiker đưa cuộc chiến tranh của Mỹ đến hồi kết
cay đắng vào tháng 4 năm 1975 khi, dưới Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiếc
máy bay cuối cùng của Hoa Kỳ cất cánh từ nóc nhà Sài G̣n. Ông quét một
cách ngắn gọn các thử nghiệm của Việt Nam thời hậu chiến về chủ nghĩa xă
hội thị trường và thái độ cởi mở hơn đối với việc thể hiện ư tưởng, được
gọi là doi moi (cải tạo Hồi giáo). Ông chỉ ra rằng khi các nhà cải cách
bị chặn bởi những người bảo thủ, họ thường lôi cuốn di sản của chủ nghĩa
thực dụng của Hồ và với h́nh ảnh của ông là một người theo chủ nghĩa
nhân văn với sự khoan dung rộng răi cho các ư tưởng đối lập. Trước câu
hỏi được đặt ra về sự thuần khiết trong ư thức hệ của Hồ, Duiker trả
lời: Cày dù anh ta có phải là một người mácxít chính thống hay không,
dưới bề ngoài yêu nước của anh ta đă đánh gục trái tim của một nhà cách
mạng tận tụy. Sự căng thẳng mang tính cách mạng trong quan điểm của ông
Duiker không phải ở Matxcơva mà là những kinh nghiệm trên tàu mà từ đó
Hồ biết rằng những đau khổ của những người đồng hương của ông đă được
chia sẻ bởi những người khác ở châu Á và châu Phi sống dưới chế độ đế
quốc. Về lư do tại sao anh ta chuyển sang khối Xă hội chủ nghĩa khi điều
đó gây nguy hiểm cho các cuộc trao đổi của anh ta với Hoa Kỳ, anh ta nói
rằng một ḿnh Liên Xô của các cường quốc là một người bạn cần và một
người bạn trong hành động.
III
Là một nhân vật, Ho dẹp đi sau năm 1950, khi
anh ta thoát khỏi hồ sơ của cảnh sát đế quốc và hồi kư sống động của
Khrushchev và nhà ngoại giao Pháp Jean Sainteny. Duiker thực hiện một
công việc đáng ngưỡng mộ là ghi lại sự hợp nhất của nhà nước Việt Nam,
nhưng ngay cả khi được tiếp cận với kho lưu trữ rộng răi của Hà Nội, Chủ
tịch Duiker Hồ không phù hợp với Nguyễn Ái Quốc. Người ta muốn biết
nhiều hơn về người đàn ông đi qua tỉnh Kwangsi năm 1940 cải trang thành
phóng viên người Hoa nói tiếng Pháp, với Phạm Văn Đồng làm phiên dịch
viên. Và về người đă viết về Wendell Willkie, trong khi bị giam cầm
trong một nhà tù Trung Quốc:
Cả hai chúng tôi là bạn của Trung Quốc,
Cả hai đang đi đến Chungking.
Nhưng bạn được trao chỗ của một vị khách danh
dự,
Trong khi tôi là một tù nhân, bị ném dưới các
bậc thang. . . .
Và những ǵ về người đàn ông đă viết bức thư
này cho một đặc vụ OSS ở Côn Minh vào tháng 8 năm 1945 (không được trích
dẫn trong cuốn sách của Duiker):
Cấm thân mến Trung úy Fenn: Chiến tranh đă kết
thúc. Nó là tốt cho tất cả mọi người. Tôi chỉ cảm thấy tiếc v́ tất cả
những người bạn Mỹ của chúng tôi phải rời xa chúng tôi sớm như vậy. Và
việc họ rời khỏi đất nước này đồng nghĩa với việc quan hệ giữa bạn và
chúng tôi sẽ khó khăn hơn.
Chiến tranh là chiến thắng. Nhưng chúng ta các
nước nhỏ và chủ thể không có chia sẻ, hoặc chia sẻ rất nhỏ, trong chiến
thắng của tự do và dân chủ. Có lẽ, nếu chúng tôi muốn có được một phần
đủ, chúng tôi vẫn phải chiến đấu. Tôi tin rằng sympaty [sic] và sympaty
[sic] của những người Mỹ vĩ đại sẽ luôn ở bên chúng tôi. . . .
Và Chủ tịch Hồ ở Paris năm 1946, trong một nỗ
lực cuối cùng để tránh chiến tranh với Pháp - người cảm thấy giống như
một người Việt Nam Charlie Chaplin Hồi khi anh ta bị săn đuổi trên đại
lộ Champs-Elysees - anh ta đang ở đâu? Thật khó để t́m thấy nhân vật kỳ
quặc này ở Núi Hồ Chí Minh, ở phong cách này hơi giống với lăng mà ngày
nay Hồ nằm ướp ở Hà Nội: nặng nề và suy ngẫm. Trái ngược hoàn toàn với
sự hài hước hay thay đổi và tính cách không khoa trương của người chiếm
hữu nó. . . .
Duiker, tất nhiên, chống lại một người đàn ông
có tài năng ngụy trang vượt quá yêu cầu của cuộc sống dưới ḷng đất.
Nhưng Ah, nhưng bạn biết đấy, tôi là một ông già, một ông già. . . . Tôi
thích nắm giữ những bí ẩn nhỏ của ḿnh, ông Ho Ho nói với nhà báo người
Pháp Bernard Fall vào năm 1962, khi Fall đang ở Hà Nội cố gắng, không
thành công, để t́m hiểu điều ǵ đó về cuộc sống riêng tư của Ho. Duiker
phát hiện ra một người vợ Trung Quốc, ngoại t́nh với một đồng chí nữ, có
tin đồn về một liên lạc bi thảm ở Hà Nội vào năm 1955 nhưng ít nói về
cuộc sống nội tâm của Hồ.
Kỳ lạ thay, ông đă bỏ qua một nguồn quan trọng:
các tác phẩm của một nhà cách mạng đa ngôn ngữ, người đă đóng gói một
máy đánh chữ gần như mọi nơi ông đến - Paris, London, Moscow, Trung
Quốc, Siam, Macao, Hồng Kông - trước khi quay trở lại Việt Nam vào năm
1943. những năm Hồ gửi một loạt bài báo và b́nh luận về các cuộc đấu
tranh chính trị trên khắp thế giới; mở thư cho chính khách và cảnh sát
trưởng, nhắn tin cho đồng bào; tiểu thuyết, vở kịch, thơ, thậm chí là
phim hoạt h́nh, hầu hết có chữ kư của Nguyễn Nguyễn Quốc. Cảnh Duiker,
người t́m thấy văn bản của người đi bộ Hồ theo phong cách và không có
hứng thú về ư thức hệ, vượt qua bộ đệm lớn hơn này, cho thấy một nhân
vật phức tạp hơn các nhà sử học đă truyền đạt.
Bài viết này, và sự thèm ăn vô độ của Hồ (ông
đă ám ảnh thư viện Thông tin Chiến tranh Hoa Kỳ tại Côn Minh), gợi ư một
khía cạnh khác của nhân vật Hồ bên cạnh người thúc đẩy và chiến lược gia
chủ yếu của Em, được tŕnh bày trong Nhà thờ Hồ Chí Minh. từ Việt Nam,
Ho đă trở thành một trí thức có tầm nh́n rộng lớn và sự kết nối chính
trị rộng lớn đă thúc đẩy cuộc cách mạng mà anh ta lănh đạo với một thế
giới và chiều sâu của trái tim và tâm trí không thể so sánh với bất kỳ
ai khác. Do đó, đó là sự tham gia của đất nước ông với Goliath đă trở
thành một thời điểm xác định của thế kỷ 20. Di sản của Hồ, và thực tế là
chiến thắng của người Việt Nam đă đưa ra dấu hiệu rơ ràng đầu tiên về
giới hạn sức mạnh của Hoa Kỳ, là lư do có thể nói, để diễn giải Duiker,
rằng sau Hồ, thế giới sẽ không bao giờ giống như vậy.
Mikhail
Markovich Borodin , (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1884, Yanovichi, Nga [hiện
ở Bêlarut] ngày 29 tháng 5 năm 1951, Siberia), người đại diện của
Comitern tại Trung Quốc vào những năm 1920, người đă xây dựng Đảng Quốc
gia có cấu trúc lỏng lẻo (Kuomintang) của Tôn Trung Sơnthành một tổ chức
theo phong cách Lênin tập trung cao độ. Borodin gia nhập đảng Bolshevik
ở Nga vào năm 1903. Năm 1906, ông bị bắt và lưu đày. Cùng năm anh di cư
sang Hoa Kỳ, theo học Đại học Valparaiso, Indiana, và sau đó thành lập
một trường học cho émigrés ở Chicago. Sau Cách mạng Nga năm 1917, ông
trở về Nga và được phái đi làm điệp viên cộng sản tại Scandinavia,
Mexico, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh. Ông đến Trung Quốc
năm 1923 với tư cách là cố vấn cho Tôn Trung Sơn Trở về Moscow, Borodin
từng là phó ủy viên lao động, phó giám đốc hăng tin Tass, và, từ năm
1932, biên tập viên của Moscow Daily News, xuất bản bằng tiếng Anh. Ông
biến mất vào tháng 2 năm 1949 trong một làn sóng bắt giữ do Joseph
Stalin chỉ đạo chống lại các trí thức Do Thái. Ông mất năm 1951 trong
một trại lao động ở Siberia. Tôi biết chúng tôi có nhiều thành viên
người Nga ở đây, và tôi tự hỏi liệu có ai trong số họ cũng có thể đă
nghiên cứu hoặc nghe về anh chàng này trong các khóa học của họ liên
quan đến lịch sử ngoại giao Trung Quốc / Đông Nam Á. Cảm ơn trước, bất
kỳ nguồn lực hoặc hướng đến họ sẽ được đánh giá rất cao.
, sau khi nhà
lănh đạo Quốc gia được thông qua trong mong muốn của Liên Xô rằng những
người cộng sản Trung Quốc được phép gia nhập Quốc dân đảng. Bên cạnh
việc giúp tái cấu trúc tổ chức và hệ tư tưởng Kuomintang, Borodin đă
viện trợ cho những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trong việc
phát triển một đội quân đảng, khiến họ trở thành một lực lượng mạnh mẽ
trong chính trị Trung Quốc. Sau cái chết của Tôn Trung Sơn năm 1925,
Tưởng Giới Thạch, trở về sau khi được huấn luyện ở Moscow, trở thành
người đứng đầu quân đội. Năm 1927, Tưởng đă chia tay với những người
cộng sản, và Borodin rời khỏi đất nước.
Tôi quan tâm đến bất kỳ cuốn sách nào có thể có
trên cuộc sống và công việc của anh ấy, hoặc bất kỳ thông tin nào khác
mà một số thành viên được giáo dục của chúng tôi có thể có. Tôi không cố
gắng thần thánh hóa hay quỷ dị, thẳng thắn v́ tôi không biết nhiều về
anh ta. Tuy nhiên, tôi bắt đầu thích t́m hiểu thêm v́ công việc của anh
ấy với những người đàn ông Đông Á quan trọng như Hồ Chí Minh, Tôn Trung
Sơn và Tưởng Giới Thạch.
Hồ Chí Minh là ai?
Bởi
CAROL BRIGHTMAN
NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 2000 12 GIỜ SÁNG
CAROL BRIGHTMAN LÀ TÁC GIẢ CỦA "VIẾT MỘT CÁCH
NGUY HIỂM: MARY MCCARTHY VÀ THẾ GIỚI CỦA CÔ ẤY". BÀ LÀ NGƯỜI SÁNG LẬP VÀ
BIÊN TẬP VIÊN CỦA BÁO CÁO VIỆT VÀ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY ĐĂ TRỞ LẠI
VIỆT NAM NHIỀU LẦN ĐỂ THU THẬP LỊCH SỬ TRUYỀN MIỆNG VỀ HAI CUỘC CHIẾN
TRANH ĐÔNG DƯƠNG
in:
All articles with unsourced statements,
Articles with unsourced statements from November 2014, All articles with
dead external links, and 28 more
Ho Chi Minh
EDIT
COMMENTS
SHARE
For other uses, see Ho Chi Minh
(disambiguation).
Ho Chi Minh
Ho Chi Minh 1946.jpg
Portrait c. 1946
Chairman of the Central Committee of the
Communist Party of Vietnam
In office
19 February 1951 – 2 September 1969
Preceded by
Position established
Succeeded by
Post abolished
First Secretary of the Central Committee of the
Communist Party of Vietnam
In office
1 November 1956 – 10 September 1960
Preceded by
Trường Chinh
Succeeded by
Lê Duẩn
President of Vietnam
In office
2 September 1945 – 2 September 1969
Preceded by
Position established
Succeeded by
Tôn Đức Thắng
Prime Minister of Vietnam
In office
2 September 1945 – 20 September 1955
Preceded by
Position established
Succeeded by
Phạm Văn Đồng
Personal details
Born Nguyễn Sinh Cung
19 May 1890
Nghệ An Province, French Indochina
Died 2 September 1969 (aged 79)
Hanoi, North Vietnam
Nationality
Vietnamese
Political party
Workers’ Party of Vietnam
Spouse(s)
Tang Tuyet Minh[1][2][3]
Signature
Ho Chi Minh Signature.svg
Hồ Chí Minh (Northern Vietnamese pronunciation
: [ho̞˧˩ t͡ɕi˧˥ mɪŋ˧] (Speaker Icon.svg listen), Southern Vietnamese
pronunciation : [ho̞˧˩ t͡ɕɪj˧ mɪ̈n˧] (Speaker Icon.svg listen); 19 May
1890 – 2 September 1969), born Nguyễn Sinh Cung and also known as Nguyễn
Tất Thành, Nguyen That Thanh[4] and Nguyễn Ái Quốc, was a Vietnamese
communist revolutionary leader who was prime minister (1945–1955) and
president (1945–1969) of the Democratic Republic of Vietnam (North
Vietnam). He was a key figure in the foundation of the Democratic
Republic of Vietnam in 1945, as well as the People’s Army of Vietnam
(PAVN) and the Việt Cộng (NLF or VC) during the Vietnam War.
He led the Việt Minh independence movement from
1941 onward, establishing the communist-ruled Democratic Republic of
Vietnam in 1945 and defeating the French Union in 1954 at the battle of
Điện Biên Phủ. He officially stepped down from power in 1965 due to
health problems, but remained a highly visible figurehead and
inspiration for those Vietnamese fighting for his cause—a united,
communist Vietnam—until his death. After the war, Saigon, the former
capital of the Republic of Vietnam, was renamed Hồ Chí Minh City;
however, the name Sai Gon is still very widely used.
Contents[show]
Early lifeEdit
Ho Chi Minh (Chữ
nho:
胡志明) was born Nguyễn Sinh Cung in
1890 in the village of Hoàng Trù (the name of the local temple near Làng
Sen), his mother’s village. From 1895, he grew up in his father Nguyễn
Sinh Sắc’s village of Làng Sen, Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An Province. He
had three siblings: his sister Bạch Liên (or Nguyễn Thị Thanh), a clerk
in the French Army; his brother Nguyễn Sinh Khiêm (or Nguyễn Tất Đạt), a
geomancer and traditional herbalist; and another brother (Nguyễn Sinh
Nhuận) who died in his infancy. As a young child, Nguyễn studied with
his father before more formal classes with a scholar named Vuong Thuc
Do. Nguyễn quickly mastered Chinese writing, a prequisite for any
serious study of Confucianism, while honing his colloquial Vietnamese
writing.[5] In addition to his studious endeavors, he was fond of
adventure, and loved to fly kites and go fishing.[5] Following Confucian
tradition, at the age of 10, his father gave him a new name: Nguyễn Tất
Thành (“Nguyễn the Accomplished”). Cung’s father, Nguyễn Sinh Sắc, was a
Confucian scholar and teacher, and later an imperial magistrate in the
small remote district of Binh Khe (Qui Nhơn). He was demoted for abuse
of power after an influential local figure died several days after
having received 100 strokes of the cane as punishment for an
infraction.[6] In deference to his father, Nguyễn received a French
education, attended lycée in Huế, the alma mater of his later disciples,
Pham Van Dong and Vo Nguyen Giap.
First sojourn in FranceEdit
It is believed that Nguyễn was involved in an
anti-tax demonstration of poor peasants in Huế in 1907, which endangered
his student status. He chose to leave school in order to find a chance
to go abroad. Because his father had been dismissed, he had no longer a
hope for a governmental scholarship and went southward, taking a
position at Dục Thanh school in Phan Thiết for about six months, then
traveled to Sài G̣n.
He worked as a kitchen helper on a French
steamer, the Amirale de Latouche-Tréville, while using the alias "Văn
Ba". The steamer departed on 5 June 1911 and arrived in Marseille,
France in December. There he applied for the French Colonial
Administrative School but his application was rejected. Instead, he
decided to begin traveling the world by working on ships and visited
many countries from 1911 to 1917.
In the United StatesEdit
In 1911, while working as the cook's helper on
a ship, Nguyễn traveled to the United States. From 1912–13, he lived in
New York (Harlem) and Boston, where he worked as a baker at the Parker
House Hotel. Among a series of menial jobs, he claimed to have worked
for a wealthy family in Brooklyn between 1917–18, and for General Motors
as a line manager. It is believed that, while in the United States, he
made contact with Korean nationalists, an experience that developed his
political outlook.[7]
In the United KingdomEdit
At various points between 1913 and 1919, Nguyễn
lived in West Ealing, and later in Crouch End, Hornsey. He reportedly
worked as either a chef or dish washer [reports vary] at the Drayton
Court Hotel in West Ealing.[8] It is claimed that Nguyễn trained as a
pastry chef under Auguste Escoffier at the Carlton Hotel in the
Haymarket, Westminster, but there is no evidence to support this.[7][9]
However, the wall of New Zealand House, home of the New Zealand High
Commission, which now stands on the site of the Carlton Hotel, displays
a blue plaque, stating that Nguyễn worked there in 1913 as a waiter.
Nguyễn was also employed as a pastry boy on the Newhaven-Dieppe ferry
route in 1913.[10]
Political education in FranceEdit
Nguyen Aïn Nuä'C (Ho-Chi-Minh), délégué
indochinois, Congrès communiste de Marseille, 1921, Meurisse, BNF
Gallica
Ho Chi Minh, 1921
From 1919–23, while living in France, Nguyễn
began to show an interest in politics, being influenced by his friend
and Socialist Party of France comrade Marcel Cachin. Nguyễn claimed to
have arrived in Paris from London in 1917, but the French police only
had documents recording his arrival in June 1919.[7] He joined a group
of Vietnamese nationalists in Paris whose leaders were Phan Chu Trinh
and Phan Văn Trường, bearing a new name Nguyễn Ái Quốc (“Nguyễn the
Patriot”). Following World War I, the group petitioned for recognition
of the civil rights of the Vietnamese people in French Indochina to the
Western powers at the Versailles peace talks, but was ignored.[11]
Citing the language and the spirit of the U.S. Declaration of
Independence, they expected U.S. President Woodrow Wilson to help remove
the French colonial rule from Vietnam and ensure the formation of a new,
nationalist government. Although they were unable to obtain
consideration at Versailles, the failure further radicalized Nguyễn,
while also making him a symbol of the anti-colonial movement at home in
Vietnam.[12]
In 1920, as a representative to the Congress of
Tours of the Socialist Party of France, Quốc voted for the Third
International and became a founding member of the Parti Communiste
Français (FCP). Taking a position in the Colonial Committee of the PCF,
he tried to draw his comrades' attention towards people in French
colonies including Indochina, but his efforts were often unsuccessful.
During this period he began to write journal articles and short stories
as well as running his Vietnamese nationalist group. In May 1922, Nguyễn
wrote an article for a French magazine criticizing the use of English
words by French sportswriters.[13] The article implored Prime Minister
Raymond Poincaré to outlaw such Franglais as le manager, le round and le
knock-out. While living in Paris, he reportedly had a relationship with
a dressmaker named Marie Brière.[13]
In the Soviet Union and ChinaEdit
In 1923, Nguyễn (Ho) left Paris for Moscow,
where he was employed by the Comintern, studied at the Communist
University of the Toilers of the East,[14][15] and participated in the
Fifth Comintern Congress in June 1924, before arriving in Canton
(present-day Guangzhou), China, in November 1924. In 1925–26 he
organized "Youth Education Classes" and occasionally gave socialist
lectures to Vietnamese revolutionary young people living in Canton at
the Whampoa Military Academy. These young people would become the seeds
of a new revolutionary, pro-communist movement in Vietnam several years
later. According to Duiker, he lived with and married a Chinese woman,
Tang Tuyet Minh (Zeng Xueming), on 18 October 1926.[16] When his
comrades objected to the match, he told them, “I will get married
despite your disapproval because I need a woman to teach me the language
and keep house.”[16] She was 21 and he was 36.[16] They married in the
same place where Zhou Enlai had married earlier, and then lived in the
residence of a Comintern agent, Mikhail Borodin.[16]
Hoang Van Chi argued that in June 1925, Nguyễn
betrayed Phan Boi Chau, the famous leader of a rival revolutionary
faction and his father's old friend, to French Secret Service agents in
Shanghai for 100,000 piastres.[17] A source states that Nguyễn later
claimed he did it because he expected Chau's trial to stir up
anti-French resentment, and because he needed the money to establish a
communist organization.[17] In Ho Chi Minh: A Life, William Duiker
repudiated this hypothesis. Other sources claim that Nguyen Thuong Hien
was responsible for Chau's capture. Chau, sentenced to lifetime house
arrest, never denounced Nguyễn Ái Quốc.
Chiang Kai-shek's 1927 anti-communist coup
triggered a new era of exile for Nguyễn. He left Canton again in April
1927 and returned to Moscow, spending some of the summer of 1927
recuperating from tuberculosis in the Crimea, before returning to Paris
once more in November. He then returned to Asia by way of Brussels,
Berlin, Switzerland, and Italy, where he sailed to Bangkok, Thailand,
arriving in July 1928. “Although we have been separated for almost a
year, our feelings for each other do not have to be said in order to be
felt”, he reassured Minh in an intercepted letter.[16] In this period,
he served as a senior agent undertaking Comintern activities in
Southeast Asia. He remained in Thailand, staying in the Thai village of
Nachok,[18] until late 1929 when he moved on to India, then Shanghai. In
early 1930, in Hong Kong, Nguyễn Ái Quốc chaired a meeting with
representatives from two Vietnamese communist parties in order to merge
them into a unified organization, Communist Party of Vietnam. In June
1931, he was arrested in Hong Kong. To reduce French pressure for
extradition, it was (falsely) announced in 1932 that Nguyễn Ái Quốc had
died.[19] The British quietly released him in January 1933. He made his
way back to Milan, Italy, where he worked in a restaurant. The
restaurant now serves traditional Lombard cuisine and has a portrait of
Ho Chi Minh on the wall of its main dining room.[20][21] He moved to the
Soviet Union, where he spent several years recovering from tuberculosis.
It is said that in this period he lost his positions in the Comintern
because of a concern that he had betrayed the organization. His
influence among his Vietnamese comrades faded significantly.
In 1938, he was
allowed to return to China and served as an advisor to the Chinese
Communist armed forces, which later forced China's government into exile
on Taiwan.[7] Around 1940, Quốc began regularly using the name "Hồ Chí
Minh",[7] a Vietnamese name combining a common Vietnamese surname (Hồ,
胡) with a given name meaning "He Who
has been enlightened" (from Sino-Vietnamese
志
明: Chí meaning 'will' (or spirit) and
Minh meaning "bright").[22]
Independence movementEdit
In 1941, Ho returned to Vietnam to lead the
Viet Minh independence movement. The "men in black" were a 10,000 member
guerrilla force that operated with the Viet Minh.[23] He oversaw many
successful military actions against the Vichy French and Japanese
occupation of Vietnam during World War II, supported closely but
clandestinely by the United States Office of Strategic Services, and
later against the French bid to reoccupy the country (1946–54). He was
jailed in China by Chiang Kai-shek's local authorities before being
rescued by Chinese Communists.[24] Following his release in 1943, he
returned to Vietnam. In April 1945 Ho met with the OSS agent Archimedes
Patti and offered to provide intelligence to the allies provided that he
could have "a line of communication with the allies." [25] The OSS
agreed to this and later sent a military team of OSS members to train
Ho's men and Ho himself was treated for malaria and dysentery by an OSS
doctor.[26] Following the August Revolution (1945) organized by the Viet
Minh, Ho became Chairman of the Provisional Government (Premier of the
Democratic Republic of Vietnam) and issued a Proclamation of
Independence of the Democratic Republic of Vietnam.[27] Although he
convinced Emperor Bao Dai to abdicate, his government was not recognized
by any country. He repeatedly petitioned American President Harry S.
Truman for support for Vietnamese independence,[28] citing the Atlantic
Charter, but Truman never responded.[29]
According to some sources,[30] during a power
struggle in 1945, the Viet Minh killed members of rival groups, such as
the leader of the Constitutional Party, the head of the Party for
Independence, and Ngo Dinh Diem's brother, Ngo Dinh Khoi.[31] Purges and
killings of Trotskyists were also documented in The Black Book of
Communism.
In 1946, future Israeli Prime Minister David
Ben-Gurion and Ho Chi Minh stayed at the same hotel in Paris, and became
very friendly.[32][33] Ho Chi Minh offered Ben Gurion a Jewish
home-in-exile in Vietnam.[32][33] Ben-Gurion turned the offer down,
however, telling Ho Chi Minh: "I am certain we shall be able to
establish a Jewish Government in Palestine."[32][33]
In 1946, when Ho traveled outside of the
country, his subordinates imprisoned 2,500 non-communist nationalists
and forced 6,000 others to flee.[34] Hundreds of political opponents
were jailed or exiled in July 1946, notably members of the National
Party of Vietnam and the Dai Viet National Party, after a failed attempt
to raise a coup against the Vietminh government.[35][36] All rival
political parties were hereafter banned and local governments were
purged[37] to minimize opposition later on.
However, it was noted that the Democratic
Republic of Vietnam's first Congress had over two-third of its members
come from non-Viet Minh political factions, some without election. NPV
party leader Nguyen Hai Than was named Vice President.[38] They also
held four out of ten ministerial positions.[39]
Birth of the Democratic Republic of VietnamEdit
On 2 September 1945, following Emperor Bao
Dai's abdication, Ho Chi Minh read the Declaration of Independence of
Vietnam,[40] under the name of the Democratic Republic of Vietnam. In
Saigon, with violence between rival Vietnamese factions and French
forces increasing, the British commander, General Sir Douglas Gracey,
declared martial law. On 24 September, the Viet Minh leaders responded
with a call for a general strike.[41] In September 1945, a force of
200,000 Republic of China Army troops arrived in Hanoi. Ho made a
compromise with their general, Lu Han, to dissolve the Communist Party
and to hold an election which would yield a coalition government. When
Chiang later traded Chinese influence in Vietnam for French concessions
in Shanghai, Ho Chi Minh had no choice but to sign an agreement with
France on 6 March 1946, in which Vietnam would be recognized as an
autonomous state in the Indochinese Federation and the French Union. The
agreement soon broke down. The purpose of the agreement, for both the
French and Vietminh, was to drive out Chiang's army from North Vietnam.
Fighting broke out in the North soon after the Chinese left.
"The last time the Chinese came, they stayed a
thousand years. The French are foreigners. They are weak. Colonialism is
dying. The white man is finished in Asia. But if the Chinese stay now,
they will never go. As for me, I prefer to sniff French shit for five
years than to eat Chinese shit for the rest of my life." — Ho Chi Minh,
1946[42]
The Viet Minh then collaborated with French
colonial forces to massacre supporters of the Vietnamese nationalist
movements in 1945-6.[43] The Communists eventually suppressed all
non-Communist parties but failed to secure a peace deal with France. In
the final days of 1946, after a year of diplomatic failure and many
concessions in agreements such as the Dalat and Fontainebleau
conferences, the Democratic Republic of Vietnam government found that
war was inevitable. The bombardment of Haiphong by French forces at
Hanoi only strengthened the belief that France had no intention of
allowing an autonomous, independent state in Vietnam. On 19 December
1946, Ho, representing his government, declared war against the French
Union, marking the beginning of the Indochina War.[44] The Vietnam
National Army, by then mostly armed with machetes and muskets
immediately attacked, waging assault against French positions, smoking
them out with straw bundled with chili pepper, destroying armored
vehicles with Lunge Mines and Molotov cocktails, holding off attackers
by using roadblocks, mines and gravel. After two months of fighting, the
exhausted Viet Minh forces withdrew after systematically destroying any
valuable infrastructure. Ho was reported to be captured by a group of
French soldiers led by Jean-Etienne Valluy at Việt Bắc in Operation Lea
which turned out to be a Viet Minh advisor, who was later killed trying
to escape. According to journalist Bernard Fall, after fighting the
French for several years, Ho decided to negotiate a truce. The French
negotiators arrived at the meeting site: a mud hut with a thatched roof.
Inside they found a long table with chairs and were surprised to
discover in one corner of the room a silver ice bucket containing ice
and a bottle of good Champagne which should have indicated that Ho
expected the negotiations to succeed. One demand by the French was the
return to French custody of a number of Japanese military officers (who
had been helping the Vietnamese armed forces by training them in the use
of weapons of Japanese origin), in order for them to stand trial for war
crimes committed during World War II. Ho replied that the Japanese
officers were allies and friends whom he could not betray. Then he
walked out, to seven more years of war.[45]
In February 1950, after the successful removal
of the French border's blockade,[46] Ho met with Stalin and Mao Zedong
in Moscow after the Soviet Union recognized his government. They all
agreed that China would be responsible for backing the Viet Minh.[47]
Mao's emissary to Moscow stated in August that China planned to train
60–70,000 Viet Minh in the near future.[48] The road to the outside
world was open for Viet Minh forces to receive additional supplies which
allow them to escalate the fight against the French regime throughout
Indochina. In 1954, after the crushing defeat of French Union forces at
Battle of Dien Bien Phu, France was forced to give up its fight against
the Viet Minh. The Viet Minh assasinated up to 150,000 civilians during
the war.[49]
Becoming president and Vietnam WarEdit
Giap-Ho
Ho Chi Minh (right) with Vo Nguyen Giap (left)
in Hanoi, 1945
Bundesarchiv Bild 183-48579-0009, Stralsund, Ho
Chi Minh mit Matrosen der NVA
Ho Chi Minh with East German sailors in
Stralsund harbour, 1957
Ho Chi Minh House 1463237026 5317a7aaed
House of "Uncle Ho" in Hanoi
The 1954 Geneva Accords concluded between
France and the Viet Minh, allowing the latter's forces to regroup in the
North whilst anti-communist groups settled in the South. Ho's Democratic
Republic of Vietnam relocated to Hanoi and became the government of
North Vietnam, a communist-led single party state.
Following the Geneva Accords, there was to be a
300-day period in which people could freely move between the two regions
of Vietnam, later known as South Vietnam and North Vietnam. More than 1
million North Vietnamese people fled to the South, while a much smaller
number moved North.[50] It is estimated that as many as two million more
would have left had they not been stopped by the Viet Minh.[51] Neither
the United States government nor Ngo Dinh Diem's State of Vietnam signed
anything at the 1954 Geneva Conference. With respect to the question of
reunification, the non-communist Vietnamese delegation objected
strenuously to any division of Vietnam, but lost out when the French
accepted the proposal of Viet Minh delegate Pham Van Dong,[52] who
proposed that Vietnam eventually be united by elections under the
supervision of "local commissions".[53] The United States countered with
what became known as the "American Plan," with the support of South
Vietnam and the United Kingdom.[54] It provided for unification
elections under the supervision of the United Nations, but was rejected
by the Soviet delegation and North Vietnamese.[54]
In North Vietnam during the 1950s, political
opposition groups were suppressed; those publicly opposing the
government were imprisoned in hard labor camps. Many middle-class,
intellectual Northerners had been lured into speaking out against Ho's
communist regime, and most of those who did were later imprisoned in
gulags or executed; this became known as the Nhan Van-Giai Pham Affair.
Some prisoners died of exhaustion, starvation, illness (often having
received no medical attention), or assault by prison guards. Political
scientist R.J. Rummel suggests a figure of 24,000 camp deaths during
Ho's rule of North Vietnam between 1945 and 1956.[55] The government
launched "rent reduction" and "land reform" programs, which, according
to Steven Rosefielde, were "aimed at exterminating class enemies."[56]
Declassified Politburo documents confirm that 1 in 1,000 North
Vietnamese (i.e., about 14,000 people) were the minimum quota targeted
for execution during the earlier "rent reduction" campaign; the number
killed during the multiple stages of the considerably more radical "land
reform" was probably many times greater.[57] Lam Thanh Liem, a major
authority on land issues in Vietnam, conducted multiple interviews in
which communist cadres gave estimates for land reform executions ranging
from 120,000 to 200,000. Such figures match the "nearly 150,000 houses
and huts which were allocated to new occupants".[58] A number of sources
have suggested that about 30% of the "landlords" executed were actually
communist party members.[58][59][60][61][62] Landlords were arbitrarily
classified as 5.68% of the population, but the majority were subject to
less severe punishment than execution. Official records from the time
suggest that 172,008 "landlords" were executed during the "land reform",
of whom 123,266 (71.66%) were later found to be wrongly classified.[63]
Victims were reportedly shot, beheaded, and beaten to death; "some were
tied up, thrown into open graves and covered with stones until they were
crushed to death".[64] The full death toll was even greater because
victims' families starved to death under the "policy of isolation."[65]
As communist defector Le Xuan Giao explained: "There was nothing worse
than the starvation of the children in a family whose parents were under
the control of a land reform team. They isolated the house, and the
people who lived there would starve. The children were all innocent.
There was nothing worse than that. They wanted to see the whole family
dead."[66] Hoang Van Chi wrote that as many as 500,000 North Vietnamese
may have died during the 1950s and 1960s as a result of the policies of
Ho's government.[67] In 1956, about 6,000 peasants in Nghệ An Province
were allegedly massacred by PAVN government troops in response to a
revolt against unbearable taxes.[64] At the end of 1959, Le Duan was
appointed by Ho to be the acting party leader, after becoming aware that
the nationwide election would never happen and Diem's intention to purge
out all opposing forces (mostly ex-Viet Minh). Ho began requesting the
Politburo to send aid to the Vietcong's uprising in South Vietnam. This
was considered by Western's analyzers as a loss of power by Ho, who is
said to have preferred the more moderate Giap for the position.[68]
North Vietnam invaded Laos in 1959 aided by the Pathet Lao, and used
30,000 men to build invasion and supply routes through Laos known as the
Ho Chi Minh Trail,[69] which allowed the North to send troops and aid to
the Vietcong through Laos and Cambodia, thus escalating the war and
tipping the balance, turning it to their favor.[70] Duan was officially
named party leader in 1960, leaving Ho a public figure rather than
actually governing the country. Ho maintained much influence in the
government, To Huu, Le Duan, Truong Chinh, and Pham Van Dong would often
share dinner with him, and later all of them remained key figures of
Vietnam throughout and after the war. In 1963, Ho purportedly
corresponded with South Vietnamese President Diem in the hopes of
achieving a negotiated peace.[71] This correspondence was a factor in
the U.S. decision to tacitly support a coup against Diem in November
later that year.[71]
In late 1964, PAVN combat troops were sent
southwest into officially neutral Laos and Cambodia.[72] According to
Chen Jian, during the mid-to-late 1960s, Le Duan permitted 320,000
Chinese volunteers into North Vietnam to help build infrastructure for
the country, thereby freeing a similar number of PAVN personnel to go
south.[73] However, there are no sources from Vietnam, US or the USSR
confirming the number of Chinese troops stationed in Northern Vietnam.
By early 1965, U.S. combat troops began arriving in South Vietnam, first
to protect the airbases around Chu Lai and Danang, later to take on most
of the fight, as "More and more American troops were put in to replace
Saigon troops who could not, or would not, get involved in the
fighting".[74]
As fighting escalated, widespread aerial and
artillery bombardment all over North Vietnam by the U.S. Air Force and
Navy begin with Operation Rolling Thunder. In July 1967, Ho and most of
the Politburo of met in a high profile conference where they all
concluded the war had fallen into a stalemate, since the United States
Army presence forced the People's Army of Vietnam to expend the majority
of their resources maintaining the Hochiminh Trail instead of
reinforcing their comrade's ranks in the South. With Ho's permission,
the Viet Cong planned to execute the Tet Offensive to begin on 31
January 1968, gambling on taking the South by force and defeating the
U.S. military. The offensive came at great cost and with heavy
casualties on NLF's political branches and armed forces. It appeared to
Ho and to the rest of his government that the scope of the action had
shocked the world, which had up until then been assured that the
Communists were "on the ropes". The overly positive spin that the U.S.
military had been attempting to achieve for years came crashing down.
The bombing of Northern Vietnam and Ho Chi Minh trail was halted, and
U.S and Vietnamese negotiators began to discuss how to end the war. From
then on, Ho and his government's strategy, based on the idea of
"avoiding conventional warfare and facing the might of the U.S. Army,
which would wear them down eventually, while merely prolonging the
conflict would lead to eventual acceptance of Hanoi's terms"
materialized. Ho remained in Hanoi during his final years, demanding the
unconditional withdrawal of all non-Vietnamese troops in South Vietnam.
By 1969, with negotiations still dragging on, Ho's health began to
deteriorate from multiple health problems, including diabetes which
prevented him from participating in further active politics. However, he
insisted that his forces in the south continue fighting until all of
Vietnam was reunited under his regime regardless of the length of time
that it might take, believing that time was on his side.[citation
needed]
DeathEdit
Ho Chi Minh Mausoleum 2006
Ho Chi Minh Mausoleum, Hanoi
Bác Hồ với Thiếu nhi
Ho Chi Minh statue outside Ho Chi Minh City
Hall, Ho Chi Minh City
With the outcome of the Vietnam War still in
question, Ho Chi Minh died at 9:47 a.m. on the morning of 2 September
1969 from heart failure at his home in Hanoi, aged 79. His embalmed body
is currently on display in a mausoleum in Ba Dinh Square in Hanoi
despite his will requesting that he be cremated.[75] News of his death
was withheld from the North Vietnamese public for nearly 48 hours
because he had died on the anniversary of the founding of the Democratic
Republic of Vietnam. He was not initially replaced as president, but a
"collective leadership" composed of several ministers and military
leaders took over, known as the Politburo. During North Vietnam's final
campaign, a famous song written by Huy Thuc was often sung by People's
Army of Vietnam soldiers, "Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân" ("You are
still marching with us, Uncle Ho").[76] Six years after his death, at
the Fall of Saigon, several PAVN tanks in Saigon displayed a poster with
the words "Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân".
LegacyEdit
Hochiminh and Bebet
Ho Chi Minh holding his god-daughter, baby
Elizabeth (Babette) Aubrac, and Elizabeth's mother, Lucie Aubrac in 1946
The former capital of South Vietnam, Saigon,
was officially renamed Ho Chi Minh City on 1 May 1975, shortly after its
capture which officially ended the war. However, the name provokes
strong anti-communist feeling in a substantial number of Vietnamese.
Many Vietnamese, particularly those living abroad, continue to refer to
the city as Sài G̣n.[77]
Ho's embalmed body is on display in Hanoi in a
granite mausoleum modeled after Lenin's Tomb in Moscow. Streams of
people queue each day, sometimes for hours, to pass his body in silence.
This is reminiscent of other Communist leaders like Kim Jong-Il and his
father Kim Il-Sung, Vladimir Lenin and Mao Zedong.
The Ho Chi Minh Museum in Hanoi is dedicated to
his life and work.
Chilean musician Victor Jara referenced Ho Chi
Minh in his song "El derecho de vivir en paz" ("The Right to Live in
Peace").
In Vietnam today, Ho's image appears on the
front of all Vietnamese currency notes. His portrait and bust are
featured prominently in most of Vietnam's public buildings, in
classrooms (both public and private schools) and in some families'
altars. There is at least one temple dedicated to him, built in Vinh
Long shortly after his death, in 1970, in Viet Cong-controlled
areas.[78]
The Communist regime has also continually
maintained a personality cult around Ho Chi Minh since the 1950s in the
North, and later extended it to the South, which it sees as a crucial
part in their propaganda campaign about Ho and the Party's past. Ho Chi
Minh is frequently glorified in schools to schoolchildren. Opinions,
publications and broadcasts that are critical of Ho Chi Minh or that
identify his flaws are banned in Vietnam. Activists, writers, reporters
and commentators who criticize Ho in the slightest are arrested and
imprisoned or fined for "opposing the people's revolution". Ho Chi Minh
is even glorified to a religious status as an "immortal saint" by the
Vietnamese Communist Party, and some people "worship the President",
according to a BBC report.[77] In 1987, UNESCO officially recommended to
member states that they "join in the commemoration of the centenary of
the birth of President Ho Chi Minh by organizing various events as a
tribute to his memory", considering "the important and many-sided
contribution of President Ho Chi Minh in the fields of culture,
education and the arts" who "devoted his whole life to the national
liberation of the Vietnamese people, contributing to the common struggle
of peoples for peace, national independence, democracy and social
progress."[79] However, this was met with an uproar amongst some
overseas Vietnamese, especially in North America, Europe and Australia,
who criticize Ho as a Stalinist dictator and blamed Ho for the human
rights abuses of his government.[80]
Publications about Ho's non-celibacy are banned
in Vietnam, because the Party maintains that Ho had no romantic
relationship with anyone in his lifetime in order to portray a
puritanical image of Ho to the Vietnamese public[citation needed]. A
newspaper editor in Vietnam was dismissed from her post in 1991 for
publishing a story about Tang Tuyet Minh.[81][82] William Duiker's Ho
Chi Minh: A Life (2000) presents much information on Ho's
relationships.[83] The government requested substantial cuts in the
official Vietnamese translation of Duiker's book, which was refused.[84]
In 2002, the Vietnamese government suppressed a review of Duiker's book
in the Far Eastern Economic Review.[84]
ReferencesEdit
↑ Brocheux, Pierre , (2011), [1], Cambridge
University Press, p. 39; ISBN 9781107622265
↑ Duiker, William J., (2000), [2], Hyperion, p.
(no page # in source); ISBN 9781107622265
↑ Truong, Hoa Minh , (2011), [3], Strategic
Book Group, p.82; ISBN 978-1-60911-161-8
↑ "Ho Chi Minh (1890-1969)". BBC News.
http://www.bbc.co.uk/history/historic_figures/ho_chi_minh.shtml.
Retrieved 13 June 2013.
↑ 5.0 5.1 Duiker, William J. Ho Chi Minh: A
Life. New York: Hyperion, 2000.
↑ Duiker, p. 41
↑ 7.0 7.1 7.2 7.3 7.4 Quinn-Judge, Sophie. Hồ
Chí Minh: The Missing Years, University of California Press, 2002; ISBN
0-520-23533-9
↑ "The Drayton Court Hotel". Ealing.gov.uk.
http://www.ealing.gov.uk/info/200622/historic_buildings/70/other_notable_buildings/2.
Retrieved 30 January 2013.
↑ Forbes, Andrew, and Henley, David: Vietnam
Past and Present: The North (Section on Ho Chi Minh in the United
Kingdom). Chiang Mai. Cognoscenti Books, 2012. ASIN: B006DCCM9Q.
↑ Harries, David, Maritime Sussex, S.B.
Publications, 1997.
↑ For a thumbnail of a photograph in the
Library of Congress collection showing Quốc at the Versailles
Conference, see "Ho Chi Minh, 1890–1969, half length, standing, facing
left; as member of French Socialist Party at Versailles Peace
Conference, 1919", Library of Congress Prints and Photographs Online
Catalog.
↑ Huynh, Kim Kháhn, Vietnamese Communism,
1925–1945. Ithaca, NY: Cornell University Press, 1982; pg. 60.
↑ 13.0 13.1 Brocheux, Pierre. Ho Chi Minh: A
Biography, p. 21, Cambridge University Press (2007).
↑ Obituary in The New York Times, 4 September
1969
↑ Cf. Duiker (2000), p.92
↑ 16.0 16.1 16.2 16.3 16.4 Brocheux, P. pp.
39–40
Duiker, p. 143.
↑ 17.0 17.1 Davidson, Phillip B., Vietnam at
War: The History: 1946–1975 (1991), p. 4.
Hoang Van Chi. From Colonialism to Communism
(1964), p. 18.
↑ Brocheux, P., pp. 44 and xiii (2007)
↑ Brocheux, P., pp. 57–58.
↑ [4]
↑ [5]
↑ Duiker, pp. 248–49.
↑ "Ho Chi Minh Was Noted for Success in
Blending Nationalism and Communism", The New York Times
↑ Brocheux, p. 198
↑ Interview with Archimedes L. A. Patti, 1981,
http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam-bf3262-interview-with-archimedes-l-a-patti-1981
↑ Interview with OSS officer Carleton Swift,
1981,
http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam-9dc948-interview-with-carleton-swift
↑ Zinn, Howard (1995). A People's History of
the United States: 1492–present. New York: Harper Perennial. p. 460.
ISBN 0-06-092643-0.
↑ "Collection of Letters by Ho Chi Minh".
Rationalrevolution.net.
http://rationalrevolution.net/war/collection_of_letters_by_ho_chi_.htm.
Retrieved 26 September 2009.
↑ Zinn, Howard (1995). A People's History of
the United States. New York: Harper Perennial. p. 461. ISBN
0-06-092643-0.
↑ The Black Book of Communism
↑ Joseph Buttinnger, Vietnam: A Dragon
Embattled, vol 1 (New York: Praeger, 1967)
↑ 32.0 32.1 32.2 "Ben-gurion Reveals Suggestion
of North Vietnam’s Communist Leader". Archive.jta.org. 8 November 1966.
http://archive.jta.org/article/1966/11/08/3085789/bengurion-reveals-suggestion-of-north-vietnams-communist-leader.
Retrieved 10 February 2013.
↑ 33.0 33.1 33.2 "ISRAEL WAS EVERTHING".
Nytimes.com. 21 June 1987.
http://www.nytimes.com/1987/06/21/books/israel-was-everthing.html?pagewanted=all&src=pm.
Retrieved 10 February 2013.
↑ Currey, Cecil B. Victory At Any Cost
(Washington: Brassey's, 1997), p. 126
↑ [6]
↑ Tucker, Spencer. Encyclopedia of the Vietnam
War: a political, social, and military history (vol. 2), 1998
↑ Colvin, John. Giap: the Volcano under the
Snow (New York: Soho Press, 1996), p. 51
↑ Vietnamese Wikipedia profile of Nguyễn Hải
Thần
↑ vi:Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam
↑ "Vietnam Declaration of Independence".
Coombs.anu.edu.au. 2 September 1945.
http://coombs.anu.edu.au/%7Evern/van_kien/declar.html. Retrieved 26
September 2009.
↑ Karnow, Stanley. Vietnam: a History.
↑ "Why Vietnam loves and hates China", Asia
Times Online, p. 2 (26 April 2007)
↑ Robert F. Turner, Vietnamese Communism: Its
Origins and Development (Hoover Institution Press, 1975), pp57-9, 67–9,
74 and “Myths of the Vietnam War,” Southeast Asian Perspectives,
September 1972, pp14-8; also Arthur J. Dommen, The Indochinese
Experience of the French and the Americans (Indiana University Press,
2001), pp153-4.
↑ vi:Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
↑ Fall, Bernard. Last reflections on a War, p.
88. New York: Doubleday (1967).
↑ vi:Chiến dịch Biên giới
↑ Luo, Guibo. pp. 233–36
↑ Russian Ministry of Foreign Affairs,
"Chronology", p. 45.
↑ Dommen, Arthur J. (2001), The Indochinese
Experience of the French and the Americans, Indiana University Press,
pg. 252.
↑ United Nations High Commissioner for
Refugees. "The State of The World's Refugees 2000 – Chapter 4: Flight
from Indochina". http://www.unhcr.org/publ/PUBL/3ebf9bad0.pdf. Retrieved
6 April 2007.
↑ Robert F. Turner (1975), Vietnamese
Communism: Its Origin and Development, Hoover Institution Press, p. 75.
↑ The Pentagon Papers (1971), Beacon Press,
vol. 3, p. 134.
↑ The Pentagon Papers (1971), Beacon Press,
vol. 3, p. 119.
↑ 54.0 54.1 The Pentagon Papers (1971), Beacon
Press, vol. 3, p. 140.
↑ Rummel, Rudolph, Statistics of Vietnamese
Democide, in his Statistics of Democide, 1997.
↑ Rosefielde (2009), Red Holocaust, Routledge,
p. 110.
↑ Alec Holcombe, Politburo's Directive Issued
on May 4, 1953, on Some Special Issues regarding Mass Mobilization
Journal of Vietnamese Studies, Vol. 5, No. 2 (Summer 2010), pp. 243–247,
quoting a translated Politburo directive from 4 May 1953. This directive
was published in Complete Collection of Party Documents (Van Kien Dang
Toan Tap), a 54 volume work authorized by the Vietnamese Communist
Party.
↑ 58.0 58.1 Lam Thanh Liem (1990), "Chinh sach
cai cach ruong dat cua Ho Chi Minh: sai lam hay toi ac?" in
Jean-Francois Revel et al., Ho Chi Minh, Nam A, pp. 179–214.
↑ Nhan Dan, 13 August 1957.
↑ Time, 1 July 1957, p. 13, says they were
given a proper burial.
↑ Gittinger, J. Price, "Communist Land Policy
in Viet Nam", Far Eastern Survey, Vol. 29, No. 8, 1957, p. 118.
↑ Dommen, Arthur J. (2001), The Indochinese
Experience of the French and the Americans, Indiana University Press, p.
340.
↑ The History of the Vietnamese Economy (2005),
Vol. 2, edited by Dang Phong of the Institute of Economy, Vietnamese
Institute of Social Sciences.
↑ 64.0 64.1 Readers Digest, The Blood-Red Hands
of Ho Chi Minh, November 1968.
↑ Nhan Vhan, 5 November 1956: "In the agrarian
reform, illegal arrests, imprisonments, investigations (with barbarous
torture), executions, requisitions of property, and the quarantining of
landowners’ houses (or houses of peasants wrongly classified as
landowners), which left innocent children to die of starvation, are not
exclusively due to the shortcomings of the leadership, but also due to
the lack of a complete legal code. If the cadres had felt that they were
closely observed by the god of justice... calamities might have been
avoided for the masses." Nhan Vhan was one of the best-known opposition
periodicals that was allowed during the three-month period of relative
intellectual freedom in the fall of 1956, modeled on Mao's "Hundred
Flowers" campaign.
↑ Turner, Robert F. "Expert Punctures 'No
Bloodbath' Myth". Human Events, 11 November 1972.
↑ Hoang Van Chi (1962), From Colonialism to
Communism: A Case Study of North Vietnam, New York: Congress of Cultural
Freedom.
↑ Cheng Guan Ang & Ann Cheng Guan, The Vietnam
War from the Other Side, p. 21. (2002)
↑ The Economist, 26 February 1983.
↑ Lind, 1999
↑ 71.0 71.1 Brocheux, P. & Duiker, Claire. Ho
Chi Minh: A Biography, p. 174; ISBN 0-521-85062-2.
↑ Davidson, Vietnam at War: the history,
1946–1975, 1988
↑ Chen Jian. "China's Involvement in the
Vietnam Conflict, 1964–69", China Quarterly, No. 142 (June 1995), pp.
366–69.
↑ [7]
↑ Duiker 2000, p. 565
↑ Vietnamese Wikipedia article on Huy Thuc
↑ 77.0 77.1 Marsh, Viv (6 June 2012). "Uncle
Ho's legacy lives on in Vietnam". BBC News.
http://www.bbc.co.uk/news/world-asia-18328455. Retrieved 2 December
2012.
↑ [8]
↑ "UNESCO. General Conference; 24th; Records of
the General Conference, 24th session, Paris, 20 October to 20 November
1987, v. 1: Resolutions; 1988" (PDF).
http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995E.pdf. Retrieved 26
September 2009.
↑ [9]
↑ Ruane, Kevin, (2000), The Vietnam Wars,
Manchester University Press, p. 26; ISBN 0-7190-5490-7
↑ Boobbyer, Claire (2008) Footprint Vietnam,
Footprint Travel Guides. p. 397; ISBN 1-906098-13-1.
↑ Duiker, p. 605, fn 58.
↑ 84.0 84.1 "Great 'Uncle Ho' may have been a
mere mortal". The Age. 15 August 2002.
http://www.theage.com.au/articles/2002/08/14/1029113955533.html.
Retrieved 2 August 2009.
Bernard B. Fall, ed., 1967. Ho Chi Minh on
Revolution and War, Selected Writings 1920–1966. New American Library.
BiographyEdit
William J. Duiker. 2000. Ho Chi Minh: A Life.
Theia.
Jean Lacouture. 1968. Ho Chi Minh: A Political
Biography. Random House.
Khắc Huyên. 1971. Vision Accomplished? The
Enigma of Ho Chi Minh. The Macmillan Company.
David Halberstam. 1971. Ho. Rowman &
Littlefield.
Hồ chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia
Sophie Quinn-Judge. 2003. Ho Chi Minh: The
missing years. C. Hurst & Co. ISBN 1-85065-658-4
Ton That Thien, Was Ho Chi Minh a Nationalist?
Ho Chi Minh and the Comintern Information and Resource Centre,
Singapore, 1990
The Việt Minh, NLF and the Democratic Republic
of VietnamEdit
William J. Duiker. 1981. The Communist Road to
Power in Vietnam. Westview Press.
Hoang Van Chi. 1964. From colonialism to
communism. Praeger.
Truong Nhu Tang. 1986. A Viet Cong Memoir.
Vintage.
The War in VietnamEdit
Frances FitzGerald. 1972. Fire in the Lake: The
Vietnamese and the Americans in Vietnam. Little, Brown and Company.
American foreign policyEdit
Henry A. Kissinger. 1979. White House Years.
Little, Brown.
Richard Nixon. 1987. No More Vietnams. Arbor
House Pub Co.
REVIOUS
“[B]etrayed as an Alaskan”.
NEXT
McCain Staff to MSM: We Vetted Her!
Agent 19 makes a nice speech
September 2, 2008, 5:43 pm
By David Noon
The ferocious Japanese conquest of Indochina in
1940 ruined whatever glow of authority still adhered to the French
colonial project in Southeast Asia. While they left the French
government in tact, Japanese control over the Vietnamese economy
scorched the landscape, creating a famine in the north that ended the
lives of nearly two million people. Looking forward to the eviction of
European power from Asia, Japanese intelligence agents encouraged a
variety of religious and political sects — particularly in the southern
regions of Indochina — who soon evolved into private militias that
roamed outside French control. The French, for their part, countered by
establishing youth brigades that were quickly infiltrated by
nationalists, whose commitment to aiding their sponsor was dubious at
best. And so it happened that both the French and the Japanese
unwittingly laid ground for a fragmented but concerted effort to drive
them from Vietnam.
More consequentially, the guerilla army
organized by Vo Nguyen Giap and Ho Chi Minh prepared for the Leninist
rebellion of which they’d separately dreamed for well over a decade.
Brought together in southern China in 1940, Giap and Ho spent the next
several years evading the French and gathering recruits to the Viet
Minh. The nation, they warned in summer 1941 from the border village of
Pac Bo, risked “slavery forever” unless the French and Japanese were
overthrown.
Rich people, soldiers, workers, peasants,
intellectuals, employees, traders, youth, and women who warmly love your
country! At present time national liberation is the most important
problem. Let us unite together! As one mind and strength we shall
overthrow the Japanese and French and their jackals in order to save
people from the situation between boiling water and burning heat.
Long story short, the Vichy regime in France
collapsed in July 1944; the Japanese, recoiling from their imperial
perimeter to defend the mainland, jettisoned Indochina from its orbit in
March 1945 — though not before slaughtering and imprisoning the last
representatives of French civilian and military control. For every
practical purpose, most of northern Vietnam, as well as the central and
southern cities of Hue and Saigon, fell under the control of Ho and the
Viet Minh. The American OSS, grateful for the aid offered by Ho, offered
him six revolvers. Described by one US officer as an “awfully sweet
fellow,” Ho Chi Minh would from that point on be known to the OSS as
Agent 19.
On September 2, 1945, Agent 19 addressed a
gathering of 500,000 in Hanoi. After quoting the American Declaration of
Independence, Ho Chi Minh proceeded with a declaration of his own:
The French have fled, the Japanese have
capitulated, Emperor Bao Dai has abdicated. Our people have broken the
chains which for nearly a century have fettered them and have won
independence for the Fatherland. Our people at the same time have
overthrown the monarchic regime that has reigned supreme for dozens of
centuries. In its place has been established the present Democratic
Republic.
For these reasons, we, members of the
Provisional Government, representing the whole Vietnamese people,
declare that from now on we break off all relations of a colonial
character with France; we repeal all the international obligation that
France has so far subscribed to on behalf of Vietnam and we abolish all
the special rights the French have unlawfully acquired in our
Fatherland.
The whole Vietnamese people, animated by a
common purpose, are determined to fight to the bitter end against any
attempt by the French colonialists to reconquer their country.
We are convinced that the Allied nations which
at Tehran and San Francisco have acknowledged the principles of
self-determination and equality of nations, will not refuse to
acknowledge the independence of Vietnam.
A people who have courageously opposed French
domination for more than eighty years, a people who have fought side by
side with the Allies against the Fascists during these last years, such
a people must be free and independent.
For these reasons, we, members of the
Provisional Government of the Democratic Republic of Vietnam, solemnly
declare to the world that Vietnam has the right to be a free and
independent country — and in fact it is so already. The entire
Vietnamese people are determined to mobilise all their physical and
mental strength, to sacrifice their lives and property in order to
safeguard their independence and liberty.
And everyone lived happily ever after.
This entry was posted in history and current
events. Bookmark the permalink.
Đặc vụ 19 có một bài phát biểu hay
Ngày 2 tháng 9 năm 2008, 5:43 chiều
Bởi David Trưa
Cuộc chinh phạt dữ dội của Nhật Bản ở Đông
Dương năm 1940 đă phá hỏng mọi ánh hào quang của chính quyền vẫn tuân
thủ dự án thực dân Pháp ở Đông Nam Á. Trong khi họ rời khỏi chính phủ
Pháp một cách khéo léo, Nhật Bản kiểm soát nền kinh tế Việt Nam đă thiêu
rụi cảnh quan, tạo ra nạn đói ở miền bắc chấm dứt cuộc sống của gần hai
triệu người. Hướng tới việc trục xuất sức mạnh châu Âu khỏi châu Á, các
nhân viên t́nh báo Nhật Bản đă khuyến khích một loạt các giáo phái chính
trị và tôn giáo - đặc biệt là ở các khu vực phía nam của Đông Dương -
những người sớm phát triển thành các dân quân tư nhân lang thang ngoài
sự kiểm soát của Pháp. Về phần ḿnh, người Pháp đă chống lại bằng cách
thành lập các lữ đoàn thanh niên nhanh chóng bị xâm nhập bởi những người
theo chủ nghĩa dân tộc, những người cam kết hỗ trợ nhà tài trợ của họ là
không rơ ràng nhất.
Do đó, quân đội du kích do Vơ Nguyên Giáp và Hồ
Chí Minh tổ chức đă chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của Lênin mà họ mơ ước
riêng trong hơn một thập kỷ. Được mang đến cùng nhau ở miền nam Trung
Quốc vào năm 1940, Giáp và Hồ đă dành nhiều năm tiếp theo để trốn Pháp
và tập hợp các tân binh vào Việt Minh. Quốc gia, họ đă cảnh báo vào mùa
hè năm 1941 từ làng biên giới Pac Bo, đă mạo hiểm nô lệ măi măi, trừ khi
người Pháp và Nhật Bản bị lật đổ.
Người giàu, binh lính, công nhân, nông dân, trí
thức, nhân viên, thương nhân, thanh niên và phụ nữ nồng nhiệt yêu đất
nước của bạn! Hiện nay giải phóng dân tộc là vấn đề quan trọng nhất.
Chúng ta hăy đoàn kết lại với nhau! Như một tâm trí và sức mạnh, chúng
ta sẽ lật đổ người Nhật và người Pháp và chó rừng của họ để cứu người
dân khỏi t́nh trạng giữa nước sôi và lửa nóng.
Câu chuyện dài, chế độ Vichy ở Pháp sụp đổ vào
tháng 7 năm 1944; Người Nhật, hồi phục từ vành đai đế quốc của họ để bảo
vệ đại lục, đă tống Đông Dương ra khỏi quỹ đạo của nó vào tháng 3 năm
1945 - mặc dù không phải trước khi tàn sát và giam cầm các đại diện cuối
cùng của sự kiểm soát dân sự và quân sự của Pháp. Đối với mọi mục đích
thực tế, hầu hết miền bắc Việt Nam, cũng như các thành phố trung tâm và
phía nam của Huế và Sài G̣n, đều nằm dưới sự kiểm soát của Hồ và Việt
Minh. OSS của Mỹ, biết ơn sự giúp đỡ của Ho, đă đề nghị cho anh ta sáu
khẩu súng lục ổ quay. Được mô tả bởi một sĩ quan Hoa Kỳ là một người bạn
cực kỳ ngọt ngào, người Hà Lan, từ thời điểm đó, được biết đến với OSS
với tư cách là Đặc vụ 19.
Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Đặc vụ 19 đă giải
quyết một cuộc tụ tập 500.000 tại Hà Nội. Sau khi trích dẫn Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ, Hồ Chí Minh đă tiến hành tuyên bố của chính ḿnh:
Người Pháp đă bỏ trốn, người Nhật đă đầu hàng,
Hoàng đế Bảo Đại đă thoái vị. Nhân dân ta đă phá vỡ xiềng xích trong gần
một thế kỷ đă củng cố họ và giành được độc lập cho Tổ quốc. Nhân dân ta
đồng thời đă lật đổ chế độ quân chủ đă trị v́ tối cao hàng chục thế kỷ.
Ở vị trí của nó đă được thành lập Cộng ḥa Dân chủ hiện tại.
V́ những lư do này, chúng tôi, các thành viên
của Chính phủ lâm thời, đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, tuyên
bố rằng từ nay chúng tôi phá vỡ mọi quan hệ của một nhân vật thuộc địa
với Pháp; chúng tôi băi bỏ tất cả các nghĩa vụ quốc tế mà Pháp đă đăng
kư thay mặt cho Việt Nam và chúng tôi băi bỏ tất cả các quyền đặc biệt
mà Pháp đă giành được một cách bất hợp pháp trên Tổ quốc của chúng tôi.
Toàn thể người dân Việt Nam, hoạt h́nh theo một
mục đích chung, quyết tâm chiến đấu đến tận cùng cay đắng trước bất kỳ
nỗ lực nào của thực dân Pháp để tái chiếm đất nước của họ.
Chúng tôi tin rằng các quốc gia Đồng minh mà
tại Tehran và San Francisco đă thừa nhận các nguyên tắc tự quyết và b́nh
đẳng của các quốc gia, sẽ không từ chối thừa nhận nền độc lập của Việt
Nam.
Một dân tộc đă can đảm chống lại sự thống trị
của Pháp trong hơn tám mươi năm, một dân tộc đă sát cánh cùng phe Đồng
minh chống lại Phát xít trong những năm cuối cùng, một dân tộc như vậy
phải được tự do và độc lập.
V́ những lư do này, chúng tôi, các thành viên
của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ, tuyên bố long trọng với thế
giới rằng Việt Nam có quyền trở thành một quốc gia tự do và độc lập - và
thực tế là như vậy. Toàn thể người dân Việt Nam quyết tâm huy động tất
cả sức mạnh thể chất và tinh thần của họ, hy sinh mạng sống và tài sản
của họ để bảo vệ sự độc lập và tự do của họ.
Và mọi người sống hạnh phúc măi măi về sau.
Mục này đă được đăng trong lịch sử và các sự
kiện hiện tại . Đánh dấu permalink .
https://www.biography.com/political-figure/ho-chi-minh
About
Support Us
Subscribe
Archive
Search
3/11 Article Index
Course Readers
APJ Subscription Drive November-December 2019
Tensions between the US and China are reaching
fever pitch in the era of Donald Trump, with mounting conflict between
the US and China, the US and North Korea, China and the nations of the
South China Sea, Okinawa and the US-Japan, and Japan and its neighbors,
Korea and Taiwan. We believe this makes the work of APJ more important
than ever.
We have no corporate, foundation or university
angel, so our ability to publish relies on our core supporters. Your
support allows us to provide APJ free to our 19,000 regular readers and
thousands of others around the world who access the journal through
reprints and other sources. Our goal: $12,000.
If you value the journal, please go to our
homepage http://apjjf.org/Subscribe where you can both subscribe to our
semi-monthly Newsletter and contribute (tax free) via Paypal or credit
card. Enter your email address and an amount and click on Paypal. You
can pay by credit card or paypal.
We need support in the range of $100-500-1,000
to maintain the site.
Origins of the American War in Vietnam: The OSS
Role in Saigon in 1945
Geoffrey Gunn
May 9, 2009
Volume 7 | Issue 19 | Number 3
Article ID 3137
Origins of the American War in Vietnam: The OSS
Role in Saigon in 1945
Geoff Gunn
Nearly thirty years have passed since the end
of the “Vietnam War” or rather the “American War,” as it is known in
Vietnam. But the American war in Vietnam originated in the French war to
restore colonialism in the power vacuum following the Japanese surrender
in August-September 1945. As the following article documents, early U.S.
post-war planners seemed to have grasped the iniquitous nature of
old-style colonialism only to have forgotten their ideals when
confronted with an independent revolutionary movement in the early days
of US-Soviet conflict.
History has revealed the disastrous consequences of American escalation
in Vietnam on the wrong side of history, just as the lessons of history
appear seldom to have been learned as, one generation on, America
plunges into no less disastrous military adventures in other theaters in
pursuit of militant Islam tied to terror.
A Watershed in U.S. Policy on Southeast Asia
As the Pentagon Papers reveal, U.S. policy
towards France and repossession of its colonial territories was
ambivalent. On the one hand, the U.S. supported Free French claims to
all overseas possessions.
On the other hand, in the Atlantic Charter and in other
pronouncements, the U.S. proclaimed support for national
self-determination and independence.
Through 1944, U.S. President Franklin D. Roosevelt held to his
views on colonialism and proscribed direct U.S. support for French
resistance groups inside Indochina.
By January 1945, U.S. concerns had shifted decisively to the
Japanese archipelago and the prospect of U.S. force commitments to
Southeast Asia was nixed, leaving this sphere to British forces.
Following the Yalta Conference (February 1945), U.S. planners declined
to offer logistical support to
Free French forces in Indochina. But the American position came
under French criticism in March 1945 in the wake of the Japanese coup de
force in Vichy French-administered Indochina leading to Japanese
military takeover and internment of French civilians.
The American decision to forego commitment to operations in
Southeast Asia prompted the Singapore-based British Southeast Asia
Command (SEAC) commander Admiral Louis Mountbatten to liberate Malaya
without U.S. assistance. At the time of Roosevelt's death on 12 April
1945, U.S. policy towards the colonial possessions of Allies was in
“disarray.” [1]
Roosevelt is on record for his anti-colonial
views with regard to French rule in Indochina. These were elaborated at
the Teheran Conference of 28 November 1943 where Roosevelt and Stalin
concurred that Indochina should not be returned to the French, and were
reiterated in January the following year over the opposition of the
British “who fear the effect [trusteeship] would have on their own
possessions and those of the Dutch.”
As reported by Charles Taussig, who interviewed Roosevelt, “the
President was concerned about the plight of “brown people” in the East
ruled over by a handful of whites. “Our goal must be to help them
achieve independence – 1.1 billion enemies are dangerous,” he said.
Roosevelt opined that French Indochina and New Caledonia should be
placed under a trusteeship or, at a minimum, should France retain these
colonies, then with the proviso that independence was the ultimate goal.
[2]
Roosevelt also launched the predecessor of the
Central Intelligence Agency (CIA), the Office of Strategic Services
(OSS), headed by William Donovan, in July 1941.
Enjoying close ties to Roosevelt, Donovan was instructed to
provide cover to support national liberation movements in Asia to resist
the Japanese. Whereas in France the OSS worked alongside the Free French
to resist the Nazi occupation, in Asia the situation differed in Asia.
When Japanese invaded Indochina in September 1940, the U.S. froze
Japanese assets, the first of several moves that would lead to the Pearl
Harbor attack. In July 1942, with Japanese occupation of Southeast Asia
a reality, the OSS set up a guerrilla base in India for operations in
Southeast Asia and China. In
northern Vietnam and southern Yunnan, the OSS worked hand-in-hand with
the Vietnamese communists, while Ho Chi Minh’s Viet Minh gave assistance
to downed U.S. fliers. The OSS team was also present in Hanoi on 17
August 1945, the day that the Viet Minh took over Hanoi from the
Japanese. [3]
Vo Nguyen Giap with Vietminh
Roosevelt's penchant for trusteeships as a
bridge to independence foundered, however, in the face of determined
British opposition. At the Dumbarton Oaks Conference in August-September
1944, where the blueprint for a new international system was brokered,
the British skirted the colonial issue altogether. The President's lip
service to anti-colonialism was not matched by U.S. intervention in
Vietnam, indeed Indochina would be assigned a status parallel to that of
Burma, Malaya and the Dutch East Indies (Indonesia), that is free
territory to be re-conquered by the colonial powers. [4]
The advent of the Truman Administration in
April 1945 represented a turning point in Washington's thinking on the
larger questions of colonialism and independence. The New Deal idealism
of Roosevelt and Donovan, which viewed the struggle against Western
colonialism as part of the struggle against tyranny, came under intense
scrutiny in the light of a reappraisal of the Soviet Union and changing
conceptions of the U.S. global role in general, and its position in the
Asia-Pacific in particular.
The change of direction in the Truman
Administration was matched by a more assertive approach by the State
Department, especially its European section.
In April 1945, French diplomats in Washington “skillfully”
applied pressure to gain official recognition of French sovereignty in
Indochina. Notably, at the
United Nations Conference at San Francisco in May-June 1945,
Under-Secretary of State James Dunn, together with Secretary of State
Edward Stettinius, assured the French about the unchanged colonial
status of Indochina, asserting that Washington had never “officially”
questioned French sovereignty. According to Richard J. Aldrich, at this
stage the OSS in the field was obviously “out of step with metropolitan
policy-makers,” especially with respect to the larger issues of
colonialism and communism. [5]
But the dye was also set for the future of
post-surrender Indochina by the terms of the Potsdam Conference of
July-August 1945 where it was decided to temporarily partition Vietnam
(and Laos) at the 16th parallel. Under this arrangement, Allied
chiefs-of staff assigned British forces to take the Japanese surrender
in Saigon and in Cambodia, while Japanese troops were to surrender to
Chinese forces of Jiang Jieshi (Chiang Kai-shek) north of the 16th
parallel.
Notable, as well, was the direction and
influence of George Kennan of the U.S. State Department.
Kennan, who had helped establish the U.S. Embassy in Moscow in
1933, became increasingly skeptical towards the USSR, believing that the
Roosevelt spirit of cooperation was misplaced.
Apparently, State Department realists had already drawn the line
on vigilance against international communism, even prior to the advent
of the Truman administration.
Support for the Dutch and French under the
Atlantic Treaty obliged the U.S. to walk a fine line in dealing with
these two nations with respect to their Southeast Asian colonies. Kennan
recommended that the Dutch and French distance themselves from 19th
century imperialism and face up to modern realities. He also urged
multinational collaboration in Asia with India, Pakistan, and the
Philippines to dispel association with white imperialism. Specifically,
Kennan recognized militant Asian nationalism as a historical reality and
viewed any attempt to reverse this process as an “anti-historical act
and, in the long run, would create more problems than it solves and
cause more damage than benefit.” But, according to A.K. Nelson in an
introduction to a State Department Policy Planning paper, Kennan viewed
Soviet attention to Southeast Asia as a strategic lever against the U.S.
[6]
Kennan was convinced that the Soviet Union had
expansionist goals and that it had to be stopped, the subject of his now
famous “Long Telegram” of 22 February 1946. The U.S. Cold War policy of
“containment” as enunciated in the Truman Doctrine of 12 March 1947,
also bears Kennan's signature. America's slide into the Vietnam War, as
tracked in the Pentagon Papers and elsewhere, can be traced back to
these watershed events and decisions. But how did these lofty ideals,
reappraisals, and fast-shifting commitments play out on the ground in
Saigon in the heady days of August-September 1945 following the Japanese
surrender?
The China-Indochina Theater
In the larger scheme, the U.S. role in
Indochina preceding and following the Japanese surrender flowed out of
its commitments in support of Jiang Jieshi and the Guomindang
in the China Theater, which included those parts of Thailand and
Indochina then occupied by
the Allies. While
Jiang exercised preeminence over the Allies in the China Theater, at a
meeting at his wartime headquarters in Chongqing (Chungking) on 16
October 1943, SEAC Commander, Louis Mountbatten gained the
Generalissimo's approval for the British-dominated SEAC to operate
inside these boundaries.
Mountbatten in China, 1944
As early as 1942-1943 clandestine American
parties were operating in Free China and by 1944, the OSS already
actively sought the support of the Viet Minh in the anti-Japanese cause.
[7] In 1945 the OSS was reorganized with the tacit agreement of SEAC and
China, setting up staff headquarters in strategically located Kunming in
Yunnan. The Japanese coup de force in Indochina of March 1945 also
galvanized the OSS into action in the north, just as Free French
guerrillas took to the mountains in both Vietnam and Laos to prepare for
an eventual colonial restoration.
Drawing upon OSS sources, Specter [8]
argues that the American role in the south, if more conspicuous than in
the north, was much less important. Yet it was in Saigon in September
1945 that American support for self-determination and independence came
unstuck.[9] The following account seeks to explain less well documented
events and actions on the part of the OSS in southern Vietnam, which,
together with contemporaneous events in Laos, also highlight conflicts
of interests and goals among the British, French and the Americans
concerning restoration of the colonial status quo ante.
First Americans in Saigon
The first Americans into Saigon entered by
parachute on 1 September 1945. They were a prisoner-of-war evacuation
group under First Lieutenant Emile R. Counasse. This was an advance
element of Operation Embankment, in turn planned as early as 10 August
by OSS Detachment 404 based in
Sri Lanka (Ceylon). The above group was to accompany British
troops to Saigon with the stated objective of
investigating war crimes, locating and assisting Allied POWs,
particularly Americans, securing American properties, and tracking
political trends. From the outset British General Gracey had objected to
the American presence in Vietnam. However, he was overridden by SEAC
commander, Mountbatten. Operation Embankment was commanded by
Lieut-Colonel A. Peter
Dewey, who arrived in Saigon by C-47 on 2 September with four team
members landing on a Japanese airfield near the main Saigon (Tan Son
Nhut) airport. Dewey was told that he was on his own and could expect no
logistical help from the British. This arrangement also allowed him to
operate independently. [10]
Peter Dewey
The arrival of the OSS team was not America's
first involvement in southern Vietnam. For three years American air and
naval forces had been harassing Japanese positions in and around
Vietnam. Notably, Saigon harbor had been raided by U.S. carrier-based
aircraft and bombing raids had flown out of India. At least one American
airman had been shot down over Cholon, Saigon's China-town, in an
attempted raid on the railway station.
Eventually, the OSS team liberated 214
Americans held in Japanese POW camps outside of Saigon. The majority had
been captured in Java and employed on the River Kwai railroad before
being interned in Saigon. Another eight were airmen shot down over
Indochina. They were flown out of Saigon on seven DC3s on 5 September.
[11] Archival sources make no mention of Dewey's brief to investigate
Japanese war crimes, indeed these records possibly remain classified.
Setting aside high profile cases, such as with Field Marshal Terauchi
Hisaichi, it was the French who vigorously prosecuted Japanese war
crimes in Vietnam, of which there were many against French officials and
French and Vietnamese civilians alike. French investigations led to the
execution of five Japanese for the murder of American airmen downed in
Indochina. At this time, many Japanese, Kempeitai included, avoided
investigation by throwing in their lot with the Viet Minh as military
advisors and in other roles.
In the event, Counasse's advance team was
greeted “respectfully” by the Japanese. They also had to content with
the so-called United National Front government in Saigon comprising
Trotskyists, Cao Dai, Hao Hoa and other nationalist and religious groups
and sects. While dismissing the motley coalition government as a
“drugstore revolution,” the team nevertheless reported that its control
was “complete,” even if its actions appeared
“hazy” or unexplainable. With Dewey's arrival and assumption of
local command, the American team established close contact with the
leaders of the independence movement, including the Viet Minh. Almost
immediately, however, Dewey was prevailed upon by both the French and
General Douglas Gracey, the British commander of occupation forces south
of the 16th parallel as outlined in the Potsdam Conference, to keep his
distance, lest he give the impression of official U.S. support for the
independence movement.
Dewey had also made personal contact with the
Viet Minh. On 7 September, he radioed the first American account of what
had transpired in Saigon on Independence Day, matching the events of the
August Revolution in Hanoi, leading to the establishment of the
Democratic Republic of Vietnam by a triumphant Ho Chi Minh. He also
air-pouched a comprehensive report on complex Vietnamese political
maneuvers in the south and confirmed French General Cedile's arrival on
22-23 August. Dewey made contact with left-wing French elements then in
Saigon leading to his meeting with the Viet Minh supremo of southern
Vietnam and future communist historian, Tran Van Giau (along with Dr.
Pham Ngoc Thac and Nguyen Van Tao) on 27 August. He kept up a stream of
reports relating to the fragile relationship between Giau and the
Trotskyists. [12]
U.S.-Vietnamese relations took a major turn for
the worse on 24 September, when OSS Captain Joseph Coolidge was wounded
in an ambush and two days later when Dewey was killed (26 September) in
then mysterious circumstances by a group of Vietnamese. Dewey's
successor, Lt. James R. Withrow, arrived soon after, to observe the
French re-conquest of South Vietnam. [13]
Sometimes billed as America's first Vietnam War
casualty, Dewey was born in 1916 in Chicago, schooled in Switzerland and
later majored in French at Yale. He saw action in France against the
Germans, before evacuating via Portugal and Spain back to the U.S. In
August 1942 he enlisted in the U.S. army as an intelligence officer with
the Air Transport Command in Africa. Following an approach made to an
old family friend, General Bill Donovan, he was recruited by the OSS.
Dewey was also the son of U.S. Congressman, Charles S. Dewey. He was
dispatched deep into German occupied France supplying crucial
intelligence on the German withdrawal and making an epic 600-mile
retreat march through enemy territory. Returning to Washington, in July
1945 he was selected to head the OSS team that would enter Saigon after
the Japanese surrender.
Dewey's OSS team was ordered to leave Sri Lanka
for Saigon on 1 September. Following stops in Rangoon and Bangkok, the
team arrived at Tan Son Nuth airport in Saigon on 4 September where they
were met by members of the Japanese High Command and “enthusiastic
crowds of Vietnamese,” holding high expectations of a perceived American
commitment for an end to colonial empires. Until 12 September, the OSS
team with headquarters at the Villa Ferrier northeast of the airport,
was the only Allied presence in Saigon. Later that day, a company of
British soldiers (a Gurkha division from Rangoon) flew in at around the
same time as a company of French paratroopers from Calcutta.
In the interim, Dewey made contact with the
Viet Minh-established Committee of the South. Advocates of a “peaceful
policy,” they looked to America, China, and Russia to prevent a French
restoration. Also opposing the French were the pro-Japanese Phuc Quoc
Party as well as the United National Front. They spread rumors of an
imminent French restoration and were in no mood for negotiations. As
always, the Binh Xuyen (Saigon gangsters) were a force to be reckoned
with. For their part, the Viet Minh had constructed makeshift roadblocks
around Saigon to prevent the French return.
Three days prior to Dewey's death, General Jean
Cedile and his forces brazenly occupied all major buildings in Saigon,
while arming interned French troops. But these were French troops
released under British General Gracey's order, and Gracey himself was
responsible for disarming the Japanese. Provocative actions by the newly
armed French troops along with French civilians on the streets of Saigon
threw the Viet Minh on the defensive, ironically setting the trap for
Dewey on the fateful day of 26 September. Dewey attempted to lodge an
official complaint with Gracey, but the British commander, suspecting
that Dewey was in cahoots with the Viet Minh, declared the American
persona non grata and ordered him out of the country. Dewey acceded to
this order, believed by the American party to have been passed down by
the French, not at all happy with the OSS role in Indochina generally.
[14]
Returning to the Villa Ferrier from the airport
by jeep owing to a delay in the arrival of his aircraft, Dewey -
“possibly mistaken for a Frenchman” - was shot dead in a Viet Minh
ambush on the airport perimeter. His companion, Major Herbet Bleuchel,
was able to escape.
Subsequently, six Vietnamese were killed in a fierce exchange of fire
with the beleaguered OSS team holed up in the Villa Ferrier, pending the
arrival of two British Gurkha platoons who helped evacuate the American
party to the Continental Hotel.
Testimony in the form of a signed affidavit of
13 October 1945 by Captain Frank H. White, an OSS team member who sought
to recover Dewey's body, is also revealing. According to White, in the
late afternoon, he approached a Vietnamese party displaying a Red Cross
flag, seeking to recover bodies of their slain comrades. White observed
a considerable number of armed Vietnamese in the vicinity including the
leader of the party, a French-speaking individual around 30 years old.
Launching into a polemic against the French and the British who
protected them, he asserted that, had he known that Dewey was American,
he would not have ordered the attack. He also stated that his party had
only attacked OSS headquarters because he believed that French and
British resided there. White also observed that the Vietnamese were
equipped with Japanese military material including cartridge boxes and
canteens. [15
Recriminations as to who ordered the killing
poisoned the atmosphere, with some Americans blaming British Special
Operations Executive (SOE), also operating clandestinely in Saigon, and
the British blaming the Japanese, while the French blamed the Viet Minh.
In part, to mollify the Americans, Ho Chi Minh let it be known that he
disapproved of the killing. This took the form of a letter addressed to
President Truman expressing condolences and friendship with the American
people. Long after the end of the war, Tran Van Giau apologized to
Dewey's daughter for the Viet Minh error. [16] The Allied Control
Commission subsequently produced a report on Dewey's death, inter alia
casting doubt on whether the incident could have been prevented if the
Americans were allowed to fly an American flag on their jeeps as wished,
and as forbidden by the French. [17]
The OSS View
Documents relating to OSS Activity in Vietnam,
notably those relating to Dewey's death, are also revealing of the
attitudes of the OSS, not to mention French, British and Japanese
towards the Viet Minh but also the Viet Minh pris de position in this
standoff.
The brief by Major F. M. Small is illustrative.
As he wrote in a signed affidavit of 25 October 1945, “From my own
observation and study, the general situation in Saigon reflects an
intense desire on the part of the Vietnamese (Annamese) for independence
and thorough hatred of them for the French and any other white people
who happen to be in any way supporting or sympathizing with the French.
The hatred of the Vietnamese for the French has been brought about by
the not too enlightened policy of the French, which has been to exploit
the Vietnamese to the greatest extent possible and treat them more or
less with contempt. The Vietnamese naturally greatly resent the British
protection of French interests and insomuch as the American military in
Saigon regularly attend British staff meetings, it is quite likely that
the Vietnamese infer that the United States tacitly approves the British
policy.” Small also described British General Gracey as “not well suited
to his assignment.” Notably, his mishandling of the situation with
respect to arming the French POWs was the “single immediate contribution
to the intensification of Vietnamese animosity to all whites in Saigon,
and thus directly contributed to Dewey's death.” [18]
Sideshow in Laos
Neither was there any love lost between the
newly returned French in Laos and a party of Americans dubbed Raven
Mission dispatched by OSS headquarters in Kunming and parachuted into
the landlocked country on 16 September 1945. [19] French General and
military historian Jean Boucher de Crèvecoeur [20] goes as far as to say
that the American officers were not only opposed to the French and
pro-French Lao but actually supported (pro-independence) groups
including Prince Phetsarath, the anti-French Lao Issara or Lao
nationalist leader, obliquely backed by the Japanese. Major Aaron Banks
(already a veteran of various anti-Nazi missions in Europe) and Major
Charles Holland of the OSS are described as spouting anti-French
propaganda.
Events reached a climax on 27 September when a
British party led by Major Peter Kemp of Force 136 (the cover name for
the British SOE in Southeast Asia) crossing the Mekong from their base
at Nakhon Phanom in northeast Thailand were surrounded by an armed Viet
Minh patrol who demanded the surrender of French Lieutenant Francis
Klotz. Although protected by the British, Klotz was assassinated by the
Viet Minh. To the disdain of the French, OSS agent Reese, also
accompanying the party, maintained his neutrality. Although, the OSS
party remonstrated with the Viet Minh, the killer was never transferred
to the British base as they demanded.
According to de Crèvecoeur, [21] the incident was also a turning
point for the Americans recalled from the mission by higher authorities
in Kunming. [22] But in the eyes of the Americans “what made the British
operations reprehensible was that they were undertaken on behalf of the
French” (and working in territory north of the 16th parallel formally
reserved for the Chinese under the Potsdam Agreement). [23]
More than anything, the events in Saigon as
well as the Laos incident reveals the bind that individual Americans
were in, especially in being seen by the French and their British allies
as siding with the Viet Minh (alongside Lao nationalists) against
pro-French collaborators and
coalitions, who were actively succored by stay-behind Free French
guerrillas. It may not have been apparent at the time, but the Americans
in urban Saigon, as well as the back blocks of Laos, were witness to the
first sparks igniting what would be a fratricidal 30-year civil and
international war of almost incalculable costs.
Certain of the OSS veterans and relatives have
returned to Vietnam as virtual state guests, as with Peter Dewey's
daughter. Notably, Viet Minh and OSS veterans, including Asian members,
have held at least two reunions, one in 1995 and one in 1997 in New
York. Some of the OSS veterans returned to civilian life, as with Frank
White who became a foreign correspondent. Georges Wickes, also with
Dewey in Saigon, became a professor of English at the University of
Oregon. Another, Major Aaron Banks, also a Korean War veteran, joined
the American war as the “father” of the Green Berets or U.S. Special
Forces. Yet another of the OSS team in Laos, B. Hugh Tovar, went on to
play key roles in U.S. Cold War operations. Among other posts, Tovar
served the U.S. Embassy in Jakarta in 1964-1966 during the Suharto coup
and bloodbath, later resurfacing as CIA station chief in Laos between
May 1970 and September 1973, at the height of the “secret war” and
bombing. In Washington, Tovar headed Covert Action and
Counterintelligence Staffs. More recently, Tovar emerged as an advocate
of Hmong minority rights in the Lao People's Democratic Republic.
It would be tempting to allow that the OSS-Viet
Minh reunions of the mid to late 1990s were harbingers of a larger
reconciliation between Washington and Hanoi.
While the realities of the American war long pushed these
historical memories to the background, the sacrifices shared by both the
OSS and the Viet Minh in the anti-Japanese struggle of 1944-1945 are
nevertheless notable. Still it required larger shifts by both sides to
even reach the stage of resumption of economic ties. Political
accommodation would arrive only during the Clinton Administration. Up
until 1993, the United States still imposed an economic embargo upon
Vietnam. Although bitterly opposed by many veteran groups, along with
Republicans in Congress, Clinton lifted the embargo and, in July 1995,
restored diplomatic relations. In part, Clinton was also under pressure
from American business interests that were still barred from trading
with Vietnam. But, responsive to veteran groups, Washington also
demanded progress by Hanoi in expediting the search and recovery of
missing-persons or MIA cases, while ignoring Vietnamese demands for
reparations for Agent Orange and other victims of the American war. In
November 2000, Clinton became the first U.S. head of state to visit
Vietnam since the end of the war. Although offering no apologies, he
nevertheless expressed the need to further the process of
reconciliation. As he stated in Hanoi, “The history we leave behind is
painful and hard. We must not forget it, but we must not be controlled
by it.” As one who had said “no” to the war in his youth, his audience
was doubtless all the more appreciative. In November 2006 George W. Bush
became the second U.S. president to visit Vietnam since the end of the
war, ostensibly to strengthen business ties in the booming Vietnamese
economy. But Bush's visit also drew comparisons between U.S. failure in
Vietnam and the war in Iraq, prompting the president's suggestive, but
ironic, “We'll succeed unless we quit” one-liner. [24]
Geoff Gunn is author of Political Struggles in
Laos, 1930-1954 (Duang Kamol, Bangkok, 1988; reprint White Lotus,
Bangkok, 2005) and an Asia-Pacific Journal coordinator. He wrote this
article for The Asia-Pacific Journal.
Recommended citation: Geoff Gunn, "Origins of
the American War in Vietnam: The OSS Role in Saigon in 1945." The
Asia-Pacific Journal, Vol. 19-3-09, May 9, 2009.
Notes
[1] Pentagon Papers: The Defense Department
History of United States Decisionmaking on Vietnam, Beacon Press,
Boston, 1971, Chapter 1 “Background to the Crisis, 1940-50” pp. 1-52.
[2] Thomas G. Paterson and Dennis Merrill,
Major Problems in American Foreign Policy, Vol. II: Since 1914, 4th ed.
D.C. Heath and Co., Lexington 1995, pp.189-90.
[3] Archimedes Patti, Why Viet Nam? Prelude to
America' s Albatross, University of California Press, Berkeley, 1980.
[4] Pentagon Papers.
[5] Richard J. Aldrich, Intelligence and the
War Against Japan, Britain, America and the Politics of the Secret
Service, Cambridge University Press, 2000, pp. 305; 343-45.
[6] A.K. Nelson (ed), The State Department
Policy Staff papers, 1947-1949 (3 vols. New York), pp. 1ix.
[7] Patti, Why Viet Nam?, p.52.
[8] R.H. Spector, Advice and Support The Early
Years of the United States Army in Vietnam 1941-1960, The Free Press New
York London, 1985.
[9] For a focused study of intra-factional
struggles between the Viet Minh, Trotskyists, and others in Saigon in
1945, see David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (University
of California Press, Berkeley, 1995).
[10] Patti, Why Viet Nam?, p. 272.
[11] OSS Southeast Asia Command.
[12] Patti, Why Viet Nam?, pp. 275-76.
[13] Spector, Advice and Support, p. 68.
[14] In a recent book on the role of the
British in Vietnam, Britain in Vietnam: Prelude to Disaster, 1945-6
(Routledge, 2007, chap “Death of an OSS Man”), Peter Neville strikes a
more critical position on the OSS role in Saigon, at least as reported
by Archimedes Patti in Why Viet Nam? Neville even doubts that Dewey was
ordered out of Vietnam suggesting he wished to leave on his own
volition.
[15] Death of Major Peter Dewey, October 1945,
Pike Collection, Item no. 2360209040
[16] Seymour Topping, “Vietnamese Historian
Recalls Untold Story of Tragic Murder of Peter Dewey," in The OSS
Society, Inc, Summer 2005, pp.3-4.
[17] Documents Relating to OSS Activity in
French Indochina MLB-2739-B.
[18] Death of Major Peter Dewey, October 1945.
[19] Arthur J. Dommen and George W. Dalley,
“The OSS and Laos: The 1945 Raven Mission and American Policy,” Journal
of Southeast Asian Studies, 22, no.2, September, 1991, pp.327-46.
[20]
Jean Boucher de Crèvecoeur, La Liberation du Laos, 1945-1946, Service
Historique de l'Armée de Terre, Vincennes, 1985, pp. 51-60.
[21] de Crèvecoeur, La Liberation, pp.51-60.
[22] Dommen and Dalley, p.342.
[23] Dommen and Dalley (p.346) suggest that
knowledge of the “impermissible independence” of the OSS in Laos
actually gave pause to President Truman and successors as to the need
for firmer presidential control over a successor intelligence
organization, namely the CIA. The OSS also fell victim of
intra-bureaucratic turf wars in Washington. Abolished by Truman, the OSS
was formally closed down in October 1945 with individuals morphing into
a Strategic Services Unit coming under the War Department. In July 1947,
the CIA was created as America's prime intelligence organization, just
as the Cold War was given priority.
See, Aldrich, Intelligence and the War Against
Japan, p.343.
[24] Robert Scheer, “Bush's Vietnam Analogy,”
The Nation, 22 November 2006.
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn ֎ Một Trang Lịch Sử
֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos
֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử Video ֎ Secret Army Secret War Video
֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy
֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem
֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản
֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF
֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam
֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives
֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển
֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery
֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
֎ Bách Việt ֎ Lược Sử Thích Ca ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn
֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress
֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge
֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt
֎ Top 10 Crime Rates ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act
֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS
֎ Richest of The World ֎ Truman Committee ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎ Foreign Trade
֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days ֎ USA Census
֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars
֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA
֎ VietUni ֎ Funny National Days ֎ 1DayNotes
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Tặng Kim Âu
Chính khí
hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn
phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.