.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia.
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
Một vài vấn đề về ngôn ngữ văn
học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm những năm đầu thế kỷ XX và vai trò
của chúng trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
20181119 Sach hoc tan tuyen
Ảnh: Bìa sách Sách học tân tuyển in năm
Duy Tân, Kỷ Dậu (1909)
Văn học Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ
XX dần dần bước vào quỹ đạo hiện đại hóa để chuyển từ phạm trù văn
học truyền thống sang văn học hiện đại. Văn học truyền thống được
đặc trưng bằng một loạt những nét chuyên biệt cả từ phương diện lý
tưởng thẩm mỹ đến các thủ pháp nghệ thuật, trong đó có các vấn đề
liên quan đến ngôn ngữ văn tự. Văn học truyền thống do được viết
bằng chữ Hán và chữ Nôm, nên có người gọi đó là văn học Hán – Nôm.
Văn học Hán – Nôm truyền thống mang trong mình bộ phận văn học
viết bằng chữ Hán trên cơ sở một hình thái ngôn ngữ viết vốn được
phổ biến rất rộng khắp ở một loạt nước Đông – Á các thế kỷ trung
đại – văn ngôn. Là ngôn ngữ - văn tự vay mượn, do vậy, nó xa rời
với thực tế đời sống ngôn ngữ nói của quảng đại quần chúng, nó
không trực tiếp dựa trên cơ sở của ngôn ngữ nói dân tộc.
Bộ phận văn học dân tộc viết bằng ngôn
ngữ văn học dân tộc - chữ Nôm, trên đại thể là bộ phận văn học
trực tiếp dựa vào ngôn ngữ nói, có liên quan trực tiếp đến đời
sống ngôn ngữ dân tộc… Song, trong suốt quá trình hình thành và
phát triển của mình, cho đến những năm đầu thế kỷ XX, do nhiều
nhân tố xã hội - lịch sử, ngôn ngữ của nó chủ yếu là vận văn… Văn
xuôi, văn chính luận rất thưa thớt, hiếm vắng. Theo đà đi lên của
lịch sử, quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam ắt hẳn sẽ phải
chịu sự ảnh hưởng của một loạt những nhân tố xã hội - lịch sử,
trong đó có những nhân tố liên quan đến ngôn ngữ truyền thống.
Các nhà nghiên cứu bây giờ có hồ đều
thống nhất cho rằng văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX dần bước vào
phạm trù văn học hiện đại. Văn học hiện đại có một đặc trưng cơ
bản xét về góc độ ngôn ngữ - văn học, đó là văn học có ngôn ngữ
viết trực tiếp dựa trên cơ sở ngôn ngữ nói. Giữa ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết có sự thống nhất. Bởi thế, cho nên, quá trình hiện
đại hóa văn học Việt Nam tự mang trong mình cả nhiệm vụ “văn - ngữ
nhất thể) (phải làm sao cho ngôn ngữ viết thống nhất với ngôn ngữ
nói, ngôn ngữ viết phải trực tiếp dựa trên cơ sở của ngôn ngữ
nói…). Chỉ có khi nào văn học viết trực tiếp viết bằng khẩu ngữ
thì mới có thể coi rằng quá trình hiện đại hóa đã đạt được những
cơ sở vững vàng về ngôn ngữ…
Những điều nêu trên cho phép chúng ta
hình dung quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam xét từ phương
diện ngôn ngữ sẽ không giản đơn chỉ gồm những bước nhảy vọt mà
ngược lại, nó sẽ phải trải qua những bước quá độ, chuyển tiếp… Ở
những bước quá độ này, chúng ta vừa nhìn thấy những đặc trưng của
truyền thống, vừa nhìn thấy những mầm mống cho những bước chuyển
tương lai… Vả lại, quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc không
phải bắt nguồn từ mảnh đất hoang, chưa có người cày xới… mà ngược
lại, như trên đã nói, hiện đại chỉ là sự tiếp tục đi lên của
truyền thống ở những giá trị và tầm cao mới theo yêu cầu và tình
hình của thời đại… Điều đó có nghĩa là nhân tố văn học Hán – Nôm
sẽ đóng vai trò của mình cho tiến trình hiện đại hóa. Tiến trình
hiện đại hóa ít nhiều sẽ bị nhân tố xuất phát này quy định. Từ
cách nhìn như thế, để tìm hiểu được quá trình hiện đại hóa văn học
Việt Nam, cần phải nghiên cứu kỹ văn học viết bằng chữ Hán, chữ
Nôm những năm đầu thế kỷ XX, bởi nó, một mặt vừa là hậu duệ, vừa
là những sản phẩm gần như cuối cùng của văn học truyền thống. Mặt
khác, nó là nhân tố kề bên của văn học hiện đại. Có lẽ vì thế, văn
học Hán – Nôm những năm đầu thế kỷ XX sẽ có quan hệ nào đó với văn
học Việt Nam hiện đại những thập niên sau đó.
Tình hình phát triển của văn học chữ Hán
chữ Nôm đầu thế kỷ cho thấy văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm
trong những năm đầu thế kỷ XX về cơ bản vẫn là bộ phận văn học chủ
đạo trong đời sống văn học dân tộc. Các bộ Hợp tuyển, các công
trình nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn này chủ yếu sưu tầm
các tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Chẳng hạn như công trình
Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của cố giáo sư Đặng Thai
Mai một công trình khá lớn về văn học giai đoạn này được viết bằng
con mắt, cái nhìn, tâm tưởng của một người chứng kiến lịch sử, của
một người rất gần gũi với thời đại bấy giờ về mọi phương diện… đã
chủ yếu dành cho văn học Hán – Nôm của các sĩ phu yêu nước. Trong
sô 66 đơn vị văn bản được đưa vào phần hai của tập sách với tư
cách như là phần Hợp tuyển thì có tới 32 văn bản mà nguyên tác
được viết bằng chữ Hán, 34 văn bản bằng quốc âm, quốc ngữ nhưng
quốc âm, quốc ngữ ở đây chủ yếu được ghi bằng chữ Nôm… Trong số 32
văn bản Hán văn ấy thì chủ yếu là các văn bản chính luận… Điều ấy
nói lên quang cảnh và vai trò của văn học Hán – Nôm giai đoạn này
trong tiến trình tiến hóa của văn học dân tộc.
Nghiên cứu văn học chữ Hán, chữ Nôm Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX là những vấn đề rất lớn và đã có nhiều
công trình. Chúng tôi, trong bài viết này chủ yếu đề cập đến một
số vấn đề có liên quan đến phương diện ngôn ngữ của loại ngôn ngữ
văn học này, để qua đó, ở những mức độ rất hạn chế góp phần làm
sáng tỏ tiến trình vận động của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm, cũng
như vai trò của nó ở giai đoạn này cho tiến trình hiện đại hóa văn
học Việt Nam… Và cũng trong chừng mực nhất định, cũng đặt vấn đề
xem xét văn học chữ Hán, chữ Nôm của các sĩ phu yêu nước đầu thế
kỷ như là văn học của giai đoạn quá độ, văn học đóng vai trò bước
chuyển từ truyền thống sang hiện đại về phương diện ngôn ngữ…
Do yêu cầu của bài viết được đặt ra là
như vậy, cho nên, cấu trúc các vấn đề ở đây sẽ là:
1. Trạng huống ngôn ngữ ở Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX.
2. Nhân tố chữ Hán (Hán văn) và chữ Nôm
trong đời sống ngôn ngữ văn học những năm đầu thế kỷ XX.
3. Những đặc điểm về chức năng và cấu
trúc của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm giai đoạn này.
4. Vai trò chiếc cầu nối giữa truyền
thống và hiện đại của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm.
1. Trạng huống ngôn ngữ ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX
Với hiệp ước Patơ nốt (1884), thực dân
Pháp đã cơ bản đặt được nền thống trị của chúng trên toàn cõi Việt
Nam. Lực lượng yêu nước (phái chủ chiến) trong triều đình đã phát
động phong trào Cần Vương khắp trong cả nước, song phong trào này
cơ bản bị thực dân Pháp tiêu diệt sau cái chết của Phan Đình Phùng
– lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê vào năm 1897. Cũng trong thời
gian đó, thực dân Pháp dần chú ý đến việc đặt cơ sở, xây dựng bộ
máy cho các mục đích khai thác thuộc địa.
Rút kinh nghiệm ở Nam Kỳ nơi chúng sớm
dùng loại chữ Hán trong thi cử (1867), do muốn nhanh chóng Pháp
hóa… song lại gặp phải sự kháng cự dữ dội của nhân dân - nhất là
tầng lớp sĩ phu… cho nên các tên cáo già của chủ nghĩa thực dân
Pháp với những kinh nghiệm đầy người đã nghĩ ra rất nhiều âm mưu
trong việc cố sử dụng những gì đã có để phục vụ cho âm mưu của
chúng như: vua quan nhà Nguyễn và hệ thông thi cử cũ… để tạo ra
lớp người phục vụ cho quyền lợi của người Pháp… Bởi vậy, từ khi ký
hiệp ước Patơnốt, chúng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm cải
đổi cơ cấu xã hội, trong đó, chúng đặc biệt chú ý đến giáo dục, vì
sau khi nhiệm vụ của những tên lính xâm lược kết thúc thì bắt đầu
nhiệm vụ của người giáo viên… Lối học hành, thi cử theo kiểu
truyền thống không thể đào tạo ra bộ máy thư lại mà xã hội thực
dân yêu cầu. Kinh điển thánh hiền với những sáo ngữ về thời Tam
hoàng, Ngũ đế… không dạy kỹ thuật làm thư ký, lập bảng biểu thống
kê… Cải biến giáo dục - chuyển từ nền giáo dục phong kiến sang
thực dân được coi là nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn mới. Trong
cuộc cải biến này, có một vấn đề trung tâm, đó là vấn đề ngôn ngữ
- văn tự vì không thể có một nền giáo dục nào lại không thông qua
ngôn ngữ văn tự.
Trong suốt mười thế kỷ tồn tại của nền
giáo dục dưới thời phong kiến, giáo dục Việt Nam chủ yếu được thực
hiện trên cơ sở của ngôn ngữ - văn tự vay mượn – Văn ngôn và chữ
Hán với sự tham gia của tiếng Việt ở những mức độ nhất định. Hán
văn tuy là ngôn ngữ chính thống, quan phương trong giáo dục, song
việc giáo dục không thể diễn ra tốt đẹp và ổn thỏa được nếu không
xác định đến vai trò của tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ (quốc âm, quốc
ngữ) được ghi bằng chữ Nôm luôn đóng vai trò là cái cầu chuyển
ngữ… Thực tế dạy chữ Hán cho những người mới bắt đầu yêu cầu phải
dùng chuyển ngữ, và cả khi dạy kinh điển (Thi, Thư…) cũng có khi
đã dùng chuyển ngữ - quốc ngữ, quốc âm (Phạm Văn Khoái. H, 1996).
Mục tiêu trong cải biến giáo dục về
phương diện ngôn ngữ của thực dân Pháp là phổ biến tiếng Pháp.
Chúng đã mở trường Thông ngôn (ở Nam Kỳ từ năm 1961), trường Thông
ngôn ở Bắc Kỳ vào đầu những năm 90 thế kỷ thứ XIX, trường Hậu bổ…
) song, trước thực tế ngôn ngữ ở Việt Nam buộc chúng phải điều
chỉnh, chọn những yếu tố cần thiết cho ý đồ thực dân của mình.
Nếu trước đây trong lịch sử, Hán học cần
phải có sự giúp đỡ của quốc âm, quốc ngữ… thì bây giờ bọn thực dân
cũng thấy rằng Pháp học (tiếng Pháp) cũng cần phải có sự giúp đỡ
của tiếng người bản ngữ - Đó là quốc ngữ, quốc âm.
Quốc âm, quốc ngữ vốn là cái thuật ngữ
chỉ tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ dân tộc. Trong các điều kiện của thời
phong kiến, tiếng mẹ đẻ đã sớm được các bậc thức giả coi là một
trong những nhân tố cho sự độc lập dân tộc, cho sự đối lập Bắc
Nam… Cái tiếng mẹ đẻ ấy khi được ghi lại bằng chữ Nôm, thì loại
văn bản naà (cả tiếng mẹ đẻ, cả chữ Nôm) được gọi là quốc âm, quốc
ngữ. Với nghĩa là ngôn ngữ của người trong nước, dù chưa phải là
“ngôn ngữ nhà nước”.
Tiếng mẹ đẻ được gọi là quốc âm, quốc ngữ
trong nhiều thế kỷ trung đại… đã lớn mạnh rất nhanh, để tự mình có
một nội lực. Nó là ngôn ngữ của văn học dân tộc mà một trong những
đỉnh cao là ở nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX… Quá
trình vươn lên của tiếng mẹ đẻ về mặt cấu trúc và chức năng trong
suốt thời phong kiến là một thực tế lịch sử hiển nhiên. Có thể coi
sự vương lên đó là quá trình xây dựng và làm phong phú ngôn ngữ
viết (ngôn ngữ văn học). Tiếng mẹ đẻ cho đến những năm đầu thế kỷ
XX có hai hệ thống văn tự phổ biến hơn cả ghi lại - chữ Nôm và văn
tự chữ cái âm – cũng được gọi là chữ quốc ngữ (Phạm Văn Khoái.
1997).
Thực tế phát triển vững vàng của tiếng
Việt đã làm cho bọn thực dân phải tính đến nhân tố tiếng Việt
trong chính sách phổ biến tiếng Pháp của chúng. Đương nhiên, người
Pháp sẽ chú ý đến tiếng Việt được ghi ở dạng văn tự chữ cái La
tinh. Cáo già thực dân Pôn Be từng nói: “Việc người bản xứ có thể
đọc, viết bằng chữ quốc ngữ đối với chúng ta là hết sức có lợi.
Các công chức của chúng ta, các nhà buôn của chúng ta có thể học
rất dễ dàng các ký hiệu đó, và sự liên hệ của chúng ta với người
bản xứ sẽ dễ dàng hơn nhiều” (NCLS.96. 3/1967. tr.15).
“Học rất dễ dàng cách ký hiệu đó” đúng
như Pôn Be nói, nhưng nắm được tiếng Việt thì lại là một vấn đề
khác. Việc đó khó khăn vô cùng chứ không phải giản đơn nắm được
các chữ cái là đủ… thực dân Pháp đã sử dụng tiếng Việt ở dạng ghi
bằng chữ cái làm chuyển ngữ… Từ năm 1897 chúng mở một số trường
Pháp - Việt ở các thành phố và các tỉnh lớn, trong đó học tiếng
Pháp là chính nhưng có học chữ Quốc ngữ và chữ Hán. Năm 1898, thực
dân Pháp ra nghị định sử dụng Quốc ngữ và Pháp văn vào chương
trình thi Hương (chưa bắt buộc). Năm 1906, chính quyền thực dân
tiến hành cải cách giáo dục làm ba cấp… Ở kỳ thi chọn Cử nhân thì
thi luận chữ Nho, thi luận chữ Việt (Quốc ngữ) và có một bài dịch
chữ Pháp ra chữ Nho.
Thi cử là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến
tiến trình học tập và sử dụng ngôn ngữ. Thi cử sẽ kéo theo mọi vấn
đề liên quan đến việc định hướng học tập… Lối thi cử truyền thống
ở Việt Nam khiến cho người đi học không học và viết bằng ngôn ngữ
đương thời mà bằng ngôn ngữ cổ, ngoại lai. Ở những khoa thi đầu
thế kỷ, dần dần ngôn ngữ nói được sử dụng - nhất là trong dạng bài
luận. Điều đó buộc người đi học phải học tiếng mẹ đẻ, tìm hiểu
cách viết luận của nó, mà luận (hay văn xuôi nói chung) vốn là hầu
nhưu hoàn toàn trống vắng trong văn Nôm quá khứ…
Những bước dạo đầu cho cuộc thay đổi chế
độ thi cử đã được gióng lên từ những thập niên cuối thế kỷ XIX và
sau đó gần 20 năm, đến năm 1919, chế độ học hành cũ chấm dứt trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam chuyển sang chế độ giáo dục Pháp - Việt.
Như vậy, nếu kể từ 1898 – năm thực dân
Pháp ra Nghị định sử dụng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp vào kỳ thi
Hương cho đến khi nền giáo dục sử dụng chữ Hán bị loại bỏ hoàn
toàn, ta thấy ở nước ta đồng thời 3 ngôn ngữ (cả ở dạng viết lẫn
dạng nói) và 4 loại hình văn tự. Có thể kể ra là:
a, Ba ngôn ngữ:
- Hán văn (Văn ngôn)
- Tiếng Việt.
- Tiếng Pháp.
b, Bốn loại văn tự cho 3 ngôn ngữ trên
là:
- Chữ Hán
- Chữ Nôm
- Chữ Quốc ngữ
- Chữ Pháp
Có thể thể hiện các yếu tố đó ở bảng sau:
NGÔN NGỮ
VĂN TỰ (CHỮ VIẾT)
1
Văn ngôn (Hán văn)
Chữ Hán
1
Tiếng Việt
Chữ Nôm
2
2
Chữ Quốc ngữ
3
3
Tiếng Pháp
Chữ Pháp
4
Qua bảng đó ta thấy vai trò của chữ Hán
(Văn ngôn) được xếp vào hạng thứ nhất. Nhưng tình hình đã thay đổi
dần vào các năm 1903, 1906… và có thể nói thay đổi theo từng kì
thi đến mức độ chóng mặt… Sự thay đổi đó dẫn đến những biến động
tâm lý trong đám sĩ tử nói riêng và cả xã hội nói chung. Người ta
lắng nghe từng tin đồn…
“Mong gì nhà nước còn thi nữa.
Biết rõ anh em chẳng chắc rồi”
“Nghe nói khoa này sắp đổi thi.
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi…”
(Tú Xương)
Những thay đổi dữ dội khiến cho học trò
như lũ gà phải cáo, sợ hãi trước những biến động trong thi cử… và
dẫn đến biến động trong thế phân phối của các ngôn ngữ - chữ viết.
Với việc chấm dứt thi cử bằng chữ Hán vào năm 1919, về cơ bản chữ
Hán đã giải thể về chức năng (cho dù chữ Hán vẫn được dạy một hai
giờ trong tuần..). Vị thế của các ngôn ngữ - văn tự đã có sự đảo
lộn ghê gớm. Sự đảo lộn đó được thể hiện bằng bảng sau:
NGÔN NGỮ
VĂN TỰ (CHỮ VIẾT)
1
Tiếng Pháp
Chữ Pháp
1
2
Tiếng Việt
Chữ Quốc ngữ
2
Chữ Nôm
3
3
Văn ngôn (Hán văn)
Chữ Hán
4
Qua hai bảng trên chúng ta thấy sự đảo
lộn vị trí ghê gớm trong bức tranh về trạng huống ngôn ngữ - văn
tự ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đến năm 1919. Dường như
sự đảo lộn vị trí của các yếu tố cấu thành trạng huống (hoàn cảnh)
ngôn ngữ có tính chất dây chuyền và kéo theo nhưng mang đầy nghịch
lý về chức năng.
Sự sa sút vủa chữ Hán đến mức loại bỏ văn
ngôn ra khỏi phạm vi giáo dục, hầu như gây ra phản ứng dây chuyền
lan đến dẫn đến sự sa sút của chữ Nôm. Nhưng dường như lại có sự
trớ trêu, sự vượt trội thăng hoa của chữ Pháp không kéo theo sự
thăng hoa về chức năng xã hội, chức năng nhà nước của chữ Quốc
ngữ.
2. Nhân tố chữ Hán - chữ Nôm trong đời
sống ngôn ngữ Việt Nam đầu thế kỷ
Trên đây chúng tôi đã mô tả trạng huống
ngôn ngữ (chủ yếu là ngôn ngữ viết) ở Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX. Hai bảng lược đồ trên đây đã cho ta hình dung sự sa sút của
chữ Hán đến mức nào. Loại bỏ vị trí độc tôn của chữ Hán đã kéo
theo ngay lập tức sự sa sút của hệ thống văn tự ghi tiếng Việt dựa
trên cơ sở chữ Nôm.
Nói đến sự sa sút của hệ thống văn tự chữ
Hán, nhưng mặt khác, chúng ta phải nhận thấy rằng gần như suốt 20
năm đầu thế kỷ XX chữ Hán vẫn còn được sử dụng, vẫn còn có uy lực
nào đó (thậm chí còn có sức ỳ rất mạnh). Điều ấy thể hiện ở chỗ nó
vẫn là ngôn ngữ của thi cử (mặc dù đã thu hẹp phạm vi và không còn
giữ vị trí độc tôn nữa và đang dần đi đến loại bỏ).
Gần như tất cả các văn kiện của nhà nước
thực dân và vua quan nhà Nguyễn đều có dạng viết chữ Hán hay
chuyển sang chữ Nôm. Tình hình trên vẫn tiếp tục cho đến tận những
năm 30 của thế kỷ này. Theo thống kê của chúng tôi qua bộ sách Di
sản Hán – Nôm, Thư mục đề yếu, viết bằng chữ Hán vẫn là những văn
bản cơ bản của lối quản lý đời sống truyền thống như sử ký, địa dư
chí, hình luật, như các bộ:
1. Bắc Kỳ địa dư lược sao (A 2669) soạn
thời Đồng Khánh – Duy Tân.
2. Bắc Kỳ quan chế Nghị định (VHv.2b) in
năm Khải Định năm thứ 3 (1918).
3. Quốc triều luật lệ toát yếu
(VHv.1706). Tóm tắt luật thời Duy Tân.
4. Quốc triều sử toát yếu. Cao Xuân Dục
chủ biên. Viết tựa năm Duy Tân thứ 2 (1908)…
Danh sách các văn bản thuộc vào loại căn
bản cho các hoạt động và các thiết chế nhà nước được viết bằng chữ
Hán có thể còn được kéo dài nữa. Ấy là chúng tôi không kể đến các
tác phẩm viết về chủ đề trên của các cá nhân trong xã hội…
Địa vị của chữ Hán còn thể hiện ở chỗ
thời gian này đã xuất hiện một trào lưu tóm tắt biên soạn lại các
sách vở xưa. Nhiều bộ sách tiết yếu các kinh điển của Nho gia phục
vụ cho chương trình cải cách giáo dục ở giai đoạn những năm đầu
thế kỷ XX (Trung học Ngũ kinh toát yếu, Trung học Việt sử toát
yếu…). Sách chữ Hán không chỉ giới hạn ở những vấn đề có liên quan
đến học thuật truyền thống mà còn được sử dụng cả ở lĩnh vực sách
giáo kho đề cập đến các tri thức mới như sách Cách trí của Trần
Văn Khánh…
Vẫn còn tồn tại thi cử bằng chữ Hán nhưng
có đổi mới về thể văn, cho nên số sách luyện thi chữ Hán theo kiểu
mới cùng với các chủ trương mới của nhà nước thực dân và Nam triều
xuất bản nhiều tựa hồ như nấm mọc sau trận mưa rào. Nhưng sách có
tên như: Cử nghiệp luận tuyển, Hội đình văn tuyển, Luận thể tân
tuyển, Sách học tân tuyển, Sách văn tân thức, Tân thức luận thể
hợp tuyển… phục vụ thi cử vẫn chiếm số lượng lớn nhất trong số các
sách chữ Hán trong thời kỳ này, đủ thấy thi cử theo kiểu cũ đã lụi
tàn vì lối học vô dụng, nhưng vẫn còn tồn tại nên người ta vẫn
chạy theo các loại văn chương trường ốc đó.
Càng về sau, tiếng Việt càng phát triển,
càng có khả năng hơn trong chức năng thông báo các chính sách của
chính quyền đến với dân cả ở dạng chữ Nôm và Quốc ngữ. Trên cơ sở
của nền Hán học vẫn còn, nên chữ Nôm vẫn lại được dùng như một
chuyển ngữ… Rất nhiều nghị định của chính quyền thực dân được dịch
từ tiếng Pháp ra chữ Nôm như: Bản dịch Nôm nghị định 1911 của
Thống sứ Bắc Kỳ (NHv 119). Bắc Kỳ bảo hộ - Quốc ngữ công báo in
năm Khải Định 1923; (VNv 15); Bắc Kỳ dân luật quốc âm dịch bản
(VNv 18); Bắc Kỳ dân luật tân san (VNv12)…
Chữ Nôm đặc biệt được sử dụng trong các
lĩnh vực có liên quan đến luật pháp, dân sự, thương mại, tố tụng,
thuế khoá… thậm hcí ghi cả những tiết lễ ở Bắc Kỳ…
Hán văn được sử dụng trong báo chí… Có
tiếng nhất là Đại Nam Đồng Văn nhật báo, Đăng Cổ tùng báo…, các
công báo khác chủ yếu bằng chữ Hán… Báo chí bằng chữ Nôm thì cơ hồ
như vắng bóng.
Giáo dục truyền thóng đã sản sinh ra một
lớp đông đảo những người biết chữ Hán. Không ít người trong số họ
đã tham gia con đường cử nghiệp, họ từng đỗ đạt, từng giành các vị
trí đứng đầu trong các kỳ thi Hương, thi Hội ngay ở giai đoạn giao
thời này. Với học vấn của họ (mà con đường cơ bản biết được qua
sách vở viết bằng chữ Hán), họ nhận thấy rằng cứu nươc theo con
đường cũ (con đường Cần Vương) đã không hợp với tình hình nữa,
kinh điển của thánh hiền, lối văn bát cổ không còn thích hợp “Hiền
thánh còn đâu học cũng thừa” – mà cần phải tiến hành một cách
khác, khi mà đại bộ phận giai cấp phong kiến đã đầu hàng, câu kết
làm tay sai cho chủ nghĩa thực dân Pháp… Họ có nhận thức mới về
thời cuộc, họ muốn duy tây để tự cường, họ xuất dương hay gửi con
em xuất dương… Tiêu biểu nhất trong số các trí thức ấy là; Phan
Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp… Sự
hiểu biết của họ về tinh thần thời đại, khu vực lúc đầu chủ yếu
qua con đường sách vở bằng chữ Hán. Các áng thơ văn, các cương
lĩnh hoạt động chính trị của họ cũng chủ yếu viết bằng chữ Hán và
sau đó lại được diễn Nôm (một lối diễn rất truyền thống…). Việc
tài liệu của họ Viết chữ Hán và diễn Nôm là chủ yếu đã thấy nhân
tố chữ Hán và chữ Nôm trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ này vẫn
có một bộ phận độc giả đông đảo. Họ sáng tác văn thơ không phải để
làm văn làm thơ mà làm nhiệm vụ giác ngộ, tổ chức, tuyên truyền
cách mạng. Các bộ Hợp tuyển văn học giai đoạn này chủ yếu sưu tập
các tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm đủ mọi thể loại và phong
cách.
Sự phân tích trên đây về nhân tố chữ Hán
(Hán văn) và nhân tố chữ Nôm trong đời sống ngôn ngữ của đất nước
đầu thế kỷ XX đã phần nào cho chúng ta thấy ở thời gian ba thập
niên đầu thế kỷ XX, nhân tố chữ Hán, chữ Nôm vẫn còn vị trí của
mình trong trạng huống ngôn ngữ - xã hội đặc biệt trong lịch sử
nước nhà, thường được gọi là trạng huống giao thời Âu – Á. Nhân tố
chữ Hán vốn là vay mượn, song, do đó là sự vay mượn tự giác (Hán
học Việt Nam phát triển chủ yếu vào giai đoạn nước nhà độc lập sau
thế kỷ X), cho nên vẫn có những sức mạnh nào đó có tính chất bề
dày… Cái sức mạnh ấy có được chính là ở chỗ: qua Hán học, cha ông
chúng ta đã xây dựng được một nền học thuật dân tộc, là cái để cho
chúng ta tự hào có truyền thống văn hiến, chẳng kém gì Trung Hoa…
Chính bọn thực dân cũng đã nhìn thấy điều này qua lời của Pôn Be:
“Việc dạy chữ Pháp sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc học quốc ngữ.
Cũng cần có một khoá trình chữ Nho, nếu trẻ em An Nam rời bỏ nhà
trường của chúng ta mà không biết đọc và viết chữ Nho thông dụng…
họ sẽ trở thành những kẻ ngoại quốc trong xứ sở củ họ. Và sau hết,
các trường của chúng ta sẽ không chiêu tập được ai vào học”
(NCLS.5.1967. Tr.44).
Nhiều người khi giải thích sự luyến tiếc
của các tầng lớp nhân dân khi chữ Hán bị đẩy ra khỏi phạm vi giáo
dục, mới chỉ nghiêng về một phía cho rằng các tầng lớp nhân dân
luyến tiếc một nền học vấn Trung Hoa, hay đi học chữ Nho dùi mài
nghiên bút theo con đường cử nghiệp, bổng lộc cũng ở trong đó… nay
bỗng dưng con đường đó bị đóng cửa… mà không thấy rằng: chính Hán
học Việt Nam trong truyền thống (chủ yếu là sau khi nước nhà độc
lập) đã tạo dựng nên những nét đặc thù, những giá trị trong truyền
thống học thuật, văn hóa Việt Nam. Cha ông chúng ta trong truyền
thống rất trân trọng những trước tác của người Việt Nam. Họ từng
than dài trước các nguy cơ, lý do văn thơ Lý - Trần bị hủy hoại
trong các điều kiện nhà Minh xâm lược. Họ than phiền về một nước
có tiếng là văn hiến mà làm thơ, làm văn phải lấy các nhà thơ đời
Đường ra làm khuôn mẫu. Điều này đã được các tác giả của Văn minh
tân học sách một lần nhắc lại: “Nước ta từ xưa tới giờ, các nhà
viết văn kể cũng khá nhiều như Khâm Định Việt sử cương mục, Thực
lục, Liệt truyện, Nhất tống chí, Lịch triều chí, Vân đài loại ngữ,
Công hạ kiến văn, đều đủ để cung cấp tài liệu về sơn xuyên, phong
tục, văn vật, điển chương và để cho người sau mượn đó làm gương
nữa…” (Chương Thâu 1982, Tr.112 – 113).
Cho nên, điều thứ hai trong cương lĩnh
canh tân của Văn minh tân học sách là hiệu đính sách vở chữ Hán
của nước nhà. Họ đã nhận thấy giá trị của văn hóa truyền thống
tích tụ trong các văn bản chữ Hán. Và cũng do yêu cầu của thời
đại, họ cho rằng việc số một là phải dùng văn tự nước nhà - chữ
Quốc ngữ, nhưng họ thấy việc xóa bỏ chữ Hán là gây nên sự đứt đoạn
giữa truyền thống và hiện đại. Lý do họ đề xuất phải cấp bách hiệu
đính sách vở là như vậy.
Nhân tố chữ Hán – và kèm theo đó là chữ
Nôm ghi tiếng Việt đã được các nhà yêu nước sử dụng một cách rộng
khắp để làm lợi khi tuyên truyền, tổ chức cách mạng. Những người
ấy đã dùng ngọn bút và cái mình sáng tác ra bằng ngòi bút (chủ yếu
là bút lông) để làm cách mạng. Khi thực dân Pháp đàn áp, bắt bớ
thì nhà tù đầy những Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân… Việc họ chủ yếu
viết bằng chữ Hán và chữ Nôm cần phải được nhận thấy vẫn còn đông
đảo số người đọc chữ Hán. Viết chữ Hán… chữ Nôm chứ không phải đơn
thuần cho rằng đó là sự dị ứng với lại bút chì, bút sắt với chữ
Quốc ngữ… Nếu dị ứng, các cụ đã không nêu lên việc cấp bách đầu
tiên là phải dùng chữ Quốc ngữ… Chữ Quốc ngữ được các cụ cho là
“hồn trong nước” nhưng cũng phải thừa nhận rằng viết chữ Quốc ngữ
ở giai đoạn này còn phôi thai lắm, nó chưa có bề dày truyền thống,
xã hội dường như chưa kịp chuẩn bị… Ngay cả công báo, công văn,
dân luật của nhà nước thực dân vẫn phải dùng chữ Hán, chữ Nôm kia
mà. Sự chưa chuẩn bị của xã hội về Quốc ngữ đã là chỗ cho chữ Hán,
chữ Nôm vẫn còn chỗ đứng của mình trong những năm đầu thế kỷ.
3. Những đặc điểm về chức năng và cấu
trúc của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm trong giai đoạn này
Hán văn (văn ngôn) một mặt vẫn được sử
dụng trong 20 năm đầu thế kỷ với tư cách là ngôn ngữ của giáo dục,
của sáng tác nhưng càng tàn dần. Mặt khác cũng phải thấy rằng Hán
văn thời gian này đã thay đổi rất nhiều về chức năng xã hội cũng
như về mặt cấu trúc.
Về mặt chức năng xã hội, như trên đây
chúng tôi đã trình bày, văn ngôn trong chức năng là ngôn ngữ độc
quyền trong giáo dục trong thời điểm này tuy cứ dần dần lụi tàn…
song nó lại mở rộng trong chức năng là công cụ nhận thức cuộc sống
(trong báo chí… trong biên soạn sách giáo khoa mới…). Văn ngôn
trong giai đoạn này khác hoàn toàn, khác với bất kỳ giai đoạn nào
trước đó. Chúng ta thấy Hán văn giai đoạn này là một trong những
công cụ nhận thức các vấn đề do cuộc sống của đất nước. Nếu không
kể việc chủ nghĩa thực dân và triều đình nhà Nguyễn sử dụng Hán
văn và chữ Nôm vào việc phổ biến các chính sách thực dân, phục vụ
cho chính sách khai thác thuộc địa của chúng, thì văn chương yêu
nước và cách mạng đầu thế kỷ này chủ yếu viết bằng chữ Hán, chữ
Nôm. Đó là loại văn chương giác ngộ tập hợp động viên quần chúng
với một bầu nhiệt huyết chứa chan. Có thể gọi đó là văn chương
giác thế - một lối viết chịu ảnh hưởng của Tân văn thể của Lương
Khải Siêu và Hán văn Trung Quốc thời cận đại. Văn chương chủ yếu
có nhiệm vụ giác ngộ đồng bào, tổ chức động viên họ vào con đường
cứu nước… Chức năng giác thế của Hán văn giai đoạn này là chức
năng nổi bật nhất.
Cùng với những biến đổi của xã hội Việt
Nam trong hai chục năm đầu của thế kỷ này, Hán văn đã có thay đổi
về thể loại và phong cách. Nếu như trước đây lối học cử tử đã làm
cho người ta chỉ học theo các kinh truyện, làm văn không phải bằng
các ngôn từ của mình mà bằng ngôn từ của thánh kinh hiền truyện,
khiến cho văn chương cử tử trở nên khuôn sáo và trống rỗng, những
người đi học chỉ biết “nhai lại bã mía của tiền Nho” không có sáng
tạo trong cách diễn đạt, trong các chủ đề đề cập (nếu có chỉ có
thể viết sách thuốc, viết truyện ký…)… thì giờ đây lối văn bát cổ
bị lên án và lại bị chính những đại diện có uy quyền nhất của văn
chương cử tử phê phán - những Tiến sĩ… những Phó bảng… những tay
cự phách về văn chương khoa cử… Hán văn thời này không chỉ giới
hạn mình trong kinh truyện mà còn là ngôn ngữ viết các loại sách
giáo khoa khác như luân lý, cách trí… Do vậy chức năng nhận thức
của Hán văn lại mở rộng hơn.
Sự thay đổi về chức năng trên đây đã dẫn
đến những thay đổi to lớn về phương diện cấu trúc của Hán văn đầu
thế kỷ. Do chức năng phổ biến của mình, Hán văn Việt Nam đã bước
vào thể nghiệm ở một số thể loại và phong cách mà trước đó chưa hề
có. Đó là Hán văn trong công báo, thông tư, (phong cách báo chí),
tức là các phong cách chính luận, tuyên truyền. Đã xuất hiện rất
nhiều tờ báo viết bằng chữ Hán như Đồng văn nhật báo, chẳng hạn.
Đồng văn nhật báo vốn là tờ báo của chính
quyền thực dân, nó chỉ là tờ công báo. Trên báo chúng ta chủ yếu
thấy công bố việc bổ nhiệm, thuyên chuyển quan lại, các nghị định,
thông tư… Mục tuyển văn thì nói chung là nghèo nàn. Mục tin tức
thì chủ yếu là đưa lại (tin trong đó không ít tin báo đưa lại trên
cơ sở tin của các báo chí Thượng Hải… Xét về giá trị văn học và
báo chí thực, Đại Nam Đồng văn nhật báo rất bị hạn chế. Song điều
quan trọng đây là tờ báo xuất hiện vào thập niên cuối cùng của thế
kỷ XIX, có nó số lượng độc giả rộng rãi hơn nhiều so với độc giả
của những thi phẩm bình thường vốn có của truyền thống. Phong cách
ngôn ngữ của Đại Nam Đông văn nhật báo là phong cách công văn… một
phong cách chủ yếu chỉ có câu đơn, lối diễn đạt tránh hiểu hai
nghĩa… Ở Việt Nam chúng ta không có những báo chữ Hán trong giai
đoạn này đã đóng vai trò nào đó trong việc làm đổi mới phong cách
của ngôn ngữ viết - chữ Hán.
Do chức năng nhận thức quy định, Hán văn
thời này định về cơ bản viết theo lối văn ngôn mà lối văn ngôn này
khác với văn ngôn của các giai đoạn trước đó. Sự khác biệt của văn
ngôn giai đoạn này so với các giai đoạn trước đó, có thể được nhìn
thấy trong các loại văn thể khác nhau. Trước hết, chúng ta hãy kể
đến văn chương cử tử. Tuy lối văn chương này, nói chung, là kiểu
trả bài thi, lời nói trống rỗng, khuôn mẫu, song, trước những biến
đổi của thời cuộc và do ảnh hưởng của các cuộc cải cách chế độ học
hành, dư luận nhìn chung đã thấy rằng văn chương khoa cử những
khoa thi đầu thế kỷ XX đã khác nhiều so với văn chương trước đó…
Môn thi chữ Nho chủ yếu là hai môn Luận và Sách. Đề tài của hai
môn này chủ yếu lấy từ các vấn đề thời vụ… Do đó kéo theo cách
trình bày vấn đề thời vụ liên quan đến cuộc khai thác thuộc địa
phải khác các vấn đề theo kinh truyện… Thế là có dịp người ta tung
ra thị trường một loạt sách làm bài mẫu (tựa như sách luyện thi).
Những từ tân thức, tân tuyển, tân thức, luận thể, tân văn,… luôn
luôn được dùng làm định ngữ cho các bộ sách luyện thi mới này. Có
thể kể ra ở đây một số quyển như sau:
- Luận thể tân truyện (A.1489) do nhà Tụ
Văn đường in năm Duy Tân thứ 5 (1911).
- Luận thể tân truyện (VHv.1489) do nhà
văn Mỹ Văn đường in năm Duy Tân thứ 5 (1911).
- Sách văn tân thức (VHv 965/1) in năm
Duy Tân, Tân Hợi (1911).
- Sách học tân tuyển (VHv 712/1-2/ in năm
Duy Tân, Kỷ Dậu (1909).
Tân thức ở đây được hiểu là những bài làm
theo lối mới mà đề tài chủ yếu đề cập đến các vấn đề thời sự như
về kỹ nghệ, canh nông, du học, lý tài… Ngôn từ do vậy phải mới, ít
dùng những lời “Tử viết, Thi vân…”. Tất nhiên do lối văn cử tử quy
định, khi vắng những từ “Tử viết, Thi vân” thì lại xuất hiện những
lối nói mới làm đẹp lòng các quan Công sứ, Thống sứ, Toàn quyền…
Cấu trúc các nhóm văn bản Hán văn cũng
thay đổi khác hoàn toàn trước đó. Nếu như trước đây sách giáo khoa
chỉ giới hạn ở Tứ thư, Ngũ kinh với các lời chữ số của Tống Nho
thì bây giờ Hán văn được sử dụng làm ngôn ngữ viết sách giáo khoa
các lĩnh vuẹc đời sống xã hội như luân lý, cách trí, sử…
Hán văn giai đoạn này không có những bộ
loại thư loại lớn (ngoại trừ các bộ sử và các bộ địa dư chí…). Có
thể được giải thích bằng tình hình đầy biến động và sự thay đổi
của tinh thần học thuật đầu thế kỷ. Nếu trước tác theo học thuật
truyền thống thì không hợp với tinh thần của thời cuộc. Dễ hiểu,
Hán văn thời kỳ này thiếu vắng những loại bộ thư lớn, những bộ
khảo cứu trường thiên…
Hán văn thời kỳ này bị thời đại chi phối,
do vậy được viết ra trong tinh thần đả đảo văn khoa cử, đả đảo lối
viết văn tối tăm không đề cập đến những vấn đề thời cuộc… Trong số
các tác giả lớn của văn học cách mạng đầu thế kỷ XX ta thấy dường
như đa số họ là những người đã qua vòng khoa cử nhưng ai cũng ghét
khoa cử. Khoa cử tựa như ách cường quyền thực dân:
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ.
Bát cổ văn chương tuý mộng trung.
(Phan Châu Trinh)
Họ thấy mình có nhiệm vụ phải thức tỉnh
mọi người… Trong điều kiện con số người biết chữ Hán những năm đầu
thế kỷ XX không phải là lớn so với toàn bộ nhân dân, do vậy, họ
chủ yếu sử dụng chữ Hán, tập trung vào khơi gợi những người có
học. Còn những người không biết chữ họ quay sang sáng tác bằng Nôm
cho dễ truyền miệng, một con đường truyền thống của văn học viết
bằng chữ Nôm khi xưa…
4. Vai trò chiếc cầu nối giữa truyền
thống và hiện đại của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm
Một trong những điều dễ thấy của Hán văn
giai đoạn này là sự xuất hiện của các từ biểu thị các khái niệm
mới theo kiểu quá độ. Các vấn đề được tập trung nói đến lại là các
vấn đề mà trước đây trong kinh truyện không thể có được như về
đường sắt, điện, về thực nghiệp, về công thương… và phần lớn các
vấn đề đó vào lúc ấy không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà là vấn đề
của các nước Châu Á.. Họ học tập cách diễn đạt của các đại diện
Trung Quốc thời cận đại như Lương Khải Siêu, Nghiêm Phục… Những
vấn đề có tính chất khu vực và thời đại như vậy đã tạo nên tinh
thần Đông học của cả khu vực. Do thế họ có cách nói của các nhà
Tân thư, ngôn ngữ của họ đã được đổi mới, khác xa ngôn ngữ của nhà
Nho cử tử khi xưa… Tác phẩm của họ viết ra không đòi hỏi phải có
trình độ Hán học quá cao vì ít tầm chương trích cú… Họ viết tự
nhiên, ít dùng điển cố (nếu buộc phải dùng thì có mức độ và được
dùng rất đắt)…
Cần phải nói rằng mức độ ảnh hướng Tân
thư và phong cách viết mới (Tân văn thể) ở Hán văn Việt Nam là rất
rõ. Có thể dẫn ra trường hợp ở các văn bản Văn minh tân học sách
và Quốc dân độc bản có một loạt trường hợp các tác giả đã dùng
cách dịch thuật ngữ theo Lương Khải Siêu. Chẳng hạn như chữ “chủ
nghĩa” ở cả hai văn bản trên dùng với nghĩa là “nghĩa chính”. Khái
niệm kinh tế hiện nay lại được dùng theo thuật ngữ của Lương Khải
Siêu là kế học (khoa học tính toán). Bởi thế, có cở sở để nói rằng
ngôn ngữ các nhà Nho đã đổi mới nhưng sự đổi mới ấy chịu ảnh hưởng
của Tân văn thể - phong cách viết của Lương Khải Siêu và báo
chương khu vực viết bằng chữ Hán.
Số lượng văn bản Hán văn Việt Nam của
giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX không phải là quá nhiều, nhưng
xét về mặt chức năng và cấu trúc ngôn ngữ ta thấy đó là một loại
các văn bản được viết theo một ngôn ngữ mới, khác hẳn với ngôn ngữ
được dùng ở các giai đoạn trước đó. Đó là lối viết của thời cận
đại.
Nếu ta thấy vốn từ và thuật ngữ hiện đại
đi vào tiếng Hán và các ngôn ngữ khác như tiếng Nhật ở những năm
cuối thê kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải dựa vào các bối cảnh lịch sử cụ
thể lúc bấy giờ, phải vào qua con đuờng “bình cũ rượu mới”… để cho
những người sử dụng chấp nhận và quen dần (chẳng hạn một loạt các
thuật ngữ chính trị, khoa học… đều được xây dựng trên cơ sở các
căn tố, các từ có trong các kinh điển cổ…), và bản thân hệ thống
thuật ngữ này cũng đang ở giai đoạn vận động để đi đến định hình,
thì tình hình này cũng thể hiện trong các văn bản Hán văn Việt
Nam. Như trên đây chúng tôi đã đề cập đến một số thuật ngữ tương
đương với các thuật ngữ của các nước Châu Âu được sử dụng trong
tiếng Hán giai đoạn cận đại và các văn bản Hán văn Việt Nam đầu
thế kỷ XX mang tính chất chuyển tiếp… ít nhiều có gắn với lịch sử,
chưa ổn định, có nhiều nét khác với hệ thống thuật ngữ hiện đại.
Chẳng hạn như để diễn đạt khái niệm economy người ta đã phải dùng
nhiều thuật ngữ khác nhau và sau đó người ta đã dùng thuật ngữ do
người Nhật đặt là kinh tế và vỏ ngôn ngữ (và cả nội dung) của
thuật ngữ này được dùng cho đến tận ngày nay. Song, ngay khi đã
dùng thuật ngữ kinh tế rồi, nhiều nhà Nho vẫn hiểu nó theo cách
hiểu truyền thống mà trong đó kinh tế có nghĩa là “kinh thế tế
dân”, “kinh bang tế thế”… chữ không hiểu ngang với nội dung hiện
đại. Phải mất một giai đoạn các thuật ngữ có nội dung hiện đại mới
được những người biết chữ Nho hiểu đúng. Tuy có tình hình trên,
song qua đó, ta cũng thấy rằng: Hán văn thời kỳ cận đại, trong
những chừng mực nhất định – qua hệ thống vốn từ, thuật ngữ của
mình đã góp phần rất đắc lực để làm cái cầu trung chuyển cho học
thuật từ truyền thống đến hiện đại. Không có nó, chắc hẳn việc xây
dựng hệ thống thuật ngữ hiện đại (viết bằng chữ Quốc ngữ sau này)
sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn…
Khi nhận xét về ngôn ngữ văn học của văn
thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, cố giáo sư Đặng Thai Mai có
viết: “Văn học chữ Hán không phải là văn học của đại chúng nhân
dân nước ta” (Đặng Thai Mai, Tr.198). Ngay cả văn Nôm cũng có nét
thiếu tính đại chúng “Một ấn tượng không được thoải mái cho lắm
trong khi ta đọc một số văn Nôm của thời đại này là: với các nội
dung mới của nó, thơ ca các nhà chiến sĩ cách mạng vẫn chưa thể
nói là hợp với khẩu vị của đại chúng được. Phần lớn các bài văn
thơ viết theo thể loại nhà trường… vẫn quá nhiều những ám thị,
tượng trưng, những biểu tượng quá uyên bác và mới. Tư liệu văn học
lại đã quá xa lạ với thời đại rồi. Tư liệu mới lẽ ra gần với bạn
đọc hơn. Khốn một nỗi là trên trình độ học thức phổ thông thời
này, bao nhiêu danh từ “tân thư” từ tên đất, tên người cho đến các
khái niệm khoa học – khoa học tự nhiên và nhất là khoa học xã hội
đều phải vay mượn từ chữ Hán để đưa về vận dụng vào tiếng Việt.
Thành ra nội dung của bấy nhiêu thực tế đối với con người thông
thường lắm lúc có phần lạ tai, lạ mắt quá! Tình trạng này có phần
trách nhiệm của thời đại: trí thức của người bạn đọc Việt Nam về
các phạm trù khoa học đang đình đốn lại trên một trình độ quá lạc
hậu” (Đặng Thai Mai, tr.199).
Nhận xét của cố giáo sư Đặng Thai Mai
thật là đúng với tình hình ngôn ngữ Hán và Nôm giai đoạn này. Ngôn
ngữ học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm đã tự bộc lộ những hạn chế
của mình trong điều kiện những năm đầu thế kỷ. Những hạn chế,
nhược điểm của ngôn ngữ văn học chữ Hán và chữ Nôm trên đây cũng
là hạn chế của ngôn ngữ văn học chữ Hán nói chung. Hán văn, tự nó
là ngôn ngữ vay mượn, ngoại lai thì rõ ràng không bao giờ có thể
là ngôn ngữ đại chúng được. Ngôn ngữ văn học dân tộc viết bằng chữ
Nôm cũng không thể tránh khỏi tình hình phát triển thấp kém của
đời sống của dân trí nói chung. Tuy có những nhược điểm như vậy,
song ngôn ngữ văn học Hán – Nôm giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX
quả là một bộ phận trong phức thể của các ngôn ngữ văn học của
buổi giao thời. Do vậy, trong những chừng mực nhất định, chúng
mang những đặc điểm của buổi giao thời.
Văn học truyền thống cũng viết bằng chữ
Hán nhưng ngôn ngữ văn học này về căn bản dựa vào ngôn ngữ truyền
thống. Ngôn ngữ văn học này dựa vào tiếng Hán, và sau đó, dựa vào
những thành tựu cải tiến ngôn ngữ viết – văn ngôn thời Đường -
Tống.
Đến những năm cuối thế kỷ XIX (và nhất là
những năm đầu thế kỷ XX) tình hình cuộc sống khác hẳn đã khiến cho
ngôn ngữ văn học – văn xuôi ở ngay Trung Quốc cũng phải biến đổi
để chuyển thành Tân văn thể. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đều
thống nhất cho rằng giai đoạn Tân văn thể là giai đoạn quá độ - là
bước chuyển của văn học Trung Quốc từ truyền thống sang hiện đại
(Lương Quang Khánh, 1996). Văn học Trung Quốc và ngôn ngữ văn học
giai đoạn những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm nhiệm vụ
của giai đoạn quá độ, để rồi với Ngũ Tứ vận động, một ngữ văn học
mới - bạch thoại được xác lập thay thế văn ngôn. Như vậy, sự cải
biến trong cách viết do Tân văn thể đã đặt tiền đề, là bước quá độ
cho cuộc tiến hóa về ngôn ngữ viết ở Trung Quốc.
Còn ở Việt Nam, như trên đây đã trình
bày, tình hình có phần phức tạp hơn nhiều, bởi văn ngôn là ngôn
ngữ ngoại lại. Văn Nôm ở những cuối thế kỷ XVIII – cho đến đầu thế
kỷ XX chủ yếu vẫn là ngôn ngữ của vận văn. Văn xuôi bằng ngôn ngữ
dân tộc viết bằng chữ Nôm quả là ít ỏi. Những thay đổi trong chính
sách thi cử đầu thế kỷ XX đã làm cho người ta chú ý đến viết luận
trong thi cử bằng chữ Quốc ngữ. Cách viết luận này tuy xuất hiện
một cách muộn mằn, nhưng dù sao, cũng đã góp phần tạo cho cả xã
hội (trước hết là tầng lớp sĩ tử) chú ý đến việc rèn dũa tiếng mẹ
đẻ… ở dạng rất cao cấp, nghiêm túc: viết luận. Tiếng Việt, do thế
không chỉ là ngôn ngữ của sự “mua vui, giải trí, viết chơi” như
trước nữa, mà nó được tập dượt trong phong cách chính luận, một vị
trí mà không phải dễ dàng giành được.
Ngôn ngữ văn học chữ Hán thời này đã góp
phần của mình để thúc đẩy cho thể luận của văn tiếng Việt tiến
lên. Điều này thể hiện ở nhiều phương diện, chẳng hạn như Hán văn
thời kỳ này là nguồn cung cấp từ vựng cho tiếng Việt. Những từ
ngữ, thuật ngữ mới lấy từ Hán văn sẽ là nguồn cung cấp từ vựng chủ
yếu cho tiếng Việt, nhất là ở phong cách chính luận. Không ít
những người viết bằng chữ Hán lại là những người tích cực hô hào
sử dụng tiếng Việt trong giáo dục, tỏng sáng tác, hô hào mọi người
sử dụng chữ Quốc ngữ. Thực tế vận động sử dụng Hán văn giai đoạn
này sẽ là nguồn cổ động cho công cuộc xây dựng ngôn ngữ văn học
dân tộc viết bằng chữ Quốc ngữ… Khỏi phải nhắc lại vai trò của tác
giả lớn trong giai đoạn này trong việc hạ bệ văn chương khoa cử…
cổ vũ tân học… ta cũng thấy vai trò chuẩn bị, quá độ của ngôn ngữ
ngữ văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm.
Sự tăng tiến quá nhanh của các thuật ngữ
khoa học cũng như nhân danh, địa danh từ các ngôn ngữ Châu Âu
(nhất là của các ngành khoa học xã hội) ở giai đoạn này quả là
gánh nặng quá tải cho một ngôn ngữ văn học viết bằng chữ Nôm. Thật
khó bằng chữ Nôm mà dịch và phiên đúng âm đọc của một loạt nhân
danh, địa danh, thuật ngữ khoa học… có nguồn gốc Âu Châu. Nếu cứ
dùng chữ Nôm thì những yêu cầu trên không thể hiện thực một cách
thỏa đáng được. Nhưng, phải thừa nhận rằng sáng tác bằng chữ Nôm ở
giai đoạn này vẫn còn có sức sống của mình, song nếu cứ dùng nó
trong khi đã có phương án lựa chọn khác - chữ Quốc ngữ thì thật là
không hợp thời và hợp lôgic của lịch sử nữa… Xét về một phương
diện nào đó - chữ Nôm trong điều kiện mới đã đóng vai trò làm cái
nền, cái phồng mà qua đó xã hội nhận thấy sự tiện lợi của việc sử
dụng Quốc ngữ. Do vậy, nó đã đóng vai trò bước chuẩn bị cho việc
chiến thắng của Quốc ngữ vào các năm 20 của thế kỷ này.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi một
lần nữa khẳng định vai trò của ngôn ngữ văn học viết bằng chữ Hán
và ngôn ngữ văn học viết bằng chữ Nôm giai đoạn đầu thế kỷ XX đối
với quá trình tiến hóa của ngôn ngữ văn học Việt Nam và văn học
Việt Nam. Xét theo nhiều khía cạnh và ở những mức độ nhất định,
hai ngôn ngữ văn học có tính chất truyền thống này, trong những
năm đầu thế kỷ XX đã biến đổi về cấu trúc và chức năng, chuẩn bị
những tiền đề quan trọng (và tự chúng là bước quá độ) cho sự tiến
hóa của ngôn ngữ văn học Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại.
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu tuy không giống
các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX (ông có sáng tác đầu tay in vào
những năm đầu của thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX) được mọi người
của phong trào Thơ Mới coi như là người của sự giao thời, là dấu
nối của hai thế hệ. Tản Đà như ông đã từng tự nhận mình:
Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang
Nôm na phú nghiệp kiếm ăn xoàng…
Nếu xét trong tiến trình hiện đại của văn
học Việt Nam, Tản Đà như một gạch nối giữa truyền thống và hiện
đại. Điều đó đã được cả thời đại, cả thế hệ những người tiếp theo
ông thừa nhận và tôn vinh, cùng chiêu anh hồn ông về để chứng tỏ
rằng họ (thế hệ các nhà thơ mới) không phải là đứa con không có
quan hệ gì với dân tộc, giống nòi. Nhưng Tản Đà lại là một người
có quan hệ rất chặt chẽ với văn học truyền thống. Tản Đà chịu ảnh
hưởng nặng của giáo dục truyền thống. Ông cũng là một trong những
người tích cực nhất trong việc chuyển những giá trị của truyền
thống sang hiện đại (chẳng hạn ở phương diện dịch thuật…). Vai trò
ấy của Tản Đà ắt hẳn có quan hệ với văn học Hán – Nôm đầu thế kỷ
và được dựa trên cơ sở của ngôn ngữ văn học Hán Nôm giai đoạn này.
Chúng ta không phải chờ đợi lâu đến vài
thế kỷ mới có những thành tựu của nền văn học hiện đại. Chưa đến
hai mươi năm sau khi chữ Hán bị loại khỏi phạm vi là ngôn ngữ
trong giáo dục chúng ta đã chứng kiến những thành công lớn lao
trong văn học Việt Nam như Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn… Sự thành công
ấy không thể nảy sinh trên cánh đồng hoang mà đó là sự nảy mầm, ra
hoa, kết trái trên một vùng đất có sự chuẩn bị trước. Nền văn học
dân tộc phát triển nhờ chính vào nội lực của mình từ nhiều phương
diện. Về phần này cần phải nhận ra rằng ngôn ngữ của văn học Hán –
Nôm đầu thế kỷ đã phần nào đóng vai trò làm cái cầu cho bước
chuyển từ truyền thống sang hiện đại.
Nền văn học Việt Nam hiện đại xét về mặt
ngôn ngữ là một nền văn học có ngôn ngữ viết trực tiếp dựa trên cơ
sở của ngôn ngữ nói, của ngôn ngữ thông dụng… Cái ngôn ngữ thông
dụng này được sử dụng trong mọi thể loại và phong cách viết. Nó đã
khắc phục được các nhược điểm căn bản của văn học trung đại khi sử
dụng ngôn ngữ - văn tự nước ngoài (Hán văn) và sử dụng Quốc ngữ
(chữ Nôm) nhưng ở dạng không đầy đủ… Ngôn ngữ văn học Việt Nam
hiện đại không thể có những bước nhảy vọt nếu như không có sự đóng
góp của ngôn ngữ văn học truyền thống, trong đó trước hết phải kể
đến ngôn ngữ văn học Hán – Nôm trong những thập kỷ đầu tiên của
thế kỷ này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
1. Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900-1930
NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
H.1988.
2. Chu Quang Khánh
Hán ngữ dữ Trung Quốc tân văn hóa khải
mông.
Đông Thổ đồ thư công ty. Đài Bắc.1996
3. Phạm Văn Khoái
Hai cuộc cải cách văn ngôn lớn trong lịch
sử Trung Quốc.
Tạp chí Hán – Nôm số 4.1996.
4. Phạm Văn Khoái
Tân văn thể và sự ảnh hưởng của nó với
ngôn ngữ văn học Việt Nam. Trong tập. Tân thư và xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. NXB Chính trị Quốc gia. H.199.
5. Phạm Văn Khoái
Nét truyền thống và hiện qua tên gọi CHỮ
QUỐC NGỮ
Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống. Số 2. 1977.
6. Phạm Văn Khoái
Một vài vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ
Hán trong kho sách Hán – Nôm. Trong tập Thông báo Hán – Nôm 1995.
NXB BKHXH.1996.
7. Nguyễn Hiến Lê
Đại cương văn học sử Trung Quốc.
NXB. Trẻ.1997.
8. Trần Nghĩa (chủ biên)
Di sản Hán – Nôm thư mục đề yếu.
NXB. Khoa học xã hội. H.1993.
9. Đặng Thai Mai
Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
NXB Văn học. H.1971.
10. Trần Văn Giàu. Đinh Xuân Lâm. Nguyễn
Văn Sự.
Lịch sử cận đại Việt Nam. Tập 3.
NXB Giáo dục. Hà Nội. 1961.
11. Trần Văn Giàu
Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ
thế kỷ 19 đến cách mạng tháng 8 – 1945. Tập II.
NXB. BKHXH.H.1975.
12. Chương Thâu
Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải
cách văn hóa đầu thế kỷ XX. NXB Hà Nội. 1982.
13. Chương Thâu. Triêu Dương. Nguyễn Đình
Chú
Hợp tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng
đầu thế kỷ XX (1900-1930). NXB Văn học. H.1997.
14. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên)
Lịch sử giáo dục Việt Nam (trước cách
mạng tháng 8 – 1945).
NXB Giáo dục. 1996.
15. Tú Xương thơ và đời (Lữ Huy Nguyên
tuyển chọn và biên soạn).
NXB Văn học. H.1997.
16. M.V. Sophronov
Tiếng Trung Quốc và xã hội Trung Quốc
(tiếng Nga).
NXB Khoa học. M.1979.
17. Nghiên cứu lịch sử. 5 – 1967.
Phạm Văn Khoái
Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1997,
tr.259-291, phiên bản trực tuyến ngày 03.10.2007.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
-09/2019 -10/2019 -11/2019 -12/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019. Sep/2019. Oct/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu