.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia.
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
Nguồn gốc chữ Khoa Đẩu và hai chữ
Khoa Đẩu
Viên Như
I. Nguồn gốc chữ viết của phương
Bắc.
Ở Trung Hoa có
đến hai truyền thuyết về nguồn gốc chữ viết, một là Phục Hy, hai
là Thương Hiệt. Một dân tộc tự cho mình là chủ nhân của một loại
chữ cổ xưa và có giá trị của nhân loại lại đưa ra những truyền
thuyết lủng củng như vậy tất là có vấn đề, vấn đề đó là cả hai
truyền thuyết về chữ viết của Trung Hoa cũng không thoát khỏi cái
bóng của người Việt. Về trường hợp Phục Hy tôi sẽ bàn ở một bài
riêng chứng minh cho thấy ông ta là người Lạc Việt, riêng đối với
Thương Hiệt, câu chuyện ông đã nhầm lẫn khi sáng tạo ra chữ “Xuất
出và Trọng重”
vì tiếng Cóc kêu làm loạn tâm trí của ông trong lúc suy nghĩ đã
nói lên điều đó.[1] Thông thường những thành quả văn hóa của cả
dân tộc là tác phẩm của nhân dân, không một cá nhân cụ thể trong
một thời đại nào có thể một mình làm ra mọi thứ cả, việc đề cao
một cá nhân nào đó trong một thành tựu văn hóa nó có tính đại diện
cho cả dân tộc ấy, Thương Hiệt không đủ hào quang để đại diện cho
điều ấy, bởi vì ông chỉ làm theo chỉ thị của vua mà thôi.
Nguồn gốc chữ Khoa đẩu theo sách
vở Trung Hoa.
Như đã trình bày trước, từ khi có thông
tin rằng nước Việt từng có chữ viết, loại chữ ấy là chữ Khoa đẩu,
căn cứ vào hai chữ Khoa đẩu, người ta biết rằng loại chữ ấy giống
con nòng nọc nên gọi là chữ Nòng nọc. Vì sao Khoa đẩu có nghĩa là
Nòng nọc?
Cơ bản tự
nghĩa (基本字义)
giải thích:
亦作“
蝌斗
”。
1.蛙或蟾蜍的幼虫。《南史·文学传·卞彬》:“蝌斗唯唯,羣浮闇水”。
Diệc tác “蝌斗”
Oa hoặc thiềm thừ đích ấu trùng.
《Nam sử, Văn học truyện. Biện
bân》:“Khoa
đẩu duy duy, quần hồ ám thủy”.
Cũng viết “蝌斗”
Ấu trùng của Nhái hoặc Cóc. (Nam sử. Văn học truyện. Biện Bân)
“Nòng nọc đông đúc, bơi đen mặt nước”.
Như vậy Khoa đẩu là nòng nọc, con có đầu
lớn, đuôi nhỏ.
Thuyết văn
giải tự giải thích:
蝌蚪文.
蝌蚪文也叫“蝌蚪书”、“蝌蚪篆”,是在于笔画起止,皆以尖锋来书写,其特色也是头粗尾细,名称是汉代以后才出现的,在唐代以后便少见到,在浙江仙居县淡竹乡境内发现.
Khoa đẩu văn dã khiếu ”Khoa đẩu thư”,
“Khoa đẩu triện” thị tại vu mao họa khởi chỉ, giai dĩ viêm phong
lai thư tả, kỳ đặc sắc dã thị đầu thô vĩ tế, danh xưng thị Hán đại
dĩ hậu tài xuất hiện đích, tại Đường đại dĩ hậu cánh thiểu hiện
đáo. Tại Triết Giang, Tiên Cư huyện, Viêm Trúc hương Cảnh Nội phát
hiện.
Khoa đẩu văn vậy, còn gọi là “Khoa đẩu
Thư”, “Khoa đẩu triện” là bắt nguồn từ bút vẽ, dùng đầu nhọn để
viết chữ (sách). Cái đặc sắc chính là đầu to đuôi nhỏ. Tên này
xuất hiện vào đời Hán và về sau (203 SCN). Tới đời Đường dần ít
xuất hiện. Được phát hiện tại Thôn Viêm Trúc, huyện Tiên Cư, Tỉnh
Triết Giang.
Với lời giải thích này ta biết rằng loại
chữ với cái tên khoa đẩu nhất định phải được sử dụng một thời gian
rất lâu dài trước đời Tần, có như thế mới có khoa đẩu văn, khoa
đẩu thư, khoa đẩu triện; cũng chính vì vậy sách mới mô tả cái đặc
sắc là đầu thô đuôi tế, nếu không phải là một loại chữ cụ thể thì
cơ sở nào mà giải thích như vậy, như nếu ta chưa bao giờ thấy con
voi thì làm sao ta ghi là loài thú có vòi dài, tai lớn được; đồng
thời cũng với lời giải thích “Tên này xuất hiện vào đời Hán và về
sau (203 SCN). Tới đời Đường dần ít xuất hiện” Thông tin này cho
ta biết đến đời nhà Hán cái tên khoa đẩu mới xuất hiện về sau mất
luôn. Vì sao cái tên chữ Khoa đẩu lại xuất hiện vào nhà Hán mà lại
có cả văn, thư, triện, đơn giản là vì chữ khoa đẩu đó được dùng
phổ biến trước đó, cụ thể là nhà Chu, vì nó là một thành tựu vĩ
đại của dân tộc khác nên khi các thế lực du mục chiếm lấy Trung
Nguyên, bên cạnh việc chiếm đất đai, họ phải làm cái công việc là
cướp tác quyền về dịch học và chữ viết. Tần Thủy Hoàng thì có
chuyện sai Lý Tư cải sửa đại triện của nhà Tần thành tiểu triện.
Một triều đại chỉ kéo dài 15 năm với những biến động kinh hoàng
liệu có làm ngay chữ đại triện rồi sai Lý Tư cải sửa thành tiểu
triện không? Theo tôi đây là một lối ăn gian lịch sử, chiếm khống
bằng mệnh lệnh mà thôi. Tiếp đến nhà Hán cũng với tâm trạng ấy nên
cũng bằng mọi cách đưa cái tên khoa đẩu thành một truyền thuyết,
nhưng con chữ thì vẫn hiện hành với cái tên chữ Hán đấy thôi,
chẳng phải bổng dưng mà nó còn được gọi là chữ Nho, theo tôi âm
Nho là một phái âm của âm Nhã trong nhã ngữ như chính sách vở
Trung Hoa ghi lại mà tôi sẽ trình bày tiếp sau. Ta hãy tiếp tục
tìm hiểu về chữ Khoa đẩu này.
Tự điển Khang Hy giải thích:
《唐韻》《集韻》《韻會》苦禾切,音科。蝌蚪。本作科。《爾雅·釋魚》科斗,活東。《疏》蝦蟇子。此蟲一名科斗,一名活東,頭圓大而尾細,古文似之,故孔安國皆云科斗文字是也。《本草》一名懸針,一名水仙子。《李時珍曰》蝌蚪,狀如河豚,頭圓,身上靑黑色,始出有尾無足,稍大則足生尾脫,治疥瘡,又可染鬚髮。《爾雅翼》月大盡生前兩足,月小盡生後兩足。
“Đường vận”
“Tập vận” “Vận hội” Khổ hòa thiết, âm khoa. Khoa đẩu. Bổn tác
khoa. (Nhĩ nhã. Thích ngư) Khoa đẩu, hoạt đông. (Sớ) Hàm mô tử.
Thử trùng nhất danh khoa đẩu, nhất danh hoạt đông, đầu viên đại
nhi vĩ tế, cổ văn tợ chi, cố Khổng An Quốc giai vân khoa đẩu văn
tự thị giả. (Bổn thảo) Nhất danh huyền châm. Nhất danh thủy tiên
tử.《Lý
Thời Trân viết》Khoa
đẩu, trạng như hà độn, đầu viên, thân thượng thanh hắc sắc. thỉ
xuất hữu vĩ vô túc, sao đại tắc túc sanh vĩ thoát, trị giới sang.
Hữu khả lương tu phát ( Nhĩ nhả dực) Nguyệt đại tận sanh tiền
lưỡng túc, nguyệt tiểu tận sanh hậu lưỡng túc.
“Đường vận”
“Tập vận” “Vận hội” đọc là khoa, vốn viết là
科 (Nhĩ nhã. Thích ngư). Khoa
đẩu, hoạt đông. (Sớ) Con của con ếch. Loài này còn có tên là Khoa
đẩu, hoạt đông, đầu tròn lớn mà đuôi nhỏ. Cổ văn cũng nói như vậy.
Vì vậy Khổng An Quốc cho rằng chữ khoa đẩu là từ đó. (Mộc thảo).
Có tên là Huyền châm hay Thủy tiên tử. (Lý Thời Trân nói) Khoa
đẩu, giống như lợn con, đầu tròn, thân màu xanh đen. Ban đầu mới
sinh chỉ có đuôi, không chân, sau lớn mọc chân, đuôi rụng, trị ghẻ
lở. Có thể dưỡng râu tóc. (Nhĩ nhã dực) Đầu tháng sinh hai chân
trước, cuối tháng sinh hai chân sau.
Với những lời
giải thích trên, ngoài ý nghĩa là con nòng nọc, ta biết nó còn có
tên khác, như: Hoạt đông活東-
Thủy tiên tử水仙子-
Huyền châm懸針.
Ngoài ra Từ ngữ giải thích tự điển còn cho tên Khoa Tử
蝌子.Vì sao nó có các tên đó, ta
hãy tìm hiểu, những giải thích sau là theo cách hiểu của tôi.
1.
活東 HOẠT ĐÔNG:
活: Còn sống – Có sống – Đang
sống. Như: Hoạt động, sanh hoạt, sống động.
東: Hướng đông – Người chủ. Như :
Phòng đông
房東
Chủ nhà. Cổ đông
股東–
Người góp phần.
Trong ngữ cảnh đã cho trên, theo tôi
Hoạt đông活東có
nghĩa hoạt động ở hướng đông. Hướng đông thuộc dương –động, hướng
tây thuộc âm tĩnh, con nòng nọc đầu tròn – Âm – Tĩnh, đuôi dài –
Dương – Động, vì nòng nọc chỉ có cái đuôi hoạt động mà thôi, lý
tính này tương hợp với hướng đông của trục hoành trong sơ đồ vũ
trụ của dịch học, cụ thể đây là hình ảnh con nòng nọc theo trục
hoành. (Xem hình minh họa).
2.
水仙子 THỦY TIÊN TỬ: Thủy là nước.
Tiên là người cõi trên. Tử là con. (Xem hình minh họa).
Theo Hà Đồ, Thủy
水thuộc hướng bắc, quái Khảm –
Trung nam (Lạc Long Quân). Tiên
仙cũng là Sơn山,
là người ở trên núi hay phương nam, quái Ly – Trung nữ (Âu Cơ).
Như vậy Thủy tiên tử là con của phương Bắc Nam hay trục tung của
Hà Đồ. Thủy tiên chỉ là cách nói khác của Con Rồng (Bắc) cháu Tiên
(Nam) mà thôi. Như vậy Thủy tiên tử hay Khoa đẩu chính là đứa con
của phương nam, cụ thể là người Việt. Vì vậy mới có bức tranh Cóc
kiện Trê.
3.
懸針 Huyền Châm. Huyền là treo lơ
lững – Chưa quyết được. Châm là Kim.
Với các nghĩa cho trên thật khó
có thể dịch nghĩa hai chữ Huyền châm. Tuy nhiên, nếu ta căn cứ vào
hình ảnh con nòng nọc, ta biết Huyền là đầu, Châm là đuôi. Đầu thì
tròn, đuôi thì nhỏ dài, như thế ta có thể hiểu rằng Huyền ở đây là
tròn, thuộc âm[2], còn Châm thì thuộc dương, Huyền châm là kim
treo ngược, như vậy có nghĩa là trên âm dưới dương tức Khôn Càn
hay Lạc thư, thuộc Thái cực, phương nam, hay hình ảnh con nòng nọc
theo trục tung. (Xem hình minh họa).
khoa dau 1.jpg
4. Ngoài khoa đẩu văn, thư, triện, sách
cổ cho biết còn có khoa đẩu điểu tích, như trang
https://baike.baidu.com viết.
蝌斗鸟迹(蝌斗鸟迹)指古文字。借指古雅的书法。
清
侯方域
《重修颜鲁公碑亭记》:“及其骂贼而死,从容就义,视吾之头颅身躯皆其所不爱也,而何爱此蝌蚪鸟迹之遗哉!”参见“蝌蚪书”。
Khoa đẩu điểu tích, chỉ cổ văn
tự, tá chỉ cổ nhã đích thư pháp. Thanh hầu phương vực. (Trùng tu
Nhan Lỗ Công bi đình kí) : « Cập kì mạ tặc nhi tử, tùng dung tựu
nghĩa, thị ngô chi đầu lô thân khu giai kỳ sở bất ái dã, nhi hà ái
thử khoa đẩu điểu tích chi di tai! ». Tham kiến « Khoa đẩu thư ».
Tạm dịch:
Chữ nòng nọc dấu chân chim, chỉ loại
văn tự thời xưa, mượn để chỉ cách viết chữ cổ nhã (nhã ngữ). (Chữ)
mảnh mà vuông vức[1]. Bia trùng tu Nhan Lỗ Công viết: Đến khi mắng
nhiếc cho chết, may ra mới hiểu, Ôi ! cái thân mình đây sao không
yêu mến, thế mà lại thương tiếc chi cái chữ nòng nọc chân chim từ
xưa còn lại.
Với giải thích này, ta biết chữ khoa đẩu
còn gọi là khoa đẩu chân chim, đó là chỉ chữ cổ nhã ngữ, như đã
nói trên, như vậy âm [nho] là phái âm của [nhã] mà tôi đề nghị
trên là có cơ sở; đồng thời qua giải thích này ta biết loại chữ ấy
có kết cấu hình vuông, về sau gọi là phương tự, cũng trong giải
thích này ta biết ngày ấy chữ khoa đẩu rất quan trọng đối với một
số người như giải thích trên viết « Thân mình không thương mà lại
thương chi cái chữ khoa đẩu chân chim từ ngàn xưa còn lại ». Rõ
ràng với câu này ta biết chữ khoa đẩu chân chim đã trở thành văn
hóa cốt lõi của một dân tộc và đã ăn sâu vào lòng người đến nỗi
khi mất đi người ta thương tiếc hơn cả thân mình.
Như cổ thư cho biết chữ khoa đẩu là chữ
thời tiên Tần, tức là nhà Chu, giải thích của «Từ ngữ giải thích »
trên zdic.net cho biết điều đó.
周代的古文字。上古筆墨未發明前,以竹挺點漆文字於書竹上,竹硬漆膩,文字之體乃頭粗尾細,狀似蝌蚪,故名.
Chu đại đích cổ văn tự. Thượng cổ bút mặc
vị phát minh tiền. Dĩ trúc đĩnh điểm tất văn tự ư thư trúc thượng,
trúc ngạnh tất nị, văn tự chi thể nãi đầu thô vĩ tế, trạng tợ khoa
đẩu, cố danh.
Tạm dịch:
Văn tự cổ của nhà Chu. Thời chưa có phát
minh ra bút mực, lấy tre vạch thẳng dấu đen thành văn tự lên trên
thân tre cứng láng. Là loại chữ viết đầu to đuôi nhỏ, tợ như nòng
nọc nên có tên ấy.
Với trích dẫn trên lại càng chứng minh
rằng chữ khoa đẩu là một loại chữ có thật, nó liên quan đến nhà
Chu, xuất phát từ ban sơ là chữ chân chim (điểu tích) của người
nói tiếng nhã ngữ (có thể là người Lạc Việt); đồng thời nó chính
là chữ vuông vức (phương vực). Ta có bằng chứng liên quan đến các
thông tin này, đó là bia Vũ Vương.
Đây là nội dung của bia Vũ Vương, một tấm
bia tương truyền là của vua đầu tiên của nhà Chu của Trung Hoa,
nhưng tấm bia này được tìm thấy ở Hồ Nam ngày nay, một địa chỉ
tương đồng với vùng đất mà truyện Họ Hồng Bàng đã mô tả. Tấm bia
gồm 77 chữ, nội dung văn bia đã được Dương Thận đời Minh đọc thành
văn như sau:
khoa dau 2.jpg
明代杨慎曾撰禹王碑释文:“承帝曰咨,翼輔佐卿。洲諸與登,鳥獸之門。参身洪流,而明發爾興。久旅忘家,宿岳麓庭。智營形折,心罔弗辰。往求平定,華岳泰衡。宗疏事裒,勞餘伸神。郁塞昏徙。南渎愆亨。衣制食备,萬国其寜,竄舞永奔。
Minh đại Dương Thận tăng soạn Vũ Vương
bia thích văn:
“Thừa đế viết tư, dực phụ tá khanh, châu
chư dữ đăng, điểu thú chi môn. Tham thân hồng lưu, nhi minh phát
nễ hứng. Cửu tộc vong gia, túc Nhạc lộc đình. Trí doanh hình
chiết, tâm vọng phất thời. Vãng cầu bình định, hóa Nhạc Thái
hoành. Tông sơ sự bật, lao dư thân thần. Úc tái hôn tỷ. Nam độc
khiên hanh. Y chế thực bị, vạn quốc kỳ ninh, soán vũ vĩnh bôn.”
Xin tạm hiểu và dịch như sau:
Dương Thận đời nhà Minh đã đọc thành văn
bia Vũ Vương như sau:
Theo lời cha dạy, những người phụ tá, các
nơi đều đến, chổ bàn chuyện lớn. Đã đem thân vào việc phát triển
như những gì mà ta đã nói, (Nay)mỗi người mỗi ngã, trú tại chân
núi Nhạc,(giờ đây) trí rộng mà lại ích kỷ, tâm nghĩ nhiều mối
chẳng hợp thời. Nay muốn an ổn, làm cho dãy núi Thái được thịnh
vượng, họ hàng thông cảm, mọi việc (mâu thuẩn) giảm đi, đã có đất
đai che chở để lao động thì đâu có chuyện buồn bả âm thầm ra đi.
Những phiền nhiễu, thù hận của người Nam được giải quyết, ai cũng
đủ cơm ăn, áo mặc, nơi nào cũng thế thì chuyện tranh chấp sẽ không
còn.
Ta biết nhà Chu (1046 –
221 TCN) tiếp sau nhà Thương, trị vì Trung quốc 800 năm,
thế mà bia Vũ Vương, người sáng lập nhà Chu lại nằm ở Hồ Nam, một
vùng đất ở bờ nam sông Dương Tử, cái nôi văn hóa của người Lạc
Việt, với thông tin này ta có thể tin rằng nhà Chu là người Lạc
Việt. Một thông tin khác củng cố cho khẳng định này, đó là trường
hợp Võ Tắc Thiên, sau khi lên ngôi, bà đã đổi tên triều đại thành
Vũ Chu, lập đền thờ Văn Vương, lấy hiệu là Việt Cổ Kim Luân Thánh
Thần hoàng đế (越古金輪聖神皇帝).
Sau đổi thành Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝).
Lưu ý rằng chữ Việt
越này là chữ Việt trong Lạc Việt雒
越.
Trong văn bia
này có cụm từ “Điểu thú chi môn” ở đây ta biết nghĩa của hai từ
điểu thú chính là chữ nghĩa, điểu thú chi môn có nghĩa là nơi có
chữ nghĩa hay là nơi những người có học làm việc, tương tự như
triều đình về sau. Cụm từ này liên quan đến cụm từ “Khoa đẩu điểu
tích” hay nó chỉ là cách gọi khác của từ “điểu thú” mà thôi. Như
vậy chữ Khoa đẩu chính là chữ “điểu thú” của nhà Chu; đồng thời
chính trong văn bản này với câu “Nam độc khiên vưu -南渎愆亨”
đã khẳng định rằng Vũ Vương là người Nam hay người Lạc Việt vậy,
có thể vì điều này mà nhiều bản chép tay trên liên lưới người ta
bỏ câu này.
II. Nguồn gốc chữ viết của người Việt.
Trước giờ ta
thường nghe rằng người Việt chưa từng có chữ viết, về sau người
phương bắc sang đô hộ rồi dạy cho ta, sau nhiều ngàn năm bị tuyên
truyền, tư tưởng này hầu như trở thành cố hữu. Tuy nhiên gần đây
các nhà nghiên cứu cho rằng nước ta đã từng có chữ viết, loại chữ
ấy gọi là Khoa đẩu tức là Nòng nọc, suy nghĩ đó bắt đầu từ câu
chuyện được ghi lại trong Hậu Hán Thư và được các nhà sử học Việt
Nam ghi lại trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau
“Đời Đào Đường (陶唐),
phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng
con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước,
trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở
về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch (龜歴,
lịch rùa)[1], từ đó người ta tập trung việc nghiên cứu, tìm kiếm
chữ viết của người Việt căn cứ vào khái niệm này. Khái niệm khoa
đẩu ngoài một số người căn cứ
vào sách vở của phương bắc cho rằng đó chỉ là truyền thuyết
mà thôi, còn một số khác tin rằng chữ khoa đẩu có thật, nhưng khổ
nỗi họ lại nghĩ chữ ấy hay tự dạng ấy giống con nòng nọc, từ đó
căn cứ vào hình dạng của con nòng nọc để tìm kiếm. Dĩ nhiên, ở
buổi ban đầu quả thật hình ảnh của con nòng nọc có ảnh hưởng tới
cách thể hiện con chữ, như bia Vũ Vương là một minh chứng, tuy
nhiên theo đà phát triển, với hai hình thể tròn, dài thì làm sao
mà đáp ứng được cho hàng ngàn sự vật được, nhất là để diễn tả
những khái niệm trừu tường thì biết làm sao, trước nhu cầu đó,
khái niệm nòng nọc đã thoát ra ngoài hình tượng của nó, chỉ còn
lại hai khái niệm âm dương mà thôi. Tuy nhiên ngày nay ở nước Việt
có người cứ căn cứ vào hình thể của con nòng nọc để đi tìm con
chữ, kết quả đi vào
bế tắc hay nhận nhầm loại chữ khác là của mình, cho dù bản thân
con chữ đó cũng chẳng có hình dáng gì có thể hình dung đến con
nòng nọc, nhưng họ vẫn tuyên bố đấy là chữ khoa đẩu hay Hỏa tự. Có
thể lý do cho việc cố gán cho loại chữ này nọ tại nước Việt là vì
sau nhiều năm tìm kiếm chữ khoa đẩu theo hình ảnh mà nhiều người
suy nghĩ, họ thấy rằng chẳng có loại chữ nào giống nòng nọc cả,
may ra có loại chữ của người Thái mà Vương Duy Trinh đã công bố
trong sách Thanh Hóa Quan Phong có gì đó cổ sơ nên người ta nghĩ
rằng có thể nó chính là chữ khoa đẩu; bên cạnh đó người ta nghĩ
rằng văn hóa người Việt là văn hóa bản địa cho nên việc tìm kiếm
chữ Khoa đẩu ở phương Bắc là không khả thi, cho dù cái tên khoa
đẩu được biết ngày
nay lại được viết bằng chữ Hán. Với cách nghĩ như vậy thì xem ra
rất khó tìm ra nguồn gốc của chữ khoa đẩu và nó có thực sự tồn tại
ở nước Việt hay không?
Dấu tích Nòng nọc mà người Lạc Việt dùng
để tượng trưng cho Âm Dương.
Gần đây, năm 2011 Hội Lạc Việt ở Quảng
Tây, Trung Quốc công bố các hình ảnh về dỉ chỉ khảo cổ ở Cảm Tang,
bức ảnh bên dưới cho thấy rằng hai con nòng nọc đen trắng đã được
người Lạc Việt khắc trên đá ở tế đàn Cảm Tang, đây là bằng chứng
chắc thật cho thấy rằng chuyện sử dụng hình ảnh của Nòng nọc để
tượng trưng cho hai khái niệm âm dương trong dịch học là hiển
nhiên; đồng thời qua đây cũng nói lên rằng chữ Khoa đẩu là một
loại chữ liên quan đến dịch học; đồng thời qua bức ảnh này, ta
thấy hình ảnh con nòng nọc đen ở trên, nòng nọc trắng ở dưới, tức
là Âm Dương hay quẻ Thái tượng trưng cho Lạc thư, có nghĩa là Lạc
thư – Hậu thiên bát quái đã được thành lập từ khi người Lạc Việt
còn sống trên sông Dương Tử, có thể vì vậy mà trong bia Vũ Vương
mới có câu “Cửu tộc vong gia” cách dùng từ “cửu tộc” cho thấy khái
niệm này đến từ khái niệm cửu cung của Lạc thư – Hậu thiên bát
quái; cũng trong bức ảnh này, với hai con nòng nọc đen trắng,
người xưa đã cách điệu nó thành hình ảnh con chim Cốc, một loài
diệc, tượng trưng cho Thái cực mà tiền nhân nước Việt đã viết
trong Hồng Bàng Thị, một câu chuyện lấy vùng đất nơi có tế đàn Cảm
Tang làm trung tâm. Hồng là con chim Hồng hộc hay chính là chim
cốc, tức con Còng cộc.
khoa dau 3.jpg
khoa dau 4.jpg
Nguồn gốc chữ Khoa đẩu theo dân gian Việt
Nam.
Dịch học là
đỉnh cao của triết lý âm dương, đại diện cho nó là nòng nọc, chính
vì vậy mà ở nước Việt, từ sau khi mất đi tác quyền về dịch học và
chữ vuông, người Việt xưa đã làm ra bức tranh với truyện ngụ ngôn
Cóc kiện Trê, nội dụng chủ yếu là Trê đã bắt con của Cóc, tức nòng
nọc, vì trê cho rằng đó là con của mình, do Trê và Cóc sống chung
khu vực, cuối cùng Trê, với tố chất ranh mãnh, đã thắng kiện một
cách phi pháp, điều này diễn ra như thực tế. Trong bức tranh người
xưa ghi rõ trên lưng Trê hai chữ Dịch lý役里,
chữ Dịch
役 này vừa là đồng âm với chữ
易và
亦; đồng thời bên trong chữ
役này còn chứa một ẩn ngữ khác mà
theo tôi đó chính là điều người xưa muốn nói, đó là bộ Xích
彳 trong chữ này vốn có âm Diệc
hay Dịch,
彳,步也。彳亦聲, ý nói là dịch học ấy
của người Việt, trường hợp này cũng như trường hợp chữ Hà
河trong Hà đồ
河圖. Tất nhiên chẳng có Cóc, Trê
hay nòng nọc nào cả mà chỉ có người Nam và Bắc và văn hóa dịch và
chữ khoa đẩu mà thôi. Như vậy Trê đã chiếm đoạt dịch học và chữ
khoa đẩu, tức cái văn hóa mà hàng ngàn năm qua họ tuyên bố với thế
giới đó là văn hóa đặc sắc của họ
khoa dau 5.jpg
Ngoài ra người Việt còn minh định rõ về
chữ Khoa đẩu trong bức tranh Thầy đồ Cóc hay Lão Oa giảng đọc.
Thầy Cóc, học trò là Ếch, Nhái, Chão chàng thì chữ tất nhiên là
Nòng nọc chứ còn loại chữ nào nữa. Nếu nhìn từ góc độ lịch sử thì
đây là những kiệt tác của người Việt, bởi vì trong thầm lặng người
Việt đã tìm mọi cách để gởi lại nguồn gốc văn hóa của dân tộc
mình, khổ nỗi tiền nhân thì đau đáu nhưng hậu thế xem đây là những
bức tranh trào phúng chủ yếu để mua vui mà thôi, đó là chưa kể
nhiều người bình phẩm một cách tiêu cực.
khoa dau 6.jpg
Cũng theo
truyền thuyết, bên cạnh chữ Khoa đẩu còn có Hỏa tự火字,
tức là chữ có hình ảnh như những ngọn lửa đang cháy. Theo tôi chữ
Hỏa trong Hỏa tự là chỉ định người hay dân tộc làm ra con chữ đó
chứ không phải là loại chữ được sáng tác ra lấy căn bản từ hình
ảnh của ngọn lửa, bởi vì lửa thì chỉ bốc lên mà thôi, trong khi đó
con chữ trên thực tế không phản ảnh một cách rõ ràng về điều này,
nói khác hơn Hỏa tự cũng chính là chữ Khoa đẩu đấy thôi nhưng là
chữ Khoa đẩu của thời kỳ đầu với cách viết như các chữ trên bia Vũ
Vương; đồng thời với cái tên Hỏa tự, cho ta biết đó là chữ của
người phương Nam hay Lạc Việt, vì theo dịch học, phương Nam
thuộc hành Hỏa.
Với những gì
trình bày trên, từ những gì lưu truyền con ghi lại trong sách sử
cùng những bằng chứng trên thực tế cho thấy rằng chữ Khoa đẩu là
một loại chữ có thật. Tuy nhiên, có nhiều người ở Việt Nam cho
rằng chuyện chữ Khoa đẩu là chuyện mộng mị, tào lao, cho đó là chữ
thời tiên Tần tới đời Đường đã không còn, nên nhớ trước Tần là một
triều đại nhà Chu kéo dài 800 năm, có thể nói hầu hết các quy tắc
ứng xử trong triều đình đều của nhà Chu, tế xuân thu nhị kỳ cũng
từ thời đó, còn viết cả Chu Dịch, chẳng lẽ ngần ấy năm nhà Chu
không có chữ viết, không có chữ viết thì Chu Dịch viết bằng chữ
gì, cả ngần ấy năm sao nhà Chu không đặt tên cho loại chữ đó, chỉ
đến thời nhà Hán mới có chữ rồi đặt là chữ Hán chăng! với 800 năm
trị vì trên khu vực Trong Nguồn và núi Thái, thế mà ngày nay sử
Trung Hoa viết về thời kỳ này hết sức giới hạn, tại sao vậy? Theo
tôi vì họ học của nhà Chu nhưng không muốn mình là học trò nên mới
bịa ra cái chuyện chữ thần tiên. Thật ra phương Bắc muốn triệt
tiêu khái niệm Khoa đẩu, nên mới bịa ra những chuyện hoang đường
như thế, họ muốn xóa đi khái niệm Khoa đẩu hay Nòng nọc không gì
hơn là vì nguồn gốc của loại chữ này, có nghĩa là nguồn gốc chữ
Khoa đẩu hay chữ vuông không phải của họ, vì vậy sau khi đoạt được
chữ Khoa đẩu rồi, một mặt họ phát huy giá trị của con chữ, mặt
khác họ ra sức tiêu hủy bằng chứng về nguồn gốc của nó, đây là
chuyện thường làm của kẻ chiếm đoạt tài sản người khác làm của
mình, có lẽ họ tin rằng như thế là đủ để những người về sau không
thể nhận ra nguồn gốc loại chữ ấy nữa. Tuy nhiên, họ quên rằng,
ngoài khái niệm Nòng nọc, bản thân con chữ cũng đã mang thông điệp
đó, nên chi dù cố gắng cách mấy, họ cũng khó mà che dấu được nguồn
gốc của loại chữ Nòng nọc mỗi khi chủ nhân của nó đã tìm ra manh
mối. Nếu người Việt học chữ của họ tại sao chữ Giác
覺, bính âm là [jiào] người Việt
đọc là [Cóc] hoàn toàn tương đồng với âm Thuyết văn giải tự cho
古樂切cổ nhạc thiết – Cạc. Sao có
sự sai biệt 100% như vậy, hay vì sao con heo- Hợi亥
nằm bên cây – Mộc木
mà lại cho cái Hột – Hạch核,
chính họ xác nhận chữ ấy là của người Man di đấy thôi. Đơn giản là
bởi vì chữ ấy của người Lạc Việt, nên chính họ đã gọi đúng cái tên
mà họ đã đặt cho loại chữ mà dân tộc họ sáng tạo ra, đó là chữ
Khoa đẩu – Nòng Nọc. Nòng nọc là con của Cóc, Cóc là Thái cực,
thuộc Dương – Phương Nam, vì vậy chữ Nòng nọc hay Khoa đẩu là chữ
của người Phương Nam hay Lạc Việt.
III. Về hai chữ Khoa đẩu.
Về ngữ âm của hai chữ Khoa đẩu.
Như đã nêu trước, có thể người Lạc Việt
lấy Cóc tượng trưng cho Thái cực, nên các quái bị ảnh hưởng bởi âm
/C/ như: Càn – Chấn – Khảm – Cấn – Khôn, trong suy nghĩ như vậy,
tôi cho rằng có thể trước đây chữ Khoa – Đẩu vốn đọc là Khoa Chẩu.
Cụ thể ở đây ta có Kh –OA – Ch – ẨU. Oa là con Ếch, Chẩu là con
Chẩu chàng, đồng loại với Cóc; đồng thời, vì Cóc đại diện cho Thái
cực, nên cả hai chữ Khoa chẩu đều có âm /k/. Điều này cũng tương
tự như hai chữ Âm Dương hay Ễnh Ương mà tôi đã trình bày tại phần
hai.
Vấn đề tự dạng hai chữ Khoa đẩu –
蝌
蚪.
Như đã nói
trên, người phương Bắc nhận thức rằng nếu còn cho phổ biến khái
niệm Khoa đẩu, thì rồi ra người Việt sẽ nhận ra rằng đây là loại
chữ của dân tộc họ, vấn đề còn nghiêm trọng hơn là hóa ra phương
Bắc chỉ là học trò của người phương Nam mà thôi; đồng thời cho
thấy rằng, cả một nền văn hóa mà họ đang hãnh diện, thực ra chỉ là
sự tước đoạt của kẻ khác. Tuy nhiên, một mặt họ tìm cách thủ tiêu
khái niệm Khoa đẩu, mặt khác, họ lại ra sức phát huy loại chữ đó,
chính vì vậy, ngay tự dạng và ý nghĩa của hai từ Khoa đẩu
蝌
蚪 đã nói lên điều ấy, có nghĩa
là hai chữ Khoa đẩu
蝌蚪 ngày nay của Trung Hoa và tự
điển đang sử dụng, theo tôi, không phải là con chữ ban đầu của nó.
Chúng ta hãy tìm hiểu về vấn đề này.
Trước tiên ta hãy tìm hiểu xem người
Trung Hoa lấy khái niệm “Khoa đẩu” ấy từ đâu? Cách ghi lại khái
niệm ấy bằng con chữ biểu ý như thế nào?
2.1. Phân tích
hai chữ
蝌蚪:
– Chữ Khoa
蝌 gồm: Trùng
虫+ Khoa
科1. khoa, bộ môn. 2. xử tội, kết
án. 3. khoa cử, khoa thi. 4. để đầu trần. 5. phần trong một vở
tuồng .
– Chữ Đẩu
蚪 gồm: Trùng
虫+ Đẩu
斗. Bé nhỏ.
Cả hai chữ này
đều là chữ hình thanh, thuộc bộ Trùng
虫, như thế có nghĩa là chữ Khoa
科 và Đẩu
斗 đã có trước và có nghĩa riêng,
hai chữ Khoa đẩu蝌蚪còn
viết là
蝌斗 chứng minh cho điều ấy. Nếu
căn cứ vào giải thích trên “Đầu to đuôi nhỏ -头粗尾细”
thì chữ Khoa
科 này không đáp ứng được nghĩa
“To, lớn”, vì nó không có nghĩa này. Nếu phương Bắc là chủ nhân
của loại chữ này sao không biết điều này!?
2.2. Như đã trình bày trước, với tinh
thần áp dụng triết lý Dịch vào việc sáng tạo ra những con chữ,
trong đó có chữ cóc覺,
những con chữ này được sáng tác ra từ thuở ban đầu, nên chưa có
khái niệm部
bộ, vốn dùng để hệ thống hóa chữ viết sau này. Như vậy nếu người
xưa đã tạo ra được chữ Cóc覺,
lẽ nào hình ảnh con Nòng Nọc lại không được người Việt ghi lại
bằng con chữ độc lập. Nói như thế có nghĩa là tôi cho rằng sự thật
người Lạc Việt đã thể hiện khái niệm Nòng Nọc bằng con chữ cụ thể,
cũng có âm là Khoa đẩu. Hai chữ đó là:
夸斗.
Về dịch lý trong tự dạng
夸
斗:
3.1. Chữ Khoa
夸. Trên chữ Đại
大to lớn, gồm: Chữ Nhất
一Dương +
nhân
人Trung gian. (Thiên –Nhân -Địa),
dưới chữ Khuy
亏- Âm. Dương Âm
hay Càn Khôn, tức bản thể thuộc Âm – NÒNG. Đặc biệt trong
chữ này, người Việt đã gởi vào đây một thông điệp, rằng chữ này là
của người Việt, bằng cách ghi vào đây chữ Việt
亏, tức chữ Việt
粤 .
粤.
亏也. Việt: Khuy dã. Việt:
(Chữ)Khuy vậy.
3.2.
Chữ Đẩu
斗. Trên là hai chấm – (Nhị nghi)
– Âm, có nghĩa là bé nhỏ, dưới chữ Thập十
– Dương. Trên Âm, dưới Dương hay
trái Âm phải Dương, tức Thái cực thuộc Dương – NỌC.
3.3. Vì hai chữ Khoa đẩu là để chỉ một
con vật, nhưng chứa đựng được cả Âm lẫn Dương, nên người xưa đã
viết trong chữ Khoa đã có chữ Đẩu, cụ thể là
𡗴. Có thể ban đầu nó chỉ được
thể hiện bằng một âm và một chữ thôi, chữ đó là
𡗴 đọc là Khoa, gồm: Trên chữ
Đại
大 là lớn – Âm – Nòng, dưới chữ
Đẩu
斗 – Nhỏ – Dương – Nọc. Âm Dương,
tức Thái cực. Theo tôi, người Việt sáng tác chữ này theo tư tưởng
dịch học, nhưng rồi có lẽ họ thấy cần phải đóng dấu người Việt vào
đó, nên đã đưa chữ Việt
亏 vào chữ Khoa, thành chữ Khoa
夸; đồng thời tách ra làm hai,
thành Khoa đẩu
夸斗, nhằm mục đích vẫn giữ được
khái niệm Âm Dương hay Thái cực, như chữ Khoa
𡗴, vì vậy hai chữ Khoa đẩu
夸斗 cũng mang lý tính đó, Khoa
夸 là Lớn – Âm – Nòng, Đẩu
斗- Nhỏ – Nọc – Dương, Âm Dương
tức Thái cực. Chữ của người Lạc Việt tất phải là chữ mang tính
tích cực hay động, nói theo dịch là Thái cực, như đã trình bày
trong phần chữ Việt
越.
So sánh hai chữ Khoa đẩu hiện nay
蝌蚪 và
夸斗.
Với
những gì phân tích trên, so sánh với hai chữ Khoa đẩu
夸斗 và
蝌蚪 người Trung Hoa đang sử dụng:
4.1. Hoặc
người Trung Hoa biết hai chữ
夸斗 này có nghĩa là Nòng Nọc,
nhưng vì nguồn gốc của nó mà phải viết khác đi chăng?
4.2. Hoặc người Trung Hoa lúc đó, không
biết hai chữ này
夸斗 có nghĩa là Khoa đẩu, nhưng
chỉ nghe người ta nói rằng loại chữ mà họ chiếm được là chữ Khoa
đẩu, từ đó ghi lại thành
蝌
蚪.
Rõ ràng chữ
Vuông, trong đó có hai chữ
夸斗, đã hình thành rất lâu trước
khi người Hoa hạ chiếm hữu nó từ người Việt, nên mới có chuyện ký
âm hai tiếng Khoa đẩu theo lối bộ trùng như trên. Ta có thể thấy
điều này trong Thuyết văn giải của Hứa Thận “亦作“
蝌斗 ”có nghĩa là chữ đẩu
斗 vốn không có bộ trùng虫,
như thế ta thấy chữ Khoa ban đầu vốn cũng không có bộ trùng虫.
Tất nhiên nếu như thế thì cũng có nghĩa là chữ Khoa vốn không phải
chữ Khoa
科 này, vì nó vốn là một chữ có
nghĩa riêng biệt.
Theo tôi điều
4.2 là hợp lý, vì nếu biết rằng hai chữ
夸斗 chỉ con Nòng Nọc, thì họ chỉ
cần thêm bộ Trùng虫vào
thế là xong, mất dấu vết ban đầu. Sao họ không làm? Chứng tỏ rằng
họ không biết khái niệm Khoa đẩu đã cụ thể bằng hai chữ夸斗
nhưng chắc chắn họ biết rằng loại chữ họ đang kế thừa trước đây
gọi là chữ Vuông hay Khoa đẩu. Điều này cho thấy rằng, vì họ không
phải là chủ nhân của loại chữ Vuông, nên đã làm mọi cách để khái
niệm này đi vào quên lãng; đồng thời sáng tác ra hai chữ Khoa đẩu
khác, nhằm tránh dấu vết của người Việt. Tuy nhiên với những gì
được giải thích về chữ Khoa đẩu trong Thuyết văn giải tự và Khang
Hy và những gì đã chứng minh trên cho thấy rằng chữ Khoa đẩu chính
là chữ Vuông, hay ngày nay ta gọi là chữ Hán.
Chính vì
夸斗 Khoa đẩu liên quan đến vấn đề
con chữ của người Việt, nên trong câu chuyện Chữ Đồng Tử mới đề
cập đến cái khố, cái khố này theo tôi, được viết bằng chữ
袴, chứ không phải chữ
褲, như câu chuyện đã thể hiện.
Đây là bằng chứng cho thấy sự tam sao thất bổn, điều này xảy ra
không phải chỉ với chữ này, mà ngay trong tranh “Lão Oa giảng đọc”
người ta đã nhầm lẫn giữa chữ Oa
蛙 là Cóc đực và Oa là
蜗 Cóc cái. Tất nhiên điều ấy có
thể thông cảm được, vì trải qua biết bao thăng trầm, vậy mà người
xưa đã gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay, thì với những chi tiết
nhỏ như vậy, nhầm lẫn là chuyện khó tránh khỏi.
Tại sao lại đặt tên loại chữ này là Khoa
đẩu – Nòng nọc.
Như vậy là tôi đã trình bày về nguồn gốc
của chữ Khoa đẩu, một vấn đề cuối cùng nữa, đó là tại sao người
xưa lại đặt tên loại chữ đó là Khoa đẩu?
Như đã trình bày trước, người Việt cổ lấy
con cóc tượng trưng cho dương, nhái tượng trưng cho âm, vậy tại
sao họ không lấy tên hai con này đặt tên cho loại chữ mà họ sáng
tạo ra mà lại đặt tên là chữ Nòng nọc. Đây là một câu hỏi cần có
câu trả lời.
Người xưa nói
“văn dĩ tải đạo
文以載道”
chữ nghĩa chuyên chở đạo lý của con người, trong dịch học thì đạo
chính là âm dương nhất thể vậy, khái niệm này được thể hiện qua
câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”. Với mục đích như vậy, nếu lấy
con cóc đặt tên thì chỉ có phần dương, còn nếu lấy nhái đặt tên
thì chỉ có phần âm, như vậy không phù hợp với mục đích của Văn
文. Ngược lại con nòng nọc thì
hình thể của nó thể hiện được cả hai khái niệm, đầu tròn – âm,
đuôi dài – dương. Đầu không nhúc nhích được – tĩnh, đuôi dùng để
bơi – động, cả hai không thể tách rời nhau được; đồng thời nó là
nguồn gốc sinh ra cóc, nhái, nói cách khác nòng nọc có tiêu chí
của bản thể – Hà đồ và cóc nhái có tiêu chí của Lạc thư. Với các
tiêu chí này, con nòng nọc đáp ứng được tiêu chí câu “nhất âm nhất
dương chi vị đạo”, chính vì vậy mà người xưa mới đặt tên loại chữ
này là Khoa đẩu – Nòng nọc.
Kết.
Tóm lại chữ Khoa đẩu là một loại chữ của
người Lạc Việt, không phải là chữ thần tiên, nó là một loại chữ có
thật, nó được hình thành từ khái niệm Âm – Nòng và Dương – Nọc,
hai khái niệm này không những thể hiện một cách trừu tượng, mà còn
được biểu thị bằng hình ảnh cụ thể, đó là con nòng nọc, hình ảnh
tại di chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, Quảng Tây, Trung quốc, là một minh
chứng. Chữ Nòng nọc ấy chẳng biến mất đi đâu cả, nó chỉ thay tên
đổi họ mà thôi, nó chính là chữ Hán hiện nay. Câu chuyện chữ Khoa
đẩu là chữ thần tiên, chỉ là thủ thuật của kẻ cưỡng đoạt, nhằm che
dấu nguồn gốc loại chữ vốn không phải của mình mà thôi, chính vì
vậy mà cho đến nay, ngoài khái niệm phương tự ra, họ không có một
tài liệu nào phân tích, cho thấy một cách cụ thể về cách sáng tạo
tự dạng trong chữ Hán theo triết lý dịch học, trong khi đó, họ lại
cho rằng dịch học là sản phẩm văn hóa tuyệt vời của dân tộc họ.
Cũng chính vì vậy, ngay cả hai chữ Khoa đẩu hiện nay họ đang sử
dụng, cũng không phải là hai chữ được sáng tác từ thời kỳ đầu của
Dịch học (không có bộ) mà do họ tự ghi lại, có thể thông qua những
kẻ thuật lại, nên các con chữ ấy chỉ là chữ hài thanh, một phương
pháp sáng tạo chữ, hình thành sau khi chữ tượng hình, biểu ý đã
đạt đến số lượng bão hòa.
Chú thích:
汉字的故事
–
汉文字的祖先仓颉和造字的传说 –
郁乃尧.
Ta thấy người Việt xưa đã dùng chữ Huyền
để chỉ lý tính Âm, như Lưu Huyền trong câu chuyện Tân Lang (Trầu
cau) hay, Ứng Huyền trong truyện Việt Tỉnh Cương (Giếng Việt)
方域 –
Phương vức – Vuông vức, rõ ràng ngày trước ta đọc chữ
方 này là vuông, đây là chữ của
người Việt, nếu là chữ Hán cớ sao ta không đọc phương vức.
“Khâm định Việt sử thông giám cương mục”,
Tiền biên, quyển 1 .
luoyue.net/newsimg/s0e67729f-2dfc-4cb6-97f3-6c5f978ba7bf.JPG
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
-09/2019 -10/2019 -11/2019 -12/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019. Sep/2019. Oct/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu