MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt

֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Đại Kỷ Nguyên

֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports

֎ Vietnamese Commandos ֎ Video/TV ֎ Lottery

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Diễn Đàn

֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Diễn Đàn ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFR

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZ

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookings

vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran

vOpen Culture vSyndicate vCapital Research

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền

vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn

vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS 

vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm

vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

vTPB v1GĐ/1TPB v

Viết lại tên Bách Việt

 

Nguyễn Đại Việt

 

Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ ḥa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán c̣n gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ.

Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mă Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Kư dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Kư nổi tiếng đó. “Bách Việt” được dịch sang Hán ngữ hiện đại là .

 

 

H́nh 1: Chữ "Việt" (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu" (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ư nghĩa và chữ "người cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là "Việt" có h́nh tượng giống như một người cầm cái qua (). Trong Hán ngữ chữ "qua" () có nghĩa là "cái mác" hoặc "chiến tranh".

Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng:

“Trong ṿng bảy hoặc tám ngh́n dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của ḿnh.”

Bách Việt mà hai bộ Sử Kư và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cơi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lănh thổ.

Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là (Ư Việt), (Dương Việt), (Mân Việt), (Nam Việt), (Đông Việt), (Sơn Việt), (Lạc Việt), (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ , gọi là “chữ Việt bộ Tẩu”. “Tẩu” có nghĩa là “chạy” nhưng không hiểu v́ sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Kư (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tiền Hán.

Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh “chữ Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ “Việt” đó. Phần c̣n lại, phần phụ, tŕnh bày một cái nh́n, một cảm nhận cá nhân về chữ “Việt” của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN.

 

CHỮ “VIỆT” CỦA BÁCH VIỆT

Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của ḿnh? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lănh thổ rộng lớn lại mang ư nghĩa bi quan như thế?

Ngày nay, khi t́m hiểu ư nghĩa chữ “Việt” giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ “Việt bộ Tẩu”, nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng răi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là v́ họ đă nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ hay “Việt bộ tẩu” không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đ́nh Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ “Việt” nguyên thủy vốn đă xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm.

Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ t́m câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là ǵ, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mă Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ ” Việt bộ Tẩu” () trong bộ Sử Kư của ông đến nay. Trong phần này các chữ “Việt” thuộc thời đại đồ đồng sẽ được tŕnh bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ “Việt bộ Tẩu” và chữ “Việt bộ Kim”.

 

1. Chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng

Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn c̣n chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ “Việt” được ghi nhận. Xin lưu ư là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears.

Sau đây là 5 chữ “Việt” viết bằng loại “chữ chim”, có nơi gọi là “chữ sâu bọ và chim”, một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

a) Chữ “Việt” mang kư hiệu B01747

 

 

H́nh 2: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang kư hiệu B01747:

- Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là “Người Chim”.

- Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng

đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ.

- Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó.

- Niên đại: không rơ.

b) Chữ “Việt” mang kư hiệu B01748

 

 

H́nh 3: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang kư hiệu B01748:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác).

- Người Chim trong tư thế của một vũ điệu.

- Thành phần bên trái là kư tự gồm một h́nh tṛn nằm trên chữ mang h́nh tượng có đầu tṛn to với một cái đuôi.

- Niên đại: không rơ.

 

c) Chữ “Việt” mang kư hiệu B01750

 

 

H́nh 4: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang kư hiệu B01750:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Thành phần bên trái gồm một h́nh tṛn nằm trên kư tự có h́nh tượng giống thân rắn với 2 sừng.

- Niên đại: không rơ.

d) Chữ “Việt” mang kư hiệu B01751

 

 

H́nh 5: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang kư hiệu B01751:

- Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa.

- Người Chim không cầm qua hoặc binh khí.

- Thành phần bên trái là một h́nh tṛn nằm trên một cái đầu có đuôi cong.

- Niên đại: không rơ.

e) Chữ “Việt” mang kư hiệu B01749

 

Nhận xét chữ mang kư hiệu B01749:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay phải của của Người Chim cầm một vật có h́nh dạng của một cái qua.

- Thành phần bên trái gồm một h́nh tṛn có chấm bên trong và nằm ngay trên kư tự có h́nh tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt.

- Niên đại: 496 – 465 TCN. Đây là chữ “Việt” được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam).

Kết luận: Khảo sát các chữ “Việt” trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng,

- Thứ nhất, chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ.

- Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ “Việt” là “Người Chim”. “Qua” hay binh khí là yếu tố phụ.

 

2. Chữ “Nước” (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng

Theo định nghĩa của chữ (ấp), một trong các ư nghĩa của nó là “nước” hay “quốc gia”. Ví dụ như “nước Chu” (: Chu quốc) hay “nước Hàn” (: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc.

 

 

H́nh 7: Chữ "ấp" trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất được vua ban cho.

 

 

H́nh 8: "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải).

Trong chữ “Chu quốc” nghĩa là “nước Chu” (h́nh 8), chữ “nước” được đặt sau chữ “Chu”, khác với cách viết của người Việt là chữ “nước” được đặt trước như trong các chữ “Việt” của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ “nước” được dùng trong chữ “Hàn quốc” (nước Hàn) trong h́nh 9.

 

H́nh 9: "Hàn quốc" nghĩa là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải).

Hiện nay có tất cả 31 chữ “” (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (h́nh 7) được ghi nhận.

 

3. Chữ “Tẩu” trong thời đại đồ đồng

Chữ (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ , chữ “Việt bộ Tẩu”, viết theo Hán ngữ hiện đại.

 

 

 

H́nh 10: Chữ "Tẩu" (Hán ngữ: ) trong thời kỳ đồ đồng.

 

So sánh chữ “nước” (h́nh 7) với chữ “tẩu” của thời kỳ đồ đồng (h́nh 9) th́ hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ h́nh thức đến nội dung. Hơn nữa “nước” là một danh từ c̣n “tẩu” là một động từ. Hiện có 17 chữ “Tẩu” thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (h́nh 9).

 

4. Chữ “Kim” thời đại đồ đồng

Trong h́nh 11 và phía trên là một số cách viết chữ chữ “Kim” trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên trái là chữ “Gươm”, chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ “Gươm” chính là chữ “Kim”.

 

 

H́nh 11: Các cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái của chữ "Gươm" (h́nh dưới, bên phải) và chữ "Nước" là phần trái của chữ "Việt" (h́nh dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn.

Cũng trong h́nh 11, ở dưới và bên trái, chữ “Việt” là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ “Việt” không thể là chữ “Kim” v́ không bao giờ có 2 chữ “Kim” khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về h́nh thức th́ 2 chữ (Ấp, hinh 7) và (Kim, h́nh 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ “Kim” thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận.

Kết luận: Thành phần bên trái của chữ “Việt” nguyên thủy chính là chữ “” (ấp) và được viết bằng “văn tự chim”, một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

 

5. Chữ “Người Chim” trong chữ “Việt” nguyên thủy và chữ “người cầm qua” () trong “chữ Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán

“Chữ Việt bộ Tẩu” của triều đ́nh nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ “Tẩu” dùng để xác định ư nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ “Việt” dùng để phát âm (hinh 12).

 

 

 

H́nh 12: "Việt bộ tẩu" viết theo Hán ngữ hiện đại.

 

Chữ bên phải của chữ “Việt bộ Tẩu” mang h́nh tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ của Hán ngữ và có nghĩa là “Qua”, ‘Mác” hay “Chiến tranh”. Chữ (người cầm qua) trong chữ “Việt bộ Tẩu” không phải là thành phần cấu tạo của chữ “Việt” nguyên thủy.

 

 

H́nh 13: Một cách dịch chữ "Người Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ư là Hán ngữ không có chữ này.

Thật vậy, từ chữ “Việt” trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là “Người Chim” tay cầm qua hay binh khí (h́nh 13).

 

H́nh 14: "Người Chim" trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia.

 

Cho đến nay số lượng chữ “Việt” thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. V́ vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ “Việt” nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo “văn tự chim” th́ xác xuất để nó mang cùng nội dung và h́nh thức với 5 chữ “Việt” tŕnh bày trên đây rất cao.

 

 

H́nh 15: Một ví dụ của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (: nước), bên phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt". Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không có chữ này.. Hán ngữ hiện đại dùng chữ (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ (ấp, nước, quốc gia).

Kết luận: Chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496 – 465 TCN, xuất hiện trước chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm và được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ “Nước” () ở bên trái và chữ “Người Chim” tay cầm qua ở bên phải . “Người Chim” được phát âm là “Việt” và là yếu tố chủ đạo, c̣n “qua” hay binh khí là yếu tố phụ (h́nh 15).

oOo

 

Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đă được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại th́ nội dung và hinh thức của chữ , chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó , hoàn toàn không phải là chữ “Việt” của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ “Việt” nguyên thủy vốn đă có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mă Thiên, dù với bất kỳ lư do nào, đă xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Kư nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đă bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đ́nh nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.

 

PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ “VIỆT” SANG HÁN NGỮ

Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. ” Oa” viết theo Hán ngữ là , là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đ́nh Trung Hoa.

Măi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ư phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa () mang ư nghĩa châm biếm và xúc phạm như “phục tùng” hay “thằng lùn”, c̣n tên mới có nghĩa là “hài ḥa, ḥa b́nh, và quân b́nh. “Đại Ḥa” ( ) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là “con cháu Thái Dương Thần Nữ”. Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本).

Trong phần chính chữ “Việt” được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đă được công nhận. Trong phần này ư nghĩa của chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và v́ vậy cách dịch chữ “Việt” ở đây sẽ không hoàn toàn khách quan.

 

1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn

Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, gịng sông nơi Thúy Kiều gieo ḿnh tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây.

Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (h́nh 16).

 

 

H́nh 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko.

 

2. Chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nh́n khác

Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ “nước” ( ) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ “nước” ( ) của các chữ “Việt” khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài “Người Chim”, trong chữ “Việt” c̣n có thêm 2 yếu tố khác.

 

H́nh 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn.

 

Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (c̣n gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia.

Trong h́nh 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn th́ chữ “Việt” trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay v́ 2 như đă tŕnh bày. Ba thành phần đó là các chữ “Mặt Trời”, “Rồng”, và “Người Chim”.

 

 

H́nh 18: Chữ "Việt" (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó.

 

Trong các phần kế tiếp, các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ “Mặt Trời”, “Rồng”, và “Nguời Chim” trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử “Rồng Tiên” phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác.

 

3. Chữ “Mặt Trời” trong Giáp Cốt Văn và trong chừ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Theo Giáp Cốt Văn (h́nh 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (h́nh 20), chữ “Mặt Trời” được viết như là một h́nh tṛn hoặc là một h́nh có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. H́nh thức hay cách viết của chữ “Mặt Trời” trong các thời kỳ đó th́ duy nhất, nghĩa là:

a. Không có bất kỳ chữ nào mang ư nghĩa khác được viết với h́nh thức đó.

b. Bất kỳ chữ nào được viết với h́nh thức như vậy đều có nghĩa là “Mặt Trời”.

V́ vậy, một thành phần của chữ “Việt”, chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong h́nh 18, được xem là chữ “Mặt Trời”.

 

 

H́nh 19: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại Giáp Cốt Văn.

 

 

H́nh 20: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại đồ đồng.

 

4. Chữ “Rồng” trong Giáp Cốt Văn và trong chừ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Trong Giáp Cốt Văn (h́nh 21), chữ “Rồng” là một h́nh thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện.

 

 

H́nh 21: Bên phải là một số cách viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như ḿnh rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.

 

5. Chữ “Rồng” trong thời đại đồ đồng và trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

H́nh 22 tŕnh bày là các chữ “Rồng” trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ “rồng” được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện.

 

 

H́nh 22: Bên phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như ḿnh rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.

So với chữ “Rồng” của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng th́ một trong các thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong h́nh 18 được cho là chữ “Rồng”.

 

6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt

Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt c̣n lưu lại là quyển Đại Việt Sử Kư (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272.

May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đă được xác lập:

- Hán tộc không có trống đồng.

- Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo.

- Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ.

V́ vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt.

 

7. “Mặt Trời” trong chính sử trống đồng

Về yếu tố “Mặt Trời” th́ hiển nhiên không cần lời giải thích dài ḍng v́ tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó “Mặt Trời” đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ.

 

H́nh 23: Một ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: nghĩa là mặt trời - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua" , lưu ư là Hán ngữ không có chữ này.

 

8. “Rồng” từ đời sống thực tế đến huyền sử

Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm ḿnh, Đại Việt Sử Kư Toàn Thư chép như sau:

Vua nói: “Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ h́nh thủy quái ở ḿnh. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.

Từ nhận định trên người Việt cổ đă nghĩ ra phương pháp xâm ḿnh để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm ḿnh là để thuồng luồng hay giao long “tưởng” họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.

Thoạt tiên mục đích xâm ḿnh đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận ḿnh cùng đồng loại hay cho ḿnh là con cháu của rồng được h́nh thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên “Rồng” được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.

 

9. “Người Chim” trong chính sử trống đồng

Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự h́nh thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ.

 

oOo

 

Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là ǵ th́ câu trả lời nên là: Việt là “Mặt Trời”, là “Rồng”, là “Người Chim” (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm ḿnh c̣n khái niệm Rồng của Hán tộc th́ bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục.

 

KẾT LUẬN

Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v… mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. “Việt” là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng “Việt” th́ có khă năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khă năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v… Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt th́ Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và b́nh định được vùng đất phía nam dăy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ “Việt” nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ “Việt bộ Tẩu”, người Hán đă thành công lấy được toàn cơi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc.

Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đă liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lănh thổ th́ mất cả chỉ c̣n lại một dăi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng th́ cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành tŕ cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938.

Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà c̣n có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lănh thổ rộng lớn và trù phú. V́ vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành tŕnh về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ.

Thung lũng Hoa vàng

 

Mồng Một Tết Nhâm Th́n tức ngày 23 tháng 1 năm 2012

Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.

Nguồn: http://www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/viet-lai-ten-Bach-Viet.htm

 

 

 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: