MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018
֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018
֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlatevWSWS
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvCreate
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran
vOpen CulturevSyndicatevCapital ResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền
vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn
vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng
vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh
vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân
vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong
vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa
vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm
Vong thân
Nguyễn Văn Trung
NXB Nam Sơn - 1972
Vong thân bày tỏ t́nh cảm con người đánh mất hay bị mất bản thân, bản ngă của ḿnh. Mất ở đây không phải là không c̣n nữa, v́ bị tan vỡ, trở thành không có nhưng là bị biến thể. Bản thân vẫn c̣n có, nhưng bị tách khỏi ḿnh, trở thành khác ḿnh và hơn nữa trở thành xa lạ, đối lập với chính ḿnh.
Vong thân là khái niệm căn bản trong triết học Hegel một triết gia duy tâm nổi tiếng người Đức vào cuối thế kỷ thứ XIX.
Vấn đề quan trọng, đề tài then chốt làm bận tâm các nhà triết học, những thế kỷ XVII, XVIII, XIX vẫn là vấn đề nhận thức: làm sao lư trí tinh thần có thể biết được sự vật, thế giới bên ngoài là một thực tại khác với tinh thần, lư trí? Những triết gia duy lư nhấn mạnh vào vai tṛ quyết định của tinh thần, lư trí, c̣n những triết gia duy nghiệm nhấn mạnh vào tính cách tích cực chủ động của sự vật, thế giới bên ngoài. Kant cố gắng dung ḥa hai quan điểm đối lập. Đến Hegel, Hegel cho rằng không bao giờ giải quyết được vấn đề bao lâu cứ đứng ở b́nh diện phân biệt tinh thần là một thực tại khác với sự vật, thế giới bên ngoài. Và đứng ở b́nh diện tách biệt trên theo Hegel phải nh́n nhận không thể có quan điểm nào hoàn hảo hơn quan điểm của Kant.
Hegel không xóa bỏ vấn đề nhận thức, nhưng thay đổi hẳn quan niệm nhận thức. Trước hết Hegel nh́n nhận chỉ có một thực tại và thực tại duy nhất đó là tinh thần. Nhưng ở khởi điểm, tinh thần chưa biết ḿnh là tinh thần, chưa tự giác là tinh thần, v́ tinh thần chỉ biết ḿnh là tinh thần ở tận cùng lịch sử, một diễn biến lâu dài gồm nhiều giai đoạn. Nói cách khác, tinh thần không ở trạng thái im ĺm và hoàn tất ngay từ khởi điểm và phải trải qua một lịch tŕnh diễn tiến trong lịch sử để đạt tới tự giác.
Vậy tất cả mọi sự của thực tại: thế giới vật chất, nhà nước, văn minh, tôn giáo, nghệ thuật, triết lư… chẳng qua chỉ là những biểu lộ của tinh thần trong lịch sử diễn tiến hướng về tự giác. Do đó khi tinh thần t́m hiểu thế giới bên ngoài, lịch sử, không phải là t́m hiểu một thực tại khác ḿnh v́ không bao giờ hai thực tại khác nhau về bản chất, có thể hiểu nhau mà chỉ là tinh thần tự t́m hiểu ḿnh qua những biểu lộ của chính ḿnh.
Trong viễn tượng đó, nhận thức triết lư không c̣n phải là giải thích tại sao và bằng cách nào lư trí, tinh thần biết được thế giới bên ngoài hoặc xác định những điều kiện có thể nhận thức như Kant đă làm mà là mô tả những biểu lộ xuất hiện của tinh thần trong lịch tŕnh diễn tiến của nó. Những biểu lộ này cũng từ tinh thần mà ra, tách khỏi tinh thần, trở thành khách quan.
Quan niệm trên đưa đến nhận xét căn bản sau đây: tinh thần không thể tự giác nếu không trở thành khác ḿnh bằng những biểu lộ bên ngoài. Cũng như con người chỉ biết ḿnh là một vật sáng tạo khi đứng trước một tác phẩm, công tŕnh sáng tạo của ḿnh. Tác phẩm là kết quả sinh hoạt sáng tạo của ta, tuy do ta mà ra nhưng đă tách khỏi ta và trở thành khác ta.
Hiện tượng tách khỏi ḿnh, trở thành khác ḿnh Hegel gọi là vong thân. Nhưng vong thân cũng là một điều kiện cần thiết và chỉ có đánh mất ḿnh trong những biểu lộ của ḿnh, tinh thần mới biết được những khả năng, giá trị của ḿnh, mới biết ḿnh. Thực ra việc đánh mất ḿnh ở đây chỉ tạm thời, v́ tinh thần sẽ phục hồi tất cả những biểu lộ, sản phẩm của vận chuyển trong lịch sử quá tŕnh diễn tiến ở tận cùng lịch sử, và nhất là không có nghĩa như từ ngữ muốn chỉ thị, v́ việc đánh mất ḿnh, chính là một cách phong phú hóa ḿnh. Do đó, vong thân là cần thiết để tinh thần có thể tự giác và chỉ là một giai đoạn trong lịch tŕnh diễn tiến, v́ vong thân sẽ chấm dứt khi tinh thần đạt đến giai đoạn chót thu hồi được thực ngă và hoàn toàn tự giác là tinh thần tuyệt đối.
Đến Marx khái niệm vong thân mang một nội dung cụ thể không c̣n phải tinh thần trừu tượng vong thân như Hegel hiểu, nhưng là con người bằng xương bằng thịt, sống trong những hoàn cảnh lịch sử, chế độ xă hội nhất định bị mất bản thân, giá trị làm người. T́nh trạng vong thân cũng không phải là h́nh thức “khách thể hóa cần thiết để tiến tới chỗ hoàn thiện, trái lại bày tỏ một sa đọa suy đồi thật sự”.
Vong thân xuất hiện dưới nhiều h́nh thức: tôn giáo, chính trị, pháp lư, triết lư, nhưng tất cả những vong thân, tôn giáo, chính trị, triết lư… đều bắt nguồn từ vong thân căn bản là vong thân kinh tế của con người lao động, sản xuất. Cũng như Hegel, Marx coi con người là một vật lao động và cần lao là yếu tính của con người. Sự làm việc bao hàm dự định và mục đích. Dự định làm việc nhằm thực hiện mục đích, thỏa măn những nhu cầu sinh sống đồng thời nhằm phát triển con người, nhân hóa con người, phong phú hóa con người. Nói cách khác những sản phẩm con người lao động làm ra thuộc về con người sản xuất và nhằm thực hiện những mục tiêu mà hắn dự định.
Con người lao động vong thân khi những sản phẩm ḿnh làm ra không thuộc về ḿnh, không nhằm thực hiện những mục tiêu, những dự định, trái lại bị người khác tước đoạt nhằm thực hiện những mục tiêu của họ.
Do đó, người làm việc bị tách khỏi những kết quả sự làm việc của ḿnh, bị tách khỏi chính sự làm việc của ḿnh v́ nó không c̣n nhằm thực hiện những dự định của ḿnh và sau cùng bị tách khỏi cả những người khác, trở thành thù địch với ḿnh v́ người khác đă chiếm đoạt công lao sự làm việc của ḿnh. Đáng lẽ lao động sản xuất là một sinh hoạt để con người nhận biết ḿnh là người, như vật sáng tạo, một giá trị làm người trước sản phẩm do ḿnh làm ra th́ lại một dịp đánh mất bản ngă, giá trị làm người và ném con người vào t́nh cảnh vong thân trở thành xa lạ, thù địch với người khác, với thiên nhiên, với chính ḿnh.
Nh́n một cách cụ thể, người lao động bị vong thân trong những chế độ nô lệ, phong kiến và nhất là trong chế độ tư bản. Những chế độ này là nguồn gốc sự mất mát, thua thiệt của người làm việc. Thay v́ nhằm phát triển những giá trị nhân loại, thăng tiến con người bằng những sinh hoạt kinh tế, những chế độ trên, nhất là tư bản đă lấy tư lợi làm tiêu chuẩn cho mọi sinh hoạt lao động, do đó đă biến con người sản xuất thành một dụng cụ sản xuất như cái máy, cái cày và biến sức lao động thành hàng hóa đổi chác theo luật thị trường.
Marx đă viết những đoạn rất nghiêm khắc để mô tả và kết án sự bóc lột lao động trong những chế độ trên, nguyên nhân t́nh cảnh vong thân của người làm việc.
Trước hết, người lao động bị tách rời khỏi những kết quả sự làm việc. “Người thợ càng nghèo khi càng sản xuất nhiều và hơn nữa, sản phẩm sự làm việc càng văn minh, người thợ càng trơ trẽn, mọi rợ. Lao động càng mạnh, người thợ càng yếu, lao động càng thông minh người thợ càng không được sử dụng trí khôn và trở thành nô lệ thiên nhiên. Lao động làm ra sự đẹp đẽ nhưng đối với người thợ nó chỉ đem lại sự đui què. Lao động làm ra tinh thần nhưng đối với người thợ nó chỉ đưa đến sự sa đọa thành con vật”. Nói tóm lại. “sản phẩm lao động thế nào th́ chắc chắn người thợ không được như thế. Người thợ trở thành một món hàng rẻ nếu nó càng sản xuất được nhiều hàng hóa”.
Sau là sự phân ly giữa con người với chính hoạt động làm ăn của ḿnh. Lao động ở ngoài người thợ, nghĩa là không c̣n thuộc bản chất người thợ, vậy người thợ không phải là ḿnh khi làm việc, người thợ như tự phủ nhận trong khi làm việc, không phát triển năng lực thể xác hay tinh thần nhưng là ḱm hăm thể xác và phá hủy tinh thần trong sự làm việc. Cho nên người thợ cảm thấy thoải mái như ở nhà ḿnh ngoài giờ làm việc, c̣n trong lúc làm việc, người thợ cảm thấy ngoài ḿnh. Sự làm việc của người thợ không phải là tự ư nhưng là bị bó buộc. Do đó sự làm việc không có nghĩa là làm thỏa măn những nhu cầu. Tính cách xa lạ của sự làm việc xuất hiện trong sự kiện sau đây: nếu không bị bó buộc người ta trốn tránh làm việc như trốn dịch. Cho nên, hoạt động của người thợ là sự tiêu diệt chính ḿnh.
Sở dĩ người làm việc cảm thấy sự làm việc xa lạ, chống đối lại ḿnh v́ sự làm việc không c̣n ư nghĩa ǵ đối với người làm việc. Nếu lao động là yếu tính của con người, người là người v́ biết lao động sản xuất và lao động sản xuất nhằm thực hiện yếu tính làm người, th́ người lao động bị vong thân là người đă phải lấy yếu tính của ḿnh làm phương tiện bảo đảm sinh sống. Khi “Sự làm việc sinh hoạt thân thiết, do sản xuất của con người đă trở thành phương tiện, con người lao động sẽ chỉ cảm thấy tự do trong những sinh hoạt thú vật: ăn uống, sinh đẻ mà thôi, c̣n trong những sinh hoạt nhân loại nghĩa là trong lao động làm cho con người khác hẳn thú vật, người lao động cảm thấy ḿnh là thú vật, người lao động cảm thấy ḿnh là thú vật. Do đó cái thú vật trở thành nhân loại và cái nhân loại thú vật”. Nếu con người là một vật lao động, lao động cũng tạo cho con người một ư nghĩa sống. Nhưng con người không thể gán cho ḿnh một ư nghĩa sống. Cho nên, khi ư nghĩa sống thực không c̣n dựa trên sinh hoạt lao động, con người vong thân phải tạo ra những ư nghĩa sống dựa trên những ước mơ ảo tưởng, những thế giới huyền bí không thực để t́m một niềm an ủi, một lối thoát. Đó là những quan niệm triết lư, những tôn giáo, những triết lư và tôn giáo này chỉ là một h́nh thức vong thân khác bắt nguồn từ vong thân cần lao. Sự lầm than vật chất tạo ra lầm than tôn giáo “Lầm than tôn giáo một đằng vừa là biểu lộ của lầm than thực sự, là linh hồn của thế giới không hồn, cũng như là tinh thần của một thời đại thiếu tinh thần đó là thuốc phiện của dân chúng.
Vậy trong lối nh́n của Marx con người bị vong thân về kinh tế, trong sự làm việc, sẽ bị vong thân về toàn thể cuộc đời, v́ tất cả những xuất phát từ hoàn cảnh vong thân kinh tế căn bản trên như tư tưởng, nghệ thuật, t́nh cảm, tôn giáo… đều không thực, xa rời yếu tính thực sự của con người. Do đó, khái niệm vong thân mang một ư nghĩa luân lư v́ đă rơ khi ư thức được t́nh cảnh vong thân, con người không thể chấp nhận nó và phải t́m cách chấm dứt, xóa bỏ vong thân. Sở dĩ không thể chấp nhận t́nh cảnh vong thân, v́ con người là một vật đáng lẽ phải sống cho ḿnh, như thể bản thân, cuộc đời ḿnh là của ḿnh, thuộc về ḿnh th́ lại bị mất bản thân, ư nghĩa cuộc đời, phải sống cho người khác như thể bản thân, cuộc đời ḿnh không c̣n thuộc về ḿnh.
Khái niệm vong thân cũng c̣n đượm tính chất bi đát v́ sự phân ly đáng lẽ không thể phân ly. Con người bị vong thân không được sống cho ḿnh, trở thành một phương tiện, dụng cụ, thú vật, sống cho người khác, phục vụ người khác, nhưng nếu nó là phương tiện dụng cụ thực sự th́ không sao và cũng không có vong thân v́ phương tiện dụng cụ thiết yếu có cho con người, không có hiện hữu riêng, đằng này, con người bị giản lược vào vai tṛ dụng cụ nhưng vẫn là người, không phải dụng cụ, do đó mới có bi đát v́ một sự giản lược đáng lẽ không thể giản lược, một sự tách biệt đáng lẽ không thể tách biệt. Đó là cái bi đát của t́nh cảnh ly dị trong hôn nhân, một sự phân ly đáng lẽ ra thể phân ly. Cho nên đối với Marx vong thân không phải chỉ là một khái niệm triết học dùng để t́m hiểu cuộc đời và chỉ hiểu cuộc đời như một tri thức. Nhưng là một lợi khí tranh đấu cách mạng nhằm gây dựng ư thức cách mạng của người lao động bị vong thân và ư thức cách mạng đưa đến hành động cách mạng nhằm chấm dứt t́nh cảnh vong thân để thực hiện sự làm ḥa giữa người với người, giữa người với thiên nhiên và giữa người với chính ḿnh.
Chấm dứt t́nh cảnh phân ly là tiêu diệt những chế độ xă hội duy tŕ sự bóc lột sức lao động và một khi đă xóa bỏ được sự bóc lột lao động, nguồn gốc vong thân kinh tế, cũng sẽ xóa những vong thân tùy thuộc vào vong thân kinh tế như tôn giáo và triết lư chính trị.
Vong thân dựa trên bóc lột
Quan niệm của Marx về vong thân cho thấy sở dĩ con người bị vong thân là v́ có sự bóc lột kinh tế. Do đó vong thân dựa trên bóc lột kinh tế, nhưng vượt khỏi bóc lột kinh tế v́ bao gồm cả những hậu quả không có tính cách kinh tế (ư thức hệ, tôn giáo, triết lư, chính trị) do bóc lột kinh tế mà ra. Hiện tượng bóc lột kinh tế cũng không phải chỉ tạo ra những t́nh cảnh vong thân cho những người bị bóc lột mà cho cả những người bóc lột.
Những người bị bóc lột không phải chỉ ở giới lao động thợ thuyền mà bao gồm tất cả những người làm công, làm thuê hoặc bằng lao động chân tay như thợ thuyền, nông dan, đi ở thuê, nô lệ hoặc bằng lao động trí óc như thư kư, nhà văn, nghệ sĩ… cũng có thể dùng khái niệm vong thân dựa trên sự bóc lột kinh tế theo nghĩa của Marx để t́m hiểu hoàn cảnh của người dân thuộc địa và thân phận người gái điếm.
Người làm công
Người làm công có thể rơi vào t́nh cảnh vong thân khi bị bóc lột sức lao động. Người làm công là người không có dụng cụ sản xuất, không phải là chủ (chủ đất, ruộng, vườn…), phương tiện giao thông như ô tô, xe lửa, xe đ̣… hoặc không có vốn nển chỉ có thể đi làm thuê, nghĩa là bán sức lao động, đổi chác sự làm việc để sinh sống. Có bóc lột lao động khi quan hệ chủ người làm công không hợp lư, bất công. Người làm công bị bóc lột khi làm mà không được hưởng kết quả sự làm việc của ḿnh, hoặc được hưởng không tương xứng với công lao của ḿnh hoặc trầm trọng hơn nữa, không được làm v́ quyền quyết định ở trong tay người chủ, người thuê.
T́nh cảnh trên thường trở thành tất yếu, người làm công không không chấp nhận quyết định của người thuê ḿnh mặc dù việc thuê mướn bất công là bóc lột, v́ không có cách nào khác để sinh sống, t́nh cảnh bóc lột cũng có thể kéo dài và trở thành thường xuyên, trường kỳ.
Người làm công bị bóc lột buộc phải chấp nhận sự bóc lột, nhưng vẫn t́m một lối thoát. Lối thoát đó không phải đẻ lôi kéo người bị bóc lột ra khỏi t́nh cảnh bóc lột mà chỉ làm cho họ chấp nhận t́nh cảnh đó bằng cách biện hộ cho nó, để người làm công bị bóc lột có thể sống bằng chịu đựng. Ư nghĩa đó không thay đổi cuộc đời bị bóc lột mà chỉ biện hộ cho nó mà thôi, nghĩa là nhằm duy tŕ nó, củng cố nó. Chẳng hạn một gia đ́nh nông dân nghèo túng ở thôn quê, người chồng đi cày cấy thuê, v́ nhà nghèo không có lấy một mảnh ruộng. Làm suốt ngày, quanh năm mà vẫn không đủ ăn. Người vợ cũng phải đi làm mướn, con cái đông, đứa gái lớn ở nhà giúp cha mẹ, c̣n đứa nhỏ phải cho đi làm công trong một gia đ́nh ngoài tỉnh. Nhà cửa túng bấn, con cái đau ốm luôn, hai ba đứa nhỏ mới sinh bị bệnh chết, những đứa lớn không được đi học v́ không có tiền trả học phí và phải làm đỡ những việc lặt vặt… Trong làng, gia đ́nh thuộc thành phần cùng đinh không có chức vụ ǵ thường bị khinh bỉ, đôi khi c̣n bị bắt nạt, áp bức, uất ức, tủi nhục, nhưng không làm ǵ được v́ thấp cổ bé họng.
Tuy nhiên, cuộc sống nghèo cực đen tối, lầm than đó rút cuộc gia đ́nh vẫn ráng chịu đựng và t́m an ủi trong những quan niệm sống có thể làm cho gia đ́nh bằng long với số phận ḿnh. Hoặc gia đ́nh tin rằng đó là cái số trời đă định cho ḿnh, nên đành phải chịu v́ làm sao có thể chống lại được số trời. Hoặc gia đ́nh theo thuyết luân hồi, cho rằng sở dĩ kiếp này ḿnh khổ v́ kiếp trước đă ăn ở không lương thiện nên đành phải chịu quả báo. Hoặc gia đ́nh theo những tôn giáo tin có đời sau hạnh phúc và đời này nếu có khổ cực th́ chẳng qua đó chỉ là sự thử thách lập công để xứng đáng được phúc đời sau. Hoặc gia đ́nh nghĩ rằng ḿnh nghèo từ đời cha ông trở về trước, cả họ tổ tiên của ḿnh vẫn nghèo đói, nên bây giờ gia đ́nh nghèo là điều tự nhiên có ǵ phải than trách. Những lối thoát trên biện hộ cho sức bóc lột và duy tŕ nó v́ gia đ́nh đă tưởng sự lầm thancuar ḿnh bắt nguồn từ những lư do trên. Gia đ́nh rơi vào t́nh cảnh vong thân. Vong thân dặ trên sự bóc lột kinh tế, nhưng vượt sự bóc lột v́ bao quát cả những hậu quả do sự bóc lột gây ra. Gia đ́nh trên đă bị vong thân v́ không thấy rằng sở dĩ ḿnh bị nghèo túng không phải tại trời phật, số kiếp ǵ cả mà chỉ tại một chế độ xă hội bất công, một quan hệ sản xuất không hợp lư và có thể chấm dứt được sự nghèo túng cùng khổ nếu xóa bỏ quan hệ sản xuất không hợp lư và chế độ xă hội bất công.
Vong thân trầm trọng, bi đát hơn sự bóc lột v́ người bị bóc lột không biết ḿnh bị bóc lột và bằng ḷng chấp nhận sự bóc lột do những niềm tin này nọ. Do đó để giải tỏa sự uất ức, bất măn, để đề pḥng sự phản kháng, nổi loạn cách mạng, của người nô lệ người bị bóc lột, không cần nhà tù, lính canh vơ lực v́ chính người nô lệ, người bị bóc lột đă tự cầm tù ḿnh, tự giam hăm ḿnh trong t́nh trạng lầm than đen tối bằng những niềm tin quan niệm vong thân.
Con người bị vong thân hoàn toàn, v́ sống trong một hoàn cảnh phi nân, trong những niềm tin huyền diệu mà vẫn tưởng đó là hoàn cảnh tự nhiên, ư nghĩa cuộc đời thực sự của ḿnh.
Không phải chỉ những người lao động chân tay mới bị vong thân mà cả những người lao động trí óc, làm những nghề vẫn gọi là tự do, hơn nữa chính t́nh cảnh vong thân của những người lao động trí thức này mới trầm trọng v́ h́nh thức vong thân tế nhị tinh vi hơn. Người lao động trí óc như nhà biên khảo, người văn nghệ sĩ, nghệ công, nhà giáo, quan ṭa, luật sư… sáng tạo ra sản phẩm tinh thần, một giá trị luận lư nghệ thuật… Do đó có thể in ḿnh đă thực hiện được cái phần cao quư nhất của con người, cái giá trị tốt đẹp nhất của địa vị làm người, đă phục vụ được nhân loại, chân lư, nghệ thuật chân chính… nhưng nếu một người lao động trí óc không có phương tiện tự túc để sáng tác, không đủ điều kiện để sinh sống và phải làm ăn trong một chế độ xă hội coi tham vọng là động cơ và lấy tư liệu làm mục đích, một người lao động trí óc cũng chỉ có thể là một người làm công, làm thuê, bán sức lao động của ḿnh cho kẻ khác do đó cũng bị tách kho kết quả sự làm việc trí thức của ḿnh và đánh mất bản thân trong sự làm việc, v́ sự làm việc không thực sự phát huy những vẻ đẹp, giá trị cao quư của con người như ḿnh tin tưởng, mà chỉ phục vụ cho những mục tiêu của người khác dựa trên ích kỷ tư lợi, tham vọng… Chẳng hạn một người viết sách v́ không có phương tiện, phản bán tác phẩm cho một nhà xuất bản. Nhà xuất bản, nhà in là một nhà buôn và nhà buôn trong một xă hội lấy tư lợi làm cứu cánh sẽ không xét sách có phản ứng chân lư hay không và có đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cái ǵ nói trong sách không quan hệ bằng cái đó có bán được hay không, nghĩa là món hàng sách có giá hay không và có giá ở đây không phải là giá trí tự tại của nó, giá trị vô giá của tinh thần mà là giá theo khả năng đáp ứng thị hiếu của xă hội bị vong thân trong ṿng cạnh tranh của tư lợi.
Do đó, người viết không được tự do viết cái ǵ ḿnh muốn, mà chỉ được tự do viết cái ǵ mà nhà buôn sách yêu cầu, nghĩa là những ǵ xă hội muốn v́ hoặc là không có tiền in sách, hoặc là có tiền in nhưng không có người mua.
Viết theo đ̣i hỏi “phiếu đặt hàng” của nhà buôn sách, theo thị hiếu của xă hội, người lao động trí óc chẳng qua cũng chỉ là một người làm công, làm thuê của nhà xuất bản và ít khi có quyền quyết định về giá cả tác phẩm, nghĩa là được hưởng xứng đáng kết quả sự làm việc của ḿnh và nhất là sự làm việc không nhằm thực hiện những mục tiêu cao đẹp mà ḿnh mong muốn.
Hoặc nhà xuất bản, nghĩa là xă hội, dựa trên tư lợi có thể đón nhận thứ tác phẩm chẳng những không chiều theo thị hiếu xă hội mà c̣n tố cáo, phản kháng, chống đối xă hội. Nhưng trong trường hợp này, sự chấp nhận thực ra cũng chỉ biểu lộ một đ̣i hỏi, nhu cầu đặc biệt của xă hội đó mà thôi. Xă hội, nhất là những thế lực chính trị, kinh tài chi phối xă hội đó không sự ǵ món hàng văn hóa đối lập mà c̣n coi nó rất hữu ích v́ nó biện hộ cho chế độ bằng cách che dấu nền tảng phi nhân dựa trên những giá trị tinh thần, luân lư cao cả giả tạo. Xă hội không sợ thứ hàng văn hóa phản kháng v́ nó chẳng nguy hại ǵ, trái lại xă hội có thể tự hào v́ đă để cho những món hàng đó ra đời, phổ biến truyền thống đề cao những giá trị đạo đức, những lư tưởng cao quư.
Xă hội không những để mặc mà c̣n ca tụng người trí thức v́ thái độ trí thức cao cả của họ mời họ dự những buổi tiếp tân, tiệc trà để chứng tỏ xă hội chấp nhận, quư trọng họ, xă hội xử như thế hẳn là khéo léo hơn cấm đoán hoặc bỏ tù họ và đằng khác cũng hiệu nghiệm hơn v́ để tạo cho người trí thức những niềm tin, để họ tự giam hăm họ trong những niềm tin ảo tưởng đó. Người tri thức sẽ thấy ḿnh quan trọng, sẽ tự nhận đóng vai tṛ cao cả trong xă hội.
Người lao động trí óc bị bóc lột và bị vong thân v́ không thấy rằng ḿnh thực sự phục vụ cho một chế độ phi nhân trên phương diện văn hóa, ư thức hệ, đóng vai tṛ biện hộ cho nó và cũng không biết rằng ḿnh chỉ đă lấy sự bất lực hèn kém của ḿnh làm sự cao cả và niềm hănh diện.
Cho nên, trong một xă hội vong thân v́ những quan hệ giữa người với người về hoạt động kinh tế đă bị chi phối bởi mục đích tư lợi dưới h́nh thức bóc lột không c̣n có nghề ǵ tránh khỏi cảnh vong thân, kể cả những nghề lao động trí óc v́ những nghề đó không thể tự lập, biệt lập với đời sống kinh tế, sinh hoạt sản xuất để chỉ phục vụ tinh thần đạo lư, mà phải bám víu vào sinh hoạt sản xuất và chịu sự chi phối của nó.
Trước Marx, Adam Smith nhà kinh tế người Anh đă tỏ vẻ khinh bỉ những nghề mệnh danh là “cao cả” và không ngần ngại châm biếm, chế diễu khi đề cập đến người công chức, quân nhân, nghệ sĩ, linh mục, quan ṭa, luật sư mà ông so sánh công việc của họ giống công việc của người ở giúp việc trong nhà, nghĩa là những người làm thuê.
Đến Marx, Marx phô bày những liên hệ giữa những nghề cao cả với những tệ đoan xă hội là nền tảng đồng thời cũng là lư do tồn tại của những nghề cao cả đó. Marx đă gắn liền những nghề trên với những lầm than do một xă hội vong thân đẻ ra. Hơn nữa, chính những lầm than đó nuôi dưỡng những nghề cao cả trên “Người ta có thể nói bệnh tật tạo ra thầy thuốc, sự ngu dân tạo ra giáo sư nhà văn, sự tầm thường tạo ra thi sĩ và họa sĩ, sự vô luân nhà luân lư, sự mê tín nhà tu giảng thuyết và sự bất an vua chúa quan quyền”.
Marx đă lấy một ví dụ điển h́nh để bày tỏ mối liên hệ giữa một hiện tượng sa đọa xă hội với tất cả những nghề cao cả sống nhờ hiện tượng đó, đó là hiện tượng tội phạm “Nhà triết học tạo ra tư tưởng, nhà thi sĩ tạo ra thơ, ông mục sư tạo ra bài giảng và nhà giáo những lời biên khảo… cũng như phạm nhân tạo ra tội phạm. Phạm nhân không những tạo ra tội phạm mà c̣n tạo ra h́nh luật, và do đó, giáo sư dạy h́nh luật và đến cả bộ sách không thể tránh được mà vị giáo sư đă dùng h́nh để tung giảng khóa của ḿnh ra thị trường với tư cách là một món hàng.
Cũng như cả một hệ thống tư pháp, cảnh sát dựa trên sự hiện hữu của tội phạm và phạm nhân, cả một ngành sáng tác văn học nghệ thuật t́m nguồn cảm hứng trong những xúc động luân lư và thẩm mỹ mà phạm nhân đă gợi ở nơi quần chúng. Tội phạm trở thành một động lực thúc đẩy tăng gia sản xuất, tạo điều kiện cho xă hội trưởng giả giải quyết được một phần nhân số không có công ăn việc làm bằng cách cho họ các nghề chống lại tội phạm và phạm nhân.
“Bằng những cách xâm phạm luôn luôn đến tư hữu, tội phạm luôn luôn gây tạo những biện pháp bảo vệ mới và những hậu quả của những biện pháp đó cũng có tính cách sản xuất như những vụ đ́nh công tác dụng trên việc sáng chế máy móc”.
Người gái điếm
Người đàn bà bị vong thân trong hoàn cảnh phái tính của ḿnh khi tất cả con người chỉ c̣n là một cái xác, một xác thịt đối tượng của cái nh́n, dụng cụ thỏa măn dục tính của người khác. Người đàn bà v́ nhu cầu sinh sống, phải làm việc bằng cách bán thân xác ḿnh cho người khác như một món hàng theo giá thị trường: Cung nhiều cầu ít, giá rẻ, cung ít cầu nhiều, giá cao. Có nhiều cách bán, trước hết bán dưới h́nh thức phô trương, biểu diễn thân xác trong những trường hợp: hoa hậu, đào kép, minh tinh… Những chủ hăng phim, pḥng trà, tiệm nhảy khai thác thân xác đàn bà như một cái vốn để hốt bạc. Họ là bọn con buôn, buôn một thứ hàng đặc biệt là thịt người đàn bà, ngụy trang sau bộ mặt tŕnh diễn nghệ thuật, nhưng thật ra chẳng có nghệ thuật ǵ cả. Nghệ thuật chân chính dùng thân xác để biểu lộ một t́nh tự, một ư tưởng, để người xem ngắm nh́n thưởng thức bộ mông, bộ ngực, đùi người đàn bà như một xác thịt…
Cách bán thân đồi trụy hơn cả là hiến thân. Ở đây thân xác không c̣n phải chỉ là đối tượng để nh́n ngắm mà c̣n là phương tiện thỏa măn dục tính của người đàn ông mua dâm.
Dục tính không c̣n nhằm phát huy con người như một mục đích trong quan hệ hôn nhân, gia đ́nh, mà trở thành thú tính thuần túy giản lược con người vào hàng thú vật.
Người đàn bà đĩ điếm bị vong thân v́ đă mất tư cách làm người, v́ thân xác, điều kiện ở đời và làm người của ḿnh đă trở thành sở hữu của người khác. Vong thân, v́ thân xác không c̣n là xác tôi, tôi là thân xác tôi, tôi hiện hữu trong thân xác tôi, như là tôi, nhưng chỉ c̣n là cái xác cho người khác.
Thực ra vong thân về thân xác cũng thường bắt nguồn từ bóc lột kinh tế. Chỉ thay đổi đối tượng, một đằng là thân xác, một đằng là sức lao động.
Người giàu có
Khái niệm vong thân giả thiết khái niệm có cho ḿnh như là giá trị và vong thân là đánh mất, bị mất cái có đó. Cái hiểu như bản thân, bản ngă, hữu thể là dự phóng nguồn gốc những cái có như dụng cụ, đồ dùng, của cải.
Người bị vong thân là người bị bóc lột những cái ǵ do họ làm ra , đồng thời cũng bị bóc lột cả cái đó là bản thân hữu thể, nguồn gốc những cái có, v́ sự làm việc là yếu tính của hữu thể, của con người cũng như quê hương, đất nước, hoàn cảnh sinh sống ngôn ngữ và thân xác là những cái thiết thân, gắn bó với con người, với hữu thể v́ một người không thể sống không có quê hương, ngôn ngữ và thân xác.
Nhưng không phải chỉ người bị bóc lột cả về cái có lẫn cái thiết thân, bản thân rơi vào t́nh cảnh vong thân, mà cả người bị bóc lột. Người bóc lột trở thành giàu có bị vong thân v́ những cái họ có do bóc lột người khác (đồng tiền của cải) đồng thời của dự định bóc lột, tham vọng chiếm đoạt gắn liền với bản thân, hữu thể của họ, là nguồn gốc sự bóc lột.
Nguồn tạp chí Triết học
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.