֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong giòng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ Tìm IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lý
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học ֎ Báo Chí
֎ Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt
֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập
֎ Ngô Đình Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD
֎ Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Trò Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Nov/2018. Dec/2018. Jan/2019
Nguyễn Đăng Na
Bình Ngô đại cáo là
tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với
lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát
triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp
một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh
hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên
thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã trở thành tác
phẩm cổ điển sớm đi vào sách giáo khoa từ trung học cơ sở đến phổ
thông trung học và được giảng dạy ở tất cả các trường cao đẳng, đại
học ngành khoa học xã hội – nhân văn. Với vị trí như vậy,Bình Ngô
đại cáo (BNĐC) cần được nghiên cứu một cách thấu đáo từvăn bản,
dịch bản đến chú giải. Mặc dù suốt thế kỉ XX các nhà nghiên cứu đã
đổ khá nhiều công sức vào nghiên cứu BNĐC, nhưng tới nay, không phải
chẳng còn gì để bàn. Trong hai bài trước(1), chúng tôi đã giải quyết
ba vấn đề:
1- Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản
kỉ thực lục sách Đại Việt sử kí toàn thư(2) là văn bản có
độ tin cậy nhất. Tại văn bản này, không có câu “Đại Thiên Hành Hóa
hoàng thượng nhược vân”. Câu “Đại Thiên… nhược vân” là lời mào đầu
của viên hoạn quan, nói trước khi truyền chỉ.
2- Bốn chữ “Đại Thiên Hành Hóa” [代
天
行
化
] là hiệu của Lê Lợi do các tướng sĩ tôn xưng ngài sau chiến thắng
Tân Bình – Thuận
Hóa năm Ất Tị 1425. Theo Toàn thư , tôn hiệu trên được dùng
cho tới tháng 12 năm Đinh Mùi 1427 khi quân ta đại thắng giặc Minh.
Sau đấy, Lê Lợi lên ngôi, không dùng tôn hiệu đó nữa, mà thay bằng
niên hiệu Thuận Thiên [
順
天
].
3- Bản mà lâu nay các sách như Tổng tập
văn học Việt Nam, Tuyển tập văn học Việt Nam, sách giáo khoa Văn
học 9, Văn học 10… vẫn ghi là Bùi Kỉ dịch, thực ra không phải.
Đấy là bản Trần Trọng Kim dịch, in trong Việt Nam sử lược từ
năm 1919. Nguyên nhân có sự nhầm lẫn này là, Dương Quảng Hàm hiểu
lầm ghi chú của Bùi Kỉ in trong Quốc văn cụ thể (3) năm 1932.
Trên cơ sở hai bài viết trước, ở bài này
chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề khác: một số chữ nghĩa trong BNĐC. Về
chữ nghĩa bài BNĐC quả là còn nhiều việc phải làm. Trong khuôn khổ
một bài viết, chúng tôi chỉ đề cập tới cách hiểu nhan đề bài cáo và
cụm từ máu chảy trôi chày.Những chữ còn lại, xin để dịp khác.
1/ Cách hiểu nhan đề Bình Ngô đại cáo
BNĐC là tác phẩm văn học chức năng hành chính. Một quy tắc tuy không
thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải tuân thủ là, ngay trong
nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng. Nguyên tắc này
dường như bất di bất dịch đối với tất cả tác phẩm văn học chức năng
(hành chính và lễ nghi). Ta có thể lấy một số tên tác phẩm văn học
chức năng hành chính Việt Nam thế kỉ X – XIV làm ví dụ. Chẳng hạn
các tác phẩm Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn, Dụ chư
tì tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn, Thất trảm sớ của
Chu An… Những chữ đứng cuối tác phẩm đã chỉ cho người đọc biết thể
loại của chúng, như: ‘chiếu’ [
詔
], ‘hịch
văn’
[
檄
文
], ‘sớ’
[疏]…
Nhan đề bài Bình
Ngô đại cáo cũng
không nằm ngoài quy luật ấy. Cho nên, hai chữ “đại cáo” sẽ là thể
loại tác phẩm của Nguyễn Trãi
Vậy “đại cáo” là gì ?
Các nhà biên soạn sách giáo khoa hiện hành(4)
có hai cách giải thích khác nhau. Soạn giả Văn học 10 cho
rằng, Bình Ngô đại cáo “dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng
rãi về việc dẹp yên giặc Ngô”; rồi bổ sung thêm: “bài này viết theo
thể cáo”(5). Cách giải thích trên cho thấy, “đại cáo” là một cụm từ,
trong đó ‘đại’ là “rộng rãi”, còn ‘cáo’ là “tuyên cáo” – nó vừa là
động từ, vừa là danh từ chỉ thể loại tác phẩm. Soạn giả Văn học 9 thì
giải thích khác: “ Bình Ngô đại cáo là bài cáo có quy mô lớn,
nói việc dẹp yên giặc Ngô”(6). Như vậy, “đại cáo” vẫn là một cụm từ,
ở đó, ‘cáo’ là danh từ chỉ thể loại, ‘đại’ phản ánh “quy mô” tác
phẩm: lớn.
Thế thì, “đại cáo” trong BNĐC thực chất là
cụm từ hay một từ ? Nếu là cụm từ, chúng thuộc cụm danh từ hay cụm
động từ ? Và, ‘đại’ dùng để nói về tính phổ biến “rộng rãi” hay “quy
mô” tác phẩm?
Trong Hán ngữ có hai chữ ‘cáo’: một chữ không bộ ngôn [告]
và một chữ có bộ ngôn [
誥
]
Chữ ‘cáo’ không bộ ngôn [告]
dùng cho kẻ dưới trình lên bề trên và thường làm động từ; chữ ‘cáo’
có
bộ ngôn [誥]
dùng để bề trên ban xuống kẻ dưới và thường làm danh từ. Tuy nhiên,
không phải lúc nào người viết cũng phân biệt rạch ròi như vậy, trừ
những văn bản văn học chức năng hành chính hoặc lễ nghi. Hơn nữa, cả
hai chữ ‘cáo’ nói trên đều có thể đứng
sau chữ ‘đại’ để thành “đại cáo”. Chẳng hạn, thiên Vũ Thành trong Kinh
Thư có đoạn: “Việt tam nhật Canh Tuất, Sài Vọng, đại cáo [大
告]
vũ thành” – “sau ba ngày là ngày Canh Tuất, làm lễ Sài, lễ Vọng,
kính cáo (đại cáo) việc võ đã thành công”(7). Hai chữ “đại
cáo” ở câu trên, Thẩm Quỳnh dịch là “kính cáo”(7), còn Nhượng Tống
dịch là “cả tâu.”(8) Trong trường hợp này, hai ông đều hiểu ‘cáo’ [告]
là động từ, ‘đại’ [大]làm
trạng ngữ.
Chữ ‘cáo’ có bộ ngôn [
誥
] thường dùng để chỉ thể loại văn học, khi kết hợp với ‘đại’
sẽ thành “đại cáo” [
大
誥
]. Nguyễn Trãi dùng hai chữ đại cáo [大
誥]
này để chỉ thể loại tác phẩm của mình. Các sáchToàn
thư, Hoàng Việt văn tuyển(9)…
đều xác nhận như vậy và ghi :
平
吳
大
誥
(Bình
Ngô đại cáo).
Vậy “đại cáo” [大
誥]
là thể loại gì và ý nghĩa
của nó ?
Hán ngữ đại từ điển giải thích: “đại cáo [
大
誥
] là tên một thiên trong sách Thượng
Thư. Lời
tựa thiên Đại cáo có đoạn: ‘Vũ vương mất, Tam Giám cùng Hoài
di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà Ân, viết Đại
cáo’. Khổng truyện rằng, ‘Trình bày đại đạo [大
道]
để cáo [誥]
với thiên hạ (trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên’,
sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cáo [典
誥
].”(10) Như vậy, ban đầu, “đại cáo” [大
誥]
do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh
”trần ‘đại’ đạo dĩ ‘cáo’ thiên hạ” ghép lại, dùng để gọi tên một
thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt
của thể cáo.
Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu
của Trung Hoa cổ đại.
“Đại cáo” còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa
này cũng không kém phần quan trọng: “Văn kiện pháp luật ban bố năm
Hồng Vũ thứ 18 thời Minh”(11) gọi là Đại cáo. Hồng Vũ [
洪
武
] là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương [
朱
元
璋
] – người khai sáng ra nhà Minh, làm Hoàng đế Trung Hoa những
năm 1368 – 1398.
Dựa vào hai nghĩa mà Hán ngữ đại từ điển đã
nêu ra, chúng ta hãy xem, Nguyễn Trãi dùng hai chữ “đại cáo” đặt
trong nhan đề tác phẩm của mình nhằm mục đích gì và có ý nghĩa như
thế nào?
Thứ nhất, chiến thắng giặc Minh là sự kiện quan trọng, là bước ngoặc
vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ đánh dấu sự thất bại thảm
hại của các thế lực hung tàn và cường bạo, mà còn khẳng định sự tất
thắng của một dân tộc biết lấy đại nghĩa và chí nhân làm nền tảng tư
tưởng. Vì thế, Nguyễn Trãi muốn nhân dịp này, bày tỏ để nhân loại
thấy cái, “đại đạo” [大
道]
– đạo lí lớn nhất của Việt Nam là, “đem đại nghĩa thắng hung tàn,
lấy chí nhân thay cường bạo”, đúng như lời ghi trong Khổng
truyện: “trần đại đạo
dĩ cáo thiên hạ”. Đây vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi, vừa là mục đích mà thiên Đại cáo ở
sách Thượng Thư – một trong năm bộ “kinh” ( Ngũ Kinh)
của Trung Hoa cổ đại hằng dương cao. Xa rời mục đích ấy, ta không
thể hiểu thấu đáo tư tưởng chủ đạo bài cáo của Nguyễn Trãi. Khi đi
đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo; bình xong giặc
Ngô, Lê Lợi cũng tuyên Đại cáo. Tác giả muốn sánh Lê Lợi với
Chu Thành Vương, quân sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và muốn bài cáo
bình Ngô của thời đại ông mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại
cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.
Vì sao Chu Thành Vương phải đánh Vũ Canh ?
Bởi, y là tên phản chủ, kẻ phản phúc ! Sách Kinh Thư kể rằng,
sau khi diệt xong Thương Vương Trụ tàn bạo, Chu Vũ Vương – cha của
Chu Thành Vương vẫn thương tình, phong cho con trai Trụ Vương là Vũ
Canh làm vua nước Ân. Khi Vũ Vương qua đời, con nối ngôi là Chu
Thành Vương còn nhỏ. Trước hoàn cảnh đó, Tam giám gồm, Quản Thúc,
Thái Thúc và Hoắc Thúc nổi loạn. Vũ Canh bèn liên kết với các tộc Di
ở phía đông, hùa theo Tam Giám, đem quân đánh Thành Vương, phản lại
nhà Chu. Cuộc bình Ngô của Lê Lợi cũng mang ý nghĩa như việc Thành
Vương diệt Vũ Canh. Đấy là ý thứ nhất của hai chữ “đại cáo” mà
Nguyễn Trãi dùng cho bài bình Ngô ở thời đại ông.
Thứ hai, Nguyễn Trãi viết bài Cáo bình Ngô khoảng
cuối năm 1427 – đầu 1428, sau văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban
bố năm Hồng Vũ 18 (1365) tới hơn bốn mươi năm. Điều đó cho thấy, khi
viết bài cáo, Nguyễn Trãi hoàn toàn biết có sự kiện Chu Nguyên
Chương ban bốĐại cáo. Minh sử ghi: “Minh Thái Tổ đã
định xong ‘luật lệnh’, các quan hữu ti tuân thủ thi hành. Nhưng
những kẻ phạm pháp ngày càng nhiều, bèn lệnh cho thu thập các sai
phạm của quan và dân, chia ra từng điều, làm thành Đại cáo, gồm 10
mục. Tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 18, Đại cáo hoàn thành, gồm 74 điều.
Lệnh ban xuống cho các trường học phải đem ra để dạy sĩ tử; còn ở
làng quê thì đặt các trường tư, thuê thầy dạy”. Không những vậy, Chu
Nguyên Chương còn khuyến khích mọi người đọc, học Đại cáo bằng
lệnh: “Những ai đang bị tù đày mà đọc được Đại cáo thì sẽ
giảm tội”. Năm sau – 1386, Chu Nguyên Chương lại ban Đại cáo tục
biên, gồm 87 điều, Đại cáo tam biên 43 điều. Như vậy là,
trong hai năm liền, Minh Thái Tổ đã liên tiếp ba lần ban Đại cáo, tổng
cộng 204 điều. Tiếp theo, năm sau – Hồng Vũ thứ 20 (1387), Minh Thái
Tổ lại ban Đại cáo vũ thần. Xem thế đủ biết, “Đại cáo” chính
biên, tục biên, tam biên và vũ thần của ông Thái Tổ nhà
Minh cực kì quan trọng thật! Ông bắt tất cả mọi người, từ thành thị
tới nông thôn, từ quan đến dân, từ văn đến võ, từ sĩ tử tới “phó
thường dân”…, ai ai cũng phải đọc, phải học, phải thấm nhuần và quán
triệt tinh thần của Đại cáo. Lớp học Đại cáo mở tới
tận làng quê, thậm chí, biết đọc Đại cáo là tiêu chuẩn xét
giảm án và ân xá cho các phạm nhân. Thế mà, nay Nguyễn Trãi gọi bài
“bình Ngô” do mình soạn thảo là “Đại cáo”! Rõ ràng, ông muốn người
đọc thấy rằng, bài cáo mà mình thay mặt dân tộc viết ra, chính là
một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với
văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố ròng rã suốt ba năm: Hồng
Vũ 18, Hồng Vũ 19, Hồng Vũ 20. Đặt pháp luật Đại cáo để thống
nhất đất nước, để cai trị nhân dân, để diệt trừ tội ác… Lẽ ra, văn
kiện pháp luật Đại cáo của người sáng lập nhà Minh phải tượng
trưng cho uy quyền và là công cụ bảo vệ nhà Minh. Nhưng, ở Việt Nam,
ngược lại, nó dùng để “bình Ngô”!
Ngô là ai ? Dụng ý của Nguyễn Trãi khi dùng
hai chữ “bình Ngô” ?
Không nên hiểu ‘Ngô’ theo hai cách như soạn
giả Văn học 10 đã nêu ra(12). Ngô là nước Ngô, người Ngô,
giặc Ngô! Vâng ! Nhưng nguồn gốc của chữ ‘Ngô’ từ đâu ra ?
Chu Nguyên Chương gốc người Hào Châu [
濠
州
](13) mà, Hào Châu xưa, thuộc đất Ngô. Vì thế, ‘Ngô’ chính là quê
cha đất tổ của người sáng lập ra nhà Đại Minh:
Thái Tổ Chu Nguyên Chương ! Hơn nữa, khi sự nghiệp đang trên đà
thắng lợi (chiếm xong lộ Tập Khánh), năm 1356, Chu Nguyên Chương
xưng Ngô Quốc công [
吳
國
公
], ý muốn nhắc tới nguồn gốc của mình: người đất Ngô. Tám
năm sau, khi sự nghiệp sắp thành công, ông cải xưng là Ngô Vương [
吳
王
], ý muốn hồi cố và ước mơ sự nghiệp của mình sánh với nước Ngô thời
cực thịnh dưới quyền Ngô Vương Hạp Lư đánh tan nước Sở hùng mạnh,
truyền ngôi cho con là Ngô Vương Phù Sai; Phù Sai lại diệt nước
Việt, cầm tù Việt Vương
Câu Tiễn…
Bởi vậy, Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Minh Thái Tổ khi chưa lên
ngôi: Ngô Quốc công, Ngô Vương; vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của
người khai sáng ra nhà Đại Minh: Chu Nguyên Chương! “Bình Ngô” là
“bình” tận gốc rễ họ Chu – Thái Tổ nhà Minh. Ba đời vua Minh xâm
lược nước ta là, Thành Tổ Chu Đệ, Nhân Tông Chu Cao Xí, Tuyên Tông
Chu Chiêm Cơ Tuyên Đức. Nếu kể từ thái Tổ Chu Nguyên Chương, Tuyên
Đức là đời vua Minh thứ năm. Hai chữ “Đại cáo” nói riêng, nhan đề Bình
Ngô đại cáo [平
吳
大
誥]
nói chung,
mang ý nghĩa thâm thúy và sâu sắc như vậy. Nắm được ý nghĩa nhan đề
BNĐC là nắm được tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.
2/ Máu chảy trôi chày
Tôi còn nhớ, khoảng trên dưới mười năm về trước có cuộc thảo luận
khá sôi nổi và kéo dài về cách hiểu bốn chữ “máu chảy trôi chày”.
Mọi người dường như thống nhất với nhau rằng, ‘chày’ được dịch từ
chữ ‘chử’. Trong Hán ngữ, về cơ bản, ‘chử’ [杵]
có nghĩa là cái chày.Nhưng là cái chày gì, dùng để giã gạo, hay cái
chày nói chung như, chày đập vải, chày giã thuốc, giã trầu,
hoặc một loại vũ khí thời xưa giống hình cái chày…, thì quả thực,
mọi người chưa hoàn toàn nhất chí. Ngay cả khi đã là cái chày rồi,
cuộc thảo luận vẫn chưa chấm dứt bởi, người thì bảo nó là cái chày
giã gạo bằng chân; người lại nói, là cái chày giã gạo bằng nước ở
miền núi… Cuối cùng, khi làm sách giáo khoa, soạn giả Văn 10 chú
giải cho học sinh như sau: Máu chảy trôi chày là, “máu đổ ra nhiều
quá thành suối khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi”(14). Có
đúng như thế không? Để hiểu đầy đủ vấn đề, chúng tôi thiết nghĩ,
trước hết phải đọc lại văn bản BNĐC, đặng từ đó, bám vào chữ nghĩa
của Nguyễn Trãi mà bàn, mà phân tích !
Đoạn có cụm từ được dịch là ‘máu chảy trôi
chày’ của BNĐC trongToàn thư và Hoàng Việt văn tuyển đều
thống nhất ghi:
“Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị
chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng(15).”
Hai vế đối nhau chỉnh chệ. Năm 1919 trong Việt
Nam sử lược, quyển Thượng, Trần Trọng Kim dịch là:
Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ
Thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa(16).
Khi đem BNĐC in lại vào sách Quốc văn cụ
thể(17) năm 1932, Bùi Kỉ vẫn giữ nguyên lời dịch của ông Trần.
Đến lượt mình, lúc sử dụng lại bản dịch của Trần Trọng Kim in ở sách
của Bùi Kỉ, năm 1943 trongViệt Nam văn học sử yếu(18), Dương
Quảng Hàm cũng không đổi thay gì hết. Vậy là, bản dịch của ông Trần
được các thế hệ sau dùng tới hơn 40 năm kể từ ngày nó ra đời năm
1919 cho tới những năm đầu thập niên 60 của thế kỉ XX. Có lẽ, vì
muốn giữ theo cấu trúc thể tứ lục, khi dịch, ông Trần đã lược mỗi vế
mất hai chữ “vị chi” và dịch thoát ý các chữ “chử phiêu”, “sơn
tích”. Phải chăng vì nhận thấy lời văn dịch của ông Trần chưa thật
sự lột tả hết ý của Nguyễn Trãi, nên năm 1962 khi Nhà xuất bản Văn
Hóa cho ra mắt độc giả bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập II: Văn
học Việt Nam thế kỉ X – XVII, các soạn giả đã chỉnh lí lại
thành:
Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông
nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen (19).
Rồi chú: “máu chảy trôi chày”: do chữ “huyết
lưu phiêu chử” ở Kinh Thư. Ý nói giặc bị chết nhiều” (20). Từ
đó, câu có cụm từ “máu chảy trôi chày” được thay thế lời dịch của
ông Trần và thản nhiên bước vào sách giáo khoa trong nhà trường. Rồi
cứ thế, một số người đã bám vào bốn chữ “máu chảy trôi chày” trong
bản dịch và lời chú “huyết lưu phiêu chử” mà trao đổi, mà tranh luận
một cách hùng hồn, sôi nổi, hào hứng và kéo dài, chẳng cần biết
Nguyễn Trãi đã viết như thế nào nữa. Bây giờ nhìn lại, tôi thực sự
lấy làm ngạc nhiên. Đúng là, một thời đã qua !
Như trên đã trình bày, Nguyễn Trãi chỉ viết
“Lãnh Câu chi huyết chử phiêu”, chứ đâu có viết “huyết lưu phiêu
chử” mà bỗng dưng thành “máu chảy trôi chày” để tranh luận, để trao
đổi ? Mà, giả sử, nguyên văn chữ Hán, cụ viết “huyết lưu phiêu chử”,
cũng chẳng thể dịch là “máu chảy trôi chày” được! Soạn giả Hợp
tuyển chỉ đúng khi cho biết xuất xứ cụm từ “huyết lưu phiêu chử”
từ Kinh Thư mà thôi. Nguyên văn đoạn có “huyết lưu phiêu chử”
trong Kinh Thư như sau, xin dẫn ra để bạn đọc tham khảo:
“Giáp Tí muội sảng, Thụ xuất kì lữ nhược lâm, hội vu Mục Dã, võng
hữu địch vu ngã sư; tiền đồ đảo qua công vu hậu dĩ bắc, huyết lưu
phiêu chử”. Nghĩa là, “ngày Giáp Tí, lúc rạng đông, vua Thụ kéo quân
đông như rừng, họp ở cánh đồng Mục Dã. Các binh sĩ không ai chống
lại quân ta, toán tiền phong ngược cả dáo lại đánh toán quân đi sau
rồi chạy(21), ‘huyết lưu phiêu chử’.” Ta thử hình dung xem, quân của
Thụ (Trụ) dù bị giết nhiều vô vàn đi chăng nữa (vì chúng đông “như
rừng”), nhưng làm sao máu đổ ra có thể “thành suối” để đến đỗi,
“khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi”, dù diễn đạt theo kiểu tu
từ ? Thật không thể hình dung nổi ! Vậy, mấu chốt vấn đề ở chỗ nào?
Có hai việc cần giải quyết.
Thứ nhất, cách hiểu chữ ‘chử’.
Trong Hán ngữ, ‘chử’ [杵]
có 6 nghĩa. Ngoài nghĩa thông dụng là “cái chày” dùng để giã đập các
vật, ‘chử’ còn thông nghĩa với ‘lỗ’ [櫓]. Hán
ngữ đại từ điển giải
thích, ‘chử’ thông nghĩa với ‘lỗ’ và: ‘lỗ’ [櫓],
cổ đại vũ khí trung đích thuẫn [
古
代
武
器
中
的
盾
]”(22)
– ‘lỗ’ là cái ‘mộc’, loại vũ khí thời xưa. Một thú vị nữa là, chính
các soạn giả từ điển lại lấy ngay Kinh Thư, nơi có cụm từ
“huyết lưu phiêu chử” để minh họa cho cách cắt nghĩa của mình. Các
soạn giả viết: “Thư, Vũ Thành: ‘Thụ xuất kì lữ nhược lâm, hội ư Mục
Dã… huyết lưu phiêu chử’”. Rồi, các soạn giả dùng sách Thuyết văn
giải tự của Hứa Thận, mục “bộ ‘mộc’ [木]”
để giải nghĩa: “ ‘lỗ’, đại thuẫn dã [
櫓,大
盾
也
]. Thanh, Đoàn Ngọc Tài chú: ‘lỗ’, hoặc giả ‘chử’ vi chi; ‘huyết lưu
phiêu chử’, tức ‘huyết
lưu phiêu lỗ’ dã”(22). Đoạn văn trên cho biết, ‘lỗ’ [櫓]
là cái mộc lớn. Ông Đoàn Ngọc Tài thời Thanh chú rằng, ‘lỗ’ do mượn
chữ ‘chử’; ‘huyết lưu phiêu chử’ là ‘huyết lưu phiêu lỗ’.
Thế là đã rõ! Mộc – một loại vũ khí thời xưa,
dùng để đỡ dáo đâm hoặc tên bắn. Mộc thì nhẹ, được làm bằng gỗ hoặc
da thú, có hình tròn, hình bầu dục, hình lưỡi mác hoặc hình chữ
nhật…, mặt quay ra phía ngoài để đỡ gươm đao, đỡ tên bắn có cấu tạo
cong như mặt đáy chảo. Với chất liệu nhẹ và cấu tạo như vậy, ‘lỗ’ có
thể nổi trôi theo dòng nước trong đó có máu của đối phương bị giết
chảy ra. Điều này dễ hiểu và phù hợp với thực tế.
Thứ hai, Nguyễn Trãi viết:
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị
chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Hai vế đối nhau từng chữ rất chỉnh. Mỗi vế gồm 12 âm tiết, chia
thành hai: nửa đầu (6 âm tiết) chỉ nguyên nhân, nửa sau (cũng 6 âm
tiết) chỉ kết quả. Ta có thể diễn giải như sau: Bởi “Lãnh Câu chi
huyết chử phiêu” khiến “giang thủy vị chi ô yết”; do “Đan Xá chi thi
sơn tích” khiến “dã thảo vị chi ân hồng”. Nửa đầu của mỗi vế (6 âm
tiết) lại theo cấu trúc 4 – 2: bốn âm tiết đầu làm chủ ngữ, hai âm
tiết sau làm vị ngữ. Chủ ngữ của‘chử phiêu’ là ‘Lãnh Câu chi huyết’;
chủ ngữ của‘sơn tích’ là ‘Đan Xá chi thi’. Lại nữa, trong ‘Lãnh Câu
chi huyết’ thì, ‘huyết’ là trung tâm ngữ; cũng như vậy, ‘thi’ làm
trung tâm ngữ cho ‘Đan Xá chi thi’. Nên lưu ý, “Lãnh Câu chi huyết”
là máu (giặc Minh) trong dòng nước Lãnh Câu; “Đan Xá chi thi” là xác
(giặc Minh chết) ở Đan Xá. ‘Sơn tích’ [山
積]
là, tích
lại như núi; ‘chử phiêu’ [杵
漂]
là làm trôi cái ‘chử’. Xác giặc ở Đan Xá chất lại như núi; máu giặc
đổ xuống Lãnh Câu làm cho trôi cái ‘chử’. Điều lạ là, ý tứ câu văn
của Nguyễn Trãi rõ ràng, nhưng lời dịch đọc lên nghe mâu thuẫn. Xin
đọc: “ Suối Lãnh Câu
máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc”. Vậy, Lãnh Câu
là suối hay sông ? Đã đành rằng, ‘câu’ [
溝
] là suối, nhưng ở đây nó là địa danh! Vả chăng, Nguyễn Trãi cũng
nói rõ ‘giang thủy’ [
江
水
] – nước sông, chứ đâu phải ‘câu thủy’ [
溝
水
] – nước
suối. Hai âm ‘giang’ [江]
và ‘câu’ [溝]
đều thanh bằng, do đó không phải vì thanh điệu mà Nguyễn Trãi phải
thay ‘câu’ bằng ‘giang’; hơn nữa, chúng lại không nằm ở vị trí gieo
vần, nên càng không phải vì ép vần hoặc ép thanh mà đổi ‘câu’ (suối)
thành ‘giang’
(sông). Trong một mệnh đề thôi, lúc thì ‘suối’, lúc lại ‘sông’, thế
mà, ta cứ thản nhiên nhồi vào đầu bao thế hệ học sinh từ 1962 đến
giờ. Thật tội nghiệp! Vế sau cũng thế: “Thành Đan Xá thây chất thành
núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”. Làm gì có ‘thành’ nào ở đây ? Xác chết
ở Đan Xá tích lại thành núi, vì việc đó mà cỏ ở ngoài đồng – dã thảo
[野草]
bị thẫm đỏ. Các chữ ‘Xá’ và ‘dã’ cũng tương tự trường hợp ‘câu’và
‘giang’ đã trình bày trên kia. Thì ra, đây là hai trận chiến: một
ở sông (giang) Lãnh Câu, một ở đồng (dã)
Đan Xá, hoặc một trận chiến phối hợp thủy lục: sông Lãnh Câu, đồng
Đan Xá.
Vì sao xẩy ra hiện tượng dịch như vậy ? Có lẽ
vì soạn giả Hợp tuyểnhiểu lầm văn của ông Trần ? Ông dịch:
“Suối máu Lãnh Câu” và “Thành xương Đan Xá”, thật là tuyệt vời. Phải
chăng bởi nhận thấy dịch ‘chử phiêu’ là ‘trôi chày’ hoặc ‘chày trôi’
chưa thật thỏa đáng, nên ông Trần muốn lẩn đi, dịch thoát, cốt giữ
ý: ‘Suối máu Lãnh Câu’. ‘Suối máu Lãnh Câu’ là máu ở Lãnh Câu nhiều
tựa suối. Như vậy, Lãnh Câu đâu phải suối ! ‘Thành xương Đan Xá’ là
xương giặc nhiều, chất lại tựa thành ở Đan Xá. Như vậy, Đan Xá đâu
phải thành. Có điều, ông đã thay chữ ‘thi’ (xác chết) bằng chữ
‘xương’. Do dịch thoát ý, hai chữ ‘suối’ và ‘thành’ của ông Trần bị
soạn giả Hợp tuyển hiểu nhầm, biến thành “ suối Lãnh Câu”,
“ thành Đan Xá”, khiến câu văn vừa sai lạc ý nghĩa của Nguyễn Trãi
và vừa mâu thuẫn. Bây giờ đến chữ ‘ô yết’ và ‘ân hồng’.
Dịch ‘Ô yết’ là ‘rền rĩ’ hoặc ‘nghẹn ngào’ đều được. Song, ‘Ô yết’ [
嗚
咽
] có hai nghĩa: một, chỉ tiếng khóc buồn
đau; hai, chỉ âm thanh bi thương trầm lắng. Nếu dịch ‘ô yết’ là
‘nghẹn ngào tiếng khóc’ thì hơi quá vì đã gộp cả nghĩa một và hai
của chúng lại. Trong văn cảnh, Nguyễn Trãi chủ yếu miêu tả nước chảy
làm cho những cái mộc bị trôi nổi va đập vào nhau phát ra âm thanh
trầm lắng, nghe thấy bi thương. “Ân hồng” dịch là “đầm đìa” thì chưa
rõ, nhưng dịch thành “Đầm đìa máu đen” lại hơi quá. Ân hồng [殷
紅]
dùng để chỉ màu đỏ thẫm, trong màu đỏ có pha sắc đen. ‘Ô yết’ và ‘ân
hồng’ đối nhau: một từ chỉ âm thanh, một từ
chỉ màu sắc, tạo nên khung cảnh thảm đạm của giặc Minh. Hơn nữa, nếu
dịch “giang thủy vị chi ô yết” và “dã thảo vị chi ân hồng” là “nước
sông nghẹn ngào tiếng khóc” và “cỏ nội đầm đìa máu đen” thì không
những thái quá như chúng tôi đã phân tích, mà mỗi vế bị bỏ mất hai
chữ rất quan trọng: “vị chi” [為之]
– vì việc đó mà… Chữ ‘chi’ [之]
là đại từ thay cho cả mệnh đề sáu chữ đứng trước: “Lãnh Câu chi
huyết chử phiêu”, “Đan Xá chi thi sơn tích”. Chúng là những nguyên
nhân khiến cho nước sông ‘ô yết’, cỏ đồng ‘ân
hồng’. Dĩ nhiên, dịch vừa sát nghĩa, vừa bảo đảm âm luật của thể
loại là một việc cực kì khó. Chúng tôi luôn biết rằng, nói bao giờ
cũng dễ hơn làm rất nhiều, nhưng chẳng phải vì vậy mà lặng im.
Khi viết BNĐC, Nguyễn Trãi dựa vào hiện thực
cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Ông có thể sử dụng nhiều
mẫu chất liệu có sẵn trong nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, nhưng ông
chỉ dùng những gì diễn tả đúng nhất với hiện thực cuộc kháng chiến
lúc bấy giờ. “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu” không phải là “suối Lãnh
Câu máu chảy trôi chày”, càng chẳng phải máu “đổ ra nhiều quá thành
suối khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi” và ‘chử’ là cái
‘mộc’. Chỉ có những cái mộc bị trôi, chẳng có cái chày giã gạo nào
“nổi lên trôi đi” cả ! Thế mới biết, hiểu cho thấu đáo một câu văn
của cổ nhân khó thật !
Trên đây, chúng tôi mới nêu hai trường hợp:
nhan đề “Bình Ngô đại cáo” và cụm từ “máu chảy trôi chày” mà đã có
bấy nhiêu chuyện, huống cả bài Cáo thì, còn biết bao vấn đề nữa để
bàn. Chỉ mong rằng, các nhà đang biên soạn sách giáo khoa mới, làm
sao có được một bài BNĐC chuẩn xác từ văn bản đến chú thích, xứng
đáng với tầm vóc bản “thiên cổ hùng văn” và thế hệ trẻ không phải
học những điều chẳng có trong văn bản như ở thế kỉ trước !
CHÚ THÍCH:
(1) Xem Nguyễn Đăng Na:
a. Bình Ngô đại cáo: một số vấn đề về văn
bản, Tạp chí Hán Nôm số 4/ 2002.
b. Bình Ngô đại cáo: vấn đề dịch giả và
dịch bản, Tạp chí Hán Nôm số 5/ 2002.
(2) Từ đây gọi tắt là Toàn thư.
(3) Năm 1919 trong Việt Nam sử lược ,
trước bản dịch, Trần Trọng Kim cho in nguyên văn chữ Hán BNĐC và giới
thiệu: “Tờ BNĐC này… theo nguyên văn ở trong tập Hoàng
Việt văn tuyển …” (tr.204). Khi in lại bản dịch của ông Trần
vào Quốc văn cụ thể (Tân Việt Nam thư xã) năm 1932, Bùi Kỉ
nhắc lại lời ông Trần: “Bài này dịch theo bài chữ nho ở bộ Hoàng
Việt văn tuyển. ” (tr.96). Đọc lời ghi chú đó, Dương Quảng Hàm
lại ngỡ Bùi Kỉ bảo mình dịch, nên lúc tuyển BNĐC vào Việt Nam văn
học sử yếu năm 1943, Dương Quảng Hàm chua: “Bùi Kỉ dịch, Quốc
văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã Hà Nội” (tr.262). Từ đấy, mọi
người đều ghi theo lời chua của ông Dương.
(4) Trong bài này, chúng tôi chưa đề cập tới
sách giáo khoa thí điểm.
(5) Văn học 10, sách chỉnh lí hợp nhất
năm 2000, Tập một, Nxb. Giáo dục, tr.117.
(6) Văn học 9, Tập một, tái bản lần
thứ 11, Nxb. Giáo dục, 2001, tr.21.
(7) Kinh Thư, Trung tâm học liệu, in
lần thứ hai, Sài Gòn, 1973, tr.217.
(8) Thượng Thư, Văn Học, H. 2001,
tr.112.
(9) Bùi Huy Bích: Hoàng Việt văn tuyển, Hi
Văn Đường, Minh Mệnh 6 (1825). Tồn Am gia tàng bản.
(10) Hán ngữ đại từ điển, tập 2, Hán
ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ 3, 1988,
tr.1388.
(11) Hán ngữ đại từ điển, tập 2, Sđd,
tr.1388.
(12) Soạn giả Văn học 10 viết: “Có hai
cách hiểu chữ Ngô: các vua nhà Minh quê ở đất Ngô; đời Ngô (thời Tam
Quốc), bọn người sang cai trị nước ta đều rất tàn ác, từ đó, dân ta
gọi người phương Bắc là người Ngô với ý khinh ghét”. Sđd, tr.124.
(13) Hào Châu [
濠
州
] thuộc
đất Ngô thời Xuân Thu, bao gồm các huyện An Huy, Hoài Viễn, Định
Viễn, Phượng Dương, Gia Sơn ngày nay; lị sở là Chung Li thuộc đất
phía đông Phượng Dương.
(14) Văn học 10, Sđd, tr.126.
(15) Hoàng Việt văn tuyển, Sđd;
ĐVSKTT, tập IV, KHXH, H. 1993, tờ 51 a, b.
(16) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, quyển
Thượng, H. in lần thứ hai, 1928, tr.212.
(17) Bùi Kỉ: Quốc văn cụ thể, Tân Việt
Nam thư xã, H. 1932, tr.100.
(18) Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử
yếu, Nha học chính Đông Pháp, H. 1943, tr.261.
(19) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập
II, Nxb. Văn Hóa, H. 1962, tr.257. Từ đây gọi tắt là Hợp tuyển.
(20) Hợp tuyển, tập II, Sđd, tr.260.
(21) Kinh Thư, Sđd, tr.215. Trong bản
này, Thẩm Quỳnh dịch “huyết lưu phiêu chử” là “Máu người chảy trôi
cả cái chày giã gạo”.
(22) Hán ngữ đại từ điển, tập 4, Hán
ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ tư, 1994,
tr.855./.
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 2 (69) năm 2005
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê BìnhvTrái Chiều
vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism
vTiền PhongvXã LuậnvVTVvHTVvTrí Thức
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài GònvLuật Khoa Văn NghệvSOTT
vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN