TẠP GHI VĂN NGHỆ

Hội nhập Văn học? Những câu hỏi khó

Friday, July 25, 2008   

Nguyễn Mạnh Trinh

Lúc này người ta hay đề cập đến hội nhập Văn học của người Việt ở hải ngoại. Có rất nhiều bài viết, có nhiều ư kiến đôi khi đối chọi nhau và có cả những lời kêu gọi. Như chiến tranh đă qua rồi, thời gh́m súng với nhau đă hết, sao vẫn c̣n giữ những thái độ không thông cảm với nhau. Ḥa giải rồi ḥa hợp, hăy quên quá khứ để nghĩ đến hiện tại và tương lai. Nghe trên lư thuyết th́ có vẻ xuôi tai lắm. Ừ, cùng là người Việt với nhau hăy cùng xây dựng đất nước, kẻ thù với nhau là Hoa Ky và Việt Cộng Sản c̣n bắt tay được với nhau mà. Hăy trở về, trở về...

Tôi có đọc một bài viết khá dài của ông Tô Nhuận Vỹ “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”. Ông viết khá tâm t́nh, tỏ ra là một người tuy ở trong nước nhưng đă có ra nước ngoài và có ư hướng muốn kêu gọi sự hội nhập của những nhà văn ở hải ngoại. Ông kể nhiều sự kiện ở trong nước và ở hải ngoại về một t́nh trạng chia rẽ không chịu “ngồi chung chiếu” của cả văn nghệ sĩ ở trong và ngoài nước. Ông nêu lên những phức tạp, những khó khăn của hai bên. Và kết luận là lời kêu gọi, một kiểu “chiêu hồi” những nhà văn hải ngoại:

“...Cả thế giới đang tiến bộ mau chóng, từng ngày, chẳng lẽ chúng ta không day dứt trước cảnh ‘ăn sau chạy dọi’ của đất nước ḿnh. Nếu thực sự có tấm ḷng với đất nước mỗi nhà văn ở trong nước sẽ làm được. Các nhà văn các nghệ sĩ các trí thức Việt Nam ở nước ngoài sẽ làm được cho dù chỉ là một phần như Lê Bá Đảng, như Điềm Phùng Thị đă làm. Như Trần Văn Khê, Phạm Duy, Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo, đă làm. Như Nguyễn Đức Tùng đă bày tỏ trong cuộc gặp gỡ với các nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Du Tử Lê, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo.”

“Tôi hy vọng rằng một ngày kia tất cả những người ra đi sẽ về lại bên nhau đầy đủ, dù ở Huế, Hà Nội, Sài G̣n, mang theo cả những người không bao giờ c̣n có thể về lại được nữa. Chia sẻ và thấu hiểu, kính trọng và tha thứ. Trên chiếc chiếu của t́nh tự dân tộc và của thơ ca Việt Nam”.

Tôi xin mượn ư kiến của Giáo Sư Cao Huy Thuần để kết thúc bài viết này:

“Văn nghệ sĩ hăy làm đi, đừng chờ đợi ai khác. Tự ḿnh mở ra không gian cho ḿnh. Nếu bây giờ mà văn nghệ sĩ không cùng nhau ‘khoán’ được một xă hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau, đọc nhau như anh đề nghị th́ chúng ta c̣n làm cái ǵ được nữa? Chuyện đó nhà nước coi bộ cũng muốn cũng thấy cần thiết. Nhà nước đă muốn anh sáng tạo ra bước đi, đó chẳng phải là chức năng của anh sao? Anh chớ ai?”

Tôi đọc đoạn văn ấy và tự nhiên nảy ra nhiều cảm nghĩ. Ông Cao Huy Thuần một trí thức thiên tả sống ở Pháp đă quả quyết rằng nhà nước muốn văn nghệ sĩ “khoán được một xă hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau!” Thật ra h́nh dung và định nghĩa được cái “xă hội dân sự văn học” cũng khá là dài ḍng và có thể hiểu được theo tùy định kiến của mỗi người. Nhưng, tôi có đọc “Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn học trong thời kỳ mới” của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, cơ quan cao cấp nhất lănh đạo cả nước, do Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh kư ngày 6 Tháng Sáu năm 2008 và cố gắng t́m kiếm cái mà ông CH Thuần nói là “nhà nước muốn” mà t́m hoài chẳng thấy. Mà lại thấy những điều chỏi ngược lại như khi đề cập đến “mục tiêu, quan điểm, chỉ đạo, chủ trương và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”.

“Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đảng, nhà nước và nhân dân ta phải tiến hành một cuộc đấu tranh gian khổ và phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa tốt và xấu, cao thượng và thấp hèn. Hiện thực đó là mảnh đất giàu tiền năng cho những t́m ṭi sáng tạo của văn nghệ sĩ để tiếp tục xây đắp một nền văn học nghệ thuật ngày càng lớn mạnh với những tác giả tác phẩm có tầm vóc xứng đáng với dân tộc.

Quá tŕnh hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa có khả năng tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại h́nh văn nghệ nước nhà, đồng thời, sự bùng nổ của các phương tiện truyền bá sản phẩm văn nghệ, của công nghệ giải trí cũng có thể tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống và công chúng văn nghệ. Mặt khác, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu vả thủ đoạn diễn tiến ḥa b́nh nhằm tạo ra sự tự diễn biến trên lănh vực tư tưởng, văn hóa, đạo đức trong nội bộ ta.”

Và cả trong bản nghị quyết, th́ văn học chỉ là một phương tiện phục vụ cho chính trị mà đảng Cộng Sản Việt Nam lănh đạo. Trong cơ chế ấy, nhà văn ở trong nước làm được ǵ huống hồ nhà văn ở hải ngoại. Con ruột c̣n bị kẹp th́ con ghẻ đâu có tránh được kềm?

 

Tô Nhuận Vỹ cũng phê phán một số người mà ông cho rằng c̣n căm thù c̣n bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến đă qua nên đă không chịu ḥa giải và ḥa hợp. Ông cho rằng họ vẫn c̣n bị ảnh hưởng quá nhiều của quá khứ của thời chiến tranh.

Nhưng tôi nghĩ không giống như vậy. Không phải v́ quá khứ mà phát sinh ra những hiện tượng chia rẽ nhau. Mà ngay ở hiện tại cũng đầy những nguyên do cho sự thiếu đoàn kết của dân tộc. Mà, nguyên do chính là v́ sự tồn tại của chế độ đang cai trị trong nước. Một chế độ của thiểu số một nhúm đảng viên mà bắt cả 80 triệu người ṭng phục. Xét về mọi phương diện, chế độ ấy đầy dẫy những khiếm khuyết, tràn đầy những bất công. Nào dân oan khiếu kiện bị đàn áp, nào của cải đất đai của người dân lương thiện bị ăn cướp trắng trợn. Nào ngoại xâm lấn chiếm đất đai biển trời mà khiếp nhược cam chịu để cố giữ địa vị. Nào tham nhũng hoành hành, tạo thành lớp tư bản đỏ, ăn chơi sa đọa trong khi toàn dân th́ nghèo nàn chạy cơm từng bữa toát mồ hôi. Giáo dục th́ lạc hậu, với chủ trương chạy theo tiền bạc lợi nhuận mà bất kể đạo đức. C̣n về văn học, th́ chỉ là một phương tiện phục vụ cho chế độ, người viết văn hết bị trói rồi cởi trói rồi trói lại như câu ví von của nhà thơ Nguyên Sa “nhà văn là con người chứ đâu phải chó lợn mà hết trói rồi lại cởi trói.”

Thành ra, nếu c̣n chế độ ấy, th́ cả nhà văn trong nước và những nhà văn hải ngoại bị ṿng kềm tỏa chỉ là một công cụ. Những chiêu bài hay đẹp sẽ được vẽ ra, nhưng thực tế cũng chỉ là những âm mưu được thực hiện do chế độ hiện tại bày ra để lừa phỉnh những người nhẹ dạ.

Đời sống thường có những câu hỏi. Có hay không một nền văn học lưu vong ở hải ngoại? Cũng như, những người cầm bút ở hải ngoại nghĩ thế nào về sự giao lưu và hội nhập? Mà hội nhập thế nào, hội nhập vào văn học ḍng chính ở nước họ định cư, cũng như hội nhập vào ḍng văn học trong nước?

Hội nhập vào văn học ở những nước mà họ sinh sống nổi bật nhất ở những thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai. Họ viết bằng Anh ngữ hoặc Pháp ngữ và h́nh như dù họ viết với tâm cảm Việt Nam nhưng đối tượng độc giả có lẽ không phải chỉ riêng người Việt mà c̣n cả những người bản xứ. Thực tế, họ đă tạo được sự để ư của giới xuất bản cũng như phê b́nh và cũng chiếm được nhiều giải văn học. Họ là Linda Le viết Pháp ngữ, là Monique Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Andrew Lam, Kien Nguyen, Le Thi Diem Thuy, Đao Strom, Nguyen Minh Bich, Mộng Lan viết Anh ngữ.

C̣n một chiều hướng khác, hội nhập vào văn học trong nước. Từ một câu hỏi, văn học hải ngoại c̣n là một nền văn học lưu vong mà yếu tính của nó là sự phản kháng chế độ đương quyền trong nước, có thể là một tiền đề cho câu trả lời có và không. Một khi chế độ đương thời vẫn c̣n là một chế độ độc tài toàn trị, th́ liệu sự hội nhập ấy có ư nghĩa ǵ không?

Theo tôi, giữa nhà văn trong nước với nhà văn hải ngoại không hề có sự đối kháng cũng như giữa những người dân ở hải ngoại và trong nước không có sự dị biệt nào để ḥa đồng. Nếu có đối kháng chăng là giữa chế độ và người dân, kẻ cai trị và người bị trị. Thành ra, đặt ra vấn đề ḥa giải giữa những nhà văn trong nước và hải ngoại là một chuyện dư thừa. Là người cầm bút với nhau, chắc sẽ cùng tâm cảm và ước vọng với đất nước nên nếu có trường hợp gặp gỡ th́ cũng là nối dây thân hữu. Hơn nữa ngay mối liên hệ giữa nhà văn và nhà cầm quyền cũng c̣n nhiều trường hợp trục trặc. Như nhà thơ Trần Dần tuy được giải thưởng loại văn học bậc quốc gia nhưng vẫn bị dè chừng, tuyển tập thơ bị cắt xén, xuất bản bị làm khó dễ đến mức cấm cản. Th́ nói ǵ đến những nhà văn hải ngoại dù “lư lịch” có sạch sẽ thế nào chăng nữa cũng không khỏi bị nghi ngờ là những người sẽ gây mầm mống chống đối chế độ.

Thực tế cho thấy, ở trong nước ngay cả trên mặt văn hóa, cũng có sự chỉ đạo của công an. Một thí dụ gần đây, trong nhóm đi tịch thu cuốn sách ‘Thơ Trần Dần’ ở nhà xuất bản Nhă Nam bên cạnh các nhân viên của tuyên huấn, của cục xuất bản, của công an địa phương c̣n có sự có mặt của A25, một thứ công an văn hóa và là bộ phận có tiếng nói quyết định.

Hội nhập. Có rất nhiều người bàn bạc đến, thậm chí c̣n đặt câu hỏi sẽ phải hội nhập như thế nào nữa. Viết xong một tác phẩm, lẽ ra là hoàn tất công việc của một nhà văn, nhưng thực tế th́ không hẳn vậy. Những thắc mắc luôn đè nặng. Dư âm của cuộc chiến vẫn c̣n và chiến tuyến vô h́nh không phải ngày một ngày hai mà hết. Nó vẫn c̣n và những suy tư, những đau thương có khi là những đề tài cho văn chương và phản ánh một thời đại mà con lốc lịch sử đă đổi chiều đến độ khốc liệt.

Là nhà văn, ai cũng muốn có nhiều độc giả, nhất là ở hải ngoại muốn có độc giă từ trong nước, khi số lượng người đọc Việt ngữ càng ngày càng giảm đi. Nhưng, khi trong nước vẫn c̣n những hệ thống không kiểm duyệt mà siêu kiểm duyệt th́ chuyện có sách được in trong nước đối với những người không có thế thần hoặc không quen xin xỏ chạy chọt khó ḷng chen vào được. Thành ra, trong hiện tại, sách từ trong nước th́ bán đầy ở hải ngoại mà những cuốn sách của các nhà văn hải ngoại th́ ít ỏi và hiếm vắng ở trong nước. Những sách của các tác giả có “lư lịch xấu” ở trong nước c̣n bị đầy đọa huống chi những người ở hải ngoại mà lúc nào chính quyền cũng dè chừng là sẽ “chuyển lửa về quê hương”.

Những câu hỏi làm thế nào để ḥa giải ḥa hợp, để giao lưu, để hội nhập, đều bị một vấn nạn chính phát xuất từ chế độ đang cầm quyền hiện nay. Từ chuyện đổi mới, cởi trói rồi trói lại rồi cởi ra, nhà văn ở trong nước chạy theo đă hụt hơi huống chi người ở ngoài.

Trên lư thuyết, th́ mục đích của các suy nghĩ về gioa lưu và hội nhập đều đúng và là lư tưởng nữa. Nhưng trên thực tế, th́ chưa chắc. Nếu viết mà cứ luôn luôn tự hỏi ḿnh sẽ phải viết thế nào, nghĩ ra sao để ở “trong nước” chấp nhận th́ chẳng thà đừng viết c̣n hơn.

Một câu hỏi thường hay đến với người cầm bút: Viết? Tại sao viết và viết thế nào? Trả lời câu hỏi ấy, có khi rất giản dị nhưng cũng có khi cực kỳ khó khăn. Viết, có phải là một cách thế để sống đời sống thực? Hay là một cách sống với thế giới riêng ḿnh cả những ước mơ? Mỗi người một ư nghĩ, ở thời đại hiện nay, nhất là với những người Việt Nam đă trải qua nhiều biến cố, ở những vị trí khác nhau, có khi là chiến tuyến đối nghịch, th́ văn chương phải phản ánh được nỗi niềm của cả một thế hệ. Có những người, viết để giải tỏa những ẩn ức của đời lưu lạc. Có người, coi viết là một cái nghiệp tay trái phải trả trong khi tay phải vẫn khư khư cái nghề để mưu sinh. Từ những quan niệm khác nhau, những suy tư khác nhau, có lẽ đă xảy ra cuộc tranh luận. Và, câu trả lời vẫn là những phân vân bất định.

Có người làm thơ lúc nào cũng bức xúc với câu trả lời phải viết thế nào và ra sao. H́nh như, chỉ là sự gợi ư mà không phải là những ư nghĩ khẳng định hay phủ định. Cách nay một thế kỷ, Rainer Maria Rilke trong tác phẩm Thư Gửi Người Thi Sĩ Trẻ Tuổi, gồm 10 lá thư gửi cho Franz Xavez Kappus đă nêu ra một vấn đề mà tới nay vẫn c̣n tồn tại. Một vấn đề muôn thuở của người làm thơ thường suy ngẫm. Tôi đọc một đoạn trong lá thư đầu tiên (bản dịch Phạm thị Hoài).

Không ai có thể khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một cách duy nhất mà thôi. Ông hăy đi vào chính ḿnh. Hăy truy cứu cái nguyên nhân khiến ḿnh cầm bút, hăy kiểm tra xem nó có bắt rễ từ chỗ sâu xa nhất của trái tim không, hăy tự thú xem nếu không viết liệu ḿnh có chết nổi không? Và trước hết hăy tự hỏi ḿnh vào giờ khắc tĩnh mịch nhất trong đêm, ta có phải viết không? Ông hăy đào xới trong chính ḿnh t́m câu trả lời tận gốc. Và nếu có khẳng định, nên ông có quyền đáp lại câu hỏi nghiêm trọng ấy bằng một lời mạnh mẽ và giản dị rằng “Ta phải viết” th́ ông hăy xây đời ḿnh trên sự tất yếu ấy, cuộc đời ông ngay cả trong những giây phút dửng dưng và tầm thường nhất cũng phải trở thành dấu hiệu và chứng chi của sự thôi thúc ấy. Rồi ông hăy đến gần thiên nhiên. Hăy thử làm người thứ nhất nói về những ǵ ḿnh thấy, ḿnh trải qua, yêu thương và đánh mất. Ông đừng viết thư t́nh, đầu tiên ông nên tránh những thể loại đă quá thông dụng và quen thuộc, đấy là những thể loại khó nhất, v́ sức phải lớn và chín muồi mới đưa ra được một cái ǵ riêng giữa vô số thành công và phần nào thành công xuất sắc của người đi trước. Do đó ông đừng bén mảng đến những mô típ chung chung mà hăy lui về với những mô típ do chính ngày thường của ḿnh cung cấp, ông hăy tả ra nỗi buồn và niềm mong ước, những ư nghĩ thoảng qua và ḷng tin vào một ngày tốt đẹp nào đó. Hăy tả tất cả với ḷng chân thành tha thiết, thầm lặng và nhẫn nhục, và hăy sử dụng mọi vật quanh ông, những h́nh ảnh trong mơ và những đối tượng của hồi ức làm phương tiện diễn đạt. Nếu ông thấy ngày thường của ḿnh quá nghèo nàn th́ xin đừng buộc tội nó, hăy buộc tội chính ḿnh, hăy tự nhủ rằng ḿnh không đủ tầm thi sĩ để gọi ra những tài nguyên của nó, bởi lẽ không có cái nghèo và không chỗ nào là nghèo nàn chẳng đáng đếm xỉa tới đối với người sáng tạo.

Đọc sách, cũng học và biết nhiều điều. Mà, ngay cả khi đàn đúm chuyện trên trời dưới đất, cũng câu hỏi trên vẫn ám ảnh, canh cánh trong ḷng.

Mỗi sáng cuối tuần tôi hay ghé quán cà phê ngồi tán dóc với bạn bè. Một tuần qua rất mau với những ngày Thứ Hai tới Thứ Sáu tất bật để có những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật thoải mái. Cũng là một cách để cuộc đời c̣n có niềm vui. Ở đó, tôi gặp nhiều người bạn. Có người, nói chuyện vui vẻ, để cho qua một buổi sáng nhiều nụ cười, quên đi những lo lắng của cuộc sống. Những câu chuyện giỡn, những chuyện tiếu lâm. Nhưng, thỉnh thoảng, cũng có người bạn, sau khi chuyện văn lại làm ưu tư hơn. Thí dụ như với một anh bạn mà tôi kể sau đây làm tôi cứ bâng khuâng cả tháng trời.

Thành thật mà nói, anh là người đọc sách rất nhiều và có những suy tư thấu đáo. Nói chuyện với anh, nhiều khi tôi như đi lạc vào những trang sách và có lúc như bị lạc lối không t́m được ngơ ra. Một buổi sáng, khi nói chuyện về giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, tôi buột miệng nói rằng người Việt Nam đă trải qua những cách thế có một không hai trên thế giới với những đề tài tự thân nó đă có sức thuyết phục ghê gớm, thế mà chưa có một ai cầm bút được lọt vào trong trào lưu văn học thế giới. Thân phận con người Việt Nam, chiến tranh, thuyền nhân... toàn là những lănh địa bao la cho sáng tác.

Thế là ông bạn quí của tôi có dịp “ăn nói”. Ông mang Milan Kundura để nói chuyện. Trong “The Art of the Novel” nhà văn này đă suy luận theo những trào lưu của văn học hiện đại. Với những sự vận động và t́m ṭi không ngưng nghỉ, sự cách tân trong bút pháp cũng như bố cục truyện được coi như một mục đích tối hậu cho bút mực. Làm mới văn xuôi tự sự cũng như thay đổi cung cách suy nghĩ về quan niệm, vai tṛ, vị trí, hành động, chức năng của nhân vật, Kundura đă đi từ James Joyce, Marcel Proust, Franz Kafka đến tự bản thân ḿnh.

Ở James Joyce, nhân vật ở trạng thái trở về h́nh thức đối thoại nội tâm triệt để mỗi khi bị lôi kéo vào một t́nh trạng chỉ trong khoảnh khắc của th́ hiện tại.

Ở Marcel Proust, nhân vật được diễn tả và xuất hiện với tất cả sự huyền diệu và kích thích nỗi ngạc nhiên về cái vũ trụ nội tại của linh hồn con người. Hành tŕnh “Đi t́m thời gian đánh mất” gồm mười lăm quyển sách mở ra những cánh cửa đi vào khung trời tiểu thuyết bao la nhiều chất suy tưởng.

C̣n với Franz Kafka nhân vật chỉ c̣n là hiện thân cho một vấn nạn “Đâu là những khả năng tồn tại của con người trong một thế giới mà những quyết định từ bên ngoài trở thành nặng nề đến nỗi những động cơ bên trong chẳng c̣n chút trọng lượng nào nữa”. Kafka mô tả những động cơ thúc đẩy từ bên trong quyết định ứng xử của bản tính con người giữa cái thúc ép của đời sống thực tế bên ngoài thành lực chi phối và luôn luôn giữ vai tṛ chủ chốt áp đảo trong mọi cách thế quyết định.

Riêng chính Kundura th́ cho rằng nhân vật tiểu thuyết là hiện thân cái gọi là “bản chất cục diện hiện sinh của cái tôi.” Đây là một quá tŕnh t́m kiếm với tất cả những dụng công để khám phá ra những chân dung c̣n ch́m khuất từ những bức màn che kín của sự vật.

Muốn nhập vào những trào lưu như vậy, nhà văn cần phải nỗ lực làm mới và rời bỏ con đường mô tả theo lề lối truyền thống với những chi tiết của nhân vật: tên tuổi, diện mạo bên ngoài, tiểu sử, quá khứ, đời sống, Tứ Joyce, Proust, Kafka, đến Kundura, tất cả những yếu tố trên về nhân vật chẳng c̣n là quan trọng nữa. Ngay chính những động tác để làm chuyển động tiểu thuyết cũng không c̣n là chủ đích, mà cái c̣n lại là suy tư với những phóng chiếu luận cứ phức tạp từ những góc cạnh nhiều chiều, nhiều phía để soi rọi vào cái sâu thẳm của bản thể ḿnh và đời sống ḿnh một cách thật rốt ráo triệt để không thỏa hiệp.

Sau khi lấy những luận cứ của Kundura làm căn bản, ông bạn trên đi đến một kết luận. Muốn đi vào những trào lưu văn học thế giới, phải từ bỏ chính cái tôi của nhân vật truyện. Chúng ta phải hủy bỏ chính cái ṿng mà chúng ta tự vạch ra và tự giam ḿnh vào. Chúng ta cứ quanh quẩn trong cái góc thế giới nhỏ nhoi mà không chịu bước ra những phương trời khoảng khoát hơn. Những sự kiện của chúng ta hôm nay chỉ có giá trị ở th́ hiện tại, nhưng ở th́ tương lai th́ chưa chắc. Cái xốc nổi chưa chắc là cái tồn tại lâu dài. Mà, muôn đời nhất để tồn tại vẫn là hành tŕnh tự t́m kiếm chân dung con người, chân dung muôn thuở có chung một mẫu số của nhân bản nhưng có thể khác về tử số, của những hiện tương của bây giờ. Nhà văn phải có trí tưởng tượng vượt qua cái tôi. Tại sao chúng ta cứ viết hoài về cái đă quen thuộc đă nhàm chán. Sao không thử bước qua đi những con đường lạ. Viết để làm ǵ nếu không có sự t́m ṭi khám phá. Viết để làm ǵ, nếu văn học không mang được những nét tích cực cho cuộc nhân sinh.

Tôi suy đi nghĩ lại, những điều Kundura viết nó chung chung và hiện thực những ư tưởng ấy thành cụ thể không phải là đơn giản. Trong bụng vẫn vương vấn những suy nghĩ. Những điều kể trên có phải thuần từ lư luận và có dễ áp dụng ở thực tế Việt Nam không. Mà, thực hành th́ ra sao? Đi t́m chính ḿnh, soi gương mỗi ngày? Đúng quá rồi, nhưng diễn tả ra sao v́ cái thực và cái ảo có khi nhập nhằng thành một. Đằng sau cái h́nh của ḿnh có khi cón cái bóng nhiều khi to lớn hơn, lộng lẫy hơn. Làm thơ tượng trưng, thơ phá cách, thơ cách tân, để sáng tạo? Đúng rồi, nhưng có chắc là t́m kiếm chân thực mới lạ không hay là từ ngàn xưa đă có sẵn? Tôi chợt nghĩ đến hiên tượng “tẩu hỏa nhập ma” mà Kim Dung hay mô tả. Chưa đủ nội lực mà cứ đ̣i tập tành th́ phế thải có ngày! Làm thơ có vần chưa làm chủ được vần điệu ngôn ngữ mà đ̣i cách tân, phá cách th́ thi ca trở thành dị hợm mấy hồi. Cái căn bản cần thiết phải có mới đủ sức làm sâu sắc hơn, làm mới lạ hơn văn chương. Thành ra, rút cuộc vẫn là sự tự rèn luyện và khó khăn nghiêm khắc với chính ḿnh. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đă tự đặt một kỷ luật cho bản thân. Mỗi ngày, dù có cảm hứng hay không cũng ngồi vào bàn làm việc. Lâu dần sẽ thành một thói quen tốt đẹp. Và, với cách làm việc như thế, ông đă có một công tŕnh trước tác đồ sộ. Riêng tôi khi theo học lớp sáng tác văn học ở tại đại học ở đây cũng được chỉ dẫn rằng mỗi ngày phải viết vài trang bằng ngôn ngữ ḿnh và dịch vài trang từ những tác phẩm được kể là cổ điển để tập thành thói quen trong công việc vận dụng chữ nghĩa để. Cũng như đọc một cuốn sách nhiều lần, lần đầu để nắm bắt ư tưởng, lần sau tóm lược và ghi chép lại thành từng thẻ có thể hệ thống hóa. Tôi cố gắng theo nhưng h́nh như đời sống ở đây có quá nhiều thúc bách nên kỷ luật ấy cũng gần mai một đi. Nhưng ít ra tôi cũng tự hiểu đó là một phương thức tập luyện tốt. Kỹ thuật cũng rất cần tuy chưa đủ để tạo thành những tuyệt tác. Mà, nói đến kỹ thuật là nói đến những kinh nghiệm thu lượm được từ quá tŕnh làm việc qua sự vận động và t́m kiếm.

Nói theo lư thuyết một cách logically như vậy th́ quá dễ. Làm sao để tiếp cận được vào văn học thế giới thực sự là một câu hỏi khó cho những người cầm bút. Vượt qua những giới hạn thực tế, nhiều khi cần phải nỗ lực trong một đời sống nhiều thúc ép hiện nay.

Câu chuyện trong quán cà phê có phải là chuyện phiếm bàn chơi? Tại v́ tôi quá nặng ḷng với văn chương nên thắc mắc vương vấn mà thôi. Chứ c̣n, ngày lại ngày, ṿng quay đời sống dường như mỗi ngày bào ṃn cả ước mơ. Với tôi, c̣n cầm bút được là vẫn c̣n một chút hạnh phúc nhỏ nhoi. Viết để cho riêng ḿnh có một thú vui, như ḿnh nâng niu một đóa hoa, không phải là một điều thích ư sao? Mỗi lần đọc những ḍng chữ do chính ḿnh viết ra, có phải là đang tâm sự với những người cùng tri kỷ. Và, cũng chẳng để ư làm ǵ đến ít hay nhiều mắt xanh để ư đến văn chương ḿnh? Cái ǵ tốt đẹp tự nhiên sẽ tồn tại, cũng như những giả trá bất toàn sẽ bị đào thải theo đúng luật đất trời!

Ở trong nước, câu hỏi; Tại sao viết? Viết để làm ǵ? Và viết như thế nào? Cũng là những vấn nạn thường xuyên trên báo chí.

Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài phỏng vấn của Dă Tượng đă phát biểu:

“Vâng, nhà văn viết bằng cái ǵ? Theo tôi có ba cái chính: tài năng ‘trời cho’, sự trải nghiệm hay ‘vốn sống’ và cái thứ ba là nền tản văn hóa dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta đứng trên đó để tiếp tục đi tới. Lớp người trẻ cầm bút ở Việt Nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này...” Và ông cho rằng sự thiếu thốn kể trên v́ trong nước hiện nay không có đại học thực sự với chất hàn lâm phải có. Nền đại học hiện tại chỉ là những “lớp phổ thông cấp bốn” như lời Giáo Sư Hoàng Ngọc Hiến ví von. Và sau đó ông c̣n đề cập đến không có tự do sáng tác tạo thành một nền văn học “minh họa” nông cạn, một chiều và là công cụ cho chính quyền.

Chu Văn Sơn, trong “Tác phẩm lớn, tại sao chưa?” th́ phân tích:

“...Không thiếu những cây bút sau màn tŕnh làng đầy ấn tượng hứa hẹn một triển vọng nào đấy nhưng rồi tài năng ban đầu không cường tráng lên để thành tài năng, trái lại, cứ sa sút mai một dần, những cái ra sau chỉ là sự pha loăng cái ra trước, thậm chí loăng đến mức khó tin. Có người bi quan đă ngờ vực không khéo cái tạng chính của người viết ở ta chỉ là ‘nhà văn của cái đầu tay.’”

Giải thích về hiện tượng sa sút phong độ sau những sáng tác đầu tay, người ta thường đề cập ba thiếu hụt quen thuộc: vốn văn hóa, vốn sống và những kỹ năng sáng tạo. Vốn văn hóa không chỉ là tri thức về các bộ môn văn hóa hay hiểu biết về các nền văn hóa bốn phương, mà quan trọng hơn là cái lơi nhân văn của kẻ viết có đầy đặn hay chưa sau khi hấp thụ những tinh hoa văn hóa khắp nơi ấy. Vốn sống cũng không phải là những tri thức cuộc sống đă được nạp đầy hay vơi trong túi khôn của kẻ viết, mà đáng nói hơn là vốn ấn tượng, vốn trải nghiệm cật ruột của chủ thể sáng tạo trong trường đời đă đủ giúp anh hóa thân vào mọi nỗi đời chưa. Cũng như thế kỹ năng sáng tạo đâu chỉ đơn giản là những chiêu mới chiêu lạ chiêu độc tích cóp được từ việc học những trường phái tân kỳ hay các bậc thầy đến từ phương xa. Mà quyết định hơn là mọi thao tác kỹ năng đă ngấm vào thành ứng xử nghệ thuật thành giác quan của người viết hay chưa. Chúng ta thường khuyến cáo người viết hăy bồi đắp cho những thứ ấy đầy đặn lên, vạm vỡ hơn. Không thể chối căi được rằng nội lực của người viết phụ thuộc rất nhiều vào sự dồi dào của ba yếu tố ấy. Chưa có một nội lực như vậy, thật khó hy vọng về tác phẩm thật sự lớn.

Cũng có người th́ lại quan niệm nghe ra hơi ngang tai nhưng không phải là không lư do trong thực trạng văn học trong nước hiện nay. Như lời phát biểu của Nguyễn Đ́nh Chính, con ruột nhà văn Nguyễn Đ́nh Thi và là tác giả của tiểu thuyết “Đêm Thánh Nhân”, cũng như đă có ư định muốn ra khỏi Hội Nhà Văn Việt Nam:

“Tôi biết rằng nhà văn th́ nên đứng ra ngoài lề xă hội, ngậm miệng ăn tiền ngồi quay mặt vào vách tường mà viết văn th́ mới là nhà văn lớn, mới là khôn ngoan, biết điều. Nói nhiều là ngu. Càng nói càng dại. Có lẽ tôi đang là một ví dụ cụ thể. Nhưng đă hỏi th́ tôi xin có nhời. Đất nước đang tiến vào vận hội mới. Toàn dân tộc đă thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp, ỷ lại rồi. Thú thực nhé, là một người trong cuộc mà tôi cũng chẳng hiểu văn nghệ Việt Nam hôm nay đă chạy thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp đó chưa?”

Viết để sống. Sống để viết. H́nh như ở bất cứ không gian thời gian nào cũng là hai vế của một phương tŕnh. Có lúc tưởng đối nghịch nhau nhưng tựu trung vẫn là một. Dù ở trong nước hay hải ngoại, dù thời gian cách nay cả thế kỷ cho đến bây giờ, viết vẫn là do bức xúc từ đời sống. Sống đeo đẳng cái nghiệp viết. Và viết để làm đời sống có ư nghĩa hơn. Văn chương, có khi là duyên phận, là những t́nh cờ, của những phút giây “bắt được của trời”. Thực ra, để trở thành một nhà văn Việt Nam thường thường đă khó, huống chi c̣n đ̣i tác giả lớn, tác phẩm lớn. Ở trong nước, th́ giáo dục hạn chế, đại học chỉ là bậc trung học nối dài, triết học căn bản không có v́ thay thế bằng học thuyết Mác Lênin. Ở hải ngoại, th́ tiếp cận được với văn học thế giới nhưng ít độc giả và tất cả nỗ lực văn chương đều dồn vào trên vai cá nhân những người cầm bút. Nhà văn, chỉ có thể cầm bút được nếu không ở tâm trạng phải viết v́ quá nhiều điều chất chứa từ cuộc sống phải bộc lộ, phải nói ra. Cầm bút, chính là một phương cách để tự giải phóng ḿnh.