MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều
vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvViệt Học
vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài G̣nvLuật KhoavVăn Chương
vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN
LỊCH SỬ PHÁP THUỘC
http://thuykhue.free.fr/rfi/index.html
KHẢO SÁT CÔNG TRẠNG CỦA NHỮNG NGƯỜI PHÁP GIÚP VUA GIA LONG
Chương 8
Hịch của Quang Trung
Sau khi đại phá quân Thanh năm 1789, uy thế Quang Trung lừng lẫy, nhưng sự kiện anh em bất hoà từ 1787 vẫn c̣n hằn vết. Giang sơn chia hai, Nguyễn Huệ giữ từ Phú Xuân ra Bắc, Nguyễn Nhạc từ Quảng Nam tới Quy Nhơn. Đất Phú Yên, Khánh Hoà, B́nh Thuận, trên nguyên tắc của Nguyễn Nhạc, nhưng là vùng tranh chấp thường xuyên. Nguyễn Ánh giữ miền Nam. Họ xưng là “ba nước”.
Về phía Nguyễn Ánh, sự b́nh định miền Nam đă xong, cơ sở hành chính và quân đội đă vững. Kế hoạch chiến tranh cũng được vạch rơ: sẽ không đánh liên tục mà đánh theo gió mùa, thuận gió th́ đem tầu thuyền ra tấn công chiếm đất, để quân, tướng, ở lại giữ; hết gió, lại rút về Gia Định, cho quân làm ruộng, đợi năm sau. Chính sách khi có giặc th́ đánh, khi nghỉ th́ cho quân về làm ruộng, có từ thời nhà Đường; ở ta, các đời vua đều ít nhiều sử dụng, không phải do Bá Đa Lộc “dạy” như Faure viết, rồi những người sau chép lại.
Về phía Quang Trung, chiến lược cũng rơ ràng, sau khi dẹp tan quân Thanh, Quang Trung thăm ḍ mặt Bắc, vừa hoà hiếu, vừa có ư đ̣i lại đất Lưỡng Quảng. Về nội trị, xây dựng kinh đô Phượng Hoàng ở Nghệ An, trên đất Vinh ngày nay, để tiện đường vào Nam ra Bắc. Nhân việc Lê Duy Chi, em Chiêu Thống liên kết với quân Lào, Quang Trung sai Trần Quang Diệu chinh phạt Vạn Tượng, chiếm nước Lào. Sau đó đánh xuống Cao Miên và Nam Hà, nhưng gặp trở ngại, ông thay đổi chiến lược, rút quân về; liên kết với chiến thuyền của Tề Ngôi, tấn công mặt biển. Sau khi Nguyễn Ánh tấn công chớp nhoáng tiêu diệt thuỷ quân Nguyễn Nhạc ở Thị Nại tháng 7-8/1792, Quang Trung quyết định san bằng miền Nam, truyền hịch cho dân hai miền Quăng Ngăi và Quy Nhơn, trước khi hành quân thẳng qua đất của Nguyễn Nhạc để đánh vào Gia Định. Bản hịch của Quang Trung mà chúng tôi tŕnh bầy dưới đây, nằm trong bối cảnh đó.
Lịch tŕnh diễn biến sự việc
Lịch tŕnh các biến chuyển, theo thứ tự thời gian như sau:
- Tháng 6/1791, Quang Trung sai Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Uyên chinh phạt nước Lào, vua Lào thua chạy sang Xiêm. Tháng 10/1791, chiếm xong Vạn Tượng.
- Tháng 9/1791, Bá Đa Lộc biết trước t́nh thế Quang Trung sắp đánh vào Nam, t́m mọi cách bỏ đi, kéo theo tất cả người Pháp, mục đích để lấy ḷng Quang Trung nếu Quang Trung thắng, hoặc đợi xong chiến tranh, ai thắng th́ theo. Nguyễn Ánh cho phép Bá Đa Lộc về Pháp, nhưng rồi Bá không đi.
- Tháng 2/1792, Quang Trung đem khoảng ba chục ngàn quân, qua đường Lào đánh xuống Cao Miên, tới biên giới Miên Việt, nhưng lại rút về.
- Tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL), vua Xiêm sai người đưa thư xin Nguyễn Ánh giúp sức để “báo thù” cho vua Lào. Nguyễn Ánh đă ḍ biết kế hoạch của Nguyễn Huệ: điều động hai, ba mươi vạn quân thuỷ bộ; bộ binh theo đường núi qua Lào đánh xuống Cao Miên, chiếm mặt sau Sài G̣n; thuỷ binh vào cửa bể Hà Tiên đánh lên Long Xuyên, Kiên Giang, chiếm mặt trước Sài G̣n.
- Tháng 6/1792, những người lính Pháp hoặc phạm kỷ luật như Dayot, bị Nguyễn Ánh đuổi đi, hoặc chính họ muốn bỏ đi. Bá Đa Lộc xin đi lần thứ nh́. Nguyễn Ánh giữ lại.
- Tháng 6-7/1792, tháng 5 ÂL, Nguyễn Huệ liên kết với giặc biển Tề Ngôi, đem chiến thuyền đánh phá B́nh Khang, B́nh Thuận.
- Tháng 7-8/1792, tháng 6 ÂL, được gián điệp cho biết Nguyễn Nhạc tập trung chiến thuyền ở cửa Thị Nại, định đánh vào Nam, Nguyễn Ánh ra tay trước, đem thuỷ binh tấn công Thị Nại, tiêu diệt lực lượng thuỷ binh của Nguyễn Nhạc, trong lúc Nguyễn Nhạc đi săn vắng.
- Trận Thị Nại 1792, chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh, làm cho Quang Trung nổi giận, quyết định “quét sạch Gia Định”.
- Ngày 27/8/1792, Quang Trung truyền hịch cho quan, quân, dân hai miền Quảng Ngăi và Qui Nhơn sửa soạn đón đại binh đi qua để chinh phạt Gia Định, “san bằng” miền Nam cho tới biên giới Xiêm La.
- Ngày 16/9/1792, Quang Trung băng hà.
Xây Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An
Sau chiến thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ quyết định dựng nghiệp lớn, việc đầu tiên là thành lập một kinh đô, riêng, không phải Phú Xuân, thuộc về Chúa Nguyễn, cũng không phải Thăng Long, thuộc về vua Lê. Nguyễn Huệ chọn đất Nghệ An, ở giữa, để lập Trung Đô.
Ư định thành lập triều đ́nh ở Nghệ An đối với Nguyễn Huệ có từ bao giờ?
Theo Hoàng Xuân Hăn việc này liên quan đến La Sơn Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Nguyễn Huệ mời phu tử ra giúp, ba lần:
Lần đầu, thư viết ngày 5/2/1787 (18/12 Thái Đức năm thứ 9) (Nguyễn Hữu Chỉnh vừa dẹp Trịnh Bồng, được phong chức Bằng Quận Công, cầm quyền ở Bắc). Phu tử từ chối. Tháng 5/1787 (tháng 4 ÂL), Nguyễn Nhạc xưng Đế ở Quy Nhơn, phong Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh Vương đóng ở Phú Xuân. Anh em Tây Sơn bất hoà. Huệ vây Quy Nhơn; tự xưng là Chính B́nh Vương; sai Vũ Văn Nhậm ra chiếm Nghệ An. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở Bắc. Huệ cả giận, sửa soạn chiếm Bắc Hà.
Lần thứ nh́, Huệ viết thư ngày 21/9/1787 (10/8/Thái Đức thứ 10) cầu La Sơn phu tử. Phu tử từ chối.
Lá thư thứ ba, Huệ viết thư ngày 23/10/1787 (13/9/ ÂL), lời thư thắm thiết, lư luận chặt chẽ. Phu tử vẫn từ chối.
Ba tháng sau khi gửi lá thư thứ ba, Huệ sai Nhậm ra đánh Chỉnh. Tháng 1/1788 (tháng 12 ÂL) Chỉnh thua, bị giết. Nhậm đóng ở Thăng Long.
Tháng 5/1788 (tháng 4 ÂL) được tin Nhậm muốn tự lập, Huệ ra Thăng Long giết Nhậm.
Trên đường ra Bắc, Huệ đóng đại doanh ở núi Nghiă Liệt, gần bến Phù Thạch và viết thư ngày 23/4/1788 [18/3 ÂL] mời phu tử ra tiếp kiến. Lời lẽ của phu tử trong buổi hội kiến càng làm cho Huệ khâm phục. Và cũng chính trong cuộc hội kiến này Huệ nhờ phu tử coi địa lư giúp để t́m đất lập đô ở Nghệ An.
Cuối tháng 6/1788 [tháng 5 ÂL], Huệ về đến Nghệ An, vẫn chưa thấy phu tử chọn, bèn viết thư trách, trong có có câu: “… tuỳ phu tử lấy con mắt tinh mà xét định. Sớm sớm chọn lấy, giao cho trấn thủ Thận chóng dựng cung điện. Hẹn trong ba tháng th́ xong, để tiện việc giá ngự. Vậy Phu tử chớ để chậm chạp không chịu xem”. Trong thư trả lời, nay không c̣n, Nguyễn Thiếp can Nguyễn Huệ đừng lập đô ở Nghệ An, sợ gây phiền khổ cho dân. Mười ngày sau, Huệ viết thư trả lời, ngày 22/7/1788 [19/6 ÂL], trong có câu: “Lời bàn ấy, như liều thuốc hay, rất xứng với ư ta. Nhưng v́ lúc đầu mới lấy được nước, ḷng người mới theo. Nếu không lấy đất Nghệ An để thường thường chống thượng du, th́ lấy đâu để khống chế trong ngoài. Chắc phu tử đă xét rơ như vậy”.
Ngày 5/8/1788 [4/7 ÂL] trấn thủ Thận lại viết thư giục, tỏ việc định xây Hành cung ở Phù Thạch, nhưng phu tử không trả lời. Hai tháng sau Nguyễn Huệ viết thư trách: “Nhiều lần phiền nhờ Tiên Sinh xem đất. Những chỗ núi sông kết phát ở xứ nầy, Tiên sinh đă từng chú ư xét nhận, thế mà đă lâu chưa thấy trả lời”.
Nguyễn Thiếp chậm trễ không trả lời, bởi ḷng vẫn thầm mong miền Bắc trở về nhà Lê, không muốn Nguyễn Huệ bỏ Phú Xuân; nên việc lập đô ở Phù Thạch, trên sông Lam, dưới chân núi Nghiă Liệt không thành. Nhưng Nguyễn Huệ vẫn kiên tŕ giữ ư định lập đô ở Nghệ An, lần này ở Yên Trường, tức là Vĩnh bây giờ (thường đọc lầm là Vinh), trong thư viết ngày 2/10/1788 (3/9/Thái Đức năm thứ 11) gửi La Sơn Phu Tử, Huệ viết rơ lư do: “Nay kinh Phú Xuân th́ h́nh thế cách trở. Ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đ́nh thần nghị rằng: chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về (…)
Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, quả cung đă từng mở xem địa đồ. Thấy ở huyện Chân Lộc, xă Yên Trường, h́nh thế rộng răi, khí tượng tươi sáng có thể chọn để xây kinh đô mới. Thực là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy.”
Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Quang Trung quyết định xây cung điện ở núi Dũng Quyết tức Phượng Hoàng Trung Đô,
Ngô Th́ Chí viết: “Bởi thấy Nghệ An ở vào giữa nước, đường xá các nơi đến đó cũng vừa bằng nhau, ngài liền bắt rất nhiều thợ thuyền khuân vác gỗ, đá, gạch, ngói để sửa sang cung phủ dựng lâu đền, đắp một ṿng thành bên trong. Trong thành dựng toà Long Lâu ba tầng và điện Thái Hoà hai dẫy, làm nơi chầu mừng, gọi là Chung khính Phượng hoàng thành” (Hoàng Lê Nhất thống chí t.322).
Phượng Hoàng là tên núi Quyết hay Dũng Quyết ở cạnh đường Vinh đi Bến Thuỷ bây giờ, Hoàng Xuân Hăn viết: “Có thể tin chắc rằng Phượng Hoàng trung đô ở khoảng giữa núi Mèo (núi Kỳ Lân) và núi Quyết. Trong thành ấy có xây lầu ba từng, xung quanh có các đồn, trên núi có kho lúa. Cuối đời Tây Sơn, lầu đổ; trấn thủ Thận phá lấy gỗ đóng chiến thuyền.”
“Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông Lam, phiá bên có núi Quyết, đều là hào và thành thiên nhiên.
Ở giữa thành, c̣n dấu thành trong, và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở phần bắc, mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền xă tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An.
Tuy gọi là Trung đô, nhưng thành Phượng hoàng nhỏ, thành nam chỉ dài chừng 300 mét, bức thành tây dài 450 mét, và cái nền cao th́ ngang dọc cũng chỉ có chừng 20 mét mà thôi”. (Hoàng Xuân Hăn, La Sơn Phu Tử, Tủ sách Việt Nam, Paris, 1983, t. 118-128)
Trong sách La Sơn Phu Tử, trang 245, có ghi bản đồ Phượng hoàng Trung đô, ở một góc có vẽ h́nh dạng Vĩnh Thành (thành cổ Vinh), h́nh lục giác có góc cạnh. Lối thành như thế này, thường được người Pháp và một số người Việt hùa theo, vơ vào, gọi là thành “Vauban”. Nhưng Vĩnh Thành có từ trước thời Quang Trung, vậy không hiểu kiểu thành Vauban này do ông Puymanel đưa lọt vào bằng cách nào? Đó là những câu hỏi chúng ta cần phải đặt ra và t́m lời giải đáp, để hiểu về kiến trúc thành tŕ ở Việt Nam, chẳng thể để cho người Pháp muốn viết sao th́ viết.
Quang Trung chiếm Lào
Sau khi đại phá quân Thanh, xây Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An năm 1789, Quang Trung tiễu trừ tàn quân của Lê Duy Chi, em Lê Chiêu Thống, chinh phạt Vạn Tượng.
Về việc này, Liệt Truyện ghi rơ: “Trước đây, Chiêu thống đế sang nước Thanh, em là Duy Chi chiếm cứ địa phương Tuyên Quang, Cao Bằng, nương tựa với thổ tù [tù trưởng Thổ] là Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với các bọn Mán ở Vạn Tượng, Trấn Ninh là Trịnh Cao, Quy Hợp, mưu phá thành Nghệ An. Huệ sai đốc trấn Nghệ An là Nguyễn [Trần] Quang Diệu làm đại tổng quản, đô đốc là Nguyễn Văn Uyên đem 5000 quân tinh binh, theo đường ở miền trên trấn Nghệ An đến đánh. Tháng 6 [ÂL, tháng 7/1791], lấy được Trấn Ninh, diệt được Trịnh Cao, Quy Hợp. Tháng 10 [ÂL, tháng 11/1791], quốc trưởng nước Vạn Tượng bỏ thành chạy, bắt được voi ngựa chiêng, trống, đuổi dài măi đến địa giới Xiêm La, chém được tướng bên tả là Phan Dung, bên hữu là Phan Siêu, bèn kéo quân về Bảo Lạc. Lê Duy Chi cùng Phúc Tấn, Văn Đồng, thế lực không địch được, đều bị hại.” (Liệt truyện Nguyễn Văn Huệ, tập 2, t. 557).
Sự Quang Trung chiếm Vạn Tượng làm rung động cả khối Xiêm, Lào, Miên và Nam Hà, Thực Lục ghi việc tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL):
“Nước Xiêm La đưa thư đến nói xin giúp quân đi theo miền thượng đạo đánh giặc Tây Sơn. Trước là giặc Tây Sơn gây oán với nước Vạn Tượng, lại dẫn quân đến đánh Vạn Tượng, Vạn Tượng thua to. Vua Xiêm muốn báo thù cho Vạn Tượng, xin ta giúp quân và yêu cầu ta đem Long Xuyên, Kiên Giang cho Mạc Công Bính, và đem Ba Xắc cho Chân Lạp. Vua sai viết thư trả lời rằng:
“Quả nhân từ khi lấy lại được Gia Định tới nay, dằn dọc một nơi, ăn không biết ngon, nằm không yên gối, rất lo nghĩ thù nước chưa trả xong. Nay nghe giặc Nguyễn Văn Huệ chọn quân Hà Bắc được hơn hai ba mươi vạn người, mưu cử đại binh thuỷ bộ vào cướp. Quân bộ th́ trước đánh các dân Man ở miền thượng đạo, tiến đánh Nam Vang, quay lại đánh sau lưng Sài G̣n. Quân thủy th́ vào Côn Lôn phá Hà Tiên, theo đường Long Xuyên, Kiên Giang để đánh mặt trước Sài G̣n. Nếu thắng sẽ đánh tới Xiêm. Đó chẳng những là thù riêng của quả nhân, mà cũng là thù của nước Xiêm nữa. Tính kế ngày nay th́ quả nhân đem quân thuỷ quân bộ đánh Quy Nhơn, mà vương th́ đem trọng binh đánh Nghệ An. Giặc giữ Nghệ An th́ vương đánh ngả trước, quả nhân đánh ngả sau; nếu giặc giữ Phú Xuân th́ vương quấy rối ở ngả sau, quả nhân đánh ngả trước, đầu đuôi giáp đánh th́ giặc không c̣n đi đâu được nữa. Đến như Long Xuyên và Kiên Giang (…) Mạc Công Bính c̣n nhỏ, chưa có thể đương việc quân (…) c̣n đất Ba Xắc không cho Chân Lạp là v́…” (TL, I, t. 284)
Xem thư đối đáp giữa vua Xiêm và Nguyễn Ánh, ta thấy vua Xiêm muốn cầu Vương chung sức để “trả thù” cho Chân Lạp, nhưng nhân tiện lại “đ̣i” luôn cả Long Xuyên, Kiên Giang, và Ba Thắc, và Vương trả lời thẳng là không “trả”. Tuy nhiên kế “liên minh” ba nước chống Quang Trung, cho thấy t́nh h́nh nguy ngập là nhường nào.
Bá Đa Lộc chuẩn bị bỏ đi, trước khi Quang Trung tấn công
Trong lúc t́nh h́nh hết sức khẩn cấp, Bá Đa Lộc và những “sĩ quan” Pháp tính chuyện bỏ đi.
Dự tính này, riêng về phiá Bá Đa Lộc, đă có từ trước, bởi ông thấy rơ t́nh h́nh từ năm 1791. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, vị giám mục viết:
“… Nhà vua đă không biết lợi dụng cơ hội mà ông ta có được để đánh bại kẻ thù, mà lại để chúng có th́ giờ hoàn hồn và chúng thấy rơ tất cả những đồn đại về việc người Âu đến giúp chỉ là chuyện hăo (leur a donné le temps de revenir de leur frayeur et de s’assurer que tout ce qu’on disait du secours des Européens n’était que chimères). Ông ta đă bắt dân đóng thuế và làm dịch vụ nặng nề, và lúc này, dân chúng bị nạn đói đe dọa nên họ có vẻ mong quân Tây Sơn đến. Trong t́nh trạng hiện thời, nếu chúng quả quyết đến tấn công, th́ nhà vua khó có thể đương đầu lại đầu được.
Tôi không cần nói, ông cũng có thể thấy trước, điều ǵ sẽ xẩy ra nếu nhà vua lại bị bắt buộc bỏ xứ chạy lần nữa. Và quân Tây Sơn sẽ kịch liệt báo thù như thế nào lên đầu giáo dân và giáo sĩ, nếu tôi cứ khăng khăng ở lại đây đến phút chót? Ngược lại, nếu tôi bỏ đi trước khi sự biến xẩy ra, tất cả người Pháp đều sẽ đi theo tôi, tôi thấy đó là phương tiện làm cho Tây Sơn nguôi giận, và buộc họ phải khen ngợi cách ứng xử của tôi. Tất cả lo lắng của tôi, đúng hơn, lo lắng lớn nhất của tôi luôn luôn là làm sao nhà vua chấp nhận cho tôi rút lui, ít nhất trong một thời gian. Tôi muốn đi Macao, Manille, ngay cả qua Xiêm, để đợi [xong] biến cố, rồi sẵn sàng để trở về hội truyền giáo sau, hay là có thể giúp đỡ hội bằng bất cứ cách nào, nhưng tôi không thể nói thẳng với ông Hoàng, sợ làm phật ḷng ông ấy, và như vậy sẽ gây mối hại lớn nhất cho hội truyền giáo, trong trường hợp ông ta thắng trận. Con đường duy nhất mà tôi có thể chọn và tôi đă làm là xin với ông ấy cho trở lại Pháp để thu xếp công việc. Nhà vua cho phép rất dễ dàng bởi v́, ông đă được những người Bồ cho biết tin về Cách mạng Pháp, và ông hiểu tại sao tôi bắt buộc phải quay về. Nhưng điều làm cho ông ấy dứt khoát quyết định, chính là v́ ông muốn gửi một chiếc tầu đi mua những thứ ông cần, và việc này ông không thể làm nếu không có sự ưng thuận của triều đ́nh. Do đó, dường như họ quyết định tôi được phép đi vào cuối tháng 11 đầu tháng 12, trên chiếc tầu đồng mà vua vừa mua của ông Gombra. Tầu này chạy tốt, sẽ trở lại đây trong ṿng 18 tháng. Trong mọi trường hợp, tôi rất muốn trở lại đây để không mất những mối liên lạc với đất nước này và để chết với thánh giá trên tay, nếu được Thượng đế an bài. Mặc dù tôi hết sức mong muốn, nhưng tôi vẫn có thể gặp nhiều khó khăn lớn; dầu sao chăng nữa, tôi cố gắng chỉ làm những điều mà tôi tin rằng tốt cho hội truyền giáo (…) Tôi để ông Liot ở lại cai quản hội truyền giáo (…) Tôi sẽ tấn phong cho ba tu sĩ, hoặc có thể bốn. Tôi cho rằng, điều bất cẩn là nếu gửi giáo sĩ đến đây mà chưa biết rơ việc ǵ sẽ xẩy ra từ đây đến tháng ba sang năm [tháng 3/1972]. Tôi rất sợ không đi kịp trước khi tai họa xẩy ra cho nhà vua, nếu có sự ấy.” (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine III, t. 294)
Lá thư này cho thấy tất cả những tính toán của vị giám mục, và những ai tôn vinh Bá Đa Lộc là “lănh tụ” bên cạnh Nguyễn Ánh trong việc đánh Tây Sơn để “dựng lại ngai vàng”, sẽ phải kiểm điểm lại “công trạng” của vị “Richelieu” này. Ông tính việc bỏ trốn, khi quân Quang Trung đến, nhưng ông lại muốn bắt cá hai tay: làm sao có thể quay về, khi một trong hai bên thắng cuộc, mà không bị thiệt hại ǵ. Từ tháng 9/1791, ông đă biết rơ “chương tŕnh” của Quang Trung là tháng 3/1792 sẽ dùng đường Lào đánh xuống Nam Hà. Ông muốn đi trước khi chiến tranh xẩy ra, để nếu Quang Trung thắng không thể trách ông được, và nếu Nguyễn Ánh thắng, ông vẫn có chỗ dung thân.
Lá thư của giáo sĩ Le Labousse viết ngày 16/6/1792, nói lên sức mạnh của Quang Trung và sự sợ hăi của tất cả mọi người. Thư này không đề rơ tên người nhận, và cũng không đề nơi viết, nhưng có thể đoán là Hà Tiên:
“Chúng tôi luôn luôn sống trong t́nh trạng thường trực báo động; t́nh thế bấp bênh của nhà vua làm cho số phận của chúng tôi cũng bấp bênh theo. Trong tháng 2 [1792] vừa rồi, chúng tôi bị bắt buộc phải bỏ rơi con chiên, đi trốn, để thoát khỏi tay kẻ thù [Tây Sơn]. Chúng tràn vào khoảng ba chục ngàn quân, qua đường Lào mà chúng đă chiến thắng, tới Cao Mên… Nhưng Thượng đế đă đảo ngược băo tố, cho chúng tôi chút yên thân; hoặc v́ chúng sợ những tầu buôn Tây phương đến đây khá nhiều; hoặc v́ chúng bị hai đạo quân Xiêm chận lại không cho vào Cao Miên, nên chúng đă rút lui. Giờ đây chúng làm chủ gần hết Nam Hà, chinh phục tất cả Bắc Hà và có lẽ cả nước Lào mà chúng vừa cướp bóc.
Vương quốc Nam Hà bị chiến tranh tàn phá từ 20 năm nay. Dân chúng rất lầm than, bị những công tŕnh xây dựng đè nát, thuế nặng, đói khát xâu xé, chiến tranh tận diệt, số phận họ như thế đó. Năm rồi trải qua một nạn đói rất nhiều người chết. Nam Hà trong t́nh trạng tuyệt vọng; những kẻ theo vua thật khốn khổ; nhưng những kẻ theo ngụy c̣n khổ hơn.” (Launay, III, t. 223).
Về Quang Trung, hăy nghe lời một cung nữ nói với mẹ Chiêu Thống: “[Tôn Sĩ Nghị] không biết Nguyễn Huệ là bậc anh hùng lăo thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam, thật là thần xuất quỷ nhập, không ai có thể ḍ biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào c̣n dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh của y, ai cũng mất cả hồn viá, sợ hơn sấm sét. E rằng bất nhật y sẽ lại ra, quân Tôn tổng đốc c̣n có cái lo bên trong, địch làm sao nổi” (Hoàng Lê nhất thống chí, t. 301). Những lời trên đây do Ngô Th́ Chí viết ra, đủ tỏ nhân sĩ Bắc Hà sợ Quang Trung như thế nào.
Dĩ nhiên trước một “cái họa Quang Trung” trước mắt như thế, các “sĩ quan” Pháp lúc đó phải t́m đường tẩu thoát, lại được thêm một việc nữa giúp vào, là việc bị Nguyễn Ánh “đuổi đi”, nên họ có thể đi mà không bị mất mặt. Theo thư của Le Labousse viết ngày 17/6/1792 cho Quản sự Letondal ở Macao, nguyên do sự kiện bị đuổi này, v́ Dayot thụt két, là như sau: “Chuyến đi xui xẻo từ Macao sang Manille của Dayot và sổ sách cực kỳ thâm lạm của anh ta đă làm cho vua ghê tởm, bực quá không thèm nói ǵ thêm, vua sai đuổi hết không chỉ các lính thủy, mà tất cả sĩ quan, ai muốn đi th́ đi, không giữ” (Launay III, t. 296).
Thư của M. Lavoué viết cho M. Létondal từ Lái Thiêu ngày 16/6/1792, cũng một ư như thế: “Nhà vua bất b́nh với những người Pháp, cho đuổi tất cả trong những ngày đầu tháng năm [1792]; hay là những người Pháp, bất b́nh với vua, xin đi và được chấp nhận ngay lập tức” (Launay III, t. 295).
Tóm lại, những “sĩ quan” đến đánh giúp Nguyễn Ánh, trong lúc kinh hoàng nhất, đều “may mắn” được bỏ đi.
Về phần Bá Đa Lộc, trong thư ngày 20/6/1792 gửi M. Boiret, ông viết: “Từ hai năm nay, tôi t́m cách thoát ra khỏi vùng này [Nam Hà] để ra Bắc [Tonkin] tấn phong cho các giám mục địa phận này, nhất là vị trợ lư của tôi. Nhà vua đă không bao giờ cho phép. V́ vậy, tôi phải khẩn thiết chấm dứt công việc, và để đánh thức nhà vua khỏi trạng thái hôn mê, tôi đă hai lần xin về Âu Châu. Ông đă nhiều lần t́m cách giữ tôi lại và đă hứa là sẽ cố gắng làm nhanh hơn”. (Launay III, t. 297).
Thư Le Labousse gửi M. Boiret, viết ở Nam Hà ngày 20/6/1792:
“Có lẽ ông đă biết tin Đức Giám Mục Adran, năm ngoái đă tính về Pháp; tầu đă chuẩn bị xong, bỗng nhiên Thượng đế nhiệm mầu cản trở tất cả. Trong lúc tôi viết thư này, người ta cũng đang sửa soạn tầu Pháp Saint-Esprit cho một chuyến đi như thế; nhưng chúng tôi hy vọng là chính vị Thượng đế ấy, đă phế chuyến đi đầu, sẽ phế cả chuyến đi sau”.
Rồi ông viết tiếp:
“V́ Đức Ông muốn bỏ đi, chúng tôi cũng phải sửa soạn cuộc tẩu thoát theo, v́ không thể ở lại được khi kẻ thù đến. Dự định của chúng tôi đă và sẽ là, nếu cần, bắt buộc, phải trốn về vịnh Xiêm La; đợi thuận gió để dong buồm đi Manille, rồi từ đó trở lại Bắc Hà, Huế, hay một nơi nào đó ở Nam Hà ngỏ cửa cho chúng tôi vào. Chúng tôi được các giáo sĩ Franciscains người Bồ tốt bụng ở Manille hứa sẽ cưu mang. Chính ông Boisserand bạn đồng giáo sẽ là hoa tiêu… Ông đang nghiên cứu bản đồ, vv… và sắm sửa dụng cụ đi biển”. (Launay, III, t. 298)
Những lá thư này cho biết khá rơ t́nh trạng của những người Pháp lúc bấy giờ: quá sợ Quang Trung, tất cả đều muốn bỏ đi. Nhưng phe giáo sĩ, chỉ muốn bỏ đi trong thời gian chiến tranh, sau đó họ lại quay về tiếp tục truyền giáo dù Quang Trung hay Gia Long thắng cuộc. C̣n những “sĩ quan”, v́ bê tha, rượu chè, cờ bạc, bị Nguyễn Ánh đuổi đi. Nhân dịp này, họ có cớ đi luôn mà không bị bẽ mặt là “hèn nhát”. Tuy nhiên cuối cùng, Nguyễn Ánh bớt giận nghĩ lại và dụ Bá Đa Lộc ở lại (chúng tôi sẽ nói rơ hơn việc này sau).
Ở đây ta có thể hiểu, tại sao vị giám mục ở lại: bởi v́ Bá Đa Lộc chỉ dọa, ông không thể về Pháp khoảng 1791-1792, v́ Pháp đang trong giai đoạn khủng bố Kinh hoàng (La Terreur) thanh trừng quư tộc và thầy tu. C̣n Nguyễn Ánh cần sự có mặt của Bá Đa Lộc v́ hai lẽ: để tuyên truyền là vẫn có người Pháp giúp và thứ nh́ không thể để cho Bá Đa Lộc đi, v́ rất có thể ông ta sẽ t́m cách ra Bắc với Quang Trung, và như vậy ông ta sẽ dâng hết những điều ông ta biết về Nguyễn Ánh để lập công.
Nguyễn Ánh và trận Thị Nại 1792
Theo Thực Lục, th́ từ tháng 2/1792 (tháng giêng Nhâm Tư) Nguyễn Ánh đă hoạch định chiến lược chống Tây Sơn:
“Vua hăng chí đánh giặc, bảo các tướng: “Hiện nay thế giặc đương mạnh mà quân ta vừa mới tập họp, chưa có thể nắm ngay cái chết của quân địch. Nhưng thù nước một ngày chưa trả th́ ḷng ta c̣n lo một ngày. Nếu năm nay không đánh, sang năm không đánh, cứ để cho giặc được rỗi th́ thế không phải là kế hay. Chi bằng dùng nhiều phương để lừa nó, đánh gấp để cho nó mệt. Hàng năm gặp mùa gió, thuỷ quân theo đường biển mà tiến, nhân chỗ hở mà đánh. Bộ binh đi từ B́nh Thuận, B́nh Khang [Khánh Hoà], lần lượt tiến lấy được một châu th́ xây thành ở một châu, được một huyện th́ đóng đồn ở một huyện, để làm phên giậu cho Gia Định, khiến thế giặc chia ra, sức giặc yếu đi, như thế th́ có thể lấy thiên hạ được”.
Từ năm ấy trở đi, hễ gặp gió nồm là ra quân đánh giặc, gió thuận th́ tiến, gió văn th́ về. Khi phát th́ quân lính họp hết, khi về th́ tản ra đồng ruộng. Quân ta không v́ đóng lâu mà mỏi, không v́ ngồi ăn mà tốn; mà quân giặc Tây Sơn th́ phải chạy vạy đối phó, không rỗi mà tính mưu.” (TL, I, t. 283).
Về phiá Nguyễn Huệ, chiếm xong Lào, mùa xuân 1792, Huệ đem 30.000 quân qua Lào, đánh xuống Cao Mên, tiến vào Nam. Nhưng tại sao Huệ lại dừng quân ở biên giới Miên-Việt mà không đánh tiếp vào Gia Định? Theo thư ngày 16/6/1792 của Le Labousse (Launay, III, t. 223), th́ có lẽ v́ Quang Trung thấy ở Gia Định có nhiều thuyền buôn Âu Châu, nên ngại, hoặc bị quân Xiêm đánh sau lưng. Giả thuyết này khó đứng vững v́ theo hịch Quang Trung dưới đây th́ ông chẳng coi bọn “mắt xanh” ra ǵ, và quân Xiêm th́ sợ ông hơn cọp, sau vụ Rạch Gầm, Xoài Mút.
Thực Lục, ghi việc tháng 6-7/1792 [tháng 5 ÂL] cho biết: “Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ kết với 40 chiếc thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi khiến chúng men các vụng biển từ miền Khang, Thuận [B́nh Khang và B́nh Thuận] trở vào, cướp bóc nhân dân” (TL, I, t. 286). Như vậy, Quang Trung đă bỏ chiến dịch đánh qua Lào, Mên, mà chọn đánh thẳng qua miền Trung xuống.
Về phiá Nguyễn Ánh, từ tháng 2/1792 đến tháng 6/1792, vẫn ở thế thủ, chắc sợ sức mạnh thần tốc của Nguyễn Huệ không dám phiêu lưu. Đến khi được gián điệp báo tin Nguyễn Nhạc tích tụ thuyền chiến ở Thị Nại mà không pḥng bị, mới quyết định đánh. Nhưng trước khi xuất quân, Nguyễn Ánh vẫn sợ Nguyễn Huệ đánh úp miền Nam, nên đă chuẩn bị rất kỹ, để các tướng: Tôn Thất Huy, Vơ Tánh và Tống Phước Đạm giữ Gia Định; Tôn Thất Hội giữ Vĩnh Long và Định Tường và Nguyễn Huỳnh Đức giữ Bà Riạ. Đại quân Nguyễn Ánh cũng chỉ đánh Thị Nại chớp nhoáng 10 ngày, xong là về ngay. Các sự trách cứ Nguyễn Ánh không thừa thắng chiếm Quy Nhơn và đánh ra Bắc (Nguyễn Huệ) của Bá Đa Lộc, của các cha cố và “sĩ quan” Pháp, mà sau này Maybon và những “sử gia” chép lại, là hoàn toàn không hiểu t́nh thế lúc bấy giờ: Quang Trung c̣n đó, không ai có thể chống cự nổi.
Về Trận Thị Nại, tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL) Thực Lục ghi như sau:
“Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đóng nhiều chiến thuyền để ở cửa biển Thị Nại, mưu toan vào cướp, kẻ gián điệp báo tin. Vua muốn ra đánh trước để chặn giặc, mới dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Vơ thuộc Trung Quân chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân, định ngày thử các chiến hạm ở ngoài biển, thuyền đại hiệu (là loại thuyền lớn) và thuyền ô sai (là thuyền nhẹ để sai phái, sơn đen), 128 chiếc” (TL, I, t. 286).
Vua sai Tôn Thất Huy, Vơ Tánh, Tống Phước Đạm giữ kinh thành Gia Định. Tôn Thất Hội giữ Vĩnh Trấn [Vĩnh Long] và Trấn Định [Định Tường], Nguyễn Huỳnh Đức giữ Bà Rịa.
Nguyễn Vương xuất quân qua của Cần Giờ, thuận gió đi thẳng tới Diên Áo (Vũng Diên), Nguyễn Văn Thành tiên phong, Phạm Văn Nhân, thứ nh́. Nguyễn Văn Trương hộ giá, Nguyễn Văn Nhuận tiếp sau. “Khi quân đến ngoài cửa biển Thị Nại, th́ trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thuỷ trại giặc. Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long và thuyền Phụng [đánh] thẳng vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rơ họ) thấy đại quân chợt đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc). Lại sai t́m bắt bọn giặc biển Tề Ngôi, bắt được ba chiếc thuyền. Vua đóng ở chợ Thị Nai, dựng cờ chiêu an phủ dụ dân chúng, cấm quân sĩ không được cướp bóc. Rồi ra lệnh rút quân về. Chiến dịch này, từ lúc xuất quân đến lúc khải hoàn chỉ hơn 10 ngày. Người ta cho là thần binh“. (TL, I, t.286-287)
Thực Lục không nói có người Pháp tham dự trận này; chỉ ghi việc, Olivier de Puymanel, tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL), được thăng từ Cai đội lên Vệ Uư ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách. Như vậy, Puymanel ở trong đội công binh và pháo binh, thuộc bộ binh, mà trận này, Nguyễn Ánh không dùng đến bộ binh, vậy ta có thể hiểu là Puymanel không dự trận này.
Xác định ngày tháng trận Thị Nại, 1792
Thực lục ghi việc hàng tháng, trừ chuyện quan trọng lắm mới ghi rơ ngày. Nhưng có một lá thư của Bá Đa Lộc, có thể giúp ta xác định được ngày của Trận Thị Nại 1792. Lá thư này được in lại ở hai nơi: Trong cuốn Montyon II, t.143, có đầy đủ đoạn đầu, nhưng không đề ngày. Trong cuốn Launay III, t. 284, có đề ngày 18/7/1792, và cho biết thư của Mgr Pigneaux gửi cho M. Boiret; nhưng lại bỏ đoạn đầu, nói về chiến tranh, và đoạn cuối có thêm vài câu không quang trọng. Chúng tôi trích dịch đoạn in ở Montyon II có liên quan đến trận Thị Nại:
“…Trong tám ngày nữa, vua sẽ đi đánh Quy Nhơn, nhà vua không có ư định lấy thành này, mà muốn để cho Nhạc giữ như một thành luỹ ngăn cản quân Bắc Hà [Nguyễn Huệ]. Thành tŕ sẽ giữ lại, c̣n vua muốn tiêu hủy tất cả, để cho Nhạc không c̣n phương tiện hại ông; và như vậy, ông có thể ra đánh Bắc Hà mà không sợ Nhạc, ông chỉ mang theo một nửa quân đội. Bộ binh của ông có 40 người Âu, trong đó có một người được lănh trọng trách cai quản 600 binh; c̣n thuỷ binh, có hai chiến thuyền Tây phương trang bị đầy đủ vũ khí. Tôi tin rằng, nếu chiến dịch này thành công, ta sẽ có cơ gửi những giáo sĩ ra Phú Yên, Nha Trang B́nh Khang, và B́nh Thuận…” (Montyon, II, t.143).
Trong thư này, Bá Đa Lộc nói về việc Nguyễn Vương sửa soạn đi đánh Quy Nhơn, và qua những yếu tố trong thư, ta có thể biết đó là trận Thị Nại 1792. “Người cai quản 600 binh” là Puymanel, v́ anh ta mới được lên chức Vệ Uư.
Nhờ ngày tháng ghi trong lá thư mà ta biết đúng ngày Nguyễn Vương khởi hành đi đánh Quy Nhơn, v́ thư viết ngày 18/7/1792, và nói tám ngày nữa vua khởi hành; vậy Nguyễn Ánh xuất phát ngày 26/7/1792, và theo Thục Lục, chiến dịch kéo dài 10 ngày, do đó ta có thể xác định, chiến dịch đánh Thị Nại bắt đầu từ ngày 26/7/1792 và chấm dứt ngày 5/8/1792.
Tác giả Sử kư Đại Nam Việt cho chúng ta một số thông tin khác về trận Thị Nại, đáng chú ư:
“Năm 1791 [thực ra là 1792] (…) khi vua dọn được nhiều tầu chiến, nhiều khí giái [giới], và tu bổ thành Sài G̣n cho vững thế đoạn, th́ dốc ḷng đi t́m quân giặc cùng đem quan quân ra khỏi cửa Lấp, là cửa Sài G̣n, mà kéo ra Qui Nhơn. Khi ấy ông Thái Đức chẳng hồ nghi đều ǵ, những ngỡ ḿnh đặng bằng yên vô sự; lại đi săn xa lắm, bao nhiêu tầu ông ấy th́ đă họp trong cửa Chợ Giă gần Quy Nhơn hết thẩy.
Vậy tầu ông Dade cai th́ đi trước, mà Nguyễn Ánh cùng các tầu th́ đi sau, cách xa một trống canh đàng. Ông Dade vào một ḿnh mà bắn súng đánh các tầu quân giặc. Quân giặc thấy tầu Tây th́ sợ hăi lắm; song cũng ra sức bắn trả, mà không mũi nào nhằm sốt. Ông Dade vào cửa nhằm khi nước ṛng, nên tầu ông ấy phải mắc cạn chẳng đi được nữa (…)
Qua một ít lâu, th́ vua cùng các tầu khác mới vào cửa mà đánh: quân giặc phải thua trận cả thể (…) Khi đầu vua thấy ḿnh được trận làm vậy th́ mừng quá, mà truyền đốt các tầu quân giặc. Bấy giờ có một tầu lớn và một kho đầy tiền, c̣n hai kho khác đầy đồ đạc, quần áo, th́ vua truyền đốt ba kho ấy đi, cho quân giặc chẳng dùng đặng nữa. Nhưng khi vua thấy lửa phát lên cháy bấy nhiêu tầu th́ lấy làm tiếc lắm, lại truyền ra sức chữa lửa đi; nên c̣n giữ lấy năm chiếc tầu trận lớn, hai mươi chiếc nhỏ, và bốn mươi thuyền nhỏ. Vua cũng lầm một điều nữa, là khi ông Thái Đức đi khỏi như đă nói trước, mà quan quân kinh khiếp, v́ đă thua, th́ vua phải thừa dịp mà vây thành Quy Nhơn và bắt các xứ xung quanh nữa. Nhưng mà vua ngại, v́ ít quân chẳng dám lên vây Qui Nhơn, môt đem binh khởi [khải] hoàn mà thôi.” SKĐNV, t.58-59).
Sử Kư Đại Nam Việt cho ta biết một chi tiết quan trọng: Thái Đức đi săn xa, vắng. Đó cũng là một trong những lư do chính khiến Nguyễn Ánh thành công dễ dàng.
Một điểm nữa, tác giả nói đến ông Dade, và ở một đoạn trước cho biết Dade là Puymanel. Có lẽ tác giả nhầm, như trên đă nói Puymanel ở trong bộ binh. Dade ở đây chỉ có thể là Dayot, v́ tên Dayot cũng được Barrow nhắc tới: nghe nói Dayot v́ xông xáo quá mà tầu bị mắc cạn. Nếu đúng Dayot, th́ ta có thể hiểu: sau vụ thâm lạm bị Nguyễn Ánh đuổi đi, nhưng anh ta xin ở lại và muốn lập công để chuộc tội. Đến tháng 4/1795, Dayot bê tha, làm đắm tầu, trước khi Nguyễn Ánh hành quân, mới bị kết án tử h́nh và trốn đi luôn.
SKĐNV cũng nhắc đến vụ Nguyễn Ánh đốt tầu Tây Sơn rồi nghĩ lại, cho chữa lửa, không ghi trong chính sử. Nhất là tác giả nói đến bản Hịch Quang Trung, hoàn toàn không có dấu vết trong chính sử:
“Ông Quang Trung khi nghe anh ḿnh đă phải thua làm vậy, th́ giận bẩy gan; lại sợ e ông Nguyễn Ánh lại ra đánh ḿnh, nên họp binh sĩ lại và sắm sửa các tầu các ghe cho đặng cứu giúp anh. Lại muốn giục ḷng binh sĩ, th́ đă thương dụ nhắc lại các việc cá thể ḿnh làm, và những trận đă được xưa nay; lại thêm những lời khinh dễ ông Nguyễn Ánh rằng: “Danh Chủng (tên Nguyễn Ánh khi c̣n nhỏ) trốn ẩn ḿnh nơi nọ nơi kia, và cầu những Tây dương nhơn đến cứu giúp. Dầu danh Chủng, dầu các Tây Dương nhơn th́ cũng chẳng làm chi được, v́ chẳng có gan [can] đảm cùng chẳng hay nghề vơ; chớ khá đem ḷng sợ làm chi”.
Người nói nhiều điều khác kiêu căng lắm vậy, song chẳng kịp lo liệu việc ǵ; v́ Quang Trung mê tửu sắc lắm, chóng ra hư thân, những buồn bă quá lẽ, hay là hoảng hốt cuồng tâm mà chết, khi mới bốn mươi lăm tuổi.” (SKĐNV, t.59-60). Theo Liệt truyện, Quang Trung mất năm 40 tuổi.
Chứng này cho thấy tác giả Sử Kư Đại Nam Việt biết rơ nhiều chuyện, đă đọc bản Hịch của Quang Trung, mà Hịch này có lẽ đă hoàn toàn bị thủ tiêu.
Hịch Quang Trung
Hịch Quang Trung được in trong Kư sự Bissachère (t.173-176) do Maybon biên soạn, Paris, 1920 và in trong phần Phụ lục tác phẩm của Montyon (Montyon II, t.138-140), London, 1811. Bản Bissachère ghi tên hịch này như sau:
Manifeste de Quang Trung, Roy de la Haute-Cochinchine et du Tonquin à tous les Mandarins, Soldats et Peuple des provinces de Quang-Gai et de Quin-Hone
(Tiré des Nouvelles des Missions Etrangères de 1802, traduction faite par M. de La Bissachère)
“Hịch của Quang Trung, vua miền Bắc Nam Hà và Bắc Hà gửi toàn thể Quan, Quân, Dân vùng Quảng Ngăi và Quy Nhơn
(Rút ra từ Thông Tin của Hội thừa sai Ngoại quốc, 1802, do Ô. de La Bissachère dịch)”
Maybon chú thích: “Bản hịch này chúng tôi cho rằng đă in lần đầu trong Les Nouvelles des Missions Orientales (Thông tin của hội Thừa sai Đông phương) do những giám đốc Hội thừa sai Ngoại quốc nhận được ở Luân Đôn những năm 1793, 1794, 1795, 1796, t. 142; không đề tên người dịch. Montyon in lại, II, trang 306 [Maybon dùng sách Montyon, bản Paris, nên không cùng số trang với bản in Luân Đôn mà chúng tôi dùng], những lỗi chính tả và dấu sai trong bản La Bissachère được sửa lại” (Maybon, Relation de La Bissachère, t.174).
Bản Montyon có tên như sau:
Manifeste
De Quang Trung, Roi de la Cour de Cochinchine et du Tonkin
A Tous les Mandarins, Soldats et Peuples des Provinces de Quang-Ngai, et de Qui-Nhon
So sánh hai văn bản, chúng tôi thấy Montyon không chỉ sửa lỗi chính tả và dấu, mà c̣n viết lại những câu vụng; có câu không thấy trong bản Bissachère. Như vậy, có bốn giả thuyết:
- Bản Bissachère, không phải do chính Bissachère dịch, v́ ông kém tiếng Pháp, mà ông chỉ chép lại một bản người khác dịch hoặc dịch chung với người khác.
- Montyon dùng bản Bissachère nhưng sửa câu, sửa lỗi.
- Montyon có một bản khác, dịch đúng hơn, không đề tên người dịch.
- Montyon dịch thẳng từ bản chữ Hán của Quang Trung.
Chúng tôi dùng bản Montyon, v́ ít lỗi hơn. Đây chỉ là sự dịch lại một bản dịch, nhưng không thể làm khác, bởi nguyên bản của vua Quang Trung chắc không c̣n nữa.
Hịch
của Quang Trung, Vua Nam Hà và Bắc Hà
gửi toàn thể Quan, Quân, Dân hai xứ Quảng Ngăi và Qui Nhơn
“Các ngươi, lớn, nhỏ, từ hơn hai mươi năm nay không ngừng sống nhờ ân huệ của anh em ta. Đành rằng nếu chúng ta đă gặt hái được những chiến thắng trong Nam ngoài Bắc trong thời kỳ này, quả đúng cũng nhờ vào sự gắn bó của nhân dân hai xứ; ở đó, ta đă t́m được những người can đảm, những quan lại có khả năng xây dựng triều đ́nh.
Quân ta tiến đến đâu, giặc tơi bời, tan tác. Quân ta chinh phạt đến đâu, giặc Xiêm, giặc Tầu tàn ác buộc phải chịu ách cúi đầu…
C̣n lũ nhơ bẩn của triều đ́nh cũ, từ hơn ba mươi năm nay, ta chưa thấy chúng làm được việc ǵ ra hồn!… Trăm trận ta đánh với chúng, quân chúng tan ră, tướng chúng bị tiêu diệt; vùng Gia Định tràn đầy xương cốt chúng. Những điều ta nói đây các ngươi đă từng chứng kiến; nếu các ngươi không thấy tận mắt th́ cũng đă nghe kể lại.
Xá ǵ tên Chủng khốn nạn đi chui luồn những triều đ́nh Âu Châu tồi bại? C̣n đám quần chúng khiếp nhược ở Gia Định bây giờ dám đứng lên đầu quân, các ngươi há ǵ mà sợ chúng thế? Sao các ngươi lại bị khủng hoảng tinh thần đến vậy? Nếu bộ binh và thủy binh của chúng bất ngờ xâm phạm những cửa biển của các ngươi; th́ cứ theo những chỉ dụ của Hoàng Đế [Thái Đức] đă viết sẵn mà làm. Ta thấy các ngươi, quan cũng như quân, cả hai xứ, đều không có can đảm chiến đấu. Thực chỉ v́ lẽ đó chứ không phải v́ quân giặc có tài cán ǵ mà chúng làm chủ được hết các vùng chúng xâm lược. Bộ binh của các ngươi hèn nhát trốn chạy.
Nay, chấp lệnh của Hoàng đế, anh ta, ta chuẩn bị một binh đội thuỷ, bộ kinh hồn, nhân danh ta, nghiền nát chúng dễ như “bóp tan mảnh gỗ mục”.
C̣n các ngươi, các ngươi không cần đếm xỉa đến kẻ thù, cũng đừng sợ chúng, chỉ cần mở mắt, dóng tai, mà nh́n, mà nghe, những ǵ ta sẽ làm. Các ngươi sẽ thấy các xứ B́nh Khang, Nha Trang đầy mảnh vụn xác người Gia Định, sẽ thấy Phú Yên, luôn luôn là trung tâm của chiến tranh và từ B́nh Thuận đến biên giới Cao Mên, tất cả, chớp nhoáng, sẽ trở về tay ta, để mọi người biết rằng chúng ta đích thực là anh em, không bao giờ ta quên t́nh máu mủ.
Ta khuyên các ngươi, lớn nhỏ, hăy pḥ trợ Hoàng gia, trung thành với Hoàng đế, trong khi chờ đợi ta quét sạch Gia Định, thiết lập lại chính quyền, th́ tên tuổi của hai xứ sẽ trở thành bất tử trong sử sách.
Đừng cả tin những ǵ lũ người Âu nói. Khéo léo tinh xảo ǵ chúng nó? Tất cả đều một bọn mắt rắn xanh. Các ngươi chỉ nên nh́n chúng như những xác chết trôi được vất xuống từ biển Bắc. Có ǵ ghê gớm đâu mà ba hoa chiến hạm bọc đồng, đạn đồng.
Tất cả làng mạc trên đường hành quân trong hai xứ phải góp sức làm cầu cho quân đi qua. Nhận được lệnh này, phải triệt để thi hành ngay.
Khâm tai! Đặc chiếu.
Quang Trung năm thứ 5, ngày thứ 10, tuần trăng thứ bẩy”.
Tức ngày 27/8/1792.
Montyon II, (t.138-140). Thụy Khuê dịch.
Ngày 27/8/1792 Quang Trung truyền hịch san bằng Gia Định. Ngày 16/9/1792, Quang Trung mất. Bài hịch cho thấy ba điểm: ư chí quyết liệt chiếm lại miền Nam; sự khôn khéo của Quang Trung và t́nh h́nh chính trị lúc bấy giờ. Anh em Tây Sơn chưa thoát khỏi nghịch cảnh bất hoà. Việc hành quân đánh Nguyễn Ánh qua hai vùng Quảng Ngăi và Quy Nhơn, là đất của Nguyễn Nhạc, không dễ, nên Nguyễn Huệ phải có hịch truyền đi trước, để:
1- Chứng tỏ ḿnh theo lệnh anh mà đánh. Tôn anh làm Hoàng đế. Ḿnh chỉ là vua, nhưng vua trị v́ cả Nam Hà lẫn Bắc Hà.
2- Đánh giặc cho anh. Nhưng nhân danh ḿnh và quân đội của ḿnh.
3- Mắng quan, quân, dân hai miền Quảng Ngăi và Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc là hèn nhát để mất đất về tay Nguyễn Ánh.
4- Không khiến dân quân hai miền này góp phần vào chiến trận, ngoài việc làm cầu đường.
5- Gọi Nguyễn Ánh bằng Chủng, tên tục hồi bé, là một xỉ nhục.
6- Khinh bỉ người Âu, cho sự cầu cạnh người Âu là đê tiện.
Bài hịch vừa dằn mặt vừa khích lệ dân chúng của Nguyễn Nhạc; mắng nhiếc Nguyễn Ánh về việc nhờ người Âu, đồng thời cũng cho thấy hiệu quả chính sách tuyên truyền của Nguyễn Ánh: việc người Âu đến giúp chỉ là huyền thoại, Bá Đa Lộc từ Pháp về tay không, Louis XVI từ chối không giúp; người ta đồn lên là Bá Đa Lộc tự t́m lấy nguồn tài trợ, nhưng chính Bá Đa Lộc cũng cho biết việc “giúp” là “chimère” tức là “ảo tưởng”, như ta đă thấy trong bức thư ông viết ngày 14/9/1791, mà chúng tôi trích dẫn ở trên.
Theo Trịnh Hoài Đức ngay từ năm 1778, Nguyễn Ánh đă đóng những tầu đầu bọc nhọn, giả làm tầu Tây phương: “… phàm tại các cửa sông đều đóng cọc cây ngăn cản tầu để chống giữ và bí mật đóng hơn 50 chiếc chiến hạm tại sông nhỏ Thị Tĩnh thuộc sông An Thông. Mấy chiến hạm này đầu bọc nhọn, đầu và thân đều gắn ba tấm ván có vẽ h́nh như hạm của Tây dương, lại giăng lưới gọi là Long Lân thuyền, lại chỉnh bị bè cho hoả công”. (Gia Định Thành thông chí, Vật sản chí).
Như vậy, loại thuyền Long Lân, ghi trong Thực Lục (I, t. 206), đóng năm tháng 4/1778 [tháng 3ÂL], chính là thuyền Tây dương “giả”.
Nguyễn Ánh làm thuyền Tây dương giả, rồi đồn ầm lên là có quân Pháp giúp, để gây áp lực cho địch, khiến Quang Trung cũng tin là có thật.
Việc dùng ba người Pháp Chaigneau, Vannier và Forcant chỉ huy ba thuyền đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi hộ tống vua trong chiến dịch 1801-1802, cũng nằm trong chính sách tuyên truyền ấy.
Việc Bá Đa Lộc t́m mọi cách để bỏ đi trước khi Quang Trung đánh, và những “sĩ quan” Pháp bỏ đi theo, đă tỏ rơ “công lao” của những người Pháp này như thế nào trong việc giúp Nguyễn Ánh trở lại ngai vàng.
Sự thành công của Gia Long, phần lớn phụ thuộc vào cái chết của Quang Trung. Nếu Quang Trung không chết, cục diện chiến tranh chưa biết sẽ thế nào. Ngay cả sau khi Quang Trung chết, với sự non yếu và sự giết hại công thần của Quang Toản, Trần Quang Diệu vẫn c̣n cầm cự thêm được 10 năm nữa. Như vậy đủ biết, chiến thắng Tây Sơn không phải dễ dàng, những người như Bá Đa Lộc, hay các giáo sĩ và các “sĩ quan” Pháp thường trách Nguyễn Ánh không đánh mạnh, đánh ngay, bởi họ không hiểu ǵ về sức mạnh quân sự của Tây Sơn.
Phụ lục, bản tiếng Pháp
MANIFESTE
De Quang Trung, Roi de la Cour de Cochinchine et du Tunkin,
A Tous Les Mandarins, Soldats, et peuples des Provinces de Quang-Ngai et de Qui-Nhon
Vous tous grands et petits, depuis plus de 20 ans ne cessez de subsister par nos bienfaits, nous frères (Tay-son), il est vrai que pendant tout ce temps, si nous avons remporté des victoires dans le nord et dans le sud, nous reconnaissons que nous les devons à l’attachement des peuples de ces deux provinces. C’est là où nos avons trouvé des hommes courageux et des mandarins capables pour former notre cour. Partout où nous avons porté nos armes, nos ennemis ont été défaits ou dispersés; partout où nous avons porté nos conquêtes, les Siamois et les cruels Chinois ont été obligés de subir le joug… Quant aux restes impurs de l’ancienne cour, depuis plus de 30 ans avons-nous jamais vu qu’ils eussent rien fait de bien!… Dans cent combats que nous leur avons livrés, leurs soldats ont été dispersés, leurs généraux mis à mort, la province de Gia-Dinh a été remplie de leurs ossemens. Ce que nous disons ici, vous en avez été les témoins, et si vous ne l’avez vu de vos propres yeux, au moins l’avez-vous entendu de vos oreilles, quel cas faire de ce misérable Chung (Roi actuel régnant) qui s’est enfoui dans les malheureux royaumes d’Europe? Quant au peuple timide de Gia-Dinh, qui ose aujourd’hui de mettre en mouvement, et lever une armée, pourquoi les craignez-vous tant? Pourquoi votre coeur est-il saisi d’effroi? Si leur armée de terre et de mer s’est présentée dans tous vos ports, et s’en est emparée dans un temps où vous ne vous y attendiez pas, le grand empereur nous en a déjà fait connaître les raisons par lettres; et nous avons vu que les mandarins, les soldats et vous tous dans ces deux provinces, n’aviez pas eu le courage de combattre, et que c’est par cette raison plutôt que par leurs talens qu’ils s’étaient emparés de tous les endroits qui sont aujourd’hui en leur possession. Votre armée de terre, s’est enfuie lâchement. Maintenant, par l’ordre de notre frère empereur, nous préparons nous-mêmes une armée formidable par terre et par mer, et nous allons réduire les ennemis de notre nom avec la même facilité que nous froisserions un morceau de bois pourri ou du bois sec. Quant à vous tous, ne faites en aucun cas de ces ennemis; ne les craignez point; mais seulement ouvrez les yeux et les oreilles pour voir et entendre ce que nous allons faire. Vous verrez que les province de Binh Khang et de Nha Trang qui ne sont que des débris de Gia-Dinh, que la province de Phu-Yen qui a toujours été le centre de la guerre, et qu’enfin depuis la province de Binh-Thuan, jusqu’au Cambodge, toutes d’un seul coup vont rentrer sous notre puissance; afin que tout le monde sache que nous sommes véritablement frères, et que nous n’avons jamais pu oublier que nous étions du même sang. Nous vous exhortons tous, grands et petits, de soutenir la famille de l’empereur et de lui rester fidèlement attachés, en attendant que notre armée purifie la province de Gia-Dinh et d’y établisse notre autorité, et les noms de vos deux provinces seront immortels dans nos annales. Ne soyez pas assez crédules pour ajouter foi à ce qu’ont dit des Européens. Quelle habileté peut avoir cette espèce d’hommes? Ils ont tous des yeux de serpens verds, et vous ne devez les regarder que comme des cadaves flottans qui nous sont jettés ici par les mers du nord. Qu’y a-t-il là d’extraordinaire pour venir nous parler de vaisseaux de cuivre, et de ballons? Tous les villages qui se trouvent sur les chemins dans vos deux provinces auront soin de faire partout des ponts, afin de faciliter la passges de nos troupes. Aussiôt que cet ordre vous parviendral, vous aurez soin de vous y conformer. Recevez avec respect ce manifeste; car tel est notre bon plaisir.
Le 10ème jour de la 7ème lune, de la 5ème année de Quang Trung.
Thụy Khuê
Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-10/
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 9: Kư sự Bissachère, thuỷ tổ sự bóp méo lịch sử
Bissachere2Sử gia Charles B. Maybon và linh mục học giả Cadière là hai người có công đầu trong việc “xây dựng lại sự nghiệp” của những người Pháp đến giúp Gia Long. Cadière sưu tầm tài liệu, văn bản, thư từ, dấu vết, dịch các văn bằng, tước vị, t́m lại đời sống, nơi cư ngụ, mộ phần… của những người Pháp; c̣n Maybon viết lại giai đoạn lịch sử này. Sự nghiên cứu của Cadière và những tác giả khác trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế, BAVH) về những nhân vật này thực là cặn kẽ, ví dụ: không một chi tiết nhỏ nào về đời sống của Chaigneau là không được truy lùng t́m kiếm, rồi chiếu tỏ lên, ông được thượng diễn như một vị đại thần, có vai tṛ chủ yếu trong triều đại Gia Long.
Về phần Maybon, tác phẩm ṇng cốt của ông là bộ sử thời danh, tựa đề Histoire moderne du pays d’Annam, (1592-1820), étude sur les premiers rapports des Européens et des Annamites et sur l’établissement de la dynastie annamite des Nguyễn (Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820), khảo luận về những giao tiếp đầu tiên giữa người Âu với người An Nam và về sự xây dựng triều đại An Nam nhà Nguyễn), Librairie Plon, Paris, 1920. Phần chủ yếu trong cuốn sử này viết về giai đoạn Gia Long dựng nghiệp. Để hậu thuẫn cho những lập luận trong cuốn Histoire moderne du pays d’Annam, Maybon cho in cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Kư sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông de La Bissachère) với những ư định rơ ràng:
1- Bác bỏ những điều Barrow và Montyon viết về Gia Long bằng cách phê phán gắt gao hai tác giả này.
2- Xác định sự “đáng tin cậy” của Bissachère và Sainte-Croix, hai tác giả được ông giới thiệu trong La Relation de la Bissachère (Kư sự Bissachère). Maybon dựa vào những điều Bissachère và Ste-Croix viết trong Kư sự Bissachère, để thiết lập “sự thực” về “công trạng lớn lao” của Bá Đa Lộc và những “sĩ quan” Pháp đến giúp Gia Long, mà ông cho rằng Thực Lục và Liệt Truyện đă cố t́nh bỏ qua.
3- Cách tŕnh bầy chứng từ và lập luận tỏ ra vững vàng và “khoa học” của Maybon đă khiến cho hầu như tất cả mọi người đều khâm phục và tiếp nhận những điều ông viết như những “sự thực cuối cùng”, rồi phụ hoạ hoặc chép theo mà không cần đặt câu hỏi.
4- Tính cách nghiêm túc của tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du vieux Huế, BAVH) và tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême Orient, BEFEO), mà hai học giả này phụ trách, đă bảo lănh rộng răi cho những điều mà họ đưa ra về giai đoạn lịch sử này.
5- Về phần người Việt, sau hơn thế kỷ bị Pháp đô hộ, đă mất gần hết bản tính tự cường về tư tưởng, không c̣n khả năng làm lấy việc của ḿnh, trở thành ỷ lại, cái ǵ người ngoài, người Âu, nhất là người Pháp làm, đều hơn ta cả. Đó là lư do giải thích tại sao, trong một trăm năm qua, đă không có lấy một bài viết nào đả phá những sự bịa đặt thô thiển của những ng̣i bút thực dân về giai đoạn này, cũng không có bộ sử nào khả dĩ có thể thay thế được cuốn sử của Trần Trọng Kim. Và đó cũng là cái nhục tinh thần của một dân tộc, ngoài cái nhục mất nước.
*
Cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Kư sự về Bắc Hà và Nam Hà của Ô. de La Bissachère) do Charles B. Maybon tŕnh bầy, viết lời giới thiệu và chú thích, nxb Champion, Paris, 1920 (sẽ dẫn là Kư sự Bissachère, hoặc Bissachère) v́ gắn bó với tên tuổi sử gia Maybon, nên được nhiều người trích dẫn, kể cả các học giả nổi tiếng.
Bản Maybon in năm 1920, là bản thứ ba, tức là ra đời khá chậm, nhưng tại sao một số điều ghi trong sách này lại có ảnh hưởng rất sâu, từ trước năm 1920? Bởi v́, cách đấy hơn một thế kỷ, năm 1810, Sainte-Croix đă cho in lần đầu bản Kư sự này trong cuốn sách của ông tựa đề “Voyage commercial et politique aux Indes Orientales…” (Hành tŕnh thương mại và chính trị ở Đông Ấn…); và những sự bôi nhọ Gia Long có tính cách “giật gân, kinh dị” do Bissachère viết ra, đă được truyền đi từ 1810, tức là cách đây hơn hai thế kỷ.
Maybon cho in lại những điều nhơ nhuốc ấy năm 1920, v́ ba lư do:
Thứ nhất: xác định lại tên tác giả Kư sự này là Bissachère chứ không phải Sainte-Croix.
Thứ nh́: giới thiệu những điều Sainte-Croix viết trong bài Introduction (Nhập đề) như một loại chứng khác, chưa hề in ở đâu. Bài viết này đưa ra những “thông tin” quái đản khác về Gia Long và nhất là thổi phồng “công trạng” của các “sĩ quan” Pháp.
Thứ ba: Cả Bissachère lẫn Sainte-Croix đều tôn sùng Bá Đa Lộc và đề cao sự nghiệp các “sĩ quan” Pháp, trong việc giúp Gia Long lấy lại ngai vàng, điều mà Maybon muốn xác định trong bộ sử Histoire moderne du pays d’Annam để vinh danh công trạng của người Pháp trong việc Gia Long thống nhất nước Nam.
Relation de la Bissachère, thủy tổ việc bóp méo lịch sử Pháp-Việt
Bissachère là ai?
Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère sinh khoảng 1764 tại Angers. Học đạo. Gia nhập hội Thừa sai Ngoại quốc Paris. Tháng 3/1790, ông rời Orient; sang Bắc Hà hoạt động ở vùng Nghệ An. Theo Maybon, năm 1795, đạo chúa ở vùng Nghệ An bị đàn áp, ông phải trốn tránh. Năm 1798, 1799, có những đàn áp mới, Bissachère phải sống chui nhủi khổ cực. Tới 1800, t́nh trạng khá hơn, Bissachère trở lại Nghệ An. Khi Gia Long đánh ra Bắc, đầu tháng 7/1802 đến Nghệ An, vẫn theo Maybon, Giám Mục Castorie [La Mothe] và La Bissachère đến chào. Năm 1806, Bissachère bị bệnh, phải về Macao, tại đây, năm sau, ông gặp và trao cho viên sĩ quan kỵ binh Renouard de Sainte-Croix, tập bản thảo kư sự của ông, trước khi về Anh tỵ nạn [Hội thừa sai Pháp sau cách mạng 1789 phải chạy sang Anh]. Tại Luân Đôn, sinh sống khó khăn, ông gặp nam tước de Montyon ở Pháp sang tỵ nạn chính trị; có lẽ họ đă trao đổi với nhau về cuốn kư sự này. Năm 1815, Pháp trở lại chế độ vương triều, Louis XVIII lên ngôi, Bissachère về Pháp, trở thành chuyên gia của chính phủ Pháp về t́nh h́nh Á Đông, đặc biệt Việt Nam. Ông mất năm 1830 (Theo tiểu sử Bissachère do Maybon soạn trong bài Introduction, Kư sự Bissachère, t. 5).
Vị giám mục cai quản địa phận Bắc hà từ 1773 đến 1823 là Jean Labartette. Ông sinh ở Ainhoa, miền nam Pyrénées ngày 31/1/1744, đi truyền giáo ngày 29/11/1773, thăng giám mục năm 1774 và mất ở Cổ-Vưu, thuộc Quảng Trị ngày 6/8/1823 (Launay III, t. 12).
Theo thư từ ông viết về hội truyền giáo, ta có thể biết đại lược t́nh h́nh: từ 1773 đến 1785: đạo Gia Tô ở Bắc Hà được an toàn. Từ khi Nguyễn Huệ, chiếm được chính quyền ở Phú Xuân, năm 1786, mọi sự thay đổi: Nguyễn Huệ không thích đạo giáo nói chung, buộc các sư săi về nhà, làm ruộng, đi lính, đóng cửa chùa chiền, giáo đường và cho lệnh t́m bắt giáo sĩ.
Khi Bissachère đến Bắc Hà trong năm 1790, vua Quang Trung đă đuổi xong quân Thanh và thu phục toàn thể đất Bắc, thời điểm này Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An cũng đă xây xong. Bissachère ở trong vùng Nghệ An, chắc là phải chịu sự hà khắc đó.
Félix Renouard de Sainte-Croix (1767-1840)
Người thứ nh́ đóng góp vào sự xuyên tạc lịch sử là Félix Renouard de Sainte-Croix, sự tác hại của những điều ông viết trong bài Introduction (Nhập đề) dài 28 trang, được Maybon in lại, tương đương hay tệ hơn Bissachère.
Sainte-Croix là người được Bissachère phó thác những ḍng kư sự của ḿnh, ông là cựu sĩ quan kỵ binh, sang Á Châu theo hạm đội của tướng Decaen [có nhiệm vụ tiếp nhận các thuộc địa Pháp ở Á Châu được Anh trả lại sau hiệp định Amiens 27/3/1802)], ông đến Pondichéry (Ấn độ) tháng 7/1803. Ở Ấn Độ một năm, rồi sang Phi Luật Tân. Trở về Macao cuối 1806. Sang Quảng Đông, qua Đà Nẵng nhưng không ghé lại. Gặp Bissachère ở Macao và được trao bản thảo tập kư sự, năm 1807.
Ba năm sau, Ste-Croix cho in bộ sách nhan đề “Voyage commercial et politique aux Indes Orientales, aux Iles Philippines, à la Chine, avec des Notions sur la Cochinchine et le Tonkin pendant les annéés 1803, 1804, 1805, 1806 et 1807” (Hành tŕnh thương mại và chính trị ở Đông Ấn, Phi Luật Tân, Trung Hoa, với những khái niệm về Nam kỳ và Bắc kỳ trong những năm 1803…1807) (Aux Archives du droit français, Imprimerie Crapelet, Paris, 1810).
Bộ sách này gồm ba tập, viết dưới h́nh thức 80 lá thư gửi bạn, kể lại những điều Ste-Croix ghi nhận trong 5 năm công tác ở Á Châu. Lá thư chót, trá đề Đà Nẵng ngày 25/12/1807 [v́ Ste-Croix không vào Đà Nẵng, chỉ đi qua] tựa là Notions préliminaires sur la Cochinchine et le Tonkin (Khái niệm sơ bộ về Nam Hà và Bắc Hà) (t. 221-289), viết về t́nh h́nh nước Nam; và đó chính là Kư sự Bissachère, được sửa đổi cách sắp xếp, không đề tên tác giả, chỉ nói là của một giáo sĩ đă sống ở Việt Nam nhiều năm.
Kư sự Bissachère do Ste-Croix in năm 1810, sẽ là nguồn phát xuất những thông tin bôi nhọ Quang Trung, Gia Long và dân tộc Việt, cách đây hơn hai thế kỷ, in ở Paris.
Maybon và Kư sự Bissachère
Một thế kỷ sau, Maybon t́m thấy trong văn khố Bộ ngoại giao Pháp, tập bản thảo gồm có:
- Một bài Avant-propos (Tựa) không kư tên, của Sainte-Croix (4 trang).
- Một bài Introduction (Nhập đề) không kư tên (28 trang) cũng của Ste-Croix.
- Một bài Récit abrégé de quelques circonstances de la conquête du Tonkin par le prince annamite connu sous le nom de Gia Long (Bài tóm lược vài cảnh đánh chiếm Bắc Hà của ông hoàng nước Nam tên là Gia Long) do Bissachère viết (17 trang).
- Một bài kư sự tựa đề Des Notions sur le Tonkin (Những khái niệm về Bắc Hà) của Bissachère (49 trang).
- Hai tư liệu đính kèm (Hịch Quang Trung và Những thông tin về Bắc Hà).
Maybon thu thập tất cả những tài liệu này và in trong cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Kư sự về Bắc Hà và Nam Hà của Ô. de La Bissachère) do chính ông tŕnh bầy, viết lời giới thiệu và chú thích.
Maybon nói rơ mục đích của ḿnh trong bài Introduction ở đầu sách:
“Có ba điều bổ ích trong việc in lại sách này: Thứ nhất, trả lại cho cuốn sách dạng thức ban đầu mà tác giả viết. Văn bản c̣n kèm theo những chú thích của Renouard de Sainte-Croix, đă bị bỏ đi trong lần in lần đầu. Sau cùng, hai bài “Avant-Propos” và “Introduction” của Sainte-Croix hoàn toàn “inédits”, chưa in ở đâu, trừ vài lầm lỗi, chứa đựng những thông tin về lịch sử Việt Nam, lại càng quư giá hơn nữa, v́ đến từ Jean-Marie Dayot, một sĩ quan Pháp đă phục vụ đắc lực cho ông hoàng An Nam từ đầu cuộc chiến chống phiến loạn” (Maybon, Kư sự Bissachère, Introduction, t. 6-7).
Câu của Maybon “trừ vài lầm lỗi, chứa đựng những thông tin về lịch sử Việt Nam, lại càng quư giá hơn nữa, v́ đến từ Jean-Marie Dayot” đă xác định điều này: Maybon đánh giá cao bài Introduction của Sainte- Croix v́ bài này Ste- Croix viết theo lời Dayot thuật lại.
(Dayot, là một trong những lính Pháp đến giúp Gia Long, được vua tin dùng, nhiều lần được trao nhiệm vụ đi mua khí giới ở nước ngoài. Năm 1792, Dayot phạm tội thâm thủng ngân quỹ trong một chuyến đi, bị đuổi, nhưng xin ở lại. 1795, Dayot làm đắm tầu, bị xử tử, trốn đi luôn, sống ở Phi Luật Tân, tại đây, gặp Ste- Croix, và kể cho Ste-Croix những điều y viết trong bài Introduction này).
Cuốn Kư sự Bissachère chia làm ba phần:
- Trang 5-70: là bài Introduction do Maybon viết, về sự ra đời của cuốn sách lần này, về hai ấn phẩm in năm 1810 của Sainte-Croix và năm 1811 của Montyon. Bài Introduction này dài hơn 1/3 cuốn sách (bài Introduction của Maybon dài 64 trang, bài Introduction của Ste- Croix dài 28 trang và Kư sự Bissachère dài 66 trang), có ba điểm nổi bật: đả kích và triệt hạ tác phẩm của Barrow và Montyon và vinh thăng sự nghiệp Dayot.
- Trang 71-104: Bài Avant- Propos và Introduction của Ste-Croix.
- Trang 105-172: dành cho phần Kư sự Bissachère.
Maybon trân trọng giới thiệu cuốn Kư sự Bissachère trong bài Introduction dài 64 trang, nên cuốn sách này sẽ được mọi người sử dụng như những tư liệu đáng tin cậy, nhờ tên tuổi của Maybon. Trong sách, v́ có tới 2 bài Introduction, một của Maybon và một của Ste-Croix, cho nên những người trích dẫn sách này, thường không phân biệt: đoạn nào do Maybon viết, đoạn nào do Ste-Croix viết, thường chỉ vắn tắt ghi Bissachère hoặc Maybon.
Những sự bội nhọ Quang Trung và Gia Long của Bissachère trong Kư sự, được Maybon in lại mà không chú thích, sẽ trở thành “sự thực”.
Những sự thổi phồng vai tṛ của Bá Đa Lộc và những người lính Pháp của Sainte-Croix trong bài Introduction, được Maybon cho in, mà không chú thích, cũng sẽ trở thành “sự thực”.
V́ vậy cho nên chúng tôi thấy cần phải “giới thiệu lại” cuốn Kư Sự Bissachère do Maybon chủ biên, để độc giả biết các tác giả này đă viết những ǵ và sau đó, ta sẽ t́m hiểu tiến tŕnh bóp méo lịch sử thành lịch sử của những cây bút thuộc điạ.
*
Chúng tôi giới thiệu phần Kư sự Bissachère trước, bài Introduction của Ste-Croix sẽ được giới thiệu sau.
Kư sự Bissachère chia làm 2 phần:
Phần đầu (t. 105-122) mang tên: Récit abrégé de quelques circonstances de la conquête du Tonkin par le ci-devant Roy de Cochinchine Ngu-Yen-Anh qui aujourd’hui porte le titre d’empereur Gia Long (Tóm lược vài cảnh chinh phục Bắc Hà của vua -trước đây là vua Nam Hà- bây giờ mang danh hiệu hoàng đế Gia Long): Nội dung nói sơ lược về Nguyễn Ánh và nguyên nhân thành công: Nhờ sự giúp đỡ của Tây phương, chủ yếu là Bá Đa Lộc. Lược thuật trận Trấn Ninh và sự can đảm của Bùi Thị Xuân. Mô tả việc Gia Long trừng phạt Tây Sơn.
Phần thứ nh́ (t. 123-172), mang tên: Notions sur le Tonquin (Những khái niệm về Bắc Hà): Mở đầu, nói qua về nguồn gốc chữ Tonquin, theo ông phải viết là Nước Nam mới đúng (t. 123-124), tiếp theo là nội dung, như sau:
Kể tội Gia Long đàn áp dân chúng, sưu cao thuế nặng, xây thành đài, dùng h́nh phạt dă man, bắt dân vào rừng rú t́m lâm sản, quan lại tham nhũng, làm giầu trên thuế má, chế độ ŕnh rập, mật thám được trả lương cao. Sau khi xây dựng xong thành quách, quan lại vinh thân ph́ gia, dân chết đói phải bán con để sống. Tiếng Bắc nghe hay, tiếng Nam thô lỗ vv … Tất cả những đoạn này sẽ được nhiều tác giả trích dẫn để “chứng minh” sự “bất tài” của Gia Long.
Về “lịch sử” Bắc Hà: Bissachère mô tả sự nhục nhă trong việc nhận lễ tấn phong của Trung Hoa: vua Việt phải quỳ gối trước sứ giả mang thánh chỉ của thiên triều (t. 131). Quân của Quang Trung (đánh Thanh) là một bọn thổ phỉ, tàn sát, cướp bóc dân chúng (t. 132). Tôn giáo ở Bắc Hà toàn một bọn mê muội, sùng bái quỷ thần, thờ cúng ma quỷ (Idolâtrie). Quần chúng mê tín dị đoan, bị các thầy pháp mê hoặc, bị ma làm… (t. 134-135).
Về Gia Long, Bissachère cho rằng “Gia Long vô thần, không có thần nào khác ngoài ông và bụng ông”, Gia Long chỉ kính trọng Khổng tử (t. 137). Mẹ và em gái vua đều tin ma quỷ (t. 138). Bissachère tiếp tục chỉ trích tín ngưỡng của người Việt nhưng ông tỏ ra không hiểu ǵ về văn hoá Việt, trộn chuyện Liễu Hạnh với chuyện ma rung thuyền, vv… (t. 140). Ông kể t́nh h́nh khốn khổ của đạo Chúa (t. 141). Quan lại tham nhũng, làm tiền (t. 143). Tội ác. Lệ làng. Luật pháp. Binh lính. Tổ chức làng thôn (t. 148). “Trên hà hiếp dưới, cá lớn nuốt cá bé” (t. 152). Đất Bắc mầu mỡ hơn đất Tầu (t. 154), có mỏ (t. 155). Gia Long bị dân Bắc ghét (t. 156). Tả đội voi trận (t. 157). Người Việt khinh ghét người Tầu, gọi là “Ngô chó” (t. 157). Người Việt qụy lụy trước người trên. Tục quỳ. Cách ngồi ăn: chiếu trên, chiếu dưới, tùy theo ngôi thứ (t. 159). Vị trí người phụ nữ trong gia đ́nh. Đa thê (t. 160-161). Cưới hỏi, hồi môn trang sức, y phục (t. 162-163). “Cấm [dân] lợp ngói mái nhà trừ đền thờ tổ tiên của vua” (t. 166). Người Việt không khuyến khích nghệ thuật (t. 167). Đồng bằng thuộc loại ph́ nhiêu nhất thế giới và mỏ nhiều như ở Pérou (t. 167). Người Bắc khéo nói và nói hay, mồm miệng đỡ chân tay (t. 168). Ăn cá với cơm (t.170). Lễ phục đẹp, giống như đội hát đồng ca ḍng Bénédictine (t.170). Ăn tất cả các thứ thịt kể cả thịt chó, ăn cả con tầm, ăn nhau các con vật, dùng nhau bà đẻ chữa bệnh, ăn tất cả các loại sâu thoát ra từ đất (rươi) (t. 171-172).
*
Bissachère là người ít học, không quen viết lách, cho nên ông kể chuyện vô trật tự, câu cú lôi thôi, gặp đâu viết đấy. Dù Maybon có sửa chữa và sắp xếp lại câu chữ, nhưng vẫn c̣n nhiều đoạn lủng củng tối nghiă.
Điểm đáng chú ư nhất: Bissachère là người tu hành, nhưng có lẽ v́ phải sống trong những điều kiện khó khăn trốn tránh, nên ông viết về nước Việt với một ḷng thù hận khó tả, ông chỉ nh́n thấy những khía cạnh xấu xa, đáng khinh bỉ, tởm lợm mà ít có sự tôn trọng, thông cảm.
Chưa nói đến những thiếu thốn kiến thức về lịch sử, văn hoá, tôn giáo Việt Nam và Đông phương, lối kể chuyện của ông đôi khi khó hiểu, v́ cách ngắt câu. Thí dụ, mở đầu, ông viết:
“Ngu-yen-anh dù sinh ở Nam Hà, nhưng gốc Bắc ḍng dơi các quan lớn trong triều: khoảng 25 năm nay, trốn quân Tây Sơn cướp ngôi, lang thang trên bờ biển của vua Xiêm, được các giáo sĩ Âu châu nuôi nấng trong vài tháng. Nhưng chẳng bao lâu lại được dân Đồng Nai thuộc Cao Mên đón tiếp, cùng với Nam Hà và Bắc Hà bị quân Tây Sơn chiếm đóng; ông ở lại trong vùng này, dưới danh nghiă là Chúa, nhờ sự cứu giúp của vài chiến hạm Tây phương mà quân Tây Sơn rất sợ, tấn công; một mặt, Nguyễn Ánh có lợi thế trên biển nhờ đại bác và hỏa lực Âu Châu bắn xa hơn đại bác và hỏa lực Bắc Hà (t. 106-107).
Câu trên chứng tỏ ông không biết rơ Nguyễn Ánh, ông không rành địa lư nước Nam, ông đưa ra những xác định vô bằng cớ, kiểu: Nguyễn Ánh “được các giáo sĩ Âu châu nuôi nấng trong vài tháng”, “nhờ sự cứu giúp của vài chiến hạm Tây phương mà quân Tây Sơn rất sợ.”, “có lợi thế trên biển nhờ đại bác và hỏa lực Âu Châu bắn xa hơn đại bác và hỏa lực Bắc Hà”…
Nhưng những lời nói vu vơ này sẽ được người ta chép lại nhiều lần, và trở thành “sự thực lịch sử”.
Về việc Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân năm 1801, Bissachère viết: “Ông cũng được khuyến khích bởi ư kiến của vài người Âu kể rằng đó là một trong những kế hoạch của Đức Giám Mục quá cố Bá Đa Lộc, nhờ thuận gió [gió mùa] đem toàn lực quân đội đến vây kinh đô Nam Hà, nơi vua trẻ Cảnh Thịnh ở với một ít quân…” Câu này cũng sẽ được những người viết sử về Bá Đa Lộc, từ Faure đến Maybon… chép lại, cho rằng cách đánh thuận theo gió mùa của Nguyễn Vương là do Bá Đa Lộc “dạy”, và khi Vương đánh Phú Xuân năm 1801, theo chiến lược của Đặng Đức Siêu, Maybon vẫn dùng lại ư này của Bissachère, để kết luận: đó là để thực hiện kế hoạch của linh mục quá cố Bá Đa Lộc!
Tại sao một “văn bản lịch sử” sai lầm như vậy lại được một sử gia tầm cỡ như Maybon hết sức bênh vực và giới thiệu? Bởi đó là văn bản đầu tiên (từ năm1810) đă nói rằng: Nguyễn Ánh nhờ tầu bè, súng đạn của người Âu, nhờ Bá Đa Lộc làm quân sư, mà dựng nên sự nghiệp.
Như trên đă nói: Kư sự Bissachère chia làm hai phần; phần đầu rất ngắn, nhưng lại chứa đựng những tác hại lớn đối với lịch sử dân tộc, v́ sự bôi nhọ Quang Trung và Gia Long và hạ thấp Việt Nam như một dân tộc mọi rợ, không có luật pháp:
Bôi nhọ Quang Trung
V́ căm thù Tây Sơn không dung đạo giáo, Bissachère t́m cách triệt hạ Quang Trung bằng sự bịa đặt thô thiển về việc Quang Trung mộ binh ra Bắc đánh quân Thanh, ông viết:
“Quang Trung đang ở Nam Hà, hay tin quân Tầu đă sang, chạy vội ra Bắc với vài trăm lính, đi ngày đêm, lượm trên đường tất cả những kẻ có thể cầm được khí giới, cướp lương thực trong các làng mạc đi qua, chặt đầu kẻ nào không theo lệnh, đốt nhà kẻ nào không hiến gạo, trâu, lợn cho quân ăn, thường nổi cơn giận hoặc lên cơn điên, hay ra lệnh giết ngay trước mặt ông những người, ngựa không bước kịp theo. Ông ta tiến gần đến trại quân Tầu với đoàn quân mỏi mệt, què cụt v́ đường xa, dở sống dở chết, chẳng làm khiếp sợ quân địch; ông ta tấn công và giết khoảng 40.000 người ngay hôm mới đến, những kẻ thoát được trốn vào rừng rồi cũng chết. Chỉ c̣n lại rất ít chạy về Tầu báo tin thua trận” (t. 132-133),
Lối viết này thực là ấu trĩ, bởi nếu Quang Trung là “kẻ cướp”, “giết người” như thế, với một đội quân “mỏi mệt, què cụt” “dở sống dở chết” như thế mà tại sao lại tấn công và giết được “40.000 người ngay hôm mới đến”?
Nhưng điều lạ không phải ở đấy, mà là ở chỗ sử gia tiến sĩ Maybon, người đă biên tập và chú giải kư sự này, lại không có một lời chú thích, giải nghiă cho độc giả biết tại sao có những mâu thuẫn này!
Về việc Quang Trung mộ binh đánh quân Thanh, Liệt truyện viết rơ như sau:
“Huệ được tin báo cả mừng rằng: con chó Ngô là hạng ǵ, lại dám ngông cuồng như vậy? Tức th́ hạ lệnh cử binh. Các tướng đều xin chính vị hiệu đế trước, để ràng buộc ḷng người. Huệ bèn đắp đàn ở bên nam núi Ngự B́nh, lấy ngày 25 tháng 11 [22/12/1788] tự lập lên ngôi hoàng đế, đổi năm đầu là Quang Trung (1788); ngay ngày hôm ấy đem cả tướng sĩ, quân thủy quân bộ đều tiến đi; ngày 29 [26/12/1788] đến Nghệ An đóng quân ở lại hơn 10 ngày, chọn thêm dân Nghệ An, cứ ba đinh lấy một, chia thân binh Thuận, Quảng làm 4 doanh Tiền, Hậu, Tả, Hữu mà tân binh ở Nghệ An là Trung Quân, quân đắc thắng có hơn 10 vạn người, voi chiến hàng trăm thớt, duyệt đại binh ở trấn doanh. Huệ thân cưỡi voi ra ngoài doanh để uỷ lạo quân lính, bèn hạ lệnh tiến quân đi. Đến ngày 20 tháng 12 [15/1/1789] đến núi Tam Điệp” (Liệt truyện, tập 2, truyện Nguyễn Văn Huệ, t. 548).
Về việc Quang Trung đại phá quân Thanh, Liệt truyện ghi rơ từng chi tiết mỗi trận đánh, khó t́m ra một ng̣i bút sử sau này viết được đầy đủ và cô đọng như thế. Sự khách quan của các sử gia triều Nguyễn khi viết về “ngụy” Quang Trung, sự thiết tha và hănh diện của họ khi viết về sự dũng cảm của Bùi Thị Xuân, “tướng ngụy”, về những sự thực lịch sử, dù của bên thắng cũng như bên bại, là điều mà nhiều người viết sử sau này không có được. Nhân danh sự “trung lập” của một sử gia, họ thường có giọng mỉa mai, đôi khi cay độc đối với Gia Long và cho rằng các sử gia triều Nguyễn tâng bốc nhà vua, và chấp nhận hoạc biện hộ cho sự ngụy biện của các sử gia thuộc địa, đến độ phản bội sự thực, phản bội dân tộc mà không biết.
Bôi nhọ Gia Long
Bôi nhọ Quang Trung chưa đủ, Bissachère c̣n dành cho Gia Long một đoạn tiểu thuyết hoang đường về sự trừng phạt Tây Sơn, sau khi thống nhất đất nước. Bissachère rất cảm phục Bùi Thị Xuân, ông đă viết những ḍng hết sức hâm mộ sự can đảm dũng mănh của bà [với những chi tiết sai lầm, ví dụ: ông kể Bùi Thị Xuân tập hợp được 300.000 quân! Maybon biện hộ cho sự sai lầm này: không phải lỗi Bisssachère, ông chỉ viết theo một bài dân ca! (Maybon, Note 1, Bissachère, t. 110]; sau đó Bissachère “mô tả” cảnh Gia Long làm nhục sọ các vua Tây Sơn và cảnh mẹ con bà Bùi Thị Xuân bị xử voi dầy với những lời giáo đầu như sau:
“Vua Gia Long trở về Kinh đô Nam Hà nghỉ ngơi khoảng hai tháng. Sau đó ông lo việc hành h́nh tù nhân. Một trong những người đầy tớ mà tôi [Bissachère] gửi vào triều để xin vua cho tôi một giấy phép, ở trong danh sách những người có thể vào cung, đứng trước mặt vua trong một tháng, y làm việc trong ngày xử tội, nên y nh́n thấy rơ từ đầu đến cuối. Khi trở về, y đă kể cho tôi nghe, hôm nay tôi không nhớ hết tất cả quang cảnh cực kỳ kinh tởm này, tôi chỉ kể lại những điều khủng khiếp nhất mà về sau mọi người trong nước Nam đều biết” (Kư sự Bissachère, t. 117-118)[1].
Đoạn văn này cho thấy:
1- Việc Gia Long hành h́nh mà Bissachère mô tả sau đó, không phải ông được xem tận mắt, mà do người đầy tớ của ông kể lại.
2- Người “đầy tớ” này được ông sai vào triều để xin một giấy phép của vua (hay xin phép vua) để làm ǵ, không thấy viết rơ.
3- Tại sao “người đầy tớ” của một giáo sĩ, không có chức ǵ đặc biệt trong triều, lại được quyền đứng trước mặt vua trong một tháng?
4- Tạm hiểu là y được phép hầu vua trong một tháng. Tại sao nhà vua lại có chung người hầu với một giáo sĩ? Nhất là vị giáo sĩ này, mới đây c̣n phải sống lẩn lút trong rừng.
5- Ngay cả Giám mục Labartette, người cai quản giáo phận Bắc hà (tương đương với Giám mục Bá Đa Lộc ở trong Nam) cũng sống lẩn trốn, khi Gia Long chiếm Phú Xuân không dám ra tŕnh diện. Theo thư của Barisy gửi M. Marchini, ngày 15/7/1801 (Launay, III, t. 423) vua đă sai anh ta đi kiếm vị thủ lănh đạo Gia Tô này. Theo Labartette (ông ở Huế) việc được vua vời ra là một ân huệ lớn. Một giáo sĩ vô danh như Bissachère làm sao có thể “giao thiệp” với vua, chưa nói đến việc gửi đầy tớ vào triều, xin vua này, nọ?
6- Bissachère không hiểu nghi lễ triều đ́nh nước Nam, hoặc cố t́nh viết loè người Pháp rằng triều đ́nh Việt Nam như chỗ không người, ai vào cũng được. Ông “thế lực” đến độ có quyền gửi “đầy tớ” vào cung xin giấy của vua. Ông không biết là sứ thần các cường quốc Anh, Pháp đến xin yết kiến mà không có quốc thư cũng không được vua tiếp.
7- Việc xử tử không thể xẩy ra ở trong cung (palais), như “đầy tớ” kể lại. Theo Thực Lục, xử tử ở ngoại thành.
Bẩy điểm trên, chứng tỏ Bissachère bịa chuyện để phô trương sự quan trọng của ḿnh.
Sau đó, Bissachère “mô tả” sự hành h́nh:
“Việc đầu tiên chiếu cố đến ông vua Tây Sơn trẻ [Cảnh Thịnh] là họ bắt ông mục kích cảnh đau đớn: quật xác cha mẹ chết từ 10, 12 năm, cùng xác những người thân. Xương cốt cha mẹ [vua Quang Trung và Hoàng Hậu] được bầy lại rồi chém đầu theo đúng h́nh thức, làm cho nhục nhă, và theo sự mê tín của nước này, chính là để cho [hương hồn] những hài cốt này không thể phù hộ phúc lộc cho con cháu. Sau đó, họ bỏ tất cả xương cốt Tây Sơn vào một cái thúng lớn, bắt lính đi tiểu lên, rồi nghiền nát thành bột, bỏ sang thúng khác để cho vua trẻ Tây Sơn nh́n thấy mà đau ḷng.
Cho vua ăn một bữa thật sang trọng, đúng như thủ tục ở đây đối với tử tội; người em út, can đảm hơn, thấy vua ăn, trách, và v́ cái bàn để đồ ăn có dấu hiệu vương giả, y nói: “Nhà ta không thiếu ǵ bàn ăn mà anh phải ăn bàn mượn”; sau bữa, người ta nhét giẻ vào miệng y và nhiều người khác v́ sợ y lại nguyền rủa vua mới, rồi buộc tứ chi của y vào bốn con voi để xé xác. Bị voi xé xong đùi và gân cốt rồi, y c̣n ngoảnh lại nh́n cái thúng đựng xương cốt cha mẹ. Những kẻ hành h́nh, dùng một thứ dụng cụ mà bên Âu Châu không thể tưởng tượng nổi, chia làm bốn những phần hăy c̣n dính nhau, cùng với cái đùi đă rời, thành năm phần thịt, đem bầy ở năm chợ đông nhất thành phố, mỗi miếng trên một cột rất cao; được canh gác ngày đêm; kẻ nào xâm phạm sẽ bị tội nặng. Đợi cho thối tha hay bị qụa riả hết.
C̣n về ông tướng Thiên Phô nổi tiếng [Thiếu phó Trần Quang Diệu] được gia đ́nh và những ai quen biết kính trọng và thương tiếc, ngày hôm trước hay chính ngày chết, ông đă hiếu thảo xin vua tha chết cho mẹ già 80 tuổi, không thể làm hại ai, và ông được toại nguyện; ông bị chặt đầu, ông có người con gái tuổi 15, hết sức khả ái, khi cô trông thấy con voi lớn sừng sững tiến đến quật cô, cô hét lên một tiếng thất thanh thê thảm về phía mẹ, nói với bà rằng: “Ôi mẹ ơi cứu con với!” Mẹ cô là người đă cầm đầu quân đội, bảo con: “Mẹ cứu thân mẹ c̣n chưa được làm sao cứu nổi con. Con phải chịu chết như cha và cả gia đ́nh, c̣n hơn sống nhục với những kẻ này…” Nhiều người xem muốn cứu cô gái, đă phải quay mặt đi để khỏi nh́n thấy cảnh cô bị hai lần voi tung lên trời, rơi xuống trúng hai sừng voi đâm thủng.
Khi đến lượt vị nữ anh hùng, tức vợ của vị Thiếu Phó, bà hiên ngang tiến đến trước voi để kích thích nó. Khi bà đến gần, người ta hét lên bắt bà phải quỳ xuống cho voi dễ quật, nhưng bà không quỳ, bà tiếp tục đi tới; người ta kể rằng, mặc dù con vật bị kích thích mạnh, vẫn phải bắt buộc nó mới ném bà lên, v́ nó đă nhận ra bà là một trong những chủ cũ của nó; trước khi bị hành h́nh, người đàn bà can đảm này đă cho đem vào nhà tù nhiều tấm lụa để quấn chân và thân ḿnh tới ngực, tránh cho thân khỏi bị loă lồ khi chịu cực h́nh.
Những kẻ hành h́nh, nghe nói để có can đảm, đă ăn tim, gan, phổi, và cánh tay mập mạp của bà, v́ bà đă làm cho bao nhiêu quân lính sợ hăi, cả tướng của chúng nữa, khi leo tường [Trấn Ninh], họ giao chân tay bà cho sự háu đói của bọn ăn thịt người này. Ở Bắc Hà, thịt người nhắm rượu ăn sống (nhưng người ta chỉ ăn trong những dịp như vậy)”. (Les exécuteurs pour avoir dit-on son courage, mangèrent son coeur, son foie, ses poumons et ses bras potelés, elle avait causé tant de peur aux soldats et même à leur Chef à l’escalade de la muraille qu’on livra ses membres à la voracité de ces cannibales. Au Tonquin, la chair humaine se mange crue en buvant du vin (mais on n’en mange que dans de semblables occasions) (Kư sự Bissachère, t. 121).
Maybon cho in lại những ḍng như thế này và cũng không có một lời chú thích. Chúng ta thử tưởng tượng trường hợp ngược lại: một tác giả Việt Nam kể chuyện người Pháp ăn thịt người được Hoàng Xuân Hăn hay Đào Duy Anh cho in lại mà không chú thích, th́ người Pháp sẽ đánh giá dân tộc ḿnh ra sao?
Trở lại những điều Bissachère viết trên đây: Việc quật mộ Quang Trung và hoàng hậu, Thực Lục ghi làm hai giai đoạn:
- Tháng 12/1801 (tháng 11 Canh Thân) “Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị lăng tŕ cắt nát thây” (TL. I, t. 473).
- Ngày 6/12/1802 (ngày Giáp Tuất tháng 11 Nhâm Tuất), làm lễ hiến phù (lễ dâng tù binh): đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giă nát rồi vứt đi, c̣n xương đầu lâu của Nhạc và Huệ th́ đều giam ở nhà Đồ Ngoại. (TL. I, t. 531).
Như vậy, mọi việc khá rơ ràng: Tháng 12/1801: quật mồ, phơi thây, bêu đầu. Một năm sau, tháng 12/1802, làm lễ hiến phù: đem xương giă nát và giam đầu lâu vào ngục. Vậy c̣n đâu xác nữa mà quật lên trước mắt anh em Quang Toản, như Bissachère tưởng tượng ra.
Những ǵ Bissachère viết về việc Gia Long hành h́nh Tây Sơn, được Sainte-Croix in nguyên văn năm 1810, Montyon tóm lược, in năm 1811. Maybon tái bản Kư sự Bissachère, năm 1820. Taboulet trích in đoạn hành h́nh này, năm 1955, trong bộ sách La geste française en Indochine, tập II, t. 265-266. Theo Nguyễn Quốc Trị, th́ Hoàng Xuân Hăn cũng trích dịch Montyon, để lên án Gia Long. Riêng cảnh hai mẹ con tướng Bùi Thị Xuân “bị voi dầy” được tác giả Quỳnh Cư mô tả lại toàn bộ trong tiểu thuyết lịch sử “Đô đốc Bùi Thị Xuân” (nxb Phụ Nữ, 1985), trừ đoạn ăn thịt người! Như vậy đủ biết tác dụng tai hại của Bissachère.
Nguyễn Quốc Trị trong bộ Nguyễn Văn Thành, (quyển I, t. 350-368), đă tố cáo các sự bịa đặt vu cáo cho Gia Long, đặc biệt vụ bắt lính đi tiểu lên sọ các vua Tây Sơn.
Việc Gia Long tiêu diệt gia đ́nh Tây Sơn nằm trong bối cảnh trả thù ḍng họ, đă được Thực Lục ghi rơ tên từng người và chúng tôi đă trích dẫn trong chương ba Tóm tắt lịch sử. Ở đây chỉ ghi lại những đoạn Thực Lục viết về việc hành h́nh, tương đối khá đầy đủ:
“Tháng 11 [Nhâm Tuất, tức tháng 12/1802] làm lễ tuyên cáo vơ công. Ngày Quư Dậu [5/12/1802] tế thiên địa thần kỳ. Ngày Giáp Tuất [6/12/1802] hiến phù ở Thái Miếu.
Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô Thống chế dinh Túc Trực. Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri h́nh bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng tŕ cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực h́nh), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giă nát rồi vứt đi, c̣n xương đầu lâu của Nhạc và Huệ th́ đều giam ở nhà Đồ Ngoại [Ngoại đồ gia, sau đổi là Vũ khổ] (năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố măi măi). C̣n đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết” (TL, I, t. 531).
Bài chiếu ở đoạn sau, viết rơ hơn:
“Ngày mồng 6 tháng này, tế cáo Trời Đất; ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Vơ Văn Dũng, Tư mă Nguyễn Văn Tứ, Đổng lư Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng vời bè lũ đầu sỏ đều đă bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc Huệ trời đă giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xă, rửa hận cho thần nhân.” (TL, I, t. 532-533).
Xem như vậy, bốn người có tội nặng nhất là bốn con vua Quang Trung bị voi xé xác: Gia Long báo oán sự Tây Sơn giết gia đ́nh ḿnh, đào mả các chúa Nguyễn.
C̣n các đại tướng Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng… cùng với bè lũ đầu sỏ, đều bị chém bêu đầu. Bùi Thị Xuân, như chúng tôi đă nhắc đến trong chương ba Tóm lược lịch sử, không thấy Thực Lục ghi tên bà trong số những vị tướng bị bắt, cũng không thấy tên bà trong danh sách các tướng bị hành h́nh. Liệt Truyện có câu: “Quang Diệu từ Quy Hợp xuống Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ An đă phá, bèn qua Thanh Chương sang sông Thanh Long, những người đi theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống” (Liệt truyện II, t. 570). V́ Liệt truyện muốn kể một câu chuyện cho nên có thể tác giả đă “suy ra” việc Bùi Thị Xuân bị bắt cùng với Trần Quang Diệu; nhưng nếu đọc kỹ Thực Lục và Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu, cầm quân từ Qui Nhơn về, lội đèo vượt suối, luôn luôn phải pḥng bị quân Nguyễn truy kích mọi ngả; khi bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức không c̣n chống nổi nữa. Như vậy th́ khó có thể ông gặp được vợ, mà bà Bùi Thị Xuân có muốn đi t́m chồng cũng không biết đâu mà kiếm; nhất là Thực Lục chuyên chép những dữ kiện xác thực, không ghi việc này. Cho nên việc bắt được Bùi Thị Xuân hay không cũng c̣n là một nghi vấn lịch sử.
Á Đông có sự kính trọng nhân tài mà những người thiển cận như Bissachère không thể hiểu được: các tướng tài khi bị bắt thường được dụ hàng, nếu không theo mới xử tử. Trong thời gian nội chiến, có những tướng của Nguyễn Ánh sang hàng Tây Sơn và ngược lại. Trần Quang Diệu vào thành B́nh Định, khóc trước thi hài Vơ Tánh, làm lễ chôn cất vị anh hùng của nhà Nguyễn, tử tiết, rất trọng thể. Bà Bùi Thị Xuân thực quả cảm đă được sử thần triều Nguyễn mô tả với sự khâm phục kính nể, nếu bà bị xử tử, chắc chắn đă có vài ḍng trong Thực Lục hoặc Liệt Truyện.
Bissachère coi nước ta là man di mọi rợ, ăn thịt người, không có luật pháp ǵ cả, nên ông muốn viết sao th́ viết. Ngoài ra ông c̣n mắc thêm bệnh phô trương và khoác lác, ta có thể thấy sự này trong sách của Montyon. Đây là những điều Bissachère nói với Montyon và được Montyon ghi lại trong bài tựa sách của ông:
“Ông Bissachère đă sống 18 năm ở Bắc Hà và Nam Hà, đă đi hầu hết khắp nơi trên nước này và các nước lân cận; ông nghe và nói được tiếng [Việt] và đă có quan hệ với tất cả mọi tầng lớp dân chúng ở đây. Là vị cha thực tế, tâm giao, cố vấn của giáo dân, khá nhiều trong xứ này, ông giao thiệp với những nhân vật hàng đầu của quốc gia, ông thường hội họp với các quan, chính ông cũng có văn bằng làm quan; theo lệnh triều đ́nh, ông có những người Bắc phục dịch riêng cho ông; nhiều lần ông được bệ kiến Hoàng đế.” (Montyon I, Introduction, t.7-8)
Bissachère đến Nghệ An năm 1790, khi Quang Trung trị v́, phải trốn chui trốn nhủi qua các đợt đán áp đạo giáo năm 1795, 1798, 1799, như Maybon ghi trong tiểu sử Bissachère. Vậy Bissachère làm quan với ai, vào lúc nào? Nhiều lần bệ kiến Hoàng đế nào? Quang Trung hay Quang Toản?
Ngay cả việc Maybon kể: khi Gia Long hành quân ra Bắc qua Nghệ An, Giám Mục Castorie [La Mothe] và La Bissachère đến chào, cũng chẳng có ǵ là chắc chắn, v́ lúc ấy, bề trên của các ông là Giám Mục Labartette c̣n đi trốn, v́ chưa biết thái độ của Gia Long như thế nào. Đến khi Gia Long, vị t́nh với Bá Đa Lộc mà sai Barisy đi t́m, giám mục Labartette mới dám ra. Tạm cho là Bissachère có thể đă gặp Gia Long năm 1802 ở Nghệ An. Năm 1806, Bissachère về Macao. Trong thời gian ở giữa 1802 đến 1806, Bissachère đă lập được những “công trạng” ǵ để thành quan trong triều Gia Long và được nhiều lần bệ kiến Hoàng đế? Không thấy Maybon giải quyết những vấn đề này.
Tội tử h́nh ở Việt Nam
Nhân việc Bissachère kể hai mẹ con bà Bùi Thị Xuân bị xử “voi dầy”. Chúng ta thử xem lại các loại hành h́nh trong luật pháp Việt Nam. Về tội xử tử, đời Lê, Phan Huy Chú viết:
“Tử h́nh (giết chết) có ba bực (từ giảo, trảm đến lăng tŕ gồm làm ba bực. Giảo với trảm kể là một bực, khiêu và lăng tŕ kể riêng là 2 bực, có thêm bớt):
1- Giảo (thắt cổ) và trảm (chém đầu)
2- Khiêu (chém bêu đầu)
3- Lăng tŕ (chặt chân tay, xẻo thịt, làm cho chết dần).
Xét: Phép ngũ h́nh, từ trước đời Tuỳ (589-618) là: mặc (thích chữ vào mặt), giảo, trảm, khiêu, liệt (xé xác) (…) Đến nhà Tuỳ mới định lại (…), tử h́nh c̣n hai bực: giảo, trảm; bỏ những h́nh tàn khốc, đánh tiên (đánh roi da hoặc sắt), bêu đầu, xé thây. Nhà Đường (618-907) cũng theo như thế (…) thành phép đời sau không thay đổi (…) Đến đời Nguyên (1206-1368) lại đặt thêm h́nh lăng tŕ, tức đời trước gọi là “oa”. Đời trước h́nh này dầu có dùng ở ngoài pháp luật, nhưng chỉ là để xử trị những kẻ ác nghịch cực nặng, không ghi vào h́nh thư. Đến đời nhà Nguyên mới thấy ở h́nh thư mà luật triều Lê ta cũng nhân theo đó.” (Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương, Tập II, H́nh Luật Chí, t. 306)
Tội xử tử đời Nguyễn, theo Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ:
Có 5 tội h́nh: 1- Tội đánh roi. 2- Tội đánh trượng. 3- Tội đồ. 4- Tội lưu. 5- Tội xử tử.
Tội xử tử lại chia làm 5 loại như sau:
“Có tội giảo, tội trảm và tội lăng tŕ, cưu thủ, lục thi. Nếu kẻ nào tội ác quá nặng, th́ đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án; c̣n các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án” (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, Trần Huy Hân dịch, tập 11, t. 19)
Giảo là thắt cổ, trảm là chém đầu, lăng tŕ là xẻo từng miếng thịt, cưu thủ là chém rồi lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác ra.
Như vậy, Gia Long cho thêm tội lục thi là băm xác khi xử tử Tây Sơn, và ông đă áp dụng ba loại cực h́nh sau đây:
Đối với các con của Quang Trung: Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn “xử án lăng tŕ cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực h́nh), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giă nát rồi vứt đi” “C̣n đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết.” (TL, I, t. 531), tức là:
- Lăng tŕ: xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt, mà cho voi xé xác.
- Lục thi: nghiền hài cốt Quang Trung và Hoàng hậu.
- Cưu thủ: chém bêu đầu các đại tướng Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng, vv…
Không nói ǵ đến Bùi Thị Xuân.
Luật Gia Long trong Hội Điển không ghi cực h́nh “voi dầy”. Và trong các h́nh luật trước, từ đời Lê ngược lên đến nhà Tuỳ bên Tầu, cũng đều không thấy ghi lối xử tử này.
Đó là những chứng cớ cho thấy những điều Bisschère viết ra là không có cơ sở.
Án tử h́nh ở Pháp
Cũng nên nhắc lại cho Bissachère biết về án tử h́nh ở Pháp: trước cách mạng 1789, có những cách xử tử sau đây: la potence (treo cổ), le bucher (đốt), la roue (nghiền xay bánh xe), l’écartèlement (xé xác bằng ngựa), c̣n décapitation (chém) chỉ dành cho quư tộc.
Sự nghiền xay bằng bánh xe, sự đốt cháy và ngựa xé xác c̣n độc ác hơn bị voi xé xác.
Ngày 11/11/1789, bác sĩ Guillotin, nghị viên, đ̣i sự công bằng trước cái chết. 1/12/1789, ông tuyên bố: “Chém, dưới h́nh thức đơn giản máy móc”. 1791, luật h́nh ghi: “Mọi án tử h́nh đều chém”. Antoine Louis được lệnh sáng tạo máy chém. 17/4/1792, thử máy ở bệnh viện Bicêtre trên ba xác người. Máy được đặt trên bệ cao, gọi là échafaud (đoạn đầu đài). Tên Guillotin được bất tử hoá thành tên máy chém: La Guillotine. Pháp bước vào giai đoạn Kinh Hoàng (La Terreur): Vua Louis XVI lên đoạn đầu đài ngày 21/1/1793 tại quảng trường La Révolution (nay là Concorde), hoàng hậu Marie Antoinette ngày 16/10/1793. Trong thời Kinh hoàng (1792-1794), số người lên máy chém ước lượng 16.000 đến 17.000; tổng cộng số người bị giết khoảng 100.000.
___________________________
[1] Nguyên văn: “Le Roy Gia Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s’y reposa pendant deux mois ou environ. Ensuite il s’occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens que j’avais envoyé à la cour, pour m’obtenir une permission du roy et qui fut porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l’éxécution, et il la vit tout entière depuis le commencement jusqu’à la fin. A son retour il m’en a fait le récit, je ne puis m’en rappeler aujourd’hui toutes les circonstances qui d’ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je me souviens, ou ce qui m’a frappé le plus du récit qui m’en a été fait et qui depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine” (t. 117-118).
Thụy Khuê
Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-11/
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 10: Bài Introduction của Sainte-Croix
Sử gia Maybon không chỉ cho in lại bản Kư sự của Bissachère với nội dung xuyên tạc Quang Trung, Gia Long, phỉ báng dân Việt, như chúng ta đă thấy trong chương 9, ông c̣n đưa vào cuốn sách này hai bài “inédits” Avant-Propos (Tựa) và Introduction (Nhập đề) của Ste-Croix. Hai bài này, Ste-Croix viết để giới thiệu Kư sự Bissachère, nhưng sau ông bỏ ư định in riêng tập kư sự, cho nên chúng vẫn nằm trong Văn khố Bộ ngoại giao Pháp, và đă được một số người tham khảo và sử dụng trước Maybon, nhưng không đề xuất xứ. Đến năm 1920, khi Maybon cho xuất bản và giới thiệu như những tài liệu giá trị, chúng mới chính thức trở thành “tài liệu lịch sử” và được những người đi sau như Taboulet, khuếch trương, phổ biến thêm lên và được Tạ Trí Đại Trường tiếp nối, dùng trong cuốn Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam.
Bài Introduction chỉ ngắn có 28 trang nhưng chứa đựng những bóp méo lịch sử quan trọng và những điều dựng đứng này đă trở thành “sự thực” sau hơn một thế kỷ được truyền bá rộng răi, nhất là ngày nay trên Internet, cả Wikipédia tiếng Việt.
*
Trong bài Avant-Propos (Tựa), Ste-Croix giải thích tại sao ông có được những tài liệu để viết bài Introduction này, sau khi Gia Long lên ngôi:
“Từ những ngày ở Manille, tôi đă muốn có những thông tin về các cuộc chinh phục mới đây của vua Nam Hà, là Bắc Hà và Cao Mên là nước mà rất ít người biết (…) Tôi chỉ nhận được những khái niệm rất thiếu sót (notions très imparfaites) từ các ông D’Ayot [hai anh em Dayot lúc đó sống ở Manille] làm quan ở Nam Hà, trong chiến tranh đă đi một phần nước Cao Mên với quân đội Nam Hà. Phải đến tháng 8/1807, ông de La Bissachère, giáo sĩ ở vùng này 18 năm, tới Macao, lúc tôi đang ở đó. Tôi yêu cầu ông viết một bài yếu lược (précis) về Bắc Hà và ông đă vui ḷng viết những ḍng ghi chép mà chúng ta sẽ đọc sau đây.” (Avant-propos, Kư sự Bissachère, t. 73)
Ste-Croix cho biết: Anh em Dayot chỉ cho ông những “khái niệm rất thiếu sót” và bản Kư sự là do ông yêu cầu Bissachère viết ra. Tiếp đó, Ste-Croix giải thích:
“Để độc giả hiểu rơ, khi đọc bài yếu lược của Bissachère, tôi viết bài “Introduction” này theo những ǵ tôi học được từ các ông Dayot, những biến cố xẩy ra ở Nam Hà từ khi vị vua trẻ bị đuổi khỏi đất nước của ḿnh và được Đức Giám Mục Bá Đa Lộc dẫn đến triều đ́nh Pháp xin cầu viện, cho tới bây giờ” (Avant-Propos, Kư sự Bissachère, t. 74, chúng tôi in đậm).
Như vậy: Ste-Croix đă dựa vào những “khái niệm rất thiếu sót” của anh em Dayot để viết bài Introduction này. Nhưng điều đáng chú ư hơn mà có lẽ độc giả đọc qua sẽ không nhận thấy, đó là câu mà chúng tôi đă in đậm ở trên: “vị vua trẻ bị đuổi khỏi đất nước của ḿnh và được Đức Giám Mục Bá Đa Lộc dẫn đến triều đ́nh Pháp xin cầu viện”.
Qua câu này, ta thấy ngay Sainte-Croix đă lầm hoàng tử Cảnh với Nguyễn Ánh.
Thoạt tiên, ta tưởng chỉ là một lỗi nhỏ khi người ngoại quốc viết về lịch sử Việt Nam. Nhưng trong trường hợp này, nó trầm trọng hơn nhiều bởi v́, trong toàn bài, Ste-Croix sẽ coi vua Gia Long là học tṛ của Bá Đa Lộc, và sự sai lầm của y sẽ được công nhận và “chính thức hoá” thành sự thực, theo tiến tŕnh mà chúng tôi sẽ tŕnh bầy dần dần dưới đây.
Bài Introduction của Ste-Croix được Maybon giới thiệu bằng những lời lẽ sau: “Hai bài Avant-propos và Introduction của Renouard de Sainte-Croix đều hoàn toàn chưa in ở đâu cả, trừ vài lầm lỗi, nó chứa đựng những thông tin về lịch sử Việt Nam, lại càng thêm quư giá, v́ đến từ Jean-Marie Dayot, một sĩ quan Pháp đă phục vụ đắc lực cho ông hoàng An Nam từ đầu cuộc chiến chống ngụy quân” (Maybon, Introduction, Kư sự Bissachère, t. 6-7).
Những lời trân trọng này của Maybon khiến độc giả tin tưởng. Ông có nhắc đến vài lầm lỗi (quelques erreurs), ông cũng có chú thích vài lần những lầm lỗi ấy như việc nhầm hoàng tử Cảnh với Nguyễn Ánh, hay viết sai chữ Cảnh Thịnh, vv… nhưng ông bỏ qua tất cả những nhầm lẫn kếch sù là hậu quả của sự nhầm Nguyễn Ánh với hoàng tử Cảnh. Không những thế, ông c̣n dùng kết quả của những lầm lẫn này trong bộ sử nổi tiếng Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820) của ông, cùng in năm 1920.
Một điểm đáng chú ư nữa: dù Ste-Croix nói là ông chỉ nhận được những “thông tin thiếu sót” của Dayot và phải nhờ Bissachère viết bài Kư sự, nhưng đọc xong bài Introduction này, ta có thể xác định: Ste-Croix hoàn toàn viết theo lời kể của Dayot, bởi những ǵ ông viết, hầu như không có trong Kư sự Bissachère.
Con số 250 người lính và việc Dayot “lái tầu theo Bá Đa Lộc” về giúp Nguyễn Ánh
Mở đầu Ste-Croix thuật chuyện “Bá Đa Lộc đem Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện” được Pháp hoàng chấp nhận cho 2 corvettes (tầu chiến nhỏ), trang bị 18 đại bác và 800 lính, nhưng đến Ấn Độ gặp trở ngại:
“Để thi hành lệnh của vua Pháp, Ô. de Cossigny, toàn quyền ở Ấn Độ lúc ấy cấp cho hai corvettes, không thuộc hải quân hoàng gia và chỉ chở được 250 người; một tầu ông giao cho người bà con là thanh niên d’Ayot [Dayot] điều khiển, và đă góp phần lớn vào sự thành công của ông hoàng [Nguyễn Ánh], c̣n tầu kia do Ô. de Marigny hay Martigny cai quản với nhiệm vụ theo lệnh của vua Nam Hà ở Pháp về với ông Bá Đa Lộc” (Ste-Croix, Introduction, Kư sự Bissachère, t. 77-78).
Đoạn này có bốn điểm sai:
1- Cossigny lúc đó đă thôi chức toàn quyền, Conway lên thay.
2- Conway không cấp ǵ cho Bá Đa Lộc cả v́ Louis XVI đă ra lệnh bỏ hiệp ước Versailles.
3- Bá Đa Lộc về tay không, không có tầu nào đi cùng; theo 2 thư ông viết cho quản sự Létondal ở Macao, thư đầu, tháng 7/1789 có câu: “Tôi vừa về tới Nam Hà…. tôi về không có sự cứu trợ mà vua Pháp đă thuận giúp vua Nam Hà” (Launay III, t. 209). Và thư thứ nh́, viết ngày 17/8/1789, có câu: “Tôi về với độc một chiếc tầu nhỏ (une seule frégate) nó lại phải lập tức đi Manille ngay” (Launay, III, t. 210).
4- Bá Đa Lộc về với hoàng tử Cảnh chứ không phải với Nguyễn Ánh.
Bài Introduction này là văn bản đầu tiên nói đến việc “Dayot lái tầu về Việt Nam cùng với Bá Đa Lộc”, trái hẳn với những điều do Bá Đa Lộc viết ra.
Vậy ta có thể đoán rằng chính Dayot đă bịa ra điều này để “xác định” ḿnh là người đầu tiên theo vị giám mục về giúp Nguyễn Ánh.
Con số “2 corvettes” và “250 lính” hoàn toàn vô căn cứ, có lẽ cũng do Dayot bịa ra.
Maybon sử dụng những thông tin vô căn cứ này, đặc biệt ở điểm: Dayot lái tầu về VN cùng với Bá Đa Lộc, và ông sẽ t́m cách “chứng minh” rằng chính Bá Đa Lộc đă xoay tiền mộ lính, mua tầu và vũ khí đạn được giúp Nguyễn Ánh. Con số 250 người lính, sau này sẽ được người ta sửa thành mấy trăm “do Bá Đa Lộc bỏ tiền ra mộ và mua 2 chiếc tầu về giúp Gia Long”.
Đó là sự xuyên tạc, thứ nhất, trong bài Introduction của Ste- Croix, sau này trở thành “sự thực lịch sử”.
“Nhờ Bá Đa Lộc” mà Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định
Tiếp tục câu chuyện hoang tưởng, Ste-Croix kể tiếp rằng (chúng tôi tóm tắt lời Ste-Croix): “Khi Nguyễn Ánh [vẫn nhầm hoàng tử Cảnh với Nguyễn Ánh] về tới Sài G̣n với “hai tầu chiến Pháp và 250 người lính” th́ quân Tây Sơn đă chiếm hết miền Nam [thực ra khi Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh về Sài G̣n tháng 7/1789, th́ Nguyễn Vương đă b́nh định xong miền Nam], Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh phải đánh nhau với Tây Sơn để chiếm lại Gia Định, nhưng quân Tây Sơn mạnh, đuổi Nguyễn Ánh khỏi miền Nam, Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm cầu cứu. Tây Sơn đề nghị với vua Xiêm nếu bán Nguyễn Ánh cho họ, th́ họ sẽ trả giá cao, tức là họ sẽ nhường cho Xiêm nhiều tỉnh miền Nam”.
Tới đây vai tṛ “cứu tinh” của Bá Đa Lộc hiện ra, Ste-Croix viết:
“Nhà vua trẻ nhờ do thám biết được sự phản trắc này [việc Xiêm bán ông cho Tây Sơn], nhưng không đủ kinh nghiệm và sáng suốt trong những trường hợp tế nhị, mới bí mật hỏi ư ông Bá Đa Lộc (…) Đức Giám Mục Bá Đa Lộc, trong hoàn cảnh tuyệt vọng này, có lời khuyên ngoan cường là nên tập hợp những thuyền tam bản c̣n lại, tấn công ngay vào Kinh đô mà Tây Sơn đóng, v́ bất ngờ, họ không kịp chuẩn bị đối phó, trước một dự tính phi thường như thế.
Vua Nam Hà khôn khéo thi hành kế hoạch này, ông trốn khỏi triều đ́nh Xiêm, lấy cớ đi duyệt những thuyền tam bản và tiểu hạm rồi bất ngờ dong thẳng buồm về chiếm được Sài G̣n là nơi các lănh tụ Tây Sơn ngự trú, hầu như không có sự kháng cự nào; lănh tụ ngụy không ngờ đến sự “thăm viếng” này, chỉ có mấy người gác bên ḿnh, c̣n lính tráng th́ đă về quê- việc này thường thấy ở Nam Hà trong thời b́nh.” (Ste-Croix, Introduction, t. 80-81).
Đọc đoạn trên đây, chúng ta có thể đoán rằng Ste-Croix nghe Bissachère hay Dayot kể lỗ mỗ về hai việc: Nguyễn Ánh rút quân từ Xiêm về chiếm lại Gia Định, năm 1787 (lúc ấy Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh c̣n ở Pháp) và trận Thị Nại, 1792 (Nguyễn Ánh chớp nhoáng tấn công Quy Nhơn) rồi thêm thắt vào, để đi đến kết luận : “chiến công đầu tiên của Nguyễn Ánh là do Bá Đa Lộc chỉ đạo: tấn công bất ngờ và chớp nhoáng vào kinh đô, chiếm được Sài G̣n mà vua Tây Sơn đang ngự trị”.
Tuyệt nhiên không thấy sử gia Maybon chú thích ǵ về những “sai lầm nhỏ” này.
Dù bịa đặt hoàn toàn như thế, nhưng huyền thoại “Bá Đa Lộc cầm quân chiếm lại Gia Định” của Ste-Croix đă được truyền bá rộng răi. Đặc biệt Alexis Faure khi viết cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine, 1891, đă dựa vào điểm này để tâng Bá Đa Lộc lên hàng nguyên soái, cầm cờ lệnh đi đầu, chiếm lại Gia Định, và Faure đă thượng phong Bá Đa Lộc làm Bộ trưởng bộ chiến tranh từ năm 1780! sau trở thành Richelieu của Nguyễn Ánh (Faure, chương 18, t. 72-76, bản in điện tử). Faure dùng nhiều “thông tin” trong bài Introduction của Ste-Croix, nhưng lại chú rằng rút từ Mémoire sur la Cochinchine, par de la Bissachère, 1807, (Văn Khố Ngoại Giao). Có lẽ cái tên Bissachère “đáng tin cậy” hơn, v́ là thầy tu chăng?
Đó là sự xuyên tạc thứ hai, trong bài Introduction của Ste-Croix, sẽ là đầu mối cho các lập luận: Bá Đa Lộc trực tiếp chỉ huy quân đội Nguyễn Ánh.
Nhưng đáng buồn hơn cả là sự vinh thăng Bá Đa Lộc làm chủ soái của Tạ Chí Đại Trường, ông Tạ đă viết những hàng sau đây:
- “Vào gần nửa đêm một ngày nào đó, ông [Nguyễn Ánh] đi t́m Bá Đa Lộc để hỏi ư kiến [về việc giết Đỗ Thanh Nhân]. Ông này phân vân giữa Đỗ Thanh Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ư giữ liên lạc để lợi dụng truyền đạo, nên trả lời thối thác một cách khôn ngoan, Ánh khóc về.” (LSNCVN, t.100-101). Không biết tại sao Tạ Chí Đại Trường lại biết rơ đến như vậy, nhất là câu chuyện này xẩy ra lúc “nửa đêm” và biết cả Nguyễn Ánh khóc nữa! Chưa kể sự “ngẩn ngơ” đi hỏi thầy tu về dự định giết người!
- “Chính Bá Đa Lộc “bằng cách nói chuyện chơi” cũng đă thu thập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia Định khi ông dạy Đỗ Thanh Nhơn lối dùng lựu đạn” (LSNCVN, t. 107). Đức Cha Bá Đa Lộc dạy ông “tướng cướp” dùng lựu đạn, thật ngược đời. Nhất là chưa có ǵ chứng minh giám mục Bá Đa Lộc quen Đỗ Thanh Nhơn, vị tướng hiếu sát, giết người như cỏ rác (có lẽ TCĐTT nhầm Đỗ Thanh Nhơn với Mạc Thiên Tứ là người văn học và ân nhân của Bá Đa Lộc, trong tất cả phóng đoạn này).
- “Từ đầu tháng 3/1783, Bá Đa Lộc đă phải hội bàn với Nguyễn Ánh về việc tránh Tây Sơn” (LSNCVN, t. 113). Ở đây, rơ ràng Bá Đa Lộc là chủ, gọi Nguyễn Ánh lên để “hội bàn”.
- “Việc xẩy ra ở Phú Quốc vào khoảng đầu tháng 7/1783. Nguyễn Ánh đến hỏi Bá Đa Lộc t́m cách giúp đỡ lấy lại nước” LSNCVN, t.177).
Không cần dẫn thêm, chúng ta đă thấy tinh thần Ste-Croix trải dài trong cuốn Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường, thông qua Faure, Maybon, Taboulet…
Olivier de Puymanel, “kỹ sư trưởng”
Sau khi đă vẽ chân dung Bá Đa Lộc, nhưng một vị nguyên soái, chỉ huy Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, Ste-Croix giới thiệu nhân vật quan trọng thứ nh́: Olivier de Puymanel, bằng những hàng như sau:
“…Vào khoảng thời gian này Ô. Olivier, người Pháp, về giúp, trở thành kỹ sư trưởng.
Là người trẻ tuổi có cao vọng, có kiến thức sâu rộng, là Chuẩn uư thủy quân (garde marine) trên một trong những tầu của Công ty Pháp ghé Nam Hà, trên đường đến Trung Quốc, hay tin ông vua đang đánh nhau, cần người Âu giúp, đă bỏ tầu đến giúp, được chấp nhận. Nhà vua không tiếc việc này v́, ngoài kiến thức hoàn hảo về việc xây thành tŕ, và thuật binh bị, Ô. Olivier c̣n có phẩm hạnh và tháo vát, hai đức tính chính của một vị chỉ huy quân đội.
Những chiến thắng của vua Nam Hà một phần là nhờ ông, ông đă vẽ bản đồ các thành quách, đă sáng tạo nhiều công binh xưởng.
Ông được thăng tước vị hạng nhất, là Kỹ sư chỉ huy trưởng đứng đầu các công binh xưởng và Tư lệnh một quân đoàn gồm 3000 cấm vệ của vua do ông thành lập và huấn luyện theo kiểu Tây phương. Nhưng sau ông ghê tởm công việc này v́ không được hậu đăi và các đại thần xử tệ với những người Pháp giúp vua mà tôi sẽ giải thích sau.
Hoạt động của những người Pháp giúp vua Nam Hà đi đôi với những đại bác và súng ống mà nước Pháp cho họ, đă góp phần không nhỏ vào việc nhà vua dần dần làm chủ lại xứ sở trong một thời hạn khá ngắn. Ô. Olivier làm kiên cố đồn lũy bằng những chiến hào trang bị súng đại bác điều khiển theo lối Tây phương, và lối đánh nhau này rất mới lạ ở Nam Hà, làm cho quân Tây Sơn khiếp đảm thua chạy mỗi lần gặp quân nhà vua, chúng không thể chống lại hoả lực mạnh mẽ do Ô. Olivier điều khiển và chúng thường bị kéo vào những hào hố mà dân tộc này không có ư niệm ǵ” (Ste-Croix, Introduction, Bissachère, t. 82-83).
Đây là đoạn văn chủ chốt mà sau này các tác giả Pháp Việt đều dựa vào để vinh thăng Puymanel lên hàng đầu các ngành: Xây dựng thành đài, chiến luỹ, thành phố, đúc súng, tổ chức và huấn luyện quân đội…
Vấn đề đặt ra là: Khi mới đào ngũ, đặt chân lên đất Hà Tiên, Puymanel chỉ là binh nh́, ít học (sẽ chứng minh bằng văn bản trong phần viết về Puymanel). Vậy Puymanel học kỹ sư lúc nào? Học nghề binh ở trường sĩ quan nào? Mà vừa tới làm việc với Nguyễn Ánh đă trở thành Kỹ sư trưởng? Đứng đầu các công binh xưởng nào? Là tư lệnh quân đoàn nào? Mà có thể cùng một lúc, vừa là kỹ sư trưởng các công binh xưởng, vừa xây các đồn luỹ, vừa là Tư lệnh quân cấm vệ, vừa huấn luyện quân đội, vừa điều khiển các trận đánh…
Đó là sự xuyên tạc thứ ba, trong bài Introduction của Ste-Croix, sự xuyên tạc này sẽ được trích dẫn, thổi phồng để đưa Puymanel lên vị trí thứ nh́, sau Bá Đa Lộc.
Dayot “lănh đạo thuỷ quân” và vẽ bản đồ bờ biển Việt Nam cho Nguyễn Ánh
Sau khi vinh thăng Puymanel là chúa tể các ngành bộ binh, Ste-Croix, (vẫn theo lời kể của Dayot), đưa Dayot lên hàng chủ soái ngành thuỷ binh. :
“Vua Nam Hà rất chú ư đến thuỷ quân, ông có mặt trong tất cả những công tŕnh xây dựng tại các công binh xưởng do ông Olivier điều khiển cũng như ở các xưởng đóng tầu do ông Dayot điều khiển. Ông Dayot là linh hồn và lănh đạo ngành thủy quân. Ông theo quân đi dọc bờ biển, vận tải lương thực; nếu thấy địch xuất hiện, nhờ cách điều khiển và nhờ hoả công mạnh của chiến hạm, ông khiến địch phải chạy trốn. Vua bắt các quan phải phục tùng mệnh lệnh của các vị chỉ huy Tây phương này cho nên họ bị ghen ghét.” (Bài đă dẫn, t. 83).
Đến đây, chúng ta mới hiểu tại sao có sự vinh thăng Puymanel trước đó, bởi v́ nếu Dayot tự vinh thăng ḿnh ngay, th́ không tiện, nên đă thăng Puymanel trước khi tự thăng ḿnh.
Vẫn theo Ste-Croix: sau một thời gian ở Nam Hà, Jean-Marie Dayot đă gọi em là Félix sang giúp vua: “Félix Dayot, là một thanh niên tài ba. Cả hai đă đóng nhiều chiến hạm cho nhà vua và vẽ bản đồ bờ biển VN, rất hữu dụng cho hải quân” (Bđd, t. 84).
Đó là sự xuyên tạc thứ tư trong bài Introduction của Ste-Croix. Sự xuyên tạc này sẽ được các học giả Maybon và Cadière tận dụng để ca tụng “sự nghiệp” anh em Dayot. Nhưng trong bài viết về Vannier, André Salles lại nhất quyết rằng Vannier mới là “chúa tể ngành thủy quân Việt Nam” (BAVH, 1935, II, t. 155). Hoá ra chúng ta có tới hai chúa tể ngành hải quân!
Chúng tôi sẽ tŕnh bầy cặn kẽ những vấn đề này trong chương viết về Dayot; ở đây chỉ xin nói sơ lược: Nhiệm vụ chính của anh em Dayot là mua bán vật dụng ở nước ngoài và tiếp tế cho quân đội. Trong khi di chuyển, họ đă xin Nguyễn Vương cho thêm phương tiện để vẽ bản đồ bờ biển nước Nam. Sau này Dayot gửi toàn thể bản đồ này cho bộ Hải quân Pháp, chứ không phải cho vua Gia Long dùng. Quân đội Pháp sẽ dùng bản đồ này để đánh nước ta năm 1862. “Công trạng” này được Maybon ghi lại như sau:
“Trong những chuyến đi đi về về, dọc theo bờ biển nước Nam, không chỉ “đi theo quân” mà có khi đi tải lương nữa, anh em Dayot đă làm một công việc đáng vinh danh là vẽ thuỷ đạo đồ bờ biển và những hải cảng. Chính Renouard de Sainte-Croix đă đem về Pháp tập hồi ức và bản đồ của Dayot. Trong thư Dayot viết cho Ste-Croix từ Macao ngày 15/11/1807, có lẽ ít ngày sau khi Ste-Croix rời Macao, có những ḍng hơi lạ này: “Chút tài mọn không cho phép tôi mơ ước chức hội viên thông tin của một cơ quan bác học [Viện Lưu Trữ] như thế, nhưng tôi sẽ rất mừng nếu những công tŕnh của tôi được chấp nhận. Tôi có thể gửi tiếp những nhận xét bổ ích về cái xứ, có thể nói là vô danh này, và sẽ c̣n thú vị hơn nếu nó được chiếu thêm chút ánh sáng. Anh de Sainte-Croix thân, tôi tin trước những chăm sóc sốt sắng và tế nhị của anh. Tôi giao cho anh kết quả công việc sáu năm cam go của tôi, tất cả những ǵ anh sẽ làm, đối với tôi sẽ là tốt đẹp, và nếu có trở ngại ǵ với việc anh v́ t́nh bạn giúp tôi và ḷng mong muốn của tôi phục vụ tổ quốc [Pháp], th́ cũng không giảm bớt được ḷng biết ơn suốt đời của tôi đối với anh”. (Maybon, Introduction, Bissachère, t. 31-33).
Ư đồ của Dayot đă lộ rơ qua những ḍng thư viết cho Ste-Croix được Maybon trích dẫn trên đây: y mong muốn được phục vụ tổ quốc Pháp với tập bản đồ này. Dayot là người có công với nước Pháp, nhưng đối với Việt Nam, là kẻ phản bội: lợi dụng ḷng tin của vua để vẽ bản đồ nước ta dâng cho vua Pháp. Ste-Croix gửi bản đồ của Dayot về Bộ Ngoại Giao và đă được Hoàng đế [Napoléon I] xem. Maybon viết tiếp:
“Năm 1820, chính phủ quyết định dành cho Dayot một câu lạc bộ thiên văn; nhưng sự tưởng thưởng đến quá muộn, Dayot đă mất từ năm 1809. Ông cũng không nh́n thấy những bản đồ của ông được Viện lưu trữ hải quân phát hành năm 1818, và cũng không biết lời khen ngợi hết ḿnh của Abel Rémusat: “… chúng ta biết có nhiều người nước ta đă giữ những chức vụ quan trọng trong triều nước Xiêm và nước Việt, và nhờ vào một trong những người đó, ông Dayot, nay đă qua đời, mà chúng ta có tập địa đồ (Atlas) cực kỳ quư giá về nước Nam, được vua [Louis XVIII] sai khắc năm 1818, đó là một trong những công tŕnh bất hủ của khoa học địa lư về cái xứ rất xa Âu châu này… Từ khi các bản đồ của ông Dayot được in ra, chúng ta biết rơ bờ biển nước Nam có lẽ c̣n rơ hơn một số bờ biển Âu châu” (Abel Rémusat, Mélanges asiatiques, 1825, t. 74, 79).
Năm 1817, vua Louis XVIII sai Kergariou sang biển Đông, với bản đồ của Dayot. Trong thư ngày 28/3/1818 gửi bộ trưởng Hải quân, Kergariou viết: “Tôi đă đi khắp các cửa biển của nước Nam và trong hải tŕnh chông gai này, tôi đă có dịp kiểm chứng, đảo lộn hầu như tất cả công tŕnh của Ông Dayot. Chẳng có lời nào đủ để khâm phục sự chính xác, nhất là sự chính xác mà đất đai được chiếu lại trên các bản đồ”. (Maybon, Introduction, Bissachère, t. 33).
Tóm lại, Jean-Marie Dayot đă kể lại “công trạng” của ḿnh cho Ste-Croix ghi lại. “Công trạng” này được các sử gia thuộc địa tung lên.
Tạ Chí Đại Trường, như thường lệ, vẫn rập theo phiá Pháp mà vinh thăng Dayot, ông viết: “Dayot là linh hồn và chủ tướng của thủy quân Nguyễn” như Giáo sĩ La Bissachère đă nói” (Lịch sử nội chiến Việt Nam, t. 204), thực ra là Ste-Croix viết câu này. Và ông Tạ đă dùng nhiều trang để ca ngợi “công lao” của Dayot, Puymanel và những người Pháp (LSNCVN, t. 231-237).
Jean- Marie Dayot là một người được vua tin dùng và trọng đăi, qua những chiếu dụ vua sai phái, mà chúng tôi sẽ trích dịch trong phần viết về Dayot; ở đây chỉ nói sơ lược hai vụ Dayot bị kết tội. Hai vụ này liên quan đến hai đợt lính Pháp bỏ đi năm 1792 và 1795. Trong chương 8 Hịch Quang Trung, chúng tôi đă nói khá rơ việc Bá Đa Lộc và lính Pháp bỏ đi năm 1792, khi thấy Quang Trung chuẩn bị đánh Nam Hà.
Linh mục Le Labousse, trong lá thư viết ngày 17/6/1792 gửi quản sự tu viện Letondal ở Macao, ông viết về trường hợp Dayot như sau: “Chuyến đi xui xẻo từ Macao sang Manille của Dayot và sổ sách cực kỳ thâm lạm của anh ta đă làm cho vua ghê tởm, bực quá không thèm nói ǵ thêm, vua sai đuổi hết không chỉ các lính thủy, mà tất cả sĩ quan, ai muốn đi th́ đi, không giữ” (Launay III, t. 296). Tóm lại, trong đợt lính Pháp bỏ đi năm 1792, Dayot, v́ thâm lạm sổ sách, bị quở phạt, nhưng chưa bị đuổi. Anh ta xin ở lại, chắc muốn lập công, cho nên có hai chứng cho biết Dayot dự trận Thị Nại 1792, như chúng tôi đă nói trong chương 8.
Năm 1795, lại có vụ người Pháp bỏ đi lần thứ hai, lần này trầm trọng hơn, liên quan đến hai việc quan trọng: Trần Đại Luật dâng sớ xin vua chém đầu Bá Đa Lộc và Dayot làm đắm tầu.
Trần Đại Luật dâng sớ xin vua chém đầu Bá Đa Lộc
Quan hàn lâm Trần Đại Luật là một trong những người đă theo Nguyễn Vương sang Vọng Các từ năm 1785. Khi Nguyễn Vương chiếm lại Gia Định, được bổ chức hàn lâm chế cáo. Tuy là quan văn nhưng ông vẫn dự các buổi luận bàn chiến lược với các quan vơ và đă tham dự các trận đánh Diên Khánh và Quy Nhơn.
Khoảng tháng 3-4/1795, ông dâng sớ nói về cái hại của đạo giáo nói chung và của đạo Gia Tô nói riêng mà Bá Đa Lộc đă đem vào, xin vua chém đầu. Ông biết nếu vua không nghe th́ có thể bị mất đầu, nên trước khi dâng sớ, đă dặn người nhà đóng áo quan đợi.
Liệt truyện viết:
“Đến khi ra coi việc quân, [Trần Đại Luật] thấy người Tây là Bá Đa Lộc kiêu ngạo, dâng một sớ nói: “Cái hại về đạo Phật Lăo tệ hơn đạo Dương Mạc, mà cái hại về đạo Gia Tô lại tệ hơn đạo Phật Lăo, nên trị mối dị đoan, thánh nhân răn về hại ấy, giữ về tà đạo, tiên vương [chỉ Vơ Vương Nguyễn Phước Khoát] bảo tất phải giết, là rất ghét về loạn chính, dối dân để họa về sau. Nay Đa Lộc mang giáo cho Thiên Chuá để lừa dân ngu, không có t́nh thân cha con, nghiă lớn vua tôi, lại tự cậy là bảo hộ Đông Cung có chút công lao, sinh ḷng kiêu ngạo, không sợ hăi ǵ, nay như thế, ngày khác lại như thế nào, kẻ ấy mà không giết, sao gọi là pháp luật được. Tôi xin được thanh gươm của vua dùng chém đầu hắn treo ở cửa chợ, để tạ cả nước mà bỏ được sự mê hoặc của mọi người”. Tờ sớ dâng vào vua rất khen, nhưng sợ bị hắn thù, bèn cạo bỏ tên họ [Trần Đại Luật] và cất vào ḥm”, rồi triệu Luật bảo mật rằng: “Ngươi có lời nói thẳng, trẫm không phải là không tin, nhưng nay đánh đông dẹp tây, về việc dùng người, rất là việc cần, kẻ dối trá và ngu cũng nên dùng, không nên tỏ cho người biết là hẹp ḥi, tạm hăy để đó.” (Liệt truyện, Trần Đại Luật, tập 2, t. 295-296).
Tất cả việc này chứng tỏ sự sáng suốt và tài chính trị của Gia Long.
Theo thư đề ngày 27/4/1795 của Lavoué gửi Létondal (Launay, t. 301-302), th́ vụ này xẩy ra vào khoảng tháng 3-4/1795. Thực Lục, tháng 3-4/1795 (tháng 2 ÂL.), ghi rằng: “để Đông cung trấn giữ Gia Định, có Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám thành sứ Tô Văn Đoài, Lễ bộ Nguyễn Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phúc, H́nh bộ Nguyễn Văn Nghị, trợ giúp”. (TL, I, t. 318). Điều này chứng tỏ: Bá Đa Lộc không c̣n là một trong những người thầy của đông cung, có lẽ ông đă mất chức phụ đạo từ lúc này, và đến tháng 11-12/1795 (tháng 10 ÂL.), Thực Lục cho biết: vua sai phó tướng tả quân Phạm Văn Nhân làm phụ đạo Đông Cung với lời dụ: “…hết thảy mọi việc đều uỷ cho khanh. Cốt sao giúp đỡ thái tử, hun đúc đức tốt” (TL, I, t. 327-328). Như vậy, vua đă nghe lời khuyên của Trần Đại Luật, không để thái tử gần Bá Đa Lộc như trước nữa.
Ngoài ra, giáo sĩ Lavoué, vẫn trong lá thư ngày 27/4/1795 này, đă kể lại sự việc gần giống như Liệt truyện:
“Trong đúng lúc này [lúc xẩy ra vụ Dayot làm đắm tầu] th́ các quan dâng vua lá sớ chống Đức Cha; vua đọc và im lặng. Đức Cha được báo tin ngay, nhưng giả vờ [không biết] trong vài ngày; sau thấy vua không đả động ǵ đến vụ này và c̣n tỏ ra đồng ư với các quan; Đức Cha mới cay đắng than thở, vua nghe mách lại, lúc đó mới gửi cho Đức Cha lá sớ” (Launay, t. 302).
Ở cuối thư, Lavoué, v́ không biết tác giả viết sớ là ai, cho nên ông đoán ṃ:
“Trong số những người buộc tội có hai đại thần, hiện đang ở tù v́ tội đă hèn nhát bỏ rơi hai quan khác đang bị ngụy quân vây nguy khốn. Họ xin Đức Cha che chở và nói rằng số phận họ ở trong tay cha. Số phận họ sẽ ra sao? Chưa biết thế nào, nhà vua đă đi đánh trận rồi” (Launay, t.302-303).
Nhưng Giám mục Bá Đa Lộc lại tŕnh bầy việc này một cách khác hẳn. Trong hai bức thư dài gửi quản thủ Létondal (Launay, t. 303-306) ông phân trần về vụ này, thư đầu viết ngày 18/5/1795, ông chỉ nói đến việc các quan viết sớ xin vua cho hoàng tử ít gần ông hơn, v́ sợ chịu ảnh hưởng của ông, v́ vậy ông lợi dụng cơ hội này để xin đi Macao, và theo ông “nhà vua đă khóc xin ông đừng bỏ ông ta”, rồi vua “bắt hai vị đại thần đầu triều chủ trương việc này đem chém đầu, nhưng họ được ông xin ân xá” (Thư Bá Đa Lộc gửi Letondal ngày 18/5/1795, Launay, III, t. 303).
Lá thư thứ nh́ viết ngày 30/5/1795, Bá Đa Lộc lại nói khác hẳn: ông kể chuyện 19 vị đại thần, v́ ghét đạo, đă viết lá sớ tâu vua, vua đọc xong “nổi giận, ném lá sớ xuống đất” và dọa sẽ trừng trị nặng nề những kẻ viết. Sau đó, 2 đại tướng trong số 19 người này bị xử tử, và chính Đức Giám Mục phải can thiệp, họ mới khỏi bị chém đầu!
Như vậy đủ biết, ngay cả Đức Giám Mục, khi cần, cũng có thể bóp méo sự thực.
Nhưng đến khi Tạ Chí Đại Trường thuật lại chuyện này, ông c̣n gia tăng mức độ tưởng tượng lên một bậc nữa:
“Sửa soạn đi cứu Diên Khánh bị vây lần thứ hai, Nguyễn Ánh đă tống giam Dayot và một tùy tướng v́ tội làm ch́m chiếc tầu được giao trông coi, hư hại đến nỗi không thể sửa chữa để dùng được ǵ cả. Nguyễn Ánh tức giận chửi lung tung. Đúng dịp ấy, 19 người đại thần trong số đó có người chú vua (Tôn Thất Thăng?) và một người hoàng phái, dâng sớ bầy tỏ mối nguy hại nếu cứ để hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc dạy dỗ theo một tin tưởng khác hẳn mối tin tưởng cổ truyền. Họ cầu xin Nguyễn Ánh cắt đứt mối liên lạc ấy và để Cảnh cho các quan triều dạy. Nghe chuyện, Bá Đa Lộc khôn ngoan ẩn tránh vài ngày. Thấy Nguyễn Ánh có vẻ nghe theo lời sớ, ông lên tiếng phàn nàn th́ Ánh đến tận nhà đưa tờ biểu cho ông coi.”
Sau khi kể chuyện Bá Đa Lộc nhắc lại công lao ông giúp Nguyễn Ánh và đ̣i về, ông Tạ viết tiếp: “… nên nghe Bá Đa Lộc đ̣i về, nhân dịp hai người có tên trong sớ là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không đi cứu Phố Hài, ông kêu về tống giam, vừa để trị tội, vừa để làm vừa ḷng Giám Mục”. (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến Việt Nam, t. 298-299).
Thực kinh hoàng, khi thấy một người viết sử Việt Nam, không những đă phụ hoạ sự sai lầm của Lavoué, sự nói dối của Bá Đa Lộc mà c̣n thêm thắt vào để xuyên tạc lịch sử đến như vậy.
Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức bị phạt v́ tội rút quân, không dám đương đầu với Lê Trung chứ không phải v́ bỏ rơi ai hết, xẩy ra vào tháng giêng năm Ất Măo (tháng 2/1975), được cả Thực Lục (Tập I, t. 317) lẫn Liệt Truyện viết rơ, tóm tắt như sau: Mùa đông Giáp Dần (1794) Trần Quang Diệu lại vây thành Diên Khánh; vua phát cho Nguyễn Văn Thành 3000 quân, sai đi giữ B́nh Thuận, “Thành nói:”Quân giặc nhiều, B́nh Thuận lại là nơi tứ chiến không cho tôi 5000 quân không giữ được. Nguyễn Huỳnh Đức xin đi, vua bèn sai Nguyễn Huỳnh Đức điều bát, Thành làm phó. Quân đến Phan Rư, Tư lệ giặc là Lê Trung chọn chỗ hiểm để chống Đức, v́ lương quân không đủ ăn, trước dẫn quân đi, Thành cùng lui quân về Na Ly cùng họp với quân Đức, bèn lui giữ Bà Rịa. Vua giận là hèn nhát bắt Thành cùng Đức về cho đ́nh thần xét. Thành dẫn biện việc lui quân có sự trạng, vua chiếu tha không hỏi tội nữa” (Liệt truyện, I I, Nguyễn Văn Thành, t. 374).
Không có chuyện Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức và 19 đại thần kư sớ ǵ cả. Bởi v́, nếu có, th́ tại sao các sử gia triều Nguyễn lại không ghi lại?
Dayot làm đắm tầu
Việc Dayot làm đắm tầu được phản ảnh trong thư của hai giáo sĩ Lavoué và Le Labousse.
1- Giáo sĩ Lavoué, trong một thư dài viết ngày 27/4/1795, gửi M. Létondal, có đoạn liên quan đến Dayot làm đắm tầu, như sau:
“Nhà vua vừa nổi cơn thịnh nộ với những người Âu giúp vua, và vừa tống giam 2 người trong bọn họ: ông Dayot và viên thượng sĩ hải quân của ông ta [son premier maître, có lẽ là phó đội trong tiếng Việt, v́ Dayot là cai đội], đă để tầu bị đắm và bị hư hại nặng; người ta đă tâu vua là không thể dùng được nữa, việc này khiến vua nổi trận lôi đ́nh, và thoạt đầu nóng giận, đă chửi rủa thậm tệ bọn người Âu đến giúp; sau đó ông nghĩ lại, và có lẽ ông c̣n đương nghĩ lại, bởi v́ công việc của ông ngày càng xấu đi. [Ư nói việc Trần Quang Diệu đang ráo riết bao vây Diên Khánh lần thứ nh́, vương chuẩn bị hành quân giải vây Diên Khánh] (Launay, III, t. 302).
2- Thư Le Labousse viết, Sài G̣n ngày 22/6/1795 gửi Létondal, cho biết một số chi tiết khác:
“… Vương đang ở trong thế kẹt… Tất cả người Âu bỏ đi. Tôi sợ rằng đó là tiên khởi của chúng ta…. Đức Ông [Bá Đa Lộc] đă sửa soạn một chiếc tầu tốt rồi…
Ông sẽ thấy các ông Olivier và Dayot tới Macao. Dayot phải trốn khỏi chiến hạm của ḿnh khi ra hàng ở cảng Saint Jacques. Sự tẩu thoát này sẽ là tổn thất nặng nề cho nhà vua.”
(Documents relatifs à l’époque de Gia Long, Cadière, BEFEO, số 12, 1912, t. 35).
Trong lúc Nguyễn Vương phải trực diện với Trần Quang Diệu, Diên Khánh ở trong vị thế cực kỳ nguy hiểm, Vương chuẩn bị xuất quân cứu Diên Khánh, th́ Dayot làm đắm tầu. Tất nhiên y bị bắt, và đă trốn ra Vũng Tầu, bị truy nă, y ra hàng, sau y lại trốn được đi Macao.
Tóm lại: vụ Bá Đa Lộc và những người Pháp bỏ đi năm 1795, do hai lư do chính:
- Trần Đại Luật dâng sớ xin vua chém đầu Bá Đa Lộc.
- Dayot làm đắm tầu, bị tội, hai anh em t́m cách tẩu thoát.
Puymanel định bỏ đi theo, hoặc đă bỏ đi, nhưng rồi quay trở lại, tiếp tục giúp vua một số việc có ghi trong Đại Nam Thực Lục và Liệt truyện cho đến khi mất ở Malacca ngày 22/3/1799.
Việc đắm tầu và bỏ đi, theo Ste-Croix viết lại
Khi Dayot kể cho Ste-Croix về việc đắm tầu này, th́ khác hẳn, Ste-Croix viết:
“Các ông Dayot và Olivier bỏ đi sau 8 năm phục vụ mà không được của cải ǵ, mặc dù việc [trả ơn] ấy không khó. Những khó chịu mà vua và các quan gây cho ông Dayot đă khiến ông bỏ đi. Hiện nay chỉ c̣n 3, 4 người Pháp dưới quyền ở lại, đó là những ông Vannier,… không có của, chỉ có chức quan và như những người Âu khác không ngừng bị bọn quan lại ganh tị tài năng, vua nghe lời họ.” (Ste-Croix, bđd, t. 85).
Câu này đă phản ảnh một sự thật: Sau năm 1795, chỉ c̣n 3, 4 người Pháp ở lại. Những người lính Pháp đến đây t́m của, nhưng không đạt được sự mong muốn, thất vọng, họ bỏ đi. Việc đổ lỗi cho các quan, sẽ chỉ là một cách chạy tội. Ste-Croix viết tiếp câu chuyện Dayot kể:
“Và đây là những ǵ đă khiến cho người Pháp mếch ḷng:
Ông Dayot như tôi đă cho biết, đă làm cho vua những dịch vụ quan trọng, v́ hết ḷng với vua và được vua tin cậy, nên bị các quan ghen tỵ. Ông chống không cho họ ăn hối lộ những người đem gỗ đến [bán] để đóng tầu. Dayot mách vua, họ mất mối bở nên t́m đủ mọi cách để hạ Dayot. Họ đă ra tay nhiều lần nhưng không thành. Một hôm, Dayot không có mặt trên tàu của ḿnh, trời băo, tầu bị gió thổi xuống nước, lật. Vua đang sửa soạn hành quân, rất bực ḿnh v́ sự mất tầu này, các quan bèn lợi dụng, tâu vua là tầu ch́m do Dayot bất cẩn muốn làm chậm trễ việc hành quân, Dayot bị đóng gông, đáng lư bị xử tử ngay, nếu các bạn ông không t́m cách chận lại. Không may là GM Bá Đa Lộc đi vắng. Dayot bị đóng gông 4 ngày, vua không chịu nghe lời xin khoan hồng. Sau cùng, giám mục về quở trách vua, bảo cách hành xử này sẽ làm cho người Pháp ghê tởm măi măi và điều đó có thể làm tổn hại rất nhiều cho nhà vua. Vua vẫn tôn kính đức giám mục nên nghe lời và thả ngay Dayot.
Nhà vua gọi Dayot đến để giải thích ḿnh đă lầm, và sẽ sửa lại lỗi nhưng đă quá muộn. Dayot không thể bỏ qua, vả lại những điều gièm pha này sẽ c̣n xẩy ra, sẽ c̣n lập lại; Dayot ở thêm vài tháng rồi cả hai anh em xin từ chức để vua không từ chối được. Một thời gian sau vua biết tội của bọn quan lại, đem xử tử hết.
Tất cả người Pháp đều thấm thía h́nh phạt vô lư cho vị chỉ huy và đồng bào của họ; Ông Olivier càng nghĩ một ngày nào đó chuyện này cũng có thể xẩy ra cho ḿnh mặc dù ông được ưu đăi, cũng xin từ chức. Dù ông làm việc hết ḷng, qua nhiều chiến dịch thắng trận, mà vua không ban cho của cải ǵ cả.
Khi [Olivier] đă nói rơ dự định với vua, vua thấy sự mất mát này, ông bảo anh rằng: cho đến nay, có một số trở ngại khiến ông chưa thể tặng cho anh một phần của cải, nhưng ông sẽ lo việc này, Olivier cố nài nỉ, v́ anh biết tính cực kỳ hà tiện của ông, cho rằng vua chỉ giả vờ để giữ anh lại. Nhà vua bèn nói: “Nếu ta là vua của nhà ngươi, ta có thể bắt buộc nhà ngươi, như một thần dân, ở lại, không cho đi, nhưng ngươi không phải thế và ta cũng không thể chống lại kế hoạch của ngươi, cũng như ta không thể vô ơn, quên những ǵ nhà ngươi đă làm cho ta, vậy ta cho ngươi một chiếc tầu nhỏ để ngươi có thể chở cau mua ở các cửa hàng. Ta cũng cho ngươi quyền ra vào tất cả các hải cảng của ta để buôn bán mà không phải trả bất cứ thuế ǵ”. (Chú thích của Ste-Croix: thuế nhập khẩu vào nước Nam là 3.000 đồng cho tất cả các thứ thuyền tầu lớn nhỏ). Ô. Olivier đem tầu này chở cau tới Macao, bán được cả thảy 3.000 quan tiền. Ông trở lại Cao Mên với tầu này, mang những thứ hàng hoá dùng riêng cho xứ này, rồi bị bệnh kiết lỵ khi vào cảng, và chết ít lâu sau” (Bđd, t. 85-89).
Những ḍng trên đây của Ste-Croix (viết lại lời Dayot), cho biết một số thông tin:
- Dayot suưt bị chém v́ tội làm đắm tầu.
- Theo lời y, th́ nhờ Bá Đa Lộc xin, mà y được tha.
- Nhưng theo những điều đă tŕnh bầy ở trên, th́ lúc đó Bá Đa Lộc cũng c̣n đang lo cho số phận của ḿnh, v́ lá sớ của Trần Đại Luật.
- Theo thư của Le Labousse, Dayot trốn đến Vũng Tầu, rồi bị bắt lại, y trốn thêm lần nữa, mới thoát sang Macao.
- Vẫn theo thư của Le Labousse, th́ Olivier de Puymanel cùng đi Macao với anh em Dayot. Nhưng sau y lại quay về, cho nên mới có đoạn Olivier đối thoại với vua, như Ste-Croix viết ở trên.
Bá Đa Lộc là “thày dạy” Nguyễn Ánh, theo Ste- Croix
Từ đầu đến cuối bài Introduction, Ste-Croix đều nhầm hoàng tử Cảnh với Nguyễn Ánh, cho nên y viết những câu: “Vị vua trẻ Nam Hà, được vua cha giao phó cho vị giám mục, trước khi chết, và căn dặn ông làm thầy chỉ đạo cho” (Bđd, t. 76); hoặc: “Những người Pháp mà ông hoàng này đă mang ơn nặng, nhưng công lao của họ không được đền bù xứng đáng, nhất là sau cái chết của Giám Mục Bá Đa Lộc, người thầy đầy quyền uy đối với đứa con đỡ đầu” (Bđd, t. 85). Và Ste-Croix đă kể những câu chuyện hoang tưởng về vai tṛ của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh:
“… đă đỡ đầu, che chở và đưa ông hoàng trẻ sang Pháp để xin cầu viện, Đức Giám Mục tự hạn chế ḿnh trong địa vị một người có tuổi, dạy cho ông vua học tṛ những nguyên tắc đại cương của đạo đức (…) ông dịch cho học tṛ nhiều sách tiếng Pháp sang chữ Nôm [Cochinchinois] chủ yếu là những sách chiến lược và xây dựng thành quách (…) ông hoàng này có kiến thức đại cương về khoa học và luôn luôn đọc những sách mà giám mục dịch ra, ông muốn học hỏi cho bằng người Âu.
Đối với vị giám mục đă dạy dỗ nhà vua (…) vua coi ông như người cha thứ nh́ và gọi ông là Thượng Sư [Grande Maîre]. Ta có thể tin rằng nếu Người [giám mục] c̣n sống, th́ sẽ chẳng để cho nhà vua tàn sát dă man những thủ lănh Tây Sơn khi lên làm vua. Người sống ở trong triều của học tṛ, được hưởng những ưu thế như vua, ngồi ngang hàng với vua, và nếu người không vào triều th́ vay đến thăm người tại nhà, nhất là thời gian cuối khi người bị bệnh” (Bđd, t. 91-92).
Sự lầm lộn của Ste-Croix, lúc đầu, tưởng là vô can, nhưng dần dần dẫn đến những hậu quả tai hại như đoạn văn vừa dẫn ở trên: Y hoàn toàn coi vua Gia Long là học tṛ của Bá Đa Lộc!
Trước hết, phải nói rơ lại: Bá Đa Lộc đă tháp tùng, trông nom và dậy dỗ Hoàng tử Cảnh trong 4 năm đi Pháp, từ 1785 đến 1789, (5 đến 9 tuổi). Gia Long không quên cái ơn này, nên ông đă luôn luôn đối xử tử tế với vị giám mục, cho con gọi Bá Đa Lộc một cách tôn kính bằng Thượng Sư. Khi đem hoàng tử về lại Sài G̣n, Bá Đa Lộc giữ chức phụ đạo, nhưng bên cạnh c̣n có những thầy khác như Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Ṭng Châu… đều là những học giả thời bấy giờ. Tuy nhiên, người Pháp khi viết về việc này, họ không biết hoặc họ cố ư, chỉ coi như có một ḿnh Bá Đa Lộc là thầy của hoàng tử.
Năm 1794, khi Nguyễn Vương sai hoàng tử Cảnh, mới 13 tuổi, đi trấn thủ Diên Khánh để học nghề binh và nghề cai trị, các thày dạy cũng phải đi theo, cùng với các đại tướng Phạm Văn Nhân, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, hộ tống để giữ thành. Nhưng đối với người Pháp cũng vẫn chỉ “một ḿnh” Bá Đa Lộc “giữ thành”, “chỉ huy việc bắn đại bác, vv…. và Tạ Chí Đại Trường cũng cứ thế chép lại.
Sự lầm lộn, cho Bá Đa Lộc là thầy của Gia Long, sẽ là sự xuyên tạc thứ năm của Ste-Croix, được nhiều người thổi phồng, phổ biến và trở thành “sự thực lịch sử”.
“Chân dung” Gia Long, theo Ste-Croix
Từ ảnh hưởng Bissachère và Dayot, Ste-Croix không thể cưỡng lại sự bôi nhọ Gia Long:
” Tính t́nh vua nước Nam có tốt lẫn xấu, có sự nhậy cảm lẫn sự hung ác, ông ta có kiến thức hơn bất cứ quần thần nào, nhưng giống như tất cả những người Á Châu khác, ông tưởng ḿnh biết nhiều thực ra ông chẳng biết bao nhiêu. Ông phô trương ḷng can đảm và sự điềm tĩnh, theo lời khuyên của ông Olivier. Những thắng lợi mà ông đạt được trên kẻ thù, thực ra chỉ là những sự tàn bạo giết quân Tây Sơn một cách chớp nhoáng, mà ít tốn máu quân của ông, nhờ đại bác do người Pháp điều khiển. Tôi nghe những người thấy tận mắt đồn rằng trận lớn nhất không mất quá 5 phút đánh nhau, bởi khi quân địch bắt đầu tan ră th́ sự tàn sát trở thành khủng khiếp, không ai ngăn cản nổi; theo truyền thống Á đông, người thua để cho người thắng chém giết tha hồ mà không chống lại, phần đông vứt khí giới chạy cho nhanh, họ không biết thuật rút quân, khiến cho trận địa ở nước này trở thành nguy hiểm và đẫm máu, sau khi lâm trận hơn là lúc vào trận” (bđd, t. 93- 94).
Những điều hoang tưởng trên đây, chứng tỏ sĩ quan kỵ binh Ste-Croix khinh miệt và căm thù người Á Châu. Tiếc rằng sử gia Maybon không có một lời chú thích nào về những sự loạn ngôn này. Ste- Croix viết tiếp:
“Ta có thể nói rằng: trong nước này chỉ ḿnh ông [Gia Long] là giầu, trong khi tất cả các dân tộc dưới sự cai trị của ông đều cực kỳ đói khổ, v́ bị các quan nhỏ sách nhiễu chưa từng thấy, rồi quan nhỏ lại bị quan lớn cướp bóc sách nhiễu, và sau cùng nhà vua chém đầu bọn quan lớn để chiếm hữu tiền bạc của cải mà họ đă kiếm chác bất hợp pháp. Những cuộc hành h́nh xẩy ra luôn luôn, và người ta vẫn làm. H́nh như ăn cắp là tính thiên bẩm của tất cả các dân tộc Á Châu, đặc biệt người Tầu và người Việt “(bđd, t. 94).
“Người ta quả quyết rằng nhà vua có nhiều kho tàng lớn lao, chôn giấu nhiều vàng thoi. Ông thích dùng tiền mặt, trả lương các quan bằng tiền đồng kẽm, lấy ở kho tàng, mà không bao giờ trả bằng bạc. Những quan người Âu được trả 150 quan một tháng để chi tiêu trong nhà, cho vợ hay người hầu, hay lính hầu rất đông ở các nhà quan” (bđd, t. 94-95).
“Để biết rơ hơn sự hà tiện của vua nước Nam, tôi [Ste-Croix] phải kể ra đây hai chuyện mà ai cũng biết:
Ông hoàng theo lối Tầu này có tiền đồng, đúc bằng đồng ṛng, để mua đồ và trả lương lính, nhưng ông bỏ casin [không rơ là chất ǵ] vào, làm cho nó dễ vỡ như thủy tinh, với cách làm gian lận này ông kiếm chác vô kể [Có lẽ Ste-Croix nhầm tiền đồng với tiền kẽm].
Ông hoàng đầy quyền lực và giầu có này cho người đầu bếp một nửa đồng tiền mỗi ngày để đi chợ. Gă đầu bếp đi chợ với lính, vơ tất cả những thứ mà hắn muốn, không trả tiền, bọn lính cũng làm y như vậy, những người bán hàng không dám than phiền ǵ cả. Tóm lại, bàn ăn của nhà vua đầy các thứ cao lương mỹ vị mà toàn đồ ăn cướp của dân” (bđd, t. 95-96).
Miễn phê b́nh. Những “thông tin”: vua trả lương người Âu bằng tiền kẽm và trả một cách “bóc lột” sẽ được Taboulet chép lại. C̣n chuyện vua Gia Long sai đầu bếp đi ăn cắp ở chợ, th́ có lẽ các sử gia Pháp hơi ngượng nên không thấy họ phổ biến.
Đến đây chúng ta có thể hiểu tại sao sử gia Maybon cho in bài Introduction của Ste-Croix. Bởi ông cần dựa vào những thông tin thất thiệt này để xác định “công trạng” của Bá Đa Lộc và những người Pháp giúp Gia Long.
Bài Introduction của Ste-Croix, khi c̣n ở trong kho lưu trữ bộ Ngoại giao Pháp cùng với Kư sự Bissachère, đă được những người như Trương Vĩnh Kư sử dụng trong Cours d’histoire annamite (Giáo tŕnh lịch sử An Nam), 1875, Alexis Faure trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d’Adran (Đức Giám Mục Bá Đa Lộc), 1891, Louis Eugène Louvet trong cuốn La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở Nam Kỳ), 1885, Silvestre, trong Politique Française dans L’Indochine (Chính trị Pháp tại Đông Dương), Annales de l’Ecole des Sciences Politiques, 1896, Charles Gosselin trong cuốn L’Empire d’Annam (Đế Quốc An Nam), 1904… Nó là nguồn gốc hai huyền thoại: Bá Đa Lộc là đệ nhất công thần và Puymanel, Dayot là thủy tổ nền binh bị và xây dựng thành quách tại Việt Nam.
Khi Maybon viết cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820)), ông đă khảo sát nhiều tài liệu Âu-Việt (Barrow, Montyon, Thực Lục, Liệt Truyện…) đều không thấy ai nói đến những “công trạng” này, nên ông phải cho in Ste-Croix và Bissachère, để chứng minh những điều ông đưa ra, đă được những người đi trước viết cách đấy hơn một thế kỷ.
Để kết luận, xin tóm tắt hai điều về Ste-Croix:
- Ste-Croix, v́ lầm Nguyễn Ánh với hoàng tử Cảnh cho nên đă cho Bá Đa Lộc là thầy dạy vua Gia Long, là người “cầm đầu” trong triều, được ngồi ngang hàng với vua, được vua nể sợ, bảo sao vua nghe vậy. Faure sẽ dựa vào “chân dung” này để mô tả Bá Đa Lộc như một Richelieu đầy quyền năng bên cạnh Gia Long.
- Ste-Croix – dựa vào lời kể của Dayot, một kẻ bị Gia Long kết tội phải chạy trốn, để bôi nhọ Gia Long và đưa ra những thông tin tự đề cao, biến Dayot thành nhà lănh đạo thủy quân, cùng với Puymanel, trở thành những nhà sáng lập các ngành đúc súng, đóng tầu, xây dựng tất cả thành đài Vauban ở Việt Nam.
Thụy Khuê
Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-12/
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
1- Alexis Faure và cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine
unnamed (1)
Năm 1891, Alexis Faure, bí thư của Bộ trưởng Hải quân Pháp Chasseloup-Laubat, xuất bản ở Paris cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d’Adran, (Đức Giám Mục Bá Đa Lộc) (sẽ dẫn là Faure, Bá Đa Lộc) Augustin Challamel, Paris, 1891.
V́ làm việc dưới quyền Bộ trưởng, nên Faure có điều kiện tham khảo các tài liệu chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông đă viết lại cuộc đời giám mục Bá Đa Lộc, nhờ một số tư liệu lưu trữ trong bộ ngoại giao và quốc pḥng, đáng chú ư là những văn bản sau đây:
1- Bản ghi chép những điều Bá Đa Lộc tâu vua Louis XVI, với hai yếu tố chính:
- Về những lợi ích mang lại cho nước Pháp nếu đem quân “giúp” Nguyễn Ánh: ngoài sự giàu có về sản vật của nước Nam, Pháp c̣n chặn đứng sự bành trướng của đế quốc Anh ở Á Châu.
- T́nh trạng “tồi tệ” của quân Tây Sơn: nếu đánh là được ngay. Điểm này Bá Đa Lộc hoàn toàn khai man, v́ lúc đó Nguyễn Ánh đă bị Nguyễn Huệ đuổi đến bốn lần ra khỏi lănh thổ. Và có lẽ chính v́ điểm man trá này, nên khi biết rơ sự thực, Louis XVI đă băi bỏ hiệp ước Versailles, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này khi viết về Bá Đa Lộc.
2 – Bản ghi buổi “khẩu cung” ở Pondichéry, Conway buộc Bá Đa Lộc phải trả lời trước “bộ tư lệnh” về những điểm chiến lược khi đem quân vào Nam Hà: phải tấn công ở đâu, như thế nào, nhưng vị giám mục ú ớ, không trả lời được.
Hai tài liệu này rất quan trọng cho việc t́m hiểu Bá Đa Lộc. Faure “hồn nhiên” đưa ra, nhưng Maybon không thích, cho nên ông chỉ trích Faure không đề xuất xứ các tài liệu, thực ra là có.
3- Faure t́m được danh sách 369 (có chỗ ông ghi 359, nhưng đếm th́ đúng 369) người lính đào ngũ, trên các tàu Pháp có dịch vụ ở biển Đông từ 1785 đến 1789, trong số đó chỉ có một sĩ quan, và viên sĩ quan này không đến Việt Nam. Nhờ tư liệu này, chúng ta có thể biết rơ học lực và cấp bậc của những người lính đào ngũ như Puymanel, Lebrun, v.v. Nhưng cái tệ là Faure lại vơ cả con số 369 này vào thành 369 người đến giúp Nguyễn Ánh, một lập luận hết sức sai lầm không thể chấp nhận được. Chúng tôi sẽ mổ xẻ vấn đề này trong chương Con số những người lính Pháp đến giúp Gia Long.
Đó là ba điểm hữu ích mà cuốn sách của Faure có thể giúp chúng ta rọi sâu vào sự nghiệp Bá Đa Lộc và những người lính Pháp.
Nhưng sách của Faure c̣n có những khía cạnh xuyên tạc lịch sử trầm trọng mà chúng ta cần biết:
1- Faure đă đọc bài Introduction của Sainte-Croix trong Archives des Affaires étrangères, fonds Indes Orientales (Văn khố Ngoại giao, đề tài Đông Ấn) trước Maybon gần 30 năm. Faure sẽ dùng hoàn toàn luận điệu của Ste-Croix (kẻ nhầm Nguyễn Ánh với hoàng tử Cảnh) và tô điểm thêm để vẽ chân dung Bá Đa Lộc, như người thầy của Nguyễn Ánh, tôn Bá lên thành Richelieu của Gia Long.
2- Faure t́m thấy trong Archives des Affaires étrangères, fonds Indes Orientales, những bản báo cáo của de Guignes, một nhân viên hay điệp viên (nguyên tiếng Pháp là agent) ngoại giao của Pháp tại Quảng Đông, gửi về Bộ Ngoại Giao Pháp; nhưng ông nâng cấp cho de Guignes thành lănh sự (consul). De Guignes được Faure giới thiệu là người “hiểu rơ t́nh h́nh Nam Hà”. Nếu đọc những bản báo cáo này, ta thấy Guignes cũng chỉ cung cấp những tài liệu “giá trị” kiểu Ste-Croix, nếu làm điệp viên cho chính phủ Pháp, th́ chỉ là một điệp viên tồi. Nhưng một số “thông tin” của de Guignes sẽ là nền tảng cho câu chuyện “Le Brun là nhà thiết kế đô thị đầu tiên và Puymanel là kiến trúc sư xây tất cả những thành tŕ Vauban ở Việt Nam”. Đó là hai tác hại chính trong cuốn sách Bá Đa Lộc của Alexis Faure.
Khởi thuỷ của việc Le Brun và Puymanel trở thành “kỹ sư và kiến trúc sư” xây dựng thành tŕ
Trong số những báo cáo của nhân viên hay điệp viên de Guignes gửi về Bộ Ngoại Giao Pháp, bản viết ngày 29/12/1791, có câu: “Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đă cho ông ta [Nguyễn Vương] một cái bản đồ thành đài. (Chúng tôi nhấn mạnh) (MM Olivier et Lebrun, officiers francais, lui donnèrent un plan de ville fortifiée). Câu này là khởi thuỷ của tất cả những xác định: Le Brun và Olivier xây thành Gia Định, Olivier xây thành Diên Khánh, từ Trương Vĩnh Kư đến Nguyễn Đ́nh Đầu.
Trương Vĩnh Kư, tiếp nhận những “thông tin” trong sách của Faure, đưa vào cuốn Biên tích đức thầy, Pinho Quận Công, Sài G̣n, 1897.
Taboulet chép lại bản báo cáo của agent de Guignes trong bộ sách La geste francaise en Indochine, (1955) và biến nó thành một tài liệu chính thức, với cái tít: Ông Lănh Sự Pháp ở Quảng Đông gửi ông Bộ trưởng Ngoại Giao, (Taboulet, I, t. 242) và thêm thắt vào để chính thức hoá bản báo cáo này thành một “tư liệu lịch sử”.
Tạ Chí Đại Trường, chép lại Taboulet, chính thức hoá thêm một lần nữa “sự kiện” Olivier de Puymanel và Lebrun “xây” thành Gia Định, biện hộ cho lập luận của Pháp và xác định luôn rằng Puymanel xây cả thành Diên Khánh.
Nguyễn Đ́nh Đầu, dựa theo các sách của Trương Vĩnh Kư, Taboulet và Tạ Chí Đại Trường để xác nhận Lebrun là “kỹ sư thiết kế đô thị đầu tiên” của Việt Nam.
Chúng tôi sẽ khai triển những vấn đề này trong chương 12: Ai xây các thành Gia Định và Diên Khánh.
Tóm lại, Faure, năm 1891 đă dùng tài liệu của Ste-Croix và de Guignes rồi thổi phồng lên để kết luận: Bá Đa Lộc là Richelieu của Gia Long và Puymanel và Le Brun là thuỷ tổ việc xây thành quách ở Việt Nam.
Tiến tŕnh Puymanel từ binh nh́, thành sĩ quan, rồi tham mưu trưởng quân đội Nam Hà
Faure là người “hồn nhiên”, ông không mưu tính sâu sắc như học giả Maybon, v́ vậy, những thông tin ông đưa ra, có cái thật, có cái ông tưởng là thật, có cái ông thổi phồng quá lố v́ thiếu tế nhị, nên chúng ta phải cẩn thận khi dùng tài liệu của ông.
Trước hết, cấp bậc của Oliver de Puymanel và Le Brun trước khi đào ngũ, chính Faure đưa ra, v́ ông chép lại trong hồ sơ của bộ quốc pḥng, th́ không thể sai được.
Về Olivier de Puymanel, Faure viết:
- “La Dryade tới đảo Côn Lôn ngày 15/9/1788, để lại đây cha Paul Nghị [Hồ Văn Nghị], người thân cận của Bá Đa Lộc và 10 lính thuỷ Nam Hà được đưa [từ Pondichéry] về xứ. Tàu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà. Tàu mất ở đây một lính t́nh nguyện binh nh́, ông Olivier de Puymanel đào ngũ cùng vài thủy thủ bắn pháo. Người lính t́nh nguyện trốn thoát ngày (19/9/1788) ở Côn Lôn, chẳng bao lâu sẽ nổi tiếng ở Nam Hà, sẽ trở thành Vệ uư Olivier de Puymanel.
Olivier de Puymanel lúc đó 20 tuổi, sinh tại Carpentras tháng 4/1768, con của Augustin Raymon và Francoise-Louise Vitalis. Người ta không biết thêm ǵ nữa về t́nh trạng hộ tịch và gia đ́nh của anh. Chỉ chắc chắn rằng, Giám mục Bá Đa Lộc đă tất nhiên chú ư và thích anh trong chuyến vượt biển trên tàu La Dryade [đi từ Orient đến Pondichéry, khi Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh từ Pháp về năm 1788] bởi v́ người không ngần ngại trao cho anh chức Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà (Chef d’Etat Major de l’Armée Cochinchinoise) và anh đă thực thi nhiệm vụ một cách cao cả tới chết, tại Malacca, nơi anh đi công vụ, ngày 23/3/1799”. (Faure, Bá Đa Lộc, Chương 17, t. 199-200).
Chúng ta thấy ngay, trong chỉ có mấy hàng cách nhau, mà Faure đă tăng chức cho Puymanel từ binh nh́ lên “Tham Mưu Trưởng quân đội Nam Hà” v́ được Đức Cha Bá Đa Lộc chú ư đến! Trừ việc ấy, những điều khác đều dùng được.
Bức chân dung này sẽ được người ta chép lại, trích dẫn, sửa đổi, theo nhu cầu. Ví dụ: người ta hoàn toàn “quên” xuất xứ binh nh́, đào ngũ, của Puymanel, chỉ giữ lại chức “Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà”. Một ngàn khẩu súng Gia Long mua, sẽ biến thành “1000 khẩu súng do Bá Đa Lộc mua về giúp Gia Long”, v.v. trong sách của các sử gia Pháp Việt. Riêng việc Puymanel làm “Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà”, sẽ được tô vẽ đủ kiểu, tùy theo tác giả, từ Trương Vĩnh Kư, Cosserat, Maybon, Cadière, Taboulet, đến Tạ Chí Đại Trường…
Tiến tŕnh Le Brun từ binh nhất lên “kỹ sư thiết kế đô thị đầu tiên của Việt Nam”
Về Le Brun, Faure viết những đoạn sau đây:
1- “Le Brun (Théodore), lính t́nh nguyện binh nh́ (cấp bậc ngày 8/2/1788) lên tàu La Méduse ngày 19/6/1788”. (Faure, Pièces justificatives, t. 241).
2- “Tên những lính thuỷ đào ngũ, hoặc bị đuổi trong hành tŕnh, là: “Le Brun (Théodore), lính t́nh nguyện binh nhất (cấp bậc ngày 1/1/1789), vào bệnh viện Pondichéry ngày 28/6/1788, ra ngày 28/8/1788. Ngày 13/1/1790, xuống Macao và ở lại; nợ ông Nicolas Lolier 45 piastres à 5, 8 (?), tính là 243 livres…” (Faure, Pièces justificatives, t. 243).
3- “Brun (Théodore), lính t́nh nguyện binh nhất (cấp bậc ngày 1/1/1789), lên bờ ở Macao ngày 13/1 và ở lại đây. Lính t́nh nguyện Le Brun chẳng bao lâu sẽ sang Nam Hà với bạn là Olivier de Puymanel” (Faure, chương 17, t. 205-206).
4- “Chắc chắn rằng người lính t́nh nguyện binh nhất Le Brun không ở lại Nam Hà quá 15 tháng. Le Brun bỏ đi, không phải v́ vua tiến binh chậm quá [như de Guignes nói] mà bởi v́ anh thấy vua trả lương ít quá, và nhất là anh không chịu làm việc dưới quyền Olivier, chỉ là lính t́nh nguyện binh nh́, mà nay trở thành Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà, điều khiển anh” (Faure, chương 18, Note số 2, t. 215).
Theo những ngày tháng trên đây, ta có thể tóm tắt rằng: ngày 13/1/1770, Le Brun đến Macao rồi ở lại. Sau đó t́m cách sang Việt Nam. Le Brun phải đến Gia Định trước ngày 27/6/1790, là ngày được nhận chức cai đội. Trên văn bằng thấy ghi như sau:
“Hoàng thượng thấy tài trí và khả năng của Theodore Le Brun, quốc tịch Pháp, ân sủng cho bằng văn bằng này, cấp kỹ sư, danh nghiă Khâm sai cai đội thanh oai hầu. Hoàng thượng giao cho việc bố pḥng đồn luỹ trong nước và lệnh cho lấy tất cả mọi phương tiện để bảo đảm an toàn. Nếu v́ bất cẩn, không thi hành nhiệm vụ, sẽ bị trừng trị theo đúng pháp luật.” Ngày thứ 15, tuần trăng thứ năm, Cảnh Hưng thứ 51 (27/6/1790) (Louvet, La Cochinchine religieuse, Ernest Leroux, Paris 1885, Pièces justificatives, t. 531).
Như vậy khi Le Brun đến Gia Định, thành Gia Định đă làm xong. Thực Lục, ghi ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, tức 22/4/1790], Trịnh Hoài Đức ghi ngày 4/2/ Canh Tuất [tức 19/3/1790], đắp thành đất Gia Định. Chỉ có 10 ngày đắp xong. Vậy Le Brun nhập vào hàng ngũ quân đội của Nguyễn Ánh lúc nào? Và vẽ bản đồ thành Gia Định lúc nào? Mà trong hầu hết sách Tây, ta đều thi nhau chép Le Brun là người vễ bản đồ thành Gia Định?
Nếu Le Brun chỉ ở không đầy 15 tháng như Faure viết, th́ y bỏ đi vào khoảng giữa năm 1771. Theo Faure, v́ chê lương ít, và v́ phải làm dưới quyền của Puymanel. Nhưng có lẽ c̣n có một lư do nữa, nếu đọc văn bằng trên đây, ta thấy ghi “kỹ sư”, v́ vậy vua giao cho việc bố pḥng đồn lũy. Như hầu hết các lính đào ngũ này, khi đến Việt Nam đều khai man là sĩ quan và có bằng cấp, nên vua cho chức cai đội, tương đương với capitaine, nhưng ít lâu sau, có thể Le Brun không có khả năng làm công việc của ḿnh, bị đuổi, hoặc tự ư bỏ đi.
Điều mà chúng ta thấy rơ nhất ở đây: không phải chỉ có lính đào ngũ khai man với vua để nhận chức cai đội, mà những người viết sử thực dân, đă dựa vào sự khai man, tự tiện thăng chức cho những người này, bất kể lô-gích, rồi người Việt cứ thế chép lại, không mảy may kiểm chứng.
Chúng tôi đă chứng minh Ste-Croix, dựa vào lời kể bịa đặt của Dayot để tự thăng chức cho ḿnh và Puymanel trong chương 10 viết về Ste-Croix, ở đây Faure cũng biạ đặt trắng trợn không kém:
Ở chương 18, Note số 2, t. 215, Faure viết: Le Brun là binh nhất, Olivier là binh nh́, th́ trước đó 5 trang, ở chương 17, trang 210, ông đă viết:
“… số lính thuỷ Pháp bỏ tàu trong khi thi hành nhiệm vụ, lên tới 359 tên, mà hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả đều đầu quân cho vua Nam Hà, và trở thành linh hồn của bộ binh và thủy binh xứ này. Trong số đó, có những sĩ quan, những sinh viên sĩ quan, đủ khả năng chỉ huy như các ông Olivier de Puymanel, Le Brun, Guillon, Magon de Médine, Tardivet, Malespine, Dayot, những người này, dưới tay Giám Mục Bá Đa Lộc, mỗi người, với khả năng của họ, sẽ góp phần xây dựng lại vương quốc Nam Hà, mau chóng khôi phục sức chiến đấu của nước này đến thắng lợi và chẳng bao lâu nghiền nát cuộc nổi loạn vũ băo do anh em Tây sơn khởi xướng và cầm đầu.” (Faure, Chương 17, t. 210).
Từ con số 359 [có chỗ ghi 369] người lính Pháp đào ngũ ở vùng Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương mà Faure kiếm ra (trong số đó chỉ có một sĩ quan, không đến Nam Hà) mà ông dám quả quyết “tất cả” những người này đều đầu quân theo Nguyễn Ánh, như thể cả vùng Châu Á Thái B́nh Dương chỉ có ḿnh Nguyễn Ánh mộ quân! Sau đó, ông thăng chức cho họ từ “binh nh́, binh nhất”, lên hàng “sĩ quan” có khả năng chỉ huy, lănh đạo, rồi trở thành “linh hồn của bộ binh và thuỷ binh của xứ này”; sau cùng, ông kết luận: chính những người này đă “góp phần xây dựng lại vương quốc Nam Hà, nghiền nát Tây Sơn”! Tất cả chỉ trong có 8 ḍng chữ. Thực chưa từng thấy hiện tượng binh nhất, binh nh́ nào mà tiến nhanh như thế, trong lịch sử quân đội loài người.
Faure phong thánh cho giám mục Bá Đa Lộc
Sau Ste-Croix, Faure với những “thông tin” như vậy đă tạo thành một cuốn sách phong thánh linh mục Bá Đa Lộc và đưa Puymanel, Dayot lên tột đỉnh. Theo Faure, th́ vị Giám Mục đă giữ địa vị thống soái quân đội Nam Hà ngay từ 1779-1780:
“Sự pḥng thủ Sài G̣n do Giám Mục điều khiển, người đă ứng chiến làm Bộ trưởng Chiến tranh. Dưới sức xung động mạnh mẽ của người, [bộ này] đă được phát triển trong vài năm yên tĩnh vừa qua” (Chương 3, t. 41). Câu này hoàn toàn “sáng tác”, dựa theo những lời tưởng tượng của Ste-Croix.
Tiếp đó, Faure hùng hồn mô tả các trận đánh do vị giám mục cầm quân, có trận chết như rạ, nhưng thiên tài của vị giám mục bao giờ cũng sáng tỏ. Vua đi theo “người” trong tất cả hành tŕnh sôi nổi này và công tŕnh lớn nhất là “người” đă cứu vua thoát chết, đă đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, Faure viết:
“… Như đức Hồng y giáo chủ Richelieu [đối với vua Louis XIII], đức giám mục Bá Đa Lộc trực tiếp thương lượng với các cường quốc bên ngoài, tổ chức các hạm đội và quân đội, lănh đạo hoặc chỉ huy những đoàn quân lớn, có thể tính đến 50.000 người mà không sợ nói quá. Cũng như đức Hồng y Richelieu, đức giám mục Bá Đa Lộc có đoàn vệ binh riêng, có cờ lệnh riêng bằng lụa đỏ (những khâm sai của giáo hoàng kế nhiệm ông ở nước Nam, đă giữ ǵn lá cờ cẩn thận, nhưng có lẽ, do lệnh trên, không cho ai xem), ông đi tiên phong ra trận; lá cờ lệnh được treo cùng với cờ trắng của vua trên các chiếm hạm. Theo ông Bissachère, trong những hội đồng chiến tranh và các buổi họp khác, đức cha luôn luôn ngồi cạnh và ngang hàng với vua. Vậy ta có thể nói, đức giám mục Bá Đa Lộc là vị giáo chủ chiến tranh cuối cùng của lịch sử chúng ta” (Chương 18, t. 220-221).
Faure lầm đấy, không phải Bissachère viết câu: “đức cha luôn luôn ngồi cạnh và ngang hàng với vua” mà là Ste-Croix, y viết câu này v́ lầm Nguyễn Ánh với hoàng tử Cảnh!
Vẫn theo Faure: “Đức giám mục thấy vấn đề quân sự là cốt yếu nhất và khẩn thiết nhất, nên người cho Dayot làm tư lệnh hải quân với chức vụ hải quân đại tá”. (Chương 18, t. 217).
Lại lầm nữa: Dayot, bị kết án tử h́nh v́ tội làm đắm tàu, phải trốn đi, đă tự phong chức cho ḿnh và kể lại với Ste-Croix.
Faure viết tiếp: “Sau thủy binh, Đức giám mục Bá Đa Lộc để tâm tổ chức bộ binh, hồi đó chỉ là những băng đảng. Người thanh niên Olivier de Puymanel trở thành đại diện đặc trách nhận lệnh trực tiếp của Đức Cha, nói cách khác Olivier là Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha.” (Chương 18, t. 221).
Từ Tham mưu trưởng (Chef d’etat major) lại được thăng Tổng Tham Mưu Trưởng (Chef d’état major général) !
Rồi ông tưởng nhớ Puymanel: “Người sĩ quan chết ở tuổi 31 này, đă hoàn tất ở Nam Hà một công tŕnh đồ sộ, những ai biết rơ bao nhiêu thành tŕ Vauban mà ông đă xây trong thời kỳ 10 năm, đều ngưỡng mộ, kính phục” (Chương 17, t. 200-201).
Lời hoang tưởng vô bằng cớ này: bao nhiêu thành tŕ Vauban mà Puymanel đă xây trong 10 năm, của Faure sẽ được người ta chép lại, đặc biệt học giả Cadière.
Sau đây, ông hăng hái kể tiếp câu chuyện giám mục Bá Đa Lộc lập “trường vơ bị”:
“… Phải tạm thời hạn chế, thành lập một đội quân 3000 người, do những người lính thuỷ mà Đức Giám Mục đem về, thường trực tập luyện cho họ. Người nghĩ rằng số quân đội ṇng cốt này chưa đủ, [tuy vậy] trong khi chờ đợi, nó phải là một trường quân sự cho lính và nhất là cho sĩ quan bản xứ, tuyệt đối không biết ǵ về thuật đánh giặc.
Để khai tâm cho chúng về thuật này, chính người đă dịch và chú thích những sách Pháp thích hợp sang chữ nôm (idiome cochinchinois); những cuốn sách này nhiều bản c̣n rải rác đâu đó, người ta đă lầm khi giấu đi, như đă từng giấu lá cờ lệnh vinh hiển của đức cha. Olivier de Puymanel lại hân hạnh được đức cha chọn điều khiển trường vơ bị tổng hợp này, ở đó phát xuất những sĩ quan và hạ sĩ quan người bản xứ, đă học về quy luật trận địa, họ sẽ thể hiện giá trị và kinh nghiệm ấy trên chiến trường” (Faure, Chương 18, t.221-222).
Cả đoạn này sẽ biến thành “các sĩ quan Pháp huấn luyện và cải tổ quân đội Nguyễn Ánh theo lối Tây phương” mà ta có thể đọc được ở hầu hết mọi tác giả Việt Pháp!
Chưa hết, Faure c̣n kể tiếp: hai vị tướng nổi tiếng Kaô-Kôun [chưa biết là ai, có thể ông muốn chỉ Nguyễn Văn Thành] và Taô-Koun [chắc là Vơ Tánh, v́ đoạn sau nói đến việc tử tiết trong thành Qui Nhơn] cũng xuất thân từ trường vơ bị của GM Bá Đa Lộc, do Puymanel điều khiển! Vẫn theo Faure, cạnh trường vơ bị, c̣n có trại Mộ binh, do Laurent Barisy chỉ huy! (Faure, chương 18, t. 222-223)
Và sau đây là “sự kiện” Bá Đa Lộc xây thành Sài G̣n và quyết định xây các thành Vauban:
“Trong khi tổ chức quân đội và thủy quân, Giám Mục Bá Đa Lộc không bỏ quên sự củng cố các thành đài trong hệ thống pḥng thủ. Thành cũ Sài G̣n xây dưới sự điều khiển của người mười năm trước, được sửa chữa và mở rộng lớn lao thêm theo những bản đồ mới. Người cũng quyết định chương tŕnh kiến thiết các thành Vauban, sẽ được xây ngay ở Vĩnh Long, Hà Tiên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Biên Hoà, v.v… để che chở cho những vị trí chính yếu của cả xứ, tránh những xúc phạm của quân thù, đến từ Tây hay Đông, từ Xiêm La hay Bắc Hà.” (Faure, chương 18, t. 224).
Đọc một số trích đoạn trên đây đă quá đủ để thấy rơ “tinh thần” tác giả:
Toàn thể quân đội thủy bộ của Nguyễn Ánh đều do đức GM Bá Đa Lộc tạo ra! Những “sĩ quan”, “kỹ sư”, “kiến trúc sư” Le Brun, Puymanel, Dayot, Barisy… là ṇng cốt xây dựng nên quân đội Nguyễn Ánh! Tiếc rằng các sách đức giám mục dịch ra, không biết kẻ nào giấu đi, khiến nay không c̣n vết tích! Chúng giấu sách dịch của đức cha cũng như chúng giấu cờ hiệu xông trận của đức cha vậy!
Những “sáng tác” về “công ơn trời biển” của Bá Đa Lộc và các “sĩ quan” Pháp, xuất phát từ cuốn Bá Đa Lộc của Faure mà ra, sẽ được nhiều người chép lại, xé lẻ, tô điểm thêm rải rác khắp nơi, trở thành những “sự thật”.
Tạ Chí Đại Trường: Bá Đa Lộc dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn
Tạ Chí Đại Trường là người không những chấp nhận vai tṛ “lănh đạo” của Bá Đa Lộc, thầy của Nguyễn Ánh, thông qua Faure, Taboulet, mà ông c̣n đưa thêm những tin “inédit” rất lạ như: nửa đêm Nguyễn Ánh đi t́m Bá Đa Lộc để “hỏi ư kiến” về việc giết Đỗ Thanh Nhơn, mà chúng tôi đă nói trong chương trước.
Ở đây, ta thử xem Tạ Chí Đại Trường kể lại chuyện Bá Đa Lộc xoay được hai chiếc tàu Bồ cho Nguyễn Ánh và dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn như thế nào.
Trong chương tựa đề “Kỹ thuật Tây phương rụt rè bước vào chiến tranh Nam Hà” (Lịch sử Nội chiến Việt Nam, t. 106-115), có đoạn văn sau đây mô tả Bá Đa Lộc “phân trần” về hành động can dự vào chiến cuộc Đại Việt như thế nào:
“Trong khi phân trần về hành động đă can dự vào chính trị Đại Việt, Giám mục D’Adran chứng minh cho ta thấy xác nhận trên trong bức thư đề ngày 26-7-1779: “Hai chiếc tàu từ Macao đến Bassac trong năm nay để buôn bán… Một người Trung Hoa đưa ư kiến với ông lớn của xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm tiêu, lưu hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết sức cần các thứ hoàng hoá này, vội vă bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp xứ Cochinchine; đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa”. (TCĐT chú thích: Ông quan lớn này là Đỗ Thanh Nhân)
Tuy các vị chủ tàu có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá Đa Lộc, cách giao thiệp này cũng đưa tới kết quả là vào khoảng tháng hè 1781 trong cuộc duyệt binh tháng 5 Tân Sửu với không dưới 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rơ có hai chiếc tàu tây (Tây dương thuyền).
Thực ra, Bá-đa-lộc và các LM gịng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tàu Bồ đào nha chở đầy binh lính, khí giới, súng đạn và lương thực. Chính Bá-đa-lộc, “bằng cách nói chuyện chơi” cũng đă du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia định khi ông dạy Đỗ thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước đo góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn (?) và những dụng cụ toán học khác… Hơn nữa, ông c̣n cho người giúp việc của ông, Măn-noài, Emmanuel… một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tàu Bồ.” (Lịch sử Nội chiến Việt Nam, t. 106-107).
Đoạn văn trên có vẻ quan trọng nhưng hơi khó hiểu. Chúng tôi xin tóm tắt mấy ư chính:
Có hai tàu buôn vũ khí ở Macao đến Nam Hà. Đỗ Thanh Nhơn muốn mua, nhờ Bá Đa Lộc viết thư cho thuyền trưởng, đề nghị họ bán cả tàu hoặc một phần cho ông, hoặc đem “cả tàu về giúp” Nam Hà th́ sẽ được quyền vào cảng không phải đóng thuế. (?)
Các chủ tàu phàn nàn về “thái độ tham dự” (?) của Bá Đa Lộc.
Cách “giao thiệp” này đưa đến kết quả là cuộc duyệt binh năm hè năm 1781 (?).
Bá Đa Lộc ghi nhận không phải hai mà ba tàu Bồ Đào Nha “chở đầy binh lính khí giới và lương thực” (?).
Chính “Bá Đa Lộc “bằng cách nói chuyện chơi” đă du nhập kiến thức kỹ thuật mới của Tây phương, “dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn”, v.v.
Tuy đă tóm tắt lại, nhưng những chỗ đánh dấu hỏi vẫn c̣n khó hiểu, chúng tôi phải t́m lại lá thư của Bá Đa Lộc, xem ông viết ǵ. Sau đây xin dịch nguyên văn lá thư này:
“26/7/1779
Pierre-Joseph-Georges, giám mục Adran, Đại lư giáo hoàng ở Nam Hà, Cao Mên và Chàm, gửi tới tất cả những ai cần biết, lời chào.
Năm nay [1779] có hai tàu buôn [Bồ] từ Macao đến Bassac [Cà Mau], một người Hoa báo ngay cho quan đại thần Nam Hà biết tàu chở đại bác, salpêtre, lưu huỳnh và nhiều quân nhu khác. Vị quan này, rất thân với tôi, đang cần đến tất cả những hàng hoá này, khẩn khoản nhờ tôi viết thư cho các thuyền trưởng, đề nghị họ bán cho ông một phần hay tất cả, hoặc cứ đem tàu ghé thẳng vào Nam Hà, sẽ được miễn các thứ thuế nhập khẩu. Tôi làm giúp và hai vị thuyền trưởng này, lúc từ Cao Mên trở lại, đă gửi ngay những người lái tàu sang điều đ́nh với ông quan, xong việc, cả hai hoa tiêu đều bằng ḷng, một người quay về Bassac một người ở lại đây. C̣n tôi, sau khi làm xong việc giới thiệu các thuyền trưởng với ông quan, tôi đi thăm một phần giáo phận của tôi, v́ các tu sĩ và giáo dân đang đợi từ một tháng nay.
Những vị thuyền trưởng khi đến đây cùng với tàu của họ lại tưởng rằng tôi cốt ư tránh và than phiền thái độ của tôi đối với họ. Lại được một giáo sĩ, có ác cảm với tôi, phụ hoạ, họ bảo rằng:1- Họ nghi tôi muốn cướp quyền tự do của tàu [Bồ] ở Macao đến buôn bán ở đây. 2- Họ than phiền tôi làm vài việc xấu với vua Cao Mên. 3- Họ buộc tội tôi dạy người Nam Hà cách đúc đại bác, làm bom và những khí giới khác…”[1] (Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Launay, III, t. 75).
Lá thư này được Launay in lại và được tŕnh bày dưới tựa đề: “Vụ tàu Bồ Đào Nha, tuyên bố của đức GM Bá Đa Lộc (Affaires des vaisseaux portugais, Déclaration de Mgr Pigneaux)”.
Lời tuyên bố Ba Đa Lộc trên đây là để phản bác và tŕnh bày cho mọi người biết sự thể đă xẩy ra, về ba “tội” mà vị giám mục bị người Bồ tố cáo, là:
1- Họ nghi ông cướp quyền tự do của tàu [Bồ] ở Macao đến buôn bán tại Nam Hà.
2- Họ than ông làm những việc xấu với vua Cao Mên.
3- Họ buộc tội ông dạy người Nam Hà cách đúc đại bác, làm bom và những khí giới khác.
V́ vậy, Bá Đa Lộc phải viết bản tuyên ngôn này để bảo vệ danh dự thầy tu, đại lư giáo hoàng.
Tuy ông không nói rơ địa danh “ở đây” là đâu, nhưng ta có thể đoán đó là Hà Tiên, v́ Hà Tiên ở trên đường biển từ Macao đến Cao Mên và ở cạnh Cà Mâu; và câu “một người Hoa báo ngay cho quan đại thần” th́ chắc là người Minh hương ở Hà Tiên báo cho quan trấn thủ.
Không hiểu tại sao một lá thư viết khá rơ ràng, rành mạch như vậy, lại được Tạ Chí Đại Trường hiểu và viết lại như trên kia. Lối viết sử như thế này thật đáng ngại:
1- V́ ông hiểu sai câu chữ (xem bản tiếng Pháp ở chú thích), ví dụ câu “hoặc có thể đưa tàu ghé vào Nam Hà, sẽ được miễn các thứ thuế nhập khẩu” lại được ông hiểu thành: “đem tàu giúp xứ Cochinchine; đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa”. Hai thuyền trưởng làm sao có thể đem tàu “giúp” xứ Cochinchine được, họ có phải là chủ tàu đâu, và “biếu” tàu rồi cũng chỉ được quyền ghé bến và những quyền lợi khác là ǵ? Ai lại đem cho không tàu, để đổi lấy quyền “ghé bến”?
2- Ông tiếp tục hiểu sai nữa, khi viết: “Tuy các vị chủ tàu có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá Đa Lộc”. Hai thuyền trưởng này (họ không phải là chủ tàu) chẳng hề phàn nàn về “thái độ tham dự” nào của Bá Đa Lộc cả, họ phàn nàn v́ ông Bá không ở lại Hà Tiên (hay Gia Định, v́ trong văn bản, Bá không nói rơ nơi) để đón họ mà lại đi mất.
3- Từ cái sai trên, Tạ Chí Đại Trường c̣n móc nối thêm nữa: ông cho rằng “cách giao thiệp này” (được hiểu là nhờ cách giao thiệp với tàu Bồ, khiến họ “nộp không” hai chiếc tàu “giúp” Nam Hà, để “lấy quyền vào cửa miễn thuế”) đă đưa đến kết quả là cuộc duyệt binh năm 1781 với “3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rơ có hai chiếc tàu tây (Tây dương thuyền)”… Nói khác đi, nhờ Bá Đa Lộc “khéo giao thiệp” nên được hai chiếc tàu Bồ cho không, v́ thế Nguyễn Ánh mới tổ chức được cuộc duyệt binh năm 1781 với hai tàu Tây Dương! Và không phải chỉ có hai, “thực ra, Bá-đa-lộc và các LM ḍng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tàu Bồ đào nha chở đầy binh lính, khí giới, súng đạn và lương thực”. Một sự suy diễn như thế này th́ thực là đáng ngại.
4- Nhưng đoạn sau cùng c̣n tệ hơn nữa:
“Chính Bá-đa-lộc, “bằng cách nói chuyện chơi” cũng đă du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia định khi ông dạy Đỗ thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước do góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn (?) và những dụng cụ toán học khác… Hơn nữa, ông c̣n cho người giúp việc của ông, Măn-noài, Emmanuel… một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tàu Bồ.”
Muốn hiểu rơ cái sai của đoạn này, chúng ta cần nh́n lại lịch sử trước đó:
Kể từ tháng 6/1775, Bá Đa Lộc được Mạc Thiên Tứ cho chính thức lập trụ sở tại Ḥn Đất (Hà Tiên). Vị đại thần mà Bá Đa Lộc nói đến ở đây, chỉ có thể là Mạc Thiên Tứ (1718-1780), quan trấn thủ Hà Tiên, công thần nhà Nguyễn, là ân nhân của Bá Đa Lộc, đă cho phép ông lập trụ sở và giảng đạo khắp Hà Tiên. Không thể là Đỗ Thanh Nhơn như Tạ Chí Đại Trường tưởng, bởi v́ không có ǵ chắc là Bá Đa Lộc lại rất thân với Đỗ Thanh Nhơn, một ông tướng có công, có tài, nhưng tàn ác giết người như ngoé mà tác giả Sử Kư Đại Nam Việt gọi là “tướng cướp”, nên Nguyễn Ánh mới phải giết đi.
Bá Đa Lộc dùng chữ rất chính xác, ông viết rơ “grand mandarin” (quan đại thần), chứ không viết “grand général” (đại tướng).
Bá Đa Lộc tŕnh bày rơ ràng: ông chẳng làm ǵ trở ngại cho việc buôn bán khí giới của tàu Bồ với Nam Hà cả, ông chỉ giúp vị quan đại thần liên lạc với họ mà thôi; xong việc, ông đi thăm con chiên của ông. Nên khi đến Hà Tiên (hay Gia Định) hai vị thuyền trưởng Bồ đă hiểu lầm, tưởng ông trốn không muốn tiếp họ. Hai vị này lại gặp một giáo sĩ vốn ghét ông, nên cả ba về hùa, thêu dệt, tố cáo ông ba điều đă nói ở trên.
Sở dĩ có những tranh chấp, tố cáo này v́ thời đó, Pháp và Bồ cạnh tranh kịch liệt trên địa hạt tôn giáo cũng như buôn bán.
Trong bài tuyên bố này, chủ đích của Bá Đa Lộc là phản bác ba điều bị người Bồ lên án, điều thứ nhất vừa nói; điều thứ nh́ liên quan tới vua Cao Mên, không cần dịch, về điều thứ ba, xin tŕnh bầy tiếp theo đây, ông viết:
“C̣n về điều thứ ba, tôi không bao giờ làm và giúp ai làm bom, làm đại bác, hay bất cứ khí giới nào khác. Tôi biết quá rơ việc này không phù hợp với t́nh trạng [thầy tu] của tôi. Một điều có thể dẫn đến những nghi ngờ này, là việc ông quan hỏi tôi về cách nạp một quả lựu đạn ông có từ Cao Mên, và vài thứ vụn vặt khác về loại này, tôi giải thích cho ông trong lúc tṛ chuyện. Tôi cũng chia độ một graphomètre, một phần tư ṿng tṛn, một thước đo góc cho ông và đặt làm cho ông một loa phóng, một vành thiên văn và vài dụng cụ toán học khác. Đó là những ǵ tôi thấy có bổn phận phải ghi ra để ngăn chặn hậu quả những vu cáo và báo cáo của những kẻ có ư xấu.” [2] (Launay III, t. 76).
Bá Đa Lộc viết rơ ràng: mọi sự đồn đại chỉ v́ ông quan (le mandarin) hỏi ông cách nạp một quả lựu đạn ông có từ Cao Mên (charger une grenade qu’il avait eue du Camboge). Trong bối cảnh của câu này, ta chỉ có thể hiểu: le mandarin vẫn là Mạc Thiên Tứ, quan trấn thủ Hà Tiên, một nhà văn học và khoa học, không biết dùng lựu đạn, cần những dụng cụ thiên văn, đo lường… người đó không thể là Đỗ Thanh Nhơn. Và Bá Đa Lộc cũng như một số thầy tu uyên bác, đều rành về thiên văn và khoa học, nên đă giúp Mạc Thiên Tứ những việc đó.
Tạ Chí Đại Trường đưa tên Đỗ Thanh Nhơn vào, rồi liên kết với việc Mạn Hoè (Manuel), để vinh thăng Bá Đa Lộc:
- Đă tiến cử Mạn Hoè, một anh hùng chống Tây Sơn đến chết.
- Đă xoay xở cho Nguyễn Ánh có được 2, 3 tàu Tây phương của Bồ Đào Nha.
- Đă du nhập kiến thức mới vào Gia Định bàng cách “dạy” Đỗ Thanh Nhơn, một vị tướng tinh thạo khí giới, biết đóng tàu… cách dùng lựu đạn!
Lời tuyên bố của Bá Đa Lộc trên đây, đă bác bỏ tất cả những “thông tin” cho rằng ông có dính líu xa gần đến chiến tranh. Ông xác định ḿnh chỉ là thầy tu, lo chuyện đạo. Trong số những người bị Bá Đa Lộc gián tiếp đào thải, có Alexis Faure, người đă tôn ông lên hàng “nguyên soái” cầm đầu quân đội Nguyễn Ánh, rồi trở thành Bộ trưởng bộ chiến tranh, từ 1780, và sau trở thành Richelieu của Gia Long!
2- Gabriel Aubaret dịch Gia Định Thành Thông Chí
Năm 1862, ngoài Bắc có loạn Tạ Văn Phụng, tự xưng ḍng dơi nhà Lê. Phụng có học đạo và theo Charner về đánh Quảng Nam. Khi y nổi lên đánh phá, được Pháp, Y Pha Nho và giới thừa sai giúp đỡ, với chủ ư xây dựng một nhà nước công giáo. Phụng đă chiếm được nhiều tỉnh miền Bắc.
Vua Tự Đức, muốn yên mặt Nam để có thể sai Nguyễn Tri Phương ra Bắc dẹp loạn này, đành phải kư hoà ước Nhâm Tuất, nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định và Định Tường. Nhưng sau đó, vua hết sức muốn chuộc lại, bèn sai Phan Thanh Giản sang Pháp điều đ́nh. Napoléon III c̣n lưỡng lự, phái trung tá hải quân Gabriel Aubaret sang Việt Nam xem xét t́nh h́nh. Aubaret tỏ ra ôn hoà, được nhiều sử gia Việt có cảm t́nh. Trần Trọng Kim, Phan Khoang đều cho rằng sở dĩ việc không thành v́ vua Tự Đức không dứt khoát, cố t́nh kéo dài việc thương thuyết để hy vọng sẽ chiến thắng, hoặc quân Pháp thấy đánh bất lợi sẽ tự rút lui. Nhưng Thực Lục cho biết chính phía Pháp cố t́nh kéo dài thương thuyết và một mặt vẫn tấn công.
Ta có thể hiểu là Aubaret được lệnh “giả vờ” thương thuyết để chứng tỏ thực tâm của nước Pháp. Về mặt Pháp, bộ trưởng Hải quân và Thuộc điạ Chasseloup Laubat, năm 1864, đă dâng sớ tâu vua không cho chuộc ba tỉnh Nam kỳ. Sự kiện này có thể liên hệ tới cuốn sách tựa đề:
(Gia-Đinh-Thung-Chi) Histoire et description de la Basse Cochinchine (Pays de Gia Định) traduites pour la première fois, d’après le texte chinois original, par G. Aubaret, capitaine de frégate, publiées par ordre de s. exc. le comte de Chasseloup-Laubat, ministre de la Marine et des Colonies. Paris, Imprimerie Impériale, 1864.
(Gia Định Tùng Chi) Lịch sử và miêu tả miền nam nước Nam (Vùng Gia Định), do G. Aubaret, hải quân trung tá, dịch lần đầu, theo bản gốc chữ Hán, ấn hành theo lệnh của Ngài Bá Tước de Chasseloup-Laubat, bộ trưởng Hải quân và Thuộc điạ. Paris, nhà in Hoàng gia, 1864.
Trên cái tựa rất dài này, có hai điểm đánh chú ư:
1- Biến tên đích thực của cuốn sách Gia Định thành thông chí (Ghi chép thông suốt về thành Gia Định) thành Gia Định Tùng chi (Gia Định, nhiều chi họp lại) và bỏ hẳn chữ thành. Chúng ta sẽ hiểu rơ, tại sao, ở dưới.
2- Không đề tên tác giả Trịnh Hoài Đức, chỉ ghi mơ hồ: dịch theo bản gốc chữ Hán. Để độc giả có thể nhầm là sách của người Trung Hoa. Một sự miệt thị và gian dối của dịch giả.
Bài Introduction (Nhập đề) c̣n đi xa hơn nữa, Aubaret viết:
“Độc giả sẽ kinh ngạc khi thấy sự vong ân bội nghiă của sử gia [chỉ Trịnh Hoài Đức]; không những không nói ǵ đến Giám mục Bá Đa Lộc mà cũng không nhắc nhở ǵ đến những sĩ quan lỗi lạc của Pháp mà Gia Long đă hoàn toàn dựa vào để khôi phục lại ngai vàng. Nhưng độc giả cũng đừng quên rằng cuốn sách này được viết dưới triều Minh Mạng, ông hoàng bẩm sanh có tánh vô ơn, cho nên nếu viết theo đúng cảm tưởng của ḿnh th́ có thể rất nguy hiểm. Tuy nhiên chữ “Pháp” được thấy nhiều lần trong sách, và người ta c̣n ca tụng một người lính thủy gốc Breton [Mạn Hoè] sau khi chết được thần thánh hoá ở Nam Kỳ” (t. IV).
Giọng điệu lạ lùng của một dịch giả nói về tác giả của cuốn sách mà ḿnh dịch, chưa kể sự suy diễn có tính bệnh hoạn của dịch giả về một ông vua “bẩm sanh có tánh vô ơn”.
Nhân nói qua về thành Gia Định, Aubaret không quên nhấn mạnh:
“Ngày nay [1864] người ta c̣n gọi là thành Phan Yên, khi nói đến công cuộc vĩ đại do đại tá Pháp Olivier thực hiện” (t. VII)”.
Và cuối cùng, ông cho biết mục đích của ḿnh khi dịch cuốn sách này:
“Mục đích của chúng tôi, khi dịch sách này, trước hết là thực tiễn và muốn giới thiệu một xứ đáng chú ư trên nhiều b́nh diện, về địa thế cũng như về sự giầu có của đất đai, có thể trở nên nguồn lợi tức quan trọng đối với nước Pháp, đồng thời Pháp có thể truyền bá ảnh hưởng tinh thần một cách chính đáng trong vùng viễn đông, nơi những thế lực thương mại Âu châu hôm nay đang nḥm ngó. Paris ngày 1/7/1863” (t. XIII).
Chúng ta có thể h́nh dung câu chuyện như thế này: sách dịch xong ngày 1/7/1863, Aubaret tŕnh cho bộ trưởng Chasseloup-Laubat. Sau khi tham khảo kỹ càng cuốn sách, bởi đây là cuốn sách toàn thư về miền Nam, có thể so sánh với bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú về miền Bắc. Năm sau, 1864, ông bộ trưởng tâu lên Pháp hoàng: một xứ cực kỳ giầu có về tài nguyên như vậy, ta không thể không chiếm cho được.
Nhưng mục đích của sự dịch không chỉ ngừng ở đó, Aubaret c̣n muối mặt bỏ hẳn chương quan trọng nhất là Thành tŕ chí, Trịnh Hoài Đức viết về thành Gia Định và các thành đồn khác được xây dựng dưới thời Gia Long. Không những Trịnh Hoài Đức mô tả thành Gia Định rơ ràng và tường tận, và ông c̣n mô tả những thành khác xây theo lối bát giác như thành Gia Định. Nếu độc giả đọc chương Thành tŕ chí này, th́ không thể coi thành Gia Định là một thành Tây do người Tây xây.
Tại sao? Bởi v́ trong chương này, Trịnh Hoài Đức, ngoài việc mô tả thành phố Gia Định, từng nét, từng nét, rơ ràng. Ông c̣n kê khai vị trí các địa điểm đáng chú ư:
Công binh xưởng (Cục Chế Tạo) ở trong thành sau đường Cấn Chỉ và Đoài Duyệt. Kho bạc ở phiá phải đường Càn Nguyên và Khảm Hiểm. Kho thổ sản ở bên trái đường Càn Khảm. Trại đúc súng ở phiá trước, bên trái Cục chế tạo, đúc các loại súng lớn bằng đồng, bằng sắt, và súng hoả xa trụ. Kho thuốc súng ở mặt sau nội thành. Xưởng thuyền chiến ở phiá đông, cách thành một dặm, trên sông Tân B́nh, xưởng dài 3 dặm, làm thuyển hải đạo, chiến hạm, ghe chiến cụ… Xưởng voi, Xuởng thuốc súng, Khám đường, Sứ quán, Trường học, Trường Diễn vơ … ở đâu, ở đâu, Trịnh Hoài Đức đều nói rơ cả.
Nhất là ông c̣n cho biết về các đồn luỹ xây cùng thời ấy: Đồn Giác Ngư (tức đồn Cá Trê) (xây ngày 1/4/1789) và đồn Thảo Câu (trấn Biên Hoà), đối diện nhau trên 2 bên bờ sông Tân B́nh. Lũy Hoa Phong ở B́nh Dương, do Tống suất trưởng cơ Nguyễn Lễ, b́nh định Cao Miên rồi đắp năm 1700. Luỹ Bán Bích ở địa phận B́nh Dương và Tân Long, do đốc chiến Nguyễn Đàm xây, h́nh giống mặt trăng xếp, sau khi thắng quân Xiêm năm 1772 [Luỹ Bán Bích sẽ là khởi thuỷ của thành Gia Định]. Đồn Tân Châu, do trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân đắp năm 1818. Đồn Mỹ Tho, h́nh vuông, đắp năm 1792. Đồn trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang), bát giác, do trấn thủ Lưu Phước Tường xây năm 1813. Đồn Châu Đốc, bát giác, Lưu Phước Tường xây 1815. Đồn Châu Giang, bát giác, Nguyễn Văn Xuân xây năm 1818, v.v. Luỹ Bán Bích, là nền móng chính của thành Gia Định sau này, và Nguyễn Đàm hay Nguyễn Cửu Đàm là tác giả đầu tiên xây dựng nền móng thành Gia Định.
Tất cả những công tŕnh này đều do người Việt xây, không thấy có dấu vết Vauban nào cả và cũng không thấy Trịnh Hoài Đức nói đến công lao của một ông Le Brun hay ông Olivier de Puymanel nào. Đó là lư do khiến Aubaret đă bỏ hẳn chương sáu: Thành tŕ chí của Trịnh Hoài Đức, không dịch. Và sau này Cadière có thể nhận vơ tất cả những công tŕnh này là do Puymanel xây, hoặc dạy dân ta xây, mà không sợ chứng cớ rành rành, đă nằm trong Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức.
__________________________________
[1] Nguyên văn tiếng Pháp:
“26/7/1779
Pierre-Joseph-Georges, évêque d’Adran, Vicaire apostolique de Cochinchine, Camboge et Ciampa, à tous ceux à qui besoin sera, salut.
“Deux vaisseaux étant venus cette année de Macao à Bassac, pour y faire le commerce, un Chinois en donna aussitôt avis au grand mandarin de Cochinchine, et lui annonca que les vaisseaux étaient chargés de canons, de salpêtre, soufre, et autres munitions de guerre. Le mandarin, avec qui je suis fort lié, se trouvant dans un grand besoin de toutes ces marchandises, me pressa vivement d’en écrire aux capitaines et de les prier, de sa part, de les lui vendre tout ou en partie, ou même de passer en Cochinchine avec leurs vaisseaux si cela était possible, remettant à cet effet tout droit d’encrage et autres. Je fis sa commission et les capitaines, au retour du Cambodge, envoyèrent tout de suite leurs pilotes pour s’arranger avec lui. Les arrangements pris, et les pilotes contents, l’un retourna à Bassac, l’autre demeura ici. Pour moi, après avoir recommandé les capitaines au mandarin, je partis pour aller faire la visite d’une partie de mon Vicariat, où les missionnaires et les chrétiens m’attendaient depuis plus d’un mois.
Les capitaines arrivés ici avec leurs vaisseaux s’imaginèrent que je m’étais éloigné à dessein, et se plaignirent de ma conduite à leur égard. Confirmés dans leur opinion par un religieux missionnaire, qui, de son côté, n’a pas tout lieu d’être content de moi, on dit que: 1- ils me soupconnèrent de vouloir ôter aux vaisseaux de Macao la liberté de venir faire le commerce ici; 2- ils se plaignirent que j’avais quelques mauvaises affaires avec le roi du Camboge; 3- ils m’accusèrent d’avoir enseigné aux Cochinchinois la manière de fondre des canons, de faire des bombes et autres armes…”
[2] Nguyên văn tiếng Pháp: “Quant au troisième article, je n’ai jamais fait ni aidé à faire aucune bombe, canon ou autre arme quelconque. Je sais trop que cela ne convient en aucune manière à mon état. Ce qui a pu donner lieu à ces soupçons, c’est que le mandarin m’ayant interrogé sur la manière de charger une grenade qu’il avait eu du Camboge, et autres bagatelles en ce genre, je le lui avais dit par manière de conversation. Je lui graduai un graphomètre, quart de cercle, un rapporteur et lui fis faire un porte-voix, un anneau astronomique, et autres instruments de mathématique. Voilà ce que j’ai cru devoir remarquer pour empêcher les effets que pourraient causer les calomnies et les rapports de personnes mal intentionnés”
Thụy Khuê
Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-13/
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 12: Huyền thoại Le Brun và Puymanel xây thành Gia Định và Diên Khánh
Trong chương này, chúng tôi khảo sát những nguồn cội mà các sử gia thuộc địa dựa vào để “chứng minh” Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh.
Nguồn phát xuất thông tin Le Brun và Puymanel là kỹ sư xây dựng đầu tiên ở Việt Nam, không nhiều, chỉ có hai:
1- Bản báo cáo của de Guignes
2- Lá thư của giáo sĩ Lavoué
Như đă nói trong chương trước, de Guignes là một agent của lănh sự quán Pháp tại Quảng Đông, thường gửi những bản báo cáo về Bộ Ngoại Giao. Chữ agent có nghiă là nhân viên hay điệp viên, nhưng một nhân viên của toà lănh sự chuyên viết những bản báo cáo mật về Bộ ngoại giao th́ đích thực là điệp viên. Alexis Faure, khi soạn cuốn Bá Đa Lộc, đă sưu tầm trong Văn khố ngoại giao những văn bản này, và cho in lại một số trong sách của ông. Riêng bản báo cáo ngày 29/12/1791, có một câu, sẽ được các ng̣i bút thuộc địa sử dụng như tài liệu chính để xác định: Olivier de Puymanel và Le Brun là tác giả thành Gia Định, và Puymanel là người xây thành Diên Khánh và các thành tŕ Vauban khác ở Việt Nam. Rồi một số tác giả Việt, coi thường hoặc không đọc quốc sử, cứ thế chép lại lập luận của Pháp.
Điệp viên de Guignes, kẻ sáng tạo câu chuyện Puymanel và Le brun xây thành
Chúng ta thử xem ngày 29/12/1791, điệp viên de Guignes của Pháp ở Quảng Đông viết ǵ về t́nh h́nh Việt Nam lúc bấy giờ:
“Nếu vua Nam Hà muốn, trong hai năm 1789 và 1790, ông ta đă có thể khôi phục ngay tức khắc vương quốc của ông. Việc các tàu La Dryade, Le Pandour và La Méduse, cùng những tàu khác đến từ Pondichéry, L’Ile de France [tức Ile Maurice] và Macao, đă làm cho kẻ thù khiếp sợ. Bắc Hà đang đợi cơ hội thoát khỏi gông cùm để nhận diện vị vua thực sự của ḿnh. Nhưng một vài thành công của ông vua này ít có hiệu lực hoặc không bền. Ông ta chiếm được một vùng (B́nh Thuận) để lại ít quân, thế là bị đánh đuổi ngay; ngụy quân lại hy vọng, và hy vọng càng tăng v́ tư cách của ông ta. Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đă cho ông ta một cái bản đồ thành đài. Nhà vua muốn xây ngay một thành, mặc dù cần phải có thời gian thuận lợi. V́ vậy phải sách nhiễu dân chúng, phá nhà cửa, bắt 30.000 dân công làm thành cho vua có nơi rút quân khi thua trận. Quần chúng và quần thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác giả công tŕnh này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà ḿnh mới tránh khỏi tai nạn này. Tuy nhiên t́nh h́nh yên tĩnh trở lại, nhà vua cho giải binh để mọi người về cấy cấy. Hy vọng sẽ được mùa. Dân chúng không ta thán nữa.”[1] (Báo cáo của de Guignes gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 29/12/1791, Archives des Affaires étrangères; Faure, Chương 18, t. 214-215).
Đoạn báo cáo trên, trừ việc Nguyễn Ánh chiếm B́nh Thuận, rồi không giữ được, phải trở về Gia Định, là đúng (Theo Thực Lục, tháng 5-6/1790, Lê Văn Quân, tư lệnh quân đội bàn đánh Quy Nhơn, Nguyễn Văn Thành gạt đi, Nguyễn Ánh đồng ư. Quân Nguyễn chiếm được B́nh Thuận nhưng thua to ở Diên Khánh, Nguyễn Ánh phải rút về Gia Định. Tháng 2/1791, Lê Văn Quân, bị đ́nh thần kết án, tự tử). Những câu c̣n lại trong bản báo cáo này hoàn toàn sai, chứng tỏ de Guignes không biết ǵ về t́nh h́nh Việt Nam lúc đó, nếu y là điệp viên cho chính phủ Pháp, th́ thật vô dụng:
1/ Năm 1789-1790, Quang Trung vừa đại thắng quân Thanh, de Guignes ở Quảng Đông mà không biết chuyện Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu, mà lại c̣n trách Nguyễn Ánh, nếu đem quân đánh th́ “đă có thể khôi phục ngay tức khắc vương quốc”.
2/ Câu: “Việc các tàu La Dryade, Le Pandour và La Méduse, cùng những tàu khác đến từ Pondichéry, L’Ile de France, Macao, đă làm cho kẻ thù khiếp sợ”, càng chứng tỏ de Guignes không thạo tin: cảng Sài G̣n lúc đó tàu ngoại quốc ra vào thường xuyên, mà xem hải tŕnh của ba tàu Pháp La Dryade, Le Pandour và La Méduse, th́ một năm mới đến Sài G̣n một vài lần, có thấm ǵ đối với số lượng các tàu Bồ, Y, Anh, Hoà Lan họp lại, mà de Guignes đă tưởng là tàu Pháp khiến “kẻ thù khiếp sợ”. Hịch Quang Trung viết năm 1792, chứng tỏ ông chẳng coi bọn “mắt xanh” này ra ǵ cả.
3/ Bắc Hà có truyền thống pḥ Lê, dân Bắc năm 1791, chưa biết Nguyễn Ánh là ai, không thể có sự: “Bắc Hà đang đợi cơ hội thoát khỏi gông cùm để nhận diện vị vua thực sự của ḿnh”, như de Guignes viết.
4/ Câu sau cùng là sự bịa đặt chính và quan trọng hơn cả, nó là thuỷ tổ của huyền thoại Olivier và Le Brun là kỹ sư, kiến trúc sư, xây các thành đài ở Việt Nam, de Guignes viết:
“Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đă cho ông ta một cái bản đồ thành đài. Nhà vua muốn xây ngay, mặc dù cần phải có thời gian thuận lợi. V́ vậy phải sách nhiễu dân chúng, phá nhà cửa, bắt 30.000 dân công làm thành cho vua có nơi rút quân khi thua trận. Quần chúng và quần thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác giả công tŕnh này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà ḿnh mới tránh khỏi tai nạn này”.
Không biết gián điệp lấy những tin này ở đâu, mà lại đầu Ngô ḿnh Sở đến thế:
Câu đầu là một xác định vô căn cứ: “Các ông Olivier và Lebrun, sĩ quan Pháp, đă cho ông ta một bản đồ thành đài” (MM Olivier et Lebrun, officiers français, lui donnèrent un plan de ville fortifiée). Y nằm ở đâu mà biết chuyện hai anh binh nhất, binh nh́ Olivier và Le Brun, vừa đào ngũ, “cho” vua một cái bản đồ thành đài? Nếu ta để ư sẽ thấy de Guignes chỉ viết: “Olivier và Lebrun cho ông ta một cái bản đồ thành đài”, nhưng, những sách sử Pháp Việt về sau, sẽ biến câu này thành “Olivier và Lebrun xây thành Gia Định”. Tức là một sự biến cải hoàn toàn.
De Guignes kể tiếp: sau khi được Olivier và Lebrun “cho một cái bản đồ thành đài”, thế là Nguyễn Ánh vội xây ngay! Câu này thực ngây ngô, v́ ta thừa biết, về vụ bản đồ thành đài th́ Nguyễn Ánh thiếu ǵ, mà phải đợi hai ông Olivier và Lebrun “cho”, các tác giả Âu Việt, từ Barrow, Montyon, Le Labousse, đến Sử Kư Đại Nam Việt đều viết: trong cung Nguyễn Ánh có nhiều sách vở về thành đài, ông thường dở ra xem và học lấy. Vậy không việc ǵ mà Nguyễn Ánh lại phải vồ vập cái bản đồ thành đài mà hai ông binh nh́, binh nhất mới đào ngũ “cho” rồi hấp tấp xây ngay, nên mới sinh loạn.
Nếu xem lại ngày hai người lính này đến Việt Nam, Olivier de Puymanel đến trước, anh trốn thoát ngày 19/9/1788 ở Côn Lôn, c̣n Le Brun ngày 13/1/1790 mới đến Macao, ở lại, rồi sau mới t́m cách sang Nam Hà với bạn Olivier. Ngày 27/6/1790, Le Brun được chính thức nhập ngũ, nhận văn bằng cai đội cùng ngày với nhiều người khác.
Vậy nếu Lebrun và Olivier có “cho” vua cái bản đồ ǵ đó, th́ cũng phải là sau khi Le Brun đến Việt Nam, mà theo lịch tŕnh ở trên, sớm lắm là từ tháng 3 đến tháng 6/1790.
Nhưng thành Gia Định, theo Trịnh Hoài Đức, đă đắp ngày 4/2/Canh Tuất [19/3/1790], Thực Lục ghi ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, 22/4/1790] đắp thành đất Gia Định. Đắp 10 ngày xong. Ta nên chú ư đến chi tiết thành đất tức là đất trộn rơm (torchis) rất vững chắc, đó là kiến trúc thành đài kiểu Đông phương. Tây chỉ biết xây thành đá hoặc gạch. C̣n về ngày đắp thành Gia Định, chưa biết tại sao có sự sai lệch trong hai bộ sử, hiện giờ chúng tôi dùng ngày của Trịnh Hoài Đức v́ ông sống ở Sài G̣n lúc ấy, và Gia Định Thành Thông Chí viết trước Thực Lục. Tất cả những điểm trên dẫn đến kết luận:
Thành Gia Định đă xây trước khi Le Brun đặt chân đến Nam Hà.
Những bản đồ thành Gia Định sau này người ta đưa ra, bảo là do Le Brun vẽ, nếu là y vẽ thực, th́ nên hiểu là y đồ lại bản đồ thành phố Sài G̣n đă xây xong rồi.
Sự thể rành rành như vậy, không hiểu sao các sử gia Việt không nh́n thấy lỗ hổng này trong lập luận của sử gia thuộc địa.
Trở lại văn bản của de Guignes, đọc đến câu kế tiếp: làm thành cho vua có nơi rút quân khi thua trận, th́ chắc de Guignes muốn nói đến thành Diên Khánh chứ không phải thành Gia Định, bởi v́ Gia Định lúc đó là kinh đô, không phải là chỗ “cho vua có nơi rút quân khi thua trận”, chỉ Diên Khánh mới là nơi cho vua dừng chân mỗi khi đánh Quy Nhơn thua trở về.
Nhưng de Guignes lại không thể viết về thành Diên Khánh, v́ ngày 29/12/1791, khi y viết câu này, th́ Nguyễn Ánh chưa hề chiếm được vùng Diên Khánh (như trên đă nói, tháng 5-6/1790, Nguyễn Ánh nghe lời Lê Văn Quân đánh được B́nh Thuận, nhưng thua ở Diên Khánh, phải rút quân về).
C̣n câu cuối: v́ xây gấp, mượn đến 30.000 nhân công cho nên “Quần chúng và quần thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác giả công tŕnh này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà ḿnh mới tránh khỏi tai nạn này”, th́ hoàn toàn không biết de Guignes lấy ở đâu, v́ không thấy nơi nào ghi việc này cả; đặc biệt các giáo sĩ, họ không thể bỏ qua một biến cố quan trọng như vậy mà không thông báo cho Macao hay. Câu này sẽ được các sử gia Việt chép lại, qua Taboulet, như ta sẽ thấy ở dưới.
Lá thư của giáo sĩ Lavoué
Có lẽ thấy những lời lẽ trong bản báo cáo của de Guignes c̣n quá mỏng để “chứng minh” Puymanel xây thành Diên Khánh, cho nên học giả Cadière, trong phần chú giải tập tài liệu của Bréda, liên quan đến Nguyễn Suyền, lưu thủ B́nh Khang (1793) (BAVH, 1926, III), đă nhấn mạnh 2 điểm: thứ nhất, xác định thành Diên Khánh do Puymanel xây, và thứ hai: Puymanel có đóng góp đắc lực trong trận Diên Khánh 1795 (phần này sẽ nói sau).
Để bảo vệ luận điểm thứ nhất, Cadière đưa ra một chứng mới: lá thư của giáo sĩ Lavoué viết ở Tân Triều ngày 13/5/1795 gửi Boiret và Descourvières ở Paris.
Để độc giả nắm rơ toàn cảnh, trước khi đọc trích đoạn thư của Lavoué, chúng tôi xin tóm tắt t́nh h́nh:
Tháng 5-6/1793, Nguyễn Ánh đánh Qui Nhơn lần thứ nhất, để Đông cung Cảnh giữ Gia Định. Nguyễn Ánh sai các tướng: Tôn Thất Hội, Vơ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành vây Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cố thủ, không thể hạ nổi. Tháng 9/1793, Nhạc cầu cứu Phú Xuân, Cảnh Thịnh gửi đại binh đến cứu. Ánh phải rút quân về Diên Khánh. Nhạc bị quân của Cảnh Thịnh vào thành uy hiếp, uất ức mà chết. Việc xây thành Diên Khánh xẩy ra vào mùa hè năm 1793, khi Nguyễn Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh, được ghi ở ba nơi:
- Tháng 10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực Lục ghi: “Ngự giá về Diên Khánh. Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và phát 3000 dân B́nh Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng th́ thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày nay. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất)” (Thực Lục I, t. 299).
- Hai người trực tiếp xây thành, được ghi công trong Liệt Truyện:
1/ “[Tôn Thất] Hội cùng đạo binh họp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp Diên Khánh.” (Liệt Truyện II, Tôn Thất Hội, t. 78).
2/ “Mùa hạ năm Quư Sửu [1793], [Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi về, đắp thành Diên Khánh” (Liệt truyện II, Vũ Viết Bảo, t. 321).
Như vậy thành Diên Khánh được đắp vào mùa hè năm 1793, sau khi Nguyễn Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh.
- Đến tháng 11/1793, Nguyễn Ánh trở về Gia định. Để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh.
Trở về với lá thư của giáo sĩ Lavoué, thư khá dài, viết nhiều chuyện liên quan đến vùng Quy Nhơn Diên Khánh. Đoạn đầu, ông sơ lược kể lại chuyện từ lúc Nguyễn Ánh vây thành Quy Nhơn, đến khi Nguyễn Nhạc bị bức bách, uất ức mà chết. Rồi đoạn kế tiếp có liên quan đến thành Diên Khánh, ông viết:
“Nhà vua trở về Gia Định nơi ông đă chiếm lúc đầu. Ông hết sức củng cố thành tŕ, làm thuyền chiến, v.v. và mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm được. Thành vừa xây xong, ngụy quân đổ tới với số lượng 40 ngàn người, nhất định trèo vào; nhưng mọi cố gắng của chúng đều vô ích.” [2](Cadière, Documents relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO, 1912, no 7, t. 33).
Trích đoạn trên bắt đầu bằng câu: “Nhà vua trở về Gia Định…”, chứng tỏ Lavoué kể câu chuyện sau khi Nguyễn Ánh trở về Gia Định, tức là sau tháng 11/1793, nhưng câu này sẽ được Cadière khôn khéo cắt đi, ông bắt đầu trích đoạn bằng câu: “…mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương trong một vùng đất vừa mới chiếm được…” Tại sao vậy?
Tại v́ nếu để cả câu đầu th́ người tinh ư sẽ nhận thấy: khi Nguyễn Ánh trở lại Gia Định tháng 11/1793, mới “mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm được…”, th́ cái thành phố “Tây phương” ấy không thể là Diên Khánh, v́ Diên Khánh đă xây xong từ hè 1793! Làm sao lại có chuyện vua mượn Puymanel xây thành Diên Khánh lần nữa! Và thấy ngay cái vô lư trong câu văn của Lavoué. Tóm lại:
- Cái thành mà Lavoué bảo vua “mượn” Olivier xây, nó không phải thành Gia Định, v́ Gia Định đă xây xong từ đầu năm 1790; nó cũng không phải thành Diên Khánh, v́ nếu khi Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định tháng 11/1793, mới “mượn” Olivier xây; th́ quá trễ, v́ Diên Khánh đă xây xong từ mùa hè năm 1793!
- Nhưng Lavoué không hề nói vua sai Puymanel xây thành Diên Khánh, ông chỉ nói bâng quơ: mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm được, nhưng người ta đă dựa vào câu sau: “Thành vừa xây xong, ngụy quân đổ tới với số lượng 40 ngàn người, nhất định trèo vào; nhưng mọi cố gắng của chúng đều vô ích”, để xác định đó là thành Diên Khánh.
- Nhưng câu “Thành vừa mới xây xong, ngụy quân đổ tới” cũng vẫn sai, bởi v́: thành Diên Khánh xây xong hè 1793, Nguyễn Văn Thành ở lại trấn giữ, sau đó không có trận tấn công nào cả. Phải gần một năm sau mới có đợt tấn công đầu của Tây Sơn, và trận này (tháng 4-5/1794) Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 bộ binh hợp với thuỷ binh của Trần Quang Diệu, đánh Diên Khánh.
Tóm lại, Lavoué chỉ tập hợp những chuyện đồn thổi về các trận đánh dữ dội vây thành Diên Khánh, rồi ông vá víu lại thành một câu chuyện và thêm vào câu nói vu vơ: “mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương”, chẳng dính dáng ǵ đến thành Diên Khánh cả, và Diên Khánh, theo sự mô tả của Lê Văn Định (sẽ nói sau) cũng không có ǵ là một “thành phố theo lối Tây phương”. Cho nên lời Lavoué cũng không thể dùng làm tư liệu lịch sử.
Nhưng các sử gia thuộc điạ sẽ chập hai mỏm câu, một của de Guignes: Olivier và Le Brun, cho vua một cái bản đồ thành đài và một của Lavoué: vua mượn Ô. Olivier, xây một thành phố theo lối Tây phương, làm một, rồi chia nó làm ba câu khác:
- Le Brun vẽ bản đồ thành Gia Định.
- Vua sai Olivier và Le Brun xây thành Gia Định (v́ thành Gia Định có vẻ “Tây phương”).
- Vua mượn Olivier xây thành Diên Khánh.
Thế là cả ba câu này được lưu thông trong sử sách Pháp Việt như những xác định lịch sử.
Lập luận của học giả Cadière
Học giả Cadière kiên quyết bảo vệ “sự kiện” Olivier de Puymanel xây thành Gia Định và Diên Khánh. Nhưng ông không t́m được chứng nào đáng tin cậy về việc Puymanel xây những thành này, cho nên, về thành Gia Định, ông không ngần ngại “xác định” thẳng rằng: “Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier de Puymanel] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790” (BAVH, 1921, t. 283-288), câu này do Nguyễn Quốc Trị khám phá trước tiên, là một sự bịa đặt làm u ám danh vị học giả.
C̣n về việc “Puymanel xây thành Diên Khánh”, th́ Cadière “chứng minh” trong phần chú giải những tư liệu về Nguyễn Suyền (BAVH, 1926, III, t. 264). Ông đọc rộng, biết nhiều, không phải ông không biết ai xây thành Diên Khánh, bởi v́ ông có nói đến chuyện năm 1793, Nguyễn Ánh, sau khi thắng trận [ở Quy Nhơn] đă sai một viên Cai Bộ (quan bộ Tài Chánh) và Kư Lục (quan bộ H́nh), phụ trách việc xây thành Diên Khánh (Cadière, Nguyễn Suyền, BAVH, 1926, III, t. 264), tức là ông có biết chuyện này. Nhưng những điều viết trong sử Việt không vừa ư ông, nên ông phải t́m cách viết lại; v́ thế ông bạ vào lời Lavoué, với những vu vơ và vô lư như chúng tôi vừa phân tích ở trên, để xác định Olivier de Puymanel là người xây thành Diên Khánh, như sau:
“Thành đài B́nh Khang, đúng hơn là thành Diên Khánh, bởi nó được xây tại thủ phủ của tỉnh này, là tác phẩm của Đại Tá Olivier. “Nhà vua… mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm được. Thành vừa xây xong, ngụy quân đổ tới với số lượng 40 ngàn người, nhất định trèo vào; nhưng mọi cố gắng của chúng đều vô ích.” (Thư của M. Lavoué, 13/5/1795 trong L. Cadière: Documents relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO, 1912, no 7, trang 33). V́ thành Diên Khánh bị vây vào tháng 5-6/1794, vậy thành này được xây khoảng cuối 1793, đầu 1794.
Lẽ tất nhiên là trong Thực Lục đời Gia Long, khi nói đến việc xây thành Diên Khánh, không đả động đến Đại tá Olivier” (Cadière, Nguyễn Suyền, BAVH, 1926, III, t. 264).
Tóm lại, học giả Cadière không chứng minh ǵ cả, ông xác định thẳng đuột rằng: Thành Diên Khánh là tác phẩm của Đại Tá Olivier, v́ Lavoué bảo vậy là đúng như vậy! Và ông c̣n lớn lối trách Thực Lục không đả động đến Đại Tá.
Là người cẩn trọng, Cadière không nhắc đến lời của de Guignes, bởi v́ de Guignes là gián điệp, và chỉ nói bâng quơ: “Olivier và Le Brun “cho” vua một cái bản đồ thành đài”, chứ không nói Olivier và Le Brun xây thành đài, và xây thành đài nào.
Nhưng ở đây, lập luận (cũng chưa phải là lập luận, chỉ là một xác định vô bằng) của học giả Cadière có một lỗ hổng lớn:
Linh mục Lavoué không nói Puymanel xây Diên Khánh, chính ông, học giả Cadière, đă xác định Puymanel xây thành Diên Khánh. Học giả đă xác định như vậy, th́ xin học giả chứng minh, Puymanel xây thành này vào lúc nào? Như ông nói là cuối năm 1793, đầu năm 1974. Mà theo Liệt Truyện th́ thành Diên Khánh đă xây xong từ mùa hè 1793 và đến tháng 11/1793, Nguyễn Ánh đă về Gia Định. Điểm này chứng tỏ học giả không đọc kỹ Liệt Truyện, cho nên ông mới phạm lỗi cơ bản này. Ngoài ra, ta c̣n biết: Nguyễn Ánh luôn luôn trực tiếp thị sát tất cả những công việc từ đóng tàu, đúc súng đến xây dựng thành luỹ, th́ ông không thể không có mặt trong việc xây một đồn luỹ quan trọng như thành Diên Khánh.
Tóm lại, người ta đă dùng hai câu nói vu vơ, một của điệp viên de Guignes: “Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đă cho [vua] một cái bản đồ thành đài”, và một của giáo sĩ Lavoué: “[Vua] mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm được”, để xác định hai người lính binh nh́, binh nhất Puymanel và Le Brun vừa đặt chân đến Việt Nam, là tác giả xây dựng hai thành tŕ kiên cố nhất của vua Gia Long thời bấy giờ, bất kể những ǵ đă ghi trong Gia Định Thành Thông Chí, Thực Lục và Liệt Truyện”.
Taboulet và nghệ thuật xuyên tạc lịch sử
Taboulet được những người viết sử Việt Nam chép lại nhiều nhất, v́ ông trẻ hơn Cadière và Maybon, lối tŕnh bầy lịch sử của ông có vẻ “khách quan” hơn, nhưng thủ pháp xuyên tạc lịch sử của ông thâm hậu hơn những người đi trước: Không lộ liễu và thô thiển như Bissachère, Ste-Croix, Faure. Cũng không lư luận, biện giải, chứng minh như Maybon, Cadière. Thủ pháp của ông đơn giản hơn nhiều và hiệu quả hơn. Trong bài tựa sách La geste française en Indochine (Huân trạng của nước Pháp ở Đông Dương) in năm 1955, ông giải thích cách làm việc của ḿnh, như một lối viết lịch sử trung thực nhất: thay v́ viết lại lịch sử như một ng̣i bút sử gia thường t́nh, ông chủ trương chỉ tŕnh bầy những chứng liệu lịch sử, những văn bản gốc, để độc giả đọc và phán xét:
“Đă có lúc chúng tôi tính giữ lại làm đề từ ở đầu sách, sự phán xét sau đây của Rémy de Gourmont: “Ngay thẳng nhất là nhường lời cho những nhân chứng gốc (témoins originaux); có nghiă là lịch sử Pháp đúng đắn nhất là một sưu tập những tư liệu đích thực (receuil de textes)… “
Quả vậy, thực là hiếm mà một bài văn xuôi do người thứ nh́ viết lại có thể tái tạo đúng bầu khí của những biến cố đă xẩy ra. Rất nhiều khi, cuốn sách, ngay cả những cuốn sách có ư thức nhất, vẫn làm biến dạng dữ kiện, xuyên tạc bối cảnh, không tái tạo lại được bầu khí. Ngược lại, ta có thể nói, sự trích đoạn, tư liệu văn khố, trong chính định nghiă của nó, đă mang sẵn một âm hưởng của sự thực không thể chối căi được, một sức mạnh của sự gợi lại và một sự giầu có hiển nhiên không sánh nổi. V́ vậy, tin tưởng rằng sự tiết lộ những textes mà ít người biết đến sẽ cung cấp cho độc giả nhiều lợi ích và lư thú hơn là một bài viết gián tiếp của chúng tôi, chúng tôi đă chọn tự xoá ḿnh trước những diễn viên của Huân trạng Đông Dương.”[3] (La Geste française en Indochine, I, Avant-Propos, t. 2-3).
Ở một đoạn sau ông viết:
“Thay v́ chỉ giới hạn trong việc tách rời thẳng thừng những textes, cái nọ cạnh cái kia, chúng tôi quyết định tŕnh bầy, nhiều khi khá dài, những trang được in lại. Chúng tôi đă nối kết, hàn gắn những textes lại với nhau, chúng tôi đă bổ sung bằng những lời b́nh luận dẫn vào hoàn cảnh, đôi khi mở rộng, mục đích là cung cấp sự giải thích những biến cố mà sử gia, tham vọng hơn nhà bỉnh bút, cố gắng làm sáng tỏ.” [4](Avant-Propos, t. 3).
Trong cuốn sách này, ông phân chia từng thời kỳ lịch sử theo niên đại, ông viết bài “đúc kết” từng thời kỳ, trước khi in những tài liệu liên quan. Những bài “đúc kết” được in italique, đề tên là “Texte” và đánh từ số 1 trở đi. Ngay chữ texte này đă nhập nhằng, v́ có hai nghiă: texte có thể hiểu là bài, văn bản, hoặc: tài liệu chính xác, tư liệu đích thực (document authentique). Ông đă dùng chữ texte một cách lập lờ, tức là ông đặt tên những bài viết của ḿnh là texte, khiến người đọc có thể tưởng lầm cái mà ông gọi là texte chính là tư liệu đích thực của lịch sử! Nhất là trong bài tựa, ông đă giới thiệu câu nói của Rémy de Gourmont: “lịch sử Pháp đúng đắn nhất là một sưu tập những tư liệu đích thực (receuil de textes)”. Xứng đáng với định nghiă này của Gourmont, chỉ có bộ Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823 của Andrien Launay.
Sau đây là cách làm việc của Taboulet: Chương VI, dưới tựa đề: Les volontaires français au service de la Cochinchine (Những người Pháp t́nh nguyện giúp Nam Hà), ông in lần lượt những bài sau:
- Bài đúc kết t́nh h́nh chung không có tên, không đánh số, do Taboulet viết, in nghiêng.
- Bài La situation militaire en Cochinchine en 1790-91 (Texte 80) (T́nh h́nh quân sự ở Nam Hà trong năm 1790-91. Taboulet viết. In nghiêng.
- Bản báo cáo của de Guignes (trích trong sách của Faure) với cái tựa như sau: De Guignes, Consul de France à Canton, au Ministre des Affaires Étrangères (De Guignes, Lănh Sự Pháp ở Quảng Đông gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao). In thẳng.
- Bài “Théodore Lebrun, le premier urbaniste de Saigon (Texte 81) (Théodore Lebrun, nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài G̣n). In nghiêng.
Lối tŕnh bầy này rất tinh vi: nếu đọc qua cả 4 bài này, ta tưởng tất cả đều là tư liệu lịch sử, v́ sự in nghiêng và v́ chữ texte. Thực ra, chỉ có Bản báo cáo của de Guignes là tư liệu, c̣n 3 bài kia là do Taboulet viết, với luận điệu xuyên tạc của ông về giai đoạn lịch sử này.
Kế đó, de Guignes là agent, tức là nhân viên hay điệp viên, đă được Faure đôn lên làm lănh sự, nhưng chữ lănh sự Faure chỉ viết nhỏ trong chú thích, ít ai để ư; khi Taboulet đưa ra thành cái tựa to tát “De Guignes, Lănh Sự Pháp ở Quảng Đông gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao” như thế, tức là ông đă thổi phồng cái mà Faure đă thổi phồng rồi, và c̣n chú thích thêm: Lănh sự Pháp được thành lập năm nào, năm nào… như để củng cố địa vị khả kính của de Guignes. Cách làm ăn này trải dài trong toàn bộ sách của ông; ví dụ để tôn vinh Puymanel, Taboulet đă tự ư “cho” anh ta đi học trường Louis Le Grand là trường trung học nổi tiếng nhất của Pháp, chỉ dành cho những học sinh ưu tú, v.v.
Không có ǵ chứng thực việc Le Brun xây thành Gia Định, hoặc vẽ, hoặc xây bất cứ thành phố nào ở Việt Nam, thế mà Taboulet dám để cái tít: “Théodore Lebrun, le premier urbaniste de Saigon” (Théodore Lebrun, nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài G̣n).
Đó là sự xuyên tạc lịch sử trong cách tŕnh bầy tư liệu: biến một bản báo cáo của điệp viên thành thư chính thức của ông Lănh Sự gửi ông Bộ Trưởng Ngoại giao, do đó gián tiếp cấp cho “lá thư” này một giá trị tư liệu và một tầm mức quan trọng mà nó không hề có.
Hoặc bịa chuyện Puymanel học trường Louis Legrand, cho xứng đáng với danh vị kỹ sư, kiến trúc sư, mà người ta gán cho anh ta.
Hoặc xác nhận Lebrun, lính binh nhất, là “nhà kiến trúc đô thị”.
Ta thử xem Taboulet viết ǵ trong bài Texte 80, trang 241-242.
Bài này, phần đầu viết về con số những người lính Pháp đến giúp Gia Long (không thuộc điạ hạt bài này, sẽ nói sau); phần thứ nh́ viết về “công trạng” của họ với những hàng sau đây:
“Ngay từ 1789, Nguyễn Ánh đă quyết định xây dựng kiên cố Sài G̣n. Ông sai hai kỹ sư Pháp của ông là Lebrun và Olivier de Puymanel xây cho ông “một thành phố theo kiểu Tây phương” và một thành đồn (forteresse). Vai tṛ riêng của hai vị sĩ quan này khó biết rơ; nhưng phần của Lebrun, rời Sài G̣n đầu năm 1792, chắc là không quan trọng bằng Olivier.
Bản đồ thành phố Sài G̣n dường như do Lebrun vẽ. Điều quan hệ là xây một “thành phố theo kiểu Tây phương”, kiểu Mỹ, như ta nói bây giờ, với khoảng 40 đại lộ (artères), rộng từ 15 đến 20 mét, thẳng góc nhau, thành phố được bao bọc bằng một ṿng thành có những chốt gác cách nhau đều đặn. Bản đồ vĩ đại này dĩ nhiên là được vẽ cho một tương lai xa; dường như chưa bắt đầu xây.
Ngược lại, thành đài mà Olivier de Puymanel là tác nhân chính, đă xây rất nhanh. Theo cha Boisserard (tháng 2/1792) là “một thành lũy tốt, với pháo đài (bastions), hào (fossées), cầu rút (ponts-levis), đường trần (chemins découverts), bờ nghiêng (glacis) và lỗ h́nh bán nguyệt trên tường thành (demi-lunes)” Thành h́nh bát giác, bằng đá ong hay đá Biên Hoà, có tường cao sáu mét và có tám cửa (…)
Công cuộc xây dựng toàn bộ này, đồ sộ đối với thời ấy, chỉ có thể thực hiện tốt đẹp nhờ dùng nhiều nhân công. Những khổ dịch hao tổn sức lực đập lên đầu dân chúng, suưt gây bạo loạn, để diễn tả sự bất măn của họ đối với những sĩ quan Pháp bị coi như vật tế thần.
Khoảng ba chục thành đài khác cùng thể loại, theo kiểu Vauban, được xây lúc Olivier c̣n sống, và sau khi ông mất được thực hiện bởi những học tṛ Việt mà ông đào tạo trong trường của ông. Những thành luỹ này hiện c̣n nhiều trong những thành phố Đông Dương; những di tích của chúng chứng nhận rằng một tư tưởng Pháp với những bàn tay Pháp đă là nguồn cội sự thành công của Nguyễn Ánh”. (Taboulet, La geste française en Indochine, I, Texte 80, t. 242).
Đoạn văn này có mấy điểm đáng chú ư:
1- Không cần dẫn chứng, biện luận, Taboulet xác định những “sự kiện” góp nhặt trên đây, như đă là “lịch sử”.
2- Ông nhập lời của de Guignes với Lavoué làm một: “sai hai kỹ sư xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương” (v́ Lavoué không nói đến Le Brun).
3- Câu “Bản đồ thành phố Sài G̣n dường như do Lebrun vẽ “ cũng như cái tít: “Théodore Lebrun, nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài G̣n” đều là sản phẩm của Taboulet.
5- Trịnh Hoài Đức mô tả thành Gia Định chỉ có 8 con đường. Bản đồ thành Bát quái, in lại trong Địa chí văn hoá Hồ Chí Minh, do Nguyễn Đ́nh Đầu sưu tập, cũng không ra ngoài con số đường sá ấy. Vậy cái Bản đồ vĩ đại với 40 đại lộ, kiểu Mỹ, này không biết Taboulet lấy ở đâu ra? Và nói là bản đồ thành phố chưa xây, thành phố nào?
Một cái bản đồ, chưa chắc đă có, được đưa ra như một chứng từ có thật về nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài G̣n: Le Brun, thực chất chỉ là người lính binh nhất, đào ngũ. Thế mà ở người Việt cũng cứ chép lại y như vậy. Thật là xấu hổ và vô ơn đối với tiền nhân, những người đă đích thực vẽ, đắp các thành Gia Định, Diên Khánh và các thành tŕ khác trên toàn cơi Việt Nam.
6- Đoạn sau cùng: Puymanel xây hơn ba chục thành đài Vauban, Taboulet chép trọn sự nhận vơ của Cadière, chúng tôi sẽ nói đến trong phần Cadière.
Đó là lối viết Texte của Taboulet: Tất cả những lời lẽ tâng bốc sự nghiệp của các “sĩ quan” Pháp, được ông chép lại từ Bissachère, Ste-Croix, Faure, de Guignes… mà không đề xuất xứ, cũng không chứng minh, biện luận, như:
Théodore Lebrun: Nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài G̣n (Texte 81, t. 243).
Olivier de Puymanel: “Tổng tư lệnh quân đội Nam Hà”, “Đổi mới hoàn toàn quân đội của Nguyễn Ánh” (Texte 82, t. 245).
Jean-Marie Dayot: “Linh hồn của thuỷ quân Nam Hà”, “Năm 1792, tiêu diệt toàn bộ hạm đội Tây Sơn, gồm 5 tàu chiến lớn (5 gros bâtiments), 90 chiến thuyền (galères), 100 chiến thuyền nhỏ (demi-galères), tịch thu 137 đại bác đủ loại. Năm 1793, Dayot c̣n chiếm thêm được, 60 galères Tây Sơn ở gần miền bắc Quy Nhơn” (Texte 83, t. 249).
Tạ Chí Đại Trường sẽ tiếp nhận các loại “thông tin” như thế này trong các Texte của Taboulet và đưa vào Lịch sử nội chiến Việt Nam.
Học giả Trương Vĩnh Kư
Vấn đề đau đớn nhất ở đây, là chính những người viết sử Việt Nam, không những coi thường sử gia triều Nguyễn, hoặc không đọc, hoặc có đọc mà coi như không, và thi nhau chép lại, đắp điếm thêm cho những luận điểm hồ đồ của những ng̣i bút thực dân, biến chúng trở thành sự thật lịch sử. Những sử gia như Trần Trọng Kim, Phan Khoang và hầu như tất cả mọi người trong chúng ta, đều bị ngộ độc quan điểm thực dân, đă đổ lỗi cho triều Nguyễn bế quan toả cảng và diệt đạo nên mới bị “mất nước”. Tuy vậy, sử gia Trần Trọng Kim vẫn viết rất sát với Thực Lục và Liệt truyện, nên ông có rất ít sai lầm.
Trương Vĩnh Kư là người đứng đầu, và ngoại khổ trong việc nối gót thực dân. Ông được giáo dục từ nhỏ trong nhà chung, cho nên trong cuốn Cours d’Histoire Annamite (1875), ông sử dụng những điều cực đoan của giới cha cố và những điều bịa đặt của giới thực dân, mà không kiểm chứng, cho nên đoạn sử ông viết về nhà Nguyễn, đặc biệt về vua Minh Mạng nhiều chỗ thực đáng xấu hổ.
Về việc xây thành Gia Định, Trương Vĩnh Kư, năm 1897, đă hợp nhất Thực Lục và lời của de Guignes, để đưa ra xác định sau đây: “Tháng 2 trong năm (1790) vua dạy ông Olivier với ông Lebrun coi xây thành Gia Định tại làng Tân Khai, xây thành bát quái có 8 cửa, xây vách thành bằng đá ong Biên Ḥa” (Trương Vĩnh Kư, Biên tích đức thầy, Pinho Quận Công, Sài G̣n, 1897, t. 33, trích theo Nguyễn Đ́nh Đầu, Địa lư lịch sử thành phố, in trong tập Địa Chí Văn Hoá thành phố HCM, t. 183).
Chúng tôi không có cuốn Biên tích đức thầy Vêrô Pinhô quận công của Trương Vĩnh Kư, chỉ đọc lời Nguyễn Đ́nh Đầu trích dẫn sau đây: “Theo “Biên tích đức thầy Vêrô Pinhô quận công” của Trương Vĩnh Kư, th́ Bá Đa Lộc trở về xứ Sài G̣n, đem theo, không phải số viện trợ của vua Pháp kư kết mà chỉ được mấy chiếc tàu, chở súng lớn 100 cỗ, súng tay mấy ngàn cây, thuốc đạn cụ túc [đầy đủ] về giúp vua An Nam. Theo sách trên của Trương Vĩnh Kư th́, từ đó việc tổ chức và tập rèn bộ binh của Nguyễn Ánh (tại Gia Định) do Olivier de Puymanel “làm lớn đứng đầu hết”, “đức thầy xin vua thăng thọ quan năm ren vàng cho J.M. Dayot làm thuỷ sư cai quản cả đạo thủy quân” với “Vannier chúa tàu Long, de Forcant chúa tàu Phụng, Chaigneau chúa tàu Long Phi, Magon de Médine chúa tàu Le Prince de Cochinchine”. Nhiều quan thuỷ khác giúp cho Dayot” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 177).
Thay v́ dùng những tư liệu gốc do chính Bá Đa Lộc viết ra về những việc này, trong đó ông Bá ghi rơ: ông về tay không, chẳng có tàu nào đi theo cả, đă có sẵn trong kho tư liệu của hội truyền giáo, tại sao Trương Vĩnh Kư không dùng, mà ông lại đi chép những “thông tin” bịa đặt, lấy từ Ste-Croix, Faure… hay những tác giả khác, rồi ông viết lại chắc chắn như đinh đóng cột, và thêm vào vài ba câu của Thực Lục. V́ uy tín học giả của ông, nên những người đi sau như Nguyễn Đ́nh Đầu cũng chép lại ông mà không kiểm chứng.
Tạ Chí Đại Trường
Taboulet được người Việt chép nhiều nhất. Và Tạ Chí Đại Trường là một trường hợp khá trung thành.
Như trên, ta đă thấy hai đoạn văn bâng quơ của de Guignes và của Lavoué, khi vào tay Taboulet, đă trở thành “sự kiện lịch sử” sau đây: có hai thành Sài G̣n, một Sài G̣n to, do ông Lebrun vẽ, lớn lao vĩ đại với 40 đại lộ, nhưng chưa xây và một Sài G̣n nhỏ, do ông Puymanel xây, đó là thành bát giác, giống hệt như thành Bát Quái Gia Định được Trịnh Hoài Đức và Shihơken Seishi mô tả.
Tạ Chí Đại Trường chép lại Taboulet, và sáng tác thêm, như sau:
“Việc xây thành này [Gia Định], các tài liệu Tây phương cho biết là do Le Brun và Olivier de Puymanel theo lời yêu cầu của Nguyễn Ánh. Họa đồ phố xá h́nh như của Le Brun gồm có 40 con đường rộng từ 15 đến 20 thước cắt nhau theo h́nh thước thợ và dự án này không được thực hiện nhưng Le brun c̣n ở đến đầu năm 1792 th́ rơ ràng việc thiết kế đô thị chịu ảnh hưởng của ông rất nhiều”. (LSNCVN, t. 234).
Để củng cố lập luận thành Gia Định do Puymanel xây, sau khi nhắc lại việc Trịnh Hoài Đức khen thành phố Sài G̣n sau khi xây xong, có hàng lối hơn trước nhiều, và thư của M. Boisserand (2/1792) cho biết có “pháo đài, hào, v.v.” như Taboulet đă dẫn, Tạ Chí Đại Trường viết tiếp: “Nguyễn Ánh muốn làm tức khắc tuy cần phải đợi thời cơ thuận tiện hơn, người ta phải phá nhà cửa, bắt đến 30 ngàn dân làm việc. Loạn nổi lên, dân chúng và quan binh đổ riết cho Olivier và Le Brun gây nên tội muốn bắt giết làm hai ông này phải chạy trốn, nhờ Bá Đa Lộc che chở. B́nh yên trở lại, Nguyễn Ánh cho lính về và dân rảnh rang cầy cấy. Chi tiết sau phù hợp với việc sử quan ghi tới hai lần xây cất thành mà không nói lư do ngưng nghỉ: một lần vào tháng ba Canh Tuất như đă nói và một lần “sửa sang lại” vào tháng chạp năm đó.
Qua những chứng dẫn trên ta biết thành xây theo kiểu pḥng thủ Tây phương nhưng cố uốn nắn theo quan niệm phong thủy Đông phương (bát quái). Tuy nhiên hiệu quả pḥng thủ của nó vẫn không thay đổi. Từ đấy Tây Sơn không vào Gia Định lần nào để nó được thử thách nhưng đứa em sinh sau nó, thành Diên Khánh, đă chứng tỏ hiệu lực trước đám quân Trần Quang Diệu thiếu vũ khí công phá tương xứng” (LSNCVN, t. 234).
Rồi ông xác định: “Bởi v́ thành Diên Khánh là của Olivier vẽ ra. Nó là em sinh sau thành Gia Định” (t. 267).
Lối viết của Tạ Chí Đại Trường vẫn không thay đổi, ông thường mào đầu bằng nhăn hiệu “tài liệu Tây phương cho biết”, rồi dựa vào một “thông tin” do các sử gia thực dân đưa ra, để viết theo và biện luận đắc lực cho thông tin này.
Ở đây ông chép lại việc “nhân dân nổi loạn” của de Guignes, qua Taboulet, nhưng ông c̣n đi xa hơn Taboulet, không những chép lại mà c̣n biện hộ điều này là đúng, bằng cách kết hợp hai sự kiện: thành Gia Định xây tháng 4/1790, nhưng đến tháng 1/1791 phải sửa lại, để suy diễn rằng: vậy là đích thực “có loạn”. Taboulet chỉ dám nói suưt có loạn (faillit se soulever) nghĩa là chưa có loạn và Puymanel có công xây thành Gia Định; Tạ Chí Đại Trường chứng minh là có loạn và Puymanel xây cả thành Diên Khánh nữa, lập luận của ông dựa trên những điểm sau đây:
- V́ thành xây đường ngang dọc, trật tự như thế, chắc chắn phải do Tây xây.
- V́ thành xây mùa xuân mà đến đầu năm sau nói sửa [Thực Lục] tức là phải ngừng việc xây trong nhiều tháng mà không nói rơ lư do, vậy là có loạn.
- Thành xây theo kiểu Tây nhưng phải làm bộ uốn nắn bát quái cho có vẻ ta.
- Thành Diên Khánh là em thành Gia Định, v́ có cùng cha Puymanel.
Thực đáng buồn cho một sự khinh rẻ dân tộc và đề cao ngoại bang đến thế: Lấy cớ ǵ mà bảo: thành Tây, rồi cố uốn nắn theo kiểu phong thủy bát quái của ta?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu
Bài Địa lư lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, in trong cuốn Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, nxb TpHCM 1987, t. 127-231 của Nguyễn Đ́nh Đầu là một bài nghiên cứu có giá trị.
Dựa vào Trịnh Hoài Đức, ông t́m đến nguồn cội của thành Bát Quái Gia Định: Năm 1772, sau khi đánh thắng quân Xiêm, Nguyễn Cửu Đàm xây luỹ Bán Bích bảo vệ điạ phương Sài G̣n: “Bán bích Nguyễn Cửu Đàm đă khép kín địa bàn Sài G̣n với ba mặt sông, gồm thâu hầu hết các phố, chợ và các kiến trúc của chính quyền, tạo nên một tổng thể thống nhất về điạ lư, kinh tế, xă hội và bố pḥng” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 168). Luỹ Bán Bích được coi là nền móng đầu tiên của thành Bát Quái Gia Định.
Ông cũng thấy thành Bát quái “mang màu sắc Á Đông” nhưng rồi ông vẫn bị rơi vào cái bẫy của Taboulet và những xác định vô bằng của Trương Vĩnh Kư, khi ông viết:
“Tên gọi cũng như cách định hướng và những chi tiết kiến trúc, thành này mang màu sắc Á Đông. Nhưng về bố cục và cấu tạo cơ bản, th́ thành lại được xây đắp theo kiểu Vauban tây phương. Những ai trực tiếp xây dựng thành Bá Quái? Chính sử ta không thấy kể tên, song nhiều nguồn sử khác cho rằng: “Tháng 2 trong năm (1790), vua dạy ông Olivier với ông Lebrun coi xây thành Gia Định tại làng Tân Khai, xây thành Bát quái có 8 cửa, xây vách thành bằng đá ong Biên Hoà” (Trương Vĩnh Kư, Biên tích đức thầy, Pinho Quận Công, Sài G̣n, 1897, t. 33). Cụ thể có lẽ Lebun “ra hoạ đồ thành Gia Định” và được mệnh danh là “kiến trúc sư quy hoạch đầu tiên của Sài G̣n”. C̣n Olivier là kỹ sư đôn đốc xây dựng thành. Nhưng chắc thế nào cũng có người Việt tham dự” (t. 184-185).
Người Việt mà Nguyễn Đ́nh Đầu muốn nói ở đây là Trần Văn Học, ông có ghi lại công lao của Trần Văn Học ở đoạn sau; nhưng theo ông, người Pháp vẫn đứng đầu, với bản đồ Sài G̣n của Lebrun 1795 (mặc dù Lebrun đă bỏ đi từ giữa năm 1791).
Đoạn kế tiếp, ông chép lại de Guignes, và dùng sự suy diễn của Tạ Chí Đại Trường, để viết thành câu chuyện sau đây:
“Nguyễn Ánh đă phải huy động tới tới 30000 dân phu thầy thợ đắp thành Bát quái, đă phải triệt hạ một số nhà cửa làng mạc để lấy mặt bằng. Dân chúng cực khổ. Mầm bất măn có cơ nguy biến thành nổi loạn vào mùa mưa, lúc ruộng vườn đ̣i hỏi khẩn cấp nhân công trở về canh tác. Ánh nhượng bộ, giải tán đa số dân phu; đến tháng chạp mới gọi lại để tiếp tục công tŕnh. H́nh như thành Bát quái chỉ “tạm xong”, chứ chưa bao giờ hoàn thành đúng y bản dồ thiết kế buổi đầu (…) Có nhà sử học cho rằng một trong những nguyên nhân khiến thành Bát quái không được hoàn thành là v́ 30000 nhân công của Nguyễn Ánh tập hợp để xây thành đă có lần nổi dậy t́m các kỹ sư đốc công người Pháp mà giết, c̣n nhân dân bị buộc phải góp công của nhiều quá trong lúc chiến tranh vẫn tiếp diễn, nên nỗi bất b́nh chống chất, Nguyễn Ánh bị buộc phải tạm ngưng việc xây dựng thành Bát quái là v́ vậy”. (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 185).
Khổ nhất là những “thông tin” vô căn cứ của “điệp viên” tồi de Guignes, lại được những nhà nghiên cứu của ta chép lại, mà không đặt câu hỏi: tại sao một cuộc loạn to như vậy, mà từ sử chính thống như Thực Lục, Liệt Truyện, đến thư từ của các vị thừa sai, của những người lính Pháp giúp Nguyễn Ánh, hoặc những cuốn sử ngoài luồng như Sử Kư Đại Nam Việt, Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực, v.v. không thấy ai nói ǵ cả?
Một điểm nhỏ nữa cũng cần nêu ra, chúng tôi chú ư đến chú thích số 4, trang 183, sau đây:
“Plan de la ville de Sai G̣n fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier, réduit du grand plan levé par ordre du Roi en 1795, par Brun, ingénieur de Sa Majesté. Par JM Dayot, 1799. Tạm dịch: Bản đồ thành phố Sài G̣n, do đại tá Victor Olivier bố pḥng năm 1790, được ông Brun, kỹ sư của Hoàng thượng vẽ lên bản đồ lớn theo lệnh Vua năm 1795, nay JM Dayot vẽ nhỏ lại. 1799. Tiếc rằng chưa t́m lại được bản đồ lớn vẽ năm 1795. Nếu có, có lẽ c̣n biết thêm nhiều chi tiết bổ ích về Sài G̣n xưa” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, chú thích 4, t. 183.)
Nhà nghiên cứu không cho biết câu này ông trích ở đâu. Có thể đă được rút ra từ câu: “Có một bản đồ thành Sài G̣n do đại tá Olivier vẽ. Rút nhỏ bản đồ lớn do kỹ sư Le Brun vẽ theo lệnh Vua nước Nam” (Schreiner, Abrégé de l’Histoire d’Annam, t. 104, note 1.), mà Cadière trong bài diễn văn đọc trước Thống Chế Joffre, đă dùng để làm chứng cho việc Le Brun có vẽ “bản đồ lớn”, nhưng Cadière c̣n viết thêm: Rủi thay chúng tôi không có bản đồ này trong thư viện” (Cadière, BAVH, 1921, t. 283-288).
Nhưng ta có thể đoán là nó được in ở trong một bộ sách vẽ các bản đồ Sài G̣n do Tây in. Mặc dù ở trang sau (t. 185) Nguyễn Đ́nh Đầu có nghi ngờ con số 1795, v́ ông biết Le Brun đă bỏ đi từ 1791. Nhưng tất cả những sai lầm tích tụ trong đoạn văn này, tại sao ông không phản bác: ngoài việc Puymanel xây thành Sài G̣n năm 1790, mà chúng tôi đă chứng minh ở trên là không thể. Rồi đến năm 1795, vua sai Le Brun vẽ tấm bản đồ lớn. Bản đồ nào? Le Brun đă bỏ đi từ năm 1791, th́ sao năm 1795, vua lại có thể sai y vẽ bản đồ lớn? Rồi Dayot lại vẽ nhỏ lại năm 1799. Dayot bị án tử h́nh đă trốn biệt từ năm 1795, làm sao năm 1799 y c̣n ở đó mà vẽ lại cái “bản đồ lớn” của Le Brun?
V́ chúng ta không cặn kẽ t́m ṭi, phân tích mọi sự đến nơi đến chốn, cho nên người Pháp thực dân muốn in ǵ th́ in, muốn viết ǵ th́ viết.
_______________________________________
1] Nguyên văn tiếng Pháp: En 1789 et 1790, si le roi de la Cochinchine l’avait voulu, il aurait reconquis sur-le-champ son royaume. L’arrivée des frégates (la Dryade, le Pandour et la Méduse), ainsi que celle des navires venus de Pondichéry, de l’Ile de France et de Macao, avaient jeté l’alarme chez les ennemis. Le Tonkin attendait le moment de secouer le joug pour reconnaitre son véritable roi. Mais les succès de celui-ci furent peu conséquents, ou mal soutenus. Il prit une province (le Binh Thuan), y laisser des troupes; leur petit nombre les fit chasser; l’espoir revint aux rebelles, outre qu’il fut augmenté par le roi lui-même, par sa conduite. MM. Olivier et Le Brun, officiers français, lui donnèrent un plan de ville fortifiée. Le roi voulut de suite en faire bâtir une, quoique cela exigeât un temps plus favorable. Il a fallu alors vexer le peuple, abattre les maisons et occuper 30.000 hommes pour fortifier une place où le roi espérait se retirer, en cas de revers. Le peuple et plusieurs mandarins se sont soulevés. MM. Olivier et Le Brun ont couru des dangers comme les auteurs du projet. M. l’Evêque d’Adran, en les retirant chez lui, les a délivrés de tout accident. Cependant le calme est revenu, le roi ayant licencié ses troupes et permis à tout le monde de semer du riz. On espère d’une bonne récolte. Alors le peuple ne se plaindra plus.”
[2] “Le Roi s’en revint à Gia Định dont il s’était d’abord emparé. Il se fortifia de son mieux, construisit des galères, etc… et engagea M. Olivier, officcier francais, à lui faire une ville à l’européenne dans une des provinces nouvellement conquise. Elle était à peine achevé lorsque les rebelles y accoururent au nombre de quarante mille hommes, résolus de l’escalader; mais tous leurs efforts furent vains”.
[3] “Nous fûmes un instant tenté de retenir pour épigraphe de notre ouvrage ce jugement de Rémy de Gourmont: “Le plus honnête serait de donner la parole “aux témoins originaux; c’est en ce sens qu’on a dit que la meilleure histoire de France serait un recueil de textes…”
Il est rare, en effet, qu’une prose de seconde main parvienne à restituer vraiment l’atmosphère exacte des événements. Trop souvent, le livre, même le plus consciencieux, altère les faits, fausse la perspective, ne peut parvenir à recréer l’atmosphère. Au contraire, et par définition même, si on peut dire, la citation, le document d’archives comportent un indéniable accent de vérité, une puissance d’évocation, une richesse expressive inégalabes. C’est pourquoi, persuadé que la révélation de textes peu connus fournirait au lecteur plus de profit et d’agrément qu’un récit indirect de notre plume, nous avons pris le parti de nous effacer devant les acteurs de la Geste indochinoise.”
[4] “Plutôt que de nous borner à égrener sèchement des textes l’un après l’autre, nous avons tenu à présenter, assez longuement parfois, les passages reproduits. Nous avons relié, soudé les textes les uns aux autres; nous les avons complétés par des commentaires de mise en situation, parfois assez développés, destinés à donner autant que faire se pouvait l’explication des événements, que l’historien, plus ambitieux que le chroniqueur, s’efforce de tirer au clair”.
Thụy Khuê
Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-14/
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 13: Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết Bảo, những người giúp vua Gia Long trong việc đắp thành đất Gia Định và Diên Khánh
Theo bản đồ in ở trang 184 và trang 229, trong cuốn Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, do Nguyễn Đ́nh Đầu sưu tập và vẽ lại, ta thấy thành Bát quái Gia Định, c̣n gọi là thành Qui, nằm trong khung vuông giới hạn bởi các đường Lê Thánh Tôn, mặt tiền, Nguyễn Đ́nh Chiểu (Phan Đ́nh Phùng), mặt hậu; Nam Kỳ Khởi Nghiă (Công Lư) và Đinh Tiên Hoàng.
Hai cửa Tiền trên đường Lê Thánh Tôn: Cửa Càn Nguyên mở trông ra đường Đồng Khởi (Tự Do) và Ly Minh mở trông ra đường Ngô Văn Năm hiện nay.
Hai cửa Hậu trên đường Nguyễn Đ́nh Chiểu: Cửa Khảm Hiểm mở ra đường Phạm Ngọc Thạch và Khôn Hậu mở ra đường Mạc Đĩnh Chi.
Hai của Tả trên đường Đinh Tiên Hoàng: Cửa Chấn Hưng mở ra đường Nguyễn Trung Ngạn và Cấn Chỉ mở ra sân banh Hào Thành.
Hai cửa Hữu trên đường Nam Kỳ Khỏi Nghiă: Cửa Tốn Thuận mở ra đường Lư Tự Trọng và Đoài Nguyệt mở ra đường Vơ Văn Tần
(Theo Nguyễn Đ́nh Đầu, Điạ lư lịch sử TPHCM, in trong Điạ chí văn hoá TPHCM, nxb TPHCM, 1987, t.180-181).
Chợ Bến Thành nằm trên bờ chỗ gặp nhau của hai sông B́nh Dương và Bến Nghé. Những người ngoại quốc đến đây, cập bến chợ đầu tiên, nên có cảm tưởng như vào một thành phố cảng sầm uất.
Thành Bát quái hay thành Qui là thành đất, đắp tháng 3-4/1790, đầu năm 1791 sửa lại (Thực lục, I, t. 268). Đến năm 1829, “[Lê Văn] Duyệt lại nghĩ Gia Định là trọng khẩn Nam Kỳ, bèn tâu xin thuê dân đánh đá ong, cấp thêm tiền gạo và lấy cả dân đinh, xây đắp thành hào cao rộng thêm lên để pḥng thủ cho nghiêm. Vua [Minh Mạng] nghe cho làm”. (Liệt truyện, II, t. 426). Vậy có thể hiểu là Lê Văn Duyệt xây thêm lớp thành đá ong bên trong, và đào hào sâu hơn.
Năm 1833, Lê Văn Khôi, bộ hạ cũ của Lê Văn Duyệt nổi loạn, giết bố chính Bạch Xuân Nguyên là kẻ tham tàn, chiếm thành Gia Định (lúc đó vua Minh Mạng đă đổi tên là Phiên An), đánh phá các tỉnh miền Nam. Quân triều đ́nh vây thành Phiên An gần ba năm không hạ được. V́ sự kiên cố ấy, mà Lê Văn Duyệt bị buộc tội “xây thành cao, đào hào sâu” có ư tự trị một cơi. Năm 1835, khi hạ được, Minh Mạng ra lệnh phá thành cũ và xây thành mới, nhỏ hơn, gọi là thành Phụng. Quyết định này có do hai lư do: thành Qui đă bị hư hại nặng nề sau gần ba năm bị tấn công và vua Minh Mạng muốn phá một biểu tượng nội loạn.
“Thành Phụng nằm trong khung bốn con đường: Nguyễn Du, mặt tiền, Nguyễn Đ́nh Chiểu, mặt hậu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặt tả và Mạc Đĩnh Chi, mặt hữu”. (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 212). Thành Phụng sẽ bị liên quân Pháp Y Pha Nho chiếm (sau khi thất bại ở Đà Nẵng, không thể vượt đèo Hải Vân để chiếm Huế, bèn xuống chiếm Sài G̣n), Rigault de Genouilly đă cho nổ ḿn phá sập tháng 2/1859.
Trong chương 12, chúng tôi đă chứng minh Le Brun và Puymanel không thể là tác giả xây các thành Gia Định và Diên Khánh, v́ hai chứng từ mà người Pháp đưa ra để biện minh cho việc này không thể đứng vững được.
Các sử gia triều Nguyễn lại rất kiệm lời, nói thực vắn tắt, có lẽ v́ cho đó là việc không quan trọng, các quan chỉ thi hành nhiệm vụ của ḿnh. Cho nên phải ḍ kỹ mới t́m thấy vài câu, ghi trong Liệt truyện:
- “Năm Canh Tuất (1790), mùa xuân, [Tôn Thất] Hội đắp thành đất ở Gia Định” (Liệt truyện II, Tôn Thất Hội, t. 77), Nguyễn Quốc Trị là người đầu tiên t́m thấy câu này.
- “Năm Canh Tuất (1790), đắp thành Gia Định, [Trần Văn] Học nêu đo phân đất và các ngả đường (…) Năm Nhâm Tư (1792), làm đồn Mỹ Tho, Học dâng bản đồ, cách thức, Học vẽ giỏi, phàm làm đồn lũy, đo đường sá, vẽ bản đồ, nêu dấu, đều do tay cả” (Liệt truyện II, Trần Văn Học, t. 282).
Đó là về thành Gia Định và thành Mỹ Tho.
Về thành Diên Khánh, cũng chỉ có mấy chữ vắn tắt:
- “Năm Quư Sửu (1793) (…) Hội cùng đạo binh hợp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp thành Diên Khánh” (Liệt truyện II, Tôn Thất Hội, t. 78).
- “Mùa hạ năm Quư Sửu, [Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi về đắp thành Diên Khánh, vua sai Vũ Tính [Vơ Tánh] ở trấn, cho Bảo làm cai đội coi thuyền Kiên súng doanh B́nh Khang.” (Liệt truyện II, Vũ Viết Bảo, t. 321)
V́ những câu ngắn ngủi như thế, cho nên không mấy ai t́m ra tên những người phụ trách xây đắp các thành này, khiến người Pháp tha hồ ba hoa về thành tích của hai vị binh nh́, binh nhất Puymanel và Le Brun khi họ mới đào ngũ, đặt chân đến nước Việt.
Vậy chúng ta cần biết những người phụ trách việc xây đắp các thành tŕ này là ai?
Tôn Thất Hội (1757-1798)
Theo Liệt truyện, ông là con thứ ba cai đội Tôn Thất Thắng. Năm 18 tuổi, ông theo Định Vương Nguyễn Phước Thuần vào Gia Định (1775), tiếp đó ông theo Nguyễn Ánh, hai lần chạy sang Xiêm, làm tới chức đại tướng, Chưởng dinh Hậu quân.
Năm 1787, anh em Tây Sơn bất hoà, Nguyễn Ánh từ Xiêm về chiếm lại Gia Định. Trong những trận đánh quyết liệt năm 1788-1789, Tôn Thất Hội giữ vai tṛ chủ chốt:
“Mùa thu năm Mậu Thân (1788), đại binh đến đóng ở Tam Phụ. Hội cùng Vũ Tính [Vơ Tánh] đánh giặc ở Ngũ Kiểu, lấy đèn lồng sắt đốt vào sách [?] của giặc, giặc sợ tan vỡ cả. Bắt sống được không biết đâu mà kể. Bèn nhân thế được, tiến sát đến Sài G̣n, đánh phá được Thái bảo của giặc là Phạm Văn Tham chạy đến giữ Ba Thắc [Sóc Trăng]. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) Hội điều khiển quân các đạo cùng bọn Vũ Tính đánh giặc ở Hổ Châu. Tham sức kém bèn đầu hàng. Lại cùng Nguyễn Văn Trương đánh dẹp bọn lũ c̣n lại của người Man Ốc Nha Ốc. Tân Hợi (1791), bổ làm Chưởng Tiền quân doanh [Chưởng dinh Tiền Quân]. Năm Quư Sửu (1793) thăng Khâm Sai B́nh Tây Đại tướng quân, tước quận công” (Liệt truyện, II, t. 78).
Năm 1797, Nguyễn Vương đi đánh Quy Nhơn, “để Hội ở lại trấn Gia Định. Uy lịnh nghiêm túc, trong cơi yên lặng. Mùa đông năm Mậu Ngọ [1798] bị bệnh chết, tuổi bốn mươi hai [Liệt truyện ghi tuổi ta, tức là 41 tuổi tây] Thế Tổ rất thương tiếc, tặng là Nguyên phụ công thần, Thượng phụ quốc Chưởng doanh.” [Liệt truyện, II, t. 79).
Nh́n lại công trạng của các quan theo Nguyễn Ánh từ thời lưu vong ở Vọng Các, Tôn Thất Hội đứng hàng đầu: “Hội là người nghiêm trọng, kính giữ lễ độ, công cao mà không khoe, ngôi tôn mà càng khiêm tốn, mỗi khi vào chầu ra mắt đi đứng có chỗ thường, ăn mặc như nhà Nho, các tướng đều kính mà sợ. Lê Văn Duyệt từng bàn về điều được điều hỏng của các tướng, bảo rằng: Tống Viết Phước hăng mạnh mà không có mưu, Nguyễn Văn Thành có mưu mà ít hăng mạnh. Duy Hội trí dũng gồm đủ, thật là bậc danh tướng. (…). Năm [Gia Long] thứ 16 vua thấy Hội là người huân nghiệp danh vọng rơ rệt đừng đầu các bề tôi đời trung hưng, cho phụ tế ở Vơ Miếu”. (Liệt truyện, II, t. 80).
Là người trong hoàng tộc, Tôn Thất Hội hay Nguyễn Phước Hội hơn vua 5 tuổi, chưa biết ngôi thứ trong họ thế nào. Ông đă trưởng thành khi phải bỏ kinh đô vào Nam, nên có đủ thời gian để học hỏi hơn Nguyễn Ánh (lúc đó mới 13 tuổi). Ông có đủ khả năng của một vị tướng văn vơ kiêm toàn, cho nên Lê Văn Duyệt, vốn rất cao ngạo, mới có những lời như trên về ông.
Điều này giải thích lư do tại sao vua trao cho ông đặc trách trông coi xây đắp hai thành tŕ lớn nhất thời đó, là Gia Định và Diên Khánh.
Việc đắp thành Diên Khánh th́ như sau: mùa hạ năm 1793, Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn theo đường thủy, Tôn Thất Hội tiến công mặt bộ. Liệt truyện ghi: “Đại binh vào cửa biển Thị Nại; Hội từ Hà Nha, Cù Mông chia làm hai đường đến đánh úp tên Bảo là con ngụy Nhạc ở Thổ Sơn, Bảo thua chạy về thành Quy Nhơn. Hội cùng đạo binh họp lại để bao vây, giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp thành Diên Khánh.” (Liệt truyện, II, t. 78). Cũng chỉ vỏn vẹn có mấy chữ! Thực là trái ngược với sự huênh hoang của người Pháp về huyền thoại Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh!
Ta có thể hiểu Tôn Thất Hội là tướng kiêm việc công chánh, một loại “kỹ sư trưởng” có trách nhiệm cao nhất, nhưng người phụ tá đắc lực của ông trong việc xây đắp thành Gia Định là Trần Văn Học.
Trần Văn Học
Liệt truyện có ghi tiểu sử Trần Văn Học, nhưng chúng tôi thấy Nguyễn Đ́nh Đầu tham khảo thêm Nghiêm Thẩm và Thái Văn Kiểm, rồi đúc kết lại, đầy đủ hơn:
“Trần Văn Học sinh quán ở B́nh Dương (tức Sài G̣n) từng theo Bá Đa Lộc, biết quốc ngữ, La tinh và tiếng Tây dương. Sau Lộc giới thiệu Học làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ánh đă cử Học theo hoàng tử Cảnh sang Pháp; nhưng đến Pondichéry có trục trặc, Học trở về. Trần Văn Học phụ trách việc dịch sách, nhất là sách kỹ thuật Thái tây cho Nguyễn Ánh. Đồng thời Hoc kiêm cả “chế tạo hoả xa, địa lôi và các hạng binh khí”. Đến năm 1790, xây thành Bát quái, Trần Văn Học phụ trách việc “phác họa đường xá và phân khu phố phường”. Sau đó cùng với Vannier, Học điều khiển việc đóng tàu đồng theo kiểu mới [Liệt truyện ghi: cùng Vannier trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan quân đánh giặc]. Năm 1792, Học vẽ xong họa đồ thành Mỹ Tho. Học rất có tài vẽ địa đồ và họa đồ kỹ thuật. Đem so sánh bản đồ Sài G̣n 1799 của Dayot với bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học th́, về kỹ thuật đồ bản như trắc địa hay tỷ lệ, bản đồ sau chính xác hơn bản đồ trước nhiều. H́nh như Trần Văn Học đă vẽ hầu hết các thành tŕ và công sự pḥng thủ ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Ta có thể coi Trần Văn Học là người Việt Nam đầu tiên đă biết vẽ bản đồ điạ lư và đồ hoạ kỹ thuật theo phương pháp Tây phương” (Nguyễn Đ́nh Đầu, theo Nghiêm Thẩm, Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học? trong Văn hóa nguyệt san, Sài G̣n, 1961, số 61, t. 532 và Thái Văn Kiểm, Qui était Trần Văn Học trong BSEI, số 4, 1962, t. 441, bđd, t. 190). Như chúng tôi đă nói trong bài trước, những tên: Bản đồ thành Bát quái của Le Brun 1795 và Bản đồ Sài G̣n 1799 của Dayot trong bài của Nguyễn Đ́nh Đầu đều phải xem lại, v́ Le Brun bỏ đi năm 1791 và Dayot trốn đi năm 1795.
Vũ Viết Bảo
Thành Diên Khánh có thể đă xây theo quy mô thành Gia Định do Trần Văn Học đo đạc và vẽ đồ thị, nhưng thu nhỏ lại; Vũ Viết Bảo là người phụ tá, tự học qua kinh nghiệm thực tiễn.
Ông người gốc Thanh Hoá, tổ tiên theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá. Năm 1775, ông theo Định Vương Nguyễn Phước Thuần vào Nam và được bổ vào đội quân của Đỗ Thanh Nhơn. Có lẽ chính vào thời gian này ông đă học cách đóng tàu chiến với Đỗ Thanh Nhơn. Về việc Đỗ Thanh Nhơn đóng tàu, Trịnh Hoài Đức viết:
“Cây sao có 4 thứ, thứ hảo hạng có cả trăm thước ta, sớ gỗ bền chặt, dùng làm ghe thuyền, nhà cửa th́ tốt nhất, có lệnh cấm dân gian không được dùng (…) Tháng 7 năm Canh Tư (1780)… vua sai quân đến nguồn Quang Hoá đốn gỗ để làm thuyền chiến. Ở nguồn Quang Hoá có cây sao lâu đời, ban đêm thường thấy có lửa sáng như hai cây đèn, người dân miền núi đều kính sợ mà tránh (…) quân không dám đốn. Đỗ Thanh Nhơn ra lệnh đốn, người nào trốn th́ bị xử theo quân pháp (…). Thanh Nhơn mới sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tṛn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên th́ bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỷ xảo của thuỷ sư càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo”. (Gia Định Thành thông chí, Vật sản chí, bản dịch của Lư Việt Dũng, điện tử).
Những tàu chiến có hai bánh lái để đi biển và đi sông này, đă được Montyon mô tả trong tác phẩm của ông, mà chúng tôi đă chép lại trong chương 7 viết về Montyon.
Trở lại với Vũ Viết Bảo, ông may mắn được gần gụi những tướng tài, sau Đỗ Thanh Nhơn, ông lại ở dưới quyền Nguyễn Văn Khiêm, một người giỏi về pháo binh và xây dựng thành luỹ: Năm 1805 “xây dựng xă miếu, cung điện, hoàng thành, Khiêm đều dự coi công việc. Mùa đông năm ấy, Khiêm trông coi đúc 9 cỗ súng lớn” (Thực lục, II, t. 233).
Vũ Viết Bảo chuyên về hoả pháo và xây thành luỹ. Năm Nhâm Tư (1792), dưới quyền Nguyễn Văn Khiêm, lập công ở trận Thị Nại, đốt thuyền Tây Sơn. Năm Quư Sửu (1793), ông theo Tôn Thất Hội đi đánh Quy Nhơn, nhưng v́ Tây Sơn có tiếp viện, phải rút về đắp thành Diên Khánh với Tôn Thất Hội. Năm Kỷ Mùi (1799) ông được gọi về Gia Định, coi hai đội Chấn Uy nhất và Chấn Uy nhị kiêm phó quản các thuyền trung hầu tiến đánh Quy Nhơn; rồi ông lại theo Lê Văn Duyệt đắp các đồn Thạch Tân và Sa Lung, để chặn quân tiếp viện của Tây Sơn. Tháng 7/1799 Vơ Tánh hạ được thành Quy Nhơn, ở lại trấn thủ, Vũ Viết Bảo quản lư thuyền bè và trông coi súng ống ở bốn cửa thành. Khi Trần Quang Diệu vây Quy Nhơn, Vơ Tánh mở cửa thành ra đánh, Vũ Viết Bảo điều khiển súng hoả xa bắn lui quân địch. Năm 1802, được triệu về kinh thăng chức Thuộc nội Cai cơ, sau này sẽ được thăng Thị nội Thống chế. Chiến tranh chấm dứt, ông tiếp tục trông coi việc súng ống, đến năm 1806, dự vào việc sửa đắp kinh đô Huế. (Theo Liệt truyện, II, Vũ Viết Bảo, t. 320-321).
Lược sử thành Gia Định
Trịnh Hoài Đức viết:
“Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), sai tướng vào mở mang bờ cơi, chọn nơi đất bằng rộng răi, tức chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai Bạ và Kư lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài th́ cho dân chúng trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tuỳ tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn súy thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Đến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788), năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng, việc binh c̣n bề bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phiá đông sông B́nh Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân. Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13(1790), tại chỗ g̣ cao thôn Tân Khai thuộc đất B́nh Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như h́nh hoa sen…” (Gia Định Thành thông chí, Thành tŕ chí, bản dịch của Lư Việt Dũng, điện tử).
Theo sự t́m kiếm của Nguyễn Đ́nh Đầu, th́ Chợ Điều Khiển ở trước dinh Điều Khiển, nằm trên đường Nam Quốc Cang, giữa Ngă Sáu với chợ Thái B́nh ngày nay. Và dinh Điều Khiển, nằm góc Nguyễn Trăi-Phạm Ngũ Lăo bây giờ, “đương thời toạ lạc tại một vị trí trung tâm vừa thuận tiện giao thông thuỷ bộ” (Nguyễn Đ́nh Đầu bđd, t. 163-164). Như vậy dinh Điều Khiển ở điạ hạt Chợ Lớn, không nằm trong thành Bát quái.
Tóm lại, theo Trịnh Hoài Đức, thời chúa Nguyễn Phước Tần (1648-1687), đă xây dinh Điều Khiển (ở góc Nguyễn Trăi-Phạm Ngũ Lăo bây giờ) và dinh Phiên Trấn ở lân Tân Thuận (?). Khi Nguyễn Phước Thuần chạy vào Gia Định năm 1775, trú ở thôn Tân Khai. Khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định năm 1788, trú ở đồn cũ Tây Sơn, phiá đông sông B́nh Dương. Và năm 1790, Nguyễn Ánh cho đắp thành Bát quái ở g̣ cao thôn Tân Khai.
Lê Văn Định (cùng Ngô Ṭng Châu và Trịnh Hoài Đức là môn sinh của Vơ Trường Toản, những trí thức uyên bác thời bấy giờ) viết trong Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí một đoạn liên quan đến thành Gia Định, khác Trịnh Hoài Đức:
“Ghi chú về phủ Gia Định: Ngày xưa là đất Thuỷ Chân Lạp, sau đó thuộc đất Cao Miên, Hiếu Ninh Hoàng đế (Nguyễn Phúc Trú) triều ta mở mang đất này, lập ra phủ Gia Định từ B́nh Hoà vào phiá trong, đặt ra năm dinh rồi cử quan văn vơ ở kinh đến mỗi nơi một viên để điều khiển tướng sĩ, lập đồn ở dinh Phiên Trấn thành Gia Định. Cuộc binh biến năm Giáp Ngọ (1774), Hiếu Định Hoàng Đế (Nguyễn Phúc Thuần) chạy vào đây, vài năm sau Huệ Vương (Nguyễn Phúc Dương tức Tân Chính Vương) nhận mệnh ở đây và cũng dùng chỗ này làm nơi hành tại [cung vua ở khi đi khỏi kinh đô] để chống lại nhà Tây Sơn. Trong chừng mươi năm đây là vùng tranh chấp. Năm Đinh Mùi (1787), quân ta từ Xiêm La kéo về đánh đuổi quân Tây Sơn, bắt được tướng Tây Sơn là Thái bảo Tham và thu phục được toàn cơi; nhân đó dùng đồn cũ này làm nơi trú tất. Mùa hè năm Canh Tuất (1790) mới cho mở rộng thành này ra cái thành ngày nay. Thành này được làm như h́nh hoa sen, chu vi… (in không rơ) tầm, có 8 cửa, đều xây bằng đá tổ ong”. (Lê Văn Định, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Quyển 2, t. 88-89).
Theo Lê Văn Định, th́ tất cả đều xẩy ra ở cùng một chỗ là đồn dinh Phiên Trấn. Khi Nguyễn Phước Thuần chạy vào Gia Định “dùng chỗ này làm nơi hành tại”. Khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định “dùng đồn cũ này làm nơi trú tất”. Và “mùa hè năm Canh Tuất (1790) mới cho mở rộng thành này ra cái thành ngày nay”.
Thực lục viết: “[Năm 1698, chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725)] bắt đầu đặt phủ Gia Định, sai thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hoà), lấy xứ Sài G̣n làm huyện Tân B́nh, dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, kư lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh” (Thực lục, I, t. 111).
Thực lục viết sơ sài hơn. Giữa Trịnh Hoài Đức và Lê Văn Định, dường như Lê Văn Định có lư hơn, bởi v́ dinh Phiên Trấn (hay dinh Tổng Trấn) chắc chắn là nơi tốt nhất trong một thành phố, để những vị thủ lănh ở; nếu chấp nhận lập luận này th́ dinh Phiên Trấn phải là đồn Tân Khai cũ. Hiện giờ ta cứ tạm coi như thế. Theo Nguyễn Đ́nh Đầu th́ đồn đất Tân Khai ở gần sông Thị Nghè, nhưng theo ư chúng tôi, đồn Tân Khai có thể ở trung tâm thành Bát quái, khoảng ngă tư Hai Bà Trưng và Đại Lộ 30 Tháng Tư.
Nếu ta đọc lại Gia Định Thành thông chí:
“Ngày 4/2/ Canh Tuất [tức 19/3/1790] tại chỗ g̣ cao thôn Tân Khai thuộc đất B́nh Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như h́nh hoa sen, mở ra tám cửa”. Có lẽ Trịnh Hoài Đức muốn nói: thành đắp tại g̣ Tân Khai là thành mới. Nhưng nếu ta đọc kỹ Thực lục một lần nữa: “Ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, tức 22/4/1790] đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm”, th́ thực là sáng tỏ, Thực lục chép giống như Lê Văn Định, nhưng xác định thêm nơi chốn là Tân Khai.
Tóm lại, có thể có hai giả thuyết:
- Vua Gia Long san bằng thành cũ Tân Khai để xây thành mới (như Nguyễn Đ́nh Đầu viết).
- Vua Gia Long không xây cung điện mới, mà ông giữ lại thành Tân Khai ở giữa làm cung điện, rồi vạch rộng thêm diện tích, chu vi, đào hào và đắp thành Bát quái bằng đất ở ngoài. Chúng tôi cho khả năng này thích hợp hơn, v́ vậy mới nhanh: chỉ 10 ngày xong. Và thành trong, hay là cung điện mà Shihơken Seishi mô tả, chỉ có thể là dinh phiên trấn cổ, xây từ năm 1698, được sửa sang lại mà thôi, chứ khó có thể xây mới mà xong trong 10 ngày được.
Sự khác biệt trong kiến trúc thành luỹ của người Âu và người Á
V́ không biết rơ về kiến trúc, nên chúng tôi phải t́m hiểu đại lược xem kiến trúc thành luỹ Tây và Đông, khác nhau như thế nào, th́ đọc được một luận văn cử nhân lịch sử tại Đại học Nice Sophia-Antipolis, Pháp, 1999; tựa đề: Les citadelles dans le ViêtNam du XIXe siècle (Những thành đài của Việt Nam trong thế kỷ XIX) của Nicolas Micalef (net4war.com), xin trích dịch một đoạn sau đây:
“Chúng ta bàn đến những thành tŕ ở Việt Nam thế kỷ XIX, nhưng tại sao lại chọn đề tài này, nếu ta chỉ coi đó là những sự vá víu gạch vữa, trong cái nh́n thô thiển?
Đề tài này tương đối quan trọng bởi v́ thành tŕ hay chiến luỹ, là ṇng cốt của chính sách pḥng thủ đất nước của Gia Long, lập ra ngay từ 1790 (Olivier de Puymanel, kỹ sư Pháp, đă xây thành Sài G̣n) [thực đáng buồn khi nguồn tin thất thiệt này đă trở thành “lịch sử” ở khắp nơi!] khi ông đánh nhau với Quang Trung.
Một mặt khác, các chiến luỹ ở Việt Nam, ít ra trong thế kỷ XIX, đă đổi mới đối với thế kỷ XVI-XVIII, bởi v́, về thời gian này, Samuel Baron xác định: “Người Bắc kỳ không có thành lũy (châteaux-forts), không cả pháo đài (forteresses) và thành quách (citadelles), chẳng biết ǵ về nghệ thuật kiến trúc đồn ải, vụng về trong việc xây dựng như chúng tôi vừa nêu ra”. (Samuel Baron, Description du royaume du Tonquin, Revue Indochinoise, 2e série, 1914, t. 201).
Bằng cách xác định trên đây, Samuel Baron đưa ra một sự thật không phải là sự thật. Bởi tất cả đều tuỳ thuộc nếu ta đứng ở quan điểm Âu hay Á.
Từ thế kỷ XVI đến XVIII, người Việt cũng như người Châu Á, không biết lối xây thành lũy của người Âu, nghiă là xây thành bằng đá, nhưng không thể nói là họ không biết xây thành. Họ học bên Tàu, từ thời Tam Quốc, đă có lối xây: thành là một cái sân vuông lớn có bốn bức tường cao làm bằng đất trộn rơm (torchis) bao quanh, mỗi mặt tường đều đục một lỗ nhỏ, mỗi góc có đặt lầu canh hai tầng, trên đục nhiều lỗ đặt súng để bắn ra ngoài (meutrières). Người ta thêm vào lối xây sơ sài này, ba đồn nhỏ dựng sát đất, ở phiá trước, làm đợt chống cự đầu tiên. Hệ thống pḥng thủ này được dùng đến thế kỷ XVIII, trên toàn thể Á Châu và sau họ làm thêm các hàng rào tre hoặc cọc tre cắm xuống đất, phủ giấu đi, làm hệ thống tiền đồn.
Dù sao chăng nữa, ta không thể nói như Baron rằng người Việt thấp kém hơn người Âu, nhưng ta có thể xác định rằng châu Á đă có lối phát triển khác châu Âu về mặt binh bị, tức là về lối đánh nhau, ngay từ khi người Tàu khám phá ra ra bột đen [thuốc súng] ở những thế kỷ đầu tiên trước Thiên Chuá. Thoạt tiên, chỉ dùng để đốt pháo bông, rồi sang thế kỷ X sau Thiên chuá, họ dùng để bắn tên lửa. Tính chất hiện đại của chiến tranh Âu châu sẽ được người Ả Rập khai sáng ở thế kỷ XIII với hệ thống bắn đạn đầu tiên: Pháo binh ra đời.”
Sự phân biệt của Nicolas Micalef về lối xây thành Âu, Á, rất đáng chú ư, và câu “thành là một cái sân vuông lớn có bốn bức tường cao làm bằng đất trộn rơm (torchis) bao quanh, mỗi mặt tường đều đục một lỗ nhỏ, mỗi góc có đặt lầu canh hai tầng, trên đục nhiều lỗ đặt súng để bắn ra ngoài” hoàn toàn thích hợp với sự mô tả thành Gia Định của các tác giả đương thời.
Nhất là câu: “mỗi góc có đặt lầu canh hai tầng, trên đục nhiều lỗ đặt súng để bắn ra ngoài” chứng tỏ thành tŕ ở Á Châu cũng có những yếu tố giống như những yếu tố mà người ta coi là đặc tính của thành Vauban.
Sự t́m hiểu kiến trúc thành Gia Định, v́ thế, nên quay về hướng những kiến trúc xưa của Việt Nam như Thành Hồ Quư Ly, lũy Đào Duy Từ, Vĩnh Thành ở Vinh, lũy Trấn Ninh, v.v. hay các thành lũy Tây Sơn xây như thành Quy Nhơn của Thái Đức Nguyễn Nhạc, Phượng Hoàng Trung Đô của Quang Trung, v.v. V́ Quy Nhơn cũng là một kiến trúc cực kỳ kiên cố khiến Vơ Tánh, Ngô Ṭng Châu đă cầm cự được gần hai năm với Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng.
Hy vọng một ngày nào đó, các kiến trúc sư Việt Nam sẽ giải thích cho chúng ta một cách rơ ràng hơn và đồng thời cho biết, sự đổi mới trong kiến trúc thành quách của Gia Long, so với những thời kỳ trước như thế nào?
Nguyễn Cửu Đàm, người đầu tiên quy hoạch thành phố Gia Định (Sài G̣n và Chợ Lớn)
Nguyễn Đ́nh Đầu trong bài nghiên cứu nghiêm túc Điạ lư lịch sử TPHCM (Điạ chí văn hoá TPHCM, 1987, t. 127- 231) đă coi Nguyễn Cửu Đàm là người đắp những thành luỹ đầu tiên, quy hoạch và bảo vệ Sài G̣n.
Ông viết: “[Sau khi thắng quân Xiêm năm 1772], Nguyễn Cửu Đàm đem đại quân về Gia Định, “đắp luỹ đất, phiá nam từ Cát Ngang, phiá tây đến cầu Lăo Huệ, phiá bắc giáp thượng khẩu Nghi Giang, dài 15 dặm, bao quanh đồn dinh, cắt ngang đường bộ, để ngăn ngừa sự bất trắc” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, tập trung, t. 90). Câu trích được nhấn mạnh này có một ư nghiă rất quan trọng: nó cho ta thấy vị trí chiến lược của thành phố và địa phận chính yếu của thành phố xưa (mà nay cũng vậy).
Trên bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi dấu Cựu lũy tức “Bán Bích cổ luỹ” này, chi tiết đúng như Trịnh Hoài Đức đă tả (…). Nguyễn Cửu Đàm vừa là nhà quân sự có tài vừa là nhà quy hoạch thành phố có tầm nh́n lớn. Hai đầu luỹ nối vào hai đầu rạch Bến Nghé và Thị Nghè, tạo cho thành phố biệt lập như một ḥn đảo. Nh́n tổng thể, bán đảo (ba mặt sông) với phần luỹ ở phiá Tây, coi như h́nh con cá lớn, đă có một diện tích gần một trăm dặm vuông (tức trên 50 km2), tới năm 1931 khi nhập Sài G̣n với Chợ Lớn làm đơn vị chung, vẫn chưa đô thị hoá hết diện tích đó” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 163).
Tóm lại: Xem bản đồ của Trần Văn Học vẽ năm 1815 về vùng Gia Định, do Nguyễn Đ́nh Đầu sưu tầm, t. 229, mà chúng tôi mạn phép in lại, đính kèm, th́ ta thấy:
Bản đồ Phủ Tân B́nh
clip_image002
Cổ luỹ Bán Bích, do Điều khiển (Đốc chiến) Nguyễn Cửu Đàm xây năm 1772, dưới thời Vơ Vương Nguyễn Phước Khoát, luỹ dài 15 dặm (8km586), bắt đầu từ rạch Bến Ngé (chùa Cây Mai) trong Chợ Lớn bao ṿng lên trên Hoà Hưng, Tân Định, chạy đến rạch Thị Nghè, vừa là quy hoạch đầu tiên của vùng Sài G̣n Chợ Lớn ngày nay, vừa là thành luỹ ngăn quân Xiêm từ miền Tây sang quấy nhiễu. Theo Trịnh Hoài Đức, một năm trước, Nguyễn Cửu Đàm đă xây luỹ Tân Hoa: “Ở thôn Tân Hoa, tổng Chánh Mỹ. Năm Tân Măo (1771), trấn Hà Tiên thất thủ, quan đốc chiến Nguyễn Đàm đắp lũy để pḥng ngự đường tiến của sơn man Thuỷ Vọt, nền cũ nay vẫn c̣n” (Gia Định Thành thông chí, Trấn Biên Hoà).
Luỹ Bán Bích là ṿng thành lớn hơn nữa, bao ṿng tất cả vùng Hoà Hưng, Tân Định, Sài G̣n, Chợ Lớn, với toàn bộ “đồn dinh” của hệ thống cai trị đương thời, theo Nguyễn Đ́nh Đầu: “Nếu t́m được vị trí phân bố các “Đồn dinh” quan trọng đó nằm giữa các sông rạch thiên nhiên và luỹ Bán Bích, ta có thể phác hoạ lại đại cương tấm bản đồ Sài G̣n 1772, một thành phố đă có tầm cỡ về mọi mặt từ trên 200 năm nay” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 163).
Cùng năm ấy, Nguyễn Cửu Đàm đào kinh Ruột Ngựa: “Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát ra phiá bắc đến Ḷ Gốm th́ có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền không đi lại được… Nguyễn Cửu Đàm… có đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên mới đặt ra tên ấy (Mă Trường Giang (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, tâp thựợng, t. 42). Kinh này giúp cho sự đi lại giữa Sài G̣n với miền Tây thêm thuận lợi” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 165). Và ông kết luận: “Sài G̣n trở nên thành phố và khá phồn thịnh kể từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây luỹ Bán Bích và đào kinh Ruột Ngựa vào năm 1772” (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 169)
Sự xây dựng hay mở rộng thành đất Gia Định năm 1790
Thực lục chép ở hai chỗ:
“Ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, tức 22/4/1790] đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm (…). Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn trong 10 ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện (…) Thành xong, gọi tên là kinh thành. Thưởng cho quân dân hơn 7000 quan tiền (Tám cửa đều xây bằng đá ong…)” (Thực lục, I, t. 257)
Tháng 12 ÂL (tháng 1/1791), Thực lục lại ghi: “Sửa đắp thành đất Gia Định. Đường quan ở bốn bôn thành có mở cửa vào nhà dân th́ phát tiền công cấp cho” (Thực lục, I, t. 268).
Qua những lời ngắn gọn này, ta vẫn các sử gia triều Nguyễn chú ư vào việc “đắp thành đất”, và luôn luôn dùng chữ “đắp” chứ không dùng chữ “xây”, ở đây chỉ có một câu “giữa là cung điện”; Trịnh Hoài Đức cũng viết: “Trong thành, phiá trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại” (chỗ vua ở); lại càng cho phép ta chắc chắn rằng: vua Gia Long dùng thành phiên trấn cũ làm cung điện, trùng tu lại, xây thêm Thái miếu, và mở rộng diện tích, đào hào sâu và đắp thành đất bao quanh.
Xin nhắc lại một lần nữa: thành ngoài Gia Định là một thành đất, đắp kiểu bát quái, 10 ngày xong. Thành đất trộn rơm; sự bền vững không kém ǵ thành đá của Tây phương. Và bề dầy của thành đă khiến John White, một lính Mỹ đến đây năm 1819, phải giật ḿnh.
Thành đất th́ người Tây phương không biết đắp; lại càng không phải là sản phẩm của một anh lính binh nh́ Puymanel vừa đến nước Việt, hay đồ thị của một binh nhất Le Brun, lúc đó c̣n ở Macao hay đă đến Nam Hà? Hệ thống thành đất, Trần Quang Diệu đă đắp rất nhanh khi đánh các trận Diên Khánh và Quy Nhơn. Và Nguyễn Tri Phương với các đại đồn Liên Tŕ và Kỳ Hoà đă làm cho quân Pháp khốn đốn.
Nguyễn Đ́nh Đầu tóm tắt: “Thành Bát Quái có 3 lớp bảo vệ:
1- Lớp trong cùng xây bằng đá Biên Hoà cao 13 thước, chân tường dầy 7 trượng 5 thước.
2- Lớp giữa là hào rộng 15 trượng 5 thước, sâu 14 thước.
3- Lớp ngoài là “luỹ bằng đất” với chu vi 794 trượng”. (Nguyễn Đ́nh Đầu, bđd, t. 178).
Tóm lại, vua thấy thành Tân Khai chật hẹp th́ mở rộng ra, vậy ta có thể gần như chắc chắn rằng vua vẫn giữ thành Tân Khai ở giữa, cho sửa sang làm cung điện, và xây thêm các lớp ṿng thành bao quanh, thành ba lớp như Nguyễn Đ́nh Đầu tóm tắt ở trên (xin lưu ư: Lớp thành đá ong bên trong là Lê Văn Duyệt xây năm 1829, c̣n theo Thục lục, lúc đầu chỉ có tám cửa bằng đá ong) phù hợp với lời Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành thông chí và sự mô tả cung điện của thủy thủ Nhật Shihơken Seishi khi đến đây năm 1794-1795.
Việc đắp thành trong 10 ngày, chỉ vào việc đắp thành đất ngoài cùng, c̣n các sự sửa sang cung điện và các dăy nhà bên trong thành, có lẽ cần nhiều thời gian hơn. Sự sai lệch ngày xây thành, giữa Gia Định Thành thông chí và Thực lục có thể đến từ đó: Trịnh Hoài Đức coi ngày bắt đầu là ngày đầu tiên sửa sang cung điện, nhà cửa bên trong thành, c̣n Thực lục lấy ngày bắt đầu là ngày đắp thành đất ngoài cùng.
Thành Gia Định dưới con mắt của Trịnh Hoài Đức và Shihơken Seishi
Trịnh Hoài Đức viết:
“Ngày 4/2/ Canh Tuất [tức 19/3/1790] tại chỗ g̣ cao thôn Tân Khai thuộc đất B́nh Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như h́nh hoa sen, mở ra tám cửa, có 8 con đường ngang dọc; từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta [524,80m] từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta [5,20m] chân dày 7 trượng 5 thước ta [30m] đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng Tốn.
Trong thành, phiá trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục Chế tạo, xung quanh là các dăy nhà cho quân túc vệ ở. Trước sân dựng cây cột cờ ba tầng, cao 12 trượng năm thước ta [50m] trên có làm cḥi canh vọng đẩu bát giác toà, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên ấy có quân ngồi canh giữ, có điều ǵ cần cảnh báo th́ ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu canh gác, các quân cứ trông theo hiệu đó để tuần theo sự điều động. Hào rộng 10 trượng năm thước [42m], sâu 14 thước ta [5,6m] có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp lũy đất, chu vi 794 trượng [3,176km] vừa hiểm trở, vừa kiên cố tráng lệ. Ngoài thành đường sá phố chợ ngang dọc được xếp rất thứ tự, bên trái là đường cái quan từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hoà Mỹ đến sông B́nh Đồng tới trấn Biên Hoà; đường cái quan bên phải gặp chỗ nào cong th́ giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài G̣n đến cầu B́nh An qua g̣ chùa Tuyên đến sông Thuận An.
Bến đ̣ Thủ Đoàn đưa qua sông Hưng Hoà, trải qua g̣ Trấn Định rồi đến g̣ Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lư phiá Nam (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, Thành tŕ chí).
Shihơken Seishi viết:
“… Chẳng bao lâu đă đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi xuống kiệu đi bộ, tới ṿng thành thứ nh́, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám cận thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu h́nh bán nguyệt (cái đó gọi là dahaimot, người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng tôi đă đi và ghẹo khoảng gần 3 chơ [330m] trong khi đất cao lên độ 1 chơ [109m10]. Ở cửa vào ṿng thành thứ nh́, có một đài thám thính cao 40 ken [72m80] Một viên quan vơ thường lên quan sát về phiá biển, đó là bộ phận pḥng vệ. Các quan thay phiên nhau trực mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái nhà vuông. Đó là pḥng bào chế y dược, trong có nhiều người đang cắt, giă thuốc nam (…).
Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng xa. Nền lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần một chơ [109 m10]. Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng hoặc bạc. Kỳ quan này đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc tượng với những h́nh khắc màu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của các quan trấn thủ ở các miền.(…) Hành lang này dài độ 50 ken [91m]. Đất lại cao lên nữa. Ba ken [5m46] trước cửa cung, có 14 ông quan”. (Trích dịch tác phẩm Nampyơki [Đắm tàu ở Nam Hải] của Shihơken Seishi, do bà Muramatsu Gaspardone dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu và chú giải, in trong Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFEO), 1933, t. 60-62).
Những điều Shihơken Seishi mô tả đều có thể thấy trong bản đồ trang 184, trong cuốn Điạ chí văn hoá TPHCM, do Nguyễn Đ́nh Đầu sưu tập và vẽ lại (mà chúng tôi xin phép tác giả được đính kèm với bài viết này); và trong lời Trịnh Hoài Đức: từ việc cung điện nằm trên g̣ cao, đến đài thám thính, viện y dược, các lỗ châu mai trên tường thành, v.v.
Xin lưu ư: Cả Trịnh Hoài Đức lẫn Shihơken Seishi đều không hề nói là thành xây dở dang, điều mà người ta đồn đại để phụ họa cho giả thuyết có “một bản đồ lớn” gồm 40 đại lộ của Le Brun vẽ, chưa thực hiện mà chúng tôi đă nói trong chương trước.
Bản đồ Thành Bát Quái
clip_image004
Thành Gia Định dưới mắt John White
John White là một người lính thủy Mỹ, đến Nam Hà trong khoảng 1819-1820, tác giả cuốn sách Chuyến đi Nam Hà (bản tiếng Pháp: Voyage en Cochinchine), in lần đầu năm 1823, ở Boston. Cuốn sách của John White được dịch và in toàn bộ trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH, 1937, II), có thể coi là một loại Kư sự Bissachère được phổ biến trong tập san này.
John White chê bai Việt Nam tột bực, đại để: nước này chẳng có ǵ đáng chú ư, không sản xuất ra ǵ cả, dân chúng mọi rợ, bất lương, nhà cầm quyền tồi tệ, y viết: “Nhà vua [vua Gia Long] là bạo chuá, hiếu chiến, bo bo giữ quyền, hà tiện và gian tham, nắm một quyền lực vô hạn. Hậu quả tự nhiên: quư tộc bán ḿnh, phản trắc, chuyên quyền, hung bạo và dân chúng ngu muội, dâm dăng, không có một chút ngay thật và yêu thích làm việc ǵ cả” (BAVH, 1937, II, t. 258)
P. Midan, dịch giả, trong bài tựa, cho rằng: sau khi cuốn sách này in ra, không có một tàu Mỹ nào ghé bến Sài G̣n từ 1820 đến 1860; từ những điều “man rợ” của John White trong cuốn sách này, Midan khai thác để “chứng minh” công lao “khai hoá” của Bá Đa Lộc, như sau:
“Chuyến đi của John White đă xẩy ra trong khoảng 1819-1820, một thời gian sau cái chết của Đức Giám Mục Adran [Bá Đa Lộc mất năm 1799]. John White nhấn mạnh đến t́nh trạng dă man mà nước này rơi vào sau cái chết của vị sáng tạo hoà b́nh nổi tiếng ở Nam Hà. Tất cả những cơ chế mà ngài lập ra đă biến mất. Sự thịnh vượng mà ngài phát sinh chỉ c̣n là kỷ niệm. Nhân chứng này lại càng có giá trị bởi nó đến từ một người ngoại quốc. Tác giả tuyên bố rằng cái chết của Đức Giám Mục là một thảm họa cho xứ này và sự kiện này chưa bao giờ được thẩm định bằng những lời lẽ xác đáng đến thế.
Ngoài ra, John White c̣n làm sống lại một thành phố đă mất: Sài G̣n (chương 14). Thành đài cổ kính do Đại tá Pháp Olivier xây không c̣n nữa; nó đă bị nhà vua phá huỷ sau cuộc nổi loạn của Khôi năm 1835. John White đă mô tả chi tiết mà ta không thể t́m thấy bất cứ ở đâu (…) Sự phục sinh thành đài bất hủ này có một lợi ích chủ yếu về phương diện lịch sử” (P. Midan, Avant- Propos, BAVH, 1937, II, t. 94-95).
Chúng ta không cần để ư đến sự phổ biến và lợi dụng những sách tồi tệ như thế về Việt Nam của những tác giả thực dân, v́ đây không phải là lần đầu; chỉ chú ư đoạn đến đoạn John White viết về thành Gia Định năm 1819, ở chương XIV:
“Chúng tôi lên bờ, đúng vào chỗ có một loạt hàng tạp hoá lớn hay là chợ, có nhiều hoa quả và đồ ăn, do những người đàn bà bầy bán vô trật tự [chắc là chợ Bến Thành] (…)
Khó nhọc lắm chúng tôi mới tiến bước được, dọc theo con phố treo đủ loại đồ bẩn thỉu dơ dáy, dưới ánh nắng gay gắt, bị hàng ngàn con chó ghẻ bao vây mà những tiếng sủa của chúng làm cho chúng tôi đờ người cộng thêm những tiếng la lối om x̣m của bọn bản xứ ngạc nhiên, hiếu kỳ, sờ mó quần áo, vỗ má và nắn tay, khiến chúng tôi phải lấy gậy đập để đuổi” (BAVH, 1937, II, t. 232). Vài hàng này đủ cho ta thấy “tinh thần” của tác giả.
Nhưng đáng chú hơn, là những ḍng viết về thành Gia Định:
“Chúng tôi đến một con đường dài khoảng một phần tư mille [1mille=1609m] ngoằn ngèo giữa hai bức tường gạch và hơi lên dốc đầy cây lá. Bọn mất dạy (canaille) bản xứ, đi hai chân hay ḅ lê ḅ càng [chắc y muốn nói đến người ăn xin], đă bỏ rơi chúng tôi và chẳng bao lâu chúng tôi tới một cái cầu đẹp bằng đất và đá bắc ngang qua hào rộng và sâu, dẫn tới cửa Đông Nam của thành, hay, nói đúng hơn, thành tŕ quân sự, bởi v́ những bức tường của nó cao tới 20 pieds [6,09m] và dầy kinh khủng, bao ṿng nền đất trong thành h́nh tứ giác gần ba phần tư mille mỗi bề. Ông Tổng trấn và những quan chức nhà binh ngự ở đó. Có những trại lính đầy đủ tiện nghi cho năm mươi ngàn binh. Cung điện trổi lên giữa một thảm cỏ tráng lệ, trong một mảnh đất rộng tám acres [32400m2] được bao bọc bởi một hàng rào cao. Đó là một dinh thự h́nh chữ nhật dài lối 100 pieds [30,48m], rộng 60 pieds [18,28m], chủ yếu xây bằng gạch, với những hàng hiên được che kín bằng những bức mành chiếu. Toà nhà toạ lạc trên một thềm gạch cao 6 pieds [1,82m]có bậc thang gỗ nặng để đi lên.
Ở mỗi bên, cách khoảng 100 pieds [30,48m] mặt tiền, có một cái đài canh h́nh vuông cao độ khoảng 30 pieds [9,14m], có một cái chuông lớn. Đằng sau, cách cung vua độ 150 pieds [45,72m] có một dinh thự nữa cũng gần lớn như cung vua đó là nơi ở của các bà [phi] và các [nhân viên] trực thuộc khác.” (Bđd, BAVH, 1937, II, t. 232).
Là một người lính, việc đầu tiên đập vào mắt John White, là sự kiên cố của thành đất Gia Định. Điều đó càng làm cho chúng ta hiểu hơn: tại sao Thực lục chỉ ghi lại việc đắp và sửa thành đất Gia Định, mà không nhắc đến các việc khác, bởi đó là dấu ấn của Gia Long, và là sự thành công về kiến trúc thành tŕ theo lối phương Đông.
Thành Diên Khánh
Tháng 10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực lục ghi: “Ngự giá về Diên Khánh. Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và phát 3000 dân B́nh Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng th́ thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày nay. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất)”. (Thực lục I, t. 299). Mọi việc khá rơ ràng. Thành Diên Khánh đắp mùa hè năm 1793, một tháng đắp xong. Vắn tắt là như vậy.
Đại Nam nhất thống chí viết: “Thành Diên Khánh trước là thủ sở Nha Trang, năm Quư Sửu (1793) quân nhà vua tiến đánh Qui Nhơn, lúc trở về, xa giá dừng ở Diên Khánh, xem xét thế đất, sau nhân bảo [đồn] cũ Hoa Bông đắp thành bằng đất, thành mở 6 cửa, đều có nhà lầu, 4 góc thành có núi đất, ngoài thành đào hào, ngoài hào có trại; các cửa đều có cầu treo để qua hào, trước sau có núi sông bao bọc, thật là nơi thiên hiểm, nay bỏ bớt hai cửa. Pháo đài và núi đất vẫn c̣n.” (ĐNNTC, III, t. 93)
Theo hai sự mô tả này th́, thành Diên Khánh có cùng một lối kiến trúc với thành Gia Định, và không có ǵ là một thành phố theo lối Tây phương cả.
Thành Diên Khánh phải đắp một tháng mới xong, chứng tỏ có việc xây thành Diên Khánh, hoặc là khó khăn hơn, hoặc v́ phải xây thêm những toà nhà ở trong thành cho vua ở, v́ trước đó chưa có ǵ. Thành Diên Khánh cũng được sửa chữa nhiều đợt, mỗi khi Gia Long đến ở:
Tháng 8/1794 (tháng 7 ÂL): “Sửa đắp thành Diên Khánh, xong việc cho các quan ăn yến” (Thực lục, t. 310)
Tháng 9-10/1795 (tháng 8 ÂL.) Sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ. (Thực lục, I, t. 326)
Thành Diên Khánh, theo Lê Văn Định
Thành Diên Khánh được mô tả trong Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí của Lê Văn Định như sau:
“Thành này ở mặt trước xă Phú Mỹ, tổng Trung, huyện Phước Điền, thành cao hai tầm [tầm=2,125m; 2tầm=4m25], chu vi là 1.019 tầm, [2km165], chia làm 6 cửa: phiá nam một cửa, phiá tây 2 cửa, phiá đông một cửa và phiá bắc 2 cửa, trên cửa có lầu. Thành h́nh tứ giác, bên trong có núi đất. Ngoài thành có hào, ngoài hào có cửa trại, phiá trước có cầu treo bắc ngang trên hào.
Xét thêm về thành Diên Khánh: Thời trước đó là thủ sở Nha Trang. Năm Quư Sửu (1793) Vương sư đẩy lui quân Tây Sơn, thu phục dinh B́nh Hoà, ngự giá đến đây thấy vùng đất tốt nên mới lập ra đồn này. Sai Tiền quân B́nh Tây đại tướng quân Thành Quận Công (Nguyễn Văn Thành) cầm binh trấn giữ. Đến mùa đông năm ấy lại sai Đông Cung đổng lănh đại quân đến thay giữ trấn, lại cho đắp thêm thành bằng đất. “ (Lê Văn Định, Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí, Quyển 2, Phần viết về Đường trạm dinh B́nh Hoà, t. 52-53)
Tóm tắt những thông tin của Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Thực lục, Liệt truyện và Đại Nam nhất thống chí, ta có thể hiểu, thành Diên Khánh được xây và sửa làm ba đợt:
- Đợt đầu tiên vào mùa hè năm 1793, khi bỏ vây Qui Nhơn về, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Hội đắp thành đất Diên Khánh, ở đồn Hoa Bông cũ.
- Tháng 8/1794, Nguyễn Ánh lại sai sửa sang thành Diên Khánh và lần này có lẽ sửa to, v́ sau đó ăn mừng, cho các tướng sĩ ăn yến. Lần này được Lê Văn Định ghi lại cho đắp thêm thành bằng đất, tức là mở rộng thêm thành đất (hoặc làm kiên cố thành đất) đă xây năm trước, và có lẽ lần này đặt thêm đại bác trên tường thành cho nên sau đó quân Trần Quang Diệu không làm cách nào mà trèo vào thành được.
- Đến tháng 9-10/1795 (tháng 8 ÂL.) Sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ. Lần này vua không những sửa mà c̣n xây thêm “kho tàng”, tức là cấp cho Diên Khánh một địa vị hành chánh, điạ đầu, quan trọng thứ nh́ sau Gia Định.
Lê Quang Định tóm tắt các trận đánh khốc liệt ở Diên Khánh như sau:
“Đến tháng ba mùa xuân năm Giáp Dần (1794) tướng Tây Sơn là Điện tiền Huấn (Nguyễn Văn Huấn) và Tổng quản Diệu (Trần Quang Diệu) kéo quân thủy bộ vây thành ngoài hơn 20 ngày, không thể cầu viện được nên Hoàng thượng phải thân chinh, Huấn và Diệu thua bỏ chạy. Tháng tám đại binh khải hoàn, lại sai Hậu quân B́nh tây tham thừa Đại tướng quân Tánh Quốc Công (Vơ Tánh) đến thay thế. Tháng 11 nhuận, tướng Tây Sơn là Tổng quản Diệu, Nội hầu Tứ đem hết quân thủy bộ đến hăm ngoài thành, hàng ngày đánh vào thành làm cho tướng sĩ chết rất nhiều, tướng Tây Sơn cho đắp lũy cao, đào rạch sâu quanh cả bốn mặt thành. Không thể khắc phục được, Tánh Quận công tự đem quân ra đánh, bắt sống được tướng Tây Sơn là Đô đốc Định, quân giặc tan tác đầu hàng rất nhiều. Tuy nhiều gạo mà thiếu mắm, tướng sĩ trong thành ăn uống rất kham khổ nhưng vẫn một ḷng trung nghiă, người đều vui vẻ và cố gắng hết sức giữ thành. Tháng tư năm Ất Măo (1795) ngự giá thân chính thống suất quân thủy bộ đến cứu viện, quân giặc đại bại, Hoàng thượng tiên đoán chúng tất rút lui bèn chia quân đến chận đường rút của chúng, đến tháng bẩy quả nhiên tướng Tây Sơn là Diệu và Tứ bỏ ṿng vây tháo chạy, đại quân đuổi theo sau thu được rất nhiều voi ngựa và khí giới, tướng sĩ của Tây Sơn đầu hàng và chết vô kể. Nay thành ấy lập làm lỵ sở của dinh B́nh Hoà, ở đó có kho lương và nhà cửa quân dân nhưng hăy c̣n thưa thớt.” (Lê Văn Định, Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí, Quyển 2, Phần viết về Đường trạm dinh B́nh Hoà, t. 52-53).
Chúng ta nên chú ư đến đoạn cuối: Sở dĩ Trần Quang Diệu bỏ Diên Khánh v́ ở trong triều Phú Xuân có loạn, Quang Toản giết hại đ́nh thần, nên phải về, nếu không có biến cố ấy chưa chắc Trần Quang Diệu đă bỏ cuộc.
Nhưng câu cuối cùng mới thực là quan trọng, Lê Văn Định viết về Diên Khánh: ở đó có kho lương và nhà cửa quân dân nhưng hăy c̣n thưa thớt. Câu này xác định: Diên Khánh chỉ là thành tŕ quân sự, người dân không ở nhiều cho nên nhà cửa hăy c̣n thưa thớt, Diên Khánh không phải là một thành phố xây theo kiểu Tây phương, như các sử gia thuộc địa cố bám vào câu của linh mục Lavoué để nhận thành Diên Khánh là Pháp xây.
Kết luận
Dù tướng Tôn Thất Hội điều khiển mọi việc xây thành, nhưng chắc chắn Gia Long chủ tŕ tất cả, v́ thế mà những người muốn có độ chính xác trong sách như Trịnh Hoài Đức và các sử gia triều Nguyễn trong Thực lục, đă không đề rơ tên ai xây thành, họ không muốn ghi một điều không xác thực, v́ vậy mà người Pháp mới có cớ để nhận vơ các thành Gia Định và Diên Khánh do Puymanel xây khiến chúng ta phải khốn đốn trong việc xác định lại sự thực.
Để kết luận, chúng tôi xin nhấn mạnh mấy điểm sau đây:
1- Hầu như tất cả các thành đài của ta, xây trong thời kỳ này đều đắp bằng đất, theo sự mô tả các thành tŕ ở miền Nam của Trịnh Hoài Đức (xem Phụ Lục ở dưới) toàn thể đều đắp đất, theo lối kiến trúc bát giác, lục giác hoặc tứ giác, có lẽ Gia Long đă góp phần đổi mới, nhưng vẫn giữ thành đất kiểu Đông phương mà người Pháp không biết làm. V́ thế, Aubaret khi dịch Gia Định Thành thông chí đă bỏ hẳn chương quan trọng nhất là Thành tŕ chí, không dịch. Ngay cả đến kinh thành Huế, đắp sau Gia Định hơn 10 năm, Gia Long vẫn dùng nguyên tắc ấy:
“Kinh thành năm Gia Long thứ 4 đắp đất; năm thứ 17 xây gạch mặt trước và mặt hữu, năm Minh Mệnh thứ 3, xây gạch mặt sau và mặt tả” (Đại Nam nhất thống chí, I, Kinh sư, t. 18).
Về thành Huế th́ Thực lục viết rơ hơn: “Vua thân định cách thức xây thành” (Thực lục, I, t. 552).
2- Gia Long trực tiếp cai quản mọi việc, đắp luỹ cũng làm với tướng sĩ, những nhân chứng đều đồng quy về việc này:
- Sử Kư Đại Nam Việt: “vua chẳng nghỉ yên bao giờ: khi th́ đốc suất các thợ, khi th́ đi biên các kho, hoặc coi tập binh hay là đắp lũy”. (Sử kư Đại Nam Việt, t. 57)
- Thực lục: “duy có việc sửa đắp đồn luỹ th́ cùng làm với các tướng sĩ” (Thực lục, I, t. 233).
- Barrow:”chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tàu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có ǵ thực hiện không có ǵ chấp hành mà không hỏi ư kiến và nhận lệnh của ông”. (Barrow II, t. 224-238)
3- Gia Long tham khảo những sách phương Tây:
Sử Kư Đại Nam Việt: “vua chẳng biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiă mọi đều. Nhứt là các tờ đă vẽ h́nh tượng các khí giái và những cách đắp lũy xây thành, đóng tàu… Vả lại nhiều sách và địa đồ đă mua bên Tây, th́ người chăm học mà hiểu hầu hết” (Sử kư Đại Nam Việt, t. 57-58).
Le Labousse, thư ngày 14/4/1800: “Trong cung của ông có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp v́ ông không đọc được”. (Arch. Miss. Étrang. vol.746, p. 869. Recueil de l’Evêché de Saigon, t. 131-135, Taboulet I, t. 268)
Để kết thúc chương này, chúng tôi có thể xác định chắc chắn rằng: Gia Long là tác giả các thành Gia Định và Diên Khánh, cũng như kinh thành Huế sau này. Dưới quyền ông có Tôn Thất Hội, Trần Văn Học và Vũ Viết Bảo. Nếu Puymanel có đóng góp th́ cũng ở chừng mức khiêm nhường của một lính thuỷ pháo binh, vừa mới được vua tuyển dụng.
Gia Long khi đắp thành Gia Định đă thu thập được ǵ trong kiến trúc Tây phương qua những sách ông xem được? Lúc đó ông không chỉ quen người Pháp mà ông c̣n rất thân với người Bồ Đào Nha nữa, vậy nếu ông có học thêm kiến trúc thành lũy Tây phương để áp dụng vào việc đắp thành Gia Định và Diên Khánh th́ ta nên hiểu theo nghiă rộng, tức là Âu châu, chứ không riêng ǵ kiến trúc Pháp.
Đến đây có lẽ độc giả sẽ hỏi: Tại sao chúng ta phải khổ công t́m kiếm lại ai là tác giả thành Gia Định, một thành tŕ đă bị tàn phá 2, 3 lần, nay không c̣n dấu vết?
Xin trả lời: Ngoài vấn đề cốt lơi phải t́m lại sự thực lịch sử đă bị chôn vùi; c̣n có vấn đề tự hào dân tộc. Chúng ta đă mất nước về tay Pháp, đó là phần ta phải chịu trách nhiệm, nhưng ta không thể để cho dĩ văng lịch sử của dân tộc bị cướp trắng, mà không có một lời phản bác, không có một sự nghiên cứu lại, để chứng tỏ những ǵ các sử gia thuộc địa đưa ra không thể chấp nhận là sự thực lịch sử.
Thụy Khuê
(C̣n tiếp)
Kỳ tới: Chương 14: Sử gia Maybon
Phụ Lục: Trích đoạn Gia Định Thành thông chí
Thành Bát quái Ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh và Tốn Thuận có dựng trại quân mái lợp ngói tô đỏ rất đẹp đẽ nghiêm túc; lại c̣n sửa soạn vách thành và vọng lâu ở 4 của Càn, Ly, Chấn, Tốn; cầu treo gỗ ván ở 4 cửa lâu ngày hư hỏng, nay cũng xây lại cầu vồng bằng đá tổ ong bắc qua hào, cầu vừa rộng bền chắc, dưới có chừa khoảng trống cho nước chảy, trước lũy có cửa Ly Minh có dựng đ́nh Thân Minh để làm chỗ niêm yết trên bảng những chiếu, cáo, dụ, chỉ.
Cục Chế tạo ở trong thành sau đường Cấn Chỉ và Đoài Duyệt, có ba dăy nhà ngói đối diện ở trước hai đường ấy. Phiá trái là một dăy trại ngói là nơi làm việc của thợ rèn, buổi đầu Trung hưng chợ chế tạo đủ ngành tập họp ở đây đồng thời làm chỗ chứa thổ sản hàng hoá…
Kho tiền bạc ở phiá phải đường Càn Nguyên và Khảm Hiểm trong thành, lúc đầu lập nội khố chứa đồ quư như vàng, bạc, tơ đoạn, vải lụa, sau bỏ nội khố đổi làm kho Kiên Tín, kho này ở thành gồm 5 gian nhà ngói, thâu các loại thuế và là nơi 5 trấn hội nạp tiền bạc, có đội quân Kiên Tín canh giữ ở đấy.
Kho đồn điền ở bên trái đường Càn Khảm trong thành, nguyên thuộc kho chứa dựa. Năm thứ 5 niên hiệu Gia Long, xây hai dăy ngói, mỗi dăy mười gian thâu chứa lúa thóc đồn điền chứa đầy các gian, số c̣n lại đem chứa ở kho của năm trấn, có đội quân An Hoà canh giữ.
Trại súng nằm về phiá trước bên trái Cục Chế tạo trong thành, có 15 gian lợp ngói, trên làm gác ván dùng đặt đồ phụ tùng của súng, trong trại đặt các loại súng lớn bằng đồng, bằng sắt, và súng hoả xa trụ, tất cả đều có cỗ xe vẽ màu đỏ đen, mỗi năm trang sức tốt đẹp thân súng, phải lau dầu một lần cho khỏi rỉ.
Kho thuốc súng là dăy nhà 12 gian lợp ngói xây gạch ở mặt sau nội thành, thuốc súng đựng trong thùng gỗ để trên sàn gác, cấm tuyệt lửa đuốc, người không phận sự không được ra vào nơi đây.
Xưởng thuyền chiến ở về phiá đông thành độ một dặm dọc theo bờ sông Tân B́nh quanh qua sông B́nh Trị, gác và che thuyền hải đạo (là đồ nghề bén nhọn của thuỷ chiến nước Nam), chiến hạm (cách thức như tàu buôn nhưng nhỏ, tục gọi là thuyền), ghe sơn đen, ghe sơn đỏ (thuyền đều gọi là ghe. Ghe chiến cụ, thân lớn và dài, dày và bền, đặt nhiều mái chèo, ngoài sơn dầu đen gọi là ghe đen, sơn đỏ gọi là ghe đỏ) và ghe lê (tức là ghe thuyền được chạm trổ vẽ vời từ đầu đến đuôi) đều là dụng cụ thuỷ chiến (thuyền thật lớn là tàu, trong Nam gọi thuyền lớn là ghe, thuyền nhỏ là xuồng).
Xưởng dài đến 3 dặm [1,620km].
Xưởng voi ở phiá ngoài lũy đất cửa Khảm Hiểm, đó là chỗ thường trú, có khi chọn để trong thành, có khi phát tán theo nguồn cỏ nước ở Biên Hoà, tuỳ lúc không nhất định…
Nơi chế thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh [Khôn Hậu trên bản đồ?] cách chừng hai dặm, rộng một dặm, bốn phiá trồng cây có gai, trong dùng đủ dụng cụ chày cối; khi chế tạo th́ hết sức cẩn thận đèn lửa, ngăn không cho người ngoài được ra vào lộn xộn.
Khám đường và nhà giam ở ngoài chân lũy đất cửa Khôn Trinh (…) trồng cây rào có gai bao quanh bốn phiá, đào hào, trồng cây tật lê, pḥng thủ nghiêm mật.
Sứ quán ở phiá phải trước cửa Ly Minh, cách thành chừng một dặm, trước sau có 2 toà nhà ngói mỗi toà 5 gian, có đội lính lệ gồm 20 người; phiá trước bên phải làm phụ thêm nhà Hải quan để trưng thu thuế khoá thuyền buôn các nước tới.
Học đường, năm Gia Long thứ tư (1805) vua sai đặt một viên chính Đốc học và hai viên nhất nh́ phó Đốc học. Khi đầu dựng học đường ở phiá phải luỹ đất ngoài thành, năm thứ 12 (1813) cho làm lên trên nền cũ đồn dinh ở chợ Điều Khiển.
Kho của bốn trấn ở tại nền cũ kho Gian thảo (Cầu Kho), cách phiá nam thành 4 dặm rưỡi…
Trường Diễn vơ ở cách phiá tây nam thành 10 dặm [5,4km], nơi đây đất bằng phẳng rộng răi độ 50 dặm [25km] thường tháng giêng chọn ngày tốt làm lễ tế mă (tế thần), tế cờ kỳ đạo (lễ tế cờ trước khi xuất chinh) và thao diễn trận pháp đều cử hành tại đây.
Các thành tŕ khác
Đồn Giác Ngư (Cá trê) ở bờ bắc sông Tân B́nh thuộc điạ giới trấn Biên Hoà, cách thành 7 dặm [3,7km]. Đồn này được khởi công vào ngày 2/4/Kỷ Dậu (1789), buổi đầu Trung hưng, chung quanh trồng cây mù u, đối diện bờ bên kia có đồn Thảo Câu để làm thế nương dựa nhau.
Đồn Thảo Câu Ở bờ nam sông Tân B́nh, cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An, năm tháng khởi công và thể thức cũng giống như đồn Giác Ngư.
Luỹ Bán Bích do đốc chiến Nguyễn Đàm xây đắp, h́nh giống mặt trăng xếp, chỉ nửa vách luỹ thôi. Đồn ở địa giới hai huyện B́nh Dương và Tân Long, nay nền cũ vẫn c̣n (xem rơ hơn ở phần Cương vực chí).
Luỹ Hoa Phong ở huyện B́nh Dương, cách về phía tây của trấn 62 dặm rưỡi [33,75km]. Năm Canh Th́n đời Hiển Tông thứ 10 (1700) (10), Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Lễ b́nh định Cao Miên rồi về đắp nên, nay nền cũ vẫn c̣n.
Đồn Tân Châu Tân Châu là địa đầu trọng yếu kiêm quản cả 3 đạo Tân Châu, Chiến Sai và Hùng (Hồng) Ngự. Đạo chính thức ngày trước thuộc về thành lớn Gia Định đặt ở giữa sông Doanh Châu (…) Năm Gia Long thứ 17 (1818) (…) Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân đắp đồn vuông Tân Châu, mỗi mặt dài 15 trượng [60m], cao 6 thước 5 tấc ta [2,5m], chân dày 15 thước ta [6m] đầu thu hẹp 4 thước [1,6m] có hai cấp; chỗ ngay giữa của 4 mặt đồn đều đắp nhọn ra thành h́nh bát giác, phiá trái và phải gần trước góc nhọn ấy đều có cửa làm chỗ cho biền binh pḥng trú. Quy cách đồn Chiến Sai cũng phỏng theo đồn này, chỉ đồng Hồng Ngự hơi kém hơn, chỉ để làm nơi tuần tra chưa xây thành đồn luỹ…
Chợ Bến Thành Phố, chợ, nhà cửa rất trù mật, họp chợ dọc ven sông. Ở đầu bến, theo lệ tháng đầu xuân gặp nhằm ngày tế mă, có thao diễn thuỷ binh. Bến này có đ̣ ngang đón chở khách buôn tàu biển lên bờ. Đầu phiá bắc là ng̣i Sa Ngư, có bắc cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có phố bằng ngói, tụ tập hàng trăm thức hàng hoá, dọc bến sông thuyền buôn lớn nhỏ đậu nối liền nhau…
Luỹ Tân Hoa Ở thôn Tân Hoa, tổng Chánh Mỹ [Biên Hoà]. Năm Tân Măo (1771), trấn Hà Tiên thất thủ, quan đốc chiến Nguyễn Đàm đắp lũy để pḥng ngự đường tiến của sơn man Thuỷ Vọt, nền cũ nay vẫn c̣n.
Đồn Mỹ Tho Ở phiá nam trấn chừng một dặm, trước kia đây là rừng hoang, là hang ổ của hùm beo. Năm Nhâm Tư (1792) thời Trung hưng mới đắp đồn vuông [do Trần Văn Học vẽ], chu vi 998 tầm [2,455km] có mở 2 cái cửa bên phải và trái, ở cửa có cầu treo bắc ngang, hào rộng 8 tầm [19,68m], sâu 1 tầm [2,46m], bốn mùa đều nước ngọt, có nhiều cá tôm, dưới cầu có ḍng nhỏ để thông với sông lớn Mỹ Tho, ngoài hào có đắp lũy đất có cạnh góc lồi lơm như h́nh hoa mai, mặt trước chân luỹ ra 30 tầm [73,80m] đến sông Lớn. Trong đồn có kho gạo, kho thuốc súng, trại quân và súng lớn, tích trữ đầy đủ nghiêm túc. Mặt sông rộng lớn, năm Giáp Dần (1794) trên đồn đạt súng lớn, có bắn thử qua bờ sông bên kia, cách xa 10 dặm [5,4km] mà cây cành trong rừng đều bị trốc gẫy, ấy là do đường đạn đi mạnh thế…
Trấn Vĩnh Thanh Vào tháng 2 năm Quư Dậu, niên hiệu Gia Long 12 (1813), khâm mạng, Trấn thủ Lưu Phước Tường, đắp thành đất. Lưng hướng Kiền (hướng tây bắc), mặt hướng Tốn (hướng đông nam), từ phiá nam qua phiá bắc cách 200 tầm [492m], từ đông qua tây cũng vậy, chỗ giữa của bốn mặt thành lơm vào, phiá ngoài có thành cong bao ṿng chỗ cửa h́nh như đầu cái khuê (một dụng cụ để đong ngày xưa, cũng có nghiă là ngọc khuê, chưa rơ tác giả muốn ví với cái nào), bốn góc thành có sừng nhọn như h́nh kim quy, hay như h́nh hoa mai. Trong thành có hai con đường dọc, 3 con đường ngang, trước dựng hành cung, ở giữa là 3 công thự, sau có kho chứa, trại quân và nhà thừa ty đều ở hai bên phải và trái. Hào rộng 10 tầm [24,6m], phiá trái thành là sông Long Hồ, phiá phải là Ngư Câu (Rạch Cá), mặt sau là ḍng sông lớn Tiền Giang, mặt trước thành có đào ng̣i cừ sâu, dài 425 tầm [1,045km], bề ngang 40 tầm [88,40m] thông với sông Long Hồ và Ngư Câu để làm hào ngoài thành. Góc thành phiá Đông có đường cái quan dọc theo sông, phiá trái là sứ quán, phiá phải là chợ Vĩnh Thành, ng̣i chẩy ngang đầu đường cái quan, bắc cầu dài, đi ngang lỵ sở cũ, qua cầu sông lớn Long Hồ. Ở ngoài bờ ng̣i góc phiá nam là xưởng thuỷ quân, bên ngoài có đồn nhọn góc ba mặt bao theo, góc phiá tây nam ng̣i có bắc cầu thông qua, mặt sau giáp sông, có nhà cửa tiệm quán, thật là nơi trọng yếu bề thế đẹp đẽ.
Đồn Châu Đốc Ở phiá đông sông Vĩnh Tế thuộc Hậu Giang, cách trấn về phiá tây 326 tầm [799,96m]. Niên hiệu Gia Long 14 (1815), Trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường phụng sắc điều quân dân trong trấn hạt gồm 3000 người, mỗi tháng cấp cho mỗi người 2 quan tiền và một vuông rưỡi gạo. Ngày 2/1/1816 (4/12 ÂL) khởi công đắp đồn h́nh lục giác, từ trước đến sau 324 tầm [797,04m] từ trái qua phải 164 tầm [403,44m], hai bên phải trái đều có hai cửa, mặt sau một cửa, bề cao 7 thước ta [2,5m], chân dầy 6 tầm [14,76m], ngọn túm bớt 5 thước ta [2m], có hai bậc, lưng tựa hướng Kiền, mặt hướng Tốn, phiá phải giáp sông lớn, 3 phiá trước sau và trái có hào rộng 20 tầm [49,20m], sâu 11 thước ta [4,4m], thông với sông cái. Trong đồn có pḥng lính ở, kho chứa, súng lớn và quân khí đầy đủ, lấy quân trong 4 trấn và đồn Oai Viễn mỗi phiên 500 người đến đóng giữ, nằm ngang đối diện có đồn Tân Châu ở Tiền Giang cách về phía đông 32 dặm rưỡi [17,55km], phiá tây cách trấn Hà Tiên hơn 203 dặm [109,620km], phiá bắc cách thành Nam Vang 244 dặm rưỡi [131,03km] thật là một nơi biên pḥng trọng yếu vậy.
Đồn Châu Giang Trước là thủ sở Châu Đốc, ở đầu mơm cồn là vùng đất bị nước vỗ chụp, thường bị nước lụt xoáy mạnh sụt lở, mà lại sóng gió ́ ầm, thương thuyền đến dừng nghỉ không tiện. Mùa xuân niên hiệu Gia Long thứ 17 (1818), vua ban chỉ cho Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân xem xét địa điểm, dời lên vùng thượng lưu cách chỗ cũ một dặm, đắp đồn vuôn, tựa hướng Quư (hướng bắc) mặt trông đến hướng Đinh (hướng nam) mỗi mặt 30 tầm [73,80m], cao 6 thước 5 tấc ta [2,6m] chân dày 3 tầm[7,38m], ngọn túm bớt 4 thước ta [1,6m], chỗ chính giữa mặt đồn đều đắp nhọn ra như h́nh bát giác. Mặt phải mặt trái chỗ gần góc mặt tiền đều mở một cửa, hào rộng 3 tầm [7,38m], có luỹ dày 4 tầm [9,84m], mặt trước bên phải cách sông 35 tầm [86,10m], đổi tên là đồn Châu Giang, làm chỗ đóng quân để pḥng thủ.
Trấn Hà Tiên Trấn thự Hà Tiên, nằm hướng Kiền (tây bắc) trông ra hướng Tốn (đông nam) lấy núi B́nh Sơn làm gối, Tô Châu làm tiền án, biển cả Minh Hải làm hào phiá nam, Đông Hồ làm hào phiá trước, ba mặt có luỹ đất từ Dương Chử đến cửa hữu dài 112 trượng rưỡi [450m], từ cửa hữu đến cửa tả dài 153 trượng [612m], từ cửa tả đến xưởng Thuyền ra Đông Hồ 308 trượng rưỡi [1,234km] các luỹ này đều cao 4 thước ta [1,6m], dày 7 thước ta [2,8m], hào rộng 10 thước ta [4m]. Ở giữa làm công thự, vọng cung lại ở trước công thự, hai bên đặt dăy trại quân, trước sân có cầu Bến Đá, phiá trái có sứ quán, phiá phải có công khố. Dinh Hiệp trấn ở chân núi Ngũ Hổ, ngoài vọng cung về phiá trái có chợ trấn, phiá trái công thự có đền Quan Thánh, sau thự có chùa Tam Bảo. Bên trái chùa có đền thờ Mạc công. Chợ trấn trông về đông là bến hồ, ở đó có trại cá, phiá bắc công khố là miếu Hội Đồng, phiá bắc miếu có xưởng sửa thuyền, chia thành khu ngang dọc, lấy đường lớn làm ranh; phiá tả miếu Quan Thánh là phố Điếu Kiều, đầu bến có bắc cầu ván thông ra biển tiếp với ḥn Đại Kim, phiá đông phố Điếu Kiều là phố chợ cũ, qua phiá đông chợ này là phố chợ Tổ Sư, kế nữa là phố lớn, tất cả đều do Mạc Tông gầy dựng từ trước. Đường sá giao nhau, phố xá nối liền, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh sống, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây như mắc cửa, thật là nơi đại đô hội ở dọi biển vậy.
(Trích Gia Định Thành thông chí, Thành tŕ chí, bản dịch của Lư Việt Dũng, điện tử)
Thụy Khuê
Nguồn: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/khao-st-cng-trang-cua-nhung-nguoi-php-gip-vua-gia-long-15/
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.