֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Nov/2018. Dec/2018.
NHÂN VẬT LỊCH SỬ
NGÔ Đ̀NH DIỆM
Chuyên mục: Nhân Vật Lịch Sử
Mục Lục [Thu / Mở]
Thời niên thiếu
Làm quan triều Nguyễn
Hoạt động chính trị chống Pháp
Trong Chiến tranh Đông Dương
Bị Việt Minh bắt
Hoạt động chính trị
Vận động chính trị tại Mỹ
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam
Trở thành Thủ tướng
Được Mỹ ủng hộ
Xung đột với Pháp
Xung đột với Quốc trưởng Bảo Đại
Âm mưu thay thế Ngô Đ́nh Diệm của Mỹ
Từ chối tổng tuyển cử
Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa
Trở thành Tổng thống
Cải cách điền địa
Thi hành chính sách chống Cộng
Chính sách kinh tế - văn hóa - xă hội
Kinh tế
Giáo dục
Đàn áp một số lực lượng đối lập
Chính sách tôn giáo
Mỹ đưa quân vào Việt Nam
Can thiệp vào nội bộ Campuchia và Lào
Các lần bị ám sát
Bị đảo chính lần thứ nhất
Khủng hoảng Phật giáo
Bị đảo chính lần thứ hai
Ám sát và mai táng
Câu nói
Đánh giá
Tại Việt Nam
Từ bên ngoài
Xem thêm
Nguồn tham khảo
Thư mục
Tiếng Việt
Tiếng Anh
FacebookTwitterTumblrZingMeThêm...
Ngô Đ́nh Diệm
Ngo Dinh Diem - Thumbnail - ARC 542189.png
Chức vụ
Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng ḥa
Nhiệm kỳ 26 tháng 10 năm 1955 – 2 tháng 11 năm 1963
8 năm, 7 ngày
Tiền nhiệm Không có
Kế nhiệm Nguyễn Văn Thiệu
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh 3 tháng 1, 1901
Quảng B́nh, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất 2 tháng 11, 1963 (62 tuổi)
Sài G̣n, Việt Nam Cộng ḥa
Ngô Đ́nh Diệm (3 tháng 1 năm 1901 – 2 tháng 11 năm 1963) là nhà chính trị Việt Nam. Ông từng làm quan nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng ḥa (Đệ Nhất Cộng ḥa Việt Nam) sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại.
Ngô Đ́nh Diệm là một nhân vật quan trọng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Một số sử gia coi ông chỉ là công cụ chính trị trong tay người Mỹ, trong khi đó một số sử gia khác coi ông là nhà chính trị mang nặng truyền thống phong kiến Việt Nam. Một số nghiên cứu gần đây cho rằng Ngô Đ́nh Diệm là người tự cho ḿnh đang gánh vác một "Thiên mệnh" (Mandate of Heaven) và ông có kế hoạch riêng về nền chính trị tại miền Nam Việt Nam.1 2
Là một lănh đạo theo Công giáo La Mă, ông bị những người theo Phật giáo phản đối v́ chính sách thiên vị Công giáo. Tháng 11 năm 1963, sau một loạt các vụ biểu t́nh bất bạo động để phản đối của Phật giáo gây ra những bất ổn nghiêm trọng, Ngô Đ́nh Diệm cùng em trai của ḿnh là Ngô Đ́nh Nhu bị giết trong một cuộc đảo chính năm 1963 do các tướng lĩnh dưới quyền thực hiện, với sự hỗ trợ của t́nh báo Hoa Kỳ3 .
Thời niên thiếu
Ngô Đ́nh Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng B́nh trong một gia đ́nh quan lại có truyền thống theo đạo Công giáo lâu đời ở Việt Nam. Vào thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đă cải đạo cho ḍng họ ông, nên tên thánh của ông là Gioan Baotixita (Joăo Batista).
Cha ông là Ngô Đ́nh Khả và mẹ ông là Phạm Thị Thân, quê quán ở làng Đại Phong xă Phong Thủy huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh. Ngô Đ́nh Khả từng làm vơ quan từ triều Đồng Khánh, theo Nguyễn Thân một người hợp tác với chính phủ Liên bang Đông Dương (thuộc Pháp) đàn áp các phong trào chống Pháp như nhóm Văn Thân của ngự sử Phan Đ́nh Phùng ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Khả từng làm tới Thượng thư triều đ́nh nhà Nguyễn kiêm Phụ đạo Đại thần và cũng là cố vấn của vua Thành Thái.
Ngô Đ́nh Diệm là người con thứ 4 trong gia đ́nh 9 anh chị em: anh đầu là Ngô Đ́nh Khôi (thứ nhất), chị Ngô Đ́nh Thị Giao (thứ 2), Ngô Đ́nh Thục (thứ 3), 5 người em là Ngô Đ́nh Thị Hiệp (thứ 5, mẹ của Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận), Ngô Đ́nh Thị Hoàng (thứ 6), Ngô Đ́nh Nhu (thứ 7), Ngô Đ́nh Cẩn (thứ 8), Ngô Đ́nh Luyện (thứ 9). Ngô Đ́nh Khôi làm Tổng đốc Quảng Nam, c̣n Ngô Đ́nh Thục một thời làm tổng Giám mục.
Lúc thiếu thời, cha Ngô Đ́nh Diệm tức Ngô Đ́nh Khả theo Nho học, sau đó ông vào chủng viện học chương tŕnh Pháp, rồi được gửi sang trường nhà ḍng ở Penang, Malaysia để làm tu sinh, nhưng sau đó ông bỏ và làm quan trong triều Nhà Nguyễn. Năm 1905 ông thăng chức Tổng quan Cấm Thánh.
Là người mộ đạo, Ngô Đ́nh Khả dẫn gia đ́nh ông đi lễ mỗi buổi sáng. Năm 1907, thấy chính quyền bảo hộ Pháp phế bỏ và đày vua Thành Thái sang Phi Châu, ông Ngô Đ́nh Khả xin từ quan về quê làm ruộng để tỏ sự bất măn. Có thuyết khác cho rằng, v́ ông Khả không chịu kư vào đơn yêu cầu Thành Thái thoái vị, nên bị chính quyền bảo hộ Pháp cách chức.4 Dù đă từ quan nhưng ông Ngô Đ́nh Khả vẫn đủ sức để chu cấp cho các con ông ăn học.
Lúc nhỏ, Ngô Đ́nh Diệm ngoài giúp cha làm ruộng c̣n cùng người anh Ngô Đ́nh Thục vào học ở trường ḍng Pellerin Huế. Cảm thấy cuộc sống ở trường ḍng quá khắt khe, ông đă bỏ trường ḍng.
Năm 1913, lúc 12 tuổi, Ngô Đ́nh Diệm thi vào trường Collège Quốc học, học chương tŕnh tổng hợp bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Trưởng giáo (tức hiệu trưởng) trường là Ngô Đ́nh Khả cha ông.
Theo Moyar, cá tính độc lập quá mức của Ngô Đ́nh Diệm không thích hợp với các khuôn phép trong nhà thờ. Ngoài ra, Ngô Đ́nh Diệm c̣n thừa hưởng từ cha tinh thần chống thực dân Pháp xâm lược.5
Từ lúc c̣n nhỏ, ông được quan đại thần Nguyễn Hữu Bài - bấy giờ là phụ chính trong triều dạy dỗ và coi như con đẻ do có mối quan hệ gần gũi, người anh của Ngô Đ́nh Diệm là Ngô Đ́nh Khôi lấy được con gái của Nguyễn Hữu Bài.
Tốt nghiệp trung học với thành tích học tập xuất sắc ở trường Collège Quốc học, Ngô Đ́nh Diệm được trao học bổng đi học ở Paris. Nhưng ông đă từ chối. Năm 1918, ông nhập học Trường Hậu bổ (trường Hành chính công và Luật) ở Hà Nội, một trường danh tiếng của Pháp đào tạo công chức người Việt.6 Trong lúc học ở trường Hậu bổ, Ngô Đ́nh Diệm yêu con gái của thầy dạy học và đây là mối t́nh duy nhất trong cuộc đời ông. Sau khi người con gái đó quyết định vào Nữ tu viện, Ngô Đ́nh Diệm sống độc thân suốt phần đời c̣n lại.7 Theo Nhân Hưng, mối t́nh đầu của Ngô Đ́nh Diệm là với tiểu thư Trang Đài, con gái út của quan Thượng thư họ Nguyễn ở An Cựu, Huế.8
Năm 1921, Ngô Đ́nh Diệm tốt nghiệp trường Hậu bổ.
Gia cảnh và giáo dục, đặc biệt là Công giáo và Nho giáo đă có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Đ́nh Diệm, cụ thể lên suy nghĩ của ông về chính trị, xă hội, và lịch sử. Theo Miller, Ngô Đ́nh Diệm "tỏ ra mộ đạo Thiên chúa giáo trong tất cả mọi việc, từ việc hành lễ thành kính cho đến thói quen trích dẫn Kinh thánh vào phát biểu của ḿnh". Ngô Đ́nh Diệm cũng quy định ngày sinh nhật Khổng Tử là ngày lễ quốc gia, và "thích khoe khoang kiến thức của ḿnh về văn thơ cổ điển Trung Quốc".9 Tuy nhiên, việc là tín đồ Công giáo và là một nhà Nho không có nghĩa là Ngô Đ́nh Diệm bị mắc kẹt bởi những tầm nh́n tiền hiện đại (premodern vision).
Nhưng đó chỉ là những ǵ bộ máy tuyên truyền của Sài G̣n và Mỹ tô điểm, sơn phết quảng cáo cho ông Diệm và gia đ́nh. Thực tế hoàn toàn ngược lại. Độc gỉa hăy đọc đoạn văn dưới đây của Cửu Long Lê Trọng Văn."
VÀI NÉT VỀ D̉NG HỌ NGÔ Đ̀NH
Của tác giả Cửu Long Lê Trọng Văn
---oOo---
Để hiểu rơ về gia thế anh em ông Diệm, tôi xin được lược ghi những nét chính; không hề mang thành kiến khi đặt bút viết một vấn đề hoàn toàn có tánh cách sử liệu. Hơn nữa, gịng họ Ngô Đ́nh ở miền Trung ai cũng rơ cả, nhất là từ ngày ông Diệm làm Thủ Tướng rồi Tổng Thống, th́ người dân lại có lư do và cơ hội để t́m hiểu thêm về gia đ́nh vị Tổng Thống này.
Trước hết nói về thân phụ của ông là Ngô Đ́nh Khả, một đại thần triều Đồng Khánh, Thành Thái,Ngô Đ́nh Khả quê ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh; có 8 người con: 2 gái và 6 trai.
Hai người con gái là: Ngô Thị Giáo: thân mẫu Giám Mục Nguyễn Văn Thuận và Ngô Thị Hiệp: thân mẫu bà Trần Trung Dung.
Sáu người con trai là: Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Thục, Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Luyện và Ngô Đ́nh Cẩn.
Con đường quan trường của ông Ngô Đ́nh Khả, lịch sử ghi rất rơ ràng. Xuất thân là một thông ngôn cho thực dân Pháp ở Huế. Khi tên Việt gian Nguyễn Thân, một khâm sai của triều đ́nh Huế, vâng lịnh quan thầy Pháp đi đánh nhà cách mạng Phan Đ́nh Phùng và các chiến sĩ Cần Vương tại chiến khu Ngàn Trươi, núi Vụ Quang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tỉnh, th́ ông Ngô Đ́nh Khả là một trong những bộ óc của tên Việt Gian Nguyễn Thân.
Một trong những thủ đoạn đê hèn của tập đoàn Việt Gian Nguyễn Thân là bắt giam thân quyến của cụ Phan Đ́nh Phùng để làm áp lực chiêu dụ, nhưng không kết quả ! Măi đến năm 1893, khi Đại Tướng Cao Thắng của cụ Phan Đ́nh Phùng tử trận th́ cụ Phan buồn và sẵn bịnh kiết lỵ, nên mất ở núi Quạt ngày 13-11-1895. Một hành động dă man, vô nhân tính của Nguyễn Thân-Ngô Đ́nh Khả và đồng bọn là cho người đào mả cụ Phan, thiêu hài cốt ra tro rồi đem trộn với thuốc súng để bắn đi các nơi có cơ sở của Cần Vương !
Sau khi b́nh định được phong trào Cần Vương do cụ Phan Đ́nh Phùng lănh đạo, tên Việt Gian Nguyễn Thân được thăng chức Phụ Tá Đại Thần, c̣n Ngô Đ́nh Khả được bổ nhiệm làm Phó Hiệu Trưởng trường Quốc Học, sau xung chức Chỉ Huy Trưởng Binh Đội Bảo Vệ Hoàng Thành.
Ngô Đ́nh Khả lúc này liên hệ mật thiết với một tên Việt Gian tay sai đắc lực của thực dân Pháp là Nguyễn Hữu Bài và rồi Ngô Đ́nh Khôi trở thành con rể của tên này.
Khi ông Diệm làm Tổng Thống, nhân dân thường được nghe một bài vè là: " Đầy vua không Khả ! Đào mả không Bài !Hại dân không Diệm ! ".Thật ra, trong hàng ngũ chống Pháp, câu vè trên nó ngược hẳn lại, đó là : Đầy vua là Khả ! Đào mả là Bài ! và khi ông Diệm tiêu diệt các giáo phái, các đảng phái, th́ dân gian thêm một câu nữa là: " Hại dân là Diệm ! ".
Để chứng minh luận cứ nào đúng, tôi trở lại gịng lịch sử để chúng ta cùng suy nghiệm.
Năm 1888 khi vua Đồng Khánh băng hà, Pháp lập Thành Thái kế vị, khi ấu chúa này mới 10 tuổi. Trái ngược với vua cha, ông vua này lại là ông vua có chí lớn, rất thông minh, muốn làm cách mạng để giành độc lập cho xứ sở. Ngài thường vi hành bất th́nh ĺnh để t́m hiểu dân t́nh. Có lần vua Thành Thái trốn khỏi hoàng cung định ra Bắc để liên lạc với các nhóm Cần Vương chống Pháp, nhưng không may, ngài bị Pháp bắt lại và bị canh giữ rất gắt gao. Năm 1907, vua Thành Thái lại bí mật liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở Nhật để mưu đồ chống Pháp, nhưng cơ mưu bị bại lộ, Pháp bắt vua thoái vị và đầy sang đảo Réunion ( Phi Châu ) !
Sự kiện đầy vua Thành Thái cả nước đều biết và lịch sử ghi rất rơ ràng, nhưng chưa hề có chứng tích nào cho thấy Ngô Đ́nh Khả phản đối việc đầy vua Thành Thái (Nếu có th́ lịch sử đă cho ông ta một chỗ đứng vinh quang rồi). Tiếc rằng viêc đó không có xẩy ra, mà c̣n có nghi vấn là chính Ngô Đ́nh Khả với chức vụ Chỉ Huy Cấm Vệ đă theo dơi việc làm của vua Thành Thái rất kỹ, cho nên mọi việc làm của vua Thành Thái đều không giấu được thực dân Pháp và bè lũ tay sai !
Khi vua Thành Thái thoái vị, Pháp đặt Hoàng Tử Vĩnh San lên ngôi. Ấu chúa nầy cũng chỉ mới có 8 tuổi, lấy đế hiệu là Duy Tân. Ngài là một vị vua giống tánh cha rất thông minh và có tinh thần cách mạng. Năm 13 tuổi, Ngài đă gửi thư cho Pháp, phản đối việc chính phủ Pháp không thi hành đúng ḥa ước Giáp Thân 1884.
Một điểm son trong lịch sử của vua Duy Tân là trong lúc Pháp bối rối v́ chiến tranh với Đức trong Đệ Nhất Thế Chiến th́ ngài cùng hai nhà cách mạng Trần Cao Vân và Thái Phiên đă tổ chức Đảng Tân Việt Nam để mưu việc diệt thực dân Pháp, giành độc lập cho xứ sở. Đảng Tân Việt nam đă tổ chức vào cả hàng ngũ quân sĩ dưới quyền hai ông Ngô Đ́nh Khả và Nguyễn Hữu Bài cùng những người sắp đi sang Pháp để đánh với Đức cho Pháp. Vua Duy Tân định ngày 3-5-1916 là ngày khởi nghĩa. Nhưng không may cho đất nước ta là cơ mưu bại lộ, nên số quân sĩ bị nghi ngờ đă bị tước hết khí giới , và quân Pháp được tăng cường đề pḥng binh biến.
Trong lúc cơ mưu bị bại lộ, nhưng hai nhà cách mạng Trần Cao Vân và Thái Phiên vẫn không hay biết ǵ nên vấn đề đúng giờ để đón vua vào Quảng Nam để truyền hịch khởi nghĩa...
Khi vua Duy Tân và các nhà cách mạng vừa ra khỏi hoàng thành th́ bị Pháp bắt lại ! Thế là cuộc khởi nghĩa không thành ! Hầu hết các chiến sĩ cách mạng đều bị bắt và bị xử tử, trong đó có hai nhà cách mạng Trần Cao Vân và Thái Phiên, c̣n vua th́ bị Pháp truất phế và đầy sang đảo Réunion, nơi vua cha là Thành Thái đang bị giam lỏng. Sau đó, Pháp lập con của đồng Khánh là Khải Định lên ngôi.
Sự kiên vua Duy Tân bị đầy, chúng ta lại càng thấy rơ như ban ngày là ông Ngô Đ́nh Khả mặc dù là cận thần của vua, nhưng chưa hề bao giờ lên tiếng phản đối việc Pháp truất phế và lưu đầy hai vị vua đầy khí phách với ḷng yêu nước vô bờ này. Không những thế, mọi hành động của hai vị vua cách mạng dân tộc c̣n bị Pháp biết rơ, như vậy chúng ta khó mà tránh được nghi ngờ đám cận thần của nhà vua đă tăng công với quan Đại Pháp của chúng để giết hại những nhà ái quốc Việt nam, lưu đầy những vị vua có chí khí, có tinh thần cách mạng !!!
Riêng về Nguyễn Hữu Bài, chúng ta nên biết thêm về con người hai mặt này. Dưới triều vua Thành Thái và Duy Tân, Nguyễn Hữu Bài là một Thượng Thư trụ cột triều đ́nh, là người có rất nhiều uy quyền trong tay, nên ảnh hưởng và vây cánh rất lớn. Nguyễn Hữu Bài nhiều lúc đă lộng quyền, qua mặt cả vua; điển h́nh là việc đào xới trong nội thành để t́m vàng mà cuộc đối thoại của Bài với vua Duy Tân đă được cụ Hoàng Trọng Thược ghi lại như sau:
-Vua Duy Tân: Đại nội ni thuộc về ai rứa thầy ?
-Bài tâu: Của vua !
-Vua Duy Tân: Vậy trẩm có biểu đào mô ?
-Bài tâu:V́ ở kho ta thiếu tiền và người Pháp đang đánh nhau với Đức !
Vua Duy Tân: Nước Pháp bị giặc xâm lăng, chứ nước ta không bị giặc xâm lăng đó sao ?
-Bài: Cúi đầu không đáp....
Một buổi khác, nhân ngồi thuyền câu cá, vua Duy Tân muốn thử ḷng ái quốc của Nguyễn Hữu Bài,nên ra một câu đối để Nguyễn Hữu Bài đối lại.
Vua nói:
" Ngồi trên nước, khôn toan việc nước, trót buông câu đă lỡ phải lần "
Nguyễn Hữu Bài đối lại:
" Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, nên nhắm mắt đến đâu hay đến đó ".
Vua Duy Tân thấy khẩu khí của một vị Thượng Thư mà cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang như vậy nên Ngài tỏ ra không vui và sau lời đối đáp của Bài, ngài lẳng lặng nh́n mây nước và không nói ǵ nữa. Xem cung cách trả lời trên của Nguyễn Hữu Bài, chúng ta thấy không thể nào thấy có chuyện " Đào mả không Bài " được, mà phải là " Đào mả là Bài "có nhiều chính xác hơn , v́ ngay cả đất trong đại nội mà c̣n bị đào xới để t́m vàng bạc, th́ chuyện đào lăng vua Tự Đức có chi mà không dám làm ? Hơn nữa, dưới thời này, ai dam đào mả hoàng tộc để t́m châu báu vàng bạc nếu không phải là tay sai thân tín của Pháp ? Và Nguyễn Hữu Bài đă chống lại ai để có điệu ví von như trên ?
gDo vậy, điệu vè " Đầy vua là Khả ! Đào mả là Bài ! " quả thật đúng với lời nhân gian truyền tụng vậy !
gNhắc sơ lại sự kiện trên để chúng ta có một khái niệm về gịng họ Ngô Đ́nh và thân tộc trước khi đi sâu vào việc làm của anh em Ông Diệm. Phải nói là các con của Ông Ngô Đ́nh Khả, đều có sự nghiệp. Chỉ tiếc là cái sự nghiệp này không phải là " Lưu danh muôn thuở " mà là " Lưu xú vạn niên" mới là điều đáng buồn ! Tôi xin ghi lại những nét chính về 6 người con trai của ông Ngô Đ́nh Khả theo thứ tự như sau:
1-Ngô Đ́nh Khôi:
Anh cả trong nhà, con rể của Nguyễn Hữu Bài, nên con đường quan hoạn của Khôi dưới thời Pháp thuộc lên như diều gặp gió ! Sở dĩ được thăng quan tiến chức như vậy là nhờ vào thành tích tiêu diệt những nhà cách mạng chống Pháp, chống phá các tổ chức cách mạng. Địa vị chót của Ngô Đ́nh Khôi là Tổng Đốc Nam Ngăi ( Quảng Nam, Quảng Ngăi ).
Năm 1945, Ngô Đ́nh Khôi và người con trai duy nhất là Ngô Đ́nh Huân bị nhóm Trần Huy Liệu , Lê Văn Hiến trong chính phủ Việt Minh cướp chính quyền ngày 23- 8 - 45 ở Miền Trung ra lịnh cho Trần Văn Dĩnh đến bắt hai cha con Khôi đi thủ tiêu ( Trần Huy Liệu lúc ấy là Bộ Trưởng Tuyên Truyền và Lê Văn Hiến là Bộ Trưởng Tài Chính của chính phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa).Trần Văn Dĩnh là một tay sai đắc lực của Việt Minh CS thời đó. Hiện Dĩnh đang sống tại Hoa Kỳ, Vùng N.W.Washington D.C.
Cũng v́ Trần Văn Dĩnh đem cha con Ngô Đ́nh Khôi đi thủ tiêu , cho nên sau này ông Nhu được đầy đủ tài liệu đă định bắt Dĩnh làm tôi. Nhưng v́ có sự can thiệp của bà Nhu , của ông Diệm ( qua sự can thiệp của Vơ văn Hải, bí thư của ông Diệm và là bạn học của Dĩnh ), nên Dĩnh chưa bị thủ tiêu và có lẽ đương sự đă được báo động, nên chạy chọt sang làm ở ṭa Đại Sứ VNCH ở Hoa Kỳ dưới quyền ông Trần Văn Chương.
2-Giám Mục Ngô Đ́nh Thục.
Em kế của Khôi là Ngô Đ́nh Thục. Tất cả chúng ta đều rơ tuy ông Thục khoác áo Giám Mục, nhưng lại dính vào chính quyền trong mọi lĩnh vực từ chính trị đến thương mại...
Với vai tṛ quyền huynh thế phụ, cộng với phương vị một Giám Mục cho nên quyền lực ngầm của ông Thục rất lớn. GM. Thục cũng là một bộ óc của ông Diệm và ảnh hưởng không thua ǵ cố vấn Ngô Đ́nh Nhu.
Là Giám Mục Vĩnh Long, nhưng cánh cổng tôn giáo hầu như đă nhường chỗ cho cánh cổng chính trị và kinh tài của Giám Mục này. Chẳng thế mà Trung Tâm Huấn Luyện Nhân Vị được đặt ở Vĩnh Long thay v́ Sài G̣n ! Hàng năm, những dịp lễ lớn Quốc Gia, hàng hàng, lớp lớp từ Dân Biểu, Tổng Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Tướng Tá đều xuống Vĩnh long để mong được quỳ hôn chiếc nhẫn mầu nhiệm của Giám Mục Thục. Thậm chí những dịp lễ thuần túy đạo, người ta cũng nhận thấy những bộ mặt quen thuộc trên khi xe cộ nối đuôi nhau từ Sài G̣n xuống tận Vĩnh long để triều kiến ông Giám Mục này. Không biết bao nhiêu những tên tay to mặt lớn nói trên đă được rửa tội tại Vĩnh Long để mong tôn vinh Giám Mục Thục làm cha tinh thần !
Chính v́ những chuyện trái khoáy và không mấy tốt đẹp như trên đă xảy ra quá lộ liễu cho nên người dân lúc đó nửa đùa, nửa thật là :".....Ủa ! Thủ đô Sài G̣n dời về Vĩnh Long hồi nào vậy ?"
Có lẽ chuyện nầy không giấu được con mắt quốc tế, nên có sự vận động ngầm để thăng chức cho GM. Thục thành Tổng Giám Mục, nhưng đi ra Huế để xa thủ đô Sài G̣n, ngơ hầu tránh những dị nghị, chướng tai gai mắt gây ra bởi ông Giám Mục anh ruột của Tổng Thống. Nhưng " thiên bất dung gian" , cho nên khi đổi ra Huế, Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục đă làm nhiều chuyện c̣n kinh thiên động địa hơn nữa, trong đó có vụ triệt hạ cờ Phật Giáo , mở màn cho phong trào tranh đấu chống đối chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và cuối cùng là đă khai tử luôn 3 người em của ông, rồi chiếc áo Tổng Giám Mục cũng bay mất luôn, và gởi nắm xương tàn nơi đất người không kèn, không trống, chết trong tủi hổ nhục nhă !!!
Việc làm của " ngài Tổng Giám Mục " được coi là thượng vàng hạ cám theo cái kiểu " nhỏ không tha, già cũng không thôi ", do vậy từ người quét dọn rạp Rex cho tới người lái xe chở gỗ từ Định Quán , Xuân Lộc, hoặc " người " lái máy bay chở đồ lậu, ai ai cũng biết đến uy quyền của " Đức Cha " trong lănh vực thương mại bất chính này.
C̣n một việc tối mật được minh chứng rằng ḍng họ Ngô Đ́nh đă cung cúc, tận tụy làm tay sai cho thực dân Pháp từ xưa như thế nào đă được chính " Giám Mục Ngô Đ́nh Thục " tiết lộ trong bức thư đề ngày 21-8-1944 gửi toàn quyền Đông Dương Decoux với lời lẽ rất hèn hạ xin Decoux che chở cho hai em của ḿnh là Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Diệm , GM Thục đă kể lễ như một người con xin người cha là gia đ́nh Ngô Đ́nh ( tức là từ Khả ) là một gia đ́nh có truyền thống phục vục Đại Pháp và có công diệt trừ những phần tử chống đối ( tức những chiến sĩ cách mạng Việt Nam ) lại chính quyền bảo hộ từ trước đến nay.
Đọc bức thư nầy chúng ta sẽ thấy con người thật của " Ngài Giám Mục Thục ", của " ông Ngô Đ́nh Khả " làm tay sai cho thực dân Pháp bán nước hại dân như thế nào ?
Tóm lại, tất cả những hành động cho đến hành vi bỉ ổi của Giám Mục Thục con " ông Ngô Đ́nh Khả " từ thời Pháp đô hộ dân ta đến thời kỳ ông Diệm là Tổng Thống , th́ tôi nghĩ là bạn đọc thừa dữ kiện để đánh giá thực chất của gịng họ Ngô Đ́nh. Sau đây là nguyên văn bản chụp bức thư lịch sử để toàn dân Việt Nam đánh giá con người tu hành của Ngô Đ́nh Thục . Bức thư này viết bằng Pháp ngữ , " ông " Ngô Đ́nh Thục nhân danh là Giám Mục địa phận Vĩnh Long gửi cho toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Jean Decoux để xin tha cho ba người anh em của ḿnh lúc đó đang bị Pháp truy nă ( Ngô Đ́nh Diệm ) và quản thúc (Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Nhu ).
Vicariat Apostolique de Vinh Long
(Cochinchine)
Vinh Long, le 21 Aout 1944
Amiral,
Je viens d’apprendre par un prêtre de ma Mission, envoyé à Saigon pour les affaires du séminaire, que deux de mes frères ont été l’objet de poursuites judiciaires à Hué. N’ayant recu de Hué depuis longtemps aucune nouvelle, je ne sais si ce qu’on m’a rapporté corespondait à la vérité.
Mais, en pensant a la peine immense et à la juste indignation que vous avez du éprouvées, si ce qu’on leur imposait était fondé, je m’empresse de vous écrire, pour vous exprimer, Amiral, ma grande douleur en l’occurence.
S’il était prouvé que leur activité a pu nuire aux intérêts de la France, je la désapprouve du fond du coeur, comme évêque, comme annamite, et comme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions memées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đ́nh Phùng à Nghệ An et Hà Tịnh.
Cette déclaration n’a pas pour but, Amiral, de sauvegarder ma situation personnelle: car ce sera avec joie que je quitterai mon évêché si tôt qu’il sera constaté que mon humble personne pourrait porter préjudice aux intérêts de la Religion.
Elle n’a pour objet que de vous montrer que vous n’avez pas accordé votre bienveillante confiance à un indigne ou à un ingrat. Amiral, je n’ai jamais tant regretté mon éloignement de Hué. Là j’aurais pu mieux conseiller mes frères et, à, l’occasion, m’opposer à leur desseins, si vraiment ils en ont concu de nuisibles aux intérêts de la France .
Je puis hélas me tromper, mais je vous confesse, Amiral, que je ne puis croire, jusqu’à preuve du contraire, qu’ils se sont montrés si rebelles aus traditions de notre famille, qui s’était attachée à la France dès le début, tandis que les aieux et les pères des mandarins actuels, presque tous, combattaient contre elle, et ne s’étaient décidés pour elle que lorsqu’il n’avait plus que profit à le faire.
Mes frères eux-mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un chinois de Cholon envoyé à cet effet à Phan Rang où Diệm défendait énergiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyés de la Cochinchine.
Certes, leur dévouement dans le passé n’est pas l’excuse de leur imprudences actuelles; s’il est prouvé qu’elle est coupable. Mais je crois ne pas faire en vain appel à votre miséricordieuse clémence en leur faveur, qui juge du présent sans pourtant oublier le passé. Celà en considération des services que mon père Ngô Đ́nh Khả a eu l’honneur de rendre à la France au péril de sa vie, et de la longue conduite de mes frères faite d’un dévouement sans bornes à la France, sans peur de sacrifier leur vie pour elle.
En vous exprimant de nouveau, Amiral, toute la douleur que je ressens dans cette affaire, je vous prie d’agréer mes hommages les plus respectueux.
NGO DINH THUC
BẢN DỊCH THƯ VIẾT TAY BẰNG PHÁP NGỮ
CỦA GIÁM MỤC NGÔ Đ̀NH THỤC
GỞI ĐÔ ĐỐC JEAN DECOUX, TOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG
Ṭa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21/8/1944
Thưa Đô Đốc,
Một linh mục từ bổn Ṭa được phái đi Sài G̣n để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. V́ đă lâu không nhận được tin tức ǵ từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa được báo cáo có đúng sự thực hay không.
Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô Đốc đă cảm thấy – nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này.
Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp th́ – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đ́nh mà thân phụ tôi đă phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đă nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đ́nh Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh – tôi, tự đáy ḷng, không chấp nhận [hoạt động của các em tôi].
Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi v́ nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo [Thiên Chúa], tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Ṭa Giám mục nầy ngay.
Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng ḷng tin tưởng tŕu mến của Đô Đốc [đối với tôi] đă không bị đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn.
Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đă xa Huế như thế nầy. Giá có mặt ở đấy th́ tôi đă có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy đến tôi đă có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền lợi nước Pháp.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, cho đến khi được chứng minh ngược lại, tôi xin thú thực là không tin rằng các em tôi đă phản lại truyền thống của gia đ́nh chúng tôi đến như thế, một gia đ́nh đă tự ḿnh gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi.
Ngay chính các em tôi đă từng liên tục đưa mạng sống ra v́ nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suưt đă phải ngă gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đă mănh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến.
Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn nầy được chứng tỏ là điều đă gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đă làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ư trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đ́nh Khả đă từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá tŕnh lâu dài của các em tôi, một quá tŕnh được h́nh thành bằng ḷng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của ḿnh cho nước Pháp.
Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ nầy, tôi xin Đô Đốc vui ḷng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi..
NGÔ Đ̀NH THỤC (kư tên)
- Trích y nguyên văn của Cửu Long Lê Trọng Văn, người bà con bên ngoại của ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu, cũng là người hằng ngày bên cạnh của hai ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu, để lănh sứ mạng làm thám tử theo dơi Mật Vụ có thi hành đúng lịnh của ông Diệm và ông Nhu hay không?
Làm quan triều Nguyễn
5 vị Thượng thư từ trái qua phải Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Ngô Đ́nh Diệm, Bùi Bằng Đoàn
Sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ với vị trí đứng nhất lớp vào năm 1921, Ngô Đ́nh Diệm nối bước anh cả Ngô Đ́nh Khôi (lúc này đang làm việc trong Bộ Binh triều đ́nh Huế) vào quan trường. Bắt đầu bằng chức quan thấp nhất, Ngô Đ́nh Diệm từng bước được thăng chức. Nơi làm việc đầu tiên của ông là thư viện hoàng gia ở Huế.7 Trong cùng năm, ông làm tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên.
Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Hương Thủy, Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.4
Năm 1926, Ngô Đ́nh Diệm làm tri phủ Hải Lăng, Quảng Trị, sau đó làm quản đạo phủ Ninh Thuận.
Trong suốt thời gian làm quan, Ngô Đ́nh Diệm có tiếng là người mẫn cán, công chính, là nhà lănh đạo Công giáo và là người theo chủ nghĩa dân tộc. Ngoài ra, chủ nghĩa dân tộc Công giáo ở Việt Nam từ thập niên 1920 đến thập niên 1930 cũng tạo điều kiện cho sự thăng tiến trong quan trường của Ngô Đ́nh Diệm.10 Sự thăng tiến nhanh chóng của Ngô Đ́nh Diệm một phần nhờ vào mối quan hệ thân thiết với Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài (anh trai ông, Ngô Đ́nh Khôi, là con rể của ông Nguyễn Hữu Bài). Nguyễn Hữu Bài (1863–1935) là một người Công giáo ủng hộ việc bản địa hóa Nhà thờ Việt Nam và tăng quyền lực hành chính cho chế độ quân chủ.11 Nguyễn Hữu Bài được người Pháp đánh giá cao, trở thành người bảo trợ cho Ngô Đ́nh Diệm do mối quan hệ chặt chẽ về gia đ́nh cũng như tôn giáo.12
Năm 1929, Ngô Đ́nh Diệm được bổ nhiệm tỉnh trưởng tỉnh B́nh Thuận. Làm quan ở B́nh Thuận ông có tiếng về đạo đức làm việc. Vào các năm 1930 và 1931, Ngô Đ́nh Diệm đă giúp người Pháp đàn áp cuộc nổi dậy đầu tiên của nông dân do những người cộng sản tổ chức.13 Theo Fall, Ngô Đ́nh Diệm vùi dập cách mạng v́ ông không ủng hộ cách mạng. Ông cho rằng cách mạng không thể quét sạch người Pháp, nhưng có thể sẽ đe dọa quyền cai trị của quan lại.14
Ngày 8 tháng 4, năm 1933, Bảo Đại (1913-1997) đă ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự ḿnh chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đ́nh Diệm và Bùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Vơ Liêm, Vương Tứ Đại15 . Ngô Đ́nh Diệm nhận lời Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại (Bộ Nội vụ ngày nay) theo lobby của Nguyễn Hữu Bài.16 Ông là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều đ́nh nhà Nguyễn lúc bấy giờ.
Thời gian này ông được bầu làm Tổng thư kư đứng đầu ủy ban cải cách hành chính. Ông đề xướng hai điểm cần tu chính với chính quyền bảo hộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Ḥa ước Giáp Thân 1884, hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề kể cả chính trị. Việc thống nhất chủ yếu để buộc chính quyền Bảo hộ Pháp băi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viện tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. V́ các đề xướng không được chấp nhận, ông từ chức Thượng thư Bộ Lại ngày 12 tháng 7 năm 1933,17 chỉ sau 3 tháng nhậm chức.16 Ngô Đ́nh Diệm lên án Hoàng đế Bảo Đại "chẳng là ǵ mà chỉ là công cụ trong tay người Pháp", và đă vứt bỏ các huân chương, chức tước được Bảo Đại trao. Sau đó người Pháp đă dọa bắt và lưu đày Ngô Đ́nh Diệm.14
Ngô Đ́nh Diệm nổi cơn thịnh nộ và sinh ḷng bất măn chỉ v́ ông Eugène Châtel, người vừa nhậm chức khâm sứ Trung Kỳ, đă cùng với Phạm Quỳnh, Tổng lư Ngự tiền văn pḥng, muốn băi bỏ quyền xử án của các hàng quan lại địa phương18
Hoạt động chính trị chống Pháp
Sau khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, Ngô Đ́nh Diệm trở về làm một thường dân sống ở Huế cùng gia đ́nh ông, nhưng vẫn bị giám sát. Ông dành thời gian cho việc đọc sách, thiền định, đi lễ nhà thờ, làm vườn, đi săn, và chụp ảnh nghiệp dư.19 Ngoài ra, ông đẩy mạnh các hoạt động dân tộc chủ nghĩa qua việc gặp gỡ và giao lưu với các nhà lănh đạo cách mạng Việt Nam, như Phan Bội Châu, một người bạn của ông. Phan Bội Châu là nhà hoạt động chống thực dân mà Ngô Đ́nh Diệm kính trọng v́ kiến thức Nho giáo uyên thâm của ông, và v́ Phan Bội Châu lập luận rằng những lời dạy của Nho giáo có thể được áp dụng cho Việt Nam hiện đại.19
Ngô Đ́nh Diệm ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để đang sống lưu vong tại Nhật nhằm thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp. Ông bị xem là quá khích giống như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam.4 Năm 1933, ông vào Sài G̣n cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim,... tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris băi nhiệm Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng B́nh. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René Robin đă băi bỏ chỉ định của Pasquier. Ông vào Huế dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) do anh ông là Ngô Đ́nh Thục làm Giám học[cần dẫn nguồn]
Thời kỳ 1942-1944, Ngô Đ́nh Diệm tham gia thành lập và lănh đạo tổ chức Đại Việt Phục hưng Hội, dựa Nhật chống Pháp với thành phần ṇng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và vây bắt Ngô Đ́nh Diệm ở tại phủ Cam. Trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương, ông Thục kêu gọi Pháp ân xá cho em ḿnh20 :
Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp th́ – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đ́nh mà thân phụ tôi đă phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đă nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đ́nh Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh – tôi, tự đáy ḷng, không chấp nhận
...Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đă phản lại truyền thống của gia đ́nh chúng tôi đến như thế, một gia đ́nh đă tự ḿnh gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi... Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đ́nh Khả đă từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá tŕnh lâu dài của các em tôi, một quá tŕnh được h́nh thành bằng ḷng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của ḿnh cho nước Pháp.
Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn và về trú tại lănh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người Nhật đưa Ngô Đ́nh Diệm vào Đà Nẵng rồi dùng máy bay quân sự chở thẳng vào Sài G̣n trú tại trụ sở hiến binh của Nhật.21 Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung Kỳ để chống Pháp.22
Tại Sài G̣n, ông đă tham gia thành lập Ủy ban Kiến quốc với mục tiêu pḥ tá hoàng thân Cường Để. Tuy nhiên Nhật không ủng hộ Cường Để về nước làm vua mà ủng hộ Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đă từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.23 [cần số trang]
Trong Chiến tranh Đông Dương
Bị Việt Minh bắt
Sau khi Bảo Đại thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh giành chính quyền, Ngô Đ́nh Diệm cùng với một số người thân trong gia đ́nh bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà, Phú Yên ngoại trừ Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn. Anh cả Ngô Đ́nh Diệm là Ngô Đ́nh Khôi cùng con trai ḿnh là Ngô Đ́nh Huân trên đường bị du kích giải ra Hà Nội th́ bị lực lượng áp tải này xử bắn24 Nguyên do là trong Cách mạng tháng 8 năm 1945, Ngô Đ́nh Khôi khuyên hoàng đế Bảo Đại đừng thoái vị v́ ông đă tích trữ được một số vũ khí, lại có thêm Ngô Đ́nh Huân giữ vai tṛ liên lạc giữa triều đ́nh Huế và Đế quốc Nhật Bản, nên có người tố cáo cha con ông Khôi có âm mưu cấu kết với Nhật chống lại Việt Minh.25 Thời điểm đó, một đơn vị biệt kích Pháp nhảy dù xuống miền Tây Thừa Thiên nhưng bị dân quân Việt Minh bắt, tài liệu tịch thu được cho thấy nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan lại bản xứ (bao gồm Ngô Đ́nh Khôi) để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, nên Ngô Đ́nh Khôi bị xử bắn v́ tội danh thông đồng với Pháp26 .
Ngô Đ́nh Diệm bị giải ra Hà Nội. Sau đó Ngô Đ́nh Nhu cũng bị Việt Minh bắt giam rồi được thả. Theo phim tài liệu Sứ mệnh đặc biệt của Đài Truyền h́nh Việt Nam nói về chuyến công tác phía nam của ông Hoàng Quốc Việt trong Cách mạng Tháng Tám, th́ ông Hoàng Quốc Việt (sau khi nghe ông Hải, Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Quảng Ngăi báo cáo đă bắt được Ngô Đ́nh Diệm) đă thả ông Diệm theo chỉ thị của Hồ Chí Minh rằng các nhân sĩ trí thức phải được thả ra, và đưa ông Diệm ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh.27 .
Ngô Đ́nh Diệm bị giam tại tỉnh miền núi Tuyên Quang ít lâu rồi được trả tự do theo lệnh ân xá vào đầu năm 194628 [cần số trang]. Theo tài liệu của Mỹ, tại Hà Nội, Ngô Đ́nh Diệm gặp Hồ Chí Minh. Ngô Đ́nh Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lư do xử bắn anh của ông th́ được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó một hành động tự phát của du kích địa phương do đất nước đang rơi vào t́nh trạng hỗn loạn29 . Sau đó, cũng theo tài liệu của Mỹ, Hồ Chí Minh mời Ngô Đ́nh Diệm giữ chức thủ tướng v́ cho rằng ông có tài lănh đạo. Ngô Đ́nh Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ư lời mời đó với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này, và do đó Ngô Đ́nh Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh.30 31 32 Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn giao cho ông làm phụ tá của Vĩnh Thụy, là cố vấn tối cao của Chính phủ.
Hoạt động chính trị
Sau khi được Việt Minh phóng thích, Ngô Đ́nh Diệm duy tŕ các mối liên lạc với một số lănh đạo Việt Minh với hy vọng có thể thuyết phục họ bỏ Hồ Chí Minh và quay sang ủng hộ ông. Những cuộc trao đổi này khơi dậy những quan tâm đáng kể trong hàng ngũ lănh đạo Việt Minh ở Nam Bộ trong năm 1947-1948. Nhiều quan chức Việt Minh ngưỡng mộ Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Thục, thậm chí c̣n có tin đồn Ngô Đ́nh Diệm đă lôi kéo được tướng Nguyễn B́nh, chỉ huy quân sự cao nhất của Việt Minh ở Nam Bộ, đào ngũ (về sau tin đồn này được xác định là không đúng). Ông cũng t́m cách liên minh với các lănh đạo các đảng phái quốc gia. Giữa năm 1947, ông liên minh với Nguyễn Tôn Hoàn, một lănh đạo Công giáo ở Nam Bộ và là thành viên sáng lập Đại Việt Quốc dân Đảng. Suốt mùa thu năm ấy, Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Tôn Hoàn cùng hợp tác để thuyết phục những người chống cộng tham gia một liên hiệp mới với tên gọi Việt Nam Quốc gia Liên hiệp, mục đích của Liên hiệp là vận động cho một phong trào chính trị mới được Bảo Đại hỗ trợ.33
Tháng 2 năm 1948, Ngô Đ́nh Diệm và các lănh đạo phe quốc gia gặp nhau tại Sài G̣n để thảo ra một kế hoạch đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam33 . Năm 1948, khi cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong ở Hồng Kông đang điều đ́nh với Pháp để kư hiệp định Pháp-Việt, Ngô Đ́nh Diệm sang Hồng Kông thuyết phục Bảo Đại kiên định trong "vấn đề độc lập dân tộc". Ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam33 . Sau đó khi Bảo Đại kư hiệp định với Pháp ở Hạ Long cho Việt Nam một nền độc lập hạn chế, Ngô Đ́nh Diệm tỏ ra thất vọng. Ông từ chối lời mời làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại với lư do "không tin người Pháp, càng không tin vào nền độc lập nửa vời mà Pháp vẽ ra"4 , và quay về Huế sống với Ngô Đ́nh Cẩn và có thời gian Ngô Đ́nh Diệm lên sống với vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu ở Đà Lạt.
Ngày 16 tháng 6 năm 1949, Ngô Đ́nh Diệm cho đăng một tuyên bố hoàn toàn phủ nhận Hiệp ước Elysée bằng cách đ̣i hỏi quyền tự trị lănh thổ cho Việt Nam. Đồng thời, ông cũng thông báo không có ư định hợp tác với Việt Minh và kêu gọi một phong trào chống thực dân mới dưới sự lănh đạo của “những thành viên đă có những cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc” và đặc biệt là “những người kháng chiến” với ư định thách thức Việt Minh bằng cách lôi kéo một số người muốn bỏ Việt Minh để ủng hộ ông.33 Ngô Đ́nh Diệm cũng tuyên bố viễn kiến về một cuộc cách mạng xă hội ngang với những cương lĩnh chính trị từ các đối thủ của ông: “... nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không phải chỉ là một cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị mà thôi, mà c̣n là một cách mạng xă hội để đem lại độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để cho tất cả mọi người trong nước Việt Nam mới có đủ phương tiện để sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi chủ trương những sự cải cách xă hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người vẫn luôn luôn được tôn trọng và được tự do nẩy nở.”33 Tuyên bố của ông được nhiều người đọc và được chú ư trên khắp Việt Nam, nhưng nó không thu hút được sự ủng hộ của quần chúng dành cho Ngô Đ́nh Diệm, cũng không gây tác hại ǵ cho “giải pháp Bảo Đại”. Trên thực tế, hiệu quả của nó là chấm dứt sự kiên nhẫn của cả Pháp lẫn Việt Minh trong việc t́m cách lôi kéo ông khiến ông buộc phải cân nhắc những chiến lược khác và đi t́m những đồng minh mới.33
Sau đó, ông cùng anh ḿnh là Giám mục Ngô Đ́nh Thục và người em Ngô Đ́nh Nhu thành lập Đảng Xă hội Thiên Chúa giáo4 . Ngô Đ́nh Diệm muốn xây dựng một phong trào mới có thể áp đảo cả Pháp và Việt Minh. Ông chọn một vị trí trung lập bề ngoài trong cuộc xung đột, cố gắng xây dựng và duy tŕ quan hệ với cả hai phía. Ngô Đ́nh Diệm hy vọng có thể có thêm thời gian để mở rộng nhóm ủng hộ ḿnh và gây thiệt hại cho cả hai đối thủ.33
Năm 1950, Việt Minh cố gắng giết Ngô Đ́nh Diệm trên đường ông đi thăm anh là Giám mục Ngô Đ́nh Thục tại Vĩnh Long.34 35 Ông theo anh là Giám mục Ngô Đ́nh Thục đi Vatican, rồi sau đó sang Nhật gặp hoàng thân Cường Để đang sống ở đây.
Vận động chính trị tại Mỹ
Trong thời gian ở Nhật, ông gặp tướng Douglas MacArthur chỉ huy quân Mỹ tại Nhật để thuyết phục Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, nhưng tướng Douglas MacArthur tiếp kiến ông và Giám mục Ngô Đ́nh Thục rất lạnh nhạt, không có biểu hiện ǵ cho thấy tướng Douglas MacArthur sẽ ủng hộ Việt Nam. Theo lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị Đại học Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ để thuyết phục Tổng thống Mỹ Eisenhower ủng hộ Việt Nam độc lập.4 Tháng 9 năm 1950, Ngô Đ́nh Diệm đến Washington gặp các viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhưng ông không gây được ấn tượng với họ. Sau khi gặp, một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhận xét Ngô Đ́nh Diệm “quan tâm ngang bằng nếu không nói là hơn… đến việc thực hiện các tham vọng cá nhân, thay v́ giải quyết những vấn đề phức tạp mà đất nước của ông đang đối mặt ngày hôm nay”. Tháng 10 năm 1950, Ngô Đ́nh Diệm sang Vatican gặp Giáo hoàng rồi đến Paris gặp các quan chức Việt và Pháp đồng thời đề nghị Bảo Đại bổ nhiệm ông làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam với điều kiện ông có đủ thẩm quyền để chỉ đạo các cơ quan hành chính tại Việt Nam nhưng Bảo Đại chỉ trả lời chung chung.33
Thời gian hai năm kế tiếp Ngô Đ́nh Diệm sang Mỹ phần lớn lưu trú tại các trường ḍng Lakewood ở New Jersey và trường ḍng Ossining ở New York. Ông dùng đủ mọi cách để tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công v́ Mỹ đang bận tham chiến tại Triều Tiên và Mỹ không muốn làm mất ḷng người Pháp.4 Đây cũng là thời kỳ Ngô Đ́nh Diệm gặp Hồng y Spellman, người đồng ư làm trung gian để ông có cơ hội diện kiến với những nhân vật quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ. Qua trung gian của Hồng y Spellman, ông Diệm đă gặp gỡ và tranh thủ được t́nh cảm của dân biểu Walter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, nhất là Thượng nghị sĩ John F. Kennedy (Kennedy sau này trở thành Tổng thống Mỹ).4 Ngô Đ́nh Diệm t́m kiếm sự hỗ trợ của người Mỹ cho những kế hoạch chính trị của ông cũng như thu hút những người Mỹ tin vào phát triển, hiện đại hoá và khả năng biến đổi Việt Nam dựa trên nền công nghệ Mỹ. Đặc biệt, ông t́m cách khai thác những quan tâm chính thức mới (của Mỹ) trong việc “hỗ trợ kỹ thuật” cho nước ngoài.33 Cũng nhờ sự giới thiệu của Spellman và một vài nhân vật cấp cao của CIA, Ngô Đ́nh Diệm vào ở ẩn ở các chủng viện lớn như Maryknoll, Lakewood rồi vào trường đại học Michigan tham gia một số khóa học36 . Có thể nói, người đă giúp đỡ ông Diệm rất nhiều khi ở Mỹ là Hồng y Spellman. Nhà sử học John Cooney đă viết37 :
"Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y Spellman đă đóng một vai tṛ rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đă ở trong một Trường Ḍng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đ́nh Diệm. Ở Diệm, Spellman nh́n thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi chính khách: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng."
Nhờ sự giúp đỡ của Wesley Fishel, Ngô Đ́nh Diệm làm cố vấn tại đại học Michigan. Ông và Fishel hợp tác soạn thảo một dự án trợ giúp kỹ thuật cho Việt Nam33 . Năm 1952, Fishel viết thư gửi US Mutual Security Agency (Cơ quan An ninh Hỗ tương Hoa Kỳ) cho rằng Việt Nam cần sự giúp đỡ trong nhiều lĩnh vực khác nhau như “khoa học cảnh sát”, “vấn đề ngoại thương” và thậm chí “nghiên cứu về việc chọn theo các thể chế dân chủ”.33 Sau năm 1954, các quan hệ cá nhân ông thiết lập được trong thời gian sống lưu vong sẽ giúp ông giành được sự ủng hộ chính thức của Hoa Kỳ dành cho cá nhân và chính phủ của ông nhưng vào tháng 5 năm 1953, những người bạn Mỹ của ông mới chỉ ủng hộ bằng những lời động viên và khích lệ tinh thần.33
Trong thời gian sống tại Mỹ, thỉnh thoảng ông cũng sang các nước châu Âu nên có thêm kinh nghiệm hoạt động chính trị.4 Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Kitô giáo lưu vong theo chủ nghĩa dân tộc có khuynh hướng chống Cộng, Ngô Đ́nh Diệm bay sang Pháp rồi sau đó qua Bỉ trú ngụ tại một tu viện lớn.
Năm 1954, Ngô Đ́nh Diệm từ Bỉ trở lại Paris sống tại nhà ông Tôn Thất Cẩn (con trai của cụ Thân thần phụ chính Tôn Thất Hân). Tại đây, với sự yểm trợ của Ngô Đ́nh Luyện, Diệm bắt đầu vận động trong giới chính khách Việt sống lưu vong.
Tại cuộc họp do Hội "American Friends of Vietnam", một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm ở Washington D.C. ngày 1/6/1956, John F. Kennedy (về sau là Tổng thống Mỹ) tuyên bố:
“ “Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng ḥa] th́ chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta chủ tọa việc nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định h́nh tương lai của nó (…). Đó là con cái của chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó”38 ”
.
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam
Trở thành Thủ tướng
Sau 4 năm Hiệp định Elysée được kư kết, lănh đạo các đảng phái quốc gia đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến lược giành độc lập từng bước trong Liên hiệp Pháp của Bảo Đại. Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Quốc gia Việt Nam chỉ độc lập trên danh nghĩa. Đa số lănh đạo phe quốc gia thất vọng với thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, nổi tiếng thân Pháp và chuyên quyền. Họ cũng nổi giận v́ quyết định đơn phương của Paris trong việc phá giá đồng bạc Đông Dương vào đầu tháng 5 năm 1953, vi phạm những thoả thuận trước đó với các quốc gia thuộc Liên hiệp Pháp, đồng thời làm gia tăng lạm phát và khó khăn ở Đông Dương. Lợi dụng t́nh thế này Ngô Đ́nh Nhu khéo léo kích động sự bất măn và gợi ư triệu tập Đại hội Đoàn kết các đảng phái quốc gia tại Sài G̣n vào đầu tháng 9, sau khi Bảo Đại rời Việt Nam đi Pháp. Đại hội Đoàn kết diễn ra ngày 5, 6 tháng 9 năm 1953 không xây dựng được liên minh nào và cũng không đưa ra lập trường chính trị chính thức nào. Tháng 10 năm 1953, các đảng phái quốc gia lại nhóm họp và phê chuẩn quyết định bác bỏ sự tham dự của Việt Nam vào Liên hiệp Pháp và ủng hộ việc độc lập hoàn toàn. Đứng trước sự bất măn tăng cao của các lănh đạo đảng phái, tôn giáo, Bảo Đại phải thân thiện hơn với Ngô Đ́nh Diệm và cân nhắc lại khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Ngày 26 tháng 10, Bảo Đại gặp Ngô Đ́nh Diệm ở Cannes để thăm ḍ ḷng trung thành của ông này với Bảo Đại và khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Tháng 12, 1953, Bảo Đại cách chức Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và bổ nhiệm Nguyễn Phúc Bửu Lộc, một thành viên của hoàng tộc, làm thủ tướng. Đầu tháng 3 năm 1954, sau khi Bảo Đại chấp thuận trên nguyên tắc việc thành lập Quốc hội mới, Ngô Đ́nh Nhu và những đồng minh của ông xuất bản một bài viết ở Sài G̣n thúc ép Bảo Đại nhượng bộ thêm.33
Đầu năm 1954, trong khi Pháp đang gặp khó khăn tại trận Điện Biên Phủ, Bảo Đại liên tục nhờ người chuyển lời với ông Diệm đang ở Hoa Kỳ, yêu cầu ông trở về nước thành lập chính phủ mới. Ông Diệm tiếp tục từ chối lời mời của Bảo Đại với lư do không tin tưởng vào người Pháp. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đàm phán hiệp ước trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam. Ngày 16/6/1954, Quốc trưởng Bảo Đại gặp Ngô Đ́nh Diệm tại Pháp. Ông Diệm đồng ư trở về nước làm Thủ tướng theo lời mời của Bảo Đại với điều kiện Bảo Đại phải đồng ư để chính phủ do ông thành lập được toàn quyền về chính trị và quân sự. Bảo Đại đồng ư với yêu cầu này, sau đó ông Diệm về nước và chính thức được bổ nhiệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/1954, Ngô Đ́nh Diệm thành lập chính phủ mới với nội các gồm 18 người.4 Sau này Bảo Đại viết trong hồi kư của ḿnh:
“Từ những ǵ tôi biết về ông, tôi biết rằng ông Diệm là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín và xu hướng thiên về Thiên Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại, không có một lựa chọn nào tốt hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá cao tính không khoan nhượng của ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với chức vụ đó nhất, và Washington sẽ không dè xẻn trong việc ủng hộ ông. Bởi v́ quá khứ [của ông Diệm] và bởi v́ sự hiện diện của người em ông ở vị trí hàng đầu của “Phong trào Công đoàn Quốc gia”, ông sẽ có được sự cộng tác của những người quốc gia thế lực nhất, những người đă hạ bệ ông Tâm và ông Bửu-Lộc. Cuối cùng, cũng v́ tính không khoan nhượng và sự cuồng tín của ḿnh, ông là người ta có thể trông cậy được trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đúng, ông chính là người cần thiết cho hoàn cảnh như vậy.”33
Các sử gia vẫn chưa t́m ra được một tài liệu hoặc bằng chứng nào cho thấy Hoa Kỳ đă bí mật đưa Ngô Đ́nh Diệm vào chức vụ thủ tướng năm 1954. Vào tháng 5 năm 1954, Bảo Đại hầu như không c̣n lựa chọn nào khác ngoài việc giao cho Ngô Đ́nh Diệm chức thủ tướng với những điều kiện mà Ngô Đ́nh Diệm đă đ̣i hỏi từ lâu: Quốc gia Việt Nam phải có toàn quyền trong mọi khía cạnh hành chính, quân sự và kinh tế.33
Trong thời kỳ đầu làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam, thực tế ông không có quyền lực đối với các lực lượng quân đội, cảnh sát với những người đứng đầu là Nguyễn Văn Hinh và Lê Văn Viễn. Hai lực lượng này liên minh với nhau nhằm chống lại chính phủ trung ương, trong khi thủ tướng cũng không kiểm soát được bộ máy quan chức dân sự v́ các viên chức Pháp đang c̣n nhiều, nắm giữ các vị trí then chốt. Nền tài chính vẫn do ngân hàng Đông Dương mà phía sau là chính phủ Pháp quản lư. Thực tế trong giai đoạn đầu cầm quyền thủ tướng ông không có nhiều quyền hành.
Được Mỹ ủng hộ
Mỹ cho rằng Hiệp định Genève, 1954 là một tai họa đối với thế giới tự do v́ nó trao cho Trung Hoa cộng sản và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa căn cứ để khai thác tại Đông Nam Á. Mỹ muốn ngăn chặn điều này bằng cách kư kết Hiệp ước SEATO ngày 8 tháng 9 năm 1954 và mong muốn biến miền Nam Việt Nam thành một pháo đài chống cộng. Để làm được điều này Mỹ cần sự ủng hộ của Quốc gia Việt Nam.39 Kế hoạch của Mỹ là viện trợ cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm để giúp miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập với Pháp (đó là cách duy nhất để lôi kéo những người dân tộc chủ nghĩa rời xa Việt Minh và ủng hộ Quốc gia Việt Nam); Mỹ cũng thúc đẩy Ngô Đ́nh Diệm thành lập một chính quyền đoàn kết quốc gia đại diện cho những xu hướng chính trị chính tại Việt Nam, ổn định miền Nam Việt Nam, bầu ra Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp rồi sau đó phế truất Quốc trưởng Bảo Đại một cách hợp pháp; cuối cùng do Ngô Đ́nh Diệm là một người quốc gia không có liên hệ ǵ trong quá khứ với Việt Minh và Pháp do đó miền Nam Việt Nam sẽ trở nên chống Cộng mạnh mẽ. Công thức này đ̣i hỏi một sự hợp tác từ cả Pháp và Mỹ để hỗ trợ Ngô Đ́nh Diệm40 . Tuy nhiên, Pháp không có thiện cảm với Ngô Đ́nh Diệm, Ngoại trưởng Pháp Edgar Faure (sau này là thủ tướng Pháp) cho rằng Diệm "không chỉ không có khả năng mà c̣n bị điên"41 ... Pháp không thể chấp nhận rủi ro với ông ta"42 , hơn nữa Pháp đang bị chia rẽ chính trị nội bộ và gặp khó khăn tại Algérie nên rất miễn cưỡng trong việc giúp đỡ Quốc gia Việt Nam43 do đó Mỹ đă tiến hành kế hoạch một ḿnh mà không có Pháp trợ giúp.
Thủ tướng Pháp Edgar Faure c̣n đe dọa rút hết quân đội Pháp ra khỏi Đông Dương vào cơ hội sớm nhất, gây thêm xáo trộn. Tổng Tham mưu Hoa Kỳ th́ cho rằng: "Chính phủ Diệm có khả năng lớn nhất để ổn định nội bộ, một điều cần thiết cho an ninh Việt Nam. Bởi vậy, việc Pháp rút lui tuy tuy rằng sẽ làm cho Miền Nam kém ổn định, nhưng rồi các biện pháp của Mỹ trong khuôn khổ SEATO sẽ giúp cho Miền Nam được an toàn, không kém ǵ sự có mặt tiếp tục của quân đội Pháp." Ủy ban Kế Hoạch của Hội đồng An Ninh Quốc gia b́nh luận thêm "Việc Pháp rút lui lại giúp cho Hoa Kỳ hết bị dính vào dấu vết của thực dân (‘taint of colonialism’) và chấm dứt khả năng nguy hiểm là Pháp sẽ làm một sự đổi chác với Việt Minh."41
Sau những cuộc tiếp xúc với các lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, một số chính trị gia Pháp cho rằng Quốc gia Việt Nam đă suy yếu và biện pháp duy nhất có thể cứu văn t́nh thế là hợp tác với Việt Minh và lôi kéo họ khỏi sự ràng buộc với khối cộng sản với hy vọng tạo ra một Việt Minh theo kiểu Tito có thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả năng tham gia khối Liên hiệp Pháp. Điều này làm Mỹ lo sợ. Ngày 23/10/1954, tổng thống Hoa Kỳ - Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm cho biết từ đây chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ không qua nhà đương cục Pháp như trước.44
Xung đột với Pháp
Ngô Đ́nh Diệm muốn miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc Pháp lẫn Bảo Đại. Ông cho rằng Pháp đă thất bại trong cuộc chiến chống lại người cộng sản cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chế độ thuộc địa đă chấm dứt và những lời hứa hẹn của Pháp về nền độc lập của Việt Nam đă bị phá vỡ. Theo ông cơ hội duy nhất cho chính phủ quốc gia Việt Nam đứng vững được là phải thoát khỏi những ảnh hưởng c̣n sót lại của Pháp, và ông quyết định phải thực hiện mục tiêu đó. Quan điểm của Ngô Đ́nh Diệm là "Muốn thuyết phục được nhân dân Việt Nam là chính quyền này độc lập th́ cần thiết về mặt chính trị phải tỏ ra là chống thực dân và đặc biệt là chống Pháp"45 . Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông băi bỏ quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương (một cơ quan do Pháp thành lập), từ nay giấy bạc lưu hành trên lănh thổ miền Nam sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mới thành lập phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ Quốc gia Việt Nam quản lư. Tiếp đó ông yêu cầu chính phủ Pháp trong ṿng năm tháng thực hiện chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam mọi công tác của Quân đội Quốc gia Việt Nam c̣n phụ thuộc vào bộ chỉ huy Liên hiệp Pháp.
Phản ứng lại hành động của Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đang từng bước loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam, Pháp muốn duy tŕ ảnh hưởng tại miền Nam nhưng lại gặp phải một Thủ tướng có tinh thần dân tộc nên họ t́m mọi cách loại bỏ để thay thế bằng một người lănh đạo thân Pháp. Thông qua một số nhân vật ngoại giao như đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài G̣n, đại sứ Mỹ Douglas Dillon tại Paris, Pháp t́m cách thuyết phục Mỹ đồng ư loại trừ ông Diệm bằng cách chỉ trích ông thiếu năng lực và không có khả năng đại diện nhân dân v́ không có được sự cộng tác và ủng hộ của các phe phái tại Miền Nam do đó không có khả năng thắng trong cuộc Tổng tuyển cử dự tính được tổ chức năm 1956. Tài liệu mật số 1691/5 (ngày 15 tháng 4 năm 1955) của Bộ Quốc pḥng Mỹ ghi nhận Pháp muốn giữ vai tṛ lịch sử lâu dài của ḿnh tại Việt Nam và bảo vệ những đầu tư kinh tế, tài chính của Pháp tại đây.41
Lúc đó, Quốc trưởng Bảo Đại vẫn c̣n ở Cannes, quân đội Việt Nam c̣n nằm trong Liên Hiệp Pháp, và Tổng Tham mưu Trưởng quân đội, tướng Nguyễn Văn Hinh (con trai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, người nổi tiếng thân Pháp) là một sĩ quan cũ trong Không quân Pháp, có vợ là người Pháp. Cảnh sát do lực lượng B́nh Xuyên nắm giữ (thủ lĩnh là tướng Lê Văn Viễn), ngay cả lực lượng an ninh văn pḥng phủ Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm cũng do cảnh sát gửi đến. Chính v́ thế Pháp t́m cách loại trừ Ngô Đ́nh Diệm hoặc bằng một cuộc đảo chính, hoặc bằng cách thuyết phục Bảo Đại cách chức ông Diệm và bất hợp tác với Mỹ trong việc huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam. Pháp tổ chức một cuộc họp chính trị có sự tham dự của tướng Nguyễn Văn Hinh, lănh đạo các giáo phái, một số quan chức Pháp và đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài G̣n để đề nghị mọi người đồng ư thay thế chính phủ Diệm.41
Tướng Nguyễn Văn Hinh có tham vọng làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam bắt đầu công khai chống lại Thủ tướng Diệm46 và c̣n khoe "Tôi chỉ cần nhấc cái ống điện thoại lên là có thể dẹp được Diệm rồi.". Ngô Đ́nh Diệm đối phó bằng cách ra lệnh cho Tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ để nghiên cứu trong sáu tuần và phải xuất ngoại trong 24 giờ. Tướng Nguyễn Văn Hinh bất tuân thượng lệnh. Một tuần sau, ông cho phổ biến tuyên bố về việc ông không tuân lệnh ông Diệm và một điện tín ông đă gửi thẳng cho Quốc trưởng Bảo Đại yêu cầu can thiệp. Cùng ngày, Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố tướng Hinh nổi loạn. Tướng Hinh cho xe thiết giáp bảo vệ tư dinh của ḿnh, đồng thời phái một lực lượng bao vây Dinh Độc Lập. Trong thời gian 6 tuần tiếp theo, t́nh h́nh đi tới chỗ bế tắc. Ngày 20 tháng 9 năm 1954, 15 bộ Trưởng trong nội các Ngô Đ́nh Diệm đồng loạt từ chức. Quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Văn Hinh cũng đă sẵn sàng chờ lệnh để tấn công.41
Trước t́nh thế đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi công điện cho Đại sứ Donald R. Heath và tướng John W. O'Daniel chỉ thị phải "nói không úp mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ không dự trù hoặc triển hạn những viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu c̣n một chút nghi ngờ ǵ về sự trung thành của vị tổng tham mưu trưởng và các sĩ quan cao cấp."41
Cố vấn quân sự Mỹ là Edward Lansdale, người chịu trách nhiệm hỗ trợ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, đàm phán với tướng Tŕnh Minh Thế về việc sử dụng lực lượng vũ trang của ông ta để hỗ trợ cho Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm và Quân đội Việt Nam Cộng ḥa.
Sau khi Ngô Đ́nh Nhu và Edward Lansdale phát hiện được âm mưu đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh, Edward Lansdale đă mua chuộc được các sĩ quan cấp dưới của tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ mát. Thiếu những thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính đă không thể tiến hành được.47
Ngô Đ́nh Diệm đă buộc tướng Nguyễn Văn Hinh từ chức, giao quyền lại cho tướng Nguyễn Văn Vỹ. Nguyễn Văn Hinh chạy đến Paris vào ngày 13 tháng 11 năm 195441 48 . Ngô Đ́nh Diệm đồng thời cương quyết từ chối cho thủ lĩnh Lực lượng B́nh Xuyên là tướng Bảy Viễn (tức Lê Văn Viễn) tham gia chính quyền dù Bảy Viễn đe dọa "tắm máu" Sài G̣n nếu yêu cầu của ḿnh không được đáp ứng.4
Tháng 12 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm xóa bỏ tất cả các hiệp ước kinh tế, tài chính kư kết với Pháp trước đó, yêu cầu Pháp hủy bỏ Hiệp định Geneve và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Sau đó Ngô Đ́nh Diệm rút đại diện của Quốc gia Việt Nam ra khỏi Liên hiệp Pháp. Ngày 22 tháng 3 năm 1956, Pháp thỏa thuận với Quốc gia Việt Nam rút toàn bộ quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam. Ngày 26 tháng 4 năm 1956, Pháp giải thể Bộ chỉ huy quân sự Pháp tại Sài G̣n.49
Xung đột với Quốc trưởng Bảo Đại
Ngoài ra Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm trực tiếp đối đầu với Quốc trưởng Bảo Đại khi ông thông qua Dụ số 21 ngày 11 tháng 3 năm 1955 chính thức sát nhập vùng đất Hoàng triều Cương thổ lại vào Trung phần50 chấm dứt đặc quyền của người Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại trên vùng Thượng và danh xưng Cao nguyên Trung phần được dùng lại. Ông c̣n tổ chức những chiến dịch tuyên truyền chống lại Quốc trưởng Bảo Đại51 .
Quốc trưởng Bảo Đại thấy không điều khiển được Ngô Đ́nh Diệm nên cũng tán thành theo người Pháp, gây áp lực đ̣i Mỹ rút lại mọi ủng hộ cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và gây sức ép buộc ông ta phải từ chức. Bảo Đại muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng, hoặc Phó thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham mưu trưởng c̣n tướng B́nh Xuyên Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Các giáo phái lớn tại miền Nam quyết định không hoàn toàn ủng hộ bên nào.4
Ngày 18 tháng 10 năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại ra thông cáo từ văn pḥng của ông ở Paris tuyên bố cách chức Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đ́nh Diệm với lư do "việc dùng các biện pháp công an trị và chế độ độc tài cá nhân phải kết thúc, tôi không thể tiếp tục để tên tuổi và quyền lực của ḿnh vào tay một người sẽ khiến cả nước rơi vào đổ nát, đói kém và chiến tranh.". Tuy nhiên Ngô Đ́nh Diệm đă chặn được thông điệp này khiến nó không đến được với dân chúng.52
Âm mưu thay thế Ngô Đ́nh Diệm của Mỹ
Sau đó, Tổng thống Mỹ Eisenhower cử ông Joseph Lawton Collins thay thế Donald R. Heath làm đại sứ tại Việt Nam. Tướng Pháp Paul Ély thuyết phục Collins chống Ngô Đ́nh Diệm. Collins chỉ trích Ngô Đ́nh Diệm yếu kém và đề nghị Mỹ t́m cách thay thế Ngô Đ́nh Diệm41 . Collins quay về Mỹ vài lần, thuyết phục chính phủ Mỹ gây sức ép buộc Ngô Đ́nh Diệm từ chức. Thời điểm này, chính phủ của Ngô Đ́nh Diệm cũng như bản thân ông tồn tại được thực chất là nhờ những tác động hết sức cần thiết của những người bạn là dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ mà ông đă tranh thủ được khi sang Mỹ vận động vào năm 1950. Khi Collins yêu cầu Washington phải thay thế Ngô Đ́nh Diệm, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles tham vấn Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Thượng nghị sĩ Mike Mansfield khen ngợi Ngô Đ́nh Diệm hết lời nên Ngoại trưởng Dulles chỉ thị Collins tiếp tục ủng hộ ông Diệm.4
Khi Collins trở về Mỹ, ngày 22 tháng 4 năm 1955, ông dùng bữa trưa với Tổng thống Eisenhower. Sau đó ông gặp Ngoại trưởng Dulles cùng với các đại diện Bộ Quốc pḥng và Trung ương T́nh báo để thuyết phục các quan chức Mỹ khác đồng ư thay thế Ngô Đ́nh Diệm và phải có kế hoạch hành động ngay tức khắc. Collins đề nghị ông Phan Huy Quát thay thế Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 27 tháng 4 năm 1955, Ngoại trưởng Mỹ Dulles gửi điện cho Collins rằng "Tướng Collins và Ely phải thông báo cho ông Diệm biết rằng v́ lư do ông không thành lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng răi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ Hoa kỳ và Pháp không c̣n đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chính phủ mới nào được chỉ định..."41
Mật điện này lọt ra ngoài, Thủ tướng Diệm biết được nên đă ra lệnh tấn công quân B́nh Xuyên trong lúc ông Collins c̣n đang trên đường về Sài G̣n, điều này khiến Mỹ không thể hỗ trợ lực lượng nào tại Việt Nam gây sức ép buộc Diệm từ chức.41 Sau đó Bộ ngoại giao Mỹ tiếp tục sẵn sàng xem xét các đề nghị thay thế Ngô Đ́nh Diệm nhưng không t́m thấy chính trị gia nào có thể cạnh tranh với Diệm.46
Từ chối tổng tuyển cử
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố "Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà b́nh và dân chủ", "thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ" nhưng ông bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vốn được dự kiến diễn ra vào tháng 7 năm 1956 theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Genève với lư do không thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc.53 và bác bỏ ngay cả những thảo luận sơ khởi với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa về vấn đề tuyển cử thống nhất Việt Nam. Hành động này khiến Ngô Đ́nh Diệm bẽ mặt ở phương Tây.54
Theo Mortimer T. Cohen th́ Ngô Đ́nh Diệm không chấp nhận tổng tuyển cử, v́ ông biết rằng ḿnh sẽ thua. Không ai có thể thắng cử trước Hồ Chí Minh, v́ ông là một George Washington của Việt Nam.55 Báo cáo của CIA gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng cho rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử.56 Do vậy Hoa Kỳ đă hậu thuẫn cho Ngô Đ́nh Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17 để không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam57 . Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam v́ vậy đă không bao giờ được tổ chức.
Theo nhận xét của Tây phương th́ Ngô Đ́nh Diệm là kẻ ngoan cố và khao khát quyền lực chuyên chế, nhưng theo Duncanson th́ vấn đề phức tạp hơn thế. Miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam 2 triệu người (tính cả gần 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam). Hơn nữa, vào thời điểm 1955 – 1956, trước sự hỗn loạn bởi các giáo phái và do hoạt động bí mật của Việt Minh tại miền Nam, cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam tạo ra bầu không khí căng thẳng dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân tại các vùng lân cận Vinh, những t́nh h́nh diễn ra ở cả hai miền khiến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến Đông Dương không có hy vọng đảm bảo một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ư muốn mà không sợ bị trả thù chính trị.54 Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm của Ducanson, theo các báo cáo của Ủy ban giám sát quốc tế th́ trong giai đoạn 1954-1956, họ chỉ nhận được 19 đơn khiếu nại về việc trả thù chính trị trên toàn lănh thổ miền Bắc Việt Nam58 .
Năm 1956, Ngoại trưởng Allen Dulles đệ tŕnh lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra th́ "thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi". Trong t́nh thế này, Ngô Đ́nh Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đ́nh Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Theo Cecil B. Currey, Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không59 .
Báo Độc Lập của Đảng Dân chủ Việt Nam có viết: "Cho nên mới tháng 9 năm 1954 nghĩa là hai tháng sau ngày kư Hiệp định đ́nh chiến th́ chúng đă nghĩ ra "sáng kiến" là làm thử tổng tuyển cử vài nơi ở miền Nam. Ở Vĩnh Trà (Nam Bộ), tay sai của Ngô Đ́nh Diệm t́m cách mua chuộc nhân dân bằng cách đưa vải về một làng, phát cho dân rồi tuyên truyền cho Bảo Đại, phát phiếu cho dân làng bầu. Kết quả mà chúng lo sợ đă đến: chúng đă không mua chuộc nổi: 95% số phiếu dồn cho Hồ Chủ tịch, Bảo Đại chỉ được 5%. Chúng uất đến tận cổ. Báo cáo kết quả lên "thượng cấp" th́ lại bị chỉnh một mẻ nên thân. "Thượng cấp" cho là chúng không tích cực tuyên truyền vận động, và bắt chúng phải làm lại. Chúng lại t́m cách mua chuộc một lần nữa. Một số vải, gạo, thuốc men, đưa về để phát cho dân, kèm theo một đợt tuyên truyền thứ hai. Nhưng cũng như lần trước, không ai chịu để chúng mua chuộc. Kết quả cuộc bỏ phiếu thứ hai là 100% bầu Hồ Chủ tịch. Ở cực Nam Liên khu V cũng diễn ra tṛ hề tương tự, và cũng thất bại không kém chua cay"60 .
Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa
Trở thành Tổng thống
Hiệu kỳ Tiết trực tâm hư của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
Huy hiệu Tổng thống Đệ Nhất Cộng ḥa
Dấu triện của Nha Tổng giám đốc xă hội trực thuộc Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa
Khi Quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho Ngô Đ́nh Diệm sang Pháp để tường tŕnh về việc trấn áp B́nh Xuyên th́ ông đă sửa soạn ra đi nhưng những người ủng hộ ông can ngăn. Theo tướng Trần Văn Đôn th́ Bảo Đại dự định khi Ngô Đ́nh Diệm ra khỏi nước sẽ cách chức liền, đưa Lê Văn Viễn, Tư lệnh B́nh Xuyên lên làm Thủ tướng.41
Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đă dẹp yên và thu phục lực lượng B́nh Xuyên, lực lượng vũ trang của các giáo phái Hoà Hảo, Cao Đài được Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông. Trong nước, ông được Ủy ban Cách mạng Quốc gia gồm nhiều đoàn thể, đảng phái ủng hộ. Ông cũng được gần một triệu người di cư hậu thuẫn mạnh mẽ. Ngoài nước, Ngô Đ́nh Diệm đă cương quyết chống trả kế hoạch lật đổ ông của hai tướng Ély-Collins nên bây giờ được Washington ủng hộ.41
Quốc gia Việt Nam tổ chức cuộc trưng cầu dân ư miền Nam Việt Nam, 1955 đă phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm trở thành Quốc trưởng. Cuộc trưng cầu dân ư bị tố cáo là gian lận như tại Sài G̣n, Ngô Đ́nh Diệm chiếm được 605.025 lá phiếu trong khi khu vực này chỉ có 450.000 cử tri ghi tên.61 62
Sau đó Quốc trưởng Ngô Đ́nh Diệm tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này ban hành Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng ḥa. Chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và sau đó ông được bầu làm Tổng thống nền Đệ Nhất Cộng ḥa Việt Nam. Hai năm sau, năm 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị tổng thống của Việt Nam Cộng hoà.
Ngày 22 tháng 10 năm 1960, Tổng thống Mỹ Eisenhower gửi thư cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm "Chúng tôi đă chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đă biểu dương để đạt tới độc lập trong một t́nh huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đă coi như là vô vọng. Chúng tôi c̣n ngưỡng mộ khi t́nh trạng hỗn loạn ở Miền Nam đă nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đă thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ quá là nhanh chóng..."41
Hiến pháp Đệ Nhất Cộng ḥa 1956 do chính Ngô Đ́nh Diệm tham gia soạn thảo đă trao cho ông quyền lực rất lớn, có thể toàn quyền khống chế bộ máy nhà nước, thể hiện qua những điểm:
Khi Tổng thống phủ quyết một đạo luật, Quốc hội phải hội đủ số 3/4 mới được tái thông qua. Mà 3/4 này phải “minh danh đầu phiếu” (điều 58), như vậy Ngô Đ́nh Diệm có thể biết ai đă chống lại quyền phủ quyết của ḿnh.
Một Viện Bảo hiến có được quy định để nghiên cứu và quyết định xem các điều khoản có bất hợp hiến không, nhưng viện này gồm 9 người th́ vị chủ tịch và 4 thẩm phán hay luật gia đă do Ngô Đ́nh Diệm bổ nhiệm (điều 86). Tổng thống có quyền đề nghị sửa đổi hiến pháp (điều 90) và Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp phải tham khảo ư kiến của Viện Bảo hiến (mà 5/9 người đă là do Tổng thống chỉ định) và c̣n của cả Tổng thống nữa (điều 91).
Ngô Đ́nh Diệm không bắt buộc phải điều trần trước Quốc hội, không chịu trách nhiệm trước Quốc hội và không thể bị Quốc hội bất tín nhiệm để cách chức. Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội “bằng thông điệp” và nếu muốn “có thể dự các phiên họp của Quốc hội”, cũng như chỉ “khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết t́nh h́nh Quốc gia” (điều 39).
Tóm lại, theo Hiến pháp 1956, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm có đầy đủ quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà ông không vừa ư, cũng như dễ dàng ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho ḿnh. Ngoài ra, Hiến pháp ghi là dân tộc có "sứ mệnh" trước "Đấng Tạo hóa" nên nhiều người cho rằng đây chứng minh sự thiên vị của chính quyền với Thiên Chúa giáo trong khi các tôn giáo khác không được đề cập đến.63
Thiếu tướng Đỗ Mậu của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, trong cuốn hồi kư "Tâm thư", nói về việc tranh cử nghị sĩ thời Ngô Đ́nh Diệm như sau64 :
Thời Đệ Nhất cộng ḥa (chế độ ông Diệm) nếu muốn ra tranh cử để thắng th́ ông phải được đảng Cần Lao (của ông Diệm) hay Phong trào Cách mạng quốc gia đỡ đầu. Ngoài ra ông phải được ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Đức cha Thục, bà Nhu... giới thiệu mới ḥng đắc cử. C̣n ông mà thân cô, thế cô mà muốn ra (tranh cử quốc hội) th́ cứ việc đóng tiền để mua lấy thất cử! C̣n mánh lới như thế nào th́ t́m hỏi mấy người lớn tuổi có liên quan đến tranh cử sẽ rơ.
Ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đ́nh Diệm thường nói: "Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lănh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, c̣n dân miền Nam chỉ làm tướng vơ biền". Cách hành xử của ông Diệm cũng rất cao ngạo. Ông xem Việt Nam Đệ Nhất Cộng ḥa là quốc gia của riêng ông và của gia đ́nh ông. Ông ban phát ân huệ cho thuộc cấp theo ngẫu hứng, bất chấp năng lực lẫn t́nh h́nh thực tế. Không có ǵ là quá ngạc nhiên khi nhiều sử gia gọi Việt Nam Đệ Nhất Cộng ḥa là Ngô triều. Theo nhiều hồi kư của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, th́ khi vào cửa Tam quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: "Các ông đi cổng hai bên, v́ cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc này". Dứt câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Nội chuyện xây dựng Dinh Độc Lập và ư định dời đô từ Sài G̣n lên cao nguyên đă khiến ông Diệm càng trở nên xa cách với giới tướng lĩnh. Ngay cả người gần gũi với gia đ́nh ông như tướng Trần Văn Đôn c̣n bất măn với sự độc đoán này của ông Diệm65 .
Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng nhận xét:
“Lúc ấy sau ba lần thắng B́nh Xuyên và áp dụng biện pháp mạnh đối với các giáo phái, thắng lợi, Ngô Đ́nh Diệm bắt đầu có lông có cánh, ra mặt chống Bảo Đại, không đi Pháp để tŕnh với Quốc trưởng về các biến cố ở nước nhà, mà ở ĺ trong nước tập làm độc tài cỏ, đưa họ hàng lên nắm hết các chức vụ quan trọng… Nam Việt Nam lúc bấy giờ là một nhà nước cảnh sát do hai gia đ́nh quan lại Trần Văn và Ngô Đ́nh nắm hết quyền hành. Gia đ́nh Trần Văn c̣n trung thành phần nào với tập tục cổ truyền của nhà vua Bảo Đại, chớ họ Ngô Đ́nh th́ trắng trợn ly khai với chế độ cũ và nuôi cái mộng lập một triều đại mới: triều đại Ngô Đ́nh.
Cố nhiên muốn thực hiện mộng đó, phải tàn ác diệt trừ những cá nhân, đoàn thể chống đối, mà cá nhân và đoàn thể chống đối lúc ấy là những người gốc ở miền Bắc và miền Nam chỉ muốn nhà Ngô giữ lời đă hứa là tổ chức một cuộc bầu cử để họ có thể bầu người đại diện của họ lên lo việc nước. Theo những người có tiếng là chống đối này, ông Diệm “là một lính nhảy dù do Mỹ thả từ trên trời xuống mà không có rễ ở dưới đất”.
Báo chí cúi đầu theo răm rắp, suy tôn Ngô tổng thống. Vào chiếu bóng, rạp hát, phải chào cờ và đứng nghiêm nghe nhạc trổi bài “Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô tổng thống – Ngô tổng thống, Ngô tổng thống… muôn năm” cho đến khi lá cờ vàng sọc đỏ mờ dần cùng với cái h́nh ông Diệm lùn mập.
Báo chí không lúc nào ngưng suy tôn Ngô tổng thống. Mọi việc đều trơn tru, êm đẹp. Nếu không có Ngô tổng thống th́ toàn dân chết không c̣n một mống. Muôn năm, muôn năm!66”
Cải cách điền địa
Quyết tâm tránh các biện pháp mà Ngô Đ́nh Diệm coi là "ăn cướp và tra tấn dă man" như phong trào Cải cách ruộng đất tại miền Bắc, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm chỉ thị cho các quan chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn, chứ không tịch thu67 . Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn này để bán cho các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không phải trả lăi trong kỳ hạn sáu năm để mua. Tuy vậy, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đ́nh Diệm đề ra bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Trong khi Việt Minh đă giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đ́nh Diệm đă đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đ́nh Diệm, 10% chủ đất đă nắm giữ 55% đất canh tác cả miền Nam. Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp cho quân đội. Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đ́nh Diệm bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn Pháp". Đất của các Giáo xứ Công giáo th́ c̣n được Ngô Đ́nh Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đ́nh Diệm.68
Thi hành chính sách chống Cộng
Tổng thống Mỹ Eisenhower đón tiếp tổng thống Ngô Đ́nh Diệm tại Sân bay quốc tế Washington Dulles, ngày 8 tháng 5 năm 1957
Sau khi lên làm tổng thống, ông giữ mọi quyền cai quản đất nước với người em Ngô Đ́nh Nhu làm cố vấn và cả hai người đều sử dụng các phương pháp cứng rắn để chống lại những người kháng chiến Việt Minh được sự hỗ trợ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc. Trong khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được xây dựng trên học thuyết xă hội chủ nghĩa th́ hai anh em xây dựng Chủ nghĩa nhân vị như là một học thuyết làm nền tảng ư thức hệ cho nhà nước ở miền Nam Việt Nam với chính đảng Cần lao Nhân vị.
Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1955) sẽ rút khỏi lănh thổ của phía bên kia. Lực lượng Quân đội Nhân dân ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng theo ước tính của Mỹ, vẫn c̣n 100.00069 cán bộ, đảng viên các ngành vẫn ở lại.70 (Hiệp định Genève chỉ quy định việc tập kết lực lượng quân sự, nên các thành viên Việt Minh không thuộc quân đội mà thuộc các bộ phận dân vận, hành chính, hội đoàn... vẫn có quyền ở lại miền Nam). Đồng thời một số cán bộ chính trị Việt Minh dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lănh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm t́nh h́nh lực lượng vũ trang giáo phái70 , một số vũ khí và đạn dược cũng được chôn giấu để dự pḥng việc Hiệp định Geneve không được thi hành bởi đối phương.71 Bên cạnh đó Trung ương Đảng đă cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lănh đạo phong trào hoặc hoạt động trong hàng ngũ đối phương.72
Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương dùng nhiều h́nh thức tuyên truyền chống chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và sử dụng các tổ chức hợp pháp (hội đồng hương, công đoàn, vạn cấy...) tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị đ̣i thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ - đảng viên. Hoạt động vũ trang bị hạn chế nên thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa hai bên. Các vụ bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi diệt ác trừ gian, hỗ trợ các giáo phái chống chính quyền Ngô Đ́nh Diệm hoặc thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái73 , hoặc dưới h́nh thức các tổ chức quần chúng (dân canh, chống cướp...) để đấu tranh chính trị.
Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng ḥa 1956 quy định "Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi h́nh thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp". Việt Nam Cộng ḥa "kêu gọi" những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.74 Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Việt Minh vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu t́nh chính trị gây sức ép lên chính phủ Việt Nam Cộng ḥa.
Một ấp chiến lược ở miền Nam.
Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị đ̣i thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước bằng cách thực hiện chiến dịch tố cáo cộng sản nằm vùng nhằm loại bỏ những cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật. Chính quyền của Ngô Đ́nh Diệm luôn luôn quan niệm cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu. Phải đẩy mạnh nhiệm vụ chống cộng.75 Ông Ngô Đ́nh Diệm rất nổi tiếng với các khẩu hiệu: "đồng tâm diệt cộng"76 , "tiêu diệt cán bộ nằm vùng", "tiêu diệt cộng sản tận gốc", "giết nhầm c̣n hơn bỏ sót"; thể hiện quyết tâm chống Chủ nghĩa Cộng sản tới cùng của ông.77 [cần số trang] Để thể hiện lập trường sẽ tận diệt cán bộ Việt Minh, những Ngô Đ́nh Diệm đă tuyên bố công khai:
“ "Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay"78 ”
Máy chém thời Ngô Đ́nh Diệm (Bảo tàng TP. Cần Thơ). Theo John Guinane, chỉ tính từ 1957 tới 1959, đă có hơn 2.000 người bị Việt Nam Cộng ḥa hành quyết với tội danh ủng hộ những người cộng sản, thường là bằng máy chém79
Ngô Đ́nh Diệm hiểu rơ những cán bộ Việt Minh là đối thủ lớn nhất đe dọa quyền lực của ông ta, và uy tín của ông ta không thể sánh được với Việt Minh, những người vừa lănh đạo nhân dân đánh bại quân Pháp. Theo lời khuyên của Edward Lansdale, để xóa đi uy tín của Việt Minh trong nhân dân, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm không gọi họ là Việt Minh nữa mà sử dụng tên gọi mới là "Việt Cộng", để người dân miền Nam tưởng rằng đây là 2 lực lượng khác nhau.80 Nhằm triệt để tiêu diệt ảnh hưởng của Việt Minh trong nhân dân, Ngô Đ́nh Diệm c̣n ra lệnh đập phá các tượng đài kháng chiến và san bằng nghĩa trang của những liệt sĩ Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương, một hành vi xúc phạm nghiêm trọng tục lệ thờ cúng của người Việt81 .
Theo báo Nhân dân, ngay từ cuối năm 1954, theo lệnh Mỹ, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chí Thạnh, Chợ Được, Mỏ Cày, Củ Chi, B́nh Thành,v.v.82 Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đ́nh Diệm phát động "chiến dịch tố cộng" giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở chiến dịch Thoại Ngọc Hầu càn quét những khu từng là căn cứ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh. Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia pḥng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách quyết liệt83 không tính đến các đặc điểm tâm lư và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Những biện pháp cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đă nổ súng trấn áp đoàn biểu t́nh ở thị xă G̣ Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương.84
Trong thời gian từ 1955 đến 1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam,69 theo một nguồn khác có khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại tập trung.85 Điều này đă làm biến dạng mô h́nh xă hội, suy giảm niềm tin của dân chúng vào chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và đẩy những người kháng chiến (Việt Minh) vào rừng lập chiến khu. Việt Minh đáp trả bằng những cuộc biểu t́nh đ̣i thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc diệt ác trừ gian - tiêu diệt nhân viên và cộng tác viên của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm được gọi là "bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm".86
Để tăng tính uy hiếp, Việt Nam Cộng ḥa sử dụng cả máy chém để hành quyết phạm nhân. Nhiều vụ xử chém của Việt Nam Cộng ḥa được diễn ra công khai trước dân chúng, đầu phạm nhân được đem bêu để cảnh cáo. Báo The Straits Times (Singapore) ngày 24 tháng 7 năm 1959 có bài viết tường thuật cảnh 1.000 người dân xem xử chém ở Sài G̣n87 Báo Buổi sáng (Sài G̣n) ngày 15-10-1959 có viết: “Theo một phán quyết của phiên xử vắng mặt của Ṭa án Quân sự Đặc biệt ngày 02 tháng 10, Nguyễn Văn Lép, tức Tư Út Lép, một Việt Cộng, đă bị tuyên án tử h́nh. Cách đây một tuần, Lép đă bị sa vào lưới của Cảnh sát trong một khu rừng ở Tây Ninh. Bản án tử h́nh đă được thi hành … Hiện đầu và gan của tên tử tù đă được Hội đồng xă Hào Đước cho đem bêu trước dân chúng”88 .
Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10-59, sau đó được tổng thống Việt Nam Cộng ḥa là Ngô Đ́nh Diệm kư ban hành. Luật này quy định việc tổ chức các Ṭa án quân sự đặc biệt với lư do "xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Ḥa", mục đích nhằm tiến hành thanh trừ những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Theo luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều tra, án phạt chỉ có hai mức: tử h́nh hoặc tù khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là tối đa, không có ân xá hoặc kháng án; dụng cụ tử h́nh có cả máy chém. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố, đặc biệt là các đảng viên Đảng cộng sản nên lực lượng bị thiệt hại nặng nề.89
Chính sách kinh tế - văn hóa - xă hội
Kinh tế
Nhà máy giấy An Hảo
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam Cộng ḥa, qua 20 năm trung b́nh đạt 3,9%/năm (b́nh quân đầu người tăng 0,8% mỗi năm)
Thời kỳ Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm nắm quyền là giai đoạn mà kinh tế của Việt Nam Cộng ḥa tăng trưởng tương đối nhanh (giai đoạn 1955-1960) và tăng trưởng vừa phải (1960-1963), song vẫn giữ được mức độ tăng giá vừa phải. Ngân sách Nhà nước thời gian đầu cân đối thậm chí có thặng dư, song từ năm 1961 trở đi bắt đầu chuyển sang thâm hụt. Mức độ đầu tư lớn, nông và công nghiệp nói chung đều phát triển mạnh.
Năm 1955, chính quyền Đệ Nhất Cộng ḥa thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm quyết định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Viện Hối đoái, phát hành đơn vị tiền tệ mới thay cho tiền Đông Dương, ấn định tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam Cộng ḥa và dollar Mỹ là 35:1.
Năm 1956, Việt Nam Cộng ḥa ban hành hiến pháp trong đó có nêu rơ việc thành lập và vai tṛ của Hội đồng Kinh tế Quốc gia. Phó Tổng thống sẽ làm chủ tịch hội đồng này. Cũng năm 1956, Việt Nam Cộng ḥa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế.90
Tháng 3 năm 1957, Ngô Đ́nh Diệm đọc "Tuyên ngôn của Tổng thống Đệ Nhất Cộng ḥa" trong đó có kêu gọi đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước, cam kết về những quyền lợi họ và những khuyến khích đầu tư (ưu đăi về thuế thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế lợi tức). Để khuyến khích phát triển doanh nghiệp, chính phủ đă thành lập Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ để giúp đỡ các doanh nhân khởi nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp về công nghệ và tín dụng, hỗ trợ công nghệ và hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp.
Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa đă tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên ḥa, thỏa măn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy tại miền Nam91 ; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 196192 . Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu c̣n được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm). Thời kỳ 1955-1964 là thời kỳ thuận lợi nhất của xuất khẩu của Việt Nam Cộng ḥa.
Ngô Đ́nh Diệm cùng em trai ông Ngô Đ́nh Nhu chủ trương phát triển kinh tế - xă hội theo con đường thứ ba là sự kết hợp những ưu điểm của kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường, là sự dung ḥa giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Chính v́ vậy vai tṛ của chính phủ trong phát triển kinh tế thể hiện rơ qua việc triển khai kế hoạch kinh tế 5 năm (Việt Nam Cộng ḥa gọi là Ngũ niên Kinh tế Kế hoạch do Tổng nha Kế hoạch thiết kế) từ năm 1957 tới 1962 (Kế hoạch Ngũ niên I) và từ năm 1962 tới 1966 (Kế hoạch Ngũ niên II). Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa c̣n thành lập khu công nghiệp (hay khu kỹ nghệ theo cách gọi tại Việt Nam Cộng ḥa lúc đó) để tạo thuận lợi cho đầu tư vào lĩnh vực chế tạo. Cụ thể, Khu kỹ nghệ Biên Ḥa được thành lập vào tháng 5 năm 1963, và Công ty Quốc gia Khuếch trương Khu Kỹ nghệ (SONADEZI - Société nationale du Dévelopment dé zones industrielles) được thành lập vào tháng 12 năm 1963 để quản lư và phát triển các khu công nghiệp, Khu kỹ nghệ Phong Dinh (Cần Thơ ngày nay) được thành lập vào năm 1967, và Khu kỹ nghệ An Ḥa - Nông Sơn (Quảng Ngăi) được thành lập từ trước đó.93 Bên cạnh đó, để khuyến khích đầu tư tư nhân, Việt Nam Cộng ḥa có các biện pháp hỗ trợ về tín dụng, chẳng hạn như thành lập Quốc gia Doanh Tế Cuộc vào năm 1955 mà sau đó được thay thế bằng Trung tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ vào năm 1958, để hỗ trợ các doanh nghiệp mới (theo cách gọi ngày nay là ươm tạo doanh nghiệp), hướng dẫn cho các doanh nghiệp về mặt công nghệ và tài chính, cho doanh nghiệp vay với lăi suất thấp.94
Một số chính sách phát triển kinh tế của chính quyền Việt Nam Cộng ḥa giai đoạn này có thể coi là tiến bộ, song bất ổn định chính trị (xung đột vũ trang giữa các phe phái, các vụ đảo chính, sự nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam) đă hạn chế các chính sách nói trên phát huy hiệu quả.
Ở nông thôn th́ Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là "Cải cách điền địa") được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền dù hơn 100 ha vẫn được phép). Số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái kư. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Do mức hạn điền lớn (100 ha), mặt khác các đại địa chủ lách luật bằng cách cho người nhà đứng tên, đất của các Giáo xứ Công giáo lại được miễn hạn mức, do vậy chỉ có 13% diện tích đất của miền Nam đă được phân phối lại. Đường lối cải cách ruộng đất này đă để lại 2/3 diện tích đất canh tác của Việt Nam Cộng ḥa trong tay tầng lớp địa chủ95 . Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đ́nh Diệm bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn Pháp". Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đ́nh Diệm.68 Sau này, chính quyền Đệ Nhị Cộng ḥa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă phải làm lại cải cách ruộng đất vào năm 1970.
Giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng ḥa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài G̣n. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này.96 97 Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lư giáo dục của Việt Nam Cộng ḥa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959.
Số liệu giáo dục bậc trung học98
Niên học Số học sinh Số lớp học
1955 51.465 890
1959 132.52999
1960 160.500100
1961 228.495 101
1963 264.866 4.831
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).102 Từ thời Đệ Nhất Cộng ḥa đă có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.103 Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng ḥa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng ḥa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp", tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Văn Trung, nền giáo dục dưới thời Ngô Đ́nh Diệm bị xem là thiên vị Công giáo nặng nề. Ngô Đ́nh Diệm dành cho Giáo hội Công giáo quyền chi phối các trường (kể cả các trường không phải là của giáo hội) về mặt tinh thần, cốt bảo đảm thực hiện được nội dung giáo dục “Duy linh” mà thực chất là nội dung thần học theo lối triết học kinh viện thời Trung cổ. Phần lớn các học bổng đi học nước ngoài đều rơi vào tay các linh mục hoặc sinh viên gia đ́nh Công giáo.104
Hệ thống trường tư thục của Công giáo phát triển rất nhanh. Avro Manhattan thống kê rằng: Từ năm 1953 đến năm 1963, khắp miền Nam đă xây dựng 145 trường cấp II và cấp III, riêng ở Sài G̣n có 30 trường với tổng số 62.324 học sinh. Cũng trong cùng thời gian này, Giáo hội Công giáo ở miền Nam Việt Nam, từ chỗ chỉ có 3 trường cấp II và III trong năm 1953, đến năm 1963 đă lên tới 1.060 trường, tức là tốc độ tăng nhanh gấp 8 lần hệ thống trường công105 . Có nơi Linh mục dùng uy thế của ḿnh để phụ huynh không cho con học trường công mà phải vào học trường của Giáo hội, nên trường tư thục của Giáo hội làm tê liệt cả trường công, khiến trường công trở nên trống rỗng do không tuyển được học sinh106 .
Đàn áp một số lực lượng đối lập
Không chỉ loại trừ những người cộng sản, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm c̣n bỏ tù một số chính trị gia đối lập. Có tài liệu cho rằng Hoa Kỳ không phản đối việc này với lư do trong một xă hội chia rẽ Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ lật đổ của cộng sản nên Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm phải có chính đảng riêng của ḿnh, có chính phủ mạnh để đối phó với t́nh h́nh và Hoa Kỳ đă ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm thiết lập một chế độ cực quyền107
Chính sách ủng hộ này của Hoa Kỳ tạo mầm mống cho hậu quả nghiêm trọng trong nền chính trị miền Nam. Tướng Edward Lansdale - phụ trách chiến tranh tâm lư ở miền Nam lúc này đă nh́n thấy nguy cơ trong chính sách của Ngô Đ́nh Diệm, ông t́m cách thuyết phục đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting can ngăn anh em Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm xây dựng một nhà nước cực quyền ở Nam Việt Nam v́ chính sách của họ sẽ đưa đến t́nh trạng chia rẽ giữa những người có tinh thần dân tộc và cùng chung mục tiêu chống Cộng. Có tài liệu cho rằng với việc loại trừ các đối thủ chính trị đă tạo nên một khoảng trống chính trị ở Nam Việt Nam khiến Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác là ủng hộ chính quyền hiện hữu.108
Báo Nhân dân của Đảng Lao động dẫn lại từ tờ Le Figaro thiên hữu ở Pháp tháng 2-1961: "Chế độ Diệm là độc tài và không đếm xỉa ǵ đến những quyền tự do cá nhân. Tổng thống nắm hết quyền hành, người ta đă tạo nên một đảng duy nhất để làm việc ép dân chúng vào tổ chức, người ta đă chăng cả một lưới mật thám và đă khuyến khích việc tố cáo những người "phản bội". Ba vạn người chống đối nằm chật các trại tập trung. Tất cả những cố gắng ấy để đi đến một thất bại: giai cấp tư sản công khai chống đối và nông dân th́ nghiêng về phía Việt Minh. Tôi tin rằng đó là một điểm chủ yếu. Để có thể chống cộng, không thể chỉ cóp theo kỹ thuật cộng sản.''"109 .
Thomas D. Boettcher nhận xét về những hoạt động tiêu diệt các nhóm đối lập của Ngô Đ́nh Diệm110 :
Trong 10 đô la viện trợ th́ 8 được dùng cho nội an chứ không dùng cho công tác chiến đấu chống những người du kích Cộng sản hay cải cách ruộng đất. Diệm lo lắng về những cuộc đảo chính hơn là những người Cộng sản.
...Như là hậu quả của những biện pháp đàn áp càng ngày càng gia tăng, sự bất măn của quần chúng đối với Diệm cũng càng ngày càng tăng, bất kể là toan tính của Diệm dập tắt sự bất măn này trong mọi cơ hội. Hàng triệu nông dân ở những vùng quê trở thành xa lạ đối với Diệm. Không lạ ǵ, hoạt động của những người Cộng sản gia tăng cùng với sự bất măn của quần chúng. Và những biện pháp đàn áp của Diệm cũng gia tăng theo cùng nhịp độ. Nhiều ngàn người bị nhốt vào tù.
Chính sách tôn giáo
Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tuy không tuyên bố lấy Công giáo làm quốc đạo nhưng căn bản dựa trên Công giáo cả về hệ tư tưởng lẫn vật chất. Việt Nam Cộng ḥa tiếp tục áp dụng quy định trong Đạo dụ số 10 của Quốc trưởng Bảo Đại: “Hội là Hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.”. Đạo dụ đặt Hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô, các Hoa Kiều Lư Sự Hội ra ngoài, trong khi các tôn giáo bị hạ xuống hàng các hiệp hội văn hóa thể thao. Những bộ phận của từng giáo phái có hành động chống đối đều bị Ngô Đ́nh Diệm huy động quân đội trấn áp, đánh dẹp111 .
Thời kỳ 1955-1963, lễ Noen tại các trường học được nghỉ đến 15 ngày. Trong khi đó, ngày 9/1/1956, Ngô Đ́nh Diệm ra Dụ số 4 hủy bỏ ngày lễ Phật đản trong danh sách những ngày lễ cho các học đường, công chức và binh sĩ. Điều này gây nên sự bất b́nh trong dư luận xă hội nói chung và Tăng Ni, Phật tử miền Nam nói riêng111 .
Trong các ngày lễ của Thiên Chúa giáo, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă tạo nhiều điều kiện hết sức to lớn cho việc tổ chức hành lễ. Văn thư số 124 ngày 1/8/1963 của Uỷ ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo gửi ông Frederick E. Nolting (đại sứ Mỹ tại Sài G̣n) phản ánh: “Mỗi năm lễ Giáng sinh đều được cử hành với sự tham gia trực tiếp và hữu hiệu của Chính phủ, nào thông điệp của Tổng thống, công sở treo cờ trang hoàng, nào Công giáo độc chiếm Đài quốc gia để phát thanh trong mấy ngày liền trên hệ thống A chính thức, nào bắt toàn thể nhân viên của Phủ Tổng thống, các ông bộ trưởng, các công chức cao cấp, kể cả những người theo đạo Phật phải dự lễ nửa đêm v...v… Quá quắt hơn hết là việc năm rồi, một hang đá (phỏng theo câu chuyện Chúa Jesus chào đời) được đặt ngay tại Ṭa Đô chính, làm như toàn dân Châu thành Sài G̣n là người Thiên Chúa giáo.”112
Trên núi Thiên Bút, tỉnh Quảng Ngăi vốn có nền cũ của chùa Phật giáo, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm cho xây nhà thờ Công giáo trên đó. Tín đồ Phật giáo địa phương phản ứng quyết liệt. Ngày 27/7/1961, quân Việt Nam Cộng ḥa bắn hàng loạt đạn cối vào chùa Cao Dân, xă Tân Lộc (Cà Mau) khi 200 người dân và sư săi Khmer đang làm lễ nhập hạ, làm 20 người chết và bị thương.111
Ngô Đ́nh Diệm coi tôn giáo là vũ khí hữu hiệu để thực hiện chống Cộng. Trong hội nghị “Liên minh chống cộng châu Á” họp tại Sài G̣n tháng 3 năm 1957, Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố “chúng ta đừng quên vũ khí chân lư sẵn có trong kho tàng tôn giáo. Sử dụng vũ khí đó là mục tiêu của liên minh chống cộng châu Á”111 . Trong cuốn “Thập giá và lưỡi gươm”, Linh mục Trần Tam Tỉnh nhận xét111 :
“Từ năm 1955 đến năm 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với những lợi ích thật chẳng có bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây nhiều tiếng tăm hơn, nhất là trong khi dân chúng gồm 90% là người ngoài Công giáo mà bị ḱm hăm dưới một thứ “Chính phủ Công giáo”. Khắp nơi, ở thành phố cũng như tại nông thôn, chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế
... (Ngô Đ́nh Diệm) chỉ chấp nhận một đảng duy nhất là Đảng Cần lao, được thành lập và khuynh loát bởi ông em Ngô Đ́nh Nhu, làm ṇng cốt cho cái ông gọi là Phong trào Cách mạng quốc gia... Hệ tư tưởng của Đảng này và của phong trào là “thuyết vị nhân”. Chỉ có một trường đào tạo duy nhất là “Trung tâm đào tạo nhân vị”, do một người anh của Tổng thống là Giám mục địa phận Vĩnh Long, Ngô Đ́nh Thục sáng lập. Là người Công giáo hay không, tất cả công chức đều phải qua một khóa học tập ít nhất là một tháng tại đó. Các lớp học đều do các linh mục đảm nhiệm, nhồi nhét những khái niệm về nhân bản con người được Thiên Chúa sáng tạo, giảng về những điều lầm lạc của Phật giáo, Khổng giáo, về các tội ác của Cộng sản… Cuộc “tẩy năo” này do chính các linh mục thực hiện. Họ là những người chỉ biết có triết học kinh viện Tây Âu và “đă tiếp thụ tại Roma các khái niệm về Phật giáo do các cố cựu Thừa sai dạy cho”
Chính sách thiên vị tôn giáo của Ngô Đ́nh Diệm đă tạo ra hiềm khích tôn giáo gay gắt trong xă hội và nó đă phát tác thành xung đột lớn sau đó vài năm, dẫn đến cuộc Khủng hoảng Phật giáo 1963. Cuộc khủng hoảng này đă góp phần làm sụp đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm111 .
Mỹ đưa quân vào Việt Nam
Có những thông tin khác nhau về việc Ngô Đ́nh Diệm muốn Hoa Kỳ (và cả Trung Hoa Dân Quốc) đưa quân vào tham chiến trực tiếp tại Việt Nam hay không.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Ngô Đ́nh Diệm nhờ Linh mục Raymond de Jaegher, người Bỉ quốc tịch Mỹ, xin với Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cho Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Sài g̣n với lư do bảo vệ công dân Mỹ và kiểm soát phi trường Tân Sơn Nhất113 . Sau thất bại của Mỹ tại Lào và Cuba, Tổng thống Kenedy quyết định chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên Xô. Tổng tham mưu trưởng Mỹ đề nghị "Để thuyết phục ông Diệm th́ hay nhất là lấy cớ đem quân 'vào để huấn luyện', rồi đem một đơn vị chiến đấu quân vào đóng ở Việt Nam với công tác là giúp thiết lập hai doanh trại huấn luyện."114 Ngày 20 tháng 10 năm 1961, tướng Mỹ Maxwell D. Taylor hội thảo với Ngô Đ́nh Diệm lần đầu tiên, Ngô Đ́nh Diệm đề nghị một hiệp ước hỗ trợ quân sự, gia tăng quân số Việt Nam Cộng Ḥa và yểm trợ không quân của Mỹ. Ngày 27 tháng 10 năm 1961, Taylor hội thảo với Ngô Đ́nh Diệm lần thứ hai và đề nghị đưa bộ binh Mỹ vào miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ chính thức là cứu lụt, Diệm rất tán thành. Tư liệu trong kho Cambodge-Laos-Vietnam ghi nhận Ngô Đ́nh Diệm "không những muốn đón nhận quân chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh, mà c̣n tuyên bố đại đa số dân miền Nam chào đón (welcome) việc này."113 Tuy nhiên trong tác phẩm A Death in November, tác giả Ellen Hammer cho rằng có lần Tổng thống Diệm phàn nàn với Đại sứ Pháp Roger Lalouette: "Tôi không bao giờ yêu cầu những người quân nhân này tới đây. Họ cũng chẳng có cả hộ chiếu nữa"114 . Diệm chỉ yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện vật chất, hoặc là hai bên kư kết hiệp ước quốc pḥng song phương thay v́ mang quân đội Mỹ vào. Đại sứ Pháp Lalouette cho rằng "lư do chính đưa tới quyết định của Mỹ loại bỏ ông Diệm là v́ vào tháng 4 năm ấy (1963), ông đă toan tính yêu cầu Mỹ rút cố vấn".114
Trong buổi họp ngày 13 tháng 10 năm 1961, Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Việt Nam Cộng ḥa Nguyễn Đ́nh Thuần đă đề nghị Mỹ hăy duyệt gấp những yêu cầu của Tổng thống Diệm, trong đó đó đề nghị Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) gửi quân đến Việt Nam, cụ thể115 :
Gửi thêm các phi đoàn khu trục cơ AD-6 và các phi công dân sự Mỹ để điều khiển máy bay.
Gửi quân Mỹ tác chiến hoặc quân Mỹ “cố vấn tác chiến” cho quân Việt Nam Cộng Ḥa. Một phần quân số này sẽ đóng gần vĩ tuyến 17 để Việt Nam Cộng Ḥa rảnh tay chống quân du kích dân tộc thiểu số ở Tây nguyên.
Xin được biết phản ứng của Mỹ đối với đề nghị (của ông Diệm) xin Trung Hoa Dân Quốc gửi một sư đoàn quân tác chiến vào khu vực hành quân ở vùng Tây Nam.
Tuy nhiên, nguồn khác cho biết đến năm 1963, Ngô Đ́nh Diệm muốn t́m giải pháp ḥa b́nh. Theo bộ trưởng kinh tế Việt Nam Cộng ḥa Nguyễn Tiến Hưng, đầu năm 1963, Ngô Đ́nh Diệm đă nh́n thấy "bầu trời tím". Qua cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, ông liên lạc với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa để đàm phán về hiệp thương rồi từng bước tiến tới thống nhất Việt Nam trong ḥa b́nh. Theo người trung gian giữa hai bên là đại sứ Ba Lan là ông Mieczyslaw Maneli, trong Phái đoàn kiểm soát đ́nh chiến, th́ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa sau cả năm suy nghĩ đă đồng ư hợp tác với Diệm để thống nhất Việt Nam. Khi biết chuyện này, đại sứ Lodge, rồi Bộ trưởng McNamara và tướng Taylor báo cáo cho Tổng thống Kennedy rằng Ngô Đ́nh Diệm định làm trái với mục tiêu của Mỹ: "Sự ve văn của ông Nhu với ư định điều đ́nh (với Hà Nội) - cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa - cũng đă cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ".114
C̣n theo lời Bùi Kiến Thành, cộng sự thân cận với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm th́ đến năm 1962, Ngô Đ́nh Diệm không muốn Mỹ đưa quân vào Việt Nam mà muốn đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, chính v́ điều này mà người Mỹ đă chỉ đạo các tướng lĩnh Việt Nam Cộng ḥa khởi động cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đ́nh Diệm:
"... Khi Mỹ muốn vào Việt Nam năm 1962 ông Diệm nói với người Mỹ rằng các ông nên nhớ trên đất nước tôi trong 4.000 năm lịch sử không có một chế độ nào đi theo quân đội nước ngoài mà có thể được nhân dân ủng hộ. V́ vậy ngày nào quân đội Mỹ đặt chân lên đất nước này chúng tôi sẽ mất chính nghĩa, mà khi mất chính nghĩa th́ các ông không thể nào thắng được và chúng tôi (Việt Nam Cộng Ḥa) cũng phải thua theo. V́ vậy ngày nào quân Mỹ đổ bộ lên đất nước này th́ kể như ngày đó chính nghĩa Việt Nam đă mất rồi, chúng tôi không thể chấp nhận được... Khi chính phủ Ngô Đ́nh Diệm thấy cái nguy cơ lính Mỹ đổ bộ lên Việt Nam rồi mà không rút ra được th́ chiến tranh sẽ tràn lan, dù cho quân đội Mỹ có đánh thẳng tới Hà Nội đi nữa th́ chúng ta vẫn sẽ thua như thường tại v́ quân đội Trung Quốc nó sẽ vào v́ nó không để cho ḿnh tiến qua biên giới của nó. V́ vậy Miền Bắc sẽ chiến đấu đến cùng để không cho quân của Trung Quốc qua chiếm đóng Việt Nam... Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đ́nh chiến, và Đại sứ Pháp… qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đă có những cuộc chia sẻ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đă liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế th́ họ nói chính phủ Ngô Đ́nh Diệm phản thùng và họ đưa việc này ra cho mấy ông tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa bảo là ông Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu "bán nước cho cộng sản", v́ vậy các anh phải lật đổ Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Diệm đi để “cứu nước” không th́ họ theo cộng sản, “bán đứng” các anh cho cộng sản... Tháng 9 năm 1963 Tổng thống Kennedy đă quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam rồi nhưng do cuộc bầu cử năm 1964 nên không thể làm được cho nên chờ tới năm 1964 sau khi bầu xong th́ sẽ làm, nhưng rất tiếc vận hạn của nước ta và nước Mỹ là Kennedy bị bắn chết, Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh tàn khốc do sự thiếu hiểu biết của một số người nông cạn của phía Mỹ cũng như Việt Nam Cộng Ḥa... Người Mỹ không chấp nhận cái lư luận của ông Ngô Đ́nh Diệm nên họ t́m cách lật đổ ông Diệm đi, đó là vấn đề cốt lơi chứ không phải do bà Nhu thế này thế khác... Việc đảo chánh Ngô Đ́nh Diệm không phải là chuyện của Dương Văn Minh, ông ta chỉ là một con cờ thôi, cũng như Trần Văn Đỗ cũng như mấy ông kia cũng chỉ là con cờ, c̣n người chỉ huy, đưa ra tất cả những chiến thuật chiến lược để làm việc này là người Mỹ, mà người đại diện cho Mỹ làm việc này là đại tá t́nh báo Lucien Conein, ngồi thường trực tại Bộ Tổng tham mưu để điều khiển mấy ông tướng kia, thành ra tất cả bộ tham mưu lúc đó nghe theo lời của một anh đại tá mật vụ của Mỹ, nghe có cay đắng không?116 ".
Năm 1962, Ngô Đ́nh Diệm gửi thư cho phó Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson trong đó viết "Những biến chuyển gần đây tại Lào đă làm nổi bật mối quan ngại trầm trọng của chúng tôi về nền an ninh của Việt Nam Cộng ḥa với những đường biên giới kéo dài và dễ bị tấn công...". Trong một báo cáo, Edward Landsdale nhận xét về Việt Nam: "Về tâm lư - Việt Nam luôn nghĩ ḿnh mới là đối tượng chính - và họ tự hỏi 'khi tới lần chúng tôi, liệu sẽ có bị đối xử giống như Lào không.' Chính sách của Mỹ đă biến Lào thành nước 'trung lập' với một chính phủ liên hiệp, làm cho Tổng thống Diệm hết sức lo âu v́ nghĩ rằng sau Lào th́ Mỹ sẽ tính đến việc trung lập hóa Việt Nam và áp đặt một chính phủ liên hiệp với Cộng sản. Bởi vậy, Landsdale cho rằng việc chính là phải làm sao cho chính phủ Miền Nam tin tưởng rằng việc rút lui ở Lào không có nghĩa là sẽ rút khỏi Việt Nam.".117
Nhưng đến tháng 5/1963, khi trả lời phỏng vấn tờ Washington Post, ông Nhu tuyên bố Mỹ có thể rút đi một nửa số cố vấn. Đại sứ Pháp Lalouette, cho rằng "quyết định của ông Nhu vào hồi tháng 4 yêu cầu rút cố vấn cấp tỉnh đă là lư do chính để người Mỹ quyết định lật đổ ông Diệm". Sau đó tân Đại sứ Mỹ Lodge thông báo về Washington rằng chính ông nghe tin ông Nhu định điều đ́nh với Bắc Việt. Giám đốc T́nh báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại giao Roger Hilsman cho rằng "Ông Nhu đă quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, cho nên ta không thể nào tiếp tục con đường ḥa giải với ông ta được nữa". Trong công điện số 272 gửi cho đại sứ Lodge, Nhà Trắng đưa ra ư tưởng loại bỏ vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu khỏi các chức vụ và kết luận rằng "sẽ không thành công nếu chỉ thuyết phục suông" trừ phi "đưa ra một lời răn đe dọa cắt viện trợ" nhưng làm như vậy th́ "có nguy cơ rất cao là ông Diệm sẽ coi đó là chỉ dấu sắp có hành động chống lại ông và ông bà Nhu đến nơi rồi, và tối thiểu rất có thể ông ta sẽ có biện pháp mạnh đối với các tướng lănh hay thậm chí có hành động quái đản thí dụ như kêu gọi Bắc Việt yểm trợ để trục xuất người Mỹ đi". Sau đó Lodge báo cáo về nước rằng chính ông ta cũng đă "có nghe tin ông Nhu đă bí mật giao thiệp với Hà Nội và Việt Cộng qua Đại sứ Pháp (Lalouette) và Ba Lan (Maneli), cả hai chính phủ các nước này đều tán thành một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam".117
Theo ông Cao Xuân Vỹ, người cùng đi với Ngô Đ́nh Nhu gặp Phạm Hùng, Diệm muốn quá tŕnh hiệp thương Nam - Bắc Việt Nam phải có 6 giai đoạn: cho phép dân hai miền trao đổi thư tín tự do, cho dân qua lại tự do, cho dân hai bên được tự do chọn nơi định cư giữa hai miền, trao đổi kinh tế, hiệp thương chính trị, tổng tuyển cử117 . C̣n theo Mieczyslaw Maneli, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đ́nh Chiến, th́ "Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và em của ông có nhờ tôi t́m hiểu với Chính phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương tiện ḥa b́nh hay không. Trong mấy tháng sau đó tôi đă thảo luận nhiều với giới lănh đạo cao cấp nhất kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Câu hỏi căn bản tôi đặt ra cho họ là: trong trường hợp Mỹ rút khỏi Miền Nam, những bảo đảm thực sự nào Miền Bắc có thể đem ra để chứng tỏ rằng một Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một nước của thế giới Cộng sản? Lănh đạo Miền Bắc thảo luận nhiều lần và dần dần đi tới một kế hoạch mà tôi đă dựa vào đó để thảo luận với một nhóm các đại sứ Tây phương. Theo như kế hoạch này, hai Miền Bắc - Nam sẽ từ từ đi từng bước bắt đầu từ liên lạc bưu chính, kinh tế, văn hóa. Sản phẩm kỹ nghệ Miền Bắc sẽ được dùng để mua thóc gạo Miền Nam... Miền Bắc sẽ không đ̣i hỏi phải thống nhất nhanh chóng, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập tại Miền Nam. Tôi hỏi liệu ông Diệm có thể là lănh đạo của chính phủ này hay không? Tới mùa hè 1963 th́ câu trả lời sau cùng là có. Sau đó, tôi lại hỏi thêm: nhưng làm sao phía Thế giới Tự do (chỉ phương Tây) có thể tin rằng Hà Nội sẽ giữ lời hứa? Câu trả lời là nếu Mỹ đồng ư rút, Miền Bắc sẽ sẵn sàng đưa ra những bảo đảm có thực chất, gồm cả việc Mỹ tham dự vào việc giám sát giải pháp ḥa b́nh... ngoài ra Miền bắc cũng sẽ có quan hệ ngoại giao và thương mại với thế giới Tự do, và sau cùng nhưng rất quan trọng, là quyền lực về kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ sẽ vẫn c̣n nguyên, không bị bớt đi v́ cuộc chiến.118 ".
Tuy nhiên, một số người khác th́ đánh giá rằng việc liên lạc với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa để đàm phán là quyết định riêng của Ngô Đ́nh Nhu, người được coi là mưu mẹo và thực tế hơn, c̣n Ngô Đ́nh Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy. Bản thân Ngô Đ́nh Diệm khi đó vẫn muốn tiếp tục chiến tranh, với việc Mỹ liên tục tăng cường thêm quân tại Việt Nam từ năm 1961 nhằm đáp ứng lời đề nghị của Ngô Đ́nh Diệm th́ ông ta vẫn không tin ḿnh sẽ thất bại hoặc bị lật đổ119
Can thiệp vào nội bộ Campuchia và Lào
Với Lào, quốc gia láng giềng, chính quyền Diệm đă quyết định đoạn giao khi Chính phủ của hoàng thân Souvanna Phouma công nhận và thiết lập liên lạc ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa vào năm 1962. Ngay như Campuchia, một quốc gia liền kề cũng đă từ chối không công nhận về mặt pháp lư đối với chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 2 tháng 2 năm 1956 Ngô Đ́nh Diệm đă đóng cửa biên giới không cho hàng hóa nhập vào Campuchia. Như vậy, thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại của chính phủ Ngô Đ́nh Diệm ở Đông Nam Á là không lôi kéo được Lào Và Campuchia ủng hộ ḿnh120 .
Tháng 2 năm 1959, cơ quan T́nh báo Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa hợp tác với tướng Campuchia Dap Chhoun âm mưu đảo chính lật đổ quốc vương Norodom Sihanouk để đưa Sơn Ngọc Thành lên làm lănh đạo Campuchia do Sihanouk có khuynh hướng ngả theo Bắc Kinh. Khi cuộc đảo chính bùng nổ th́ lực lượng Quân khu V và Quân khu II của Việt Nam Cộng ḥa sẽ tiến đến biên giới giúp Dap Chhoun chiếm lĩnh khu vực Đông - Bắc Campuchia. Tuy nhiên, giờ khởi sự bị đ́nh lại v́ Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan để xin viện trợ quân sự cho mặt trận phía Tây. Chính sự tŕ hoăn này đă làm cho âm mưu bị bại lộ. Ngay khi phát hiện âm mưu đảo chính, Sihanouk giao Lon Nol thống lănh lực lượng lính dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào Siem Reap khi Dap Chhoun c̣n ngủ. Dap Chhoun cải trang trốn thoát. Quân Lon Nol chiếm dinh thống đốc Siem Reap và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 kg vàng, hai điệp viên Việt Nam Cộng ḥa và đài vô tuyến cùng một số vũ khí. Hôm sau, Sihanouk mời tất cả viên chức ngoại giao nước ngoài, trong đó có ông Ngô Trọng Hiếu, đặc sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Campuchia, đến Siem Reap. Tại dinh thống đốc Siem Reap, Sihanouk không ngớt lời thóa mạ “kẻ thù dân tộc Khmer” và bọn “tay sai đế quốc" rồi trưng ra tất cả nhân chứng lẫn vật chứng trong đó có 100 kg vàng đóng dấu ngân khố Việt Nam Cộng ḥa, hệ thống điện đài và hai điệp viên mang thông hành Việt Nam Cộng ḥa. Hai điệp viên Việt Nam Cộng ḥa bị kết án tử h́nh c̣n Dap Chhoun bị lực lượng lính dù của Lon Nol bắt và hạ sát.121
Báo Nhân dân dẫn theo các báo Campuchia ngày 22 tháng 6 năm 1961 cho biết ṭa án Quân sự Campuchia kết án tử h́nh một điệp viên chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, về tội "mưu sát quốc vương và hoàng hậu Campuchia" và tội "làm gián điệp cho Mỹ - Diệm phá hoại nền an ninh Campuchia". Người này là chủ nhiệm tờ Hồn Việt và tờ Tự do xuất bản tại Phnôm Pênh các năm 1956-1957. Chính phủ Campuchia bắt được nhiều giấy tờ tỏ rơ điệp viên này nhận lệnh của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm "âm mưu phá hoại nền an ninh Campuchia", trong đó có cả thư khen của ông Diệm gửi cho ông ta122 . Kế hoạch ám sát Sihanouk được ông Ngô Đ́nh Nhu và Trần Kim Tuyến thảo luận chi tiết, sau khi mưu đảo chính tại Campuchia thất bại. Tuy nhiên âm mưu ám sát bất thành do Sihanouk may mắn thoát chết.121 . Phạm Trọng Nhơn là thủ phạm của vụ này.123 Theo báo An ninh Thế giới, Sihanouk thoát chết là nhờ một điệp viên của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là Ba Quốc (tên thật là Đặng Trần Đức), phụ tá Phó Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Xă hội Việt Nam Cộng ḥa, tham gia vào âm mưu ám sát đă cố ư cài đặt bom lệch giờ124 .
Theo báo Nhân dân, dẫn lại Đài Tiếng nói Lào, hơn mười ngày sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 8 năm 1960 ở Viêng Chăn, hàng ngh́n binh sĩ Mỹ, Thái Lan, Philippines, lính Đài Loan, Việt Nam Cộng ḥa đă đến Savannakhet chuẩn bị tấn công Viêng Chăn125 . Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Đại tá Hà Văn Lâu trưởng phái đoàn liên lạc của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa gửi điện đến Ủy ban quốc tế, cho biết sau cuộc gặp giữa Nguyễn Khánh và Trần Văn Đôn với Phoumi Nosavan và Boun Oum, chính quyền Diệm đă cho ba đơn vị bộ binh của trung đoàn 1 và 2 thuộc sư đoàn I của quân khu 2 sang Lào126 .
Các lần bị ám sát
Từ năm 1957 đến năm 1962, Ngô Đ́nh Diệm nhiều lần bị ám sát nhưng đều may mắn thoát chết. Có thể kể đến 2 vụ tiêu biểu: Lần đầu tiên do Hà Minh Trí, một người cộng sản dưới danh nghĩa thành viên Cao Đài thực hiện ngày 22 tháng 2 năm 1957 tại "Hội chợ Kinh tế Cao nguyên" ở Buôn Ma Thuột127 , lần thứ hai do hai phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng ḥa là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, vốn là đảng viên Đại Việt Quốc dân Đảng, ném bom vào dinh Tổng thống ngày 27 tháng 2 năm 1962128 . Nguyễn Văn Cử là con trai thứ hai của Nguyễn Văn Lực, một lănh đạo của Đại Việt Quốc dân đảng, người mà trước đó đă bị Ngô Đ́nh Diệm bỏ tù một thời gian v́ các hoạt động chống đối. Vụ ném bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc làm sập một góc của dinh Tổng thống, khiến 3 người phục vụ và lính gác bị chết, 30 người khác bị thương, song Ngô Đ́nh Diệm đă kịp xuống hầm trú ẩn an toàn.
Bị đảo chính lần thứ nhất
Đảo chính tại Việt Nam Cộng ḥa năm 1960 là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng ḥa, do đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông cầm đầu. Mục đích cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Ban đầu, quân đảo chính kiểm soát được một số vị trí quan trọng tại Sài G̣n do yếu tố bất ngờ, tuy nhiên nhanh chóng thất bại khi các thủ lĩnh quân sự không kiên quyết cũng như không có được sự ủng hộ quần chúng.
Kế hoạch đảo chính đă được Vương Văn Đông và các quan chức bất b́nh với chế độ Ngô Đ́nh Diệm, trong đó có Đại tá Nguyễn Chánh Thi, chuẩn bị trong một năm. Vương Văn Đông đă cấu kết được với một trung đoàn xe thiết giáp, một đơn vị hải quân và ba tiểu đoàn quân nhảy dù. Cuộc đảo chính được dự định vào 5 giờ sáng ngày 11 tháng 11. Tuy nhiên kế hoạch đă được thực hiện không hiệu quả, quân nổi loạn đă không tuân thủ chiến thuật đă được viết ra như chiếm giữ đài phát thanh và phong tỏa các con đường vào đô thành Sài G̣n. Họ cũng đă không thể cắt đường dây liên lạc điện đàm vào dinh Độc Lập, điều này khiến cho Ngô Đ́nh Diệm có thể liên lạc được với các đơn vị trung thành đến bảo vệ ḿnh. Quân đảo chính đă bao vây dinh Độc Lập nhưng tŕ hoăn tấn công trong 36 giờ v́ tin rằng Ngô Đ́nh Diệm sẽ tuân thủ theo yêu sách của họ. Lợi dụng thời gian tŕ hoăn này, Ngô Đ́nh Diệm đă xuống tầng hầm dinh Độc Lập và viết một bài diễn văn hứa hẹn sẽ có bầu cử tự do và công bằng và các biện pháp tự do khác. Khi các thỏa hiệp đang được phát trên các phương tiện truyền thông ngày 12 tháng 11, lực lượng trung thành với Ngô Đ́nh Diệm đă tiến vào Sài G̣n. Cuộc giao tranh diễn ra chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400 người chết, trong đó có nhiều thường dân ṭ ṃ xuống phố để xem giao tranh. Lực lượng trung thành với Ngô Đ́nh Diệm đă tiêu diệt gọn quân đảo chính.
Sau cuộc chiến là một cuộc đàn áp của Ngô Đ́nh Diệm với những người chỉ trích và nhiều bộ trưởng nội các bị bỏ tù. Một số sĩ quan quân đội và chính khách đối lập liên quan đến cuộc đảo chính bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm thanh trừng và đưa ra xét xử, tiêu biểu như vụ án nhà văn Nguyễn Tường Tam.
Khủng hoảng Phật giáo
Các mối quan hệ của chế độ Ngô Đ́nh Diệm với Hoa Kỳ đă trở nên tồi tệ hơn trong năm 1963, do sự bất măn ngày một tăng trong phần lớn Phật tử ở miền Nam Việt Nam. Tháng 5 năm 1963, ở Huế một thành phố trung tâm của đạo Phật, theo Topmiller, người anh của Ngô Đ́nh Diệm là tổng Giám mục Ngô Đ́nh Thục đă cấm phật tử và nhà chùa treo cờ nhà Phật trong lễ Phật đản căn cứ trên quy định cấm treo các loại cờ tôn giáo ở nơi công cộng129 c̣n theo tác giả Nguyễn Hiền Đức, Ngô Đ́nh Cẩn chỉ thị cho Tỉnh trưởng yêu cầu ban Tổ chức lễ Phật Đản chỉ cần thông báo cho toàn thể tín đồ Phật giáo đừng treo cờ Phật giáo trong ngày lễ, Phật tử nào đă treo cờ rồi th́ cứ để cho treo hết lễ.130 Vài ngày trước đó th́ người Công giáo lại được phép treo cờ trong các lễ kỷ niệm của họ. Tuy nhiên, sau đó Phật giáo và chính quyền thành phố Huế đă đạt được thỏa thuận cho phép dân chúng treo cờ Phật giáo.130
Đài kỉ niệm sự kiện ngày 8 tháng 5 năm 1963 tại Huế, nơi 9 thường dân bị giết
Nhưng thượng tọa Thích Trí Quang vẫn quyết định tiếp tục đấu tranh nhằm chống lại quy định của chính quyền.130 Trong lúc Phật tử tụ tập trước đài phát thanh Huế chờ nghe bài diễn văn của Thượng tọa Thích Trí Quang đă xảy ra vụ nổ giết chết 9 thường dân không vũ trang. Mặc dù tỉnh trưởng bày tỏ sự cảm thông và chia buồn sâu sắc đối với thân nhân những người chết và đề xuất bồi thường cho gia đ́nh nạn nhân, nhưng tỉnh trưởng vẫn nhất quyết phủ nhận lực lượng của chính phủ đàn áp giết chết người biểu t́nh, đồng thời cho rằng Việt Cộng là thủ phạm.131 Theo Karnow, lực lượng an ninh quân đội Việt Nam Cộng ḥa đă đàn áp cuộc biểu t́nh của Phật giáo. Ngô Đ́nh Diệm và những người cùng phe cáo buộc Việt Cộng phải chịu trách nhiệm về những cái chết của thường dân và tuyên bố những người biểu t́nh phải chịu trách nhiệm về t́nh trạng bạo lực132 133
Các tổ chức Phật giáo đă đưa ra một bản Tuyên ngôn gồm 5 điểm: tự do treo cờ tôn giáo, chấm dứt bắt bớ bừa băi, bồi thường cho các nạn nhân Huế, các quan chức chịu trách nhiệm về vụ đàn áp phải bị xử lư và b́nh đẳng tôn giáo. Chính quyền cấm các cuộc biểu t́nh, ra lệnh cho quân đội cảnh sát bắt giữ những người tham gia vào các cuộc tuần hành biểu t́nh.
Ngày 3 tháng 6 năm 1963, người biểu t́nh cố gắng diễu hành qua chùa Từ Đàm. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa sử dụng hơi cay và chó nghiệp vụ tấn công người biểu t́nh 6 lần để giải tán đám đông nhưng bất thành, cuối cùng quân đội sử dụng hóa chất lỏng màu nâu đỏ để tưới vào đám đông người biểu t́nh đang cầu nguyện, kết quả là 67 người phải nhập viện v́ nhiễm độc. Lệnh giới nghiêm sau đó đă được chính quyền Diệm ban hành.
Để xoa dịu Phật giáo, ngày 4 tháng 6 năm 1963, Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm thành lập Ủy ban Liên bộ để nghiên cứu giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo, do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu.130 Một phái đoàn hỗn hợp của hai bên được gửi ra Huế để giải tỏa các chùa Từ Đàm, Linh Quang, Báo Quốc, và Chùa Diệu Đế, đồng thời kêu gọi Phật tử trở về sinh hoạt b́nh thường, kiên nhẫn chờ đợi hành động của chính quyền.
Ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối các chính sách của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.
Bước ngoặt của cuộc khủng khoảng Phật giáo năm 1963 đến vào tháng 6, khi ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu giữa một ngă tư đông đúc ở Sài G̣n để phản đối các chính sách của Diệm; bức ảnh chụp lại cảnh tượng này đă nhanh chóng phổ biến trên khắp thế giới, và đối với nhiều người những h́nh ảnh này đă chứng minh cho sự thất bại của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa.134 Một số nhà sư khác đă tự thiêu, noi gương theo ḥa thượng Thích Quảng Đức.
Trước t́nh h́nh đó, Ủy ban Liên bộ của chính quyền Việt Nam Cộng ḥa và Ủy ban Liên phái của Phật giáo sau khi thảo luận đă ra bản Thông cáo chung với nội dung cho phép treo cờ Phật giáo nơi công cộng nhưng phải kèm theo cờ quốc gia, chính phủ hứa sẽ thay thế dụ số 10 bằng một đạo luật mới do Quốc hội ban hành, lập Ban điều tra để xem xét tất cả các đơn khiếu nại của Phật giáo, phóng thích những người liên quan đến cuộc đấu tranh của Phật giáo, những sinh hoạt tôn giáo thuần túy và thường xuyên không diễn ra nơi công cộng không cần xin phép, tạo điều kiện cho Phật giáo xây chùa, trừng phạt các cán bộ có trách nhiệm trong sự kiện Phật đản ngày 8 tháng 5 năm 1963 nếu thật sự họ có lỗi, trợ giúp các nạn nhân trong sự kiện Phật đản.135
Sau khi bản Thông cáo chung được công bố, phía Phật giáo cho rằng các chính quyền địa phương đang ngầm chống lại việc thực thi Thông cáo chung nên tiếp tục đấu tranh.136 Cuộc đấu tranh của Phật giáo khiến chính quyền Việt Nam Cộng ḥa do Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm lănh đạo mất uy tín cả trong lẫn ngoài nước.137 Điều này buộc Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ra thông điệp kêu gọi ḥa giải giữa chính phủ Việt Nam Cộng ḥa và Phật giáo.138 Tuy nhiên Phật giáo không chấp nhận ḥa giải mà vẫn tiếp tục đấu tranh.139
Chính phủ Hoa Kỳ ngày càng thất vọng với những h́nh ảnh công bố các nhà lănh đạo không được ưa chuộng cả ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngô Đ́nh Diệm sử dụng lư lẽ chống cộng truyền thống của ḿnh, buộc tội những người chống đối là cộng sản. Khi các cuộc biểu t́nh chống chính phủ của Ngô Đ́nh Diệm vẫn tiếp tục trong suốt mùa hè năm 1963, th́ các lực lượng đặc biệt trung thành với chính phủ đă tiến hành một cuộc đột kích tàn bạo vào chùa Xá Lợi ở Sài G̣n vào tháng 8 cùng năm. Chùa bị phá hoại, các nhà sư bị đánh đập, hài cốt hỏa táng của ḥa thượng Thích Quảng Đức, bao gồm cả trái tim của ông được những phật tử coi là một di tích tôn giáo, cũng bị lực lượng an ninh tịch thu.140
Các cuộc tấn công đồng thời được thực hiện trên toàn Việt Nam Cộng ḥa, chùa Từ Đàm ở Huế bị cướp phá, tượng phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm bị phá hủy và di thể một nhà sư đă tạ thế cũng bị đưa đi.141 Khi dân chúng đến để bảo vệ các nhà sư đă đụng độ với quân đội và cảnh sát, dẫn đến 30 thường dân thiệt mạng và 200 người khác bị thương.141 Tổng cộng đă có 1.400 nhà sư bị bắt, khoảng 30 nhà sư bị thương trên toàn lănh thổ Việt Nam Cộng ḥa. Hoa Kỳ đă cho thấy quan điểm không tán thành chính quyền của Diệm khi đại sứ Hoa Kỳ là Henry Cabot Lodge, Jr. tới thăm một ngôi chùa.142 Không có thêm các cuộc biểu t́nh của Phật tử xảy ra trong thời gian nắm quyền c̣n lại của Ngô Đ́nh Diệm (khoảng 5 tháng).143
Trong thời gian này, em dâu của Ngô Đ́nh Diệm là Trần Lệ Xuân, một người từng theo đạo Phật và sau cải đạo sang Công giáo, có thể coi Trần Lệ Xuân là đệ nhất phu nhân de facto (trên thực tế) do Ngô Đ́nh Diệm không lập gia đ́nh; Trần Lệ Xuân đă đổ thêm dầu vào lửa khi chế giễu các vụ tự thiêu của các nhà sư, coi họ là "thịt nướng" (barbecues), và tuyên bố "Nếu các phật tử muốn có thêm thịt nướng, Tôi sẽ vui mừng cung cấp xăng cho họ" (nguyên văn: If the Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline).144 Các cuộc tấn công vào chùa chiền đă làm dấy lên băn khoăn lo lắng lan rộng trong công chúng ở Sài G̣n. Sinh viên đại học Sài G̣n đă băi khóa và tổ chức các cuộc bạo động, dẫn đến việc bắt giữ, bỏ tù và đóng cửa các trường đại học; điều này đă lặp lại tại Đại học Huế. Khi học sinh trung học diễu hành biểu t́nh, Ngô Đ́nh Diệm cũng đă bắt học sinh; trên 1.000 học sinh từ các trường trung học ở Sài G̣n, hầu hết là con em các công chức dân sự Sài G̣n, đă bị gửi tới các trại cải tạo, theo báo cáo bao gồm cả trẻ em lên năm, bị buộc tội vẽ và viết các câu, h́nh vẽ chống chính phủ. Bộ trưởng ngoại giao của Diệm là Vũ Văn Mẫu đă từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối.145 Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng ḥa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, th́ bị bắt và bị quản thúc.
Ngày 20 tháng 8 năm 1963, Ngô Đ́nh Nhu chỉ đạo lực lượng an ninh của đại tá Lê Quang Tung phát động chiến dịch Nước Lũ ào ạt tấn công chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang, Từ Quang, Therevada ở Sài G̣n và chùa chiền khắp toàn quốc. Họ mặc đồng phục của quân đội trong khi đột kích để cho mọi người thấy rằng Quân đội chính phủ đứng sau lưng họ trong cuộc đàn áp này. Lực lượng của Ngô Đ́nh Nhu đă bắt hơn 400 nhà sư đang ngồi trước tượng Đức Phật. Hàng ngàn phật tử khác cũng bị bắt giữ trên cả nước (riêng tại Sài G̣n là 1.400 người) với lư do "Phật giáo là tay sai của Việt cộng". Hệ quả tức thời của chiến dịch Nước Lũ là toàn bộ thành phần lănh đạo Phật giáo bị bắt giữ, phong trào đấu tranh của Phật giáo gần như bị tê liệt.
Trong ba tháng sau chiến dịch Nước Lũ, nhiều vị lănh đạo trên thế giới, kể cả Giáo hoàng Phaolô VI và các tổ chức Công giáo, đă lên án Ngô Đ́nh Diệm. Ngô Đ́nh Thục đến Vatican nhưng không được Giáo hoàng tiếp, Trần Lệ Xuân dẫn phái đoàn Quốc hội đi nước ngoài bị chống đối. Cuối tháng 9/1963, Tổ chức Liên Hiệp Quốc quyết định gửi phái đoàn đến Việt Nam để điều tra t́nh h́nh đàn áp Phật giáo.
Bị đảo chính lần thứ hai
Từ năm 1960 khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam với sự hậu thuẫn của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ra đời tiến hành đấu tranh vũ trang đă làm cho t́nh h́nh an ninh ở miền Nam bị xáo trộn. Lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đă kiểm soát được phần lớn vùng nông thôn bất chấp các kế hoạch quốc sách như Ấp Chiến lược và Khu Trù mật của ông.
Việc tập trung quyền lực vào gia đ́nh, đảo ngược các chính sách cải cách ruộng đất của Việt Minh trước đây (xem Cải cách điền địa)146 cũng như chính sách cai trị đất nước bị coi là thiên vị với thiểu số người Công giáo tạo ra những mầm mống xung đột giữa Công giáo và Phật giáo cũng như sự bất măn trong đội ngũ tướng lĩnh quan chức, sự chống đối của đông đảo người theo đạo Cao Đài, Phật giáo Ḥa Hảo, người Thượng[cần dẫn nguồn], trí thức và nông dân. Hơn nữa Ngô Đ́nh Diệm c̣n bị các chính trị gia đối lập chỉ trích là độc tài, gia đ́nh trị, bất lực trong việc ổn định xă hội và chống Cộng thiếu hiệu quả (xem Nhóm Caravelle).
Anh em Ngô Đ́nh Diệm - Ngô Đ́nh Nhu nảy sinh bất đồng từ đầu năm 1963. Quân đội Việt Nam cộng ḥa bị thua nặng tại trận Ấp Bắc, dù khi đó tại Nam Việt Nam đă có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ, đă khiến giới quân sự Mỹ liên tục chê bai khả năng quân sự của các tướng Việt Nam Cộng Ḥa và đ̣i để các tướng Mỹ nắm quyền chỉ huy. Ngô Đ́nh Nhu tỏ ra bất măn về việc chính quyền Việt Nam Cộng ḥa phải nghe theo những khuyến cáo quân sự của người Mỹ nên quyết định t́m hướng đi mới, tỏ ư định yêu cầu Mỹ rút bớt cố vấn quân sự về nước và t́m cách tiếp xúc với những người cộng sản ở Hà Nội. Người ta đánh giá rằng việc này là quyết định riêng của Ngô Đ́nh Nhu, c̣n Ngô Đ́nh Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy.119
Do những ư định mới của Ngô Đ́nh Nhu, người Mỹ bắt đầu t́m cách thay thế Ngô Đ́nh Diệm, cắt một nửa viện trợ cho chính quyền Sài G̣n.147 Tháng 7 năm 1963, đại sứ Mỹ Frederick Nolting, người bị xem là quá bao che cho chính quyền họ Ngô, bị thay thế. Cùng lúc đó nổ ra biến cố Phật giáo, 1963 làm chính quyền Sài G̣n càng lung lay. Theo tướng Pháp Paul Ély th́ vào giữa năm 1963, quyền lực của Ngô Đ́nh Diệm chỉ c̣n giới hạn trong phạm vi Sài G̣n.148
Cùng với việc chống Cộng không đạt được kết quả và không xoa dịu được cuộc đấu tranh của Phật giáo được xem là nguyên nhân dẫn tới sự mất uy tín trầm trọng của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm trước các lực lượng chính trị hợp pháp khác tại miền Nam và trước chính quyền Hoa Kỳ. Sự kiện Phật Đản, 1963 xảy ra là giọt nước tràn ly dẫn tới hành động đảo chính của một nhóm tướng lĩnh vốn bất măn với cách điều hành đất nước của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Chính phủ Mỹ đề nghị Ngô Đ́nh Diệm bớt đàn áp tàn bạo đối với Phật giáo và sinh viên để lấy lại h́nh ảnh dân chủ hơn của chính quyền, nhưng Ngô Đ́nh Diệm không nghe theo. Đứng trước t́nh thế đó, chính phủ Kennedy buộc phải gây sức ép đối với chính quyền của Ngô Đ́nh Diệm.149 Căng thẳng với người Mỹ ngày càng tăng, nhưng Ngô Đ́nh Diệm không nghe theo v́ ông vẫn tự tin cho rằng người Mỹ không thể t́m ra người thay thế tốt hơn ḿnh ở vị trí Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa. V́ thế chính phủ Mỹ cuối cùng quyết định bỏ rơi ông.149 150
Theo Thomas Ahern Jr., bắt đầu từ tháng 10 năm 1960 CIA bắt đầu nhận thấy mầm mống nổi loạn chống Ngô Đ́nh Diệm ở Sài G̣n ngày càng tăng, CIA tập hợp thông tin về thành phần bất măn trong quân đội đồng thời cố gắng khai thác tướng Trần Văn Minh và các nguồn khác nhằm liên lạc với thành phần tham gia đảo chính. Nhân viên CIA Miller được lệnh của Trạm CIA tránh can dự "cố vấn" cho phe đảo chính mà chỉ việc lặng lẽ theo dơi diễn biến rồi báo cáo về Trạm.151
Điệp viên CIA Lucien Emile Conein, là đầu mối liên lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính.152
Bùi Diễm (sau năm 1963 là Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Hoa Kỳ) đă viết trong hồi kư của ḿnh rằng: tướng Lê Văn Kim đă yêu cầu hỗ trợ nhằm thực hiện điều mà chính phủ Hoa Kỳ cũng muốn làm với chính quyền của Ngô Đ́nh Diệm (tức gạt bỏ chính quyền của Ngô Đ́nh Diệm).153 Bùi Diễm đă liên lạc với cả đại sứ và các nhà báo thạo tin của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, như David Halberstam (New York Times), Neil Sheehan (United Press International) và Malcolm Browne (Associated Press).154
Theo lời Bùi Kiến Thành, một người thân cận với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm th́ "Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đ́nh chiến, và Đại sứ Pháp… qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đă có những cuộc chia sẻ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đă liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế th́ họ nói chính phủ Ngô Đ́nh Diệm phản thùng và họ đưa việc này ra cho mấy ông tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa bảo là ông Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu "bán nước cho cộng sản", v́ vậy các anh phải lật đổ Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Diệm đi để “cứu nước” không th́ họ theo cộng sản, “bán đứng” các anh cho cộng sản...Những đầu óc suy yếu của những anh tướng hữu dũng vô mưu không biết ǵ cả, nghe như thế lại tưởng rằng ḿnh là người ái quốc ái quần, lật đổ Ngô Đ́nh Diệm để "cứu đất nước khỏi họa cộng sản"116 ".
Henry Cabot Lodge, Jr. đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng ḥa sau khi biết về âm mưu đảo chính được lên kế hoạch bởi các tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đă báo cáo cho Tổng thống Mỹ John F. Kennedy xin ư kiến. Biên bản cuộc họp ngày 29 tháng 10 năm 1963 giữa Kennedy và các cố vấn cho thấy Kennedy sau khi họp với 15 cố vấn ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia không đưa ra được ư kiến thống nhất về vấn đề này mà để cho đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. tùy cơ ứng biến155 156 . Tại Washington, ngoại trưởng Dean Rusk truyền đạt quyết định đến Đại sứ Lodge ở Sài G̣n. Lodge báo tin cho nhân viên CIA Lucien Conein.157
Lucien Conein, đặc vụ của CIA, trở thành đầu mối liên lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính, do Trần Văn Đôn đứng đầu.158 Ngày 3 tháng 10 năm 1963, Conein gặp tướng Minh là người nói cho ông biết ư định đảo chính và yêu cầu người Mỹ hỗ trợ nếu nó thành công.159 Trong phim tài liệu Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày của đạo diễn Michael Maclear, nhân viên CIA Lucien Conein kể lại rằng khi được thông báo về ư định đảo chính ông ta nói: "Lệnh mà tôi nhận là thế này: Tôi phải cho Tướng Minh biết rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ không cản trở cuộc đảo chính của họ, và tôi đă truyền đạt điều này.".157 Sau đó Conein bí mật gặp tướng Trần Văn Đôn để nói với ông này rằng Hoa Kỳ phản đối bất cứ hành động ám sát nào.160 Tướng Trần Văn Đôn trả lời "Được rồi, nếu anh không thích điều đó chúng ta sẽ không nói về nó nữa.".160 Theo một nguồn khác, Conein cung cấp cho nhóm tướng lĩnh Việt Nam Cộng ḥa một số tiền mặt lên tới 40.000 USD để hỗ trợ cho việc thực hiện đảo chính với lời hứa rằng Hoa Kỳ sẽ không làm bất cứ điều ǵ để bảo vệ Ngô Đ́nh Diệm.161
Ngày 30 tháng 10 năm 1963, phụ tá Ngoại trưởng Mỹ Roger Hilsman gửi đến Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n một bức mật thư mà ông này gọi đó là "Hoàng hôn của các thần linh". Trong bức mật thư này có đoạn:
"Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu đến cùng và phá tan Dinh Độc Lập (nếu cần) để đạt được thắng lợi. Điều kiện cho gia đ́nh họ Ngô là đầu hàng vô điều kiện, v́ nếu không họ sẽ t́m cách gạt bỏ được lực lượng đảo chính lẫn sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Nếu gia đ́nh họ Ngô bị bắt sống, vợ chồng ông Nhu phải nhanh chóng bị tống xuất sang Pháp hay bất cứ nước nào muốn nhận họ. Riêng ông Diệm, tùy thuộc vào ư muốn của các tướng lĩnh tham gia đảo chính".162
Tướng Dương Văn Minh và các đồng mưu lên kế hoạch lật đổ chính phủ của Ngô Đ́nh Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 bằng một cuộc đảo chính nhanh gọn chóng vánh. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đưa quân đội tới chiếm đóng tất cả các vị trí trọng yếu ở Sài G̣n, chặn mọi cửa ngơ ra vào nội đô. Tại dinh tổng thống, chỉ có một lực lượng nhỏ trung thành bảo vệ cho Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu, các tướng lĩnh đảo chính kêu gọi Ngô Đ́nh Diệm đầu hàng và Ngô Đ́nh Diệm sẽ được ra nước ngoài sống lưu vong nếu đầu hàng. Tuy nhiên tối hôm đó, Ngô Đ́nh Diệm và đoàn tùy tùng đă trốn thoát khỏi dinh tổng thống bằng một đường hầm tới Chợ Lớn, về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam - Chợ Lớn. Sáng sớm ngày 2 tháng 11, Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu bị lực lượng đảo chính bắt, cuộc đảo chính tới đây là kết thúc, phe đảo chính chỉ c̣n việc thành lập chính phủ mới. Hành động đảo chính đă đưa Việt Nam Cộng ḥa đến t́nh trạng khủng hoảng lănh đạo trong một thời gian cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa.
Ám sát và mai táng
Thi thể Ngô Đ́nh Diệm ở phía sau của chiếc M113, ông bị bắn chết khi đang trên đường tới Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.
Sau khi bị lật đổ bởi các tướng lĩnh dưới quyền ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông cùng em trai - cố vấn Ngô Đ́nh Nhu lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam, sáng ngày hôm sau Ngô Đ́nh Diệm cùng với Ngô Đ́nh Nhu gọi điện và ra hàng lực lượng đảo chính. Hai anh em Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu bị đại úy Nguyễn Văn Nhung giết bằng lưỡi lê và súng lục trong chiếc xe bọc thép M-113, theo lệnh của tướng Dương Văn Minh, khi chiếc xe đang trên đường tới Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.163 164 Theo chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, là người đă tiến hành vụ khám nghiệm th́ anh em Ngô Đ́nh Diệm - Ngô Đ́nh Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Thi thể Ngô Đ́nh Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đă bị hành hung trước khi bị bắn. C̣n thi thể Ngô Đ́nh Nhu th́ bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu.
Sau khi biết tin Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ và ám sát, phát biểu của Hồ Chí Minh được thuật lại như sau "Tôi không thể nào tin người Mỹ lại ngu ngốc đến vậy"165 Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam nói rơ hơn:
"Hậu quả của cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 sẽ trái với những tính toán của đế quốc Mỹ... Diệm là một trong số những nhân vật mạnh nhất chống lại nhân dân và Chủ nghĩa cộng sản. Tất cả những ǵ có thể làm nhằm cố gắng đè bẹp cách mạng đă được Diệm thực hiện. Diệm là một trong những tay sai có tài nhất của đế quốc Mỹ ... Trong số những người chống cộng ở miền Nam Việt Nam hoặc đang lưu vong ở nước ngoài, không ai có đủ tài lực chính trị và khả năng làm người khác tuân phục. Do đó, chính quyền tay sai sẽ không thể vững bền. Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 sẽ không phải là cuộc đảo chính cuối cùng."165
Khi biết Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị đảo chính và giết chết, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị choáng váng và ưu tư thoáng buồn.166 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi được thông báo anh em Ngô Đ́nh Diệm - Ngô Đ́nh Nhu đă bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đă vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp: "C’est formidable! C’est formidable!" (Thật là tuyệt diệu. Thật là tuyệt diệu).167
Các cơ quan do Ngô Đ́nh Diệm lập ra như Đảng Cần Lao, Sở Nghiên cứu Chính trị Xă hội, Lực lượng Đặc biệt, 4 cơ quan Mật vụ Công an, Phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh Niên Cộng ḥa, Phụ nữ Liên đới, các xóm Đạo vơ trang,… tất cả đều tê liệt rồi tan ră không một phản ứng. Cả cấu trúc chính trị mà họ Ngô xây dựng trong 9 năm đă sụp đổ trong 24 tiếng đồng hồ.
Nhà sử học Nguyễn Hiến Lê, khi đó đang sống ở Sài G̣n, đă ghi lại không khí vui mừng của người dân ở thời điểm đó168 :
Từ 7 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi đài phát thanh Sài G̣n báo tin dinh Gia Long bị quân đội chiếm th́ già trẻ lớn bé lũ lượt kéo nhau đi xem. Lời ḥ reo, tiếng cười vang với sắc diện tươi vui của mọi người chứng tỏ sự giải thoát gông cùm kềm kẹp của độc tài đă bóp nghẹt ḷng dân trong chín năm trời đăng đẳng” - Bác sĩ Dương Tấn Tươi. C̣n thi sĩ Đông Hồ th́: “Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công trong 9 năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở, mà phản ứng chỉ có chứng ấy th́ cho thấy quần chúng Việt Nam năm 1963 này cũng đă tỏ ra hiền lành nhiều lắm, và cũng đă biết tự kiềm hăm sức giận dữ hung hăn của ḿnh rồi đó.”
Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng ghi lại không khí của người dân miền Nam lúc đó khi nghe tin vụ đảo chính và việc anh em Ngô Đ́nh Diệm - Ngô Đ́nh Nhu bị giết169 :
“ Lúc ấy, tôi đang làm cho tờ “Dân Chúng”. Tôi c̣n nhớ bầu không khí nẩy lửa đó, ai cũng hăng say muốn thấy Ngô Đ́nh Diệm và bộ sậu, bị chết đâm chết chém… có một điều chắc chắn là t́nh thế lúc đó đă chín mùi và dân chúng đă thấy cách ǵ cũng phải hạ ngay Ngô Đ́nh Diệm.
Người ta muốn biết ai đă giết Diệm - Nhu, nhưng không ai biết đích xác; dù sao Diệm - Nhu chết đi th́ đại đa số dân chúng cũng mừng. Có người mổ heo cúng tế; có người lập bàn thờ cảm tạ trời đất; c̣n th́ hầu hết nhà nào cũng làm tiệc, rủ bè bạn, thân thích đến để nhậu nhẹt cho “phỉ chí tang bồng”.
”
Cái chết của anh em Ngô Đ́nh Diệm cũng khiến cho các lănh đạo Á Châu là đồng minh của Mỹ phải cảm thấy lo ngại cho ḿnh. Về sau, Tổng thống (Pakistan), Ayub Khan, đă nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon:
“ Cuộc thảm sát gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm đă khiến các lănh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Làm đồng minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa là nên làm kẻ thù của Hoa Kỳ. ”
— Tổng thống Ayub Khan170
Tài liệu của phía Hoa Kỳ cho biết Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu được chôn trong những ngôi mộ không tên trong một nghĩa trang bên cạnh ngôi nhà của đại sứ Hoa Kỳ.171 Sau này t́m hiểu, th́ ông Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (vị trí ở đường Điện Biên Phủ cắt với đường Hai Bà Trưng, ngày nay là Công viên Lê Văn Tám). Áo quan của Ngô Đ́nh Diệm h́nh hộp, áo quan của Ngô Đ́nh Nhu có nắp tṛn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích v́ người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Ngô Đ́nh Diệm, c̣n chiếc hạng vừa dành cho ông Ngô Đ́nh Nhu. Trong khoảng thập niên 1980, do nhu cầu phát triển đô thị trong nội đô Sài G̣n, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu (Nghĩa trang Nhân dân số 6B) ngày nay. Hiện tại, mộ ông Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu chính thức đặt tại nghĩa trang Lái Thiêu172 . Mộ hai ông nằm hai bên mộ mẹ - bà Phạm Thị Thân. Ngoài ra, mộ ông Ngô Đ́nh Cẩn cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh và "Huynh" (chỉ ông Ngô Đ́nh Diệm) hoặc "Đệ" (ông Ngô Đ́nh Nhu), sau đó, theo đề nghị của một số người, mộ đă được đề đích danh173 .
Câu nói
“Bảo Đại chẳng là ǵ mà chỉ là công cụ trong tay người Pháp14 ”
“With regard to security, the frontiers of the United States do not stop at the Atlantic and Pacific Coasts, but extend, in South East Asia, to the Ben Hai river, which partitions Viet-Nam at the 17th parallel, and forms the threatened border of the Free World, which we all cherish.174
“Liên quan tới vấn đề an ninh, biên giới Hoa Kỳ không ngừng ở Đại Tây Dương và Thái B́nh Dương, mà kéo dài, ở Đông Nam Á, tới sông Bến Hải, ở vĩ tuyến 17 của Việt Nam, h́nh thành một biên giới của thế giới tự do, cái mà chúng ta đều trân trọng" (Bản dịch tại bài của tác giả Thiên Hạ, Báo Tây Ninh).175 ”
— Ngô Đ́nh Diệm (Trong bài diễn văn tại buổi tiệc trưa do thị trưởng New York tổ chức tại khách sạn Waldorf-Astoria ngày 13/5/1957)
Theo sử gia Jacques Dalloz, sau phát biểu của ông Diệm, báo chí ở Sài G̣n đă kiểm duyệt và chỉnh sửa lại câu nói, cắt đi cụm từ "biên giới Hoa Kỳ" và rút gọn lại thành “Biên giới của thế giới tự do chạy dài từ Alaska đến sông Bến Hải”. Ông Diệm cũng nhận ra ḿnh đă nói hớ và đă đồng ư chữa lại bằng câu nói rút gọn này, thay "biên giới Hoa Kỳ" bằng "biên giới tự do" như trên176
“Chế độ này tuy c̣n nhiều khuyết điểm, cũng c̣n hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài nhưng chỉ ngại c̣n những thứ độc tài khủng khiếp hơn. Tôi tiến th́ theo tôi, tôi lui th́ bắn tôi, tôi chết th́ trả thù cho tôi.177 ”
“ Tôi không phải là thần thánh,tôi chỉ là một người b́nh thường, tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc, một ḷng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.178 ”
“ Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay78 ”
“ Chúng ta sẽ không quay lại phiên bản vô ích của quá khứ quan lại, mà sẽ áp dụng những ǵ tốt nhất của di sản vào t́nh h́nh hiện đại.179 ”
“ Đời sống dân chủ phải căn cứ trên sự tôn trọng nhân vị, tôn trọng công ích, công lợi, tôn trọng các xu hướng dị đồng miễn là đừng đưa tới hỗn loạn hay che đậy thâm ư bảo thủ bất động180 . ”
“ Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lănh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, c̣n dân miền Nam chỉ làm tướng vơ biền.181 ”
Đánh giá
Tại Việt Nam
Năm 1935, nhân việc Ngô Đ́nh Diệm bị Bảo Đại cách chức rồi lại phục chức, Phan Khôi nhận xét như sau: "Thật, chúng tôi nói 50 năm nay mới có một người như ông Ngô Đ́nh Diệm, không phải là nói quá.182
Ngay sau khi Ngô Đ́nh Diệm nhậm chức Thủ tướng chính quyền Bảo Đại, báo Nhân dân của Đảng Lao động đă có bài chỉ trích "Dưới thời thực dân Pháp trước đây, do tài luồn lọt bợ đỡ, Diệm từ chỗ một tên công chức nhỏ đă được cất nhắc dần dần lên tới tuần phủ. Thấy quan thầy chú ư Diệm càng trổ tài khuyến mă ra sức đàn áp cách mạng, áp bức nông dân, nên đến năm 1933 nó được quan thầy đặc cách phong chức thượng thư bộ lại trong cái thứ triều đ́nh mọt nát của Bảo Đại. Hồi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, địa vị thực dân Pháp lung lay, Diệm giở mặt thay thầy đổi chủ. Nó cử tên Vũ Đ́nh Dy sang Đông Kinh thay mặt nó lạy van phát xít Nhật và xin cho nó cái chân thủ tướng bù nh́n. Nó lại cho tên tay sai Phan Thúc Ngô sang Nhật lần nữa mang cái "Lời thề trung thành" của nó tâu hỏi với phát xít Nhật và tên bù nh́n Cường Để, đồng thời định rước Cường Để về làm vua bù nh́n,...Ngô Đ́nh Diệm chính là một con chó săn lai Nhật, lai Tây, lai Mỹ chuyên thay thầy đổi chủ,..."183
Sách giáo khoa lịch sử lớp nhất của Đệ Nhị Việt Nam Cộng ḥa ("Đệ Nhị Cộng ḥa" là chính phủ do các tướng lĩnh đảo chính Ngô Đ́nh Diệm lập nên, để phân biệt với "Đệ Nhất cộng ḥa" là chính phủ thời Ngô Đ́nh Diệm) xuất bản năm 1966 viết về thời kỳ Ngô Đ́nh Diệm:184
“Ngô Đ́nh Diệm nắm quyền ở miền Nam, đặt ra chế độ độc tài tàn bạo.”
“Một chánh thể độc tài hại dân hại nước không thể tồn tại được.”
Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn lúc cuối đời, đă có một số nhận xét về Nguyễn Văn Thiệu cũng như so sánh giữa Nguyễn Văn Thiệu và Ngô Đ́nh Diệm, sau đây lược trích đoạn nhận xét về Ngô Đ́nh Diệm:"...ông Ngô Đ́nh Diệm chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi, ông không thể làm ǵ nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh... Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. Tổng thống Diệm th́ trái lại. Rốt cuộc, ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ. Tổng thống Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho ḿnh 'thiên mạng' cứu nước. Tổng thống Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đ́nh, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương 'tiết trực tâm hư' nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đ́nh. Tổng thống Diệm dễ tin người xu nịnh nên dễ bị phản trắc,...[cần dẫn nguồn]
Nhà sử học và là một tín đồ Công giáo, ông Nguyễn Đ́nh Đầu cho rằng Ngô Đ́nh Diệm là người yêu nước và có công. Ông nói: "Vào năm 1955, tôi ở Pháp về tôi thấy ông Ngô Đ́nh Diệm có những hoạt động rất tích cực trong việc xây dựng lại xă hội đang sa sút lúc bấy giờ trên nhiều phương diện. Về kinh tế, lúc đó đang nhập khẩu gạo mà chỉ trong vài năm đă phát triển nông nghiệp và xuất khẩu 300.000 tấn gạo ra nước ngoài. Về văn hóa tiến bộ khá rơ ràng, đă xây dựng được hệ thống giáo dục đào tạo tiến bộ theo chương tŕnh của người Pháp và phương pháp của Hoa Kỳ, trong một thời gian ngắn đă đào tạo được nhiều chuyên gia trí thức...185
Theo hồi ức của tướng Trần Văn Đôn th́: "Ông Diệm là người tuy điềm đạm bên ngoài nhưng tính rất nóng. Một hôm tôi vào Dinh, thấy thức ăn, cơm canh văng tung tóe dưới sảnh, người bồi đang lau dọn. Sau khi tṛ chuyện với ông Diệm xong, tôi quay ra hỏi tùy viên có chuyện ǵ xảy ra, th́ được biết ông Diệm hất đổ mâm cơm v́ thiếu một món mà ông thích"186 .
Ngô Đ́nh Diệm hiểu rơ bản thân ông cần quân đội, nhưng ông luôn tỏ ư coi thường quân đội, trong khi rất thích những bộ trưởng dân sự biết cách nịnh hót. Ngoài ra, ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đ́nh Diệm thường nói: "Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lănh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, c̣n dân miền Nam chỉ làm tướng vơ biền"186 .
Giáo sư Nguyễn Văn Tương, nguyên Tổng Thư kư Quốc hội, có nhận xét về việc Ngô Đ́nh Diệm đă khống chế quốc hội như một nhà độc tài187 :
Ra phiên họp khoáng đại, Dân biểu ta chia làm hai khối: khối đa số và khối thiểu số, giống chế độ lưỡng đảng của Anh quốc. Nhưng đó chỉ là tṛ ảo thuật của cấp lănh đạo, v́ ở cấp cao c̣n có vai tṛ của Đảng Cần lao Nhân vị hoạt động trong ṿng bí mật. Người ngoài cuộc nói Quốc hội lúc ấy là một cửa sổ giả, nghĩa là khi xây nhà th́ phải có cửa cái, cửa sổ cho đủ bộ dễ coi, mặc dù cửa sổ giả vốn không cần thiết. Thay v́ chú tâm trang bị cho nước nhà những bộ luật mới thống nhất và tiến bộ, Quốc hội chuyên ra các Quyết nghị ủng hộ Ngô Tổng thống…”
Ngô Đ́nh Diệm quá đề cao bản thân lẫn người cùng huyết thống, có cách cư xử không khéo đối với thuộc cấp. Đa phần tướng tá, sĩ quan đều bị ông Diệm gọi bằng "thằng" (ngoại trừ Tổng tham mưu Trưởng Lê Văn Tỵ, ông Diệm gọi là ngài, c̣n tướng Nguyễn Văn Đôn th́ gọi khách khí bằng ông). Theo nhiều hồi kư của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, th́ khi vào cửa Tam quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: "Các ông đi cổng hai bên, v́ cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc này". Dứt câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Ngay cả người gần gũi với gia đ́nh ông như tướng Trần Văn Đôn c̣n bất măn với sự độc đoán này của ông Diệm. Nhiều sử gia gọi Việt Nam Đệ Nhất Cộng ḥa là "Ngô triều".186 .
Theo ông Quách Ṭng Đức, vốn là một viên chức cao cấp của chế độ thực dân từ trước năm 1945 và sau này đă phục vụ các chính phủ ở Sài G̣n cho rằng: Ngô Đ́nh Diệm có bản chất quyết liệt đến tàn bạo, rất kiên tŕ trong những kế hoạch thâu tóm quyền lực và không ngần ngại sử dụng những mưu kế để đạt các mục đích đă đặt ra. Ngô Đ́nh Diệm không hay to tiếng nhưng ông ta cũng có những lúc lớn giọng quát nạt làm đám thuộc hạ phải sợ hăi. Nhiều người từng tiếp xúc với Tổng thống Diệm ở Sài G̣n đều có cảm nhận rằng, mặc dù mang danh là đứng đầu một chính thể "cộng ḥa" nhưng thực chất Ngô Đ́nh Diệm vẫn cư xử như một viên quan lớn của chế độ phong kiến. Cũng dưới góc nh́n như thế nên tác giả Stanley Karnow trong cuốn "Vietnam A History" đă dành hẳn một chương (chương 8) nói về Ngô Đ́nh Diệm với tựa đề "America's Mandarin" (Quan cận thần của Mỹ). Làm việc theo kiểu quan lại phong kiến nên Tổng thống Diệm, cũng như em trai ông là cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, thường xuyên ôm đồm mọi việc, v́ họ không thấy ai ngoài gia tộc ḿnh đủ độ tin cậy để trao đầy đủ trọng trách188 .
Ông Đỗ Mậu, nguyên là một lính đội khố xanh dưới thời Pháp thuộc, từng nhiều năm phục vụ Ngô Đ́nh Diệm khi ông ta c̣n thất thế lẫn khi ông ta đă trở thành Tổng thống ở Sài G̣n có vài đánh giá, nhận xét:
"Tất cả mọi quyết định, vi phạm mọi nguyên tắc hành chính cơ bản, để can thiệp trực tiếp và mạnh mẽ những sinh hoạt nào mà ông ta muốn, cấp độ nào mà ông ta thích… Chủ trương trung ương tập quyền tuyệt đối đó, một lần nữa phản ánh cái tâm lư độc quyền và độc tôn là một trong những nét đặc thù của con người ông Diệm từ những ngày đầu mới làm quan Nam triều…"188
Ông Bùi Kiến Thành, một cộng sự thân cận với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm nhận định về sự thất bại của ông Diệm:
"... thực sự ra chính quyền Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ c̣n nhiều vấn đề cốt lơi hơn nữa. Ông Ngô Đ́nh Diệm là một người yêu nước và có công tâm nhưng ông Diệm không có kinh nghiệm tổ chức. C̣n ông Nhu th́ rất uyên thâm về vấn đề học thuật, ông học rất giỏi về tổ chức thư viện, ông nghiên cứu rất tốt nhưng không có tài năng tổ chức lực lượng chính trị. Nếu quản lư một nhà nước mà không có tài tổ chức th́ làm sao? V́ vậy cho nên cái Đảng Cần lao của ông Nhu không có tổ chức tốt c̣n cái “Phong trào cách mạng quốc gia” mà ông Bác sĩ Tín làm chủ tịch sáng lập th́ nó cũng chỉ là phong trào thôi. Sau một phong trào rồi th́ nó lặng im. Quyền chính trị trong nước là ở trong đảng, mà Đảng Cần Lao không được tổ chức tốt v́ vậy cho nên chế độ Ngô Đ́nh Diệm không tồn tại được v́ không có tổ chức chính trị ṇng cốt để làm việc.
Sau nữa c̣n có cái lỗi ở chỗ lầm lẫn hai việc khác nhau: quản lư các vấn đề nhà nước là việc quản lư hành chính, c̣n tổ chức ṇng cốt do một chính đảng đứng lên để đóng vai tṛ cột trụ cho một đất nước th́ là một việc khác. Do lầm lẫn ở vai tṛ lănh đạo chính trị và lănh đạo hành chính cho nên chế độ Ngô Đ́nh Diệm tập trung nhiều hơn về vấn đề hành chính mà quên đi vấn đề lănh đạo chính trị, xây dựng ṇng cốt tức là sự ủng hộ của nhân dân, làm sao để vấn đề đảng được nhân dân ủng hộ...
Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm không làm được, không xây dựng được một đảng chính trị thật sự của dân, do dân và v́ dân v́ vậy cho nên không đứng vững được và v́ thế có thể nói sự sụp đổ của chế độ Ngô Đ́nh Diệm không phải là vấn đề nhỏ bé như chuyện bà Nhu nói cái này cái kia. Có! Nó có ảnh hưởng nhưng chuyện đó là chuyện nhỏ, đối với khả năng xây dựng nên một chính đảng mạnh th́ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm không làm được.116 "
Ông Lư Chánh Trung, Đổng lư văn pḥng Bộ Quốc gia Giáo dục, đă nhận xét vào năm 1970 rằng3 :
Nh́n lại 9 năm cầm quyền, tôi thành thực nghĩ rằng, ông Diệm chỉ là một huyền thoại lớn do người Mỹ và một số tay chân bộ hạ tạo ra để lợi dụng. Người Mỹ lợi dụng ông để thực hiện mưu đồ của họ, một số tay chân bộ hạ đă lợi dụng ông để ḅn rút những nguồn lợi béo bở của đất nước này và của viện trợ Mỹ...
Cái lỗi căn bản của ông là đă xem người Mỹ cũng như tay chân bộ hạ của ông là những phương tiện để hoàn thành sứ mạng, trong khi chính ông mới là phương tiện của người Mỹ và một số tay chân bộ hạ.
Ông đă tưởng ḿnh có thể lệ thuộc Mỹ một phần nào thôi, c̣n phần kia th́ vẫn “độc lập”, ông đă tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng của ông. Khi ông nh́n thấy đó chỉ là ảo tưởng th́ đă quá trễ: Ông đă chết v́ ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự đi một nước cờ cho riêng nó, dù con cờ đó mang tên Ngô Đ́nh Diệm, và không một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là nước đó mang tên Hoa Kỳ.
Bảy năm đă qua và ngày nay, dư luận quần chúng có vẻ khoan hồng hơn đối với ông Diệm, ngay cả những nơi nạn nhân của chế độ ấy. Lư do giản dị: với thời gian, kỷ niệm đă mờ nhạt, hận thù được xoa dịu, những ẩn ức dồn nén được giải tỏa. Trong khi đó, cái thực trạng của xă hội miền Nam (năm 1970) mỗi ngày càng thêm xấu xa tệ hại, khiến cho người ta có khuynh hướng chỉ nhớ tới những nét tương đối dễ coi của chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Nhưng từ đó mà cho rằng chế độ ông Diệm là một thời đại hoàng kim và chỉ cần bắt chước ông Diệm là có thể giải quyết những vấn đề đất nước, như một số chân tay bộ hạ của ông đang tuyên bố rùm beng th́ thật là lố bịch và vô liêm sỉ.
Từ bên ngoài
Ngô Đ́nh Diệm từng sống ở Hoa Kỳ một thời gian, có quan hệ với một số nhân vật trong chính giới Mỹ, được Hoa Kỳ ủng hộ về Việt Nam làm Thủ tướng trong chính phủ Bảo Đại (sau Hiệp định Genève) rồi Tổng thống Đệ Nhất Cộng ḥa Việt Nam. Người có ảnh hưởng rất lớn trong việc ông Diệm trở thành Thủ tướng Quốc gia Việt Nam là Hồng y Spellman. John Cooney (1985) đă viết189 [cần số trang]:
"Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y Spellman đă đóng một vai tṛ rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đă ở trong một Trường Ḍng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đ́nh Diệm. Ở Diệm, Spellman nh́n thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lănh đạo: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng."
Một số người cho rằng Ngô Đ́nh Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc. Song tác giả Dennis Bloodworth (1970) nhận xét rằng190 :
"Cho tới năm 1963 mật vụ của Diệm đă bắt giữ hoặc đẩy vào tay những kẻ thù hầu như mọi người quốc gia có tên tuổi đă chiến đấu cho tự do của đất nước trong 20 năm trước. Ông ta và gia đ́nh ḿnh đă đàn áp mọi đối lập, chất đầy nhà tù, bịt miệng báo chí, gian lận bầu cử, và bám vào quyền lực."
Có ư kiến cho rằng Ngô Đ́nh Diệm đă bỏ lỡ cơ hội thống nhất đất nước khi từ chối hiệp thương, không tiến hành tổng tuyển cử và giết hại rất nhiều người thân cộng191 . Tuy nhiên theo Richard J. Barnet nhận xét 192 [cần số trang]:
Điều quan tâm chính của chính quyền Diệm là sự an toàn của chính quyền. Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc bầu cử dự định tổ chức vào tháng 7 năm 1956 đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí Minh và chấm dứt quyền lực của những chính trị gia không Cộng sản
Đại sứ Mỹ J. Lowton Collins nhận xét về ông Diệm: "Ông ấy quá quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt, không có bất cứ sáng kiến đáng kể nào từ ngày nắm chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều khó chịu về thói quen quyết định trên đầu người khác của ông Diệm. Ông Diệm hoàn toàn không trông cậy vào họ, mà đặt hết niềm tin vào hai người em cùng những người chịu phục tùng ông ấy. Ông là người hoàn toàn không biết nhân nhượng và với thái độ của một người khổ hạnh, ông không thể đương đầu với những thế lực thực tại, điển h́nh nhất là B́nh Xuyên…"4 Người Mỹ không xem ông Diệm là một kẻ bù nh́n. Họ đánh giá ông Diệm là một con người "luôn muốn có được tất cả, hoặc không có ǵ", "được ăn cả ngă về không" và "ông Ngô Đ́nh Diệm là một con rối. Nhưng con rối ấy tự giật dây ḿnh và giật dây luôn cả chúng ta".4
Nhà sử học George C. Herring nhận xét193 :
Để làm vui ḷng các cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng Diệm cũng nói trên đầu môi chót lưỡi về dân chủ, nhưng trong thực hành ông ta nắm lấy những quyền lực tuyệt đối. Đích thân ông ta ngự trị ngành hành pháp của chính phủ, đưa ba người anh em trai vào nắm ba chức trong nội các có sáu bộ, ông ta có mọi quyền quyết định.
Sự tấn công dữ dội của Diệm vào những đối lập chính trị đă gây nên sự bất măn trong các thành phố cũng như ở thôn quê. Báo chí chỉ trích chính phủ bị đóng cửa ngay.. Dùng quyền hành trong các sắc lệnh của tổng thống, chính quyền Diệm đă lùa vào những “trại cải huấn” nhiều ngàn người Việt Nam, cộng sản cũng như không cộng sản, những người bị coi như là đe dọa cho trật tự công cộng. Chương tŕnh cải huấn lúc đầu nhắm vào các thành phần kháng chiến Việt Minh ở lại miền Nam, nhưng rồi với thời gian chương tŕnh này được áp dụng cho bất cứ ai dám chống đối chính phủ của Diệm.
Chính quyền có khuynh hướng cai trị dân với ḷng nghi ngờ và cưỡng bức”, một phúc tŕnh t́nh báo của Mỹ kết luận năm 1960, và “đă được đáp trả bởi thái độ bất thiện cảm và bất măn của người dân.
Những báo cáo của cơ quan t́nh báo Mỹ CIA, soạn trong tháng 2 năm 1957, mô tả chế độ Diệm như sau194 :
Chế độ Diệm phản ánh ư nghĩ của Diệm. Một bộ mặt chính quyền đại diện cho dân được duy tŕ, nhưng thực chất chính quyền là độc tài. Quyền lập pháp của quốc hội bị hạn chế gắt gao; quyền tư pháp chưa phát triển và tùy thuộc quyền hành pháp; và những nhân viên trong ngành hành pháp không ǵ hơn là những tay sai của Diệm. Không có một tổ chức đối lập nào, dù trung thành hay không, được phép thành lập, và mọi chỉ trích chính quyền đều bị đàn áp... Quyền lực và trách nhiệm tập trung nơi Diệm và một nhóm nhỏ gồm có những thân nhân của Diệm, những người quan trọng nhất là Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn.
Chế độ độc tài của Diệm, dựa trên một mạng lưới mật vụ, ṭa án quân sự, và công chức tham nhũng, không chỉ tuyên bố về sự nghiệp chiến đấu chống Cộng (dù cho tới năm 1957, phong trào Cộng sản vẫn chưa có hoạt động ǵ), mà c̣n chống bất cứ nhóm nào không chắc là trung thành với Diệm. Thật vậy, nhiều người không Cộng sản bị Diệm tống vào tù hơn là người Cộng sản.
...Sự chuyên chế của Diệm, sự thiên vị trơ trẽn của ông ta đối với những người Công giáo tị nạn từ ngoài Bắc vào so với phần c̣n lại của dân chúng, và sự bạo hành đối với mọi người không đồng quan niệm chính trị với ông ta đă tạo nên một sự liên kết chống Diệm mà ông ta rất sợ.
Theo sách Triangle of Death th́ ngày 1 tháng 2 năm 1966, Lyndon B. Johnson (lúc này đă là Tổng thống Hoa Kỳ) gọi điện thoại cho Thượng nghị sĩ Eugene McCarthay, nhắc lại chuyện chính quyền tổng thống John F. Kennedy muốn tham chiến ở Việt Nam và đă cùng "bọn du côn" (phe đảo chính) để hạ sát Ngô Đ́nh Diệm.195 Trong một bài đăng trên tuần san Weekly Standard ngày 29-9-2003, James Osen đă tŕnh bày và phân tích đoạn băng này và kết luận rằng Tổng thống Kennedy phải chịu trách nhiệm về cái chết của Ngô Đ́nh Diệm.
Thủ tướng Singapore đương thời là Lư Quang Diệu tin rằng hành động tiêu diệt những người đối lập của Ngô Đ́nh Diệm đă góp phần khiến Việt Nam Cộng Ḥa thất bại. Lư Quang Diệu nói rằng chính quyền Mỹ đă "cho phép Ngô Đ́nh Diệm loại bỏ khỏi hệ thống chính trị tất cả những lựa chọn có thể thay thế cho ông ta". V́ điều này, Việt Nam Cộng Ḥa đă mất hết nhân tài và không c̣n ai có đủ tài năng để đóng vai tṛ dẫn dắt, dẫn tới sự lụn bại và sụp đổ của chính phủ này196
Sau này, trong cuộc phỏng vấn của Stanley Karnow, sử gia chuyên về chiến tranh Việt Nam, hỏi tổng thống Johnson là ông có tin rằng Diệm là "Winston Churchill (Thủ tướng Anh, góp phần thắng Đức Quốc xă tại châu Âu) của Đông Nam Á" hay không; th́ Johnson đă văng tục:
"Khốn kiếp, Diệm chỉ là thằng nhóc duy nhất chúng ta có lúc đó. (Shit! Diem is the only boy we’ve got out there)" 197
Xem thêm
Chiến tranh Việt Nam
Đệ Nhất Cộng ḥa Việt Nam
Đảo chính Việt Nam Cộng ḥa 1960
Đảo chính Việt Nam Cộng ḥa 1963
Thủ tướng Việt Nam
Nguồn tham khảo
^ Miller, Edward (2013). Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam. Harvard University Press. tr. 13–18.
^ The Lost Mandate of Heaven: the American Betrayal of Ngo Dinh Diem, President of Vietnam. Shaw, Geoffrey. Ignatius Press, 2015. ISBN 978-1-58617-935-9
^ a ă Lư Chánh Trung, Những Ngày Buồn Nôn. Sài g̣n, Nhà xuất bản Đối Diện, 1972, trang 133-138
^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m Ngô Kinh Luân (ngày 6 tháng 11 năm 2013). “Ngô Đ́nh Diệm - Bước đường từ Tri huyện lên Tổng thống”. Báo Công An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2017.
^ Moyar, p. 11
^ Jacobs, trang 19.
^ a ă Fall, tr. 239.
^ Nhân Hưng (ngày 6 tháng 12 năm 2005). “Chuyện về những mối t́nh và con rơi của Ngô Đ́nh Diệm”. Báo Công An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2017.
^ Miller, tr. 21
^ Fall, p. 239
^ Miller, p. 25.
^ Jacobs, tr. 19.
^ Jacobs, tr. 20.
^ a ă â Fall, trang 239
^ Việc này được Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn ghi lại trong bài thơ sau:
Năm trụ khi không rớt cái ́nh,
Đất trời sấm dậy thảy đều kinh.
Bài không đeo nữa đem dâng Lại,
Đàn nỏ ai nghe khéo dấu H́nh.
Liệu thế không xong Binh chẳng được,
Liêm đằng giữ tiếng Lễ đừng rinh.
Công danh thôi thế là hưu hỉ,
Đại sự xin nhường lớp hậu sinh.
Nguyễn Phúc Tộc gia phả, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1995, tr. 405
^ a ă Lockhart, Bruce McFarland, Bruce McFarland (1993). The end of the Vietnamese monarchy. Council on Southeast Asia Studies, Yale Center for International and Area Studies. tr. 68–86.
^ Trần Gia Phụng. "Ngô Đ́nh Diệm và hội Tam Điểm". Truyền thông số 24. St Leonard, Canda, 2007. Trang 33-35.
^ Bao Dai ou les derniers jours de l’empire d’Annam (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của đế quốc An Nam) (Nhà xuất bản JC Lattés, trang 43)
^ a ă Moyar, p. 13
^ Tuyển Tập "1963-2013 Năm Mươi Năm Nh́n Lại" (2013), Vũ Ngự Chiêu, trang 94
^ Tử ngục Chín Hầm và những điều ít biết về Ngô Đ́nh Cẩn, Dương Phước Thu, Nhà xuất bản Thuận Hóa. tr 25
^ Shiraishi Masaya(白石昌也). "The Vietnamese Phuc Quoc League and the 1940 Insurrection". Tokyo: Contemporary Asian Studies, Waseda University, 2004. tr 24
^ Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1987
^ Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong
^ Trần Gia Phụng. Giải oan lập một đàn tràng. "Trường hợp Phạm Quỳnh". Silver Spring, MD: Tâm Nguyện, 2001. Trang 340.
^ Góp thêm một ít tư liệu chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh
^ Phim tài liệu: Sứ mệnh đặc biệt, BÁO ĐIỆN TỬ ĐÀI TRUYỀN H̀NH VIỆT NAM
^ Tại Sao Mỹ Thua Ở Việt Nam, Nguyễn Phú Đức, Nhà xuất bản Lao động, năm 2009
^ Time Magazine, ngày 4 tháng 8 năm 1961
^ Hammer, The Struggle for Indochina, page 150
^ Gullion, memcon, ngày 7 tháng 5 năm 1953, FRUS, 1952–1954, vol. 13, page 553–554
^ Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, page 212
^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m Edward Miller “Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Đ́nh Diệm, 1945–54“, Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004, pp 433–458
^ Walter J. Whittemore Jr (ngày 8 tháng 2 năm 2012). Untimely Deaths by Assassination. iUniverse. tr. 126. ISBN 978-1-4620-3822-0. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
^ Stanley Karnow (ngày 23 tháng 11 năm 1991). Vietnam, a history. Viking. tr. 233. ISBN 978-0-670-84218-6. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
^ Tử ngục Chín Hầm và những điều ít biết về Ngô Đ́nh Cẩn, Dương Phước Thu, Nhà xuất bản Thuận Hóa. tr 27
^ John Cooney, The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, A Dell Book, New York 1985.
^ Robert S.Mc.Namara: Nh́n lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.43-44
^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 735-736
^ Pentagon Papers, Evolution of the War. U.S. and France's Withdrawal from Vietnam, 1954-56, The U.S. National Archives and Records Administration, page 5-6 available online
^ a ă â b c d đ e ê g h i k Nh́n vào nền Đệ Nhất Cộng Ḥa ở VN, Nguyễn Tiến Hưng, BBC tiếng Việt, 31 tháng 10 năm 2014
^ Pentagon Papers, Evolution of the War. U.S. and France's Withdrawal from Vietnam, 1954-56, The U.S. National Archives and Records Administration, trang IV-V available online
^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Publisher University of California Press, 1980, trang 737 available online
^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 737-738
^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 734
^ a ă Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 741
^ Blagov, trang 93
^ Chapman, p. 84.
^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 744
^ Anh Thái Phượng. Trăm núi ngàn sông: Tập I. Gretna, LA: Đường Việt Hải ngoại, 2003. tr 99
^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 740
^ Emperor Bao Dai attempts to dismiss Diem, History.com
^ The Reunification of Vietnam, PRESIDENT NGO DINH DIEM'S BROADCAST DECLARATION ON THE GENEVA AGREEMENTS AND FREE ELECTIONS (ngày 16 tháng 7 năm 1955), page 24, Vietnam bulletin - a weekly publication of the Embassy of Vietnam in United States, Special issue No.16, Available online Trích: "Our policy is a policy for peace. But nothing will lead us astray of our goal, the unity of our country, a unity in freedom and not in slavery. Serving the cause of our nation, more than ever we will struggle for the reunification of our homeland. We do not reject the principle of free elections as peaceful and democratic means to achieve that unity. However, if elections constitute one of the bases of true democracy, they will be meaningful only on the condition that they be absolutely free. Now, faced with a regime of oppression as practiced by the Viet Minh, we remain skeptical concerning the possibility of fulfilling the conditions of free elections in the North." dịch là "Chính sách của chúng tôi là chính sách hoà b́nh. Nhưng không có ǵ có thể khiến chúng tôi đi chệch khỏi mục tiêu của chúng tôi là sự thống nhất đất nước, thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ. V́ dân tộc, chúng tôi sẽ đấu tranh hết sức ḿnh cho sự thống nhất đất nước. Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà b́nh và dân chủ. Tuy nhiên nếu những cuộc bầu cử tạo thành một trong những nền tảng cơ bản của nền dân chủ thật sự th́ chúng chỉ có ư nghĩa với điều kiện chúng hoàn toàn tự do. Hiện nay, thực tế phải đối mặt với chế độ áp bức của Việt Minh, chúng tôi nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc."
^ a ă Duncanson, Dennis J. Government and Revolution in Vietnam. New York: Oxford University Press, 1968. tr 223, trích "But Diem set his face against even the preparatory discussions about elections which the Final Declaration had enjoined (its force, if any, was uncertain); his behaviour was put down in the West most commonly to obstinacy and avidity for despotic power yet the truth was more complicated then either these critics, or the drafter of the agreement, may have realized. Obstinate and avid for power Diem may also have been, but the decisive factor for him was the balance of population between North and South: before the cease-fire the Commumists had had under their control barely a quater of the total population of the country, and perhaps not that; the cease-fire had awarded them, with their slightly smaller half of the national territory, a clear majority (even taking account of their transfer of population) of close on 2 millions. In the circumstances prevailing in 1955 and 1956 - anarchy of the Sects and of the retiring Vietminh in the South, terror campaign of the land reform and resultant peasant uprising round Vinh in the North - it was only to be expected that voters would vote, out of fear of reprisals, in favour of the authorities under whom they found themselves; that the ICC had no hope of ensuring a truly free election at that time has been admitted since by the chief sponsor of the Final Declaration, Lord Avon."
^ From Prologue To Epilogue In Vietnam, Mortimer T. Cohen, 1979, p.227 and 251. Trích: But Eisenhower knew then that 80 percent of the people in a free election would vote for Ho Chi Minh over Bao Dai. Would Diem do any better than Bao Dai? Why should he? No one in Vietnam could beat Ho Chi Minh in an open election. He was the George Washington of the nation... The reason Diem did not hold unification elections was that he thought he’d lose them.
^ Nguồn: Dwight D. Eisenhower, Mandate for Change, 1953-56 (Garden City, NY: Doubleday & Compnay, Inc., 1963), tr. 372
^ During the early 1960s, the U.S. military presence in Vietnam escalated as corruption and internal divisions threatened the government of South Vietnamese President Ngo Dinh Diem. tại John F. Kennedy Presidential Library and Museum
^ Clark Clifford. Set a date in Vietnam, Stick to it, Get out. The Life, 22nd May, 1970. P. 38
^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới, trang 333
^ Báo Độc Lập ngày 29 Tháng Một 1955, tr.8
^ Tucker, Spencer C. (2000). Encyclopedia of the Vietnam War. ABC-CLIO. tr. p. 366. ISBN 1-5760-7040-0 Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp). Bảo tŕ CS1: Văn bản dư (link)
^ Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A history. Penguin Books. tr. p. 239. ISBN 0-670-84218-4. Bảo tŕ CS1: Văn bản dư (link)
^ Vũ Văn Mẫu. Sáu Tháng Pháp Nạn. Nhà xuất bản Giao Điểm, 2003, trang 31.
^ Ḥa Trân và Thân Hữu xuất bản, Houston, Mỹ, 1995
^ Cái chết của anh em nhà họ Ngô: Những sai lầm của Ngô Đ́nh Diệm, 13/11/2013, Báo Công an nhân dân điện tử
^ Bốn mươi năm nói láo. Cơ sở Xuất Bản Sống Mới – Sài G̣n – 1969.Trang 205, 238
^ Mark Moyar, Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965, tr. 72-73, Cambridge University Press, 2006, download
^ a ă Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945—1990 (New York: Harper Perennial, 1991), p. 76 and p. 104.
^ a ă The Pentagon Papers - Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1955-1960"
^ a ă Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ ǵn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998, trang 276-332
^ Chỉ riêng Quân khu 8 đă để lại số vũ khí đủ trang bị cho 3 tiểu đoàn. Trong chiến dịch chống cộng, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đă phát hiện 707 hầm chứa vũ khí, thu giữ 119.954 vũ khí và 75 tấn tài liệu.
^ Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ ǵn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 285, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998
^ Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ ǵn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 303-304, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998
^ Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ ǵn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 321, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998
^ Nam Trung Bộ, kháng chiến 1945 – 1975, Viện Lịch sử Đảng và Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ xuất bản, Hà Nội, 1992, tr. 247
^ The Vietnamese War: Revolution and Social Change in the Mekong Delta, 1930-1975, page 288, David W. P. Elliott, East Gate Publisher
^ Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2, Chính trị Quốc gia, 1995[cần số trang]
^ a ă Marilyn B. Young, The Vietnam Wars: 1945-1990, p. 279
^ “Where Have All the Flowers Gone”. Google Books. Truy cập 4 tháng 10 năm 2015.
^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới, trang 344
^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới, trang 345
^ Nhân dân ngày 21 Tháng Một 1975
^ Robert K. Brigham, Battlefield Vietnam: A Brief History, 6-9-2007
^ Đấu tranh đ̣i địch thi hành Hiệp định Genève; Giữ ǵn, phát triển lực lượng cách mạng; Phong trào Đồng Khởi (7/1954 - 3/1961), Trang thông tin điện tử tỉnh Tiền Giang
^ Vietnam: Why Did We Go?" by Avro Manhattan, Chick Publication, California 1984, pp. 56 & 89
^ Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ ǵn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 308, 313, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998
^ The Straits Times, 24 July 1959
^ Báo Buổi sáng, số ngày 15-10-1959
^ Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ ǵn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang 326, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998
^ Tư cách thành viên IMF mặc dù không phải là nền kinh tế thị trường của Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam sau này là thừa hưởng của Việt Nam Cộng ḥa.
^ "Nhà Máy Giấy An Hảo", Thế giới Tự Do, số 3 Tập X, trang 9.
^ Press and Information Office Embassy of the Republic of Vietnam. News from Vietnam. Vol 10. No 10. Washington, DC: 1961
^ Nguyễn Huy (1972), trang 35-51.
^ Nguyễn Văn Ngôn (1972), trang 349-350.
^ Theo Lâm Quang Huyên (1997), Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xă hội, Hà Nội, trang 39.
^ “Giáo dục Việt Nam Cộng ḥa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.
^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 54.
^ Nguyen Ngoc Bich, tr. 46.
^ Phan Xuân Ḥa. Việt Nam gấm vóc. Paris: Institut de l'Asie du Sud-est (1960?). Trang 268-9.
^ Trần Văn Lục. Một thời để nhớ: những sự thật về cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và nền Đệ Nhất Cộng ḥa. Westminster, CA: Nguyệt san Diễn đàn Giáo dân, 2011. tr. 265–266.
^ Choinski, Walter. Tr. 58
^ Sales, Jeanne M. tr. 7
^ Smith, Harvey et al. tr. 148
^ Nguyễn Văn Trung, tạp chí Bách Khoa số 175, ngày 15-4-1964, trang 37-43.
^ Avro Manhattan, “Vietnam Why did we go?”, Ca. USA, 1984, trang 85
^ “Vietnam: The unheard Voices”. Cornell University Press, Ithaca, USA, 1969, trang 111.
^ George C. Herring. Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 - 1975. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2004. trang 63-64 (bản tiếng Việt do Phạm Ngọc Thạch dịch)
^ George C. Herring. Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 - 1975. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2004. trang 65 (bản tiếng Việt do Phạm Ngọc Thạch dịch)
^ Nhân dân ngày 5 Tháng Ba 1961
^ Vietnam: The Valor and the Sorrow" by Thomas D. Boettcher, Little Brown & Company, Boston 1985, p.150
^ a ă â b c d Nguyên nhân dẫn đến phong trào Phật giáo 1963 ở miền Nam Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 15/06/2013
^ Văn thư số 124 ngày 1-8-1963 của Uỷ ban Bảo vệ Phật giáo (UBBVPG) kính gởi ông Frederick E. Nolting, Đại sứ Hoa kỳ tại Sài G̣n. Hồ sơ lưu trữ tại chùa Từ Đàm, Huế.
^ a ă Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (Thiên Mệnh Đại Pháp) 1884-1945 – Tập 3 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr 1038.
^ a ă â b 'The Vietnam War' và khi Hoa Kỳ vào VN, Nguyễn Tiến Hưng, BBC Tiếng Việt, 25 tháng 9 năm 2017
^ Điện văn của Ṭa Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n gửi bộ Ngoại giao ngày 13 tháng 10 năm 1961
^ a ă â Tại sao phải giết Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ?, RFA, 2015-10-29
^ a ă â Nhà Ngô thứ nh́ nằm xuống loạn lạc nổi lên, Nguyễn Tiến Hưng, BBC Vietnam, 2 tháng 11 năm 2017
^ Vietnam, ‘63 and Now, By MIECZYSLAW MANELIJAN. 27, 1975, The New York Times
^ a ă Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 144
^ Hoạt động ngoại giao của chế độ Việt Nam Cộng ḥa thời kỳ Ngô Đ́nh Diệm (1955-1963), Trần Nam Tiến, Tạp chí Phát triển Khoa học Công nghệ, Tập 18, Số X4-2015, download
^ a ă Hai ông Diệm - Nhu và những chiến dịch “phá đám” Sihanouk, PetroTimes, 25/10/2012
^ Nhân dân ngày 26 Tháng Hai 1961
^ Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đ́nh Diệm? Nhà xuất bản Thanh Niên, 2003
^ Chuyện về điệp viên Ba Quốc: Vụ ám sát Hoàng thân Sihanouk, 28/01/2015, Báo An ninh Thế giới
^ Nhân dân ngày 28 Tháng Một 1961
^ Nhân dân ngày 5 Tháng Hai 1961
^ Người ám sát Ngô Đ́nh Diệm ở hội chợ Xuân Tây Nguyên, Báo điện tử Công an Nghệ An
^ Karnow, Stanley (1997). Vietnam:A history. Penguin Books. 280-281. ISBN 0-670-84218-4.
^ Topmiller, p. 2
^ a ă â b PHÁP NẠN Ở HUẾ TRONG LỄ PHẬT ĐẢN NĂM 1963, Nguyễn Hiền Đức, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
^ Gettleman, pp. 64–83
^ Karnow, p. 295.
^ Moyar, pp. 212–213
^ Gettleman, pp. 264–83.
^ Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, trang 1063, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
^ Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, trang 1067, 1068, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
^ Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, trang 1085, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
^ Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, trang 1086, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
^ Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, trang 1090-1093, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
^ “South Viet Nam: The Crackdown”. Time. Ngày 30 tháng 8 năm 1963. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2010.
^ a ă “South Viet Nam: The Crackdown”. Time. Ngày 30 tháng 8 năm 1963. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2010.
^ Gettleman, pp. 278–83
^ Moyar, pp. 212–16, 231–34
^ Tucker, pp. 292–93
^ "Vu Van Mau, Last Premier Of South Vietnam, Dies at 84", New York Times, ngày 14 tháng 9 năm 1998
^ Jacobs, pp. 93–96
^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 150
^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 151
^ a ă William Colby. Một chiến thắng bị bỏ lỡ. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2007. Trang 134.
^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 152
^ Hồ sơ mới giải mật: CIA và nhà họ Ngô (kỳ 3), Báo Công An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An, 27/04/2009
^ Viết tiếp về tướng Trần Thiện Khiêm của chế độ Sài G̣n cũ: Lừa thầy, phản bạn
^ B. Diễm and D. Chanoff, In the Jaws of History, page 100, Indiana University Press (ngày 22 tháng 6 năm 1999)
^ B. Diễm and D. Chanoff, In the Jaws of History, page 101, Indiana University Press (ngày 22 tháng 6 năm 1999)
^ Sự thật về đảo chính năm 1963, BÙI CƯỜNG, Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM, trích "Lúc 4 giờ 20 phút chiều ngày 29-10-1963 tại Nhà Trắng, Tổng thống Kennedy triệu tập một cuộc họp đặc biệt gồm 15 vị cố vấn ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia. Số phận của Ngô Đ́nh Diệm được định đoạt tại cuộc họp này. Biên bản tài liệu ghi âm cho thấy ư kiến đối với cuộc đảo chính sẽ tiến hành của các đại biểu dự cuộc họp là bất nhất. Nhưng thật lạ lùng là trong cuộc họp chẳng ai yêu cầu bỏ phiếu biểu quyết và cũng chẳng ai thảo luận một cách hệ thống về hậu quả do cuộc đảo chính có thể mang lại.
Ngay cả Tổng thống Kennedy cũng không chủ động nghe ư kiến của người phản đối, chỉ buông xuôi bằng câu "Thôi cứ để Lodge và các cộng sự của ông ta tùy cơ ứng biến, tới khi đó mọi việc sẽ rơ!"."
^ Memorandum of Conference with the President, ngày 29 tháng 10 năm 1963, 4:20 PM, Source: JFKL: JFKP: National Security File, Meetings & Memoranda series, box 317, folder: Meetings on Vietnam, 10/29/63
^ a ă Vietnam: The Ten Thousand Day War, Episode 5: Assassination, Michael Maclear, CBC Television, 1980
^ B. Diễm and D. Chanoff, In the Jaws of History, page 102,, Indiana University Press (ngày 22 tháng 6 năm 1999)
^ The Assassination of Ngo Dinh Diem, Peter Kross, The HistoryNet.com, October 2004, trích: "On October 3, however, Conein made contact with General Minh, who told him that a new coup was in the offing and asked for American support if it succeeded. In their discussion Minh revealed that the plan included the assassinations of both Diem and Nhu."
^ a ă The Assassination of Ngo Dinh Diem, Peter Kross, The HistoryNet.com, October 2004, trích: "In Saigon, Conein met secretly with General Don, one of the coup plotters, telling him that the United States was opposed to any assassinations. The general responded, All right, you don't like it, we won't talk about it anymore."
^ “Ngo Dinh Diem biography”. Spartacus.schoolnet.co.uk. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2012.
^ Những cuộc điện đàm cuối cùng của Ngô Đ́nh Diệm, 19/11/2013, Báo Công an nhân dân điện tử
^ The Pentagon Papers, Vol. 2 Ch. 4, "The Overthrow of Ngô Đ́nh Diệm, May–November 1963", pp. 201–276,
^ B. Diem, In the Jaws of History, p. 105.
^ a ă "I can scarcely believe the Americans would be so stupid."Moyar, p. 286
^ Vietnam: The Ten Thousand Day War, Michael Maclear, CBC Television, 1980
^ Trần Văn Đôn, 1989, tr 227,228
^ Nguyễn Hiến Lê, Tôi Tập Viết Tiếng Việt, 1988, tr. 21
^ Bốn mươi năm nói láo. Cơ sở Xuất Bản Sống Mới – Sài G̣n – 1969. Trang 247
^ Richard M. Nixon, 1980, Chương V
^ G. Herring, America's Longest War, 1996, p. 116.
^ “Viếng mộ cố TT Ngô Đ́nh Diệm tại nghĩa trang Lái Thiêu”. Người Việt. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
^ Phạm Cường (ngày 18 tháng 8 năm 2005). “Kể chuyện dời mộ ở Sài G̣n nhân Lễ Vu Lan”. VietNamNet. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2017.
^ “The Vietnam Center and Archive: Search Results” (PDF). Truy cập 8 tháng 2 năm 2015. ,
^ Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng 30 tháng 4: Cảnh giác những luận điệu thâm hiểm, xảo trá, 30/04/2015, Báo Tây Ninh]
^ Hoạt động ngoại giao của chế độ “Việt Nam Cộng ḥa” thời kỳ Ngô Đ́nh Diệm (1955-1963), trang 24
^ Cao Thế Dung, Lương Khải Minh, Làm thế nào để giết một tổng thống?, tập 1, Saigon, 1970, trang 16
^ Paris tưởng niệm 50 năm cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và bào đệ Ngô Đ́nh Nhu qua đời
^ Miller, Edward (ngày 16 tháng 4 năm 2009). “Đánh giá lại Ngô Đ́nh Diệm”. BBC. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2013.
^ Nguồn: Tạp chí BẠN DÂN (trang 3), số ra ngày 15 tháng 12 năm 1960.
^ Cái chết của anh em nhà họ Ngô: Những sai lầm của Ngô Đ́nh Diệm
^ Phan Khôi. "Một việc rất có ảnh hưởng đến tâm thuật của sĩ phu: Cách chức và khai phục ông Ngô Đ́nh Diệm". Báo Tràng An (Huế), số 9 (29 Mars 1935), tr. 1. In lại trong: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1935, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản. Tri Thức, Hà Nội, phát hành tháng 10/2013.
^ Nhân dân 24 Tháng Sáu 1954
^ “H̀NH ẢNH SÁCH GIÁO KHOA CỦA VIỆT NAM THỜI VIỆT NAM CỘNG H̉A TRƯỚC NĂM”.
^ Ngô Đ́nh Diệm là người yêu nước, BBC online, 7 tháng 11 năm 2013
^ a ă â Cái chết của anh em nhà họ Ngô: Những sai lầm của Ngô Đ́nh Diệm, 13/11/2013, Báo Công an nhân dân điện tử
^ Nguyễn Văn Tương, Nước Non Xa, Hoa kỳ, 2000, trang 113
^ a ă Ngô Đ́nh Diệm trong mắt những người cùng thời: Quan lại cực đoan, 25/07/2008, Báo Công an nhân dân điện tử
^ John Cooney, The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, A Dell Book, New York.[cần số trang]
^ Dennis Bloodworth (1970), An Eye For The Dragon, Farrar Publisher, Straus & Giroux, New York, p. 209.
^ Ông Ngô Đ́nh Diệm bỏ lỡ "cơ hội" trong bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư Đặng Phong trên BBC ngày 20 tháng 12 năm 2006
^ Richard J. Barnet, Intervention and Revolution[cần số trang],
^ America's Longest War" by George C. Herring, John Wiley & Sons, New York 1979, pp. 62-65
^ Intervention and Revolution" by Richard J. Barnet, A Meridian Book, New York 1972, pp. 233-235
^ LBJ: Kennedy White House killed U.S. ally, WND.com, Nguyên văn: They started on me with Diem. "He was corrupt and he ought to be killed." So we killed him. We all got together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him. Now, we’ve really had no political stability [in South Vietnam] since then
^ Lee Kuan Yew profile, Joel R. Kramer, October 23, 1967, The Harvard Crimson
^ Nguyên văn: Shit! Diem is the only boy we’ve got out there – Stanley Karnow, Vietnam a History, Edition King Press 1983, trang 214
Thư mục
Tiếng Việt
Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1987
Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam, Nguyễn Phú Đức, Nhà xuất bản Lao động 2009
Tiếng Anh
Sergei Blagov, Honest Mistakes: The Life and Death of Tŕnh Minh Thế, Nova Science Publishers, Inc, Huntington, New York, 2001
Chapman, J. M. (2013). Cauldron of resistance: Ngo Dinh Diem, the United States, and 1950s southern Vietnam. Ithaca: Cornell University Press.
Borthwick, Mark (1998). Pacific Century: The Emergence of Modern Pacific Asia. Westview Press. ISBN 0-8133-3471-3.
Buttinger, Joseph (1967). Vietnam: A Dragon Embattled. Praeger Publishers.
Fall, Bernard B. (1963). The Two Viet-Nams. Praeger publishers.
Diem, Bui (1987). In the Jaws of History. Houghton Mifflin.
Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis. Harmondsworth, Middlesex: Penguin Books.
Jacobs, Seth (2006). Cold War Mandarin: Ngo Dinh Diem and the Origins of America's War in Vietnam, 1950–1963. Lanham, Maryland: Rowman & Littlefield. ISBN 0-7425-4447-8.
Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A History. New York: Penguin Books. ISBN 0-670-84218-4.
Langguth, A. J. (2000). Our Vietnam: the war, 1954–1975. New York: Simon & Schuster. ISBN 0-684-81202-9.
Maclear, Michael (1981). Vietnam:The Ten Thousand Day War. New York: Methuen Publishing. ISBN 0-423-00580-4.
Moyar, Mark (2006). Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954–1965. New York: Cambridge University Press. ISBN 0-521-86911-0.
Olson, James S. (1996). Where the Domino Fell. St. Martin's Press. ISBN 0-312-08431-5.
Topmiller, Robert J. (2006). The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam. University Press of Kentucky. ISBN 0-8131-2260-0.
Tucker, Spencer C. (2000). Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social and Military History. Santa Barbara, California: ABC-CLIO. ISBN 1-57607-040-9.
Warner, Denis (1964). The Last Confucian: Vietnam, South-East Asia, and the West. Sydney: Angus and Robertson.
J Hammer, Ellen (1954). The Struggle for Indochina. America: Stanford University Press.
J. Duncanson, Dennis (1968). Government and Revolution in Vietnam. England: Oxford University Press.
Nguyen Ngoc Bich và đồng nghiệp (1972). An Annotated Atlas of the Republic of Viet-Nam. Washington, D.C.: Embassy of Viet-Nam. Bảo tŕ CS1: Định rơ "và đồng nghiệp" (link)
Choinski, Walter Frank (1965). Country Study: Republic of Vietnam. Washington, DC: The Military Assistance Institute.
Miller, Edward (2013). Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam. Harvard University Press
(Nguồn: Wikipedia)
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI THAY ĐỔI THIÊN H̀NH VẠN TRẠNG TRONG TỪNG SÁT NA. NGƯỜI TA CÓ THỂ NAY THỜ PHẬT, MAI THEO CHÚA NHƯNG KHÔNG THỂ CHỐI BỎ CHA SINH, MẸ ĐẺ, HUYẾT THỐNG, GỈNG GIƠI, DÂN TỘC. NGƯỜI TA CÓ THỂ NAY CHỌN CHỦ NGHĨA NÀY MAI CHỌN CHỦ NGHĨA KIA ĐỂ LÀM LƯ TƯỞNG PHẤN ĐẤU NHƯNG CHỚ QUÊN RẰNG MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU LÀ PHỤC VỤ CHO BẢN THÂN, GIA Đ̀NH, DÂN TỘC VÀ TỔ QUỐC. ĐÓ LÀ NGUYÊN NHÂN KHIẾN BỌN NGƯỜI NẶNG CĂN TÍNH TÔI Đ̉I, NÔ LÊ VỌNG NGOẠI, PHI DÂN TỘC, PHI NHÂN ĐỀU BỊ XEM LÀ PHẦN TỬ NGU XUẨN VÀ ĐÁNG KHINH NHẤT.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều
vViệt LuậnvNam ÚcvNgười DânvBuddhism
vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài G̣nvLuật Khoa vVăn Nghệv Kilopad
vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN