MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Diễn Đàn ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record v CBO
v US Government vCongressional Record
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News
v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian v Political Insider v Law v Media
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart Interceipt
v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic
v National Public Radio v ForeignTrade v Slate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Sai Gon Echo v Viễn Đông
v Người Việt v Việt Báo v
Tác giả David Sutton - Dịch giả Kim Âu
Phố Wall và Cuộc Cách mạng Bolshevik ,
do Nhà Arlington ở New Rochelle, NY, 1974, trang 25
Cuốn phim hoạt h́nh của Robert Minor xuất hiện trong cuốn St. Louis Post-Dispatch năm 1911. Nó cho thấy Karl Marx được bao quanh bởi các nhà tài trợ phố Wall nhiệt t́nh: đối tác Morgan George Perkins, JP Morgan, John Ryan của Ngân hàng Thành phố Quốc gia, John D. Rockefeller và Andrew Carnegie . Ngay sau Marx là Teddy Roosevelt, lănh đạo của Đảng Tiến bộ. (Trang 211)
Chương III
LENIN VÀ Đ GT VẤN ĐỀ CỦA ĐẠI DIỆN BOLSHEVIK
Măi cho đến khi Bolsheviks nhận được từ chúng tôi một ḍng vốn ổn định thông qua các kênh khác nhau và dưới nhiều nhăn hiệu khác nhau để họ có thể xây dựng được cơ quan chính phủ Pravda của họ , để tiến hành tuyên truyền tràn đầy năng lượng và đáng kể để mở rộng sự thu hẹp ban đầu Cơ sở của đảng của họ.
Von Kühlmann, Bộ trưởng Ngoại giao, đến kaiser, ngày 3 tháng 12 năm 1917
Tháng 4 năm 1917, Lenin và một nhóm gồm 32 nhà cách mạng Nga, chủ yếu là Bolsheviks, đă đi bằng tàu hỏa từ Thụy Sĩ trên khắp Đức qua Thụy Điển đến Petrograd, Nga. Họ đang trên đường gia nhập với Leon Trotsky để "hoàn thành cuộc cách mạng". Quá cảnh xuyên Đức của họ đă được chấp thuận, tạo điều kiện và tài trợ bởi Tổng Tham mưu Đức. Chuyến đi của Lenin đến Nga là một phần của kế hoạch được Bộ Tư lệnh tối cao Đức thông qua, rơ ràng là không được biết đến ngay lập tức cho người kaiser, để giúp giải thể quân đội Nga và để loại trừ Nga khỏi Thế chiến I. Khả năng Bolsheviks có thể quay Chống lại Đức và châu Âu đă không xảy ra với Tổng tham mưu Đức. Thiếu tướng Hoffman đă viết, "
Ở cấp cao nhất, viên chức chính trị Đức chấp thuận hành tŕnh của Lenin đến Nga là Chancellor Theobald von Bethmann-Hollweg, hậu duệ của gia đ́nh ngân hàng Frankfurt Bethmann, đă đạt được sự thịnh vượng lớn trong thế kỷ thứ mười chín. Bethmann-Hollweg được bổ nhiệm làm hiệu trưởng vào năm 1909 và vào tháng 11 năm 1913 đă trở thành chủ đề của cuộc bỏ phiếu đầu tiên của sự kiểm duyệt đă được Đức Reichstag thông qua trên thủ tướng. Đó là Bethmann-Hollweg, người vào năm 1914 nói với thế giới rằng bảo đảm của Đức đối với Bỉ là một "mảnh giấy". Tuy nhiên, đối với các vấn đề chiến tranh khác - chẳng hạn như việc sử dụng chiến tranh dưới biển - Bethmann-Hollweg không rơ ràng; Vào tháng 1 năm 1917, ông nói với kaiser, "Tôi có thể cho Hoàng thái tử của bạn không đồng ư với cuộc chiến tranh ngầm dưới biển hay từ chối của tôi." Vào năm 1917, Bethmann-Hollweg đă mất liên lạc với Reichstag, Hỗ trợ và từ chức - nhưng không phải trước khi phê duyệt quá cảnh các nhà cách mạng Bolshevik sang Nga. Các hướng dẫn chuyển tuyến từ Bethmann-Hollweg đă đi qua thư kư quốc gia Arthur Zimmermann - người ngay lập tức dưới quyền của Bethmann-Hollweg và người điều hành các chi tiết hoạt động hằng ngày với các bộ trưởng Đức ở cả Bern và Copenhagen - tới bộ trưởng Đức ở Bern vào đầu Tháng 4 năm 1917. Chính Kaiser đă không nhận thức được phong trào cách mạng cho đến khi Lenin vượt qua Nga.
Mặc dù chính Lenin không biết nguồn trợ giúp chính xác, nhưng chắc chắn ông biết rằng chính phủ Đức đang cung cấp một khoản tài trợ. Tuy nhiên, có mối quan hệ trung gian giữa Bộ ngoại giao Đức và Lenin, như sau:
LENIN CHUYỂN ĐẾN RUSSIA TRONG M API NĂM 1917
Quyết định cuối cùng BETHMANN-HOLLWEG
(Chancellor)
Trung gian I ARTHUR ZIMMERMANN
(Thư kư Nhà nước)
Trung gian II BROCKDORFF-RANTZAU
(Bộ trưởng Đức tại Copenhagen)
Trung gian III ALEXANDER ISRAEL HELPHAND
(bí danh PARVUS)
Trung gian IV JACOB FURSTENBERG (bí danh GANETSKY) LENIN
, ở Thụy Sĩ
Từ Berlin Zimmermann và Bethmann-Hollweg đă liên lạc với Bộ trưởng người Đức ở Copenhagen, Brockdorff-Rantzau. Đổi lại, Brockdorff-Rantzau đă liên lạc với Alexander Israel Helphand (thường được biết đến hơn bởi bí danh của ông, Parvus), người đă được đặt tại Copenhagen. [2] Parvus là mối liên hệ với Jacob Furstenberg, một người Ba Lan rút khỏi một gia đ́nh giàu có nhưng nổi tiếng hơn bởi bí danh của ông là Ganetsky. Và Jacob Furstenberg là liên kết trực tiếp với Lenin.
Mặc dù Chancellor Bethmann-Hollweg là cơ quan cuối cùng cho việc chuyển giao Lenin, và mặc dù Lenin có lẽ đă biết về nguồn gốc của sự hỗ trợ của Đức, Lenin không thể gọi là đại lư của Đức. Bộ Ngoại giao Đức đánh giá hành động khả thi của Lenin ở Nga là phù hợp với các mục tiêu của họ trong việc giải thể cơ cấu quyền lực hiện có ở Nga. Tuy nhiên, cả hai bên đều có các mục tiêu ẩn: Đức muốn được ưu tiên tiếp cận các thị trường hậu chiến ở Nga, và Lenin dự định thiết lập chế độ độc tài Marxist.
Ư tưởng sử dụng các nhà cách mạng Nga theo cách này có thể bắt nguồn từ năm 1915. Vào ngày 14 tháng 8 của năm đó, Brockdorff-Rantzau đă viết thư kư của nhà nước Đức về một cuộc đối thoại với Helphand (Parvus) và đưa ra đề xuất mạnh mẽ để áp dụng Helphand " Một người đàn ông vô cùng quan trọng có sức mạnh bất thường mà tôi cảm thấy chúng ta phải sử dụng trong suốt thời gian chiến tranh .... " 3 Trong báo cáo này có một cảnh báo: " Có thể có nguy cơ muốn sử dụng quyền hạn nằm sau Helphand, Chắc chắn là một sự thừa nhận điểm yếu của chúng ta nếu chúng ta từ chối dịch vụ của ḿnh v́ sợ không thể chỉ đạo chúng. " 4
Những ư tưởng của Brockdorff-Rantzau về chỉ đạo hoặc kiểm soát các nhà cách mạng song song, như chúng ta sẽ thấy, những nhà tài trợ của phố Wall. Đó là JP Morgan và Tập đoàn Quốc tế Hoa Kỳ đă cố gắng kiểm soát cả những nhà cách mạng trong và ngoài nước ở Hoa Kỳ v́ mục đích riêng của họ.
Một tài liệu tiếp theo 5 vạch ra các điều khoản mà Lenin yêu cầu, trong đó thú vị nhất là điểm số bảy, cho phép "lính Nga tiến vào Ấn Độ"; Điều này gợi ư rằng Lenin dự định tiếp tục chương tŕnh chủ nghĩa cực đoan của chủ nghĩa Sa hoàng. Zeman cũng ghi nhận vai tṛ của Max Warburg trong việc thành lập một nhà xuất bản của Nga và quảng cáo theo một thỏa thuận ngày 12 tháng 8 năm 1916, trong đó nhà công nghiệp người Đức Stinnes đă đồng ư đóng góp hai triệu rúp để tài trợ cho một nhà xuất bản ở Nga. 6
Do đó, vào ngày 16 tháng 4 năm 1917, một chiếc xe tải gồm ba mươi hai, bao gồm cả Lenin, vợ ông Nadezhda Krupskaya, Grigori Zinoviev, Sokolnikov và Karl Radek, đă rời trạm trung tâm ở Bern trên đường tới Stockholm. Khi bữa tiệc đến biên giới Nga, chỉ có Fritz Plattan và Radek đă bị từ chối vào Nga. Phần c̣n lại của đảng được phép vào. Vài tháng sau, họ đă được theo dơi gần 200 Mensheviks, bao gồm cả Martov và Axelrod.
Cần lưu ư rằng Trotsky, tại thời điểm đó ở New York, cũng có nguồn tài trợ theo nguồn Đức. Hơn nữa, Von Kuhlmann ám chỉ đến sự không có khả năng của Lenin để mở rộng căn cứ của đảng Bolshevik của ông cho đến khi Đức cung cấp tiền. Trotsky là một người Menshevik, người đă biến Bolshevik chỉ trong năm 1917. Điều này cho thấy các khoản tiền của Đức có lẽ liên quan đến việc đổi nhăn bên của Trotsky.
CÁC TÀI LIỆU SISSON
Vào đầu năm 1918, Edgar Sisson, đại diện của Petrograd của Ủy ban Thông tin Công chúng Hoa Kỳ, đă mua một loạt các tài liệu Nga nhằm chứng minh rằng Trotsky, Lenin và những nhà cách mạng Bolshevik khác không chỉ trả tiền mà c̣n cả các đại lư, Chính phủ Đức.
Những tài liệu này, sau này được gọi là "Sisson Documents", đă được chuyển tới Mỹ một cách nhanh chóng và bí mật. Tại Washington, DC, họ đă được tŕnh lên Ủy ban Dịch vụ Lịch sử Quốc gia để xác thực. Hai sử gia nổi tiếng, J. Franklin Jameson và Samuel N. Harper, đă làm chứng cho sự chân thật của họ. Những nhà sử học này chia các bài báo Sisson thành ba nhóm. Về nhóm I, họ kết luận:
Chúng tôi đă phải cẩn thận với tất cả các bài kiểm tra áp dụng mà sinh viên lịch sử đă quen và. . . Trên cơ sở các cuộc điều tra này, chúng tôi không ngần ngại tuyên bố rằng chúng ta không thấy có lư do ǵ để nghi ngờ sự chân thật hoặc tính xác thực của những tài liệu này năm mươi ba. 7
Các sử gia ít tự tin hơn về tài liệu trong Nhóm II. Nhóm này không bị từ chối v́. Giả mạo ngay lập tức, nhưng nó đă được gợi ư rằng họ đă được bản sao của tài liệu ban đầu. Mặc dù các nhà sử học đă đưa ra "không có tuyên bố tự tin" vào Nhóm III, nhưng họ không chuẩn bị để bác bỏ các tài liệu như là giả mạo ngay lập tức.
Các tài liệu Sisson đă được Ủy ban Thông tin Công cộng xuất bản, chủ tịch của nó là George Creel, người từng đóng góp cho các Thánh lễ thân Bolshevik . Báo chí Mỹ nói chung đă chấp nhận các tài liệu này như là xác thực. Ngoại lệ đáng chú ư là New York Evening Post, vào thời điểm đó thuộc sở hữu của Thomas W. Lamont, một đối tác của công ty Morgan. Khi chỉ một vài lần được công bố, Post đă phản đối tính xác thực của tất cả các tài liệu. số 8
Bây giờ chúng ta biết rằng các tài liệu Sisson hầu như là tất cả các giả mạo: chỉ có một hoặc hai thông tư nhỏ của Đức là có thật. Thậm chí sự kiểm tra không b́nh thường của bức thư của Đức cũng cho thấy rằng những người rèn luyện là những kẻ giả mạo bất cẩn bất thường có thể làm việc cho thị trường Mỹ dễ mến. Văn bản tiếng Đức rải rác với những từ vựng vô lư: ví dụ như Văn pḥng thay v́ tiếng Đức Büro; Trung ương cho Đức Zentral; Vv
Các tài liệu là giả mạo là kết luận của một nghiên cứu đầy đủ của George Kennan 9 và các nghiên cứu được thực hiện trong những năm 1920 bởi chính phủ Anh. Một số tài liệu dựa trên thông tin xác thực và, như Kennan quan sát, những người đă giả mạo họ chắc chắn đă có một số thông tin tốt bất thường. Ví dụ: Tài liệu 1, 54, 61 và 67 đề cập đến việc ngân hàng Nya Banken ở Stockholm phục vụ cho các quỹ của Bolshevik từ Đức. Đường dẫn này đă được xác nhận trong các nguồn đáng tin cậy hơn. Tài liệu 54, 63, và 64 đề cập đến Furstenberg như là người trung gian giữa ngân hàng và người Bolshevists; Tên của Furstenberg xuất hiện ở những nơi khác trong các tài liệu xác thực. Tài liệu của Sisson 54 đề cập đến Olof Aschberg, và Olof Aschberg theo những tuyên bố của chính ông là "Ngân hàng Bolshevik". Aschberg năm 1917 là giám đốc của Nya Banken. Các tài liệu khác trong danh sách tên và tổ chức của Sisson như Ngân hàng Công nghiệp Naptha, Disconto Gesellschaft, và Max Warburg, ngân hàng Hamburg, nhưng bằng chứng hỗ trợ khó có thể hiểu được. Nói chung, Sisson Documents, trong khi đó là những giả mạo hoàn toàn, tuy nhiên dựa trên thông tin xác thực nói chung.
Một khía cạnh khó hiểu dưới ánh sáng của câu chuyện trong cuốn sách này là các tài liệu đă đến Edgar Sisson từ Alexander Gumberg (tên thật là Berg, tên thật là Michael Gruzenberg), đại diện của Bolshevik ở Scandinavia và sau đó là trợ lư bí mật của Chase National Bank và Floyd Odium Của Tập đoàn Atlas. Mặt khác, những người theo chủ nghĩa Bolshevists đă cay đắng chối bỏ tài liệu Sisson. John Reed, đại diện của Hoa Kỳ về vị trí điều hành của Tổ chức Thế giới Thứ ba và tiền lương từ tạp chí Metropolitan , vốn thuộc sở hữu của JP Morgan. 10 Thomas Lamont, đối tác của Morgan, người sở hữu New York Evening Post. Có một số giải thích có thể. Có lẽ mối quan hệ giữa Morgan ở New York và các đại lư như John Reed và Alexander Gumberg rất linh hoạt. Đây có thể là một động cơ Gumberg để làm mất uy tín Sisson và Creel bằng cách trồng các tài liệu giả mạo; Hoặc có lẽ Gumberg đă làm việc theo sở thích của chính ḿnh.
Các tài liệu Sisson "chứng minh" sự tham gia độc quyền của Đức với Bolsheviks. Họ cũng đă được sử dụng để "chứng minh" một lư thuyết âm mưu Do Thái-Bolshevik theo các đường lối của Nghị định thư Zion. Năm 1918 chính phủ Hoa Kỳ muốn đoàn kết quan điểm của Mỹ sau cuộc chiến tranh không được ḷng dân với Đức, và Sisson Documents đă "chứng minh" sự cộng tác độc quyền của Đức với các Bolshevists. Các tài liệu cũng cung cấp một màn khói chống lại kiến thức công cộng về các sự kiện được mô tả trong cuốn sách này.
CHUYỂN NHƯỢNG TẠI WARNING 11
Xem lại các tài liệu trong Tệp thập phân của Bộ Ngoại giao cho thấy Bộ Ngoại giao và Đại sứ Francis tại Petrograd đă được thông báo khá rơ về ư định và tiến bộ của phong trào Bolshevik. Chẳng hạn, vào mùa hè năm 1917, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ muốn ngăn việc Mỹ rời khỏi Hoa Kỳ "những người gây thương tích" (nghĩa là trả lại các nhà cách mạng Nga) nhưng không thể làm như vậy v́ họ đang sử dụng hộ chiếu Nga và Mỹ mới. Việc chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Bolshevik đă được biết đến ít nhất sáu tuần trước khi nó xảy ra. Một báo cáo trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ghi nhận, liên quan đến lực lượng Kerensky, rằng "nghi ngờ liệu chính phủ ... có thể ngăn chặn sự bùng nổ". Sự tan ră của chính phủ Kerensky đă được báo cáo trong suốt tháng 9 và tháng 10 cũng như chuẩn bị của Bolshevik cho một cuộc đảo chính. Chính phủ Anh đă cảnh báo người Anh ở Nga phải rời khỏi ít nhất sáu tuần trước khi diễn ra cuộc cách mạng của Bolshevik.
Báo cáo đầy đủ đầu tiên về các sự kiện đầu tháng 11 tới Washington vào ngày 9 tháng 12 năm 1917. Báo cáo này mô tả bản chất thấp của cuộc cách mạng, nói rằng Tướng William V. Judson đă viếng thăm Trotsky trái phép và chỉ ra Sự hiện diện của người Đức trong Smolny - trụ sở Liên Xô.
Vào ngày 28 tháng 11 năm 1917, Tổng thống Woodrow Wilson đă ra lệnh không can thiệp vào cuộc Cách mạng Bolshevik. Lời chỉ thị này rơ ràng là đáp lại yêu cầu của Đại sứ Francis cho một cuộc hội nghị đồng minh, mà Anh đă đồng ư. Bộ Ngoại giao lập luận rằng một cuộc hội nghị như vậy là không thực tế. Các cuộc thảo luận ở Paris giữa các đồng minh và Đại tá Edward M. House, người đă báo cáo cho Woodrow Wilson là "những cuộc thảo luận kéo dài và thường xuyên về Nga." Về một hội nghị như vậy, House tuyên bố rằng nước Anh đă "sẵn sàng thụ động," Pháp " khác biệt", và Ư "tích cực như vậy." Woodrow Wilson, một thời gian ngắn sau đó, phê chuẩn một đường dây do Bộ trưởng Ngoại giao Robert Lansing, người cung cấp hỗ trợ tài chính cho phong trào Kaledin (12 tháng 12, 1917). Cũng có những tin đồn lọc vào Washington rằng "chế độ quân chủ làm việc với các Bolsheviks và cũng được hỗ trợ bởi các sự kiện và hoàn cảnh khác nhau"; Rằng chính phủ Smolny đă hoàn toàn dưới sự kiểm soát của Tổng tham mưu Đức; Và những tin đồn ở những nơi khác "nhiều hay hầu hết trong số họ là những người Bolshevists đến từ Mỹ".
Vào tháng 12, Tướng Judson một lần nữa viếng thăm Trotsky; Đây được coi là một bước tiến tới sự công nhận của Mỹ, mặc dù một báo cáo ngày 5 tháng 2 năm 1918 của Đại sứ Francis đến Washington đă đề nghị chống lại sự công nhận. Một bản ghi nhớ có nguồn gốc từ Basil Miles ở Washington cho rằng "chúng ta nên đối phó với tất cả các cơ quan chức năng ở Nga bao gồm Bolshevik". Và vào ngày 15 tháng 2 năm 1918, Bộ Ngoại giao kêu gọi Đại sứ Francis tại Petrograd, nói rằng "bộ phận muốn bạn dần dần để giữ liên lạc gần gũi hơn và không chính thức với các nhà chức trách Bolshevik sử dụng các kênh như vậy sẽ tránh được bất kỳ sự thừa nhận chính thức nào"
Ngày hôm sau, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Lansing đă chuyển cho Đại sứ Pháp JJ Jusserand ở Washington: "Không được làm bất cứ hành động nào gây phiền toái cho bất kỳ nhân tố nào trong số những người đang kiểm soát quyền lực ở Nga. ... " 12
Vào ngày 20 tháng 2, Đại sứ Francis gọi Washington để báo cáo kết thúc gần đây của chính phủ Bolshevik. Hai tuần sau đó, vào ngày 7 tháng 3 năm 1918, Arthur Bullard báo cáo với Đại tá Nhà rằng tiền của Đức trợ giá cho Bolsheviks và khoản trợ cấp này lớn hơn nhiều so với ư nghĩ trước đây. Arthur Bullard (thuộc Uỷ ban Thông tin Công cộng Hoa Kỳ) lập luận rằng: "chúng ta phải sẵn sàng giúp đỡ bất kỳ chính quyền trung thành nào của quốc gia. Nhưng người ta hoặc tiền hoặc thiết bị được gửi tới các nhà cai trị Nga hiện nay sẽ được sử dụng chống lại người Nga ít nhất là chống lại Người Đức ". 13
Tiếp theo là một thông điệp từ Bullard tới Đại tá House: "Tôi mạnh mẽ khuyên không nên giúp đỡ vật chất cho chính phủ Nga hiện tại. Những yếu tố xấu trong Liên Xô dường như đang kiểm soát được."
Nhưng có những lực lượng phản công mạnh mẽ trong công việc. Ngay từ ngày 28 Tháng Mười Một năm 1917, Đại tá House đă cho biết Tổng thống Woodrow Wilson từ Paris rằng "quan trọng vượt quá" mà tờ báo Mỹ cho rằng "Nga nên được đối xử như một kẻ thù" bị "đàn áp". Tháng tới William Franklin Sands, thư kư điều hành của Tập đoàn Quốc tế Hoa Kỳ và một người bạn của Basil Miles đă đề cập trước đó, đă đệ tŕnh một bản ghi nhớ mô tả Lenin và Trotsky đang kêu gọi quần chúng và kêu gọi Hoa Kỳ công nhận Nga. Ngay cả chủ nghĩa xă hội Mỹ Walling đă phàn nàn với Bộ Ngoại giao về thái độ ủng hộ Liên Xô của George Creel (Herbert Swope, và William Boyce Thompson) của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York.
Vào ngày 17 tháng 12 năm 1917, đă xuất hiện trong một tờ báo Mátxcơva một cuộc tấn công vào Đại tá Chữ thập đỏ Raymond Robins và Thompson, cáo buộc mối liên hệ giữa Cuộc Cách mạng Nga với các ngân hàng Mỹ:
Tại sao họ lại quan tâm đến sự khai sáng? Tại sao tiền cho các nhà cách mạng xă hội chủ nghĩa chứ không phải cho các nhà lập pháp hiến pháp? Người ta giả sử người gần gũi hơn và yêu mến hơn đối với các ngân hàng.
Bài viết tiếp tục cho rằng đây là bởi v́ thủ đô của Hoa Kỳ xem Nga như một thị trường tương lai và do đó muốn có một chỗ đứng vững chắc. Tiền được trao cho những người cách mạng v́
Những người đàn ông và nông dân lạc hậu tin tưởng vào các nhà cách mạng xă hội. Vào thời điểm tiền đă được thông qua các nhà cách mạng xă hội nắm giữ quyền lực và nó đă được cho là họ sẽ vẫn kiểm soát ở Nga một thời gian.
Một báo cáo khác, ngày 12 tháng 12 năm 1917 và liên quan đến Raymond Robins, chi tiết "đàm phán với một nhóm các ngân hàng Hoa Kỳ của Sứ mệnh Chữ thập đỏ Hoa Kỳ"; "Đàm phán" liên quan đến khoản thanh toán hai triệu đô la. Vào ngày 22 tháng 1 năm 1918, Robert L Owen, Chủ tịch Ủy ban Ngân hàng và Tiền tệ Hoa Kỳ và liên quan đến các lợi ích của Phố Wall, đă gửi một lá thư tới Woodrow Wilson đề xuất việc thừa nhận thực tế của Nga, cho phép tàu tải hàng hóa khẩn cấp cần thiết ở Nga , Bổ nhiệm đại diện cho Nga để bù đắp ảnh hưởng của Đức, và thành lập một nhóm dịch vụ nghề nghiệp ở Nga.
Cách tiếp cận này được hỗ trợ bởi Raymond Robins ở Nga. Ví dụ: vào ngày 15 tháng 2 năm 1918, một dây cáp từ Robins ở Petrograd đến Davison trong Hội Chữ thập đỏ ở Washington (và được chuyển đến William Boyce Thompson) lập luận rằng sự hỗ trợ sẽ được trao cho cơ quan Bolshevik càng lâu càng tốt và Cuộc Cách mạng Nga mới sẽ chuyển sang Hoa Kỳ v́ nó đă "tan vỡ với chủ nghĩa đế quốc Đức". Theo Robins, các Bolsheviks muốn Hoa Kỳ hỗ trợ và hợp tác cùng với việc tái tổ chức đường sắt, bởi v́ "bằng sự trợ giúp và tư vấn kỹ thuật trong việc tái tổ chức thương mại và công nghiệp Mỹ có thể hoàn toàn loại trừ thương mại Đức trong thời kỳ chiến tranh."
Nói tóm lại, cuộc chiến tranh ở Washington đă phản ánh cuộc đấu tranh giữa các nhà ngoại giao già (như Đại sứ Francis) và các quan chức cấp dưới, và mặt khác, các nhà tài chính như Robins, Thompson và Cát với các đồng minh như Lansing và Miles trong Bộ Ngoại giao và Thượng nghị sĩ Owen trong Quốc hội.
Chú thích:
1 Max Hoffman, War Diaries và các bài viết khác (London: M. Secker, 1929), 2: 177.
2 Z. AB Zeman và WB Scharlau, Nhà buôn Cách mạng .. Cuộc đời của A1exander Israel Helphand (Parvus), 1867-1924 (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1965).
3 Z. AB Zeman, Đức và Cách mạng ở Nga, 1915-1918. Tài liệu của Văn pḥng Lưu trữ Bộ Ngoại giao Đức (London: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1958), trang. 5.
4 Ibid.
5 Ibid., P. 6, doc. 6, báo cáo một cuộc tṛ chuyện với Keskula trung gian Fstonian.
6 Ibid., P. 92, n. 3.
7 Hoa Kỳ, Ủy ban về Thông tin công cộng, Conspiracy của Đức-Bolshevik, Ḍng thông tin về Chiến tranh, số. 20 tháng 10 năm 1918.
8 tờ New York Evening Post,16-18 tháng 9, 21; Ngày 4 tháng 10 năm 1918. Cũng thú vị, nhưng không kết luận về bất cứ điều ǵ, rằng các Bolsheviks cũng kiêu hănh thẩm vấn tính xác thực của các tài liệu.
9 George F. Kennan, "Các tài liệu Sisson," Tạp chí Lịch sử Hiện đại 27-28 (1955-56): 130-154.
10 John Reed, Tài liệu Sisson (New York: Liberator Publishing, nd).
11 Phần này được dựa trên phần 861.00 [Bộ thập phân của Bộ Kinh tế Nhà nước Hoa Kỳ, cũng có sẵn như lưu trữ quốc gia cuộn 10 và 11 của microcopy 316.
12 Tệp thập phân của Tiểu bang Hoa Kỳ, 861.00 / 1117a. Cùng một thông điệp đă được chuyển đến đại sứ Italia.
13 Xem các bài báo Arthur Bullard tại Đại học Princeton.
Chương IV
TƯỜNG CÁCH VÀ THẾ GIỚI REVOLUTION
Những ǵ bạn Cấp tiến và chúng ta những người có quan điểm trái ngược nhau,
không phải là kết thúc như là phương tiện, không nhiều như thế nào nên được mang
về như thế nào nên, và có thể, được mang về ....
Otto H. Kahn, giám đốc American International Corp., và đối tác, Kuhn, Loeb & Co., nói chuyện với League / hoặc Industrial Democracy, New York, ngày 30 tháng 12 năm 1924
Trước Thế chiến I, cơ cấu tài chính và kinh doanh của Hoa Kỳ bị chi phối bởi hai
tập đoàn: Standard Oil, hoặc doanh nghiệp Rockefeller, và tập đoàn Morgan của
các ngành công nghiệp - các công ty tài chính và vận tải. Sự tin cậy của
Rockefeller và Morgan thống trị không chỉ Wall Street, nhưng thông qua các giám
đốc liên kết, gần như toàn bộ nền kinh tế của Hoa Kỳ. L Rockefeller
sở hữu độc quyền các ngành công nghiệp dầu mỏ và đồng minh, và kiểm soát sự tin
tưởng đồng, ḷng tin của các nhà máy luyện kim, và sự tín nhiệm thuốc lá khổng
lồ, ngoài việc có ảnh hưởng đến một số tài sản của Morgan như Tổng công ty Thép
Hoa Kỳ cũng như hàng trăm , Hoạt động dịch vụ công cộng, đường sắt, và các tổ
chức ngân hàng.
Các doanh nghiệp lớn của Morgan là thép, vận chuyển, và ngành công nghiệp điện; Bao gồm General Electric, trung gian cao su và đường sắt. Giống như Rockefeller, Morgan đă kiểm soát các tập đoàn tài chính - Ngân hàng Thương mại quốc gia và Chase National Bank, Bảo hiểm Nhân thọ New York và Công ty Trusty Trust. Tên JP Morgan và Công ty Trusty Bảo lănh xảy ra nhiều lần trong suốt cuốn sách này. Vào đầu những năm đầu thế kỷ XX, Công ty Trusty Trust đă bị chi phối bởi lợi ích Harriman. Khi người cao tuổi Harriman (Edward Henry) qua đời vào năm 1909, Morgan và cộng sự đă mua vào Trusty Trust cũng như vào cuộc sống Mutual Life và New York Life. Năm 1919 Morgan cũng mua quyền kiểm soát Equitable Life, và Công ty Trusty Trust đă thu hút thêm sáu công ty tín thác khác. V́ thế, Vào cuối Chiến tranh thế giới lần thứ I Trusty Bảo đảm và Ngân hàng Trust, tương ứng, các công ty ủy thác đầu tiên và thứ hai lớn nhất ở Hoa Kỳ, cả hai đều chi phối bởi các lợi ích của Morgan. 2
Các nhà tài trợ Mỹ liên quan đến các nhóm này đă tham gia tài trợ cho cuộc cách mạng ngay cả trước năm 1917. Sự can thiệp của công ty luật Wall Street của Sullivan & Cromwell vào cuộc tranh luận Kênh đào Panama được ghi lại vào năm 1913 trong phiên điều trần của Quốc hội. Tập này được tóm tắt bởi Nghị sĩ Rainey:
Tôi cho rằng các đại diện của Chính phủ này [Hoa Kỳ] đă có thể thực hiện cuộc cách mạng trên eo đất Panama. Nếu không có sự can thiệp của Chính phủ này, một cuộc cách mạng thành công không thể xảy ra, và tôi cho rằng Chính phủ này đă vi phạm hiệp ước năm 1846. Tôi sẽ có thể đưa ra bằng chứng cho thấy việc tuyên bố độc lập đă được ban hành Panama vào ngày 3 tháng 11 năm 1903, được chuẩn bị ở đây tại thành phố New York và thực hiện ở đó - chuẩn bị trong văn pḥng của Wilson (sic) Nelson Cromwell .... 3
Dân Biểu Rainey đă chỉ ra rằng chỉ có mười hay mười hai trong số những nhà cách mạng Panaman hàng đầu cộng với các viên chức của Công ty Đường sắt và Tàu hơi Panama, dưới quyền kiểm soát của William Nelson Cromwell, New York và các quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại Washington, "Biết về cuộc cách mạng sắp xảy ra. 4 Mục đích của cuộc cách mạng đă làm phương hại tới Colombia, trong đó Panama lúc đó là một phần, của triệu $ 40 và để có được quyền kiểm soát kênh đào Panama.
Ví dụ điển h́nh nhất về sự can thiệp của Wall Street trong cuộc cách mạng là hoạt động của một tổ chức cung cấp cho New York trong cuộc cách mạng Trung Quốc năm 1912 do Sun Yat-seng lănh đạo. Mặc dù lợi ích cuối cùng của hội nghị vẫn c̣n chưa rơ ràng, ư định và vai tṛ của nhóm tài trợ New York đă được ghi chép đầy đủ đến số tiền, thông tin về các hội kín Trung Quốc, và các danh sách vận chuyển vũ khí cần mua. Tổ chức cung cấp ngân hàng New York cho cuộc cách mạng Sun Yat-sen bao gồm Charles B. Hill, luật sư của Hunt, Hill & Betts. Năm 1912 công ty đặt tại 165 Broadway, New York, nhưng trong năm 1917, nó đă chuyển đến 120 sân khấu Broadway (xem chương tám về tầm quan trọng của địa chỉ này). Charles B. Hill là giám đốc của một số công ty con của Westinghouse, bao gồm Bryant Electric, Perkins Electric Switch, Và Westinghouse Lamp - tất cả đều liên kết với Westinghouse Electric có văn pḥng New York ở 120 Broadway. Charles R. Crane, người tổ chức các công ty con của Westinghouse ở Nga, có vai tṛ được biết đến trong giai đoạn đầu và thứ hai của Cách mạng Bolshevik (xem trang 26).
Công tŕnh của hội thảo Hill 1910 ở Trung Quốc được ghi lại trong cuốn Laurence Boothe Papers tại Học viện Hoover. 5 Các giấy tờ này có trên 110 mặt hàng liên quan, bao gồm cả thư của Tôn Trung Sơn đến và từ những người hậu thuẫn Mỹ của ông ta. Để đổi lấy sự hỗ trợ tài chính, Sun Yat-sen đă hứa với Tổ hợp đường sắt, ngân hàng và các nhượng bộ thương mại Hill trong cuộc cách mạng mới của Trung Quốc.
Một trường hợp khác của cách mạng được hỗ trợ bởi các tổ chức tài chính New York liên quan đến Mexico trong năm 1915-16. Von Rintelen, một điệp viên gián điệp Đức ở Hoa Kỳ, bị buộc tội 6 trong phiên xử tháng 5 năm 1917 tại thành phố New York nhằm "lôi kéo" Hoa Kỳ với Mexico và Nhật để chuyển hướng hoạt động của quân đội sang châu Âu. 7 Thanh toán cho đạn dược đă được vận chuyển từ Hoa Kỳ đến Mexico của Pancho Villa cách mạng, đă được thực hiện thông qua Trusty Trust Company. Cố vấn của Von Rintelen, Sommerfeld, đă trả $ 380,000 qua Trusty Trust và Công ty Tin tưởng Thung lũng Mississippi cho Công ty Western Cartridge của Alton, Illinois, cho đạn dược được vận chuyển đến El Paso để chuyển tiếp tới Villa. Đó là vào giữa năm 1915. Vào ngày 10 tháng 1 năm 1916,
Sự tham gia của Wall Street vào các cuộc xâm lược biên giới ở Mêhicô là chủ đề của một lá thư (ngày 6 tháng 10 năm 1916) của Lincoln Steffens, một nhà cộng sản Hoa Kỳ, cho Colonel House, một phụ tá cho Woodrow Wilson:
Nhà Đại tá thân mến của tôi:
Ngay trước khi tôi rời khỏi New York vào thứ hai tuần trước, tôi đă được nói một cách thuyết phục rằng "Phố Wall" đă hoàn thành sắp xếp cho một cuộc đột kích những kẻ cướp Mexico vào Hoa Kỳ: để có thời gian và tàn bạo đến nỗi nó sẽ giải quyết cuộc bầu cử .... số 8
Khi nắm quyền ở Mexico, chính quyền Carranza đă mua thêm vũ khí ở Hoa Kỳ. Công ty Súng Hoa Kỳ kư kết hợp đồng vận chuyển 5.000 Mausers và một giấy phép vận chuyển đă được Ban Thương Mại Chiến Tranh cấp cho 15.000 khẩu súng và 15.000.000 viên đạn dược. Đại sứ Mỹ tại Mêhicô, Fletcher, "thẳng thắn từ chối không đề nghị hoặc xử phạt vận chuyển hàng hóa của bất kỳ loại vũ khí, súng trường, v.v ... cho Carranza". 9 Tuy nhiên, sự can thiệp của Bộ trưởng Ngoại giao Robert Lansing giảm rào cản đối với một trong một sự chậm trễ tạm thời, và "trong một thời gian ngắn... [Gun Công ty Mỹ] sẽ được phép thực hiện các lô hàng và cung cấp." 10
Các cuộc đột kích vào Mỹ bởi lực lượng Villa và Carranza được báo cáo trong Thời báo New York là "cuộc cách mạng Texas" (một cuộc chạy đua khô cho cuộc Cách mạng Bolshevik) và được thực hiện bởi Đức và Bolsheviks. Lời khai của John A. Walls, luật sư khu vực của Brownsville, Texas, trước khi Uỷ ban Mùa Thu năm 1919 đưa ra bằng chứng tài liệu về mối liên hệ giữa các lợi ích của Bolshevik tại Hoa Kỳ, hoạt động của Đức và lực lượng Carranza ở Mexico. [11] Do đó, chính quyền Carranza, người đầu tiên trên thế giới với một hiến pháp kiểu Xô viết (được viết bởi Trotskyites), là một chính phủ với sự hỗ trợ trên phố Wall. Cuộc cách mạng Carranza có thể không thành công nếu không có bom đạn của Mỹ và Carranza sẽ không nắm quyền nếu như không có sự trợ giúp của người Mỹ. 12
Sự can thiệp tương tự trong Cách mạng Bolshevik năm 1917 ở Nga xoay quanh chủ ngân hàng Thụy Điển và người trung gian Olof Aschberg. Về mặt logic, câu chuyện bắt đầu bằng các khoản cho vay chủ quyền xă hội tiên phong của các tổ chức cung cấp ngân hàng phố Wall.
NGÂN HÀNG VÀ NGƯỜI BÁN HÀNG CHÍNH
Vào tháng 8 năm 1914, Châu Âu đă đi đến chiến tranh. Theo các quốc gia trung lập về luật pháp (và Hoa Kỳ trung lập cho đến tháng 4 năm 1917) không thể cho vay các quốc gia hiếu chiến. Đây là một vấn đề về pháp luật cũng như đạo đức.
Khi nhà Morgan nổi lên các khoản cho vay chiến tranh cho Anh và Pháp vào năm 1915, JP Morgan lập luận rằng đây không phải là khoản vay chiến tranh mà chỉ là một phương tiện để thúc đẩy thương mại quốc tế. Sự khác biệt đó thực sự đă được Tổng thống Wilson đưa ra trong tháng 10 năm 1914; Ông giải thích rằng việc bán trái phiếu ở Hoa Kỳ cho các chính phủ nước ngoài đă có hiệu lực một khoản vay tiết kiệm cho các chính phủ hiếu chiến và không tài trợ cho một cuộc chiến tranh. Mặt khác, việc chấp nhận các khoản tiền Kho bạc hoặc các bằng chứng khác về nợ trả cho các mặt hàng chỉ là một phương tiện để tạo thuận lợi cho thương mại và không phải là tài trợ cho chiến tranh. 13
Các tài liệu trong các hồ sơ của Bộ Ngoại giao chứng minh rằng Ngân hàng Thành phố Quốc gia, do các lợi ích của Stillman và Rockefeller kiểm soát, và Trusty Trust, được kiểm soát bởi Morgan, cùng nhau tăng khoản vay đáng kể cho Nga trước chiến tranh, và các khoản vay này là Nâng lên thay đổi Bộ Ngoại giao đă chỉ ra rằng các công ty này là trái với luật pháp quốc tế. Hơn nữa, các cuộc đàm phán cho các khoản vay được thực hiện thông qua các cơ sở thông tin chính phủ chính phủ Hoa Kỳ dưới sự bao phủ của "Mật mă Xanh" cấp cao của Bộ Ngoại giao. Dưới đây là các trích đoạn từ Bộ Ngoại giao cáp sẽ làm cho các trường hợp.
Ngày 94 tháng 5 năm 1916, Đại sứ Francis tại Petrograd đă gửi bộ dây cáp sau cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại Washington để chuyển tiếp cho Frank Arthur Vanderlip, sau đó là chủ tịch Ngân hàng Thành phố Quốc gia ở New York. Cáp đă được gửi đi trong Hệ thống Xanh lục, được các nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở Petrograd và Washington giải mă và giải mă ở chi phí của người nộp thuế (tệp 861.51 / 110).
563, ngày 94 tháng 5, 1 giờ chiều
Đối với
Ngân hàng Quốc gia Vanderlip New York. Số năm. Ư kiến trước đây tín dụng của
chúng tôi được củng cố. Chúng tôi ủng hộ kế hoạch cabled như là đầu tư an toàn
cộng với đầu cơ rất hấp dẫn trong rúp. Theo quan điểm đảm bảo tỷ giá đă đặt tỷ
lệ cao hơn thị trường hiện tại. Do ư kiến không thuận lợi tạo ra bởi sự chậm
trễ lâu dài có trách nhiệm riêng của ḿnh đưa ra có hai mươi năm triệu đô
la. Chúng tôi cho rằng phần lớn các ngân hàng và các tổ chức liên minh nên giữ
lại phần lớn. Với điều khoản tôn trọng các trái phiếu hải quan trở thành thực tế
liên quan đến hơn một trăm năm mươi triệu đô la một năm làm cho an ninh tuyệt
đối và giữ vững thị trường ngay cả khi bị lỗi. Chúng tôi xem xét ba
(năm?) Lựa chọn về trái phiếu rất có giá trị và v́ lư do đó số tiền tín dụng
ruble nên được mở rộng theo nhóm hoặc phân phối cho bạn bè thân thiết. Quốc tế
Hoa Kỳ nên ngăn chặn và chúng tôi sẽ thông báo cho Chính phủ. Nên lập nhóm tư
duy để lấy và phát hành trái phiếu. . . Cần bảo đảm bảo đảm hợp tác đầy đủ. Đề
nghị bạn nh́n thấy Jack cá nhân, sử dụng mọi nỗ lực để có được họ thực sự làm
việc khác hợp tác đảm bảo h́nh thức nhóm mới. Các cơ hội ở đây trong 10 năm tới
rất lớn trong công tác tài chính của nhà nước và công nghiệp và nếu giao dịch
này hoàn toàn không có ǵ là cần thiết. Trong trả lời chịu trong t́nh h́nh về
t́nh h́nh cáp.
MacRoberts Rich. Các cơ hội ở đây trong 10 năm tới rất lớn trong việc hỗ trợ tài
chính của nhà nước và công nghiệp và nếu giao dịch này hoàn toàn không phải là
điều cần thiết. Trong trả lời chịu trong t́nh h́nh về t́nh h́nh cáp. MacRoberts
Rich. Các cơ hội ở đây trong 10 năm tới rất lớn trong việc hỗ trợ tài chính của
nhà nước và công nghiệp và nếu giao dịch này hoàn toàn không phải là điều cần
thiết. Trong trả lời chịu trong t́nh h́nh về t́nh h́nh cáp. MacRoberts Rich.
FRANCIS, AMERICAN AMBASSADOR 14
Có vài điểm cần lưu ư về cáp phía trên để hiểu câu chuyện sau. Thứ nhất, lưu ư
đến tài liệu tham khảo của American International Corporation, một công ty của
Morgan, và một cái tên liên tục xuất hiện trong câu chuyện này. Thứ hai, "bảo
lănh" là Công ty Trusty Trust. Thứ ba, "MacRoberts" là Samuel MacRoberts,
phó chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Ngân hàng Quốc gia Thành phố.
On May 24 , năm 1916, Đại sứ Francis cáp nhắn từ Rolph Marsh của Guaranty Trust trong Petrograd để Guaranty Trust trong New York, một lần nữa trong đặc biệt Xanh Cipher và một lần nữa bằng cách sử dụng cơ sở vật chất của Bộ Ngoại giao. Cáp này đọc như sau:
565,
ngày 24 tháng 5, 6 giờ chiều
cho Công ty Trusty Trust New York:
Ba.
Olof và bản thân xem xét đề xuất mới sẽ chăm sóc Olof và sẽ giúp đỡ hơn là làm hại uy tín của bạn. T́nh huống hợp tác đó cần thiết nếu những điều lớn lao được thực hiện ở đây. Khuyến khích sắp xếp của bạn với Thành phố để xem xét và hành động cùng nhau trong tất cả các đề xuất lớn ở đây. Quyết định lợi thế cho cả hai và ngăn ngừa chơi một với khác. Đại diện thành phố mong muốn (viết bằng tay) sự hợp tác đó. Đề xuất được xem xét loại bỏ tín dụng của chúng tôi trong tên cũng là tùy chọn nhưng cả hai chúng tôi xem xét tín dụng ruble với lựa chọn trái phiếu trong mệnh đề. Đoạn thứ hai cung cấp cơ hội sinh lợi tuyệt vời, mạnh mẽ yêu cầu sự chấp nhận của bạn. Xin vui ḷng cáp cho tôi đầy đủ quyền hành để kết nối với Thành phố. Xem xét đề xuất giải trí của chúng tôi thỏa đáng t́nh h́nh cho chúng tôi và cho phép làm những điều lớn. Một lần nữa yêu cầu bạn lấy 25.500.000 tín dụng rubel. Không có khả năng mất mát và quyết định lợi thế. Một lần nữa yêu cầu có Phó Tổng thống trên mặt đất. Hiệu quả ở đây sẽ được quyết định tốt. Luật sư thường trú không có cùng uy tín và trọng lượng. Điều này đi qua Đại sứ quán bằng mă trả lời theo cách tương tự. Xem cáp về khả năng.
ROLPH
MARSH.
FRANCIS,
AMERICAN AMBASSADOR
Chú thích:-
Toàn bộ
thông điệp trong Mật mă Xanh.
Pḥng TELEGRAPH 15
"Olof" trong cáp là Olof Aschberg, ngân hàng Thụy Điển và người đứng đầu ngân
hàng Nya Banken ở Stockholm. Aschberg đă có mặt ở New York năm 1915 để trao đổi
với công ty Morgan về những khoản vay của Nga. Bây giờ, năm 1916, ông đă ở
Petrograd với Rolph Marsh của Trusty Trust và Samuel MacRoberts và giàu của Ngân
hàng Thành phố Quốc gia ("Thành phố" trong cáp) sắp xếp các khoản vay cho một
tập đoàn Morgan-Rockefeller. Năm sau, Aschberg, như chúng ta sẽ thấy sau đó, sẽ
được biết đến như là "Ngân hàng Bolshevik", và các hồi kư của ông tạo ra bằng
chứng về quyền của ông đối với tựa đề.
Các tập tin Bộ Ngoại giao cũng chứa một loạt các dây cáp giữa Đại sứ Francis, Quyền Bộ trưởng Frank Polk, và Bộ trưởng Ngoại giao Robert Lansing liên quan đến tính hợp pháp và đúng đắn của truyền Ngân hàng National City và cáp Guaranty Trust tại công e xpense. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1916, Đại sứ Francis đă đưa Washington vào Washington như sau và đề cập đến hai loại cáp trước:
569, ngày 25 tháng 5, một chiều
Điện tín của tôi 563 và 565 Tháng hai hai mươi bốn được gửi cho các đại diện địa phương của các tổ chức được giải quyết với hy vọng sẽ hoàn thành khoản vay mà sẽ làm tăng thương mại quốc tế và lợi ích lớn [quan hệ ngoại giao?]. Triển vọng thành công hứa hẹn. Các đại diện của Petrograd cho rằng các điều khoản được đệ tŕnh rất khả quan nhưng lo ngại các đại diện cho các tổ chức của họ sẽ ngăn cản khoản vay tiêu dùng nếu Chính phủ ở đây làm quen với các đề xuất này.
FRANCIS, AMERICAN AMBASSADOR. 16
Lư do cơ bản được Francis trích dẫn cho việc tạo điều kiện cho các loại cáp là
"hy vọng về việc cho vay hoàn toàn sẽ làm tăng thương mại quốc tế". Việc truyền
các thông điệp thương mại bằng các cơ sở của Bộ Ngoại giao đă bị cấm, và vào
ngày 1 tháng 6 năm 1916, Polk cót Francis:
842
Theo quan điểm của quy định của Cục chứa trong giảng dạy điện báo tṛn của tháng mười lăm, (ngừng các thông điệp thương mại chuyển tiếp) 17 năm 1915, xin giải thích lư do tại sao các tin nhắn trong bạn 563, 565 và 575, nên được truyền đạt.
Sau đây hăy làm theo các hướng dẫn của Bộ.
Diễn
xuất.
Polk
861,51
/ 112
/110
Sau đó vào ngày 8 tháng 6 năm 1916, Bộ trưởng Ngoại giao Lansing mở rộng lệnh
cấm và nói rơ rằng các khoản vay đề xuất là bất hợp pháp:
860 Your 563, 565, May 24, g: 569 25.1 pm Trước khi gửi thư cho Vanderlip và Công ty Trusty Guaranty, tôi phải hỏi họ có tham khảo các khoản cho vay của Chính phủ Nga không. Nếu họ làm như vậy, tôi rất tiếc v́ Bộ không thể là một bên của việc truyền tải, v́ hành động đó sẽ đưa ra lời chỉ trích chính đáng do sự tham gia của Chính phủ này trong giao dịch cho vay bởi một kẻ hiếu chiến nhằm mục đích tiến hành các hoạt động thù địch. Sự tham gia như vậy là trái với quy tắc được chấp nhận của luật pháp quốc tế rằng các chính phủ trung lập không nên cho vay hỗ trợ cho các khoản vay gây tranh căi của chiến tranh.
Dây cuối cùng của cáp Lansing như đă viết, không được truyền tới Petrograd. Ḍng viết: "Không thể sắp xếp để gửi các tin nhắn này thông qua các kênh của Nga?"
Làm thế nào chúng ta có thể đánh giá những cáp này và các bên liên quan?
Rơ ràng lợi ích của Morgan-Rockefeller không quan tâm đến việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Có những ư định rơ ràng trong các loại cáp này để cung cấp các khoản vay cho những kẻ thù. Không có sự do dự của các công ty này sử dụng các cơ sở của Bộ Ngoại giao để thương lượng. Hơn nữa, bất chấp những cuộc biểu t́nh, Bộ Ngoại giao đă cho phép thông điệp đi qua. Cuối cùng, và thú vị nhất cho các sự kiện tiếp theo, Olof Aschberg, ngân hàng Thụy Điển, là một người tham gia tích cực và trung gian trong các cuộc đàm phán thay mặt cho Trusty Trust. V́ vậy chúng ta hăy xem Olof Aschberg gần hơn.
OLOF ASCHBERG Ở NEW YORK, 1916
Olof Aschberg, "Bolshevik Banker" (hay "Bankier der Weltrevolution", như ông đă được gọi trong báo chí Đức), là chủ sở hữu của Nya Banken, thành lập năm 1912 tại Stockholm. Các nhà đồng hồ của ông bao gồm các thành viên nổi bật của các hợp tác xă Thụy Điển và các nhà xă hội chủ nghĩa Thụy Điển, bao gồm GW Dahl, KG Rosling và C. Gerhard Magnusson. [18] Năm 1918, Nya Banken được đặt vào danh sách đen Đồng Minh cho các hoạt động tài chính thay cho Đức. Để đáp lại danh sách đen, Nya Banken đổi tên thành Svensk Ekonomiebolaget. Ngân hàng vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Aschberg, và chủ yếu là do ông ta sở hữu. Đại lư London của ngân hàng là Ngân hàng Thương mại Bắc của Anh, người có chủ tịch là Earl Grey, cựu cộng sự của Cecil Rhodes. Những người khác trong bộ sưu tập của Aschberg ' Một trong những cộng sự kinh doanh đáng chú ư bao gồm Krassin, người đă được cho đến cuộc Cách mạng Bolshevik (khi ông đổi màu để nổi lên như một Bolshevik hàng đầu) giám đốc Nga của Siemens-Schukert ở Petrograd; Carl Furstenberg, Bộ trưởng Tài chính của chính phủ Bolshevik đầu tiên; Và Max May, phó chủ tịch phụ trách các hoạt động nước ngoài của Trusty Trust of New York. Olof Aschberg suy nghĩ rất cao của Max May rằng một bức ảnh tháng năm được bao gồm trong cuốn sách của Aschberg. 19 Olof Aschberg suy nghĩ rất cao của Max May rằng một bức ảnh tháng năm được bao gồm trong cuốn sách của Aschberg. 19 Olof Aschberg suy nghĩ rất cao của Max May rằng một bức ảnh tháng năm được bao gồm trong cuốn sách của Aschberg. 19
Mùa hè năm 1916 Olof Aschberg đă ở New York đại diện cho cả Nya Banken và Pierre Bark, Bộ trưởng Tài chính Sa hoàng. Theo New York Times (4 tháng 8 năm 1916), kinh doanh chính của Aschberg ở New York là đàm phán khoản vay trị giá 50 triệu đô la cho Nga với một hiệp hội ngân hàng Mỹ do Ngân hàng Thành phố Quốc gia Stillman điều hành. Hoạt động kinh doanh này được kư kết vào ngày 5 tháng 6 năm 1916; Kết quả là khoản tín dụng của Nga là 50 triệu đô la tại New York với khoản phí ngân hàng 7½ phần trăm mỗi năm và khoản tín dụng tương ứng 150 triệu rúp cho tập đoàn NCB ở Nga. Hội đồng thành phố New York sau đó quay lại và cấp 6,1 phần trăm giấy chứng nhận bằng tên riêng của ḿnh ở thị trường Mỹ với số tiền 50 triệu đô la. Do đó, hội nghị của NCB đă kiếm được khoản lợi nhuận từ khoản vay trị giá 50 triệu đô la cho Nga,
Trong chuyến thăm New York của ḿnh thay mặt chính phủ Nga Sa hoàng, Aschberg đă đưa ra một số nhận xét tiên tri liên quan đến tương lai của Mỹ ở Nga:
Việc mở cửa cho thủ đô Hoa Kỳ và sáng kiến của Mỹ, với sự đánh thức do chiến tranh mang lại, sẽ có hiệu lực trên toàn quốc khi cuộc đấu tranh chấm dứt. Hiện nay, nhiều người Mỹ ở Petrograd, đại diện của các doanh nghiệp kinh doanh, giữ liên lạc với t́nh h́nh, và ngay khi sự thay đổi này xảy ra, một cuộc buôn bán lớn của Hoa Kỳ với Nga sẽ nảy nở. 20
OLOF ASCHBERG trong cuộc cách
mạng BOLSHEVIK
Trong khi hoạt động cho vay tín dụng này đang được đưa ra tại New York, Nya Banken và Olof Aschberg là các quỹ từ chính phủ Đức cho các nhà cách mạng Nga, những người cuối cùng sẽ hạ bớt ủy ban "Kerensky" và thiết lập chế độ Bolshevik.
Bằng chứng về mối quan hệ mật thiết của Olof Aschberg với việc tài trợ Cách mạng Bolshevik đến từ nhiều nguồn, một số giá trị lớn hơn các nguồn khác. Nya Banken và Olof Aschberg được trích dẫn nổi bật trong các bài báo Sisson (xem chương ba); Tuy nhiên, George Kennan đă phân tích các giấy tờ này một cách có hệ thống và cho thấy chúng bị giả mạo, mặc dù chúng có thể dựa vào một phần tài liệu đích thực. Các bằng chứng khác bắt nguồn từ Đại tá BV Nikitine, phụ trách về phản cách phản đối chính phủ Kerensky, và bao gồm hai mươi chín bức điện tín được truyền từ Stockholm đến Petrograd và ngược lại, về việc tài trợ cho Bolsheviks. Ba trong số những bức điện tín này đề cập đến các ngân hàng - các điện tín 10 và 11 liên quan đến Nya Banken, và điện tín 14 đề cập đến Ngân hàng Russo-Asiatic ở Petrograd. Telegram 10 đă đọc như sau:
Gisa Furstenberg Saltsjobaden. Quỹ rất thấp không thể hỗ trợ nếu thực sự cấp bách cho 500 như bút ch́ cuối cùng thanh toán khoản lỗ khổng lồ ban đầu tuyệt vọng hướng dẫn cáp Nya Banken hơn 100.000 Sumenson.
Telegram 11 lần đọc:
Kozlovsky Sergievskaya 81. Những bức thư đầu tiên nhận được cáp điện thoại của Nya Banken mà Soloman cung cấp cho cơ quan điện báo địa phương là Bronck Savelievich Avilov.
Fürstenberg là người trung gian giữa Parvus (Alexander I. Helphand) và chính phủ Đức. Về những chuyển đổi này, Michael Futrell kết luận:
Người ta phát hiện ra rằng trong những tháng cuối cùng, bà [Evegeniya Sumenson] đă nhận được gần một triệu rúp từ Furstenberg qua ngân hàng Nya Banken ở Stockholm và số tiền này đến từ các nguồn của Đức. 21
Telegram 14 của seri Nikitine viết: "Furstenberg Saltsjöbaden, số 90 trăm trăm trăm vào Rensso-Asiatic Sumenson." Đại diện Hoa Kỳ cho Russo-Asiatic là Công ty MacGregor Grant tại 120 Broadway, New York City, và ngân hàng được tài trợ bởi Trusty Trust tại Hoa Kỳ và Nya Banken ở Thụy Điển.
Một đề cập khác của Nya Banken là trong tài liệu "Phí chống lại Bolsheviks," được xuất bản trong thời kỳ Kerensky. Đặc biệt đáng chú ư trong tài liệu đó là một văn kiện do Gregory Alexinsky kư, cựu thành viên của Duma Nhà nước thứ hai, đề cập đến việc chuyển tiền cho Bolsheviks. Tài liệu, một phần, được hiểu như sau:
Theo thông tin vừa nhận được những người đáng tin cậy ở Stockholm là: Bolshevik Jacob Furstenberg, được biết đến dưới cái tên "Hanecki" (Ganetskii), và Parvus (Tiến sĩ Helfand); Ở Petrograd: luật sư Bolshevik, MU Kozlovsky, một người bà con của Hanecki - Sumenson, tham gia vào việc đầu cơ cùng với Hanecki, và những người khác. Kozlovsky là người nhận tiền chính của Đức, được chuyển từ Berlin qua "Disconto-Gesellschaft" tới "Via Bank " của Stockholm , và từ đó đến Ngân hàng Siberi ở Petrograd, nơi mà tài khoản của ông hiện tại có tổng số hơn 2 triệu rúp . Việc kiểm duyệt quân sự đă phát hiện ra một cuộc trao đổi liên tục các telegram có bản chất chính trị và tài chính giữa các điệp viên Đức và các nhà lănh đạo Bolshevik [Stockholm-Petrograd].
Hơn nữa, ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă gửi một thông điệp Mật mă Xanh từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Christiania (Oslo, 1925), Na Uy, ngày 21 tháng 2 năm 1918, có ghi: "Thông báo rằng các quỹ của Bolshevik được lưu giữ tại Nya Banken, Stockholm, Đại sứ quán Stockholm đă tư vấn cho Schmedeman. " 23
Cuối cùng, Michael Furtell, người đă phỏng vấn Olof Aschberg ngay trước khi ông qua đời, kết luận rằng các khoản tiền của Bolshevik thực sự được chuyển từ Đức thông qua Nya Banken và Jacob Furstenberg dưới h́nh thức thanh toán cho hàng hoá vận chuyển. Theo Futrell, Aschberg đă xác nhận với ông rằng Furstenberg đă có một nghiệp vụ thương mại với Nya Banken và Furstenberg cũng đă gửi tiền cho Petrograd. Những tuyên bố này được chứng thực trong hồi kư của Aschberg (xem trang 70). Nói tóm lại, Aschberg thông qua Nya Banken của ông chắc chắn là một kênh cho các quỹ được sử dụng trong Cách mạng Bolshevik, và Trusty Trust được liên kết gián tiếp thông qua liên kết với Aschberg và sự quan tâm của nó đối với MacGregor Grant Co., New York, đại lư của Russo- Ngân hàng Á châu, một chiếc xe khác.
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ BẢO
ĐẢM NƯỚC NYA JOIN RUSKOMBANK
Vài năm sau, vào mùa thu năm 1922, Liên Xô thành lập ngân hàng quốc tế đầu tiên. Nó được xây dựng dựa trên một tổ hợp gồm các ngân hàng tư nhân Nga và một số khoản đầu tư mới từ các ngân hàng Đức, Thụy Điển, Mỹ, và Anh. Được biết đến với cái tên Ruskombank (Ngân hàng Ngoại thương hay Ngân hàng Ngoại thương), nó đứng đầu là Olof Aschberg; Hội đồng quản trị của nó bao gồm các ngân hàng tư nhân chủ nghĩa xă hội, đại diện của các ngân hàng Đức, Thụy Điển và Mỹ, và dĩ nhiên, các đại diện của Liên bang Xô viết. Đoàn luật sư của Hoa Kỳ tại Stockholm đă báo cáo với Washington về câu hỏi này và lưu ư, trong một tài liệu tham khảo cho Aschberg, "danh tiếng của ông ta là kém. Ông được đề cập đến trong Tài liệu số 54 của các văn kiện Sisson và Công văn số 138 ngày 4 tháng 1 năm 1921 của một tổ chức Tại Copenhagen. " 24
Tập đoàn ngân hàng nước ngoài tham gia vào Ruskombank đại diện chủ yếu là nước Anh. Nó bao gồm Russo-Asiatic Consolidated Limited, một trong những chủ nợ tư nhân lớn nhất của Nga, và đă được Liên Xô cấp 3 triệu bảng để bồi thường thiệt hại cho tài sản của nó ở Liên Xô do quốc hữu hóa. Chính phủ Anh đă mua những khoản lợi ích đáng kể trong các ngân hàng tư nhân của Nga; Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, "Chính phủ Anh đang đầu tư mạnh vào liên minh." 25
Tập đoàn được cấp phép nhượng bộ rộng răi ở Nga và ngân hàng này có vốn cổ phần là 10 triệu rúp vàng. Một báo cáo trong tờ báo Đan Mạch của quốc gia Titende đă nói rằng "các khả năng đă được tạo ra cho hợp tác với chính phủ Xô viết, trong trường hợp này, thông qua các cuộc đàm phán chính trị, sẽ là không thể". 26 Nói cách khác, như tờ báo nói, các chính trị gia đă không thành công trong việc hợp tác với Liên Xô, nhưng "có thể chắc chắn rằng việc khai thác vốn của Nga bắt đầu mang các h́nh thức rơ ràng hơn." 27
Vào đầu tháng 10 năm 1922, Olof Aschberg đă gặp gỡ với Emil Wittenberg, giám đốc ngân hàng Nationalbank fur Deutschland, và Scheinmann, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước Nga. Sau cuộc thảo luận liên quan đến sự tham gia của Đức vào Ruskombank, ba ngân hàng đă tới Stockholm và gặp Max May, phó chủ tịch của Công ty Trusty Trust. Max May sau đó được chỉ định làm giám đốc của Bộ Ngoại giao của Ruskombank, ngoài Schlesinger, cựu giám đốc Ngân hàng Merchant của Moscow; Kalaschkin, cựu chủ tịch của Junker Bank; Và Ternoffsky, cựu giám đốc ngân hàng Siberia. Ngân hàng cuối cùng đă được chính phủ Anh mua một phần vào năm 1918. Giáo sư Gustav Cassell của Thu Sweden Điển đồng ư làm cố vấn cho Ruskombank. Cassell đă được trích dẫn trong một tờ báo Thụy Điển (Svenskadagbladetngày 17 tháng 10 năm 1922) như sau:
Một ngân hàng đă được bắt đầu ở Nga để chăm sóc các vấn đề ngân hàng thuần túy là một bước tiến lớn và dường như tôi cho rằng ngân hàng này được thành lập để làm một điều ǵ đó để tạo ra một cuộc sống kinh tế mới ở Nga. Những ǵ Nga cần là một ngân hàng để tạo ra thương mại nội bộ và bên ngoài. Nếu có bất kỳ hoạt động kinh doanh nào giữa Nga và các nước khác th́ phải có một ngân hàng để xử lư nó. Bước tiến này cần được hỗ trợ ở mọi khía cạnh của các quốc gia khác, và khi tôi được hỏi ư kiến của tôi, tôi đă nói rằng tôi đă chuẩn bị cho nó. Tôi không ủng hộ một chính sách tiêu cực và tin rằng mọi cơ hội nên được nắm bắt để giúp đỡ trong một tái thiết tích cực. Câu hỏi lớn là làm thế nào để đưa trao đổi Nga trở lại b́nh thường. Đó là một câu hỏi phức tạp và sẽ đ̣i hỏi điều tra kỹ lưỡng. Để giải quyết vấn đề này tôi tự nhiên hơn là sẵn sàng tham gia vào công việc. Để lại Nga với nguồn lực của chính ḿnh và số phận của chính cô là sự điên rồ. 28
Ṭa nhà Ngân hàng Siberi trước đây ở Petrograd được sử dụng làm trụ sở chính của Ruskombank, với mục tiêu là cho vay ngắn hạn ở nước ngoài, đưa vốn nước ngoài vào Liên bang Xô viết và nói chung là để tạo thuận lợi cho thương mại ở nước ngoài của Nga. Nó mở cửa vào ngày 1 tháng 12 năm 1922, tại Moscow và làm việc khoảng 300 người.
Tại Thu Sweden Điển, Ruskombank được đại diện bởi Svenska Ekonomibolaget của Stockholm, Nya Banken của Olof Aschberg dưới một cái tên mới, và ở Đức bởi Garantie und Creditbank fur Den Osten của Berlin. Tại Hoa Kỳ, ngân hàng được đại diện bởi Công ty Trusty Trust of New York. Khi mở ngân hàng, Olof Aschberg nhận xét:
Ngân hàng mới sẽ theo dơi việc mua máy móc và nguyên liệu từ Anh và Hoa Kỳ và sẽ đảm bảo cho việc hoàn thành hợp đồng. Câu hỏi về việc mua bán ở Thu Sweden Điển chưa phát sinh, nhưng hy vọng rằng điều đó sẽ xảy ra trong tương lai. 29
Khi gia nhập Ruskombank, Max May của Trusty Trust đă đưa ra một tuyên bố tương tự:
Hoa Kỳ là một đất nước giàu có với các ngành công nghiệp phát triển tốt, không cần nhập khẩu bất cứ thứ ǵ từ nước ngoài, nhưng ... rất quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm sang các nước khác và coi Nga là thị trường thích hợp nhất cho mục đích đó, Để xem xét các yêu cầu rộng lớn của Nga trong tất cả các ḍng của đời sống kinh tế của nó. 30
Tháng Năm nói rằng Ngân hàng Thương mại Nga là "rất quan trọng" và nó sẽ "phần lớn tài trợ cho tất cả các ngành của Nga".
Ngay từ đầu các hoạt động của Ruskombank đă bị hạn chế bởi độc quyền độc quyền thương mại của Liên Xô. Ngân hàng gặp khó khăn trong việc có được các khoản tạm ứng đối với hàng hoá Nga gửi ở nước ngoài. Bởi v́ họ đă được truyền đi dưới tên các đoàn thương mại Xô viết, một khoản tiền lớn của Ruskombank đă bị khóa trong các khoản tiền gửi với Ngân hàng Nhà nước Nga. Cuối cùng, vào đầu năm 1924, Ngân hàng Nga đă hợp nhất với ủy ban thương mại nước ngoài của Liên Xô, và Olof Aschberg đă bị băi nhiệm khỏi vị trí của ḿnh tại ngân hàng, bởi v́, nó đă được tuyên bố tại Moscow, ông đă lạm dụng ngân quỹ. Kết nối ban đầu của ông với ngân hàng là v́ t́nh bạn của ông với Maxim Litvinov. Thông qua Hiệp hội này, do đó điều hành báo cáo của Bộ Ngoại giao, ông Olof Aschberg đă tiếp cận được một khoản tiền lớn để đáp ứng các khoản thanh toán cho hàng hoá do Liên Xô ra lệnh ở châu Âu:
Những khoản tiền này dường như được đặt trong Ekonomibolaget, một công ty ngân hàng tư nhân, do ông Aschberg sở hữu. Nó bây giờ được tố cáo phía [ sic ] rằng một phần lớn của các quỹ này đă được sử dụng do ông Aschberg để đầu tư cho tài khoản cá nhân của ḿnh và rằng ông hiện đang nỗ lực để duy tŕ vị trí của ḿnh vào ngân hàng thông qua sở hữu của ḿnh số tiền này. Theo người cung cấp thông tin của tôi, ông Aschberg không phải là người duy nhất kiếm tiền bằng hoạt động của ḿnh với các quỹ của Liên Xô, nhưng đă chia lợi nhuận cho những người chịu trách nhiệm về cuộc hẹn của ḿnh tại Ngân hàng Thương mại Nga, trong số đó là Litvinoff. 31
Ruskombank sau đó trở thành Vneshtorg, theo đó nó được biết đến ngày nay.
Bây giờ chúng ta phải lặp lại các bước của chúng tôi và xem xét các hoạt động của Aschberg's New York Associate, Guaranty Trust Company, trong Thế chiến I, để đặt nền móng cho việc kiểm tra vai tṛ của nó trong thời kỳ cách mạng ở Nga.
BẢO ĐẢM TRUST VÀ ĐỘNG VẤN XÁC
ĐỘNG GERMAN Ở ĐỨC CHÂU, 1914-1917 32
Trong Thế chiến I, Đức đă gây quỹ đáng kể ở New York v́ hoạt động gián điệp và hoạt động bí mật ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Điều quan trọng là ghi lại ḍng chảy của các quỹ này bởi v́ nó chạy từ cùng một công ty - Trusty Trust và American International Corporation - liên quan đến cuộc Cách mạng Bolshevik và hậu quả của nó. Không phải đề cập đến thực tế (nêu trong chương ba) rằng chính phủ Đức cũng tài trợ các hoạt động cách mạng của Lenin.
Một bản tóm tắt các khoản vay của các ngân hàng Mỹ đối với lợi ích của Đức trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đă được Cơ quan t́nh báo quân đội Hoa Kỳ đưa ra cho Ủy ban Nhân quyền Liên bang Hoa Kỳ năm 1919 của Thượng viện Hoa Kỳ. Bản tóm tắt này dựa trên sự lắng đọng của Karl Heynen, người đă đến Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1915 để giúp Tiến sĩ Albert về các vấn đề thương mại và tài chính của chính phủ Đức. Công việc chính thức của Heynen là vận chuyển hàng hoá từ Hoa Kỳ đến Đức qua Thụy Điển, Thụy Sĩ và Hà Lan. Trên thực tế, anh ấy đă làm được điều ḿnh muốn trong những hoạt động bí mật.
Theo Heynen, các khoản vay lớn của Đức tăng lên ở Hoa Kỳ từ năm 1915 đến năm 1918 như sau: Khoản vay đầu tiên, 400.000 USD, được thực hiện vào tháng 9 năm 1914 bởi các ngân hàng đầu tư Kuhn, Loeb & Co. Bảo đảm 25 triệu nhăn hiệu là Gửi cho Max M. Warburg ở Hamburg, chi nhánh Đức của Kuhn, Loeb & Co. Đại úy George B. Lester của Cơ quan t́nh báo quân đội Hoa Kỳ nói với Thượng viện rằng trả lời của Heynen cho câu hỏi "Tại sao bạn lại tới Kuhn, Loeb & Co?" Là "Kuhn, Loeb & Co. chúng tôi đă xem xét các ngân hàng tự nhiên của chính phủ Đức và ngân hàng Reichsbank."
Khoản vay thứ hai, trị giá 1,3 triệu đô la, không đến trực tiếp từ Hoa Kỳ nhưng đă được John Simon, đại diện của Suedeutsche Disconto-Gesellschaft, đàm phán để bảo đảm các khoản tiền cho việc đưa hàng đến Đức.
Khoản vay thứ ba là từ Chase National Bank (trong nhóm Morgan) với số tiền là ba triệu đô la. Khoản vay thứ tư là từ Ngân hàng Quốc gia Cơ học và Kim loại với số tiền là một triệu đô la. Các khoản vay này tài trợ các hoạt động gián điệp của Đức ở Hoa Kỳ và Mêhicô. Một số quỹ đă được bắt nguồn từ Sommerfeld, một cố vấn cho Von Rintelen (một điệp viên gián điệp của Đức) và sau đó đă liên kết với Hjalmar Schacht và Emil Wittenberg. Sommerfeld đă mua đạn dược để sử dụng ở Mexico. Ông đă có một tài khoản với Công ty Trusty Bảo đảm và từ khoản thanh toán này đă được thực hiện cho Công ty Cartridge Western của Alton, Illinois, cho đạn dược đă được vận chuyển đến El Paso để sử dụng ở Mexico bởi cướp biển Pancho Villa. Khoảng 400.000 đô la đă được sử dụng cho đạn dược, tuyên truyền của Mêhicô và các hoạt động tương tự.
Đại sứ Đức Count Von Bernstorff đă kể lại t́nh bạn của ḿnh với Adolph von Pavenstedt, một đối tác cao cấp của Amsinck & Co., được kiểm soát và vào tháng 11 năm 1917 do American International Corporation làm chủ. Các nhân vật quốc tế của Hoa Kỳ nổi bật trong các chương sau; Hội đồng quản trị có các tên chính trên Wall Street: Rockefeller, Kahn, Stillman, du Pont, Winthrop, vv Theo Von Bernstorff, Von Pavenstedt đă "làm quen thân mật với tất cả các thành viên của Đại sứ quán". [33] Von Bernstorff tự coi Von Pavenstedt là một trong những người được tôn trọng nhất "nếu không phải là người Đức tôn trọng nhất ở New York". 34 Thật vậy, Von Pavenstedt đă "
Paul Bolo-Pasha, một điệp viên gián điệp Đức và một nhà tài trợ nổi tiếng của Pháp trước đây phục vụ chính phủ Ai Cập, đă đến New York vào tháng 3 năm 1916 với một bức thư giới thiệu về Von Pavenstedt. Qua đó, Bolo-Pasha gặp Hugo Schmidt, giám đốc Deutsche Bank ở Berlin và đại diện của nó tại Hoa Kỳ. Một trong những dự án của Bolo-Pasha là mua các tờ báo nước ngoài để nghiêng các bài xă luận của họ ủng hộ nước Đức. Các quỹ cho chương tŕnh này được bố trí ở Berlin theo h́nh thức tín dụng với Công ty Trusty Trust, với khoản tín dụng sau đó được cung cấp cho Amsinck & Co. Adolph von Pavenstedt của Amsinck, lần lượt làm cho quỹ có sẵn cho Bolo-Pasha.
Nói cách khác, cả Trusty Trust Company và Amsinck & Co., một chi nhánh của Tập đoàn Quốc tế Hoa Kỳ, đă trực tiếp tham gia vào việc thực hiện gián điệp Đức và các hoạt động khác tại Hoa Kỳ. Một số liên kết có thể được thiết lập từ các công ty này tới các nhà khai thác lớn của Đức ở Hoa Kỳ - Tiến sĩ Albert, Karl Heynen, Von Rintelen, Von Papan, Count Jacques Minotto (xem dưới đây) và Paul Bolo-Pasha.
Năm 1919, Ủy ban Thượng viện Overman cũng xác lập rằng Trusty Trust đă có một vai tṛ tích cực trong việc tài trợ cho các nỗ lực của Thế chiến I trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất theo một cách "không liên tục". Lời khai của sĩ quan t́nh báo Mỹ Becker đă làm rơ điều này:
Trong nhiệm vụ này, Hugo Schmidt [của Deutsche Bank] hầu như được hỗ trợ bởi các tổ chức ngân hàng của Mỹ. Đó là khi chúng tôi trung lập, nhưng họ đă làm tổn hại đến lợi ích của Anh, và tôi có dữ liệu đáng kể về hoạt động của Công ty Trusty Trust ở khía cạnh đó và muốn biết ủy ban có muốn tôi đi vào nó hay không .
SENATOR NELSON: Đó là chi nhánh của Ngân hàng Thành phố, phải không?
ÔNG. BECKER: Không.
SENATOR OVERMAN: Nếu điều đó không thân thiện với lợi ích của Anh, điều đó không quan trọng, và tôi nghĩ rằng bạn đă để nó tốt hơn.
SENATOR KING: Có phải là một giao dịch ngân hàng b́nh thường?
ÔNG. BECKER: Đó sẽ là vấn đề quan điểm. Nó liên quan đến việc ngụy trang trao đổi để biến nó thành sự trao đổi trung lập, khi nó thực sự trao đổi Đức ở Luân Đôn. Theo kết quả của những hoạt động mà Công ty Trusty Trust tham gia chủ yếu vào ngày 1 tháng 8 năm 1914, và thời điểm Mỹ bước vào cuộc chiến, Deutsche Banke trong các chi nhánh ở Nam Mỹ đă thành công trong việc thương lượng 4.670.000 bảng Anh trao đổi trong thời chiến.
SENATOR OVERMAN: Tôi nghĩ rằng có thẩm quyền. 37
Điều thực sự quan trọng không phải là hỗ trợ tài chính cho Đức, mà chỉ là bất hợp pháp, v́ các giám đốc của Trusty Trust đă hỗ trợ tài chính cho đồng minh cùng một lúc. Nói cách khác, Trusty Trust đă tài trợ cho cả hai bên của Cuộc xung đột. Điều này đặt ra vấn đề đạo đức.
Bảo đảm
TRUST-MINOTTO-CAILLAUX THREADS. 38
Đếm Jacques Minotto là một chủ đề khó có thể kiểm chứng và liên tục nhất liên kết Cuộc Cách mạng Bolshevik ở Nga với các ngân hàng Đức, gián điệp Thế chiến I ở Hoa Kỳ, Công ty Trusty Trust ở New York, cuộc cách mạng Bolshevik của Pháp và Caillaux-Malvy gián điệp thử nghiệm tại Pháp.
Jacques Minotto sinh ngày 17 tháng 2 năm 1891, ở Berlin, con trai của một người cha Áo xuất thân từ tầng lớp quư tộc người Ư, và một người mẹ người Đức. Young Minotto đă được đào tạo tại Berlin và sau đó làm việc với Deutsche Bank ở Berlin năm 1912. Gần như ngay lập tức Minotto đă được gửi đến Hoa Kỳ làm trợ lư cho Hugo Schmidt, phó giám đốc Deutsche Bank và đại diện của New York. Sau một năm ở New York, Minotto được Ngân hàng Deutsche gửi tới London, nơi ông lưu hành trong các giới chính trị và ngoại giao nổi bật. Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, Minotto trở về Hoa Kỳ và ngay lập tức gặp mặt với đại sứ người Đức tên là Count Von Bernstorff, sau đó ông gia nhập công ty Guaranty Trust ở New York. Tại Trusty Trust, Minotto đă được đặt hàng trực tiếp của Max May, Giám đốc bộ phận nước ngoài và là nhân viên của ngân hàng Thụy Điển Olof Aschberg. Minotto không phải là quan chức ngân hàng nhỏ. Các cuộc thẩm vấn của các thử nghiệm Caillaux ở Paris năm 1919 đă xác lập rằng Minotto đă làm việc trực tiếp dưới thời Max May. 39 Ngày 25 tháng 10 năm 1914, Trusty Trust gửi Jacques Minotto đến Nam Mỹ để làm báo cáo về t́nh h́nh chính trị, tài chính và thương mại. Như ông đă làm ở London, Washington và New York, v́ vậy Minotto đă chuyển đến các giới chức chính trị và ngoại giao cao nhất ở đây. Một mục đích của sứ mệnh của Minotto ở Mỹ Latinh là thiết lập cơ chế mà Trusty Trust có thể được sử dụng làm trung gian cho việc gây quỹ của Đức trước đây đă đề cập trên thị trường tiền tệ Luân Đôn, sau đó đă bị từ chối cho Đức v́ Thế Chiến I. Minotto đă trở lại Đến Hoa Kỳ, Đổi mới mối quan hệ của ḿnh với Count Von Bernstorff và Count Luxberg, và sau đó, năm 1916, đă cố gắng để có được một vị trí với Hải quân Hoa Kỳ T́nh báo. Sau đó, ông bị bắt v́ tội các hoạt động ủng hộ Đức. Khi bị bắt, Minotto đang làm việc tại nhà máy ở Chicago của bố vợ Louis Swift, của Swift & Co., meatpackers. Swift đă lập an ninh cho khoản tiền 50.000 đô la yêu cầu để giải phóng Minotto, người được đại diện bởi Henry Veeder, luật sư Swift & Co. Louis Swift đă bị bắt v́ các hoạt động ủng hộ Đức vào một ngày sau đó. Là một sự trùng hợp thú vị và không phải là không quan trọng, "Thiếu tá" Harold H. Swift, anh trai của Louis Swift, là thành viên của Phái đoàn Chữ thập đỏ William Boyce Thompson năm 1917 đến Petrograd - Một trong những luật sư của Wall Street và các doanh nhân có mối quan hệ mật thiết với Cách mạng Nga sẽ được miêu tả sau. Helen Swift Neilson, em gái của Louis và Harold Swift, sau này đă được liên kết với Trung tâm ủng hộ cộng sản Abraham Lincoln "Unity". Điều này đă thiết lập một liên kết nhỏ giữa các ngân hàng Đức, Mỹ. Ngân hàng, gián điệp Đức, và, như chúng ta sẽ thấy sau đó, Cách mạng Bolshevik. 40
Joseph Caillaux là một nhà chính trị Pháp nổi tiếng (đôi khi được gọi là khét tiếng). Ông cũng liên kết với Count Minotto trong các hoạt động của Mỹ Latinh sau cho Trusty Trust, và sau này liên quan đến các trường hợp nổi tiếng của Pháp gián điệp năm 1919, có kết nối Bolshevik. Năm 1911, Caillaux trở thành bộ trưởng tài chính và sau đó cùng năm trở thành Thủ tướng Pháp. John Louis Malvy trở thành thư kư của nhà nước trong chính quyền Caillaux. Vài năm sau, bà Caillaux đă giết chết Gaston Calmette, biên tập viên của tờ báo Figaro nổi tiếng ở Paris . Việc truy tố buộc tội rằng Madame Caillaux đă giết chết Calmette để ngăn chặn việc xuất bản các tài liệu thỏa hiệp nhất định. Vụ án này dẫn đến sự ra đi của Caillaux và vợ ông từ Pháp. Hai vợ chồng đi đến Mỹ Latinh và gặp Min Countotto, đại diện của Công ty Trusty Trust tại Mỹ Latinh để thành lập trung gian cho tài chính của Đức. Count Minotto có quan hệ xă hội với cặp đôi Caillaux ở Rio de Janeiro và Sao Paulo, Brazil, ở Montevideo, Uruguay, và Buenos Aires, Argentina. Nói cách khác, Count Minotto là bạn đồng hành của cặp đôi Caillaux khi họ ở Mỹ Latinh. 41 Khi trở về Pháp, Caillaux và vợ ông ở lại tại Biarritz tư cách khách mời của Paul Bolo-Pasha, người, như chúng ta đă thấy, cũng là một nhà điều hành hoạt động gián điệp của Đức tại Hoa Kỳ và Pháp. [42] Sau đó, vào tháng 7 năm 1915, Count Minotto đến Pháp từ Ư, gặp gỡ đôi vợ chồng Caillaux; Cùng năm cặp đôi Caillaux cũng thăm Bolo-Pasha một lần nữa tại Biarritz.
Tác phẩm của Bolo-Pasha ở Pháp là để có được ảnh hưởng cho Đức trong các tờ báo Paris Le Temps và Figaro. Bolo-Pasha sau đó đến New York, đến ngày 24 tháng 2 năm 1916. Ở đây ông đă thương lượng một khoản vay là 2 triệu đô la - và ở đây ông liên kết với Von Pavenstedt, đại diện của Đức với Amsinck & Co., 43 Severance Johnson, ở The Enemy Within, kết nối Caillaux và Malvy với cuộc cách mạng Bolshevik của Pháp vào năm 1918, và tuyên bố rằng nếu cuộc cách mạng thành công, "Malvy có lẽ là Trotsky của Pháp đă có Caillaux là Lenin của nó." [44] Caillaux và Malvy thành lập một đảng xă hội chủ nghĩa cấp tiến tại Pháp sử dụng ngân quỹ của Đức và đă bị đưa ra xét xử v́ những nỗ lực phá hoại này. Ṭa án thẩm vấn trong các vụ án gián điệp Pháp năm 1919 đưa ra lời khai liên quan đến các ngân hàng New York và mối quan hệ của họ với các nhà khai thác gián điệp Đức. Họ cũng đặt ra mối quan hệ giữa Count Minotto và Caillaux, cũng như mối quan hệ của Trusty Trust Company với Deutsche Bank và sự hợp tác giữa Hugo Schmidt của Deutsche Bank và Max May của Trusty Trust Company. Cuộc thẩm vấn của người Pháp (trang 940) có trích dẫn sau đây từ sự lắng đọng của New York về Count Minotto (trang 10 và được dịch lại từ tiếng Pháp): Cũng như mối quan hệ của Trusty Trust Company với Deutsche Bank và sự hợp tác giữa Hugo Schmidt của Deutsche Bank và Max May của Trusty Trust Company. Cuộc thẩm vấn của người Pháp (trang 940) có trích dẫn sau đây từ sự lắng đọng của New York về Count Minotto (trang 10 và được dịch lại từ tiếng Pháp): Cũng như mối quan hệ của Trusty Trust Company với Deutsche Bank và sự hợp tác giữa Hugo Schmidt của Deutsche Bank và Max May của Trusty Trust Company. Cuộc thẩm vấn của người Pháp (trang 940) có đoạn trích sau đây từ sự lắng đọng của New York về Count Minotto (trang 10 và được dịch lại từ tiếng Pháp):
CÂU H QUI: Theo lệnh của bạn là Trusty Trust?
TRẢ LỜI: Theo lệnh của ông Max May.
CÂU H QUI: Ông là Phó Tổng thống?
ĐÁP: Ông là Phó Chủ tịch kiêm Giám đốc Sở Ngoại vụ.
Sau đó, năm 1922, Max May trở thành giám đốc ngân hàng Ruskom của Liên Xô và đại diện cho lợi ích của Trusty Trust trong ngân hàng đó. Cuộc thẩm vấn của Pháp đă xác lập rằng Count Minotto, một điệp viên gián điệp Đức, đang sử dụng Trusty Trust Company; Rằng Max May là sĩ quan cấp trên; Và rằng Max May cũng gắn bó chặt chẽ với ngân hàng Bolshevik Olof Aschberg. Tóm lược: Max May of Guaranty Trust được liên kết với việc gây quỹ bất hợp pháp và gián điệp Đức ở Hoa Kỳ trong Thế chiến I; Ông bị liên kết gián tiếp với Cách mạng Bolshevik và trực tiếp thành lập Ruskombank, ngân hàng quốc tế đầu tiên ở Liên Xô.
C̣n quá sớm để cố gắng giải thích cho hoạt động quốc tế có vẻ không nhất quán, bất hợp pháp và đôi khi vô đạo đức này. Nói chung, có hai lời giải thích hợp lư: thứ nhất, một sự t́m kiếm không ngừng cho lợi nhuận; Thứ hai - đồng ư với những lời của Otto Kahn của Kuhn, Loeb & Co. và của Tập đoàn Quốc tế Hoa Kỳ trong bản gốc của chương này - việc thực hiện các mục tiêu xă hội chủ nghĩa, mục đích mà các nhà xă hội học "nên và có thể mang lại" có nghĩa.
Chú thích:
1 John Moody, Chân lư về Tín thác (New York: Moody Publishing, 1904).
2 Công ty JP Morgan ban đầu được thành lập ở London với tên George Peabody and Co. vào năm 1838. Nó không được kết hợp cho đến ngày 21 tháng 3 năm 1940. Công ty đă ngừng hoạt động vào tháng 4 năm 1954 khi nó sát nhập với Trusty Trust Company, Ngân hàng thương mại, và ngày nay được biết đến như là Công ty Bảo lănh Bảo đảm Morgan của New York.
3 Hoa Kỳ, Nhà, Ủy ban Ngoại giao, Câu chuyện của Panama , Các buổi lắng nghe Nghị quyết Rainey, 1913. p. 53.
4 Ibid., P. 60.
5 Stanford, Calif Xem thêm Los Angeles Times, 13 tháng 10, 1966.
[6] Sau đó là người lập biên bản với Hjalmar Schacht (chủ ngân hàng của Hitler) và Emil Wittenberg, của Nationalbank für Deutschland.
7 Hoa Kỳ, Thượng viện, Ủy ban Đối ngoại, Điều tra Các vấn đề Mexico , 1920.
8 Lincoln Steffens, Các bức thư của Lincoln Steffens (New York: Harcourt, Brace, 1941, I: 386
9 Hoa Kỳ, Thượng viện, Ủy ban về Quan hệ Đối ngoại, Điều tra các vấn đề Mexico , 1920, pts. 2, 18, p. 681.
10 Ibid.
11 New York Times , ngày 23 tháng 1 năm 1919.
12 Hoa Kỳ, Thượng viện, Ủy ban Đối ngoại, op. Cit., Trang 795-96.
13 Hoa Kỳ, Thượng viện, Phiên điều trần Trước Ủy ban Đặc biệt Điều tra Ngành Công nghiệp Bom , 73-74th Công., 1934-37, pt. 25, tr. 7666.
14 Tệp thập phân của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, 861.51 / 110 (316-116-682).
15 Tệp thập phân của Tiểu bang Hoa Kỳ, 861.51 / 112.
16 Tệp thập phân của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, 861.51 / 111.
17 Chữ viết tay trong dấu ngoặc đơn.
18 Olof Aschberg, En Vandrande Jude Frän Glasbruksgatan (Stockholm: Albert Bonniers Förlag, nd), trang 98-99, được bao gồm trong Memoarer (Stockholm: Albert Bonniers Förlag, 1946). Xem thêm Gästboken (Stockholm: Tidens Förlag, 1955) để biết thêm các tài liệu về Aschberg.
19 Aschberg, trang. 123.
20 New York Times , ngày 4 tháng 8 năm 1916.
21 Michael Futrell, Northern Underground (London: Faber và Faber, 1963), trang. 162.
[22] Xem Robert Paul Browder và Alexander F. Kerensky, Chính phủ lâm thời Nga, 1917 (Stanford, Calif .: Đại học Stanford, 1961), 3: 1365. "Ngân hàng qua Ngân hàng" rơ ràng là Nya Banken.
23 Tệp thập phân của Tiểu bang Hoa Kỳ, 861.00 / 1130.
24 Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, 861.516 / 129, ngày 28 tháng 8 năm 1922. Một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từ Stockholm, ngày 9 tháng 10 năm 1922 (861.516 / 137), tuyên bố liên quan đến Aschberg, "Tôi đă gặp ông Aschberg một vài tuần Trước đây và trong cuộc tṛ chuyện với ông ấy, ông ta đă nói rơ ràng tất cả những ǵ xuất hiện trong bản báo cáo này và ông cũng yêu cầu tôi hỏi xem liệu ông có thể đến thăm Hoa Kỳ và đưa ra các tài liệu tham khảo cho một số ngân hàng nổi tiếng. Kêu gọi sự chú ư của Bộ về Tài liệu số 54 của Văn kiện Sisson và nhiều văn kiện khác mà tác phẩm này viết về người đàn ông này trong chiến tranh, danh tiếng và sự nổi tiếng của ông không tốt, chắc chắn là làm việc chặt chẽ với Liên Xô,
25 Ibid., 861.516 / 130, ngày 13 tháng 9 năm 1922.
26 Ibid.
27 Ibid.
28 Ibid., 861.516 / 140, Stockholm, ngày 23 tháng 10 năm 1922.
29 Ibid., 861.516 / 147, ngày 8 tháng 12 năm 1922.
30 Ibid., 861.516 / 144, ngày 18 tháng 11 năm 1922.
31 Ibid., 861.316 / 197, Stockholm, ngày 7 tháng 3 năm 1924.
32 Phần này dựa trên các cuộc điều trần của Uỷ ban Công ước, lợi ích của Hoa Kỳ, Thượng viện, Cà phê và rượu và Tuyên truyền Đức và Bolshevik , Các buổi điều trần trước Tiểu ban về Tư pháp, Công lư 65, 1919, 2: 2154-74.
33 Count Von Bernstorff, Ba năm của tôi ở Mỹ (New York: Scribner, 1920), p. 261.
34 Ibid.
35 Ibid.
36 người Pháp, người chiến đấu chống gián điệp của Đức (Garden City, NY: Doubleday, Trang, 1918), tr. 152.
37 Hoa Kỳ, Thượng viện, Uỷ ban Overman, 2: 2009.
38 Phần này dựa trên các nguồn sau đây (cũng như những trích dẫn ở nơi khác): Jean Bardanne, Đại tá Nicolai: espion de genie (Paris: Các ấn bản Siboney, nd); Cours de Justice, Affaire Caillaux, Loustalot et Comby: Quy tŕnh Phép thẩm vấn Generale (Paris, 1919), trang 349-50, 937-46; Paul Vergnet, L'Affaire Caillaux (Paris 1918), đặc biệt là chương có tiêu đề "Marx de Mannheim"; Henri Guernut, Emile Kahn, và Camille M. Lemercier, tài liệu của Etudes về L'Affaire Caillaux (Paris, nd), trang 1012-15; Và George Adam, tội phản bội và bi kịch: Tài khoản của các thử nghiệm chiến tranh Pháp (London: Jonathan Cape, 1929).
39 Xem p. 70.
40 Tương quan này được đề cập đến rộng răi trong báo cáo của Uỷ ban Công ước về ba loại năm 1919. Xem thư mục.
41 Xem Rudolph Binion, Các nhà lănh đạo bị đánh bại (New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia, 1960).
42 George Adam, phản bội và bi kịch: Tài khoản của các cuộc thử nghiệm chiến tranh ở Pháp (London: Jonathan Cape, 1929).
43 Ibid.
44 The Enemy Within (London: George Allen & Unwin, 1920).
Chương V
NH THENG SỨ MỆNH TRÊN M AM ĐIỂM Ở RUSSIA - 1917
Ông Billings tin rằng ông ta chịu trách nhiệm về một sứ mệnh khoa học để cứu Nga
... Ông ta thực tế chỉ là mặt nạ - mặt nạ của Hội Chữ thập đỏ không phải là mặt
nạ.
Cornelius Kelleher, trợ lư cho William Boyce Thompson (trong George F. Kennan, Nga Lá Chiến tranh)
Dự án Phố Wall ở Nga năm 1917 đă sử dụng Sứ mệnh Chữ thập đỏ làm phương tiện
hoạt động. Cả Credit Guaranty Trust và National City Bank đều có các đại diện
tại Nga vào thời điểm cách mạng. Frederick M. Corse thuộc chi nhánh ngân hàng
National Bank Bank ở Petrograd được đính kèm với Phái đoàn Chữ thập đỏ Hoa Kỳ,
trong đó có rất nhiều hợp đồng sẽ được thông báo sau đó. Bảo đảm Trust được đại
diện bởi Henry Crosby Emery. Emery tạm thời bị người Đức giữ lại vào năm 1918 và
sau đó chuyển sang đại diện cho Trusty Trust 'ở Trung Quốc.
Cho đến năm 1915, người có ảnh hưởng nhất trong Trụ sở Quốc gia Chữ thập đỏ Hoa Kỳ tại Washington, DC là hoa hậu Mabel Boardman. Một vận động viên tích cực và năng động, cô Boardman đă là động lực đằng sau doanh nghiệp Hội chữ thập đỏ, mặc dù tài trợ của nó đến từ những người giàu có và nổi bật bao gồm JP Morgan, Bà EH Harriman, Cleveland H. Dodge, và bà Russell Sage. Ví dụ như chiến dịch gây quỹ năm 1910 với giá 2 triệu đô la đă thành công chỉ v́ nó được hỗ trợ bởi những cư dân giàu có này của Thành phố New York. Trên thực tế, phần lớn số tiền này đến từ thành phố New York. Chính JP Morgan đóng góp 100,000 đô la và bảy người đóng góp khác ở thành phố New York thu được 300.000 đô la. Chỉ có một người ở ngoài thành phố New York đă đóng góp hơn 10.000 đô la và đó là William J. Boardman, cha của cô Boardman. Henry P. Davison là Chủ tịch Ủy ban Nâng cao Quỹ New York năm 1910 và sau đó trở thành chủ tịch của Hội đồng Chiến tranh của Hội chữ thập đỏ Hoa Kỳ. Nói cách khác, trong Thế chiến I, Hội Chữ thập đỏ phụ thuộc rất nhiều vào phố Wall, và đặc biệt về công ty Morgan.
Hội Chữ thập đỏ không thể đối phó với những yêu cầu của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và hiệu quả đă được các ngân hàng New York tiếp quản. Theo John Foster Dulles, những doanh nhân này "nh́n nhận Hội Chữ Thập Đỏ Mỹ như một cánh tay của chính phủ ảo, họ dự kiến sẽ đóng góp không thể lường trước cho chiến thắng của chiến tranh." 1 Trong khi làm như vậy, họ đă chế nhạo với phương châm của Hội chữ thập đỏ: "Trung lập và Nhân đạo".
Để đổi lấy quỹ, Wall Street đă yêu cầu Hội đồng Chiến tranh Chữ thập đỏ; Và theo đề nghị của Cleveland H. Dodge, một trong những người ủng hộ tài chính của Woodrow Wilson, Henry P. Davison, một đối tác của JP Morgan Company, đă trở thành chủ tịch. Danh sách các quản trị viên của Hội Chữ Thập Đỏ sau đó bắt đầu có sự xuất hiện của New York Directory của Giám đốc: John D. Ryan, Chủ tịch Công ty đồng Anaconda (xem frontispiece); George W. Hill, chủ tịch của Công ty Thuốc lá Hoa Kỳ; Grayson MP Murphy, phó chủ tịch của Công ty Trusty Trust; Và Ivy Lee, chuyên gia về quan hệ công chúng cho Rockefellers. Harry Hopkins, sau này giành danh hiệu dưới quyền Tổng thống Roosevelt, đă trở thành trợ lư cho Tổng giám đốc Hội Chữ thập đỏ ở Washington, DC
Câu hỏi của Đoàn công tác Chữ thập đỏ tới Nga đă diễn ra trước cuộc họp thứ ba của Hội đồng Chiến tranh được tái thiết này, được tổ chức tại Toà nhà Hội chữ thập đỏ, Washington, DC, vào ngày Thứ Sáu, ngày 29 tháng 5 năm 1917, lúc 11:00 sáng. Để khám phá ư tưởng với Alexander Legge của Công ty Harvester Quốc tế. Sau đó, International Harvester, có lợi ích đáng kể ở Nga, cung cấp 200.000 đô la để hỗ trợ cho sứ mệnh của Nga. Tại cuộc họp sau đó, người ta biết rằng William Boyce Thompson, giám đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, đă "đề nghị thanh toán toàn bộ chi phí của hoa hồng"; Đề nghị này đă được chấp nhận trong một điện tín: "Mong muốn của bạn để trả chi phí hoa hồng cho Nga rất nhiều đánh giá cao và từ quan điểm của chúng tôi rất quan trọng." 2
Các thành viên của sứ mệnh không nhận được tiền. Tất cả chi phí do William Boyce Thompson chi trả và 200.000 đô la từ International Harvester dường như được sử dụng ở Nga để trợ cấp chính trị. Chúng tôi biết từ các hồ sơ của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Petrograd rằng Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ đă trao 4.000 rúp cho Hoàng tử Lvoff, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, để "cứu trợ các nhà cách mạng" và 10.000 rúp trong hai khoản thanh toán cho Kerensky để "cứu trợ cho những người tị nạn chính trị . "
AMERICAN RED CHUYỂN NHIỆM VỚI
RUSSIA, 1917
Vào tháng 8 năm 1917, Phái đoàn Chữ thập đỏ Hoa Kỳ sang Nga chỉ có một mối quan hệ danh giá với Hội Chữ thập đỏ Mỹ và phải thật sự là Sứ mệnh Chữ thập Đỏ bất thường nhất trong lịch sử. Tất cả các chi phí, bao gồm cả đồng phục - các thành viên là tất cả các đại tá, chuyên ngành, thuyền trưởng, hoặc trung úy - đă được trả tiền từ túi của William Boyce Thompson. Một người quan sát đương đại được mệnh danh là nhóm quân đội toàn bộ là "Quân đội Haytian":
Đoàn Chữ thập đỏ Hoa Kỳ, khoảng 40 Đại Tá, Các Tiểu Đoàn, Thuyền Trưởng và Trung Tá, đă đến ngày hôm qua. Nó được dẫn dắt bởi Đại tá (Bác sĩ) Billings of Chicago, và bao gồm Đại tá William B. Thompson và nhiều bác sĩ và thường dân, tất cả đều có danh hiệu quân sự; Chúng tôi gọi là bộ trang phục "Quân đội Haytian" bởi v́ không có bất kỳ ai. Họ đă đến để làm nhiệm vụ không rơ ràng, theo tôi có thể t́m ra, trên thực tế Gov. Francis Francis đă nói với tôi một thời gian trước đây rằng ông đă kêu gọi họ không được phép đến, v́ đă có quá nhiều nhiệm vụ từ các đồng minh khác nhau ở Nga. Rơ ràng, Ủy ban này tưởng tượng có cuộc gọi khẩn cấp cho bác sĩ và y tá ở Nga; Như thực tế hiện nay có một sự dư thừa của tài năng y tế và y tá, trong nước và nước ngoài trong nước và nhiều bệnh viện haft trống rỗng ở các thành phố lớn.
Nhiệm vụ thực sự chỉ gồm hai mươi bốn (không bốn mươi), có quân đội từ trung tá xuống trung uư, và được bổ sung bởi ba trật tự, hai nhiếp ảnh gia chuyển động, và hai phiên dịch, không xếp hạng. Chỉ có năm (trong số 24) là bác sĩ; Ngoài ra c̣n có hai nhà nghiên cứu y khoa. Đoàn công tác đến bằng tàu hỏa tại Petrograd qua Siberia vào tháng 8 năm 1917. Năm bác sĩ và người sắp đặt ở lại một tháng, quay trở lại Hoa Kỳ ngày 11 tháng 9. Tiến sĩ Frank Billings, người đứng đầu danh sách các nhà khoa học và giáo sư y khoa của Đại học Chicago , Được báo cáo là ghê tởm với các hoạt động chính trị công khai của đa số nhiệm vụ. Những người đàn ông y khoa khác là William S. Thayer, giáo sư y khoa tại Đại học Johns Hopkins; DJ McCarthy, Thành viên của Viện Phipps để nghiên cứu và dự pḥng bệnh lao, tại Philadelphia; Henry C. Sherman, giáo sư về hóa học thực phẩm tại Đại học Columbia; CEA Winslow, giáo sư về vi trùng học và vệ sinh tại Yale Medical School; Wilbur E. Post, giáo sư y khoa tại Rush Medical College; Tiến sĩ Malcolm Grow, của Cục Dự trữ Y khoa của Quân đội Hoa Kỳ; Và Orrin Wightman, giáo sư y học lâm sàng, Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - đă được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller. Henry C. Sherman, giáo sư về hóa học thực phẩm tại Đại học Columbia; CEA Winslow, giáo sư về vi trùng học và vệ sinh tại Yale Medical School; Wilbur E. Post, giáo sư y khoa tại Rush Medical College; Tiến sĩ Malcolm Grow, của Cục Dự trữ Y khoa của Quân đội Hoa Kỳ; Và Orrin Wightman, giáo sư y học lâm sàng, Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller. Henry C. Sherman, giáo sư về hóa học thực phẩm tại Đại học Columbia; CEA Winslow, giáo sư về vi trùng học và vệ sinh tại Yale Medical School; Wilbur E. Post, giáo sư y khoa tại Rush Medical College; Tiến sĩ Malcolm Grow, của Cục Dự trữ Y khoa của Quân đội Hoa Kỳ; Và Orrin Wightman, giáo sư y học lâm sàng, Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller. Giáo sư về vi trùng học và vệ sinh tại Yale Medical School; Wilbur E. Post, giáo sư y khoa tại Rush Medical College; Tiến sĩ Malcolm Grow, của Cục Dự trữ Y khoa của Quân đội Hoa Kỳ; Và Orrin Wightman, giáo sư y học lâm sàng, Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller. Giáo sư về vi trùng học và vệ sinh tại Yale Medical School; Wilbur E. Post, giáo sư y khoa tại Rush Medical College; Tiến sĩ Malcolm Grow, của Cục Dự trữ Y khoa của Quân đội Hoa Kỳ; Và Orrin Wightman, giáo sư y học lâm sàng, Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller. Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller. Bệnh viện Đa khoa New York. George C. Whipple được liệt kê là giáo sư về kỹ thuật vệ sinh tại Đại học Harvard nhưng trên thực tế là đối tác của công ty New York của Hazen, Whipple & Fuller, các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Điều này rất quan trọng bởi v́ Malcolm Pirnie - người sau đó - được liệt kê là trợ lư kỹ sư vệ sinh và làm việc như một kỹ sư của Hazen, Whipple & Fuller.
Phần lớn sứ mệnh, như được thấy từ bảng, gồm các luật sư, nhà tài trợ và các trợ lư của họ, từ khu tài chính New York. Nhiệm vụ được tài trợ bởi William B. Thompson, được miêu tả trong thông tư của Hội Chữ thập đỏ chính thức là "Ủy viên và Quản lư Kinh doanh, Giám đốc Ngân hàng liên bang Hoa Kỳ tại New York". Thompson mang theo Cornelius Kelleher, được miêu tả như là một người phụ tá cho sứ mệnh nhưng thực sự là thư kư của Thompson và cùng địa chỉ - 14 Wall Street, New York City. Công khai cho nhiệm vụ này được Henry S. Brown xử lư, cùng địa chỉ. Thomas Day Thacher là luật sư của Simpson, Thacher & Bartlett, một công ty được thành lập bởi cha ông, Thomas Thacher, vào năm 1884 và nổi bật trong việc tái tổ chức và sáp nhập đường sắt. Thomas khi c̣n nhỏ làm việc cho công ty gia đ́nh, Trở thành Trợ lư luật sư của Hoa Kỳ dưới quyền Henry L. Stimson và quay trở lại công ty gia đ́nh vào năm 1909. Thacher trẻ tuổi là bạn thân của Felix Frankfurter và sau đó trở thành trợ lư của Raymond Robins, cũng trong Sứ mệnh Chữ thập đỏ. Năm 1925, ông được bổ nhiệm làm Thẩm phán Quận dưới Tổng thống Coolidge, trở thành cố vấn luật sư dưới quyền Herbert Hoover, và là giám đốc của Viện William Boyce Thompson.
CHUYỂN NHƯỢNG TRÊN MẠNG NĂM 1917 CHO RUSSIA |
||
Thành viên từ cộng đồng tài chánh Wall Street và các tổ chức của họ |
Bác |
Trật tự, |
Andrews (Liggett & Myers Tobacco) |
Billings (bác sĩ) |
Brooks (trật tự) |
Barr (Chase Ngân hàng Quốc gia) |
Grow (bác sĩ) |
Clark (trật tự) |
Brown (c / o William B. Thompson) |
McCarthy (nghiên cứu y khoa, bác sĩ) |
Rocchia (trật tự) |
Cochran (Công ty McCann) |
Đăng (bác sĩ) |
|
Kelleher (c / o William B. Thompson) |
Sherman (hóa học thực phẩm) |
Travis (phim) |
Nicholson (Swirl & Co.) |
Thayer (bác sĩ) |
Wyckoff (phim) |
Pirnie (Hazen, Whipple & Fuller) |
||
Redfield (Stetson, Jennings & Russell) |
Wightman (y học) |
Hardy (công lư) |
Robins (nhà khai thác mỏ) |
Winslow (Vệ sinh) |
Sừng (vận chuyển) |
Swift (Swift & Co.) |
||
Thacher (Simpson, Thacher & Bartlett) |
||
Thompson (Ngân hàng Dự trữ Liên bang NY) |
||
Wardwell (Stetson, Jennings & Russell) |
||
Whipple (Hazen, Whipple & Fuller) |
||
Corse (ngân hàng quốc gia) |
||
Magnuson (được khuyến cáo bởi nhân viên bí mật của Đại tá Thompson) |
Alan Wardwell, cũng là phó ủy viên kiêm thư kư của Chủ tịch, là luật sư của công ty luật Stetson, Jennings & Russell của 15 Broad Street, thành phố New York và HB Redfield là thư kư luật cho Wardwell. Thiếu tá Wardwell là con của William Thomas Wardwell, thủ quỹ lâu năm của Standard Oil ở New Jersey và Standard Oil of New York. Ông Wardwell là một trong những người kư hợp đồng tin tưởng Standard Oil, một thành viên của ủy ban tổ chức các hoạt động của Hội Chữ Thập Đỏ trong Cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha Mỹ, và giám đốc Ngân hàng Tiết kiệm Greenwich. Con trai ông, Alan là giám đốc không chỉ của Greenwich Savings, mà c̣n của Ngân hàng New York và Trust Co và Công ty Mangan Georgia (cùng với W. Averell Harriman, giám đốc Trusty Trust). Năm 1917 Alan Wardwell được liên kết với Stetson, Jennings 8c Russell và sau đó gia nhập Davis, Polk, Wardwell, Gardner & Read (Frank L. Polk đă làm bộ trưởng ngoại giao trong thời kỳ Cách mạng Bolshevik). Ủy ban Thượng viện Overman lưu ư rằng Wardwell rất thuận lợi cho chế độ Liên Xô mặc dù Poole, quan chức Bộ Ngoại giao ngay tại chỗ, lưu ư rằng "Thiếu tá Wardwell có tất cả người Mỹ hiểu biết cá nhân về khủng bố" (316-23-1449). Trong những năm 1920, Wardwell trở nên tích cực với Pḥng thương mại Nga-Mỹ để thúc đẩy các mục tiêu thương mại của Liên Xô.
Kho báu của nhiệm vụ là James W. Andrews, kiểm toán viên của Công ty Liggett & Myers Tobacco của St. Louis. Robert I. Barr, một thành viên khác, được liệt kê như là một phó ủy viên; Ông là phó chủ tịch của Chase Securities Company (120 Broadway) và của Ngân hàng Quốc gia Chase. Danh sách là phụ trách quảng cáo là William Cochran của 61 Broadway, New York City. Raymond Robins, một nhà hoạt động khai thác mỏ, được bổ nhiệm làm phó ủy viên và mô tả là "một nhà kinh tế học xă hội." Cuối cùng, sứ mệnh bao gồm hai thành viên của Swift & Company of Union Stockyards, Chicago. Swift đă được đề cập trước đó là liên quan đến gián điệp Đức tại Hoa Kỳ trong Thế chiến I. Harold H. Swift, phó ủy viên, là trợ lư cho phó chủ tịch của Swift & Company; William G. Nicholson cũng tham gia Swift &
Hai người đă được bổ sung không chính thức vào nhiệm vụ sau khi nó đến Petrograd: Frederick M. Corse, đại diện của Ngân hàng Thành phố Quốc gia ở Petrograd; Và Herbert A. Magnuson, người được John W. Finch, một nhân viên bí mật tại Trung Quốc của Đại tá William B. Thompson, nói. " 4
Các giấy tờ Pirnie, gửi tại Học viện Hoover, có chứa tài liệu chính về nhiệm vụ. Malcolm Pirnie là kỹ sư của công ty kỹ sư tư vấn Hazen, Whipple & Fuller của 42 Street, thành phố New York. Pirnie là một thành viên của sứ mệnh, được liệt kê trên một bản kê khai như một trợ lư kỹ sư vệ sinh. George C. Whipple, một đối tác trong công ty, cũng được đưa vào nhóm. Các giấy tờ Pirnie bao gồm một bức điện tín gốc của William B. Thompson, mời kỹ sư vệ sinh Pirnie đến gặp ông và ông Henry P. Davison, Chủ tịch Hội đồng Chiến tranh Chữ thập đỏ và là đối tác của công ty JP Morgan, trước khi rời Nga. Điện tín đọc như sau:
WESTERN UNION TELEGRAM New York, ngày 21 tháng 6 năm 1917
Để Malcolm Pirnie
Tôi rất muốn có bữa ăn tối với tôi tại Câu lạc bộ Metropolitan, Phố 16 và Thành phố Fifth Avenue ở New York vào 8 giờ tối ngày mai thứ sáu để gặp ông HP Davison.
WB Thompson, 14 Phố Wall
Các hồ sơ không minh hoạ cho thấy tại sao đối tác Morgan, ông Davison và Thompson, giám đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang - hai trong số những người tài chính nổi bật nhất ở New York - lại muốn ăn tối với một trợ lư kỹ sư vệ sinh về để rời Nga. Các tập tin cũng không giải thích lư do tại sao Davison sau đó không thể gặp được bác sĩ Billings và chính ủy ban, và cũng không cần phải tư vấn cho Pirnie về việc ông ta không có khả năng làm như vậy. Nhưng chúng tôi có thể phỏng đoán rằng sự đóng góp chính thức của sứ mệnh - hoạt động của Hội Chữ Thập Đỏ - ít quan tâm hơn đến các hoạt động của Thompson-Pirnie, dù họ có thể làm ǵ. Chúng ta biết rằng Davison đă viết cho Tiến sĩ Billings vào ngày 25 tháng 6 năm 1917:
Bác sĩ thân mến Billings:
Đó là một thất vọng đối với tôi và các cộng sự của tôi về Hội đồng Chiến tranh không thể có thể gặp trong một cơ thể các thành viên của Ủy ban của bạn ....
Một bức thư của bức thư này cũng đă được gửi tới trợ lư kỹ sư vệ sinh Pirnie với một bức thư cá nhân của chủ ngân hàng Henry P. Davison, người đọc:
Ông Pirnie yêu quư:
Bạn chắc chắn sẽ hiểu lư do của bức thư gửi bác sĩ Billings, bản sao của nó được đính kèm và chấp nhận nó theo tinh thần mà nó được gửi đi ....
Mục đích của lá thư Davison gửi cho bác sĩ Billings là phải xin lỗi ủy ban và Billings v́ không thể gặp họ. Sau đó chúng ta có thể được chứng minh là giả định rằng Davison và Pirnie đă có những thoả thuận sâu hơn về các hoạt động của sứ mệnh ở Nga và các thoả thuận này được biết đến với Thompson. Bản chất có thể xảy ra của các hoạt động này sẽ được mô tả sau. 5
Sứ mệnh Chữ thập đỏ của Hoa Kỳ (hoặc có lẽ chúng ta nên gọi nó là Phái đoàn Phố Wall đến Nga) cũng sử dụng ba thông dịch viên Nga-Anh: thuyền trưởng Ilovaisky, một Bolshevik Nga; Boris Reinstein, người Nga gốc Mỹ, thư kư sau này của Lenin, và người đứng đầu Văn pḥng Tuyên truyền Cách mạng Quốc tế của Karl Radek, cũng sử dụng John Reed và Albert Rhys Williams; Và Alexander Gumberg (tên thật là Berg, tên thật là Michael Gruzenberg), người anh trai của Zorin, một bộ trưởng Bolshevik. Gumberg cũng là đại lư chính của Bolshevik ở Scandinavia. Sau đó ông trở thành trợ lư bí mật cho Floyd Odlum của Tập đoàn Atlas tại Hoa Kỳ cũng như cố vấn cho Reeve Schley, phó chủ tịch Ngân hàng Chase.
Cần phải hỏi: Các bản dịch này được cung cấp bởi các phiên dịch như thế nào? Vào ngày 13 tháng 9 năm 1918, HA Doolittle, phó tổng lănh sự quán Hoa Kỳ ở Stockholm, đă báo cáo với thư kư của tiểu bang về cuộc tṛ chuyện với thuyền trưởng Ilovaisky (người là "bạn thân thân mật" của Đại tá Robins của Hội Chữ thập đỏ) liên quan đến một cuộc họp Murman Soviet và các đồng minh. Câu hỏi mời gọi đồng minh lên Murman đang được thảo luận tại Liên Xô với Thiếu tá Thacher của Nhiệm vụ Chữ thập đỏ cho các đồng minh. Ilovaisky giải thích quan điểm của Thacher đối với Liên Xô. "Ilovaisky đă nói một chút về tiếng Nga, được cho là dịch cho Thacher, nhưng thực tế cho Trotsky ...." với hiệu quả là "
Ilovaisky đă kể lại cho Maddin Summers, tổng lănh sự quán Hoa Kỳ tại Moscow, vài trường hợp mà ông (Ilovaisky) và Raymond Robins của Hội Chữ thập đỏ đă vận dụng báo chí Bolshevik, đặc biệt là " liên quan đến việc triệu hồi Đại sứ, ông Francis." Ông thừa nhận rằng họ đă không tinh khiết ", nhưng đă hành động theo ư kiến của họ về quyền, bất kể họ có thể mâu thuẫn với chính trị của các đại diện Hoa Kỳ được công nhận như thế nào." số 8
Đây là Hội Chữ thập Đỏ Hoa Kỳ tới Nga vào năm 1917.
AMERICAN RED CROSS MISSION TO
RUMANIA
Vào năm 1917, Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ cũng đă gửi một sứ mệnh hỗ trợ y tế cho Rumania, sau đó chiến đấu chống lại quyền lực Trung ương như là một đồng minh của Nga. So sánh Sứ mệnh Chữ thập đỏ Hoa Kỳ với Nga gửi đến Rumania cho thấy Sứ mệnh Chữ thập đỏ có trụ sở tại Petrograd có rất ít mối liên hệ chính thức với Hội Chữ Thập Đỏ và thậm chí c̣n ít kết nối với sự trợ giúp y tế. Trong khi sứ mệnh của Hội Chữ Thập Đỏ cho Rumania đă ủng hộ mạnh mẽ các nguyên tắc song phương của Hội chữ thập đỏ về "nhân loại" và "trung lập", Sứ mệnh Chữ thập đỏ ở Petrograd đă lạm dụng cả hai.
Sứ mệnh Chữ thập đỏ của Hoa Kỳ tới Rumania đă rời Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 1917 và đặt tại Jassy. Nhiệm vụ bao gồm ba mươi người dưới thời Chủ tịch Henry W. Anderson, luật sư từ Virginia. Trong số ba mươi, mười sáu là bác sĩ hoặc bác sĩ phẫu thuật. Để so sánh, trong số 29 người có Sứ mệnh Chữ thập đỏ tới Nga, chỉ có ba người là bác sĩ, mặc dù có bốn thành viên khác đến từ các trường đại học và chuyên về lĩnh vực liên quan đến y tế. Tối đa, 7 người có thể được phân loại là bác sĩ với sứ mệnh của Nga so với 16 người với nhiệm vụ tới Rumania. Đă có khoảng một số người có trật tự và y tá cùng với cả hai nhiệm vụ. Tuy nhiên, so sánh quan trọng là sứ mệnh Rumani chỉ có hai luật sư, một thủ quỹ và một kỹ sư. Phái đoàn Nga có mười lăm luật sư và doanh nhân. Không ai trong số các luật sư hoặc bác sĩ của Rumanian đến từ bất cứ đâu gần khu vực New York, nhưng tất cả, ngoại trừ một ("người quan sát" của Bộ Tư pháp ở Washington DC), các luật sư và doanh nhân có sứ mệnh của Nga đến từ khu vực đó . Có nghĩa là hơn một nửa tổng số sứ mệnh của Nga đến từ khu vực tài chính New York. Nói cách khác, thành phần tương đối của các sứ mệnh này xác nhận sứ mệnh của Rumania là nhằm mục đích hợp pháp - để thực hành y học - trong khi sứ mệnh của Nga có mục đích chính trị phi y tế và chính trị. Từ nhân viên của nó, nó có thể được phân loại là một sứ mệnh thương mại hoặc tài chính, nhưng từ hành động của nó, nó là một nhóm hành động chính trị bị đảo lộn. Có nghĩa là hơn một nửa tổng số sứ mệnh của Nga đến từ khu vực tài chính New York. Nói cách khác, thành phần tương đối của các sứ mệnh này xác nhận sứ mệnh của Rumania là nhằm mục đích hợp pháp - để thực hành y học - trong khi sứ mệnh của Nga có mục đích chính trị phi y tế và chính trị. Từ nhân viên của nó, nó có thể được phân loại là một sứ mệnh thương mại hoặc tài chính, nhưng từ hành động của nó, nó là một nhóm hành động chính trị bị đảo lộn. Có nghĩa là hơn một nửa tổng số sứ mệnh của Nga đến từ khu vực tài chính New York. Nói cách khác, thành phần tương đối của các sứ mệnh này xác nhận sứ mệnh của Rumania là nhằm mục đích hợp pháp - để thực hành y học - trong khi sứ mệnh của Nga có mục đích chính trị phi y tế và chính trị. Từ nhân viên của nó, nó có thể được phân loại là một sứ mệnh thương mại hoặc tài chính, nhưng từ hành động của nó, nó là một nhóm hành động chính trị bị đảo lộn.
NGƯỜI NHƯ VỚI CÁC SỨ MỆNH ĐIỂM M AM CỦA M AM M AM ĐẾN RUSSIA VÀ RUMANIA, 1917 |
||
AMERICAN RED CROSS |
||
Nhân viên |
Nga |
Tiếng Rumani |
Y khoa (bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật) |
7 |
16 |
Trật tự, y tá |
7 |
10 |
Luật sư và doanh nhân |
15 |
4 |
TOÀN BỘ |
29 |
30 |
Nguồn : Hội chữ thập đỏ Hoa Kỳ, Washington, DC Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Đại sứ quán Petrograd, Chữ thập đỏ, năm 1917. |
Sứ mệnh của Hội Chữ Thập Đỏ đến Rumania vẫn giữ vị trí của nó trong Jassy cho đến năm 1917 và năm 1918. Nhân viên y tế của Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ tại Nga - bảy bác sĩ - đă bỏ mặc ghê tởm vào tháng 8 năm 1917 phản đối các hoạt động chính trị của Đại tá Thompson và trở về Hoa Kỳ. Do đó, vào tháng 9 năm 1917, khi sứ mệnh Rumani yêu cầu Petrograd cho các bác sĩ và y tá người Mỹ giúp đỡ trong điều kiện khủng hoảng gần Jassy, không có bác sĩ hoặc y tá người Mỹ nào ở Nga có thể đến Rumania.
Trong khi phần lớn sứ mệnh ở Nga chiếm thời gian trong việc vận động chính trị nội bộ, sứ mệnh ở Rumania đă tự lao vào công việc cứu trợ ngay khi nó đến. Vào ngày 17 tháng 9 năm 1917, một đường cáp bí mật từ Henry W. Anderson, chủ tịch phái đoàn Rumania, cho đại sứ Mỹ Francis tại Petrograd yêu cầu trợ giúp ngay lập tức và khẩn cấp dưới h́nh thức 5 triệu đô la để đáp ứng một thảm hoạ sắp xảy ra ở Rumania. Sau đó theo dơi hàng loạt thư, cáp và thông tin liên lạc từ Anderson đến Francis hấp dẫn, không thành công, để được giúp đỡ.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 1917, Vopicka, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao người Rumania, đă gọi điện thoại cho Francis, và tiếp tục phân tích lại Anderson về khủng hoảng Rumani và nguy cơ dịch bệnh - và tệ hơn - vào mùa đông đóng cửa:
Những khoản tiền đáng kể và các biện pháp anh hùng cần thiết để ngăn chặn thiên tai khắc nghiệt .... Vô dụng cố gắng xử lư t́nh huống mà không có ai có thẩm quyền và tiếp cận chính phủ. . . Với tổ chức thích hợp để chăm sóc vận chuyển tiếp nhận và phân phối vật tư.
Valkka và Anderson đă bị ràng buộc bởi tất cả các nguồn cung cấp Rumani và các giao dịch tài chánh đă được Hội Chữ Thập Đỏ giải quyết tại Petrograd - và Thompson và các nhân viên của 15 luật sư Wall Street và các thương gia dường như có những vấn đề quan ngại hơn là Hội Chữ thập đỏ Rumani. Không có dấu hiệu ǵ trong các hồ sơ của Đại sứ quán Petrograd tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ rằng Thompson, Robins, hoặc Thacher lo ngại vào bất cứ lúc nào vào năm 1917 hoặc 1918 với t́nh huống khẩn cấp ở Rumania. Truyền thông từ Rumania đă đến Đại sứ Francis hoặc một nhân viên đại sứ của ông, và thỉnh thoảng thông qua Lănh sự quán tại Moscow.
Đến tháng 10 năm 1917 t́nh h́nh Rumani đă đạt đến điểm khủng hoảng. Violetka đă đóng băng Davison ở New York (thông qua Petrograd) vào ngày 5 tháng 10:
Hầu hết các vấn đề khẩn cấp ở đây .... Hiệu ứng tai hại sợ .... Bạn có thể sắp xếp các lô hàng đặc biệt .... Phải vội vàng hoặc quá muộn.
Sau đó, vào ngày 5 tháng 11 Anderson Anderson đă cho phép đại sứ quán Petrograd nói rằng sự chậm trễ trong việc gửi giúp đă "tốn kém vài ngàn mạng sống". Ngày 13 tháng 11 Anderson Đại sứ Francis cho biết Thompson thiếu quan tâm đến các điều kiện Rumani:
Thompson yêu cầu Thompson cung cấp chi tiết tất cả các lô hàng đă nhận được nhưng chưa thu được .... Cùng với yêu cầu ông giữ cho tôi đăng để điều kiện vận chuyển nhưng nhận được rất ít thông tin.
Anderson sau đó đă yêu cầu Đại sứ Francis thay mặt ông yêu cầu thay mặt ông để có quỹ cho Hội Chữ Thập Đỏ Ruman tại một tài khoản riêng ở London, trực tiếp dưới quyền của Anderson và không được kiểm soát nhiệm vụ của Thompson.
THOMPSON TRONG RUSSIA KERENSKY
Sứ mệnh Chữ thập đỏ sau đó đă làm ǵ? Thompson chắc chắn đă có được danh tiếng về cuộc sống sang trọng ở Petrograd, nhưng rơ ràng ông chỉ làm hai dự án lớn trong Kerensky's Russia: hỗ trợ cho một chương tŕnh tuyên truyền của Mỹ và hỗ trợ cho khoản vay Liberty Liberty của Nga. Ngay sau khi đến Nga, Thompson đă gặp bà Breshko-Breshkovskaya và David Soskice, thư kư của Kerensky và đồng ư đóng góp 2 triệu đô la cho một ủy ban giáo dục phổ thông để có thể "có báo chí riêng và ... thu hút đội ngũ giảng viên, Với h́nh minh họa điện ảnh "(861.00 / 1032); Đây là mục đích tuyên truyền nhằm thúc giục Nga tiếp tục cuộc chiến chống lại Đức. Theo Soskice, "một gói 50.000 rúp" đă được trao cho Breshko-Breshkovskaya với tuyên bố, " Cũng chuyển tải sự quan tâm của công ty Morgan về "sự khôn ngoan của việc đăng kư cá nhân thông qua ông Thompson" với khoản vay Liberty Liberty của Nga. Các khoản tiền này đă được chuyển qua chi nhánh Ngân hàng Quốc gia tại Petrograd. Cũng đă chuyển tải sự quan tâm của công ty Morgan về "sự khôn ngoan của việc đăng kư cá nhân thông qua ông Thompson" đối với Khoản vay Liberty Nga. Các khoản tiền này đă được chuyển qua chi nhánh Ngân hàng Quốc gia tại Petrograd.
THOMPSON CHO BOLSHEVIKS $ 1
triệu
Tuy nhiên, ư nghĩa lịch sử quan trọng hơn là sự trợ giúp của Bolsheviks trước tiên của Thompson, sau đó, sau ngày 4 tháng 12 năm 1917, bởi Raymond Robins.
Sự đóng góp của Thompson đối với nguyên nhân của Bolshevik đă được ghi lại trong báo chí Mỹ hiện đại. Báo Washington Post ngày 2/2/1918 đă đưa ra những đoạn văn sau đây:
CHO BOLSHEVIKI một triệu
WB Thompson, Nhà tài trợ Hội Chữ thập đỏ, tin rằng Đảng đă bị đại diện sai. New York, ngày 2 tháng 2 (năm 1918). William B. Thompson, người ở Petrograd từ tháng 7 đến tháng 11 năm ngoái, đă có một khoản đóng góp cá nhân trị giá 1.000.000 đô la cho Bolsheviki với mục đích truyền bá giáo lư của họ ở Đức và Áo.
Thompson đă có một cơ hội để nghiên cứu các điều kiện của Nga với tư cách là người đứng đầu Sứ Mệnh Chữ thập đỏ Hoa Kỳ, những chi phí của họ cũng bị khống chế bởi những đóng góp cá nhân của ông. Ông tin rằng Bolsheviki tạo thành sức mạnh lớn nhất đối với chủ nghĩa Pro-Germanism ở Nga và tuyên truyền của họ đă làm suy yếu các chế độ quân phiệt của các đế chế chung.
Ông Thompson đă bác bỏ những lời chỉ trích của người Mỹ về Bolsheviki. Ông tin rằng họ đă được tŕnh bày sai và đă có những đóng góp tài chính vào sự nghiệp với niềm tin rằng nó sẽ được tiền chi tiêu tốt cho tương lai của Nga cũng như cho các đồng minh nguyên nhân.
Tiểu sử William Boyce Thompson và Thời gian của ông (1869-1930) tái tạo lại một bức ảnh của một chương tŕnh truyền h́nh cáp từ JP Morgan ở New York tới WB Thompson, "Chăm sóc Chữ thập đỏ Hoa Kỳ, Khách sạn Châu Âu, Petrograd". Cáp được đóng dấu thời gian, cho thấy nó đă được nhận tại Petrograd "8-Dek 1917" (8 tháng 12 năm 1917), và đọc:
New York Y757 / 5 24W5 Không - Cáp thứ hai nhận được. Chúng tôi đă thanh toán Ngân hàng Quốc gia Ngân hàng một triệu đô la theo hướng dẫn - Morgan.
Ngân hàng Ngân hàng Quốc gia chi nhánh tại Petrograd đă được miễn trừ khỏi nghị định quốc gia của Bolshevik - ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng trong nước duy nhất của Nga đă được miễn thuế. Hagedorn cho biết, khoản tiền triệu đô la này được trả vào tài khoản của NCB Thompson đă được sử dụng cho "mục đích chính trị".
XUẤT S SOCC XUẤT S SOCC XUẤT NHẬP KHẨU RAYMOND ROBINS 9
William B. Thompson rời Nga vào đầu tháng 12 năm 1917 để trở về nhà. Ông đi qua London, nơi, cùng với Thomas Lamont của công ty JP Morgan, ông đă viếng thăm Thủ tướng Lloyd George, một tập phim chúng tôi tiếp nhận trong chương tiếp theo. Phó của ông, Raymond Robins, chịu trách nhiệm về Nhiệm vụ Chữ thập đỏ cho Nga. Cảm giác chung mà Đại tá Robins tŕnh bày trong những tháng sau đó đă không bị báo chí xem xét. Theo báo chí Nga Russkoe Slovo, Robins "một mặt đại diện cho lao động Mỹ, và mặt khác là thủ đô của Hoa Kỳ, đang nỗ lực thông qua việc Liên Xô giành được thị trường Nga." 10
Raymond Robins started life as the manager of a Florida phosphate company commissary. From this base he developed a kaolin deposit, then prospected Texas and the Indian territories in the late nineteenth century. Moving north to Alaska, Robins made a fortune in the Klondike gold rush. Then, for no observable reason, he switched to socialism and the reform movement. By 1912 he was an active member of Roosevelt's Progressive Party. He joined the 1917 American Red Cross Mission to Russia as a "social economist."
Có bằng chứng đáng kể, bao gồm các tuyên bố của chính Robins, rằng những lời kêu gọi cải cách xă hội tốt đẹp của ông chỉ có ư nghĩa hơn là giành lấy quyền lực và sự giàu có hơn, gợi nhớ tới những lời đề nghị của Frederick Howe trong Confessions of a Monopolist. Ví dụ, vào tháng 2 năm 1918 Arthur Bullard đă ở Petrograd với Uỷ ban Thông tin Công cộng Hoa Kỳ và viết một bản ghi nhớ dài cho Đại tá Edward House. Biên bản ghi nhớ này đă được Bullard trao cho Robins bởi những b́nh luận và phê b́nh trước khi chuyển đến Nhà ở Washington, các nhận định rất xă hội và đế quốc của DC Robins về hiệu quả mà bản thảo là "phân biệt kỳ quặc, nh́n xa và làm tốt" nhưng ông ta Đă có một hoặc hai đặt pḥng - đặc biệt, Sự thừa nhận của Bolsheviks là quá hạn, cần phải được thực hiện ngay lập tức, và rằng Hoa Kỳ đă công nhận Bolsheviks, "Tôi tin rằng chúng ta sẽ kiểm soát được nguồn tài nguyên dư thừa của Nga và có các viên chức kiểm soát ở tất cả các điểm Trên biên giới. " 11
Niềm mong muốn giành được "quyền kiểm soát các tài nguyên dư thừa của Nga" cũng rơ ràng đối với người Nga. Điều này nghe có vẻ như một nhà cải cách xă hội trong Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ hay một nhà hoạt động khai thác mỏ phố Wall tham gia vào việc thực hiện chủ nghĩa đế quốc?
Trong bất kỳ trường hợp nào, Robins không có xương về sự ủng hộ của ông đối với các Bolshevists. 12 Chỉ vài ba tuần sau khi giai đoạn Bolshevik của Cách mạng bắt đầu, Robins đă cho Henry Davison tại trụ sở Hội Chữ thập đỏ: "Xin thỉnh cầu Tổng thống về sự cần thiết phải tiếp tục quan hệ với Chính phủ Bolshevik." Thật thú vị, cáp này đă trả lời cho một đường dây hướng dẫn Robins rằng "Tổng thống mong muốn giữ lại các thông tin liên lạc trực tiếp bởi đại diện của Hoa Kỳ với Chính phủ Bolshevik." 13 Một số báo cáo của Bộ Ngoại giao phàn nàn về bản chất đảng phái của hoạt động của Robins. Ví dụ, vào ngày 27 tháng 3 năm 1919, Harris, lănh sự Mỹ tại Vladivostok, B́nh luận về một cuộc tṛ chuyện dài ông đă có với Robins và phản đối những sai sót thô sơ trong báo cáo của người thứ hai. Harris đă viết, "Robins nói với tôi rằng không có tù binh Đức và Áo đă tham gia vào quân đội Bolshevik vào tháng 5 năm 1918. Robbins biết tuyên bố này là hoàn toàn sai ." Harris sau đó đă cung cấp các chi tiết về bằng chứng cho Robins. 14
Giới hạn về Diện tích được kiểm soát bởi Bolsheviks, tháng 1 năm 1918
Harris kết luận, "Robbins đă cố ư nhầm lẫn các sự kiện liên quan đến Nga vào thời điểm đó và ông ấy đă làm việc đó từ đó."
Khi quay trở lại Hoa Kỳ vào năm 1918, Robins tiếp tục các nỗ lực của ḿnh thay cho các Bolsheviks. Khi các hồ sơ của Cục Liên Xô bị Ủy ban Lusk tịch thu, người ta nhận thấy rằng Robins đă có "sự tương ứng đáng kể" với Ludwig Martens và các thành viên khác của pḥng. Một trong những văn bản thú vị nhất bị thu giữ là một bức thư của Santeri Nuorteva (bí danh Alexander Nyberg), người đại diện đầu tiên của Liên Xô ở Mỹ, "đồng chí Cahan", biên tập viên tờ New York Daily Forward. Bức thư kêu gọi các tín hữu chuẩn bị đường cho Raymond Robins:
(Để hàng ngày) TRƯỚC 6 tháng 7 năm 1918
Kính thưa đồng hương Cahan:
Điều quan trọng nhất là báo chí Xă hội Chủ nghĩa lập tức kêu gọi rằng Đại tá Raymond Robins, người vừa trở về từ Nga ở đầu sứ mệnh Chữ thập đỏ, nên được nghe trong một bản báo cáo công khai cho người Mỹ. Nguy cơ can thiệp vũ trang đă tăng lên rất nhiều. Các nhà phản động đang sử dụng cuộc phiêu lưu Séc-Slovakia để gây ra cuộc xâm lược. Robins có tất cả sự thật về điều này và về t́nh h́nh ở Nga nói chung. Anh ấy có quan điểm của chúng tôi.
Tôi đính kèm bản sao của biên tập Cuộc gọi mà cho thấy một đường dây chung của đối số, cũng một số sự kiện về Czecho-Slovaks.
Trước đây,
PS & AU Santeri Nuorteva
Không biết đến các quản trị viên, Chữ thập đỏ đă được sử dụng theo thời gian như một chiếc xe hoặc trang trải cho các hoạt động cách mạng. Việc sử dụng các dấu hiệu Chữ thập đỏ cho các mục đích trái phép không phải là hiếm. Khi Tsar Nicholas bị chuyển từ Petrograd sang Tobolsk v́ lư do an toàn (mặc dù hướng này đang hướng tới nguy hiểm hơn là an toàn), đoàn tàu chở các tấm áp phích của Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản. Các hồ sơ của Bộ Ngoại giao bao gồm các ví dụ về hoạt động cách mạng dưới các hoạt động của Hội Chữ thập đỏ. Chẳng hạn, một viên chức Hội Chữ thập đỏ Nga (Chelgajnov) bị bắt ở Hà Lan vào năm 1919 v́ những hành động cách mạng (316-21-107). Trong cuộc cách mạng Bolshevik của Hungary năm 1918 do Bela Kun lănh đạo, các thành viên của Hội Chữ thập đỏ Nga (hoặc các nhà cách mạng hoạt động với tư cách là thành viên của Hội Chữ thập đỏ Nga) đă được t́m thấy ở Vienna và Budapest. Năm 1919 Hoa Kỳ Đại sứ ở Luân Đôn đưa tin về Washington giật ḿnh; Thông qua chính phủ Anh, ông đă học được rằng "một số người Mỹ đă đến nước này trong bộ Chữ thập đỏ và nói rằng họ là Bolsheviks ... đang tiến hành qua Pháp tới Thụy Sĩ để truyền bá tuyên truyền Bolshevik". Đại sứ lưu ư rằng khoảng 400 người Chữ thập đỏ Mỹ đă đến London vào tháng 11 và tháng 12 năm 1918; Của số đó một phần tư trở về Hoa Kỳ và "phần c̣n lại nhấn mạnh vào tiến tŕnh sang Pháp." Đă có một báo cáo sau đó vào ngày 15 tháng 1 năm 1918 với hiệu lực là một biên tập viên của một tờ báo lao động ở London đă được ba quan chức khác nhau của Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ tiếp cận trong ba lần khác nhau, những người đă đề nghị nhận hoa hồng cho Bolsheviks ở Đức. Người biên tập đă gợi ư với Hoa Kỳ Đại sứ quán mà nó theo dơi các nhân viên Chữ thập đỏ Hoa Kỳ. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă đưa ra những báo cáo này một cách nghiêm túc và Polk đă đặt tên cho các tên, nêu rơ: "Nếu đúng, tôi cho rằng nó có tầm quan trọng lớn nhất" (861.00 / 3602 và / 3627).
Tóm lại: h́nh ảnh chúng tôi h́nh thành vào năm 1917 của Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ cho Nga không phải là một trong những chủ nghĩa nhân đạo trung lập. Nhiệm vụ thực sự là một sứ mệnh của các nhà tài chính ở phố Wall để gây ảnh hưởng và mở đường cho sự kiểm soát, thông qua cả Kerensky hoặc các nhà cách mạng Bolshevik, về thị trường và nguồn lực của Nga. Không có lời giải thích nào khác sẽ giải thích hành động của sứ mệnh. Tuy nhiên, cả Thompson lẫn Robins đều là một Bolshevik. Thậm chí không phải là một nhà xă hội chủ nghĩa nhất quán. Người viết có khuynh hướng giải thích rằng những lời đề nghị của chủ nghĩa xă hội về mỗi người đều được che đậy cho những mục tiêu thô thiển hơn. Mỗi người đều có ư định quảng cáo; Có nghĩa là, mỗi người đều t́m cách sử dụng quá tŕnh chính trị ở Nga v́ mục đích tài chính cá nhân. Cho dù người Nga muốn Bolsheviks là không quan tâm. Cho dù chế độ Bolshevik có hành động chống lại Hoa Kỳ - như thường lệ đă làm sau đó - không đáng lo ngại. Mục tiêu áp đảo duy nhất là đạt được ảnh hưởng chính trị và kinh tế với chế độ mới, bất kể ư thức hệ của nó. Nếu William Boyce Thompson đă hành động một ḿnh, th́ giám đốc của Ngân hàng Dự trữ Liên bang sẽ không quan trọng. Tuy nhiên, thực tế là sứ mệnh của ông bị chi phối bởi các đại diện của các tổ chức ở phố Wall đă đặt ra một câu hỏi nghiêm túc, cho dù nhiệm vụ này là một hoạt động được lên kế hoạch và dự tính bởi một tổ hợp của Phố Wall. Điều này người đọc sẽ phải tự đánh giá chính ḿnh, như phần c̣n lại của câu chuyện mở ra. Nếu William Boyce Thompson đă hành động một ḿnh, th́ giám đốc của Ngân hàng Dự trữ Liên bang sẽ không quan trọng. Tuy nhiên, thực tế là sứ mệnh của ông bị chi phối bởi các đại diện của các tổ chức ở phố Wall đă đặt ra một câu hỏi nghiêm túc, cho dù nhiệm vụ này là một hoạt động được lên kế hoạch và dự tính bởi một tổ hợp của Phố Wall. Điều này người đọc sẽ phải tự đánh giá chính ḿnh, như phần c̣n lại của câu chuyện mở ra. Nếu William Boyce Thompson đă hành động một ḿnh, th́ giám đốc của Ngân hàng Dự trữ Liên bang sẽ không quan trọng. Tuy nhiên, thực tế là sứ mệnh của ông bị chi phối bởi các đại diện của các tổ chức ở phố Wall đă đặt ra một câu hỏi nghiêm túc, cho dù nhiệm vụ này là một hoạt động được lên kế hoạch và dự tính bởi một tổ hợp của Phố Wall. Điều này người đọc sẽ phải tự đánh giá chính ḿnh, như phần c̣n lại của câu chuyện mở ra.
Chú thích:
1 John Foster Dulles, Hội chữ thập đỏ Mỹ (New York: Harper, 1950).
2 Phút của Hội đồng Chiến tranh của Chữ thập đỏ quốc gia Hoa Kỳ (Washington, DC, tháng 5 năm 1917)
3 Gibbs Diary, ngày 9 tháng 8 năm 1917. Hiệp hội lịch sử bang Wisconsin.
4 Billings báo cáo với Henry P. Davison, ngày 22 tháng 10 năm 1917, Văn khố Chữ thập đỏ Hoa Kỳ.
5 Các giấy tờ Pirnie cũng cho phép chúng tôi xác định chính xác những ngày mà các thành viên của sứ mệnh rời khỏi Nga. Trong trường hợp của William B. Thompson, ngày này rất quan trọng đối với lập luận của cuốn sách này: Thompson đă rời khỏi Petrograd cho London vào ngày 4 tháng 12 năm 1917. George F. Kennan tuyên bố Thompson đă rời Petrograd vào ngày 27 Tháng Mười Một năm 1917 (Russia Leaves the War, Trang 1140).
6 Tệp thập phân của Tiểu bang Hoa Kỳ, 861.00 / 3644.
7 Ibid.
8 Nghĩa.
9 Robins là chính tả đúng. Tên này luôn được đánh vần là "Robbins" trong các tệp của Stale Department.
10 Tệp thập phân của Tiểu bang Hoa Kỳ, 316-11-1265, ngày 19 tháng 3 năm 1918.
11 Bullard ms., Tập tin thập phân của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, 316-11-1265.
12 The New World Review (Thu 1967, trang 40) b́nh luận về Robins, lưu ư rằng ông "trong sự thông cảm với các mục tiêu của Cách mạng, mặc dù một nhà tư bản"
13 Đại sứ quán Petrograd, tập Chữ thập đỏ.
14 Tệp thập phân của Tiểu bang Hoa Kỳ, 861.00 / 4168.
Kim Âu dịch
July 4/2017
Wall Street và Bolshevik 1 - Wall Street và Bolshevik 2 - Wall Street và Bolshevik 3 - Wall Street và Bolshevik 4
-
Collective Evolution Financed Lenin - Bolshevik Revolution
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence
of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử