* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng
trinh bui
23:47, 14 thg 9, 2019 (3 ngày trước)
Bạn hiền thân mến
Tết năm Mậu Thân Đà Lạt chìm trong khói
lửa… Việt Cọng chiếm giữ Khu Hòa Bình trong 2 ngày; còn Trại Hầm,
Địa Dư và Cây số 4 bị bỏ bom ngút trời.
Đến khi tình hình có vẻ yên ắng thì
tụi tao trở lại trường, lúc đó tao đang ngồi lớp Nhất B2 Trần Hưng
Đạo.
Vừa lúc trở lại trường
thì có lệnh tổng động viên…Một buổi sáng đẹp trời có hơn nửa lớp
đứng dậy xin phép thầy Hưởng cho đi khám sức khỏe nhập ngũ, đó là
mấy thằng sinh năm 1948 trở lên…
Còn tao và những thằng 1949 thì đợi tới
phiên năm sau… nhưng tụi tao không còn lòng dạ đâu mà ngồi học tiếp
trong khi bạn bè lần lượt ra đi vào nơi gió cát…Lúc đó tụi tao hoàn
toàn quên hẳn mày và tụi thằng Tâm vì cứ đinh ninh rằng tụi mày
không thể nào sống nổi với cái trại tù của bọn Cọng sản Bắc Việt.
Thế rồi tao cũng trở thành một ông
lính Việt Nam Cọng Hòa như ai, và tao chợt nghĩ tới mày khi tao ra
trường và về một trại Biệt kích CIDG.
Hai chữ Biệt kích khiến
tao chạnh nghĩ … thì ra mình cũng đâu có thua gì cái thằng “Sơn
Beatles”.
Nhưng những tháng ngày lăn lộn trong
cái trại Biệt kích đó chỉ để lại trong tao những kỷ niệm buồn, chẳng
có gì là hào hùng như người đời tưởng tượng. Chỉ có máu, chết chóc
và gian khổ… Tao nói để mày hiểu tại sao các bài viết của tao về lực
lượng Biệt kích CIDG luôn luôn có nhiều cay đắng.
May là qua năm 1971 thì giải tán Lực
lượng đặc biệt VNCH.
Tao giả từ cái trại Biệt
kích mà trong lòng cảm thấy giống như thoát ngục.
Bạn bè rủ tao qua Biệt
động quân Biên phòng để tiếp tục chỉ huy những biệt kích Thượng cải
tuyển.
Tao đang còn phân vân thì
báo chí đưa tin về trận Hạ Lào, mà trong đó tao thấy số phận của mấy
thằng Biệt động quân ở đồi 30, 31 cũng chẳng khác gì mấy cho nên tao
xin kiếu, tao chọn về Địa phương quân.
Giờ đây ngồi viết lại quân sử thì tao
chú ý ngay tới cái trận Hạ Lào định mệnh đó… Cái trận đã khiến tao
trở thành một ông lính Địa phương quân.
Tao gởi cho mày bài viết
về trận đó để mày thấy cái số kiếp của cái tụi Quân lực VNCH ở Miền
Nam cũng chẳng hơn gì tụi mày ở trại tù Miền Bắc..
http://quanvan.net/tu-chien-ha-lao/
BÙI ANH TRINH
TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971,
(1) TÌNH HÌNH
CHUNG
Những tính toán chiến lược
Hồi ký của tướng Westmoreland, Tư lệnh
quân đội Mỹ và đồng minh tại Việt Nam cho biết Nam Việt Nam có đường
biên giới phía Tây dài gần 1.500 cây số.
So với
tuyến phòng thủ của Nam Hàn thì
tại vĩ tuyến 38 chỉ có 200 cây số nhưng cần tới 1 triệu quân Hàn –
Mỹ, nên Westmoreland cho rằng muốn lập một tuyến phòng thủ dọc theo
biên giới phía Tây của Nam Việt Nam thì cần phải có nhiều triệu
quân.
Điều này không thể nào làm được.
Vì vậy Tướng Westmoreland mơ ước có một
tuyến phòng thủ chạy dọc theo phía Nam vĩ tuyến 17, từ bờ biễn Đông
Hà đến vùng Hạ Lào, cắt ngang con đường mòn HCM.
Tuyến phòng thủ này chỉ cần khoảng
1 quân đoàn ( 40.000 quân ).
Đến năm 1968 thì Westmoreland định
cho thi hành kế hoạch này nhưng trận Mậu Thân đã khiến Tổng thống
Johnson thụt lại vì ngại mang tiếng mở rộng chiến tranh, phá vỡ hòa
đàm.
Và rồi Westmoreland phải rời Việt Nam sau
trận Mậu Thân.
Kể từ lúc đó con tàu của nước Mỹ
quay sang hướng hòa đàm để rút quân về cho nên kế hoạch cắt đường
mòn HCM đành treo lại.
Cho đến tháng 7 năm 1969 Nixon
phát hiện ra vũ khí của Bắc Việt đã tuồn vào Nam bằng ngã
Sihanoukville.
Ông hỗ trợ cho Lon Nol lật đổ
Sihanouk vào tháng 4 năm 1970 và cho liên quân Việt – Mỹ tràn sang
Cam Bốt quét sách căn cứ địa của quân CSVN.
Quân VNCH tiến sang Cam Bốt như chẻ tre
khiến cho Tư lệnh quân Mỹ tại VN là tướng Abrams đã nhận xét về khả
năng chỉ huy hành quân của các sĩ quan cao cấp VNCH
như sau :
“Khi bàn về cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt
1970, Abrams tuyên bố với các sĩ quan tham mưu là Tướng Nguyễn Viết
Thanh soạn thảo và hành quân nhanh đến độ ông làm cho các đơn vị Hoa
Kỳ đang hành quân tham dự chung có cảm tưởng cánh quân của họ chậm
như những con voi” ( Nguyễn Kỳ Phong, Vũng Lầy của Bạch Ốc, ghi chú
trang 453, trích từ “Abrams Tapes” của Sorley ).
Ý Abrams muốn nói các sĩ quan Mỹ nên học
hỏi nơi các sĩ quan VN về kỹ năng chỉ huy hành quân.
Tuy nhiên các nhà phê bình chiến
lược của Mỹ lại không biết như vậy;
họ cho rằng cuộc hành quân sang
Cam Bốt là chiến thắng của quân đội Mỹ.
Và họ nghĩ đánh trận địa chiến với
cấp sư đoàn, quân đoàn thì đương nhiên quân Mỹ phải thắng dễ dàng.
Thậm chí có nhiều nhà báo đã mạnh
dạn hỏi Tướng Abrams rằng sao không tiến sang Lào để cắt đường mòn
HCM?
Lời bàn rõ như ban ngày của các ông thầy
dùi khiến cho Kissinger không thể để cho người ta nghĩ rằng
Washington chậm tay, ông xúi Nixon cho đánh sang Lào bằng quân Việt
Nam và máy bay Mỹ.
Các kế hoạch hành quân sang Lào có trước đó
:
Mới đầu, vào năm 1966 kế hoạch tấn công
sang Lào để khóa đường mòn HCM là sáng kiến của Tướng Kinnard, Tư
lệnh Sư đoàn 1 Không vận Mỹ.
Ông đã nêu ý kiến này với Tướng
Johson là Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ và được Johnson hết mình hỗ
trợ.
Sau đó Tướng Westmoreland, Tư lệnh
quân đội Đồng minh tại Việt Nam, nhờ Tướng Kinnard soạn thảo kế
hoạch chi tiết với sự trợ giúp của Đại tá Athur D.Simons, người đã
từng chỉ huy hoạt động tình báo của CIA tại Lào.
Kế hoạch của Kinnard (1967) : sử dụng 4 sư
đoàn ( khoảng 40.000 người )
Sư đoàn Dù 101 của Mỹ sẽ đổ xuống cao
nguyên Boloven thuộc vùng cực Nam của nước Lào, sau đó tiến theo
hướng Bắc để tới thành phố Savana, rồi tạt sang hướng Tây Bắc để đến
thành phố Savannakhet nằm bên bờ sông Mekong.
Savanakhet cũng là nơi cuối cùng
của Quốc lộ 9, chạy từ Quảng Trị tới sông Mekong, là biên giới
Thái-Lào.
Như vậy lộ trình hành quân của Sư
đoàn Dù Mỹ khoảng 270 cây số.
Trong khi đó Sư đoàn 3 TQLC/ Mỹ sẽ từ
Quảng Trị, theo Quốc lộ 9 tiến thẳng đến Tchépone là nơi Quốc lộ 9
gặp đường mòn HCM.
Sau đó SĐ3/TQLC/ Mỹ sẽ tiến đến
Savanakhet.
Lộ trình hành quân của Sư đoàn 3
TQLC cũng khoảng 270 cây số.
Sư đoàn 4 Bộ binh Mỹ từ Pleiku sẽ di
chuyển vế hướng Tây để gặp Liên tỉnh lộ 913 của Lào, rồi chuyển sang
hướng Bắc để đến thành
phố Tchépone và gặp Sư đoàn 1 Bộ
binh VNCH.
Rồi cả hai sư đoàn sẽ để lại một
bộ phận để trấn giữ Tchépone về lâu về dài.
Lộ trình hành quân khoảng
400 cây số.
Sư đoàn 1 Bộ Binh VNCH sẽ tiến từ A Shao
( Biên giới Việt Lào, phía Nam Quốc lộ 9 ) tiến theo hướng Tây Bắc
đến Tchepone để gặp Sư đoàn 4 Bộ binh Mỹ.
Lộ trình hành quân khoảng 150 cây
số.
Nhìn vào kế hoạch trên đây thì thấy Tướng
Kinnard và Westmoreland đặt giả định là quân CSVN trên đất Lào không
đáng kể
( Không có quân số cỡ sư đoàn,
thậm chí không tới cấp trung đoàn ).
Sư đoàn 101 ND và sư đoàn 3 TQLC
hành quân 270 cây số như đi diễn tập chứ không tính tới chuyện gặp
sự kháng cự của địch.
Khu vực di chuyển của 4 sư đoàn
tạo ra một vệt càn quét hầu như kiểm soát toàn bộ vùng Hạ Lào mà
không hế chú trọng tới mức kháng cự của địch tại khu vực hành quân.
Sở dĩ MACV đánh giá không có địch trong
khu vực hành quân bởi vì thuở đó các đơn vị trinh sát của Mỹ và VNCH
thường xuyên hoạt động ngày đêm trên đất Lào, hễ những toán này về
thì có những toán khác thay thế.
Ngoài ra các đơn vị Dân sự chiến
đấu của Lào do CIA chỉ huy và tài trợ đang làm chủ tình hình tại
vùng Hạ Lào.
Cho nên cuộc hành quân đặt trên
căn bản là quân CSVN chỉ tập trung cao lắm là cỡ tiểu đoàn cơ động
địa phương.( Mỗi tiểu đoàn khoảng 500 người ).
Kế hoạch được đại sứ Bunker chuyển về
Washington nhưng không được thi hành bởi vì theo Tướng Westmoreland
: “Tổng thống Johnson bị áp lực của các nhà phản chiến bao vây chặt
khiến ông không muốn có thêm hành động nào mới để khỏi bị cho là mở
rộng chiến cuộc như ông đã hứa với dân chúng…” ( Hồi ký
Westmoreland, bản dịch của Duy Nguyên trang 213).
Kế hoạch hành quân Elpaso 1 (1968) : Sử
dụng 3 sư đoàn ( khoảng 30.000 người )
Sau khi Tổng thống Johnson tuyên bố không
tái ứng cử vào cuối tháng 3 năm 1968, Tướng Westmoreland nghĩ rằng
người kế vị Johnson có thể chấp nhận tấn công sang Hạ Lào cho nên
ông chỉ thị cho Tướng Bruce Palmer thảo một kế hoạch tấn công khác
bởi vì kế hoạch trước khó thực hiện và tốn kém rất nhiều, nhất là
phải duy trì quân Mỹ trên đất Lào quá lâu.
Khi Tướng Palmer bắt đầu soạn kế hoạch
thì tình hình vùng Hạ Lào đã đổi khác.
Lúc đó quân đội Mỹ vừa tiêu diệt
xong 4 sư đoàn CSBV bao vây căn cứ Khe Sanh.
Tin tức của tình báo Lào ( Lực
lượng Dân sự chiến đấu của tướng Vàng Pao ) cho biết có 2 sư đoàn
CSBV vừa mới bị thương tổn sau trận Khe Sanh đã rút về Nam Lào.
Do đó Westmoreland quyết định dùng
3 sư đoàn Mỹ và 1 sư đoàn VNCH tấn công quân CSVN trong vùng Hạ Lào.
Kế hoạch hành quân của Tướng Palmer được
đặt tên là “Elpaso”:
Sử dụng 3 sư đoàn Mỹ, 1 sư đoàn
VNCH và với sự hỗ trợ của khoảng 1 sư đoàn Thái Lan và Lào.
Lực lượng Thái Lan và Lào sẽ trấn giữ và
hành quân càn quét trong khu vực cao nguyên Boloven.
Một sư đoàn Mỹ xuất phát từ Thái Lan vượt
biên giới sang Lào tại Savnakhet rồi theo Quốc lộ 9 tiến về hướng
Đông để đến Tchépone là nơi Quốc lộ 9 cắt đường mòn Hồ Chí Minh.
Hai sư đoàn Mỹ từ Khe Sanh tiến theo Quốc
lộ 9 tiến về huớng Tây đến Tchépone.
Một sư đoàn VNCH từ A Shao tiến theo hướng
Tây Bắc đến Tchépone.
Kế hoạch này nhằm mục đích dùng Tchepone
làm căn cứ tiền tiêu để kiểm soát ngăn chận quân Bắc Việt có thể
thâm nhập vào Nam bằng đường mòn HCM.
Nếu kế hoạch đó được thực hiện thì
cuộc chiến VN đã đổi khác bởi vì lúc đó Hà Nội đã kiệt quệ sau khi
dốc toàn lực cho trận Mậu Thân.
Kế hoạch hành quân Elpaso 2 (1968) : Sử
dụng 4 lữ đoàn ( khoảng 8.000 người )
Sau khi kế hoạch của Tướng Palmer vừa
soạn xong thì Westmoreland nhận được thông báo chuẩn bị rời khỏi
chức vụ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam.
Tuy nhiên vì nôn nóng muốn biết có
phải quả thực 4 sư đoàn CSVN bị đánh tan tại Khe Sanh hay không, ông
chỉ thị cho tướng Palmer soạn một kế hoạch hành quân khác, gọi là kế
hoạch Elpaso 2 nhưng chỉ sử dụng 4 lữ đoàn quân VNCH.
Hai lữ đoàn quân VNCH sẽ xuất phát từ Khe
Sanh, theo Quốc lộ 9 tiến về hướng Tây đến Tchépone ( Cách biên giới
Việt Lào 42 cây số . Mỗi Lữ Đoàn khoảng 2.000 người )
Hai lữ đoàn VNCH từ thung lũng A Shao tiến
theo hướng Tây Bắc để tới Tchépone.
Nhìn vào kế hoạch Elpaso 2 thì thấy Tướng
Palmer và Westmoreland đặt giả định rằng quân CSVN trên đất Lào là 2
sư đoàn bị thương tổn trong trận Khe Sanh vừa qua.
Cuộc hành quân chỉ có tính cách
thăm dò lực lượng địch chứ không có tính cách chiếm đóng như hai kế
hoạch trước.
Cuối cùng thì kế hoạch Elpaso 2 cũng
không thực hiện được vì ngay sau đó Westmoreland rời nhiệm sở tại
Việt Nam và Washington gặp Hà Nội tại Paris.
Cả 3 kế hoạch được xếp lại và lưu
trữ trong tủ hồ sơ của MACV.
2) HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Kế hoạch hành quân là do các nhà ngoại
giao
đề xướng
Năm 1970, ngày 27-9, Kissinger và Xuân
Thủy họp mật tại Paris.
Kissinger vờ đặt nhiều câu hỏi về
những yêu sách của Hà Nội nhưng kín đáo thăm dò phản ứng của Hà Nội
về một mưu toan bí mật mà ông đang sắp sửa tiến hành, đó là cuộc tấn
công sang Hạ Lào.
Năm 1970, ngày 28-9,
tại Sài Gòn.
Theo tài liệu của Đại sứ Bunker do
giáo sư Stephen Young phổ biến,
một phiên họp cao cấp gồm có Đại
sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam;
Đại sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan;
Đại sứ Hoa Kỳ tại Lào;
Đại sứ Hoa Kỳ tại Cam Bốt; Đô đốc
John McCain, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại khu vực Thái Bình Dương;
Tướng Abrams, Tư lệnh quân đội Hoa
Kỳ tại Việt Nam.
Cuộc họp nhằm mục đích nghiên cứu phương
cách ngăn chận quân CSVN sử dụng đường mòn HCM để vận chuyển vũ khí
vào Nam, thay thế cho tuyến vận chuyển qua cảng Sihanoukville, nhằm
giúp cho Miền Nam được giữ vững sau khi quân đội Mỹ rút về nước.
Sau khi cuộc họp kết thúc, Bunker gởi báo
cáo cho Washington rằng hội nghị kết luận muốn cắt đường mòn Hồ Chí
Minh thì phải dùng lực lượng quân sự của VNCH đánh sang Hạ Lào tại
khu vực Tchépone, là giao điểm giữa đường mòn HCM ( tức là Đường số
93 của Lào ) và Quốc lộ 9 ( Quốc lộ 9 chạy từ bờ biển Quảng Trị tới
Sông Mekong là biên giới Lào và Thái Lan ).
Trước đây kế hoạch tương tự đã
được Tướng Westmoreland soạn thảo và sau đó Bunker đã chuyển về
Washington vào tháng 6 năm 1967.
*Chú giải :
Sau này các nhà nghiên cứu quân sử
rất ngạc nhiên khi được biết cuộc hành quân lớn nhất trong chiến
tranh Việt Nam lại là do các nhà ngoại giao đề xướng.
Tuy nhiên tài liệu lưu trữ của Đại
sứ Bunker cho biết sự thật là :
“Hoa Thịnh Đốn đã yêu cầu Buker
thực hiện phiên họp ấy…” ( Tài liệu của Bunker ).
Có nghĩa là Nixon và Kissinger dàn
cảnh để Đô đốc McCain và Tướng Abram tin rằng ý tưởng tần công qua
Hạ Lào là sáng kiến của các Đại sứ chứ không phải của Nixon.
Nhưng có một điều khó hiểu là hồi ký của
Nixon và hồi ký của Kissinger chớ hề đá động tới tác phẩm quân sự
độc đáo của hai ông.
Thậm chí trong hồi ký “The White
House Years” xuất bản năm 1979 Kissinger phủ nhận tin ông ta là tác
giả của lệnh hành quân sang Lào.
Ngay từ ngày đó, 1971, báo chí Mỹ và báo
chí Việt Nam đua nhau tìm xem ai là tác giả của lệnh hành quân sang
Lào nhưng cả hai phía Mỹ ( MACV ) và Việt ( BTTM ) đều từ chối xác
nhận lệnh hành quân đó từ đâu ra.
Và rồi đến năm 1989 thì cuốn sách “Lam
Son 719” của Tướng Nguyễn Duy Hinh ra đời.
Người ta vô cùng ngạc nhiên khi
phát giác ra đây là trận đánh vĩ đại nhất trong chiến tranh Việt
Nam;
mà kết quả chiến thắng của quân
VNCH gấp 3 lần kết quả chiến thắng tại Cam Bốt…!!
Điều gì bí ẩn bên trong cuộc hành quân
này khiến cho một cuộc chiến thắng được báo chí Mỹ trình diễn như
một cuộc chiến bại ?
Và mãi về sau này vẫn không ai dám
vỗ ngực khoe rằng mình là tác giả của cuộc hành quân lịch sử đó ?
Cho đến năm 1994, Chánh văn phòng của
Nixon là H.R Haldeman đã cho ra đời cuốn sách “The Haldeman Diaries”
mà trong đó có những chi tiết xác nhận Kissinger tham gia chỉ đạo kế
hoạch hành quân sang Lào.
Và cũng trong năm 1994 Tướng
Alexander Haig, phụ tá quân sự của Kissinger, cho ra đời cuốn “Inner
Circles” xác nhận Kissinger là người hoạch định kế hoạch từ đầu.
Tại sao Kissinger lại giấu một chiến thắng
vĩ đại mà chính ông ta là tác giả… ???…
Người viết ra tập tài liệu này, Bùi Anh
Trinh, đã muốn phát bệnh khi ngồi viết lại từng ngày từng giờ của
trận đánh khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam;
mà cuối cùng là một phát hiện vô
cùng đau xót…! Tập tài liệu “Tử chiến Hạ Lào” đã viết xong từ năm
2010 nhưng đành phải treo lại cho đến nay bởi vì lúc đó “tình thế
chưa cho phép”.
Cuộc hành quân được sửa soạn như thế nào ?
Năm 1970, ngày 6-11, Bộ Tư lệnh quân đội
Hoa Kỳ tại vùng Thái Bình Dương ( Đô đốc McCain ) chỉ thị Bộ tư lệnh
quân đội Mỹ tại Việt Nam ( Tướng Abrams ) soạn thảo một lệnh hành
quân đánh sang Hạ Lào, lực lượng tham dự hành quân là 3 sư đoàn của
quân đội VNCH, dưới sự yểm trợ hỏa lực của phi cơ chiến đấu Mỹ. Và
pháo binh Mỹ từ bên trong nội địa Việt Nam
yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị
VNCH hành quân trong vùng cách biên giới dưới 15 cây số.
Ngoài ra không quân Mỹ bao giàn toàn bộ
phi cơ trực thăng để chuyển quân, tiếp tế và tản thương trên đất
Lào.
Cuộc hành quân dự trù kéo dài
trong 3 tháng.
*Ngày 7-11, Tướng Abrams và đại sứ Bunker
đến gặp Tổng thống Thiệu và trình bày trong 80 phút về kế hoạch đánh
sang Lào.
Tổng thống Thiệu đồng ý tiến hành
kế hoạch.
*Ngày 8-11, Ban tham mưu Liên quân Mỹ gởi
công điện cho Tướng Abrams, xác nhận lại các chi tiết của cuộc hành
quân sang Lào : Hành quân dọc theo Quốc lộ 9, Mỹ yểm trợ pháo binh
và phi cơ, đồng thời mở một cuộc tấn công khác sang Cam Bốt.
Năm 1970, ngày 21 và 22 -11, tại miền Bắc
Việt Nam.
Phi cơ Mỹ tăng cường ném bom tại
Bắc Việt trên 200 phi vụ một ngày.
Và đêm 21 rạng 22-1, một đoàn 5
máy bay trực thăng Mỹ chở 56 biệt kích từ Thái Lan đáp xuống một
trại tù binh Mỹ tại tỉnh Sơn Tây, cách Hà Nội 50 cây số.
Cuộc đột kích giải cứu tù binh hất
bại vì trại tù không có người.
*Ngày 1-12, Tướng Abrams gặp Tướng Cao Văn
Viên để bàn về kế hoạch đánh sang Lào.
Ngày 15-12.
Thủ tướng Lào công bố cho báo chí
rằng Vương Quốc Lào phản đối việc quân đội VNCH hành quân trên đất
Lào.
[ Đánh động trước cho Hà Nội ]
*Trung tuần tháng 12, Tướng Haig, phụ tá
của Kissinger, đến Sài Gòn để thảo luận với Tổng thống Thiệu, tướng
Abrams và đại sứ Bunker.
Năm 1970, ngày 15-12, Cố vấn An ninh Quốc
gia Kissinger nói sơ qua cho Tham mưu trưởng Tòa Bạch Ốc Haldeman về
kế hoạch tấn công qua Lào của quân đội VNCH.
*Ngày 22-12, Kissinger hẹn gặp Bộ trưởng
Quốc Phòng Laird và Tham mưu trưởng Liên quân Moorer tại Tòa Bạch Ốc
để cùng bàn với Tổng thống về kế hoạch tấn công sang Lào.
*Ngày 26-12, vào dịp Noel, đoàn CSVN tại
Paris trao danh sách các phi công Mỹ bị bắt ở miền Bắc cho một số
Thượng nghị sĩ Mỹ chống chiến tranh.
Nghĩa là Hà Nội bỏ qua vụ Sơn Tây
và thúc đẩy hòa đàm, tỏ thái độ thành tâm muốn xuống thang chiến
tranh.
Năm 1971, đầu tháng 1, Kisisger bắn tiếng
cho Hà Nội qua Đại sứ Liên Xô tại Washington : “Mỹ thuận không bắt
buộc Bắc Việt phải rút quân song song với Mỹ.
Nhưng Mỹ đòi hỏi khi Mỹ đơn phương
rút quân thì Hà Nội phải ngưng tấn công Miền Nam cho đến khi quân Mỹ
đã rút hết. ( Lưu Văn Lợi ).
Năm 1971, ngày 11-1, Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Melvin Laird và Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ là Đô đốc Moorer đến
Sài Gòn để bàn với Tổng thống Thiệu về kế hoạch đánh sang Lào.
*Ngày 18-1, Một buổi họp tại Tòa Bạch Ốc để
quyết định về các chi tiết hành quân, gồm có Tổng thống Nixon, Bộ
trưởng Ngoại giao Rogers, Bộ trưởng Quốc phòng Laird, Tham mưu
trưởng Liên quân Moorer, Giám đốc CIA Richard Helm, Cố vấn Kissinger
và phụ tá của ông ta là Chuẩn tướng Haig.
Trong buổi họp Ngoại trưởng Rogers phản
đối kế hoạch bởi vì theo ông lực lượng tấn công của VNCH quá ít.
Ông nhắc lại kế hoạch đó của
Westmoreland có 4 sư đoàn với quân số gần 60 ngàn quân, trong khi
cuộc hành quân này quân của VNCH chỉ có hơn 2 sư đoàn ( Sư đoàn 1 bộ
binh, 3 lữ đoàn Dù và 2 tiểu đoàn Biệt Động Quân ) với 20 ngàn quân
thì quá ít.
Tuy nhiên Tổng thống Nixon bác bỏ
lời phản đối của Rogers.
*Ngày 22-1, Với sự cố vấn của Đại sứ Mỹ
tại Lào là McMurtrie Godley , Thủ tướng Lào Suvana Phouma tuyên bố
với báo chí rằng ông phản đối quân Việt Nam hành quân trên đất Lào,
rồi chỉ trích sự hiện diện của quân CSVN trên đất Lào.
Cuối cùng ông hy vọng quân VNCH sẽ
rời khỏi lãnh thổ Lào trong 1, 2 tuần. ( Tài liệu lưu trữ của Bunker
do Stephen Young phổ biến ).
*[ Kissinger xúi Thủ tướng Lào lên tiếng
là nhằm đánh động trước cho Hà Nội hay rằng quân VNCH sẽ đánh sang
Lào.
Cuộc hành quân bị lộ ngay từ lúc
này, nhưng không phải do sơ ý, mà là do chủ ý của Kissinger ]
Năm 1971, ngày 27-1, Tổng thống Nixon họp
Ban tham mưu của Tòa Bạch Ốc, chỉ thị tiến hành giai đoạn 1 của kế
hoạch hành quân Lam Sơn 719, tức là quân đội Hoa Kỳ hành quân từ
Đông Hà, Quảng Trị, theo Quốc lộ 9 tái chiếm căn cứ Khe Sanh và các
tiền đồn pháo binh sát biên giới Lào.
*Ngày 4-2, Tổng thống Nixon ra lệnh tiến
hành giai đoạn 2 của cuộc hành quân Lam Sơn 719, tức là quân VNCH
vượt biên sang Lào.
Chú giải : Như vậy cuộc hành quân hoàn
toàn do phía Mỹ chủ động.
Đặc biệt người viết kịch bản và
đạo diễn là các chính trị gia chứ không phải là các nhà quân sự.
Ngũ Giác Đài và Bộ TTM/VNCH chỉ có
nhiệm vụ dựng cảnh và cung cấp diễn viên.
Tại sao một lệnh hành quân điều động tới
3 sư đoàn Việt Nam ( 30 ngàn người ) vượt qua biên giới Lào lại do
một luật sư ( Nixon ) và một giáo sư ( Kissinger ) thiết kế … !? Và
tại sao Đại sứ Mỹ tại Vạn Tượng
lại xúi Thủ tướng Lào tiết lộ
trước ..??…Xin đón đọc những hồi sau sẽ rõ.
(3)
LỆNH HÀNH QUÂN
*( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ẩn của
Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Kế hoạch hành quân chi tiết ( Lệnh hành
quân ) do Tư lệnh Quân Khu 1 Hoàng Xuân Lãm và Tư lệnh Quân đoàn 24
Mỹ cùng soạn thảo. ( Theo sách “Lam Son 719” của Tướng Nguyễn Duy
Hinh.
Tướng Hinh căn cứ theo nhật ký
hành quân còn lưu tại Ngũ Giác Đài ).
*[ “Lệnh hành quân” là kế hoạch điều phối
các cánh quân được viết thành văn bản.
Bất cứ một lệnh hành quân nào cũng
có 4 mục căn bản là : (1) Tình hình, gồm tình hình địch và ta ( 2)
Quan niệm điều quân (3) Thi hành, gồm phân chia nhiệm vụ và trường
hợp dự phòng có biến chuyển (4) Chỉ huy và yểm trợ tiếp vận ].
Tình hình địch :
Theo tin của tình báo Lào ( Lực lượng Vàng
Pao ) và của không ảnh thì quân CSVN tại khu vực quanh Tchepone có
khoảng 22 ngàn người. Gồm có 10.000 quân sản xuất và tiếp vận tại
các binh trạm của tuyến đường mòn HCM, 7.000 quân chiến đấu và 5.000
quân Cọng sản Lào.
Tại khu vực Bắc vĩ tuyến 17 có 2 sư đoàn Bộ
binh của Bắc Việt ( khoảng 20.000 người ), hai sư đoàn này có thể
tham chiến tại Tchephone sau 14 ngày di chuyển ( vừa đi xe vừa lội
bộ ).
Quan niệm điều quân :
Theo tính toán của Ban tham mưu Liên quân
Mỹ ( Ngũ Giác Đài ) thì Bộ tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam sẽ sử
dụng 1 sư đoàn Mỹ ( khoảng 10.000 người ) tấn chiếm các mục tiêu
quân sự trên đất VNCH, vùng biên giới Việt Lào, ngang khu vực Khe
Sanh.
Sau đó 1 sư đoàn Bộ binh VNCH ( khoảng
10.000 người ) , 1 sư đoàn Dù VNCH ( khoảng 8.000 người ), 1 Liên
đoàn BĐQ ( khoảng 2.000 người ) và 1 lữ đoàn thiết giáp VNCH ( 200
xe tăng ) tấn chiếm mục tiêu là thị trấn Tchepone của Lào, nằm trên
Quốc lộ 9, cách biên giới 30 cây số.
Trong khi đó 2 lữ đoàn Thủy quân
lục chiến VNCH sẽ nằm trừ bị tại Khe Sanh.
Hướng tiến quân được chia thành 2 cánh song
song với hai khu vực riêng biệt :
Khu vực trên Quốc lộ 9, tức là phía Bắc
sông Tchepone sẽ do Sư đoàn Dù và Lữ đoàn 1 Thiết kỵ đảm trách.
Liên đoàn 1 BĐQ đảm trách án ngữ
phía Bắc khu vực hành quân,
trên Liên tỉnh lộ 92 của Lào nhằm
ngăn chận quân tiếp viện của Bắc Việt đến từ phía Bắc .
Khu vực phía Nam sông Tchepone do Sư đoàn 1
Bộ binh sẽ tiến song song với cánh quân tiến trên Quốc lộ 9 và sẽ
đến mục tiêu là khu vực phía Nam thị trấn Tchepone.
Không lực 7 Mỹ và pháo binh của Quân đoàn
24 Mỹ sẽ yểm trợ hỏa lực cho toàn vùng hành quân ( pháo binh Mỹ đặt
trên đất VNCH nên chỉ yểm trợ cho những đơn vị VNCH hoạt động trên
đất Lào cách biên giới dưới 15 cây số ).
Không lực 7 Mỹ và Sư đoàn 1 Không
vận Mỹ cung cấp phi cơ trực thăng đổ quân, tiếp tế và tản thương cho
các cánh quân VNCH trên đất Lào.
Các đơn vị hành quân VNCH đặt dưới sự
điều động trực tiếp bởi Tư lệnh Quân đoàn 1 VNCH, Tướng Hoàng Xuân
Lãm.
Và các đơn vị yểm trợ Mỹ đặt dưới
sự chỉ huy trực tiếp của Tư lệnh Quân đoàn 24 Mỹ, Tướng James
W.Sutherland.
Cả hai được đặt dưới sự chỉ huy
tổng quát của Tướng Abrams, tư lệnh MACV ( Tư lệnh quân đội Đồng
Minh tại Việt Nam ).
Nhằm phân tán sự tập trung đối phó của Hà
Nội, quân đội VNCH cũng mở một cuộc tấn công sang đất Cam Bốt với
19.000 quân. Khởi diễn cùng một thời gian với cuộc hành quân sang
Lào.
Phân chia nhiệm vụ :
Cuộc hành quân được chia thành 3 giai đoạn
:
*Giai đoạn 1 chuẩn bị :
Từ 1-2-1971 đến 8-2-1971, Sư đoàn 101 Dù
Hoa Kỳ ( thuộc Lục quân Mỹ, có tới 16.000 người ) sẽ hành quân từ
Đông Hà ( duyên hải tỉnh Quảng Trị ), theo Quốc lộ 9 tái chiếm căn
cứ Khe Sanh ( Bỏ hoang từ 1968 ) và các tiền đồn Pháo binh dọc Biên
giới Việt Lào ngang khu vực Quốc lộ 9.
Các tiểu đoàn pháo binh 155 ly và
175 ly của Quân đoàn 24 HK thiết lập các căn cứ pháo binh dọc theo
biên giới để sẳn sàng yểm trợ cho các cánh quân hoạt động trên đất
Lào.
Cũng trong thời gian này, Bộ chỉ huy Liên
đoàn 21 Biệt động quân VNCH ( 450 người ) cùng với 1 tiểu đoàn trực
thuộc ( 500 người ) sẽ tái chiếm căn cứ pháo binh Phú Lộc ( bỏ hoang
từ 1968 ), cách biên giới 2 cây số trên đất VNCH để chỉ huy và yểm
trợ cho 2 tiểu đoàn BĐQ khác của liên đoàn sẽ hoạt động trên đất
Lào.
Tại căn cứ Phú Lộc có 1 đại đội
pháo binh 155 ly ( 6 khẩu ) của Quân đoàn 1 VNCH.
*Giai đoạn 2 tấn chiếm và lục soát :
Giai đoạn 2.a : Tấn chiếm khu vực từ biên
giới đến A Lưới
1 Bộ chỉ huy lữ đoàn Dù ( 400 người ) và
1 tiểu đoàn trực thuộc ( 550 người ) sẽ được trực thăng đổ xuống 1
cao điểm nằm trên Quốc lộ 9, được đặt tên là A Lưới ( Tên địa phương
là Bản Đôn ), cách biên giới 12 cây số về hướng Tây.
Tại đây sẽ thiết lập 1 căn cứ pháo
binh gồm 1 tiểu đoàn pháo binh Dù ( 18 khẩu đại bác ), dùng để yểm
trợ cho các đơn vị hoạt động từ biên giới đến gần Tchepone.
1 Lữ đoàn Thiết giáp VNCH và 2 tiểu đoàn Dù
( 1.100 người ) xuất phát từ Lao Bảo, biên giới Lào Việt, tiến theo
Quốc lộ 9 đến A Lưới. ( Bản Đôn ).
1 Bộ chỉ huy lữ đoàn Dù ( 400 người ) và
1 tiểu đoàn trực thuộc ( 550 người ) sẽ được trực thăng đổ xuống một
cao điểm được đặt tên là Đồi 31, cách Quốc lộ 9 năm cây số về hướng
Bắc và cách biên giới 11 cây số về hướng Tây.
Tại đây thiết lập một căn cứ hỏa
lực gồm 1 tiểu đoàn pháo binh Dù VNCH ( 18 khẩu đại bác ) và một đại
đội pháo binh 155 ly của Quân đoàn 2 VNCH ( 6 khẩu đại bác ), dùng
để yểm trợ cho các đơn vị hoạt động tại Tchepone và phía Bắc
Tchepone.
1 tiểu đoàn Dù ( 550 người ) sẽ đổ xuống
một cao điểm được đặt tên là đồi 30, cách Quốc lộ 9 năm cây số về
hướng Bắc và cách biên giới 5 cây số về hướng Tây.
Tại đây thiết lập một căn cứ pháo
binh gồm 1 tiểu đoàn pháo binh Dù để yểm trợ cho các cánh quân hoạt
động phía Bắc Quốc lộ 9, giữa biên giới và căn cứ Đồi 31.
1 tiểu đoàn Bộ binh VNCH ( 500 người ) đổ
xuống một cao điểm được đặt tên là Delta, cách Quốc lộ 9 ba cây số
về hướng Nam và cách biên giới 8 cây số về hướng Tây để yểm trợ cho
các cánh quân hoạt động vùng phía Nam Quốc lộ 9.
1 tiểu đoàn BĐQ/VNCH ( 500 người )
sẽ đổ xuống một cao điểm được đặt
tên là Ranger North, cách Quốc lộ 9 mười cây số về hướng Bắc và cách
biên giới 4 cây số về hướng Tây để thiết lập căn cứ hoạt động án ngữ
phía Bắc khu vực hành quân, đề phòng quân Bắc Việt tấn công từ phía
Bắc, trên đất Lào.
1 tiểu đoàn BĐQ/VNCH ( 500 người ) sẽ đổ
xuống một cao điểm được đặt tên là Ranger South, cách Quốc lộ 9 bảy
cây số về hướng Bắc và cách biên giới 6 cây số về hướng Tây để thiết
lập căn cứ hoạt động án ngữ phía Bắc khu vực hành quân.
Cùng trong thời gian này, 1 Sư đoàn Bộ binh
VNCH ( 10.000 người ) sẽ tiến bằng đường bộ, xuất phát từ thung lũng
A Shao ( biên giới Lào Việt, cách Quốc lộ 9 ba mươi cây số về hướng
Nam, ngang với quân Khâm Đức của tỉnh Quảng Nam ) dùng liên tỉnh lộ
914 của Lào, tiến theo hướng Tây Bắc để đến Căn cứ Delta, thuộc khu
vực phía Nam Quốc lộ 9 ngang với căn cứ A lưới ( Quốc lộ 9 chạy song
song với sông Tchepone trên bờ phía Bắc sông Tchephone, Delta là
điểm dừng quân của sư đoàn Bộ binh thuộc phía nam sông Tchepone ).
Từ điểm dừng quân này sư đoàn Bộ binh tiếp
tục di chuyển theo hướng Tây, song song với sông Tchepone trên bờ
phía Nam để đến khu vực phía Nam thị trấn Tchepone, giáp với đường
mòn HCM.
Giai đoạn 2.a dự trù hoàn tất trong 1 tuần
lễ.
Giai đoạn 2.b : Tấn chiếm khu vực từ A Lưới
đến Tchepone.
1 Tiểu đoàn Dù ( 550 người ) phối hợp với
Lữ đoàn Thiết kỵ từ Căn cứ A Lưới tiến theo Quốc lộ 9 đến Tchephone.
2 Tiểu đoàn Dù ( 1.100 người ) sẽ được đổ
xuống chiếm lĩnh thị trấn Tchephone trước khi đoàn Thiết kỵ tới nơi.
2 Trung đoàn Bộ binh ( 5.000 người ) tiến
theo đường bộ phía Nam sông Tchepone để đến Khu vực phía Nam thị
trấn Tchepone.
Giai đoạn 2.b dự trù hoàn tất trong vòng 1
tuần lễ.
Giai đoạn 2.c : Lục soát.
Sau khi quân Dù và Thiết Kỵ đã chiếm đóng
Chépone, các cánh quân phối hợp Dù và Thiết kỵ sẽ bung ra lục soát
khu vực quanh Tchepone.
Sư đoàn Bộ binh VNCH sẽ lục soát khu vực
đường mòn HCM, phía Nam Tchepone.
Thời gian lục soát dự trù trong 2 tháng.
*Giai đoạn 3 rút lui :
Kế hoạch rút lui 1 :
2 Lữ đoàn TQLC/VNCH ( 5.000 người
) vào vùng hành quân, hoạt động khu vực hai bên Quốc lộ 9 để bảo vệ
cho các cánh quân rút khỏi khu vực hành quân.
Trong khi đó Lữ đoàn Thiết giáp và
Lữ đoàn Dù từ Tchepone sẽ rút theo Quốc lộ 9 về A Lưới.
Rồi
từ A Lưới nhập vào vùng hành quân của Sư đoàn Bộ binh VNCH để rút
lui về hướng Tây Nam, lục soát khu vực thung lũng A Shao.
Kế hoạch rút lui 2 :
Nếu tình hình có biến đổi vào giờ
chót thì lữ đoàn Dù và lữ đoàn Thiết Giáp từ A Lưới cứ theo Quốc lộ
9 về Lao Bảo và vào Việt Nam.
Giai đoạn 3 dự trù hoàn tất trong vòng 1
tuần lễ.
Chỉ huy và yểm trợ tiếp vận :
Không lực 7 Mỹ yểm trợ hỏa lực (thả bom)
cho toàn khu vực hành quân, đồng thời yểm trợ 200 máy bay trực thăng
để đổ quân và tiếp tế cho các đơn vị hành quân.
Sư đoàn 101 Không vận Mỹ yểm trợ 400 máy
bay trực thăng để đổ quân và tiếp tế cho các cánh quân hoạt động
trên đất Lào.
8 tiểu đoàn pháo binh Mỹ (144 khẩu pháo)
thuộc Quân đoàn 24 Mỹ yểm trợ pháo binh cho các cánh quân Việt Nam
trên đất Lào và các cánh quân Mỹ trong nội địa vùng Khe Sanh.
Tướng Abrams, Tư lệnh MACV, chỉ huy tổng
quát cuộc hành quân, Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1 VNCH,
chỉ huy lực lượng quân đội VNCH ( trên đất Lào ).
Tướng Sutherland, Tư lệnh Quân
đoàn 24 Mỹ, chỉ huy lực lượng quân đội Mỹ ( trên đất VN ).
Tướng Lãm chỉ huy Bộ binh trong khu vực
hành quân trên đất Lào.
Tướng Sutherland chỉ huy các đơn
vị Bộ binh và tiếp vận trong khu vực nội địa và chỉ huy Không quân
trên đất Lào.
Ngày N, khởi sự hành quân, là ngày
1-2-1971.
(4) BỐ TRÍ QUÂN CSVN TẠI HẠ LÀO
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Ngũ Giác Đài đã chuyển tin tình báo cho
tướng Hoàng Xuân Lãm rằng quân CSVN tại khu vực quanh Tchepone có
khoảng 22 ngàn người. Gồm có 10.000 quân sản xuất và tiếp vận tại
các binh trạm của tuyến đường mòn HCM, 7.000 quân chiến đấu và 5.000
quân Cọng sản Lào.
Tuy nhiên đây chỉ là tin bịp nhằm đánh
lừa quân VNCH mạnh dạn tiến vào đất địch.
Sự thực lúc đó quân CSVN tại hạ
Lào là 60.000 quân, được bố trí như sau :
Bố trí lực lượng CSVN tại trận địa :
Sau trận Khe Sanh năm 1968, quân đội Mỹ
rút khỏi khu vực Khe Sanh, các toán thám báo của Mỹ và VNCH ngưng
hoạt động trên vùng biên giới Lào Việt, bỏ ngỏ khu vực Hạ Lào cho
quân CSVN tự do di chuyển.
Đoạn đường Quốc lộ 9, từ Lao Bảo (
cửa khẩu biên giới ) đến Tchephone cũng bỏ hoang từ năm 1968.
Các tin tức về hoạt động của quân CSVN
bên kia biên giới Lào Việt đều căn cứ trên không ảnh của phi cơ hay
vệ tinh, phối hợp với tin tức của tình báo Lào ( lực lượng Vàng Pao
).
Tuy nhiên không ảnh không thể nào
phát hiện được những cuộc chuyển quân hay trú quân trong khu vực
rừng già Hạ Lào.
Mà trong khu vực này CSVN đã mở
“hệ thống đường mòn HCM” gồm 4 đường chính chạy song song theo hướng
Bắc-Nam và rất nhiều đường phụ giữa các đường chính, hễ bị bỏ bom
đường này thì ngay tức khắc đoàn xe vận chuyển đổi sang tuyến đường
khác.
Còn tin tức tình báo của lực lượng Vàng Pao
chủ yếu là tin tức do mua bán tin tức, không có kiểm chứng, cho nên
không chính xác, thường là những tin đồn thổi được lan truyền trong
các phiên nhóm chợ của các buôn làng sống dọc theo biên giới vùng Hạ
Lào.
Vì vậy khi soạn thảo lệnh hành quân, cơ
quan MACV ghi nhận lực lượng CSVN trong vùng hành quân chỉ có 7 ngàn
quân chiến đấu, 10.000 quân sản xuất và công binh ( Dân công phục vụ
cho tuyến vận chuyển “Đường mòn HCM” ), và 5.000 quân Cọng sản Lào.
Tất cả được bố trí rải rác để bảo
vệ 4 binh trạm phục vụ cho tuyến đường mòn HCM chứ không nơi nào tập
trung quá 1.000 quân chiến đấu.
Nhưng trong thực tế, khi cuộc hành quân nổ
ra thì quân số của CSVN tại khu vực Tchephone khoảng 60.000 quân,
với 8 sư đoàn bộ chiến gồm 5 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo cơ
giới, 1 sư đoàn pháo phòng không, 1 sư đoàn công binh và 1 trung
đoàn tăng.
Theo sách vở quân sự của bất cứ nước nào,
một cuộc hành quân cấp quân đoàn ( Sinh mạng của 30 ngàn người ) mà
căn cứ trên tin tình báo sai lệch đến 8.000% thi người có trách
nhiệm cung cấp tin tình báo phải ra tòa án binh và hình phạt chắc
chắn là tử hình, bởi vì chỉ có phản quốc , thông đồng với địch quân
mới hành động như vậy.
CSVN chuẩn bị chiến trường trước đó 5 tháng
Tháng 3 năm 1970, sau khi tuyến tiếp liệu
qua cảng Sihanoukville bị đổ bể, Hà Nội tập trung phát triển tuyến
Đường mòn HCM để có thể tiếp tục đưa người và vũ khí vào Nam.
Trước năm 1968 tuyến đường này không thể
phát triển được vì phi cơ Hoa Kỳ thả bom liên tục và thám báo của
VNCH hoạt động ngày đêm trên đất Lào.
Sau trận Khe Sanh thì quân đội Mỹ
tại VN chủ trương giải quyết chiến tranh bằng hòa đàm cho nên tất cả
các hoạt động quấy rối của tình báo VNCH và HK trên đất Lào đều bị
ngưng hẳn.
Sau trận tấn công sang Cam Bốt vào tháng 5
năm 1970 thì Ngũ Giác Đài mới phát hiện ra rằng quân CSVN chẳng có
bao nhiêu và họ hầu chư chỉ chạy tránh các cuộc càn quét của quân
đội VNCH.
Chính vì quân CSVN tại chiến trường Miên
luôn luôn chạy tránh cho nên lối hành quân thần tốc của Tướng VNCH
Nguyễn Viết Thanh đã khiến cho Tướng Abrams, Tư lệnh quân đội HK tại
VN, phải buông lời khâm phục trước mặt các thuộc tướng của mình
(“The Abrams Tapes”, cuốn sách phổ biến các cuộn băng thâu âm các
cuộc họp của BTL / MACV ).
Từ đó có rất nhiều “thầy dùi” tưởng “ngon
ăn” nên viết báo khuyên các nhà quân sự Mỹ tấn công luôn sang Hạ
Lào, hoặc tiên đoán rồi đây quân HK sẽ tấn công qua Lào.
Những tin tức chộn rộn này khiến
cho Hà Nội báo động cho Mặt trận Tây Nguyên (B.3) và “Mặt trận Đường
9 Nam Lào” (B.5).
Tháng 10 năm 1970 Hà Nội chỉ thị cho
Thượng tá Nguyễn Hữu An đi quan sát địa hình tại khu vực Lao Bảo,
Làng Vei để chuẩn bị đưa quân vào thành lập Mặt trận Đường 9.
Sau đó Hà Nội đưa Sư đoàn 2 ( Sư
đoàn 2 “Sao vàng”, khoảng 10.000 người ) đến hoạt động tại khu vực A
Shao và Sư đoàn 304 ( khoảng 10.000 người ) cùng với 3 trung đoàn
Công binh là các trung đoàn 219, 83, 7
vào hoạt động tại Hạ Lào ( Mỗi
trung đoàn khoảng 2.500 người ).
Đến tháng 1 năm 1971 Tướng Lê Trọng Tấn
vào Nam Lào cùng với Sư đoàn 308 Bộ binh ( khoảng 10.000 người ), 3
Trung đoàn pháo cơ giới (368, 38, 45), 1 trung đoàn pháo mang vác
(84), và 3 trung đoàn pháo phòng không (230, 241, 591) .
Thành lập tại B.5 ( Mặt trận Đường
9 Nam Lào ) một quân đoàn đặt tên là 70B , do Thiếu tướng Lê Trọng
Tấn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Đồng sĩ Nguyên và Đại tá Cao Văn Khánh
làm Tư lệnh phó ( Tổng cộng quân CSVN trong vùng Hạ Lào khoảng
40.000 người ).
Trong khi đó để đề phòng quân HK đổ bộ ở
vùng duyên hải phía Bắc vĩ tuyến 17, Hà Nội bố trí tại “Bắc vĩ tuyến
17” Sư đoàn 320 Bộ binh ( khoảng 10.000 người ), Sư đoàn 324 Bộ binh
( khoảng 10.000 người ), Sư đoàn 367 Phòng không, và 2 trung đoàn
tên lửa (237, 238).
Đến khi biết chắc quân Mỹ không đổ bộ vào
Bắc vĩ tuyến 17, Hà Nội điều Sư đoàn 320 và 324 vào tiếp viện cho
chiến trường Tchepone
Đồng thời điều Sư đoàn 2 Bộ binh
đang hoạt động tại thung lũng A Shao đến tiếp viện cho Tchepone.
Tin bình báo là vấn đề sống chết, thắng bại
của một cuộc hành quân
Khi một người sĩ quan thảo một lệnh hành
quân cấp đại đơn vị (cấp sư đoàn trở lên), bắt buộc ông ta phải biết
chắc chắn lực lượng địch trong khu vực hành quân là bao nhiêu, bố
trí như thế nào.
Muốn biết như vậy thì cần phải có
tin tức tình báo chính xác và phải kiểm lại bằng các cuộc thám sát
của các toán thám báo hoặc bằng phi cơ quan sát hay bằng không ảnh.
Còn khi chưa biết rõ tình hình địch thì
chỉ được phép mở các cuộc hành quân thăm dò bằng các đơn vị tình
báo, mà cấp cao nhất chỉ là đại đội ( khoảng 100 người ).
Hoặc là mở cuộc hành quân lục soát
với cấp Lữ đoàn ( khoảng 8.000 người ) nhưng phải biết chắc là toàn
bộ lực lượng địch trong khu vực hành quân chỉ là những đơn vị nhỏ
cấp đại đội trở xuống.
Không thể nào mở một cuộc hành quân cấp
quân đoàn mà tình hình địch chỉ là một ẩn số.
Các tài liệu được phổ biến sau này
về cuộc hành quân Lam Sơn 719 cho thấy tin tức về lực lượng địch tại
khu vực Tchepone chỉ có 7.000 quân chiến đấu và bố trí phân tán tại
nhiều binh trạm.
Trong khi sự thực quân CSVN tại đó
là một quân đoàn chủ lực ( quân đoàn 70B được thành lập tháng 1 năm
1971, do Lê trọng Tấn làm Tư lệnh. Một quân đoàn khoảng 40.000 người
)
Quyết định đưa quân vào Hạ Lào với 2 Sư
đoàn (Sư đoàn Dù và Sư đoàn 1 BB) và 1 Lữ đoàn Thiết kỵ chứng tỏ
người thảo lệnh hành quân ( Tướng Hoàng Xuân Lãm ) không hay biết là
địch có mặt tại Hạ Lào là 3 sư đoàn.
Nếu biết quân địch có thể là 3 sư
đoàn thì bắt buộc lực lượng tấn công phải là 9 sư đoàn.
Đây là nguyên tắc của sách vở quân
sự, lực lượng tấn công bắt buộc phải gấp 3 lực lượng phòng thủ.
Trường hợp Tướng Kinnard soạn thảo lệnh
hành quân năm 1966 thì lúc đó các đơn vị thám báo của VNCH và Mỹ
hoạt động liên tục ngày đêm trong khu vực Hạ Lào, hễ những toán này
đi thì những toán kia về.
Do đó tin tức tình báo về hoạt
động của CSVN tại Hạ Lào là chính xác 100%.
Và quân CSVN tại Hạ Lào lúc đó chỉ
có cấp Tiểu đoàn ( 500 người ).
Vả lại khi soạn thảo lệnh hành quân năm đó
(1966) thì trong tay của Tướng Westmoreland có thừa lực lượng để đối
phó cho dù lực lượng CSVN tại Hạ Lào là cấp quân đoàn ( 3 sư đoàn,
40.000 người ) hay cấp Lộ binh ( 9 sư đoàn, 120.000 người ), nghĩa
là càng nhiều càng tốt.
Đến năm 1968 khi Tướng Palmer soạn thảo
lệnh hành quân Elpaso 1 thì quân CSVN tại Hạ Lào được ghi nhận chính
xác là 2 sư đoàn đã bị thương tổn sau trận Khe Sanh.
Nhưng Tướng Palmer vẫn dùng tới 4
sư đoàn để tung vào Hạ Lào trong khi quân đội Hoa Kỳ sẵn sàng tăng
quân lên đến 9 sư đoàn nếu có dấu hiệu địch tăng quân lên cấp quân
đoàn.
Trong khi đó lệnh hành quân Lam Sơn 719
bị gói gọn trong 3 sư đoàn ( 2 sư đoàn hành quân và 1 sư đoàn trừ bị
).
Và rồi khi cuộc hành quân bước
sang ngày thứ 8 thì Tư lệnh cuộc hành quân là tướng Abrams đã nhận
được tin quân số của CSVN hiện diện trên đất Hạ Lào là 35.000, gồm 5
sư đoàn Bộ binh ( Băng ghi âm “The Abrams Tape” lưu trữ tại Ngũ Giác
Đài được giải mã ).
Nhưng khi biết rằng lực lượng địch là
35.000 người thì Bộ chỉ huy hành quân ( Tướng Abrams ) vẫn không
thay đổi cuộc hành quân, nghĩa là nhắm mắt coi như địch chỉ có 7.000
quân.
Ai đã cho tin dỏm về thực lực của quân
CSVN tại Hạ Lào ?
Dĩ nhiên không phải là do cơ quan
tình báo của VNCH bởi vì khu vực đó nằm ngoài biên giới.
Còn về phía Tướng Hoàng Xuân Lãm
thì tuyệt đối tin tưởng vào tin tình báo do Mỹ cung cấp.
Tại sao Mỹ lại cho Tướng Lãm tin tình báo
dỏm ?
Và tại sao sau khi biết được quân
địch đông gấp 5 lần so với tin tình báo ban đầu thì kế hoạch hành
quân của Tướng Abrams vẫn không thay đổi ?
Xin đón đọc những hồi sau sẽ rõ.
(5) QUÂN VNCH VƯỢT BIÊN GIỚI
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Tiến quân từ biên giới đến A Lưới
Ngày 25-1, các đơn vị tham chiến của Hoa Kỳ
và các Tiểu đoàn pháo binh VNCH tham chiến trên đất Lào nhận lệnh
hành quân.
*[ Sở dĩ các Tiểu đoàn pháo binh nhận
lệnh trước là để chuẩn bị bản đồ và làm quen với bản đồ trước khi ra
thực địa.
Dĩ nhiên chỉ có các sĩ quan tham
mưu Tiểu đoàn PB mới biết được lệnh này, còn các sĩ quan Trung đội
trưởng Pháo binh chỉ nhận được bản đồ trong ngày khởi sự hành quân
(1-2-1971), nghĩa là trước khi sang đất Lào 1 tuần lễ.
Còn
Hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc các
đơn vị Pháo binh nhận được lệnh “niềng súng” và “gói đạn” 3 ngày
trước khi lên đường, dĩ nhiên khi nhận được lệnh họ cũng không biết
là đi đâu , chỉ biết là hành quân vùng rừng núi biên giới Lào.
Có một số nhà nghiên cứu không rành về
quân sự đã cho rằng việc cho sĩ quan pháo binh biết trước khu vực
hành quân là chuyện “rất khôi hài về vấn đề bảo mật” .
Nhưng thực ra việc bảo mật của một
lệnh hành quân cấp quân đoàn thì bị lộ trước cả nửa tháng cũng không
ảnh hưởng bởi vì đối phương không thể nào kịp trở tay.
Riêng cuộc hành quân “Lam Sơn 719”
thì bị lộ ngay từ khi Thủ tướng Lào tuyên bố phản đối với báo chí
vào ngày 15-12-1970, tức là trước 1 tháng rưỡi ].
Ngày 1-2, Sư đoàn 101 Dù Mỹ bắt đầu xuất
phát hành quân từ Đông Hà theo Quốc lộ 9 tiến về Khe Sanh, tái lập
căn cứ Khe Sanh và tiến chiếm các hỏa điểm dọc theo biên giới.
Trong khi đó BCH Liên đoàn 1 BĐQ cùng với
Tiểu đoàn 37 BĐQ tái chiếm căn cứ Pháo binh Phú Lộc, dọn chỗ cho
Pháo đội B 44 PB ( 6 khẩu đại bác 155 ly ) đến căn cứ để yểm trợ cho
2 tiểu đoàn BĐQ hoạt động bên kia biên giới.
Ngày 7-2, hoàn tất giai đoạn 1 của kế
hoạch hành quân đúng theo dự trù.
Tức là quân bộ binh Mỹ chiếm các
khu vực dọc theo Quốc lộ 9 từ Bờ biển tới biên giới Lào – Việt.
Ngày thứ nhất, ngày 8-2 :
Quân VNCH vượt biên giới
Lúc 7 giờ sáng, tất cả các cố vấn Hoa Kỳ
trong các đơn vị VNCH nhận được lệnh phải ở lại bên này biên giới
Việt Lào.
Theo quy định của Quốc hội Mỹ thì
quân nhân Mỹ không được hành quân ngoài biên giới VNCH.
*Chú giải : Theo “lệnh hành quân” thì phi
cơ và pháo binh hoạt động trên đất Lào đều là của Mỹ, cho nên người
Việt không thể nào điều chỉnh thả bom hay điều chỉnh pháo binh bằng
tiếng Mỹ.
Do đó lệnh cấm cố vấn Mỹ và thông
dịch viên vượt biên có nghĩa là không có phi cơ và pháo binh cho
quân VNCH (?!).
Lâu nay các các cố vấn đi theo các đơn vị
hành quân để gọi phi cơ hay pháo binh Mỹ.
Mỗi khi có trận đánh nổ ra thì các
sĩ quan chỉ huy VN lo điều động quân lính chống trả, còn các sĩ quan
cố vấn
lo gọi máy bay và pháo binh.
Việc điều chỉnh pháo binh hay phi
cơ của các cố vấn cũng không thể được thực hiện qua các thông dịch
viên trung gian vì mất thời gian tính, phi cơ lấy vòng bay và tính
toán sà xuống mục tiêu trong vòng vài tíc tắc nên không thể chờ
thông dịch.
Pháo binh cũng vậy, họ cần điều
chỉnh điểm nổ của trái đạn trong vòng vài giây theo như yêu cầu cho
nên cũng không thể chờ thông dịch.
Vả lại qua thông dịch nhiều khi
chỉ vấp váp một con số hay ú ớ một vài giây thì có thể bom rơi đạn
nổ ngay vào quân ta chứ không vào quân địch.
Thế mà người soạn thảo lệnh hành quân đã
không cho phía VNCH biết trước là không có cố vấn Mỹ để phía VN có
thể chuẩn bị kiếm thông dịch viên hoặc chẩn bị người giỏi tiếng Anh
để làm nhiệm vụ truyền tin liên lạc (!?).
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 8 Dù ( 550 người )
xuống cứ điểm Alpha ,nằm trên quốc lộ 9, khoảng giữa Lao Bảo và A
lưới.
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 4/3 Bộ binh (
500 người ) xuống Căn cứ Hotel lúc 11 giờ sáng.
Căn cứ Hotel, cách biên giới 3 cây
số về hướng Tây và cách Quốc lộ 9 tám cây số về hướng Nam, là điểm
xuất phát của các cánh quân thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh từ thung lũng A
Shao tiến về sông Tchepone.
Sông Tchepone chạy song song với
Quốc lộ 9 ở phía Nam.
-Lữ đoàn 1 Thiết kỵ VNCH cùng với BCH Lữ
đoàn 1 Dù, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 11 Dù VNCH ( 1.500 người ) từ
Lao Bảo tiến theo Quốc lộ 9 để đến A Lưới.
Dọc đường Tiểu đoàn 11 Dù và Tiểu
đoàn 5 Dù trụ lại hoạt động bảo vệ tuyến đường từ Lao Bảo đi A Lưới.
-Trực thăng đổ BCH Lữ đoàn 3 Dù VNCH (450
người ) và Tiểu đoàn 3 Dù ( 550 người ) xuống căn cứ đồi 31 lúc 4
giờ 55 chiều.
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 2 Dù ( 550 người )
xuống căn cứ Đồi 30 lúc 1 giờ trưa.
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 21 BĐQ( 500
người ) xuống đồi Ranger South lúc 1 giờ trưa.
Quân CSVN tấn công bãi đáp bằng
súng phòng không 12 ly 7 khiến cho 11 người bị thương.
-Trực thăng võ trang tấn công khu vực đặt
súng cao xạ cách Căn cứ 31 hai cây số về hướng Đông.
Một loạt tiếng nổ phụ xảy ra sau
trận bom, phi cơ quan sát ghi nhận một đám cháy cao 1.500 feet và
cháy suốt đêm cho tới sáng hôm sau
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 1/3 và Tiểu đoàn
2/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh xuống Căn cứ Blue lúc 4 giờ 20 chiều.
Căn
cứ Blue cách căn cứ Hotel ( Sát biên giới Việt Lào) 4 cây số về
hướng Tây Nam.
Ngay sau đó Tiểu đoàn 2/3 chạm
địch. Kết quả giết 9 người, tịch thu 1 đại liên 12ly7, 1 AK.47 và 1
máy liên lạc vô tuyến.
Phía Tiểu đoàn có 5 bị thương.
-Trong ngày 8-2, ngày đầu của giai đoạn
2, phi cơ B.52 đã thực hiện 11 phi vụ với 719 tấn bom dọc theo Quốc
lộ 9 để dọn đường.
Và phi cơ trực thăng võ trang HK
đã thực hiện 418 phi vụ để dọn bãi đáp và dọn đường.
-Trong đêm 8-2, phi cơ C123 của HK đã rải
đạn xung quanh căn cứ A Lưới ( Súng đại liên 6 nòng, bắn với nhịp độ
từ 4 ngàn tới 6 ngàn viên đạn trong 1 phút. Quân đội VNCH gọi là phi
vụ Hỏa Long ).Cũng trong đêm, Căn cứ Phú Lộc bị pháo kích khoảng 50
trái súng cối 82 ly và đại bác 105 ly. Có 3 người bị chết và 15 bị
thương.
Ngày thứ hai, ngày 9-2 :
Thời tiết xấu, mưa lớn cho nên các
phi vụ chuyển quân tạm đình chỉ.
Ngày thứ ba, ngày 10-2 :
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 4/1 BB ( 500 người
) và BCH trung đoàn 1 Bộ binh ( 450 người ) xuống căn cứ Delta lúc 4
giờ 30 chiều.
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 9 Dù ( 550 người
) xuống căn cứ A Lưới lúc 5 giờ chiều.
Quân CSVN tấn công bãi đáp bằng
súng phòng không nhưng không gây thiệt hại.
Hai tiếng sau, toán quân đầu tiên
của Lữ đoàn 1 Thiết kỵ đã bắt tay với Tiểu đoàn 9 Dù tại A Lưới.
-Lúc 12 giờ 30 trưa, một toán quân của
Tiểu đoàn 3 Dù hành quân lục soát tại một địa điểm cách căn cứ 31
khoảng 1 cây số về hướng Đông đã chạm địch.
Có vài người bị thương nhẹ nhưng
họ bắt được 6 xe tải chở đầy vũ khí.
Sau đó họ tiếp tục lục soát về
hướng Bắc và khám phá một điểm cất giấu vũ khí , tịch thu được 14
súng cối 82 ly, 2 hỏa tiễn 122 ly và 9 súng AK.
-Lúc 1 giờ trưa, một đoàn 4 chiếc trực
thăng của Không quân VNCH bị trúng đạn phòng không 37 ly của quân
CSVN tại khu vực hành quân gần cứ điểm Ranger South.
Có 2 chiếc bị bắn rơi.
Trong 1 chiếc bị rơi có Đại tá
Trưởng phòng 3 và Đại tá Trưởng phòng 4 của Quân đoàn 1 VNCH. Trong
xách tay của Trưởng phòng 3 có phóng đồ hành quân của lệnh hành quân
Lam Sơn 719.
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 39 BĐQ xuống đồi
Ranger North lúc 2 giờ 30 trưa.
Ngày thứ tư, ngày 11-2 :
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 2/1 thuộc Sư
đoàn 1 Bộ binh xuống cứ điểm Delta 1, cách căn cứ A Lưới 6 cây số về
hướng
Đông Nam và cách căn cứ Delta 6
cây số về hướng tây bắc
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 3/1 thuộc Sư đoàn
1 Bộ binh xuống cứ điểm Đôn, cách căn cứ Delta 4 cây số về hướng Tây
Nam.
-Lúc 3 giờ chiều, một đơn vị Dù VNCH hành
quân lục soát phía Bắc căn cứ A Lưới bị một toán quân CSVN, không rõ
quân số, tấn công.
Kết quả quân Dù có 1 chết, 1 bị
thương và 2 thiết vận xa M.113 bị bắn cháy.
Một thiết vận xa khác bị trúng
mìn, 9 người trong xe bị thương.
-Lúc 4 giờ 15 chiều, đơn vị thám báo của
Tiểu đoàn 3/1 Bộ binh lục soát khu vực cách Cứ điểm Don 1 cây số về
hướng Đông Nam để xác nhận kết quả trận không kích trước đó.
Kết quả toán thám báo phát hiện 23
xác lính CSVN, tịch thu 2 súng phòng không 12ly7, 4 súng AK 47 và 1
máy liên lạc vô tuyến.
-Lúc 6 giờ 25 chiều, Tiểu đoàn 21 BĐQ/VNCH
tại vùng Ranger South chạm địch, giết 11 lính CSVN. Lúc10 giờ đêm
CSVN pháo 40 quả súng cối 81 ly khiến cho 6 lính BĐQ bị thương.
Ngày thứ 5, ngày 12-2 :
-Lúc 10 giờ sáng, một đại đội thuộc Tiểu
đoàn 2 Dù VNCH hành quân lục soát cách căn cứ 30 năm cây số về hướng
Đông Nam chạm địch.
Kết quả giết 32 người, tịch thu 20
vũ khí cá nhân và 3 vũ khí cộng đồng.
Phía quân Dù có 3 bị chết.
-Lúc 11 giờ trưa, Tiểu đoàn 37 BĐQ/VNCH
hành quân lục soát khu vực phía Bắc của Căn cứ Khe Sanh đã đụng
địch.
Kết quả có 13 quân CSVN bị chết,
tịch thu 10 súng AK 47.
Về phía VNCH có 4 chết, 6 bị
thương và 1 trực thăng bị bắn rơi.
-Lúc 2 giờ trưa, Tiểu đoàn 3/1 Bộ binh
VNCH tiếp tục lục soát khu vực bị oanh kích ngày hôm qua.
Kết quả khám phá 1 kho vũ khí gồm
600 súng cá nhân, 400 quả đạn súng cối 82 ly, một số quả đạn súng
lớn các loại và 50 xác lính CSVN.
-Lúc 3 giờ chiều, Tiểu đoàn 1/1 Bộ binh
VNCH soát khu vực phía Nam cứ điểm Don, cách 3 cây số, phát hiện một
trại lính với rất nhiều đạn của súng phòng không 12ly7.
Ngày thứ 6, ngày 13-2 :
-Tiểu đoàn 3/1 Bộ binh VNCH tiếp tục lục
soát khu vực Nam cứ điểm Don, khám phá 1 kho vũ khí với 30 súng đại
bác không giật 75 ly.
-Tiểu đoàn 1/1 Bộ binh VNCH chạm địch
cách cứ điểm Don 3 cây số về hướng Tây Nam.
Kết quả giết 28 lính CSVN, tịch
thu 1 kho tiếp liệu gồm 7 súng trung liên RPD, 1 B.40, 1 B.41, 2
SKS, lựu đạn, nhiên liệu và thực phẩm
-Lúc 1 giờ trưa, Tiểu đoàn 39 BĐQ/VNCH
hành quân lục soát cách cứ điểm Ranger North 3 cây số về hướng Tây
Nam đã chạm súng với cỡ 1 đại đội quân CSVN.
Kết quả giết 43 người, tịch thu 2
súng đại bác phòng không 37 ly, 2 đại liên phòng không 12ly7 với rất
nhiều đạn. Phía BĐQ có 1 chết và 10 bị thương.
-Tiểu đoàn 2/3 Bộ binh VNCH hành quân lục
soát khu vực phía Bắc cứ điểm Grass, tịch thu 3 xe vận tải của Nga
còn mới.
Ngày thứ 7, ngày 14-2 :
-Lúc 2 giờ 30 trưa, Căn cứ 31 bị pháo kích,
có 6 lính Dù chết, 3 bị thương và 1 xe ủi đất bị phá hủy.
-Tiểu đoàn 1/3 và 2/3 Bộ binh VNCH bị
pháo kích 100 quả súng cối 82 ly.
Kết quả Tiểu đoàn 1/3 có 1 chết và
7 bị thương.
Tiểu đoàn 2/3 có 16 bị thương.
Ngày thứ 8, ngày 15-2 :
-Lúc 11 giờ trưa, Căn cứ 31 bị pháo kích
bằng hỏa tiễn 122 ly, có 2 lính Dù chết và 4 bị thương.
-Lúc 1 giờ 30 trưa, một chi đội thiết giáp
thuộc Tiểu đoàn 17 Thiết kỵ hành quân lục soát tại khu vực phía Bắc
căn cứ A Lưới đã bắn cháy 2 xe tải Molotova, trên xe chở khoảng 6
tấn gạo.
Ngày 15-2, hoàn tất giai đoạn 2.a của kế
hoạch hành quân đúng theo dự trù, tổng số quân VNCH hiện diện trên
đất Lào là 10.600 người.
Cũng trong ngày này, Bộ Tư lệnh MACV nhận
được tin quân số của CSVN hiện diện trên đất Hạ Lào là 35.000, gồm 5
sư đoàn Bộ binh ( Băng ghi âm “The Abrams Tapes” ).
*Diễn tiến hành quân trên đây được viết
theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
Những chi tiết trong sách do Tướng
Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ
Giác Đài.
(6) TRỰC THĂNG MỸ SA VÀO TRẬN ĐỊA
PHÒNG KHÔNG
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Ngày thứ 8, ngày 15-2 :
Quân CSVN trên đất Lào là 35.000
người
Bộ Tư lệnh MACV nhận được tin quân số của
CSVN hiện diện trên đất Hạ Lào là 35.000, gồm 5 sư đoàn Bộ binh (
Băng ghi âm “The Abrams Tape” ).
*Chú giải :
Bất cứ một sĩ quan hạng bét nào cũng biết
rằng một “lệnh hành quân” đều tùy theo tình hình của địch quân như
thế nào *( Lệnh hành quân là kế hoạch hành quân được viết lên giấy
trắng mực đen.
Tất cả đều căn cứ trên giấy trắng
mực đen mà thi hành ).
“Lệnh hành quân” của bất cứ một
quân đội nào cũng có mục đầu tiên là mục “tình hình địch”.
Và từ mục thứ hai trở đi của lệnh
hành quân đều căn cứ vào tình hình địch đã ghi trong mục 1.
Nhưng trong mục “thi hành”, mục thứ 3 của
lệnh hành quân, luôn luôn có tiểu mục “trường hợp dự phòng”.
Đó là dự phòng tình hình thực tế
biến chuyển khác với dự trù đã được ghi trong mục 1.
Thế nhưng băng ghi âm Abrams Tape cho
thấy đến ngày thứ 8 thì tình hình địch trong thực tế gấp 5 lần dự
trù trong “lệnh hành quân”.
Và cũng băng Abrams Tape cho biết
Tướng Abrams không thay đổi kế hoạch hành quân, nghĩa là nhắm mắt
coi như địch chỉ có 7.000 ngàn quân.
Nghĩa là nhắm mắt đưa quân VNCH
vào chỗ chết !!!
Đây là một điều vô lý mà không một nhà quân
sự nào chấp nhận. *( Muốn biết tại sao Abrams lại hành động như vậy
thì xin đón đọc những hồi cuối sẽ rõ )
Ngày thứ 9, ngày 16-2. Máy bay trực thăng
Mỹ sa vào trận địa phòng không
-Buổi sáng, súng phòng không của CSVN đồng
loạt khai hỏa vào các phi cơ trực thăng võ trang của HK hoạt động
dọc theo sông Tchepone.
*Chú giải :
*Lộ trình bay
Do thời tiết xấu, trần mây thấp, các phi
cơ trực thăng phải bay dưới tầng mây mới có thể xác định được lộ
trình bay.
Do đó phi cơ trực thăng phải bay
dọc theo sông Tchepone để yểm trợ cho các cánh quân đang tiến trên
Quốc lộ 9.
Nhưng như vậy là làm mồi cho các
súng cao xạ 12 ly 7 của CSVN được đặt trên dãy núi đá dọc theo bờ
Nam sông Tchepone, từ A Lưới đến Tchepone.
Khi đoàn quân mới xuất phát từ Lao Bảo,
biên giới Việt Lào, để đến A Lưới thì không thuộc vào trận địa phòng
không của CSVN bởi vì hai bên Quốc lộ 9 địa thế trống trải, không có
những vị trí tốt để bố trí súng phòng không.
Nhưng bắt đầu từ A Lưới thì phía Nam sông
Tchepone có một dãy núi đá chạy dài từ A Lưới đến Tchepone.
CSVN đã bố trí các đội cao xạ trên
dãy núi đá từ trước nhưng chưa khai hỏa để giữ bí mật, chờ đón đoàn
máy bay yểm trợ cho cánh quân Dù và Thiết kỵ từ A Lưới tiến về
Tchepone.
Do đó ngày bắt đầu giai đoạn 2.B
của quân đội VNCH cũng là ngày khai hỏa của lưới phòng không CSVN.
Thông thường các xạ thủ súng 12 ly 7 phải
bắn máy bay từ dưới lên thì kém hiệu quả vì máy bay bay ngang qua
một thoáng rồi mất hút ngay.
Nhưng nếu súng được đặt ở trên cao
mà máy bay lại bay ngang ở độ thấp hơn thì xạ thủ dễ dàng điều chỉnh
súng “bắn đón” hoặc “bắn đuổi” theo máy bay. *( Cứ 5 viên đạn thường
thì có 1 viên đạn lửa, viên đạn lửa sẽ kéo một vệt lửa dài để báo
cho xạ thủ thấy đường đi của viên đạn, nhờ đó xạ thủ có thể điều
chỉnh nòng súng cho đến khi trúng đích ).
*Sự thật về lực lượng phòng không của quân
CSVN tại Hạ Lào :
Theo dõi các bức không ảnh, đến ngày
24-3-1971, Không lực 7 Mỹ báo cáo về Bộ tư lệnh Thái Bình Dương rằng
số súng phòng không của CSVN từ 525 đến 575 khẩu, tương đương với
cấp số 19 tiểu đoàn phòng không.
Điều này hoàn toàn bất ngờ đối với
Ngũ Giác Đài và Bộ tư lệnh quân đội Mỹ tại VN….
Đặt giả dụ 1 khẩu phòng không hạ
được 1 trực thăng thì toàn bộ 600 trực thăng của Mỹ sẽ bị bắn hạ
hết.
Trong vòng 4 ngày đầu sau khi súng phòng
không bắt đầu khai hỏa thì đã có 32 trực thăng bị bắn rơi và 240
chiếc khác bị trúng đạn.
Tình trạng này khiến các phi công Mỹ mất
tinh thần cho nên từ chối bay vào vùng phía Bắc sông Tchepone, nghĩa
là từ chối bay tiếp tế cho căn cứ 30, căn cứ 31, đồi Ranger North,
đồi Ranger South và cánh quân phối hợp Dù-Kỵ binh đang trên đường từ
A Lưới đến Tchepone.
Ngày thứ 9, ngày 16-2
Nhận được tin về trận địa phòng không của
CSVN, trưa ngày 16-2 Tướng Cao Văn Viên, Tham mưu trưởng quân đội
VNCH và Tướng Abrams, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh, bay ra
Quảng Trị họp với Tướng Hoàng Xuân Lãm và Tướng Sutherland trong 2
tiếng rưỡi đồng hồ.
Cuối cùng các tướng quyết định dùng trực
thăng đổ quân chiếm lĩnh các cao điểm quan trọng phía Nam sông
Tchepone để khống chế dãy núi đá.
Theo dự trù của các tướng thì phải
tốn mất 5 ngày mới hoàn tất cuộc đổ quân khống chế đãy núi đá.
Nhưng như vậy thì cuộc tiến quân
về phía Tchepone bị chậm mất 5 ngày;
khoảng thời gian này đủ để cho
quân CSVN bố trí lực lượng để phản công ( Nguyễn Duy Hinh, Lam Son
719, trang 74 ).
*[ Sự chậm lại 5 ngày là một quyết định
bài bản ( y theo sách vở ) của Tướng Viên và Tướng Abrams.
Hai tướng không thể nào xua quân
vào một ngõ hẹp bị khống chế bởi các họng súng phòng không hoặc
những họng súng sơn pháo 75 ly dọc theo dãy núi đá từ A Lưới đến
Tchepone, ngoài ra các cao điểm trên dãy núi đá cũng là những trạm
quan sát tiền tiêu để quân đội CSVN điều chỉnh pháo binh suốt dọc
đường từ Căn cứ A Lưới tới Tchepone.
Theo kỹ thuật quân sự, mà bất cứ sĩ quan
nào cũng được học qua, là đoàn quân chỉ có thể tiến được một khi
những nguy hiểm từ dãy núi bờ Nam sông Tchepone đã được quét sạch ].
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 2/3 thuộc Sư
đoàn 1 Bộ binh xuống cứ điểm Grass, cách biên gới 12 cây số về hướng
Tây và cách Quốc lộ 9 mười cây số về hướng Nam.
Đây là cứ điểm cực Nam của khu vực
hành quân.
Ngày thứ 10, 17-2,
Mưa lớn, phi cơ trực thăng không thể cất
cánh *[ Nguyễn Duy Hinh, Lam Son 719, trang 75;
căn cứ theo hồ sơ lưu trữ của Ngũ
Giác Đài.
Tuy nhiên không đúng với sự thực,
sự thực là các phi công trực thăng Mỹ từ chối bay hành quân ].
Ngày thứ 11, 18-2,
-Một đơn vị thám báo của Tiểu đoàn 1 Dù
hành quân giám định một khu vực mới bị bom lửa ở phía Bắc cứ điểm
Bravo, cách 2 cây số.
Theo lời khai sơ khởi của tù binh
mới bắt được, toán thám báo tìm tới nơi bị bỏ bom và các bằng chứng
tại chỗ xác nhận đó là nơi đóng quân của Chỉ huy sở Sư đoàn 308
CSVN.
-Buổi trưa, phi cơ chiến đấu Mỹ tấn công
một đoàn xe vận tải của CSVN, cách căn cứ A Lưới 9 cây số về hướng
Tây Bắc, phá hủy 1 xe tải, làm hư 1 xe tải khác và một xe cần cẩu.
-Cũng trong buổi trưa, cách nơi phi cơ
tấn công đoàn xe 2 cây số rưỡi về hướng đông, Chi đội 2 của Chi đoàn
17 Thiết kỵ phát hiện và phá hủy một đường dây dẫn dầu gồm 3 ống,
mỗi ống đường kính 8 Cm.
Điều này chứng tỏ quân đội CSVN đã
đóng chốt tại đây từ lâu với một lực lượng lớn, cấp quân đoàn (3 sư
đoàn).
-Trong ngày có một số đơn vị thuộc Sư
đoàn Dù và Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH bị pháo kích, và một vài phi cơ
trực thăng bị bắn rơi ( Tài liệu của Tướng Nguyễn Duy Hinh, Lam Son
719, trang 76.
Không nói rõ số phi cơ bị bắn rơi,
nguyên văn : “a few helicopters were shot down”. Chứng tỏ “vài” trực
thăng bị bắn rơi trong một ngày là chuyện không đáng kể. Điều này
giải thích vì sao các phi công trực thăng Mỹ từ chối bay vào vùng có
lực lượng phòng không của địch ).
-Qua cung khai của các tù binh, Bộ chỉ
huy hành quân Việt Mỹ đã ghi nhận Sư đoàn 304 và Sư đoàn 2 Sao Vàng
của CSVN đã có mặt tại chiến trường ngay từ ngày có cuộc hành quân
đổ bộ xuống đất Lào (8-2-1971).
Và giờ đây các cánh quân CSVN đã
di chuyển đến phía Đông Tchepone để đón đầu quân VNCH từ A Lưới tiến
về Tchepone.
Trong khi đó cung khai của tù binh trong
trận đụng độ với Tiểu đoàn 21 BĐQ/VNCH ngày 10-2 cho biết Sư đoàn
308 đã đến Hạ Lào từ tháng 1-71.
Ngoài ra lời khai của 2 tù binh bị
bắt ngày 10-2 và 1 tù binh bị bắt ngày 14-2 cho biết Trung đoàn
64 của Sư đoàn 320 đã đến Hạ Lào
vào ngày 4-2-71.
Trước đó Sư đoàn 320 và Sư đoàn
324 trấn giữ phía Bắc vĩ tuyến 17.
*Diễn tiến hành quân trên đây được viết
theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
Những chi tiết trong sách do Tướng
Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ
Giác Đài.
(7) TIỂU ĐOÀN 39 BĐQ MỞ ĐƯỜNG MÁU
RÚT LUI
*( Trích sách “Gải Mả Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Ngày thứ 12, 19-2 , Tướng Thiệu bay ra
Quảng Trị giải quyết
Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng tư lệnh quân
đội VNCH, bay ra Quảng Trị.
Tại Bộ chỉ huy hành quân ở Đông
Hà, Tướng Hoàng Xuân Lãm thuyết trình về tình trạng nguy hiểm của
Tiểu đoàn 39 BĐQ tại Ranger North cũng như tình trạng trì trệ của
cánh quân Dù và Thiết Kỵ đang tiến về Tchepone do không được trực
thăng yểm trợ, các phi công Mỹ từ chối bay vào vùng Bắc sông
Tchepone.
Sau khi đã rõ tình hình, Tướng Thiệu nói
với Tướng Lãm hãy thong thả, trong tình hình hiện tại có lẽ nên
triển khai về hướng Tây Nam để dùng đường đất 914 đi tắt đến binh
trạm 611 của CSVN ở phía Nam Tchepone ( Nguyễn Duy Hinh, Lam Son
719, trang 79).
*Chú
giải :
Trước đó 3 ngày Tướng Abrams và Tướng Cao
Văn Viên đã quyết định sử dụng Sư đoàn 1 Bộ binh để quét sạch các ổ
phòng không trên dãy núi đá vôi phía Nam sông Tchepone.
Hai tướng dự trù trong 5 ngày thì
xong.
Tuy nhiên chuyện dọn sạch dãy núi đá dài
15 cây số trong vòng 5 ngày là chuyện không tưởng ….(!!).
Bằng chứng là mùa hè năm 1972 một
tiểu đoàn quân CSVN chiếm hai quả
núi đất Tàu Ô và Chơn Thành trên Quốc lộ 13. Mà Sư đoàn 21 Bộ binh
VNCH, và Trung đoàn 15 Bộ binh VNCH cùng với 1 tiểu đoàn dù thay
phiên nhau đánh trong 1 tháng 3 ngày mới chiếm xong 2 quả núi đất.
Còn đằng này một dãy núi đá 15 cây
số mà dự trù chiếm trong 5 ngày thì chỉ là hoang tưởng.
Quyết định né tránh dãy núi đá, dùng
đường 914 để đến Tchepone của Tướng Thiệu là một sáng kiến rất tài
tình.
Đường 914 chạy dài trên địa thế
trống trải tại khu vực phía Nam sông Tchepone, tức là phía Nam dãy
núi đá.
Một khi quân VNCH khống chế khu
vực Nam núi đá thì quân CSVN trên dãy núi đá sẽ bị triệt đường tiếp
tế luơng thực và đạn dược.
Trong khi đó nếu quân VNCH không di chuyển
theo lộ trình Quốc lộ 9 thì toàn bộ lực lượng phòng không dày đặc
trên núi đá sẽ bị vô hiệu hóa. Quân CSVN không còn lý do gì để tốn
quân, tốn súng đạn cho một nơi vô ích.
Sau này trong quyển sách Vũng Lầy Của Tòa
Bạch Ốc, tác giả Nguyễn Kỳ Phong đã trích dẫn tài liệu của Tướng
Nguyễn Duy Hinh và ghi lại :
“Ba ngày sau, ngày 19, Tổng thống Thiệu
ra lệnh cho tướng Lãm tiến quân chậm lại và bỏ nhiều thì giờ hơn lục
soát các kho chứa quân trang quân dụng ở hướng Tây Nam Bản Đông.
Chính sự đình trệ này đã giúp cho
đối phương có thêm thì giờ củng cố nhân lực và tập trung hỏa lực để
tấn công” ( Trang 442.
Chú thích 569 cho biết đoạn này
trích dẫn từ trang 74 và trang 79 trong tài liệu của Tướng Nguyễn
Duy Hinh ).
Tuy nhiên so lại với trang 74 của Tướng
Hinh thì quyết định tiến chậm lại để chờ 5 ngày khống chế núi đá
phía Nam sông Tchepone là của Tướng Cao Văn Viên và tướng Abrams.
Còn trong trang 79 Tướng Thiệu chỉ
“nói với” Tướng Lãm là đừng có nôn nóng lắm : “President Thieu told
him to take his time” and, under the present circumstances, perhaps
it would be better to expand search activities toward the southwest
to cut off Route 914 which led into Base Area 611”.
Không hiểu vì đâu mà Nguyễn Kỳ Phong lại
ráp trích dẫn trong
trang 74 và trang 79 thành một rồi
quy cho Tướng Thiệu đã làm hỏng cuộc hành quân bởi vì lệnh tiến chậm
lại của ông đã khiến cho CSVN đã kịp bố trí đối phó.
Nhưng sự thật rõ ràng là Tướng
Thiệu không có ra lệnh như vậy.
Hơn nữa, trước đó chính Nguyễn Kỳ Phong
đã cho biết là quân CSVN đã bố trí lực lượng trước khi cuộc hành
quân bắt đầu ít nhất là 1 tuần lễ.
Ngoài ra sự kiện phát hiện ra
đường ống dẫn dầu trong ngày 18-2 đã chứng minh quân CSVN đã bố trí
trận địa ít nhất là 1 tháng.
Do đó chuyện chậm lại 5 ngày không
có nghĩa là ngày 16-2 quân CSVN chưa kịp bố trí trận địa;
mà họ đã bố trí xong từ lâu, chỉ
chờ quân VNCH lọt vào trận địa họ mới tấn công.
Sở dĩ Tướng Thiệu phải bay ra Quảng Trị
bởi vì những tin xấu về việc Tiểu đoàn 39 BĐQ
và căn cứ 31 của Lữ đoàn 3 Dù
không được tản thương và tiếp tế.
Trong khi đó có sự trục trặc về
chỉ huy giữa tướng Hoàng Xuân Lãm và Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư
đoàn Dù VNCH, mà tướng Cao Văn Viên không giải quyết được.
Trước tình hình đó Tướng Thiệu phải có
mặt tại Quảng Trị để củng cố tinh thần cho Tướng Lãm và các đơn vị
đang hành quân, ngoài ra cũng để đánh bạt dư luận không hay về những
trở ngại lớn của các cánh quân mà trở ngại lớn nhất là không được
máy bay Mỹ tiếp tế và tản thương.
Người lính ngoài mặt trận sẽ không
thể nào an tâm chiến đấu nếu không được tiếp tế đầy đủ
Năm 1985, trong một cuộc trả lời phỏng vấn
của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho
biết nguyên nhân chính của cuộc hành quân bị trở ngại :
“Ba ngày sau khi mở cuộc hành quân, Mỹ đã
tổn thất nhiều phi công trực thăng, và nếu không có không lực và hỏa
lực yểm trợ thì họ không chịu tiếp tục cất cánh để di tản thương
binh kịp thời và trọn vẹn!
( Nguyễn Tiến Hưng, Bí Mật Dinh
Độc Lập, trang 76 )
Sau này có nhiều “bình luận gia quân sự
dỏm” cho rằng Tướng Thiệu ra Quảng Trị là đã giành lấy nhiệm vụ của
Đại tướng Cao Văn Viên trong khi nhiệm vụ của ông là Tổng thống.
Luận điệu này là vô căn cứ và
thuần tưởng tượng chứ không đúng với thực tế.
Đây là một cuộc hành quân do Tổng thống
Nixon đích thân ra lệnh soạn thảo kế hoạch hành quân cũng như đích
thân ra lệnh xuất phát hành quân. Tướng Viên phải dưới quyền chỉ huy
của Tướng Abrams, Viên đã làm hết sức và cuối cùng phải nhờ tới Tổng
thống Thiệu bởi vì ngay chính Abrams cũng không giải quyết được vấn
đề các phi công Mỹ từ chối cất cánh.
Sự hiện diên của Tổng thống Thiệu tại Quảng
Trị mới có thể tác động đến Washington buộc Nixon phải giải quyết
bởi vì tại Việt Nam Abrams đã bó tay.
-Đêm 19-2, quân CSVN tiếp tục tấn công
Tiểu đoàn 39 BĐQ/ VNCH tại Ranger North trong khi liên tục pháo kích
vào Ranger South.
Phi cơ Hỏa Long rưới đạn và thả
trái sáng suốt đêm để yểm trợ cho cuộc chiến đấu của Tiểu đoàn 39
BĐQ.
Ngày thứ 13, 20-2
-Từ 7 giờ 30 sáng đến 2 giờ 30 chiều, có 32
phi tuần oanh tạc yểm trợ cho Ranger South.
-Buổi trưa, phi cơ quan sát cho biết khoảng
từ 400 đến 600 quân CSVN đang bao vây tấn công cứ điểm Ranger North.
-Lúc 5 giờ 10 chiều, Căn cứ Ranger North bị
tràn ngập.
-Lúc 6 giờ 56 tối, Bộ tư lệnh Quân đoàn 1
nhận được tin các binh sĩ sống sót của Tiểu đoàn 39 BĐQ đang mở
đường máu để di tản về Ranger South.
-Trong nổ lực cứu Ranger North, có 10 phi
cơ của HK bị bắn rơi, trong đó có 6 trực thăng.
-Lực lượng Dù và Thiết kỵ chạm súng với
quân CSVN cách A Lưới 2 cây số về hướng Bắc, phát hiện và bắn cháy 1
xe tăng T.34 của CSVN với súng đại bác 23 ly.
Ngày thứ 14, 21-2,
-Số lượng binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 39 BĐQ
đến được Ranger South là 199 người, trong đó có 92 người bị thương (
Tổng số tham chiến ban đầu là 525 người ).
Trong 4 ngày chiến đấu trước đó họ
đã báo cáo giết 639 địch quân và tịch thu 423 AK.47, 15 B.40 và
B.41, cùng với nhiều vũ khí tự động khác.
-Đêm 21-2, Ranger South bị pháo kích dữ
dội, có cả đạn pháo nòng dài 130 ly. Đây là loại pháo do Liên Xô chế
tạo.
-Số binh sĩ bị thương thuộc Tiểu đoàn 39
BĐQ tại Ranger Sound vẫn không di tản được do không có trực thăng
tản thương.
*Chú giải :
Cho tới ngày nay đại bác 130 ly
vẫn được đánh giá là tuyệt hảo, tầm bắn xa tới 27 cây số và rất
chính xác.
Trong khi đó súng 175 ly của Mỹ
bắn xa 32 cây số nhưng không chính xác và rất khó vận hành.
*[ Súng 175 ly được đặt trên một xe cơ
giới chạy bằng bánh xích, mỗi khi tác xạ thì lực thối hậu rất lớn,
thân xe có thể bị nhớm lên mặc dầu đã có ống thủy lực giảm chấn gắn
giữa nòng súng và sàn xe.
Cho nên sau mỗi lần bắn thì thân
xe đã lệch đi một ít; và như vậy viên đạn kế tiếp cần phải điều
chỉnh lại.
Do đó pháo binh 175 ly chỉ tác xạ
khu vực chứ không thể tác xạ tiếp cận khi hai bên ở thế cài răng
lược.
Trận Khe Sanh năm 1968 đã cho thấy súng
175 ly của HK phải đưa vào phế thải ( Hồi ký của Tướng Westmoreland.
Sau này quân đội Mỹ chính thức phế
thải súng 175 ly vào năm 1979 ).
Còn súng đại bác tối tân nhất của
quân đội VNCH là súng 105 ly, chỉ bắn xa được 10 cây số cho nên
không thể “đọ súng” với đại bác 130 ly của CSVN ].
*Diễn tiến hành quân trên đây được viết
theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
Những chi tiết trong sách do Tướng
Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ
Giác Đài.
(8) TIỂU
ĐOÀN 21 BĐQ RÚT LUI, CĂN CỨ 31 MỞ ĐƯỜNG MÁU
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Ngày thứ 15, ngày 22-2
-Bộ chỉ huy hành quân quyết định vừa thả
bom vừa pháo tấp nập chung quanh cứ điểm Ranger South trong khi 13
trực thăng tản thương đáp khẩn cấp xuống Ranger South, bốc được 122
thương binh, kể cả 1 phi công Mỹ bị rơi máy bay tại khu vực gần
Ranger South.
Người phi công này là Hạ sĩ Dennis Fuji,
phi cơ của anh ta bị bắn rơi gần Ranger South 3 ngày trước, anh ta
là người duy nhất trong phi cơ còn sống sót.
Sau khi được cứu về Ranger South,
Fuji tình nguyện ở lại cứ điểm để làm người thông dịch chỉ điểm cho
máy bay và pháo binh HK.
Cũng nhờ Fuji mà cứ điểm đứng vững
qua nhiều cuộc tấn công của quân CSVN .
Lần này Fuji bị thương tới lần thứ
hai mới chịu lên trực thăng tản thương.
-Số binh sĩ BĐQ thuộc Tiểu đoàn 21 và 39
còn ở lại tử thủ Ranger South là 400 người.
Ngày thứ 16, ngày 23-2
-Tiểu đoàn 2/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh
VNCH đụng độ lớn với quân CSVN tai vùng A Ro, phía Nam sông
Tchephone.
Sư đoàn 1 BB đưa quân tiếp viện,
quân CSVN rút lui.
Ngày thứ 17, ngày 24-2,
-Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH xin 2 phi vụ B.52
thả bom vào nơi phát hiện có địch ngày hôm qua.
Sau đó quân Bộ binh tiến vào khu
vực thả bom, đếm được 156 xác cùng với vũ khí.
-Quân Bộ binh VNCH tại căn cứ hỏa lực Hotel
2 tại khu vực A Shao rời bỏ căn cứ để theo Trung đoàn 3 Bộ binh di
chuyển về hướng Tây theo như chỉ thị của tướng Nguyễn Văn Thiệu
trong ngày 19-2.
-Tiểu đoàn 21 BĐQ tại Ranger South nhận
được lệnh bỏ cứ điểm để di chuyển về Căn cứ 30.
Tại đây họ được trực thăng bốc về
Căn cứ Phú Lộc là nơi đóng quân của Bộ chỉ huy Liên đoàn 1 BĐQ/
VNCH.
-Phóng viên báo chí Mỹ chực tin tại căn
cứ Khe Sanh đã chụp được bức hình một người lính VNCH đang bám càng
chiếc trực thăng để thoát khỏi chiến trường.
Cơ quan quảng bá thông tin của CIA
( USID) cho xé to thành tin quân VNCH hèn nhát nên cuộc hành quân
không tiến nổi.
*Chú giải :
Sau này cựu Tổng thống Thiệu đã trả lời
phỏng vấn cho báo Der Spiegel của Đức :
“Tôi
chỉ cười thôi, tôi khinh bỉ hết sức.
Trong mấy chục ngàn quân, chỉ có
một người làm như thế; ấy thế mà báo chí
(Mỹ) buộc tội cho tất cả quân lính
VNCH là nhát như thỏ đế.
Rồi lại ỉm đi cái sự thật là một
số phi công trực thăng Mỹ đã thiếu tinh thần chiến đấu trong cuộc
hành quân đó”.( Trả lời phỏng vấn ngày 1-2-1979. Bản dịch của Cung
Thúc Tiến ).
Công bình mà nói, ông Thiệu đã hơi quá
đáng khi kết tội người lính đeo càng trực thăng cũng như kết tội các
phi công Mỹ.
Trời đất đã sinh ra con người với
cái bản năng sinh tồn có từ trong bụng mẹ.
Người lính đã hoảng hốt khi cái
chết ập đến, và bằng mọi giá anh ta phải thoát khỏi cái nơi đã không
có tiếp tế thức ăn và nước uống đã mấy ngày nay.
Đó là quân thù chưa ập tới, còn nếu như
họ ập tới thì chết chắc.
Trong lúc hoảng hốt anh ta đã
tranh nhau với mọi người lên máy bay;
trong khi đó người phi công tực
thăng thấy rằng trọng tải của máy bay đã đủ tải cho nên anh ta cho
máy bay cất cánh mà không ngờ rằng còn có người đang còn đứng dưới
càng trực thăng.
Hình ảnh này có rất nhiều trong
suốt cuộc chiến chứ không phải là duy nhất.
Người lính đó không có gì đáng
trách một khi anh ta đã làm đúng theo bản năng của con người.
Những người phi công trực thăng Mỹ cũng
vậy, họ không điên gì lao vào nơi mà họ biết là tử địa.
Họ không phải là những phi công
cảm tử của phi đội Thần Phong của Nhật.
Nhưng những phi công Nhật hành
động có tính toán, họ biết mạng sống của họ đổi lấy một cái gì đó to
lớn hơn sinh mạng của họ rất nhiều nên họ mới quyết định lao vào cái
chết.
Còn những phi công Mỹ cũng biết tính toán
cho nên họ thấy chỉ có ngu mới bay vào họng súng dày đặc của địch
quân mà chẳng được cái gì cả.
Con số 82 trực thăng bị bắn rơi và
618 chiếc khác bị trúng đạn cho thấy những người phi công Mỹ đã làm
đúng.
Và họ có quyền làm đúng, không có
một áp lực nào trên đời có thể buộc họ phải làm chuyện ngu xuẩn.
Chẳng qua là các ông ngồi ở Washington
không tính tới chuyện hễ máy bay trực thăng mà gặp cao xạ 12 ly 7
thì chỉ có nước chết.
Trong khi đó CSVN có tại trận địa
là 575 khẩu súng cao xạ.
Nếu tính là mỗi súng ít nhất hạ
được 1 trực thăng thì tất cả số trực thăng tham chiến của quân đội
Hoa Kỳ tại Hạ Lào đều bị bắn rơi.
Có một ông Tướng khác cũng có cái nhìn
chuyên môn của của giới quân sự, đó là Tướng Westmoreland.
Hồi ký của ông viết
:
“Vì hỏa lực phòng không của địch khá mạnh
nên một vài nơi không thể tiếp tế được nên các đơn vị này phải rút
lui. Rút lui trước hỏa lực mạnh của địch lúc nào cũng là công tác
khó khăn nhất của một đơn vị khi lâm trận”…
“Trong lúc đó, bất chấp làn mưa đạn của
địch, phi đội giải cứu vẫn tiến hành công tác.
Họ trở về với những trực thăng
khệnh khạng vì quá tải.
Binh sĩ VN có người phải bu càng
mà về vì không đủ chỗ ngồi.
Đối với những ai thấy rõ từ đầu tới cuối
mới cảm phục lòng can đảm của các chiến sĩ và sự gan dạ của các phi
công trực thăng; ngược lại với những bức hình do báo chí đăng tải,
có kèm theo những lời chú thích mang tính cách mạ lỵ và bôi nhọ rằng
các binh sĩ đó là hèn nhát và trốn chạy” ( Bản dịch của Duy Nguyên
trang 568 ).
Theo phân công phân nhiệm trước khi hành
quân thì Không quân Mỹ có nhiệm vụ tiếp tế lương thực và đạn dược
cho các cánh quân.
Nhưng một khi không có tiếp tế,
ngay cả nước uống, thì người lính không còn lòng dạ nào mà chiến
đấu, họ phải lo cho sinh mạng của họ trước.
Ngày thứ 18, ngày 25-2
-Lúc 11 giờ trưa, quân CSVN đồng loạt
pháo kích đủ các loại súng, kể cả 130 ly, vào Căn cứ hỏa lực 31.
Do sự lầm lẫn của phi công Hoa Kỳ
cho nên không có phi cơ quan sát bao vùng để hướng dẫn cho pháo binh
phản pháo hay gọi phi cơ thả bom
Mãi đến 2 giờ trưa mới có phi cơ
quan sát lên bao vùng.
*[ Thực ra là viên phi công của phi cơ
quan sát có nhiệm vụ bao vùng cho Căn cứ 31 ngày hôm đó đã trốn
không vào vùng.
Chỉ có phi cơ quan sát mới gọi
được máy bay thả bom, nếu không có phi cơ quan sát thì phi cơ chiến
đấu không được vào vùng hành quân.
Do đó Căn cứ 31 bị xe tăng tấn
công mà không có sự can thiệp kịp thời của phi cơ thả bom ].
-Lúc 1 giờ trưa, đại đội Dù hoạt động bên
ngoài Căn cứ 31 báo cáo xe tăng địch đang di chuyển về hướng Căn cứ.
Pháo binh tại Căn cứ 30 bắn yểm
trợ cho Căn cứ 31.
-Lúc 2 giờ trưa, súng đại bác trên xe
tăng của CSVN bắt đầu nả vào Căn cứ 31 và đoàn quân xe tăng cùng với
Bộ binh tấn công.
Phi cơ quan sát gọi phi cơ chiến
đấu vào vùng tấn công khoảng 20 xe tăng đang uy hiếp vòng rào phía
Nam của Căn cứ.
-Lúc 3 giờ 20, 1 phi cơ F.4 của Hoa Kỳ bị
trúng đạn và nổ tung, viên phi công nhảy dù ra được, các phi cơ
chiến đấu còn lại phải ngưng yểm trợ cho Căn cứ 31, quay sang tập
trung cứu hộ người phi công mới nhảy dù ra.
Trong khi đó trên vùng trời của
Căn cứ chỉ có 1 trực thăng chỉ huy của Ban tham mưu Sư đoàn Dù VNCH
với 1 khẩu đại liên M.60 đã bắn yểm trợ cho Căn cứ nhưng không thấm
thía gì.
-Lúc 5 giờ chiều, Căn cứ hỏa lực 31 bị
tràn ngập sau 40 phút cầm cự.
Một số quân Dù mở đường máu thoát
ra ngoài, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù và Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 3 Pháo
binh Dù bị bắt.
Có tất cả 155 lính Dù bị chết và
mất tích cùng với vũ khí của họ, và 6 khẩu đại bác 105 ly bị phá
hủy.
Phía CSVN có khoảng 250 chết và 11
xe tăng bị bắn hạ.
Ngày thứ 19 ngày 26-2,
-Cánh quân phối hợp giữa Tiểu đoàn 8 Dù
và Chi đoàn 17 Thiết kỵ hoạt động tại vùng phía Bắc Căn cứ A Lưới đã
đụng 3 trận lớn với quân CSVN vào ngày 25-2, 27-2 và đêm 1-3.
Tổng cộng quân VNCH có 27 chết,
186 bị thương, 1 mất tích. Và 3 xe tăng M.41 cùng với 25 thiết vận
xa M.113 bị bắn cháy.
Phía CSVN có 1.130 chết, 2 bị bắt, thu
300 vũ khí các loại.
Và 6 xe tăng T.54, 17 xe tăng
PT.76, 2 xe vận tải Molotova bị bắn cháy.
Theo lời khai của 2 tù binh thì họ
thuộc Trung đoàn 24 và Trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308 CSVN.
Trong 3 trận vừa qua họ đã thiệt
hại mất một nửa quân số.
Ngày thứ 20, ngày 27-2
Một trực thăng H.53 bị bắn rơi trong khi
đang cẩu một khẩu súng đại bác 105 ly ra khỏi Căn cứ Hotel 2.
BCH Trung đoàn 3 Bộ binh VNCH và
Tiểu đoàn pháo binh trực thuộc nhận được lệnh rời khỏi căn cứ Hotel
2 để tiến nhanh về huớng Tây theo Liên tỉnh lộ 914 của Lào.
*Diễn tiến hành quân trên đây được viết
theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
Những chi tiết trong sách do Tướng
Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ
Giác Đài.
(9)
THAY ĐỔI KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Giai đoạn 2 B :
Từ A Lưới tiến vào Tchepone
Ngày thứ 21,
ngày 28-2
-Buổi sáng, Tướng Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị
Tướng Hoàng Xuân Lãm cho 2 lữ đoàn TQLC đang nằm trừ bị vào thay thế
cho 2 lữ đoàn Dù đã mệt mỏi sau các trận đụng độ.
Tướng Lãm và Bộ tham mưu hành quân nhận
thấy việc thay quân như vậy rất nguy hiểm; vả lại các phi công trực
thăng HK không chịu bay vào vùng phía Bắc sông Tchepone là nơi đóng
quân của các đơn vị Dù.
Vì vậy Tướng Lãm bay vào Sài Gòn
với
một kế hoạch tiến quân khác.
Tướng Thiệu chấp thuận kế hoạch của Tướng
Lãm :
Đưa 2 lữ đoàn TQLC đang nằm trừ bị
tại Căn cứ khe Sanh đến thay thế 2 trung đoàn Bộ binh của Sư đoàn 1
BB đang hoạt động ở phía Nam sông Tchepone.
Bốc 1 trung đoàn Bộ binh ở phía
Đông Nam sông Tchepone đổ xuống chiếm giữ các cao điểm phía chính
Nam thị trấn Tchepone để hỗ trợ cho trung đoàn Bộ binh khác được đổ
xuống phía Bắc Tchepone rồi từ đó tiến vào Thị trấn Tchepone.
*Chú giải :
Sở dĩ phải dùng 2 lữ đoàn TQLC
thay thế 2 trung đoàn BB vì :
(1) Lâu nay các lữ đoàn TQLC hành quân biệt
lập, chưa bao giờ hành quân cấp sư đoàn cho nên hệ thống phối hợp
chỉ huy không được thuần thục, trong khi đó tình hình đòi hỏi đơn vị
chiếm đóng trong Tchepone và đơn vị hỗ trợ ở phía Nam Tchepone cần
phải có sự thống nhất chỉ huy.
(2) Quân lính của Sư đoàn 1 Bộ binh rành
địa hình, địa thế của Tchepone hơn là quân TQLC.
(3) Với nhiệm vụ hỗ trợ cho các cánh quân
của Sư đoàn 1 BB, hai lữ đoàn TQLC vẫn được duy trì như là lực lượng
trừ bị, sẵn sàng được bốc đi cứu ứng cho các nơi khác khi cần thiết.
(4) Khuc vực hành quân của Sư đoàn 1 BB ở
phía Nam sông Tchepone không có lực lượng đối kháng của CSVN, cũng
không có lực lượng phòng không CSVN cho nên các phi công trực thăng
Mỹ có thể an tâm thực hiện các phi vụ đổ quân hay thay quân.
*Chú giải :
Kế hoạch được thay đổi bằng một
sáng kiến tuyệt vời
Quân CSVN đã thiết trí súng phòng không
dày đặc từ A Lưới đến Tchepone. Cuộc tiến quân từ bị khựng lại vì
phi công trực thăng Mỹ không chịu bay tiếp tế hay tản thương.
Các pilot Mỹ có lý của họ và họ có
quyền từ chối bay.
Tình hình trở nên bế tắc đối với
Tướng Abrams là người chỉ huy tổng quát Liên quân Việt-Mỹ.
Thế nhưng Tướng Hoàng Xuân Lãm đã gỡ thế bí
cho tướng Abrams bằng cách mở một hành lang trực thăng vận sâu về
phía Nam sông Tchepone ( Dọc theo đường 914 ), là vùng không có bố
trí lực lượng phòng không.
Tuyệt vời hơn nữa là không đổ quân xuống
tại Tchepone hay tại phía Nam Tchepone, mà lại đổ xuống cứ điểm Hope
ở phía Bắc Tchepone rồi từ đó mới hành quân tạt về Tchepone ( “búa”
) để tập trung tại khu vực phía Nam Tchepone là khu vực an toàn đối
với quân VNCH ( “đe” ).
Trước đó cũng đã có một cánh quân
được đổ xuống Nam Tchepone ( Căn cứ Sophia và căn cứ Liz ) để yểm
trợ cho cánh quân Bắc Tchepone tiến vào thị trấn.
Và hay hơn hết là không dùng lực lượng trừ
bị TQLC để tiến vào Tchepone như kế hoạch hành quân đã định sẵn, mà
lại dùng TQLC trám chỗ cho Sư đoàn 1 Bộ binh để cho sư đoàn Bộ binh
có thể tiến tới Chepone với một đoạn hành trình ngắn hơn.
Ngoài ra binh sĩ của Sư đoàn 1 Bộ binh
rất rành địa thế của vùng Hạ Lào cho nên họ có thể tìm được đường về
nếu thất trận và mất liên lạc với đơn vị.
Phải nói Tướng Lãm đã chứng minh
được tài năng quân sự xuất chúng của ông với kế hoạch thay đổi này.
Nhưng tiếc là Tướng Lãm đã vô tình phạm
vào một điều đại cấm kỵ, đó là ông đã vượt quyền của Đại tướng Cao
Văn Viên và Đại tướng Abrams mà trình bày trực tiếp với Tổng tư lệnh
Nguyễn Văn Thiệu.
Rồi sau đó Tướng Thiệu đã chấp
thuận mà không thông báo cho Abrams cũng như Cao Văn Viên.
Ngay khi biết chuyện tướng Viên đã
nạp đơn xin từ chức.
Mặc dầu Tướng Thệu không chấp
thuận nhưng từ đó Tướng Viên lộ rõ thái độ bất mãn.
Ngoài ra cũng trong cuộc gặp Tướng Thiệu,
Tướng Lãm đã cho Tướng Thiệu biết cuộc hành quân đã bị khựng lại là
vì các phi công trực thăng Mỹ từ chối bay hành quân mà tướng Abrams
không giải quyết được.
Và trong khi còn đang nói chuyện với
Tướng Lãm, Tổng thống Thiệu nhờ Thượng nghị sĩ Trần Văn Hương họp
báo ngay để tố cáo việc phi công Mỹ từ chối nhiệm vụ nhằm cứu đoàn
quân gặp nguy hiểm trên đất Lào.
Nếu không có máy bay tiếp tế thì
đoàn quân chỉ còn có cách mở đường máu trở về.
-Cũng trong buổi sáng ngày 28-2, tại Sài
Gòn, Nghị sĩ Trần Văn Hương họp báo tố cáo Không quân Mỹ vô trách
nhiệm, không chịu tiếp tế và tản thương binh sĩ VNCH trên đất Lào
như đã được phân công.
*Chú giải :
Như vậy là chính khách VNCH và báo
chí đã can thiệp vào lệnh hành quân của liên quân Việt Mỹ !! …
Một chuyện chưa từng xảy ra trong
lịch sử chiến tranh cận đại của thế giới.
Trong khi lẽ ra sự can thiệp này
phải đến từ Đô Đốc McCain, Tư lệnh quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương
hoặc là từ Ngũ Giác Đài.
Sở dĩ Tư lệnh Thái Bình Dương và Ngũ Giác
Đài lúng túng với trục trặc này bởi vì giới chức có thẩm quyền của
cuộc hành quân lại là Luật sư Nixon và Giáo sư Kissinger; hai ông
này chẳng biết gì về tham mưu hành quân nhưng lại chỉ huy trực tiếp
Tướng Abrams chứ không thông qua Tướng McCain hay các ông tướng của
Ngũ Giác Đài.
Abrams gặp trở ngại nhưng không thể trực
tiếp trình xin Kissinger hay Nixon giải quyết, cho nên Tổng thống
Thiệu phải nhờ nghị sĩ Hương và báo chí.
Ngày thứ 22, ngày 29-2,
Không có sự kiện nào được ghi nhận
(10) THI HÀNH KẾ HOẠCH CỦA TƯỚNG
LÃM
*( Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến
Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh )
Kế hoạch hành quân thay đổi, không vào
Tchepone bằng Quốc lộ 9
Ngày thứ 22, ngày 1-3
-Sáng sớm, phi cơ C.130 võ trang (đại bác
105 ly) phát hiện 8 xe tăng CSVN di chuyển tại khu vực phía tây Căn
cứ A Lưới, cách 8 cây số.
Phi cơ tấn công đoàn tăng, có vài
chiếc bị tiêu diệt.
-Buổi trưa, Tướng Abrams cùng với Đại sứ
Bunker đến gặp Tổng thống Thiệu để giải thích về cáo buộc của Nghị
sĩ Trần Văn Hương trong ngày hôm qua.
-Trong ngày, để hỗ trợ cho kế hoạch đổ
quân vào Tchepone, Trung đoàn 3 của Sư đoàn 101 Dù HK sẽ đến thay
thế quân của Sư đoàn 2 Bộ binh VNCH đang trấn giữ phía Nam khu phi
quân sự.
Đồng thời Trung đoàn 11 của Sư
đoàn 23 Bộ binh HK chịu trách nhiệm phòng thủ khu vực Bắc đèo Hải
Vân và gởi thêm lực lượng tăng cường cho Trung đoàn 3 Dù HK tại phía
Nam khu phi quân sự.
Trong khi đó Sư đoàn 2 Bộ binh
VNCH ( 10.000 người ) giao khu vực trách nhiệm cho quân đội Mỹ để
sẵn sàng hành quân sang Lào.
-Ngoài ra Tiểu đoàn 4 Thiết kỵ của Sư đoàn
1 BB/VNCH và Tiểu đoàn 7 Thiết kỵ của Sư đoàn 2 BB/VNCH sẽ vào vùng
hành quân, tăng cường cho Lữ đoàn 1 Thiết kỵ.
-Bộ tư lệnh Quân đoàn 1/VNCH cũng điều động
Tiểu đoàn 77 Biệt động quân ( 500 người ) từ Quảng Tín ra tăng cường
phòng thủ Căn cứ Khe Sanh, thay thế cho quân Dù Mỹ.
-Buổi trưa, phi cơ chiến đấu phát hiện và
tấn công 2 xe tăng CSVN đang di chuyển khoảng giữa biên gới Lào Việt
và căn cứ A Lưới, 1 tăng bị bắn cháy.
*Chú giải : Sau này có nhiều nhà bình
luận quân sự “dỏm” cho rằng cuộc hành quân bị thất bại (?) là do kế
hoạch hành quân của VNCH bị tiết lộ trước, nhất là sau khi chiếc
trực thăng của Đại Tá Thọ bị bắn rơi mà trong đó có phóng đồ cuộc
hành quân Lam Sơn 719.
Tuy nhiên điều này hoàn toàn trật
lấc :
Ngày 28-2-1971, khi cuộc hành quân
mới tiến hành được giai đoạn đầu thì Tướng Thiệu chấp nhận một kế
hoạch hành quân khác của Tướng Lãm, và qua ngày sau thì cuộc hành
quân đã thay đổi mà chỉ có Tướng Thiệu và Tướng Lãm, Tướng Phú mới
biết.
Đối với phía Mỹ thì Tướng Thiệu và Tướng
Lãm đưa quân Sư đoàn 2 BB từ trong Quảng Ngãi, Quảng Tín ra thay
quân Mỹ tại vùng Khe Sanh để chuẩn bị tràn sang Lào một khi tình
hình chiến trường cần thêm quân.
Tuy nhiên đây chỉ là một động tác
ảo bởi vì kế hoạch hành quân mới của Tướng Lãm chỉ là một cuộc đột
kích ( Kỳ tập ), chỉ cần đánh nhanh và rút nhanh, chứ không phải là
một cuộc tấn chiếm ( Cường tập ).
Động tác giả này nhằm đánh lừa CSVN… và
cả Mỹ…!
Tướng Abram đinh ninh rằng Thiệu
quyết ăn thua đủ nên mới thay Sư đoàn Bộ binh Mỹ tại Khe Sanh bằng
Sư đoàn 2 BB.
Và theo như lệnh hành quân ban
đầu, từ Ngũ Giác Đài, thì Tướng Lãm chỉ huy quân Việt trên đất Lào,
còn Tướng Sutherland chỉ huy quân đội Mỹ trên đất Việt ( 1 sư đoàn
bộ binh ).
Nhưng một khi đã thay quân Bộ binh
Mỹ trên đất Việt thì vô tình tướng Sutherland không còn tham gia chỉ
huy cuộc hành quân.
Do đó phía Mỹ hoàn toàn mù tịt về
kế hoạch đột kích vào Tchepone của Tướng Lãm.
Rốt cuộc Tướng Thiệu đã vô hiệu hóa mưu đồ
của Nixon và Kissinger, ông đã khéo léo và lắt léo đẩy các tướng
lãnh Mỹ ra khỏi cuộc hành quân do chính Nixon và Kissinger là đạo
diễn. *( Xin đọc các hồi cuối sẽ rõ vì sao Nixon và Kissinger không
công nhận chiến thắng Hạ Lào của Nguyễn Văn Thiệu ).
Ngày thứ 23, ngày 2-3
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 7 TQLC/VNCH
xuống Căn cứ Delta để thay thế cho Trung đoàn 1 Bộ binh ( 2.500
người ) hành quân vào Tchepone.
Sau đó BCH Lữ đoàn 147 TQLC
(2.200 người ) cùng với Tiểu đoàn
2 ( 650 người ) và Tiểu đoàn 4 TQLC ( 650 người ) cũng được đổ xuống
Delta, các tiểu đoàn bung ra hoạt động chung quanh Delta
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 8 TQLC/VNCH (
650 người ) xuống Căn cứ Hotel để thay thế Trung đoàn 2 Bộ binh hành
quân vào Tchepone.
Sau đó BCH Lữ đoàn 258 TQLC/VNCH
cùng với Tiểu đoàn 1 ( 650 người ) và Tiểu đoàn 3 TQLC ( 650 người )
cũng xuống căn cứ Hotel. Các tiểu đoàn TQLC hành quân lục soát trong
vùng Co Roc và Bravo.
-Trong thời gian 1 tuần sau ngày đổ quân,
các đơn vị của TQLC đã chạm địch và giết 361 người, tịch thu 59 vũ
khí.
Ngoài ra cũng phát hiện được 153
xác CSVN sau một cuộc oanh kích của Không quân Mỹ.
Ngày thứ 24, ngày 3-3
-Lúc 1 giờ sáng, quân CSVN pháo kích dữ
dội vào Căn cứ 30.
Dứt đợt pháo quân bộ binh CSVN
phối hợp với xe tăng áp sát vào chân đồi Căn cứ 30.
Vì chân đồi được máy ủi ủi thành
bậc cấp cao cho nên xe tăng không thể tiến lên được. Phi cơ C.123
gun ship và Phi cơ Hỏa Long yểm trợ cho Tiểu đoàn 2 Dù tiếp tục cầm
cự cho tới sáng.
-Lúc 9 giờ sáng, phi cơ chiến đấu thả bom
chung quanh đồi 30.
Sau đợt bom, quân Dù lục soát xung
quanh căn cứ và đếm được 98 xác, thu 26 AK.47, 8 B.40 và 2 đại liên
ngay tại hàng rào phòng thủ của Căn cứ.
Phía quân Dù có 1 chết và 4 bị
thương.
Tuy nhiên đợt pháo kích vừa qua và
các đợt pháo kích trước đó đã làm hư hỏng toàn bộ 12 khẩu đại bác
trong Căn cứ.
Trong khi đó đạn pháo của quân
CSVN phá hỏng ăng ten truyền tin nên 2 ngày nay Căn cứ hỏa lực 30
chỉ liên lạc được với phi cơ bay trên trời.
-Buổi trưa, Tiểu đoàn 2 Dù nhận được lệnh
rời khỏi Căn cứ 30 bằng đường bộ cùng với thương binh.
( Nguyễn Duy Hinh, Lam Son 719,
trang 75;
căn cứ theo hồ sơ lưu trữ của Ngũ
Giác Đài.
Tuy nhiên không đúng với sự thực.
Sự thực theo bút ký của Đại úy
Pháo binh Trương Duy Hy : Trưa ngày 3-3, Tiểu đoàn 2 Dù đánh lên
không trung một bức điện nhờ phi cơ nhắn với cấp chỉ huy của họ rằng
hai ngày nay họ cũng đã hết lương thực và nước uống nhưng trong hai
ngày nay họ không còn liên lạc gì được với Bộ chỉ huy hành quân ,
vì vậy họ đành phải di tản khỏi
Căn cứ).
-Đêm 3-3, Chi đoàn 17 Thiết kỵ và Tiểu
đoàn 8 Dù ( 550 người ) đụng địch tại 5 cây số phía Bắc Căn cứ A
Lưới.
Kết quả giết 383 người, bắt sống
2; tịch thu 71 vũ khí cá nhân và 28 vũ khí cộng đồng.
Phía VNCH có 100 chết và bị
thương, 10 xe thiết giáp bị phá hủy.
-Trực thăng đổ Tiểu đoàn 1/1 BB của Sư
đoàn 1 Bộ binh VNCH ( 500 người ) xuống cứ điểm Lolo, cách Tchepone
13 cây số về hướng Đông Nam.
Cuộc đổ bộ đã chạm phải sự kháng
cự mãnh liệt của lực lượng CSVN đang phòng thủ tại đây.
Không quân Hoa Kỳ thả bom dọn sạch
bãi đáp và khu vực chung quanh bãi đáp.
Kết quả Tiểu đoàn 1 BB đã được đổ
bộ nhưng Không quân Mỹ có 11 trực thăng bị bắn rơi, 44 chiếc khác bị
trúng đạn và 2 máy ủi bị hư hỏng sau khi dù chạm đất.
Ngày thứ 25, ngày 4-3
-Sáng sớm, đoàn trực thăng tản thương cho
Tiểu đoàn 8 Dù không đáp xuống được do đạn pháo của quân CSVN.
Sau khi phi cơ chiến đấu thả bom
thì trực thăng bốc được 77 thương binh Dù và thả xuống 1 đại đội Dù.
Một trực thăng bị bắn rơi trong
khu vực của quân CSVN. ( Toàn bộ phi hành đoàn sống sót nhưng họ
phải lẫn trốn trong rừng và gọi máy kêu cứu, mãi đến 2 ngày sau thì
Không quân HK mới bắt được tín hiệu của họ).
-Trực thăng đổ BCH Trung đoàn 1 BB (
2.500 người ) cùng với Tiểu đoàn 2/1 ( 500 người ) và Tiểu đoàn 1
Pháo binh xuống Căn cứ Lolo.
Đồng thời đổ Tiểu đoàn 4/1 ( 500
người ) xuống cứ điểm Liz, cách Lolo 5 cây số về hướng Tây Bắc.
Ngày thứ 26, ngày 5-3
Tại khu vực phía Bắc Quốc lộ 9, đoàn Thiết
giáp tiếp viện cho Chi đoàn 17 Thiết kỵ và Tiểu đoàn 8 Dù đã đến nơi
xảy ra chiến trận đêm 3-3, mang về 43 thương binh của Chi đoàn Thiết
giáp.
Buổi sáng, tại Căn cứ Alpha, Tiểu đoàn 4
TQLC ( 650 người ) chạm địch và giết 130 người, tịch thu 28 súng,
trong đó có 2 súng cối 82 ly.
Phía TQLC có 4 chết và 42 bị
thương.
-Cũng buổi sáng, Tiểu đoàn 4/1 Bộ binh (
500 người ) hành quân tại khu vực gần Căn cứ Liz đã chạm địch, giết
41 người, thu 15 vũ khí, trong đó có 2 súng cối. Phía Tiểu đoàn Bộ
binh vô sự.
-Lúc 1 giờ 20 trưa, trực thăng đổ Trung
đoàn 2 BB ( 2500 người ) thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH xuống Căn cứ
Sophia, cách thị trấn Tchepone 4 cây số rưỡi về hướng Tây Nam.
-Đến tối 8 khẩu đại bác của Tiểu đoàn Pháo
binh thuộc Trung đoàn 2 Bộ binh sẵn sàng tác chiến.
Tướng Abrams cách chức Cố vấn Sư đoàn Dù
là Đại tá William Pence, thay thế bằng Đại tá James Vauhgt.
Đặc biệt Đại tá Vauhgt làm việc
trực tiếp với Abrams chứ không qua người chỉ huy quân đội Hoa Kỳ
trong cuộc hành quân là Tướng Sutherland.
Bắt đầu từ ngày này, với sự bảo đảm yểm
trợ hữu hiệu của Không quân Mỹ, quân VNCH tại khu vực phía Nam sông
Tchepone lên tinh thần, họ chiến đấu mãnh liệt và dai dẳng;
tìm kiếm và đánh bại quân thù bất
cứ nơi nào.
Cũng trong ngày này, Không quân Mỹ nghi
ngờ quân CSVN bắt đầu sử dụng hỏa tiễn địa đối không ( SAM.2 ).
Loại hỏa tiễn này trước đây chỉ
được bố trí phòng thủ tại các thành phố phía Bắc vĩ tuyến 17.
Ngày thứ 27, ngày 6-3
-Buổi sáng, Tiểu đoàn 4/2 và tiểu đoàn 5/2
Bộ binh thuộc Sư đoàn 1 BB VNCH lục soát xung quanh căn cứ Sophia
tìm thấy 124 xác quân CSVN bị chết do trận thả bom dọn bãi đáp vào
trưa hôm qua, thu 43 súng AK.47, 9 súng phòng không 12ly7, 4 súng
trung liên RPD, 9 súng chống tăng B.40, 3 máy truyền tin vô tuyến.
-Buổi sáng, phi cơ B.52 và phi cơ thả bom
các loại của Không quân Hoa Kỳ tập trung thả bom tại khu vực
Tchepone để dọn dường cho cuộc độ bộ của quân Bộ binh VNCH xuống
Tchepone.
-Buổi trưa, căn cứ Khe Sanh bị pháo
khoảng 22 quả hỏa tiễn 122 ly.
2 lính Mỹ bị chết và 10 bị thương.
-Cuộc pháo kích vào Khe Sanh khiến cho
cuộc đổ bộ xuống Tchepone được tiến hành sớm hơn dự định 90 phút.
120 phi cơ trực thăng Mỹ chở 3
Tiểu đoàn Bộ binh VNCH để đổ xuống Tchephone.
-Lúc 1 giờ 43 trưa, từ Căn cứ Sophia,
trực thăng bốc Tiểu đoàn 2/2 và 3/2 thuộc Sư đoàn 1 BB/VNCH ( mội
tiểu đoàn 500 người ) cùng với Đại đội trinh sát Trung đoàn 2 (100
người ) và Ban tham mưu
Trung đoàn 2 Bộ binh đáp xuống Căn
cứ Hope, cách Tchepone 4 cây số về hướng Bắc.
Chỉ có vài tiếng súng phòng không
rời rạc.
*Diễn tiến hành quân trên đây được viết
theo sách “Lam Son 719” của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
Những chi tiết trong sách do Tướng
Hinh căn cứ theo “nhật ký hành quân” của MACV còn lưu lại tại Ngũ
Giác Đài.
BÙI ANH TRINH
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *