* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV
PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT NBCSPORT ESPNSPORT - EPOCH
Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng
Huy Văn Trương:
CHIẾN TRANH BÊN CẠNH TÌNH YÊU
Chương
IV:
Dưới
chân đỉnh Lâm Viên
Tốt nghiệp sĩ
quan trừ bị Thủ Đức, tôi nhận đơn vị mới, Trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi
có cái may mắn được ở hai quân trường lớn đào tạo nhiều sĩ quan tài
giỏi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi quân trường là một thế giới
hoàn toàn khác biệt nhau, từ hình thức đến nội dung. Trường Võ Bị Đà
Lạt lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm khuôn mẫu, trong khi
Trường Bộ Binh Thủ Đức đào tạo sĩ quan dựa theo mẫu mực của Trường
Fort Benning Hoa Kỳ.
Nếu muốn tìm
hiểu tỉ mỉ, tường tận về sự khác biệt của hai quân trường này, tôi e
rằng mình không đủ kiến thức cũng như khả năng phân tích, tổng hợp
rồi đưa đến kết luận chính xác đầy đủ. Tôi chỉ muốn nói đến một vài
khía cạnh dị biệt nho nhỏ có liên quan đến mình.
Với Trường Bộ
Binh Thủ Đức, thời gian đào tạo sĩ quan tùy theo tình hình chiến sự
ở bên ngoài sôi động hay lắng dịu. Vào những năm cuối thập niên sáu
mươi vì nhu cầu khẩn cấp của chiến trường, thời gian thụ huấn của
Sinh viên sĩ quan Thủ Đức bị rút ngắn lại, chỉ còn hai tháng học làm
lính ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung, bốn tháng học cách chỉ huy
một trung đội ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, tổng cộng thời gian ở quân
trường chỉ vỏn vẹn có sáu tháng. So với bốn năm huấn luyện của
Trường Võ Bị Đà Lạt, thời gian ở quân trường của chúng tôi chỉ bằng
một phần tám thời gian của Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. Hậu quả
của việc đốt giai đoạn, tháng 3 năm 1969, khóa của tôi có khoảng hai
ngàn sĩ quan tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy, ba năm rưỡi sau, nghị
định thăng cấp trung úy chỉ còn lại khoảng một ngàn rưỡi, năm trăm
chuẩn úy và thiếu úy đã đền nợ nước.
Trường Võ Bị Đà
Lạt là quân trường đào tạo sĩ quan hiện dịch cho Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, kể từ khóa 22B chương trình đào tạo sĩ quan kéo dài bốn
năm. Vì quan niệm rằng, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt sẽ là thành
phần nòng cốt, rường cột của quốc gia sau này nên Tổng Thống Đệ nhất
Cộng Hòa đã dành nhiều ưu tiên cho trường, chẳng hạn về phần cơ sở
vật chất, công trình xây cất Trường Võ Bị Đà Lạt mới được hoàn tất
vào năm 1961, kiến trúc theo kiểu Mỹ với những tòa nhà cao bốn tầng,
rộng rãi, khang trang bề thế, đầy đủ tiện nghi cho hơn một ngàn sinh
viên sĩ quan sinh sống và học tập. Thêm một điểm nhỏ nhưng cũng được
lưu ý kỹ càng là cách ăn mặc. Sinh viên sĩ quan Đà Lạt có tất cả hơn
chục bộ quần áo đủ loại, đó là:
Một bộ đồ đại
lễ màu trắng, mũ kết màu trắng, dây biểu chương màu vàng, gù vai
Alpha màu đỏ hình con rồng.
Mùa hè gồm có
một bộ làm việc, một bộ dạo phố một bộ tiểu lễ, một bộ đại lễ.
Mùa đông có một
bộ làm việc, một bộ dạo phố, một bộ tiểu lễ, một bộ đại lễ.
Một bộ vest dân
sự, sinh viên năm thứ tư mặc lúc đi phép.
Chi tiết về
hàng chục bộ quần áo, lễ phục của sinh viên, không biết tôi nhớ như
vậy có đúng hay không?
Về phần huấn
luyện, Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt trong một năm có ba tháng học
về quân sự, chín tháng học văn hóa, chương trình học kéo dài bốn
năm, sinh viên sĩ quan tốt nghiệp được cấp văn bằng Cử Nhân Khoa Học
ứng Dụng. Để rèn luyện thể chất, Sinh viên sĩ quan Võ Bị còn học
thêm về Taekwondo và Aikido. Riêng về Aikido được đặc biệt chú
trọng, vì Thiếu tướng Chỉ huy trưởng mang huyền đai đệ nhị đẳng
Aikido. Mồi kỳ thi lên đai đều do ông chấm điểm. Khi tốt nghiệp 4
năm, Sinh viên sĩ quan Võ BỊ thường đã có đai nâu hoặc huyền đai đệ
nhất đẳng Taekwondo.
Văn võ toàn
tài, đó là lý do khiến cho sĩ quan tốt nghiệp Võ BỊ Đà Lạt, lúc nào
cũng hãnh diện về ngôi trường của mình.
Để điều hành,
Trường Võ Bị Đà Lạt được chia ra làm ba khối: Văn hóa, Quân sự và
Tham mưu.
Khối Quân sự,
đa số sĩ quan thuộc khối này là những sĩ quan đã tốt nghiệp Trường
Võ Bị Đà Lạt.
Khối Văn hóa,
ngoại trừ những sĩ quan có bằng Cao học, Tiến sĩ, tốt nghiệp ở ngoại
quốc, số còn lại là sĩ quan tốt nghiệp Trường Bộ Binh Thủ Đức để
Sinh viên sĩ quan Thủ Đức sau khi tốt nghiệp, muốn về Trường Võ Bị
Đà Lạt, một trong nhiều điều kiện là phải có văn bằng Cử nhân hoặc
cao hơn.
Tôi, tốt nghiệp
Trường Bộ Binh Thủ Đức, chỉ có cái Tú tài II. Khi về Trường Võ Bị Đà
Lạt, chốn dung thân duy nhất cho tôi là Khối Tham mưu.
Ngày xưa khi
đậu Tú tài II, tôi tự đánh giá là mình ngu cho nên không chịu tiếp
tục việc học. Quan niệm đó xem ra đã lỗi thời, vì sau một thời gian
làm việc ở Trường Võ Bị Đà Lạt, sống trong một môi trường mà sĩ quan
Văn hóa vụ hay Quân sự vụ đều lấy văn bằng Cử nhân làm căn bản. Nhìn
quanh mình, ông sĩ quan nào cũng gắn cái bằng Cử nhân trước ngực
khiến tôi tự cảm thấy xấu hổ, mang nặng mặc cảm. Chuyện đời, gần mực
thì đen gần đèn thì sáng, sau vài năm lông bông, thấy không được cái
tích sự gì, tôi ghi danh học ở Viện đại học Đà Lạt với quyết tâm
phải lấy cho được cái bằng Cử nhân.
Tôi làm việc ở
Trung tâm hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt. Ở đây, sĩ quan trực hai
mươi bốn giờ sau đó nghỉ hai mươi bốn giờ, có nghĩa là làm việc một
ngày rồi nghỉ một ngày, nếu làm một phép tính đơn giản một năm chỉ
làm việc có 182 ngày rưỡi, 182 ngày rưỡi còn lại, tôi được tự do
hoàn toàn, đi học hay đi chơi tùy mình quyết định.Tôi ghi danh vào
Đại học Văn khoa, bởi vì trong tất cả các phân khoa ở Viện đại học
Đà Lạt, Văn khoa là nơi dễ dàng nhất trong việc điểm danh.
Chương
V:
Hai
ngày trong đời của một sĩ quan trực
Trung
tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt.
Ngày
thứ nhất: Đời sống quân ngũ, “An Lộc trong bão lửa”.
Sáu giờ sáng,
tôi thức dậy, vệ sinh cá nhân, tắm rửa.
Sáu giờ rưỡi,
hôm nay thứ Hai đầu tuần, tôi mặc bộ đồ làm việc mùa đông để đi làm,
bộ đồ này giống như bộ tiểu lễ mùa đông chỉ khác là không mang dây
biểu chương, khi mùa nóng đến, trường sẽ có thông báo thay quân phục
mùa hè. Tôi đang ở cư xá sĩ quan độc thân Thủy Tiên II của Trường Võ
Bị Đà Lạt. Cư xá nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ ngay trung tâm thành
phố, cách khu phố Hòa Bình chừng mười phút đi bộ.
Bảy giờ kém,
tôi đi bộ ra trước rạp ciné Hòa Bình, xe bus của trường đã đậu sẵn ở
đó để chở nhân viên dân chính và quân nhân đi làm. Sáng mùa đông,
trời Đà Lạt lạnh buốt, tôi thường đi làm bằng xe bus của trường vì
trên xe bus đông người, cửa đóng kín cho nên bầu không khí trong xe
ấm hơn. Nếu không thích đi xe bus, tôi có thể dùng chiếc xe Honda
hai bánh cũ rích, tróc sơn, mòn vỏ của mình để đi làm.
Tám giờ kém
mười, xe bus đổ tại tòa nhà Bộ chỉ huy.
Tám giờ, tôi
vào Trung tâm hành quân, nhận bàn giao phiên trực với trung úy Hàn,
sĩ quan hạ phiên. Lệ thường, Trung tâm hành quân của một đơn vị phải
được đặt ở nơi an toàn tối đa, chìm sâu dưới mặt đất với nhiều lớp
bao cát bao phủ ở bên trên. Chỉ riêng Trung tâm hành quân của Trường
Võ Bị Đà Lạt hơi khác thường, đó là một căn phòng rộng khoảng ba
chục thước vuông, trang trí gọn gàng sạch sẽ năm ở tầng hai của tòa
nhà Bộ chỉ huy, chung quanh là cửa kính sáng loáng bao bọc nhìn ra
Vũ Đình Trường Lê Lợi. Ở đây, người ta có thể quan sát rõ ràng, tất
cả những diễn tiến của lễ mãn khóa được tổ chức thường xuyên hàng
năm. Đó là lý do tại sao Trung tâm hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt
được đặt ở một nơi hớ hênh như vậy. Gặp khi chiến trận xảy ra, chỉ
cần một trái đạn pháo 82 ly của Việt Cộng rơi vào là Trung tâm hành
quân sẽ bị tê liệt, bị phá hủy hoàn toàn. Nơi góc phòng của Trung
tâm hành quân có hai giường nệm, một dành cho sĩ quan trực và một
dành cho hạ sĩ quan. Trong phòng còn có hai bàn làm việc, với hơn
chục cái điện thoại đủ loại, từ điện thoại liên lạc nội bộ, điện
thoại liên lạc trong tỉnh cho đến điện thoại viễn liên có thể liên
lạc khắp miền nam Việt Nam. Một bản đồ trường Võ Bị và một bản đồ
thị xã Đà Lạt gắn trên tường.
Tám giờ đến
mười một giờ sáng, tất cả giấy tờ liên hệ đến Trung tâm hành quân đã
có hạ sĩ quan trực lo liệu. Tôi ngồi vào bàn làm việc của mình, chép
lại bài học của ngày hôm trước. Những bài học này, tôi mượn của
người bạn gái học chung lớp ở Viện đại học Đà Lạt. Thiếu tá trưởng
phòng không thắc mắc gì về chuyện tôi học bài trong giờ làm việc.
Ông chỉ cần biết là tôi đã chu toàn bổn phận được giao phó.
Mười một giờ,
tôi thả bộ qua Câu lạc bộ sĩ quan cách đó vài trăm thước ăn cơm
trưa, đi bộ cho giãn gân giãn cốt sau mấy giờ ngồi một chỗ. Nếu lười
biếng tôi có thể nhấc điện thoại lên, bữa cơm trưa từ Câu lạc bộ sẽ
được đem tới phòng làm việc của tôi, lẽ dĩ nhiên ăn cơm Câu lạc bộ
thì phải trả tiền.
Mười hai giờ
tới một giờ, tòa nhà chỉ huy ngưng hoạt động, mọi phòng ban đều đóng
cửa nghỉ trưa. Tất cả những cú điện thoại từ bên ngoài gọi vào
trường đều đi qua Trung tâm hành quân. Tôi là người trả lời điện
thoại.
Một giờ chiều,
tôi lấy chiếc xe Jeep của phòng đi qua Quân Trấn họp. Trung tâm hành
quân lúc ấy chỉ còn người hạ sĩ quan trực. Giải quyết mọi vấn đề
trong thời gian này là thiếu tá trưởng phòng, ông ấy có phòng riêng
ở bên cạnh Trung tâm hành quân.
Thông thường,
khi sử dụng quân xa, tài xế sẽ lái xe còn sĩ quan ngồi ở ghế trưởng
xa bên tay phải, đó là luật thế nhưng hầu hết những ông sĩ quan cấp
úy tuổi trẻ, háo thắng thường làm ngược lại. Sĩ quan lái xe, tài xế
ngồi ghế trưởng xa hóng mát. Tôi còn ngon hơn nhiều, cho tài xế ở
nhà ngủ trưa luôn cho khỏe, bởi vì anh tài xế thường hay cằn nhằn,
khi tôi sang số xe không được êm cho lắm, và nhất là đã mấy lần suýt
lọt xuống hố khi qua một khúc cua gắt. Không có tài xế ngồi một bên,
tôi cảm thấy thoải mái hơn. Một mình tôi lái xe, muốn đi đâu cũng
được, ghé chỗ nào cũng xong, lỡ có rớt xuống hố cũng chỉ một mình
tôi chịu.
Trên đường qua
Quân Trấn, lợi dụng thời cơ gọi là đi họp, tôi ghé cà phê Thủy Tạ,
uống ly cà phê, hút vài điếu thuốc, ngắm hồ Xuân Hương trong nắng
hanh vàng của mùa đông, luôn tiện khoe với mọi người là tôi biết lái
xe hơi mặc dầu mình không có bằng lái. Nếu không thích ngắm cảnh,
tôi có thể ghé quán Hạnh Tâm gần vòi phun nước ở chợ Đà Lạt, uống ly
cà phê nghe vài bản nhạc tình, nhìn cô thu ngân tên Huệ với vẻ đẹp
Chìm đáy
nước cá lờ đờ lặn.
Lửng da
trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Tôi, trung úy
Trường Võ Bị Đà Lạt, độc thân, bốn năm qua sống lao đao lận đận với
mối tình đầu, một đôi lúc cảm thấy buồn đến não ruột. Có một lần,
nhân lúc trả tiền ly cà phê khi đứng gần cô Huệ, tôi buông lời chọc
ghẹo để rồi nhận được cái liếc mắt sắc như lưỡi dao. Cô không nói
gì, chỉ cố ý đưa bàn tay cho tôi thấy chiếc nhẫn nơi ngón tay áp út.
Cô Huệ từ tốn thối lại cho tôi một mớ bạc lẻ, rồi dịu dàng nói:
-Ba đồng
một mớ trầu cay.
Tôi giật mình
đánh thót, cô nàng này bên ngoài coi bộ yểu điệu, dịu hiền nhưng
không ngờ cũng lãng mạn dữ.
Cô Huệ trông
chỉ chừng hai mươi tuổi, đã mang nhẫn cưới trên tay. Mối tình đầu
của tôi, bốn năm qua rồi giờ đây chắc cũng đã tay bồng tay bế. Từ đó
về sau, tôi ghé cà phê Hạnh Tâm chỉ ngồi yên một góc nhâm nhi ly cà
phê đen, nghe nhạc, nhìn người đẹp trong tiếc nuối muộn màng.
Có những ngày,
mặc dù lệnh cấm trại một trăm phần trăm, trên đường đi qua Quân Trấn
tôi cũng ghé cà phê Hạnh Tâm. Đang cấm quân mà có một ông trung úy
của Trường Võ Bị Đà Lạt ung dung, thoải mái ngồi uống cà phê quả là
chuyện lạ, Quân Cảnh đời nào mà tha cho một con mồi béo bở như vậy.
Hai ông Quân Cảnh liền vào tận nơi, lịch sự mời tôi ra ngoài để xét
giấy tờ. Khi nhìn thấy sự vụ lệnh đi họp Quân Trấn, vũ khí mang theo
là cây súng colt 45 với con dấu nổi của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng
Trường Võ Bị ký, mấy ông Quân Cảnh lật đật xin lỗi rồi dông mất.
Ba giờ chiều,
tôi tới Quân Trấn, họp với sĩ quan trực, lấy mật khẩu, mật hiệu
phòng thủ trong đêm đựng trong một phong bì niêm kín. Sau đó, tôi
quành xe ra chợ mua một phần cơm sườn cho buổi ăn tối, cơm ở Câu lạc
bộ sĩ quan trong Trường Võ Bị làm sao có thể sánh với cơm sườn nướng
ở chợ Đà Lạt. Mọi chuyện coi như đã xong xuôi, tôi lái xe về trường.
Năm giờ chiều,
tôi về đến trường. Kể từ giờ phút này mọi hoạt động của tất cả các
phòng ban trong trường đều chấm dứt. Thiếu tá trưởng phòng của tôi
cũng sửa soạn ra về. Tôi chính thức lo tất cả mọi chuyện phòng thủ
ban đêm của trường. Ngoài vòng đai xa của trường đã có binh sĩ của
Tiểu khu Tuyên Đức; bên ngoài hàng rào phòng thủ của trường, đã có
Tiểu đoàn An Ninh canh giữ cũng như phân bố mấy chục điểm kích; phía
Đồi Bắc có Đại đội Thao Diễn trấn giữ. Tất cả tọa độ của những điểm
kích này đều được ghi rõ trên phóng đồ hành quân chuyển cho pháo
binh và những đơn vị bạn. Mọi cổng ra vào của trường, từ cổng Thái
Phiên, cổng Nam Quan cho tới cổng Lý Thường Kiệt đều đã nhận mật
khẩu, mật hiệu trong đêm.
Khoảng sáu giờ
tới bảy giờ tối, các toán kích canh giữ những điểm trọng yếu trong
trường do sinh viên sĩ quan đảm nhận, sinh viên trưởng toán đến
Trung tâm hành quân lấy mật khẩu. Đây là mật khẩu nội bộ, khác với
mật khẩu bên Quân Trấn.
Bảy giờ tối,
công việc phòng thủ trường hoàn tất, tôi nhấc điện thoại báo cáo với
đại úy trực Phòng hành quân tại tư dinh của Thiếu tướng Chỉ huy
trưởng. Tuy ở ngoài tư dinh, nhưng Thiếu tướng Chỉ huy trưởng vẫn
nắm vững tình hình an ninh trong trường, qua Phòng hành quân bỏ túi
tại tư dinh của ông.
Xong xuôi mọi
việc, tôi bắt đầu bữa ăn tối, vừa ăn cơm tôi vừa lấy bài vở ở trường
ra ôn lại. Nếu cần tham khảo tài liệu, tôi có thể ghé thư viện của
trường để mượn.
Mười giờ tối,
tôi lên giường.
Chiều nay, lúc
vừa từ Quân Trấn về, tôi thấy một bức thư do bưu tín viên đem đến để
trên bàn làm việc của tôi. Tên người gửi là Trung úy Nguyễn Đức. Tên
người nhận là tôi, Trung úy Nguyễn Trọng Quân, Trung tâm hành quân
Trường Võ Bị Đà Lạt, KBC 4027.
Tôi tắt đèn
neon trên trần rồi mở ngọn đèn đọc sách ở đầu giường.
Tháng 11,
1972.
Quân,
Tao là
Trung úy Đức, Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 Bộ binh, bạn học cùng lớp với
mày ở trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt, không biết mày còn nhớ tao
không? Nếu mày không nhớ để tao nhắc cho. Hồi đó tụi mày đặt cho tao
cái biệt danh là Đứt thắng rồi thi nhau chọc ghẹo tao “Ở Đà Lạt, đi
xe xuống dốc mà Đứt thắng chỉ có tàn đời thôi em ơi ” Mày nhớ tao
chưa? Nếu đã nhớ rồi hãy đọc tiếp, tao sẽ kể cho mày nghe về những
gì mà tao được biết đã xảy ra ở An Lộc trong mùa hè vừa qua.
Chuyện như
thế nàv, nếu tao nhớ không lầm, ngày 11 tháng 4 năm 1972 Trung đoàn
8 của tụi tao được trực thăng vận từ Dầu Tiếng vào An Lộc trấn giữ
mặt Bắc của thị trấn. Ba mặt khác do Nhảy Dù, Biệt Động Quản, Trung
đoàn 7 và Địa Phương Quân của Tiểu khu Bình Long trấn giữ. Năm ngày
sau, Liên đoàn 81 Biệt Kích Dù cũng được trực thăng vận đến phía
Đông nam của thị xã, sau đó họ di chuyển lên tuyến đầu ở phía bắc
phối hợp với Trung đoàn 8 của tụi tao để tử thủ An Lộc. Nói là phối
hợp chứ thật ra mỗi đơn vị chịu trách nhiệm một khu vực. Biệt Kích
81 có lối đánh giặc riêng của họ, lối đánh đặc biệt của từng toán
nhỏ, di chuyển trong im lặng, xuất hiện rồi biến mất như những bóng
ma, phòng thủ đối với Biệt Kích 81 có nghĩa là tấn công. Từ khi có
Biệt Kích 81 phối hợp, tinh thần binh sĩ của tụi tao lên cao thấy
rõ. Tao biết địa chỉ của mày là nhờ thẳng Đạt học cùng lớp với tụi
mình, nó là trung úy Biệt Kích 81. Tụi tao gặp nhau thật bất ngờ,
khi tao đang chạy vắt giò lên cổ trong một trận mưa pháo của địch.
Trung đoàn
8 của tao với quân số khoảng một ngàn rưỡi người, cùng với sáu ngàn
quân nhân của các binh chủng khác đã tử thủ trong An Lộc, chống lại
hơn bốn chục ngàn quân Cộng Sản . Bốn chục ngàn quân Cộng Sản, với
hàng trăm chiếc xe tăng T54 tụi tao không sợ, chỉ ngán cái giàn pháo
của tụi nó. Hàng ngày ở đây tụi tao lãnh hơn một ngàn trái đạn pháo
đủ loại là chuyện thường tình, từ cái thứ đạn pháo tép riu của súng
cối 82 ly, cho đến đại bác hạng nặng 130 ly. Vài trăm trái đạn pháo
một ngày, tụi tao gọi là pháo quấy rối. Trên hai ngàn cho đến tám
ngàn trái mới coi đó là pháo thật sự, khi pháo kích lơi dần là lúc
Việt Cộng bắt đầu tấn công. Trước tiên, bọn chúng dùng xe tăng T54
tràn qua mọi chướng ngại vật đi vào trong thị xã An Lộc. Mấy chục
chiếc xe tăng này như là vật tế thần, sau khỉ lãnh đủ hàng trăm trái
đạn M72 của Biệt Kích 81, của tụi tao và những đơn vị bạn khác,
chiếc cháy đen thui, chiếc đứt xích nằm ngổn ngang trong thị xã. Sau
mỗi lần tấn công của Cộng Sản, tao lại dùng lưỡi lê khắc một gạch
trên báng súng, cuối tháng Tư, sau gần hai mươi ngày tử thủ, tao đếm
được bốn cái gạch trên cây súng M16 của tao. Mỗi một gạch là một
trận đánh khốc liệt, tàn bạo, đẫm máu.
Ngày 11
tháng 5, tám ngàn trái đạn pháo chụp xuống An Lộc, địch pháo liên
tục tưởng như không bao giờ dứt. Suốt đêm cả bầu trời được soi sáng
bằng những tia chớp của đạn pháo, khi nhịp pháo thưa dần cũng là lúc
Cộng Sản bắt đầu tấn công. Tụi tao ở hố cá nhân với súng M16, đại
liên M60, súng phóng lựu M79, cuối cùng là lựu đạn ném tay chống trả
hết đợt xung phong này đến đợt xung phong khác. Nhờ những trái lựu
đạn này, đã cản được nhiều đợt xung phong của Việt Cộng, cho đến khi
trời hừng sáng bọn Cộng Sản mới chịu rút lui, trả lại an lành cho An
Lộc. Khi trận đánh kết thúc hàng trăm xác chết của Việt Cộng, của
lính mình, của thường dân nằm la liệt, những người còn sống, lợi
dụng lúc im tiếng súng vội vàng kéo nhau đi chôn xác chết, bất kể ta
hay địch. Xác chết nhiều đến nỗi không có thì giờ đào huyệt, người
ta phải dùng xe ủi đất đào một đuờng rãnh dài vài chục mét, sâu độ
ba mét, sau đó hàng trăm xác người không phân biệt Việt Cộng hay
thường dân, già trẻ lớn bé được xếp chồng lên nhau rồi lấp đất lại.
Cảnh chôn người giống hệt như trong ciné thời Đệ nhị thế chiến, khi
Đức Quốc Xã chôn dân Do Thái ở những trại tập trung.
Bảy giờ
sáng, tao đánh răng bằng một nắp bi đông nước, rồi đổ nước vào bao
gạo sấy làm bữa ăn sáng, sau đó là chuyện tu bổ hầm hố, coi lại súng
ống, đạn dược chuẩn bị cho trận đánh kế tiếp.
Có một
chuyện khá khôi hài, sau nàv mỗi lần nhớ lại tao vẫn không hiểu tại
sao hơn sáu mươi ngàv tử thủ trong An Lộc, tao không biết tắm là gì.
Hình như, tắm không phải là nhu cầu sống chết như cơm để ăn, nước để
uống. Cũng có thể, vì lúc nào cũng tựa lưng vào cái chết nên quên
tắm, cuối cùng đành phải vin vào cái cớ nước không đủ uống lấy đâu
mà tắm.
Nước uống
được lấy từ những cái giếng cạn trong thị trấn. Mày thử nghĩ coi,
với hàng ngàn xác chết vừa chôn được vài tuần, nguồn nước giếng ở
đây có còn trong sạch hay không? Dù nước giếng có ô nhiễm vẫn phải
uống, nếu không muốn chết khát.
Xong phần
nước uống, đến phần nhận tiếp tế thực phấm và đạn dược. Chuyện tiếp
tế là cả một vấn đề nhiêu khê phức tạp, vì máy bay phải bay thấp để
tránh cao xạ cũng như hỏa tiễn phòng không của Việt Cộng. Khi những
kiện hàng tiếp tế từ phi cơ C123 thả xuống An Lộc, những gì rớt vào
bên trong vòng đai phòng thủ đó là phần của mình, nếu rớt ngoài vòng
đai là của Việt Cộng. Thường thì những kiện hàng tiếp tế rớt vào
trong vòng đai, ít hơn những kiện hàng rớt ngoài vòng đai, có nghĩa
là tiếp tế cho phe mình nhưng Việt Cộng lãnh gần hết. Phần thực phẩm
mình nhận được phải chia bớt cho dân để cùng nhau chịu đựng pháo
kích, sống tiếp những ngày gian nan, đói khổ, đầy chết chóc. Có một
lần, tình cờ tao chứng kiến một chiếc vận tải cơ C123 của Không Quân
Việt Nam bay vào An Lộc mà như là thách đố với tử thần. Chiếc phi cơ
bay thấp thật thấp, thấp đến độ tao có thể thấy được lá cờ vàng ba
sọc đỏ sơn ở nơi đuôi. Khi đã vào đúng vị trí để thả dù, mấy kiện
hàng tiếp tế từ đuôi tuôn ra. Chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, năm
cánh hoa dù tròn xoe bọc gió trôi lững lờ giữa không trung. Thay vì
nhìn những kiện hàng có rơi vào trong An Lộc hay không, tao dõi mắt
nhìn theo phi cơ đang bay lảo đảo, trồi lên rồi hụp xuống giữa những
lằn đạn phòng không dày như đan lưới của Việt Cộng. Chiếc phi cơ bay
chậm và thấp, phơi cái bụng phệ dùng để chứa hàng tiếp liệu rõ mồn
một. Tao nghĩ thầm, chỉ cần dùng mấy khẩu đại liên M60 của đại đội,
tao bắn cũng trúng huống chi cả Trung đoàn súng phòng không của Việt
Cộng, thi nhau nhả đạn tới tấp. Tao nín thở nhìn theo chiếc phi cơ,
cho đến khi hình dáng của nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi mất hút nơi cuối
chân trời, lúc bấy giờ tao mới thở phào nhẹ nhõm, mừng cho phi hành
đoàn của chiếc C123 ngày hôm đó đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Tao chùi hai bàn tay đẫm mồ hôi của mình vào vạt áo rồi nhìn những
giọt mồ hôi chảy dài trên trán của người lính ngồi bên cạnh. Tao hỏi
anh ta:
-Sợ hả bạn?
-Dạ, sợ quá
đến nỗi toát mồ hôi cục mà không biết đó thiếu úy.
Té ra, đâu
có phải chỉ một mình tao lo sợ cho mạng sống phi hành đoàn của chiếc
phi cơ C123.
Đưa tay
quẹt những giọt mồ hôi trên trán, người lính hỏi tao:
-Thiếu úy
nè, mình đánh nhau với Việt Cộng, đem sinh mạng ra đánh cuộc với
sống chết mà không biết sợ. Tại sao, khi nhìn chiếc máy bay chao đảo
giữa những lằn đạn mình lại thấy sợ?
Tao trả lời
với người lính, không biết câu trả lời có đúng hay không.
-Bởi vì
mình là khán giả, rảnh rỗi ngồi xem mấy ông phi công Việt Nam Cộng
Hòa đem mạng sống của họ thách đố với tử thần, với mục đích là thả
cho được những kiện hàng tiếp tế vào bên trong An Lộc. Phi cơ có thể
nổ tan xác như một quả cầu lửa vì trúng hỏa tiễn phòng không SA 7,
cũng có thể đâm chúi đầu xuống đất tan nát thành muôn ngàn mảnh vụn
vì trúng cao xạ phòng không của Việt Cộng. Những cái chết khủng
khiếp như vậy có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Không sợ sao được.
Người lính
nhìn tao gật đầu như đồng ý.
Chuyện rảnh
rỗi ngồi khơi khơi trên mặt đất xem phi cơ C123 thả hàng tiếp tế,
chỉ là chuyên ngàn năm mới có một lần. Thực ra, ở đây lúc nào bọn
tao cũng sống dưới hầm, dưới hố cá nhân có nắp đậy để tránh pháo
kích. Một đôi lần, tao ngồi dưới hố cá nhân nghe tiếng nổ của bom
B52 cách xa một vài cây số dội lại mà cứ tưởng như sấm động trên
đầu. Nhiều khi tao nghĩ dại, nếu vì một lý do nào đó như trục trặc
kỹ thuật chẳng hạn, một loạt bom B52 lọt vào bên trong An Lộc,
khoảng tám ngàn lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và dân An Lộc sẽ
chết không còn một mống.
Chuyện sống
chết của phi hành đoàn chiếc phi cơ C123, và những chấn động khủng
khiếp khi B52 trải thảm tuy vậy nó không ám ảnh tao bằng chuyện hai
anh em thẳng bé bị thất lạc cha mẹ.
Ngay chỗ
tụi tao trấn giữ, cứ lúc im tiếng súng, tao lại thấy mấy đứa nhỏ đến
gần lính mình xin gạo sấy và thịt hộp. Trong đám trẻ con ấy, tao chú
ý đến một đứa bé trai đâu chừng mười tuối, lúc nào nó cũng địu đứa
em nhỏ trên lưng, thằng bé mặt mày lem luốc, thân hình ốm đói với bộ
quần áo không thể dơ hơn được nữa rụt rè ngửa bàn tay xương xẩu, đen
đúa xin nhúm gạo sấy. Thoạt nhìn tao đã mềm lòng, muốn chảy nước
mắt, con cái nhà ai chạy loạn để rồi lạc loài tới đây. Tao không dám
hỏi ba má nó ở đâu, bởi vì tao sợ câu trả lời của nó. Lính có khẩu
phần lương khô của lính, còn dân chúng ai tiếp tế thực phẩm cho họ
đây? Dĩ nhiên tao vui vẻ chia làm hai phần gạo mình đang có cho
thằng bé, ăn để sống cầm hơi chờ đợi tiếp tế. Cũng có một đôi lần
tao nhịn phần trái cây hộp của mình đem cho anh em thằng bé, mặc dầu
cơ thể của tao rất cần chút chất ngọt của hộp trái cây. Có một điều
khiến tao mềm lòng, là bất cứ khi nào xin được thức ăn, thằng bé
cũng đút cho em nó ăn trước. Cho đến khi đứa em của nó lắc đầu,
thằng bé mới chịu ăn. Mấy ngày sau đó, khi không thấy thằng bẻ đến
xin gạo sấy; tao hỏi lũ nhỏ về anh em thằng bé mới biết rằng cả hai
đứa đều bị chết vì đạn pháo của Việt Cộng. Tội nghiệp, một đứa bé
mười tuổi làm sao biết cách đào hố cá nhân để ẩn núp khi bị Việt
Cộng pháo kích. Mạng sống của tao giống như chỉ mành treo chuông,
chuyện không có gì phải nói vì tao là lính, nhưng sinh mạng của hai
đứa bé cùng với hàng ngàn người dân An Lộc vừa chết trong mấy ngày
qua thì sao? Chẳng lẽ cũng phải chịu chung số phận như lính? Năm
1968 trong chiến dịch Tổng công kích của Việt Cộng, năm, bảy ngàn
thường dân bị họ chôn sống trong Tết Mậu Thân ở Huế. Bốn năm sau,
thảm họa lại tái diễn tại An Lộc, lần này là cảnh người dân An Lộc
bị chôn tập thể, bằng hàng chục ngàn trái đạn pháo đủ loại của Việt
Cộng. Có quốc gia nào trên thế giới đứng ra tố cáo, hay phản đối
chuyện Việt Cộng pháo kích giết hại dân lành không? Câu trả lời,
hoàn toàn không có. Tự dưng tao cảm thấy thương cho cái địa ngục An
Lộc này quá chừng.
Khi màn đêm
buông xuống, An Lộc chìm vào bóng tối mênh mông, một vài trái đạn
pháo lẻ loi xé toạc màn đêm, âm thanh vang dội khắp núi rừng như
nhắc nhở rằng chiến trường chỉ tạm thời yên tĩnh. Dưới ánh sáng của
một trái hỏa châu không biết do đơn vị nào bắn lên, tao thấy vài con
chó đói, đang chúi đầu bươi mấy cái xác chết vừa được chôn sơ sài,
vội vàng lúc ban ngày. An Lộc đổ nát, hoang tàn như một bãi tha ma.
Một ngày tử thủ An Lộc vừa trôi qua.
Đại đội của
tao, quân số lúc mới vào An Lộc trên một trăm người, ngày về còn
chưa tới bảy chục. Trung úv đại đội trưởng và ba ông chuẩn úy trung
đội trưởng của tao lần lượt rủ nhau giã từ vũ khí, tao là thằng
thiếu úy duy nhất trong đại đội còn sống sót. Tao lên nắm đại đội
trưởng, trông coi mấy chục người lính còn lại của đại đội. Từ khi
trở về từ cõi chết, tao nghiệm ra một điều, sống hay chết không phải
do mình lựa chọn mà do ở số trời định đoạt. Tao tin như vậy.
Mày có biết
tại sao tao viết thư cho mày không? Tao đang nằm tái khám ở Tổng y
viện Cộng Hòa. Tao nhớ lại, ngày xưa trước đêm lễ gắn Alpha, truyền
thống của Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt là phải chinh phục đỉnh Lâm
Viên, vì nó là đỉnh núi cao nhất của cao nguyên Lâm Viên, chinh phục
được ngọn núi này, chứng tỏ người Sinh viên sĩ quan đã Tự Thắng được
mình. Tao biết, dấu chân của tao hãy còn hằn sâu trên đỉnh núi mờ
sương đó. Vậy mà, khi tao vào An Lộc rồi trở ra, không có vết chân
của tao để lại trong cái hỏa ngục hừng hực lửa đỏ đó, bởi vì hai
chân của tao đã bỏ lại ở An Lộc.
Hôm nay
chiến trường đã im tiếng súng, An Lộc hiên ngang, oai hùng đi vào
lịch sử. Riêng tao, một con chim gãy cánh, lạc bầy, mất bạn, nước
mắt rưng rưng khi nhớ về trường mẹ. Tao tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt, mày
đang làm việc ở đó.
Lá thư chấm dứt
ngang xương, không một lời tạm biệt cũng chẳng có lấy một câu hẹn
tái ngộ, tôi nhắm mắt chìm vào giấc ngủ, trái tim của tôi vẫn đập
bình thường, trong khi những giọt nước mắt nóng hổi của mình tưởng
có thể cuốn trôi cả một thị trấn An Lộc ở tận biên giới Việt Miên xa
xôi ngàn dặm. Trường Võ Bị Đà Lạt vẫn an bình, yên ổn không một
tiếng súng.
Ngày thứ hai:
Đời sống dân sự, “Cổ thành nhuộm máu”.
Sáu giờ sáng,
tôi thức dậy. Sau khi làm vệ sinh cá nhân, tôi ngồi vào bàn làm
việc, điền vào tờ báo cáo tình hình trong đêm. Cuối tờ trình, bên
tay phải, tôi viết thêm hàng chữ:
Sĩ quan trực
Trung tâm hành quân .
Trung úy Nguyễn
Trọng Quân ký tên.
Tôi đem tờ
trình qua phòng làm việc của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, nằm đối
diện với Trung tâm hành quân, đặt tờ tường trình vào chỗ công văn
đến.
Tám giờ sáng,
tôi bàn giao phiên trực cho Trung úy Hàn, sĩ quan thượng phiên rồi
trở về cư xá sĩ quan. Sau khi tắm rửa xong xuôi, tôi thay bộ đồ dân
sự lên xe Honda chạy đến nhà Vân, cô bạn gái học cùng lớp với tôi ở
Viện đại học Đà Lạt. Vân thua tôi hai tuổi, học giỏi, gia đình Vân
có tiệm tạp hóa nho nhỏ ở chợ Đà Lạt. Tôi là tài xế không công của
Vân với nhiệm vụ đưa đón nàng đi học, bù lại, Vân cho tôi mượn sách
vở để ghi chép bài. Đó là mối giao tình mà đôi bên cùng có lợi, quan
hệ giữa chúng tôi chỉ là tình bạn thuần túy, tin hay không còn tùy
vào sự suy luận của mỗi người. Bạn bè trong lớp đương nhiên nghi ngờ
về cái tình bạn thiêng liêng cao quý ấy, có người hỏi Vân, cô nàng
làm ra vẻ bí mật trả lời: “Hỏi anh ấy”. Hỏi tôi, câu trả
lời là : “Tôi đã có người yêu và chúng tôi sắp làm đám cưới, Vân
chỉ là bạn của tôi”.
Sở dĩ tôi nói như vậy bởi vì từ mấy năm qua khi gặp bất cứ
một cô gái nào, điều đầu tiên là tôi so sánh cô gái ấy với Dung. Sau
đó trái tim tôi sẽ nói với tôi rằng, cho dù tôi đi tới chân trời góc
biển cũng chẳng bao giờ tìm được ai hơn Dung. Trái tim của tôi đã
ngủ quên, chỉ biết có một mình Dung kể từ ngày đầu tiên tôi gặp Dung
tại nhà nàng, ngôi nhà có hai cây vú sữa.
Vừa gặp mặt
Vân, tôi chưa kịp chào hỏi Vân đã lẹ miệng nói :
-Anh Quân,
tụi mình có nên ăn tô phở trước khi đi học hay không?
Vì muốn tiết
kiệm tiền, tôi hơi lưỡng lự một chút không biết nên chọn khúc bánh
mì hay tô phở? Cuối cùng tôi trả lời theo ý của Vân:
-Nên lắm
chứ.
Chúng tôi ghé
tiệm phở Tùng ở đường Hàm Nghi. Tôi vừa ăn phở vừa ngắm Vân, rồi
thầm nghĩ phải chi mình thương được cô Vân này thì khỏe biết mấy.
Vân đâu có xấu, nhan sắc trên trung bình lại ăn nói có duyên, thiên
hạ bu theo Vân cũng lắm nhưng tại sao mình không một mảy may rung
động. Hình như Vân cũng có một trái tim bằng sắt, Vân coi tôi như là
bạn gái của cô ta, mặc dầu hai đứa thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc.
Tôi ngẫm nghĩ hoài vẫn không tìm ra câu trả lời. Hai năm rồi bạn vẫn
là bạn, không có gì thay đổi.
Tụi tôi đến
giảng đường Minh Thành trễ ba mươi phút, hai đứa lén vào chỗ ngồi.
Vân hỏi người bạn:
-Thầy có điểm
danh không?
-Không.
Lớp học kéo dài
đến mười hai giờ trưa, hết giờ học, tôi chở Vân đến quán cơm sinh
viên ở đường Võ Tánh cách Viện đại học khoảng hơn một cây số. Chúng
tôi thường ăn cơm trưa tại đây bởi vì thuận đường, rẻ và ngon.
Cơm nước xong
xuôi tôi chở Vân trở lại trường, mới hơn một giờ, hãy còn sớm chúng
tôi lên Trung tâm sinh viên, mỗi đứa làm một ly cà phê, chuẩn bị bài
vở cho lớp học sắp tới. Hôm nay thứ Ba, từ hai giờ đến sáu giờ chiều
tụi tôi có lớp ở giảng đường Thượng Chí, bốn tiếng đồng hồ dài đăng
đẳng, nghe giảng ghi chép rồi cũng qua đi.
Tan học thay vì
chở Vân về nhà, tôi ghé cà phê Hạnh Tâm. Vân hỏi:
-Mình uống cà
phê nữa hả anh?
Trong lòng nhẹ
nhàng, khoan khoái, tôi trả lời Vân:
-Uống mừng đã
học xong một ngày.
Tôi là một
thằng ba phải, khi ăn uống, tôi thường so đo, tính toán nhung khi vô
quán cà phê, tôi lại dễ dãi với mình, không đắn đo, không suy nghĩ.
Đang chăm chú
nhìn những giọt cà phê đen quánh rơi chầm chậm xuống cái ly thủy
tinh trong vắt, đột nhiên tôi cảm được bàn chân của Vân đang đạp nhẹ
lên chân tôi.
Vân nói nhỏ với
tôi:
-Anh Quân, có
ông lính ngồi bên kia cứ nhìn anh đăm đăm.
Tôi nói:
-Kệ nó, cho nó
nhìn. Nó nhìn em chứ không phải nhìn anh đâu. Ai biểu đẹp làm chi,
phải ráng mà chịu.
Đâu chừng một
phút sau, Vân lại nói:
-Hình như ông
ta muốn nói gì đó.
Tôi quay đầu
lại, khi nhìn thấy người lính tôi giật mình như chạm phải một luồng
điện.
-Mày đó hả?
-Ừ, tao đây.
Nhân đầu bạc đây.
Tôi vẫy tay:
-Qua đây ngồi
cho vui.
Nhân đầu bạc
tay bưng ly cà phê, tay cầm gói thuốc lá đi qua bàn của tôi. Tôi bắt
tay Nhân rồi giới thiệu:
-Đây là Vân,
bạn học cùng lớp với tao ở Viện đại học Đà Lạt.
Nhân đầu bạc
khẽ gật đầu:
-Hân hạnh được
biết Vân.
Quay qua Vân,
tôi giới thiệu tiếp:
-Còn đây là
Nhân, bạn cùng lớp với anh thời trung học.
-Dạ chào anh.
Tôi nhìn bộ
quân phục Thủỵ Quân Lục Chiến với cặp lon đeo trên vai của Nhân rồi
nói:
-Hơn năm năm
rồi bây giờ mới gặp lại nhau, mày là trung úy Thủy Quân Lục Chiến ?
Nhân trả lời:
-Đúng.
Hắn hỏi tiếp:
-Mày vẫn đi học
sao Quân? Nhìn bộ đồ dân sự mày bận mà tao phát thèm.
Tôi nói:
-Đừng có thèm,
tao cũng là lính như mày thôi. Tao hiện là trung úy Trường Võ Bị Đà
Lạt.
Nhân đầu bạc
trố mắt nhìn tôi:
-Mày đi Võ Bị
Đà Lạt? Ngon dữ há!
-Tao tốt nghiệp
Thủ Đức, ra trường được chuyển về Trường Võ Bị Đà Lạt, làm việc ở
Trung tâm hành quân. Ở đó làm việc một ngày nghỉ một ngày, lợi dụng
ngày nghỉ tao đi học thêm ở Viện đại học Đà Lạt.
Nhân đầu bạc
nhíu mày, với giọng nói tựa như nghi ngờ.
-Làm một ngày
rồi nghỉ một ngày?
Tôi đáp:
-Đúng.
Nhân lắc mạnh
đầu:
-Mẹ nó, tao đi
lính năm năm rồi, dù có nằm mơ tao cũng không tin được chuyện có thứ
lính kỳ lạ như mày. Bọn tao bắn nhau với Việt Cộng trong rừng sâu
núi thẳm, từ ngày này qua tháng nọ, hết năm này tới năm khác vùi đầu
trong chiến trận, hôm nay sống ngày mai có thể chết. Một năm được
mươi ngày phép, mừng thấy mẹ, đã vậy khi đưa giấy phép cho mình,
tiểu đoàn trưởng còn chần chừ như tiếc rẻ không muốn đưa. Mày biết
không, sếp đưa tờ giấy phép cho mình mà tay không muốn rời tờ giấy,
cứ như là Thúc Sinh bịn rịn không nỡ chia tay Thúy Kiều. Nhờ biết
gia đình mày từ trước, nếu không tao sẽ nghĩ chỗ mày làm việc chỉ
dành cho con ông cháu cha.
Tôi nói với
Nhân đầu bạc:
-Tao biết, mày
cũng tốt nghiệp Thủ Đức như tao nhưng mặc bộ đồ binh chủng Thủy Quân
Lục Chiến như mày, tao làm không được. Thực lòng mà nói, lúc nào tao
cũng ngưỡng mộ những thằng như mày.
Nhân đầu bạc
chậm rãi mồi thuốc, hắn trả lời tôi với giọng trầm trầm.
-Mày bơm tao
cũng vừa thôi.
-Mày muốn nghĩ
sao cũng được. Có chuyện này tao muốn hỏi, mày đang đi phép phải
không?
Nhân đầu bạc
gật đầu, hắn kéo cái ống quần rằn ri lên cao, chỉ vào vết thương
trên bắp chân hãy còn quấn băng trắng.
– Cổ thành
Quảng Trị.
Vân bất ngờ nói
chen vào:
-Có đau không
anh?
Nhân bật cười
nhìn Vân:
-Lẽ ra thì hết
đau rồi, nhưng khi nghe Vân hỏi tôi lại thấy đau đau.
Vân xua tay
đính chính:
-Vân không có
đụng chạm gì tới vết thương của anh, tại sao anh lại thấy đau?
-Vết thương nơi
thằng Quân, cô Vân mới lo phải không?
-Cũng không
luôn, em với anh Quân chỉ là bạn.
Tôi xen vô.
-Có nặng không?
-Bác sĩ nói
chuyện nhỏ, tuần tới tao có thể trở lại đơn vị.
Gương mặt Nhân
lộ vẻ đăm chiêu khi nhắc đến hai chữ đơn vị, khiến mái tóc muối tiêu
của hắn vốn đã bạc, trông càng bạc hơn, hắn nói:
-Không biết giờ
này đại đội của tao còn được bao nhiêu người, có còn đang ở nơi Cổ
thành hay đã di chuyển đến một mặt trận mới?
Vân hỏi:
-Cổ thành với
đơn vị của anh có gì hấp dẫn, khiến anh đang nghỉ dưỡng thương vẫn
nhớ hoài tới nó. Nói cho Vân nghe chút xíu về Cổ thành Quảng Trị,
được không?
-Được quá đi
chứ, cô Vân hỏi ai mà dám chối từ.
Nhân đầu bạc
nhíu mày, vừng trán cao và rộng của hắn hơi nhăn lại.
-Đâu khoảng,
à..à…ngày hai mươi bảy tháng bảy, Thủy Quân Lục Chiến của tụi tôi
được lệnh thay thế Nhảy Dù, tiếp tục tấn công Việt Cộng đang cố thủ
trong thị xã và Cổ thành Đinh Công Tráng.
Vân thắc mắc:
-Tại sao không
dùng cả Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, cùng tấn công vào Cổ thành.
-Cô Vân nè,
đừng có hỏi tại sao. Một thằng sĩ quan cấp nhỏ như tôi làm sao biết
được, mới gặp thiếu tá tiểu đoàn trưởng tôi đã run huống gì hỏi
chuyện này nọ với ông ta. Lính chỉ biết thi hành lệnh của cấp trên
giao phó. Hình như trong ngôn ngữ của lính, không có cái chữ “hỏi”.
Để trả lời câu hỏi của Vân, theo sự suy nghĩ của tôi, sau một tháng
trường đánh nhau, giành giựt từng tấc đất với Việt Cộng quanh Cổ
thành, lực lượng Nhảy Dù hao hụt cũng bộn cần phải được thay thế để
nghỉ ngơi, bổ sung quân số. Vào lúc đó, Thủy Quân Lục Chiến bọn tôi,
quân số, đạn dược vẫn còn đầy đủ.
Nhân đầu bạc
ngừng nói, hắn mồi thêm một điếu thuốc nữa, thả khói bay đầy phòng.
-Vân đã thấy Cổ
thành Quảng Trị bao giờ chưa?
Vân trả lời:
-Chưa anh ạ.
Quay qua nhìn
tôi, Nhân đầu bạc hỏi:
-Còn mày?
-Cũng chưa.
-Đó là một cái
thành cổ hình vuông, xây bằng gạch, hình như là được trùng tu lại
vào cái thời vua Minh Mạng thì phải. Mỗi cạnh của Cổ thành dài
khoảng nửa cây số, tường thành cao khoảng năm mét, bề rộng trên mặt
thành dư sức cho xe hơi chạy. Chung quanh thành có hào sâu, nước lên
tới cổ, bề rộng của cái hào này rộng chừng mười mét. Bốn góc thành
có bốn cái pháo đài.
Nhân đầu bạc
nhìn Vân.
-Cô Vân đã hình
dung được Cổ thành Quảng Trị như thế nào chưa?
-Dạ được.
-Lực lượng của
địch bên trong Cổ thành, được trang bị đầy đủ vũ khí và đạn dược với
hệ thống phòng thủ kiên cố, vững chắc, đang cố thủ trong đó.
Nhân hỏi tôi:
-Mày nghĩ gì về
trận chiến tử thủ An Lộc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mấy tháng
trước đây.
Tôi ngần ngừ.
-Khoảng bốn
chục ngàn quân Cộng Sản, vây tám ngàn quân Việt Nam Cộng Hòa trong
An Lộc.
-Mày nói đúng,
như vậy quân bao vây phải bằng năm lần quân cố thủ.
Tôi nói:
-Đúng vậy.
Nhân lắc đầu,
– Cổ thành
Quảng Trị không phải như An Lộc mà nó ngược lại. Lực lượng của địch
gồm có Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320 của Việt Cộng, một tiểu đoàn
của Sư đoàn 325, một tiểu đoàn địa phương, tất cả nằm tử thủ bên
trong Cổ thành. Chỉ có một Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến của tụi tao,
vừa phải đương đầu với Việt Cộng ở Quảng Trị, vừa phải chia quân với
mục đích cuối cùng là phải tái chiếm Cổ thành bằng mọi giá. Để đánh
vào đó, chuyện trước tiên là hàng trăm khẩu pháo của mình bắn tập
trung vào trong Cổ thành. Khi Pháo binh chấm dứt, Không quân Việt,
Mỹ lại tiếp tục dội bom liên tục hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Bọn
Việt Cộng cũng lì lợm không kém, tụi nó chống trả mãnh liệt, nhờ vào
những công sự phòng thủ chắc chắn bên trong thành. Thủy Quân Lục
Chiến bao quanh Cổ thành nhưng không làm sao tiến vào được bên
trong.
Nhân ngưng nói,
hắn nhìn tôi rồi quay sang Vân.
-Quý vị có biết
tại sao không?
Tôi nói:
-Vân là học
sinh, tao là lính văn phòng, làm sao tụi tao biết được. Có thể lính
Việt Cộng thiện chiến, quen với trận mạc, cấp chỉ huy giỏi.
Nhân đầu bạc
cười:
-Không phải như
vậy đâu, lính Cộng Sản giống như là âm binh vì ban ngày họ trốn
biệt, đêm đến mới xuất hiện đánh phá, còn cấp chỉ huy, lãnh đạo của
họ là phù thủy, bởi vì chỉ có phù thủy mới trị được cái lũ âm binh.
Đánh nhau với một đạo quân vô Tổ Quốc, cuồng tín, chỉ biết sống chết
cho Bác cho Đảng như vậy, Thủy Quân Lục Chiến bọn tao không què tay
cũng gãy gọng, đại đội của tao từ một trăm tám chục tay súng, còn
lại khoảng một trăm. Sáu sĩ quan của đại đội chết hết ba, chỉ còn
lại tao và hai chuẩn úy. Có đêm dưới nhũng tia chớp của đạn pháo xé
trời, tao nhìn dòng nước đen ngòm của cái hào sâu bao quanh Cổ
thành, mà cứ tưởng rằng đó là máu của lính Nhảy Dù và Thủy Quân Lục
Chiến. Mày nói cho tao biết, những kẻ sống sót có phải là hột gạo
trên sàng hay không?
Nhớ đến bức thư
của Đức mà tôi mới đọc tối hôm qua, thay vì trả lời câu hỏi của Nhân
đầu bạc, tôi hỏi lại hắn:
-Mày nhớ thằng
Đức, học chung lớp với tụi mình không?
-Đức nào? Lớp
mình có tới hai thằng Đức.
-Thằng Đứt
thắng.
Nhân đầu bạc
cười, nụ cười của thời tụi tôi còn học ở trung học.
-Tao nhớ rồi,
xuống dốc mà đứt thắng kể như tàn đời em ơi. Mà tại sao mày lại nhắc
đến nó.
-Nó tử thủ An
Lộc, đại đội của nó có năm sĩ quan chết hết bốn, nó là thằng sĩ quan
duy nhất trong đại đội còn sống sót. Tải thương về Tổng y viện Cộng
Hòa, khi vào An Lộc nó là thiếu úy, khi ra khỏi An Lộc nó là trung
úy nhưng hai chân của nó đã bỏ lại tại An Lộc.
Nhân đầu bạc
nói với tôi:
-Lần này về Sài
Gòn, tao sẽ tới Tổng y viện Cộng Hòa thăm nó, sẽ kể cho nó nghe
chuyện gặp mày ở đây. Mày có nhắn gì với nó không?
-Nói với nó,
khóa 29 Võ Bị Đà Lạt sắp nhập trường.
Nhân đầu bạc
nhìn ra ngoài trời, hớp một ngụm cà phê rồi nói:
-Bọn tao sau
hơn năm mươi ngày đánh nhau chí chết với Việt Cộng, cho đến khi lá
cờ Quốc Gia màu vàng, ba sọc đỏ tung bay phất phới trên Cổ thành
Quảng Trị, hơn ba ngàn năm trăm binh sĩ và sĩ quan Thủy Quân Lục
Chiến đã hy sinh, thêm hàng ngàn người bị thương khi tái chiếm Cổ
thành. Đó là con số thương vong của Thủy Quân Lục Chiến mà thôi, còn
Nhảy Dù và những đơn vị khác tao không biết được.
Tôi hỏi Nhân
đầu bạc:
-Còn mày, bị
thương vào lúc nào?
-Tao hả? Trong
trận đánh dứt điểm vào Cổ thành, tao và Hạ sĩ Trung, người mang máy
truyền tin cho tao, mỗi thằng lãnh một viên AK. Tao bị ở chân còn Hạ
sĩ Trung ở ngực, đạn AK phá vỡ lồng ngực làm sao mà sống được. Tội
nghiệp, trước khi chết Hạ sĩ Trung còn gắng gượng nói với tao : “Nhờ
trung úy nhắn giùm vợ em, là em đã mua cho con của em đôi giày,
nhưng chưa kịp gởi về”.
Tôi hỏi Nhân
đầu bạc :
– Mày đã gặp vợ
của người lính truyền tin tử trận chưa?
Nhân đầu bạc
trả lời với giọng nói buồn buồn.
-Nhận lời ủy
thác của người sắp chết, làm sao tao quên được, nhất là người đó lại
là người lính đã từng vào sinh ra tử với mình suốt mấy năm liền,
từng chia xẻ với nhau vài nắm cơm khi đói, dăm vốc nước khi khát.
Ngày bước chân ra khỏi quân y viện, tao tìm đến nhà của Hạ sĩ Trung.
Sau đó, phải dò hỏi suốt cả buối, tao mới tìm được ngôi trường tiểu
học, nơi mà vợ của Hạ sĩ Trung với gánh xôi bắp đang bán cho học
trò. Thằng bé con của Hạ sĩ Trung, ngồi trong một cái thúng bên cạnh
gánh xôi. Khi thấy tao trong bộ đồ Thủy Quân Lục Chiến, thằng bé hỏi
mẹ nó “Khi nào ba về hả má?”. Người đàn bà, với hai bàn tay đang gói
xôi nhanh thoăn thoắt bỗng dưng ngừng lại, bà ta đưa cái ống tay áo
lên thấm những giọt nước mắt lăn dài trên má rồi nói, giọng nói nghe
như cam chịu mọi khổ đau bất hạnh: “ Ba con không về nữa đâu, ba đi
theo ông nội rồi”. Tao nhìn cánh tay áo bạc màu với mấy miếng vá nơi
cùi chỏ không che được bàn tay gầy ốm, sạm đen của người đàn bà mà
lòng xót xa như kim châm, muối xát. Không có thì giờ suy nghĩ, chỉ
hành động theo phản xạ tự nhiên, tao lén móc bóp bỏ thêm một ngàn
đồng vào cái bị giấy mà tao đang xách trên tay. Tao đưa cái bị cho
vợ của Hạ sĩ Trung rồi nói “Của anh Trung gửi về cho cháu”. Nói
xong, tao quay người bước đi thật lẹ, không nói cho người đàn bà
biết tao là ai. Tao đã làm tròn lời hứa với người đã chết, nhưng
trong lòng vẫn còn áy náy, bởi vì tao không dám nói với bà ấy, đôi
giày mà tao đưa cho bà là đôi giày tao vừa mới mua ngoài chợ. Còn
cái đôi giày của Hạ sĩ Trung gởi cho con mình với tất cả tình thương
yêu gói trọn vào trong ấy, tao không biết nó ở đâu.
Phố đã lên đèn
từ lâu, tôi bắt tay từ biệt Nhân.
Vân ôm Nhân đầu
bạc với đôi mắt đỏ hoe.
-Mau bình phục
nghe anh.
Quen với Vân
hai năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi thấy một cô bé nhút nhát như
Vân lại có hành động bạo dạn như vậy khi thể hiện tình thương với
người bạn trai mới quen. Tôi tin rằng Nhân đầu bạc là mẫu người lý
tưởng của Vân, mẫu người trai thời loạn, mẫu người đã từng:
Nhẹ xem tính
mệnh như màu cỏ cây.
Cùng là trung
úy, nhưng trung úy văn phòng như tôi, nói ra chỉ thêm mắc cỡ. Tôi
hiểu, tại sao giữa tôi và Vân chỉ có tình bạn thuần túy suốt mấy năm
trời.
Tôi đứng bên lề
đường, trong sương mù giá buốt lạnh lẽo của trời Đà Lạt, nhìn theo
Nhân đầu bạc đưa Vân về nhà. Ánh đèn đêm soi rõ bóng của họ đổ dài
trên đường phố, hai người mà chỉ có một cái bóng.
Tôi chạy xe men
theo con dốc Lê Đại Hành đi về cư xá, ngang qua khu Hòa Bình đèn
đuốc sáng rực một góc trời. Đà Lạt vẫn thanh bình, yên ổn nhờ Quảng
Trị đổ nát cản đường, cản bước tiến của cộng quân.
Khi tôi về đến
cư xá sĩ quan, kim đồng hồ trên tường chỉ mười giờ. Mới đầu Đông mà
trời đã khá lạnh, tôi kéo mền đắp ngang ngực.
Một ngày của
đời sống dân sự đã trôi qua. Ngày mai, tôi trở lại đời sống quân
ngũ.
Chương
VI:
Cũng
toan, tính toán với tình
Tôi đang chăm
chú ôn bài cho kỳ thi sắp tới, nên không biết Thiếu tá Hưng trưởng
Phòng hành quân bước vào.
-Trung úy làm
gì đó?
Khi nghe tiếng
nói của ông, tôi mới giật mình.
-Thưa thiếu tá,
tôi đang học bài.
Thiếu tá Hưng
kéo ghế ngồi đổi diện với tôi, rồi nói:
-Gốc của trung
úy cũng bự dữ.
-Thưa thiếu tá,
tôi không hiểu ông nói gì.
-Về trường Võ
Bị, làm ở khối tham mưu không có gốc, không chạy chọt làm sao về
được.
-Thưa thiếu tá,
ngày còn học ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung, với bài trắc nghiệm
định hướng không biết tôi làm như thế nào mà khi ra trường được đưa
về Trường Võ Bị Đà Lạt. Chuyện đó, tôi hoàn toàn không biết được.
-Gia đình trung
úy ở đâu.
-Dạ Đà Lạt.
-Ba trung úy ở
trong quân đội?
-Thưa không, ba
tôi là thợ mộc.
-Chắc trung úy
có bà con làm lớn trong quân đội?
-Thưa không.
-Như vậy, gia
đình trung úy quen biết thế nào với Đại tá Tham mưu trưởng.
-Ba tôi là thợ
mộc, làm sao quen với Đại tá Tham mưu trưởng được.
-Có chuyện hơi
lạ, tao không hiểu được.
-Chuyện gì vậy,
thiếu tá?
Thiếu tá Hưng
lắc đầu, đưa hai tay lên trời rồi ông móc trong túi ra tấm giấy.
-Đây là tờ giấy
phép bảy ngày, cấp cho Trung úy Nguyễn Trọng Quân với chữ ký của Đại
tá Tham mưu trưởng.
Tôi như từ trên
trời rót xuống.
-Thưa thiếu tá,
nếu tôi muốn xin nghỉ phép phải làm đơn chuyển theo hệ thống quân
giai, đơn của tôi phải qua ý kiến của thiếu tá. Tôi đâu có làm đơn
xin nghỉ phép.
-Tao cũng nghĩ
như vậy, nhưng tại sao lại có tờ giấy phép này?
Tôi góp ý với
ông:
-Hay là phòng
nhân viên làm lộn. Thiếu tá trình với Đại tá Tham mưu trưởng coi lại
đi, lộn là cái chắc.
Thiếu tá Hưng
cười hớn hở.
-Chú mày có lý,
để tao đi hỏi lại.
Tôi để ý, hình
như ở trong trường chỉ có một mình Thiếu tá Hưng thường xưng hô mày
tao với tôi. Tôi vừa tiếp tục ôn bài vừa lẩm bẩm, lâu lâu cũng phải
có lầm lẫn, điều chỉnh mấy hồi.
Chừng mười lăm
phút sau, Thiếu tá Hưng bước vào phòng với gương mặt không được vui
cho lắm.
-Tao vừa gặp
Đại tá Tham mưu trưởng, ổng nhìn tờ giấp phép rồi gằn giọng khiến
tao muốn chết đứng “Đúng rồi, tôi ký tờ giấy phép đó”.
Thiếu tá Hưng
nói mà như là năn nỉ tôi:
-Chú mày làm ơn
đi phép giùm tao, đừng có lôi thôi hỏi tới, hỏi lui. Mày càng hỏi
nhiều, tao càng dễ có cơ hội ôm ba lô ra Quảng Trị phòng thủ Cổ
thành. Quân đội mà mày, thi hành trước, khiếu nại sau.
Tôi cầm tờ giấy
phép rồi nói:
-Thưa thiếu tá,
đang làm việc mà bỏ ngang, ai trực hành quân thay tôi?
-Chuyện đó tao
lo, chuyện chú mày bây giờ là đi phép.
Đang làm việc
bị đi phép, không biết làm gì tôi bèn về cư xá để thay đồ rồi lên
Viện đại học. Gần bảy giờ tối tôi mới trở lại cư xá sĩ quan, ba tôi
đã đợi ở đó từ lúc nào, gương mặt ông có vẻ giận dữ.
-Con đi đâu mà
bây giờ mới về?
-Con đi học.
Khi nghe tôi
nói đến hai chữ đi học gương mặt ông liền đổi sắc.
-Vậy hả, ba đâu
có biết.
Tôi vừa mở cửa
phòng vừa hỏi ba tôi.
-Ba tìm con làm
gì?
-Ba có chuyện
quan trọng muốn nói với con.
-Ba ăn cơm
chưa?
-Chưa.
-Vậy ba với con
ra quán bánh xèo, vừa ăn vừa nói chuyện được không?
Sau khi cất
sách vở, tôi cùng ba tôi đi bộ ra khu Hòa Bình, quẹo xuống ngã ba
đường Minh Mạng và Tăng Bạt Hổ, nơi có quán bánh xèo bình dân, nằm
bên hông của một tiệm bán đồ sắt. Đây là quán bánh xèo ngon nổi
tiếng của Đà Lạt.
Ông chủ quán
bánh xèo tên Năm, vui vẻ hỏi tôi:
-Trung úy mạnh
giỏi.
Tôi trả lời:
-Quá mạnh giỏi,
còn chú Năm khỏe không?
-Không khỏe làm
sao đổ bánh xèo cho trung úy ăn.
Quay sang nhìn
ba tôi, chú Năm hỏi:
-Bác đây là gì
của trung úy?
-Ba tôi đó chú
Năm.
-Hèn gì trông
giống trung úy quá sức. Bác với trung úy ăn bánh lớn hay nhỏ.
Tôi nói:
-Bánh lớn.
Chú Năm nói với
ba tôi:
-Ông bác thật
là có phúc, trung úy đây trẻ tuổi, lại làm ở Trường Võ Bị. Suốt đời,
tôi chỉ ao ước được vô thăm trường một lần cho thỏa chí mà không
được.
Tôi vỗ vai chú
Năm.
-Hôm nào Võ Bị
có lễ mãn khóa, tôi sẽ mời chú vô trường.
Chú Năm cười
khoái chí.
-Trung úy nhớ
đó nghe.
-Tôi nhớ mà,
chú yên chí đi.
Chú Năm, đưa
hai dĩa rau sống đầy vun tới trước mặt ba tôi và tôi. Ông nói nhỏ
với tôi:
-Mỗi dĩa bánh
của trung úy, tôi bỏ vô ba con tôm thứ bự, ngon khỏi chê.
Ba tôi chỉ ăn
một cái bánh xèo rồi buông đũa, ông vừa uống nước trà vừa kể:
-Cái năm Nhật
đảo chánh, ba với bác Bảy bỏ xứ vô Nam. Con không biết bác Bảy đâu,
ổng với ba là bạn từ thủa hai đứa còn mặc quần lủng đáy, đi chăn
trâu ở ngoài xứ. Khi xe lửa tới ga Tháp Chàm, thay vì lên Đà Lạt với
ba, bác Bảy lại đổi ý đi vô Sài Gòn. Dễ chừng hai mươi bảy hay hai
mươi tám năm rồi ba không có tin tức gì của bác ấy. Tuần rồi, ba
tình cờ gặp lại bác Bảy ở chợ hoa Đà Lạt. Bác Bảy bây giờ có khác
lúc xưa, nhưng ba vẫn nhận ra bác ấy nhờ bước đi hơi khập khểnh vì
bị con trâu của ông Hương Bộ Hoạch húc hồi nhỏ. Vợ chồng bác Bảy lên
Đà Lạt chơi, nhân tiện thăm cô con gái tên là Cúc đang học ở Viện
đại học Đà Lạt. Cô ấy đang ở nội trú trong trường. Con có biết cô
Cúc không?
-Ba à, trên
Viện đại học có cả chục ngàn sinh viên, làm sao con biết ai là ai,
cô nào là cô Cúc.
Ba tôi không
buồn nghe tôi nói, ông kể tiếp:
-Khi biết con
là trung úy trong Trường Võ Bị, lại đang tiếp tục học đại học bác ấy
mừng lắm, khen con là người học giỏi, có chí.
Chuyện gì chứ
khoe tôi học giỏi, không ai bằng ba tôi.
-Làm sao bác ấy
biết con học giỏi.
-Ba nói cho bác
ấy biết.
-Bác có tin
không?
-Không tin mà
ngày hôm sau bác Bảy và vợ xuống Trại Hầm thăm ba, ổng nhờ con đưa
giùm cô Cúc, con của bác ấy về Sài Gòn.
Ba tôi lần
trong túi quần lấy ra hai tấm giấy.
-Đây là hai cái
vé máy bay, ngày mai con đưa cô Cúc về Sài Gòn, ở nhà bác ấy chơi
vài ngày. Bác Bảy muốn coi mặt con, hỏi con vài chuyện.
Tôi cứ nghĩ là
ba tôi đùa, mặc dầu từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ thấy ông nói
đùa. Tôi cằn nhằn:
-Ba à, con còn
phải đi học. Hơn nữa con đang ở trong quân đội, làm gì mà có thì giờ
để hộ tống cái cô Cúc gì đó về Sài Gòn.
Ba tôi nói tỉnh
queo.
-Con vừa có cái
phép bảy ngày mà.
Tôi giật thót
người, chỉ có thiếu tá trưởng phòng biết tôi đi phép, làm sao mà ba
tôi cũng biết được chuyện này.
-Ai nói cho ba
biết là con có cái phép bảy ngày?
-Bác Bảy chớ
ai, bác nói với ba là đã xin cho con cái phép bảy ngày.
Ngạc nhiên quá
sức, tôi vội hỏi ba tôi:
-Bác Bảy ở
trong quân đội hả ba? Ổng mang cấp bậc gì?
-Bác Bảy không
có dính dáng gì với lính, ổng chỉ lo kinh doanh buôn bán thôi. Nghe
đâu ông ấy là ông trùm nhà cửa ở Sài gòn.
Tôi nghĩ, kinh
doanh buôn bán gì mà cái phép của một thằng sĩ quan trong quân đội,
muốn xin là được ngay, quả thật ông bác Bảy này không đơn giản tí
nào. Tôi biết mình đang ở vào thế kẹt, đành phải thi hành lệnh thôi.
-Con chỉ đưa cô
Cúc về Sài Gòn thôi, phải không ba?
-Ừ, con sẽ ở
nhà bác Bảy vài ngày, bác ấy chỉ muốn chuyện trò với con, sau đó con
đưa cô Cúc về lại trường.
-Hiện giờ cổ
đang ở đâu?
-Nghe nói, nó ở
nội trú trong trường.
-Được rồi, con
sẽ làm đúng những gì ba dặn.
Ba tôi cười vui
vẻ, ông uống thêm một hớp nước trà rồi nói:
-Ba tin con,
bây giờ ba phải đi về.
Thực sự, nếu
muốn từ chối không đưa cô Cúc về Sài Gòn cũng được nhưng tôi không
nở. Phần vì thương ba tôi, một phần tôi cũng có đôi chút tò mò về cô
Cúc. Bấy lâu nay tôi sống với mối tình đầu của mình, lúc nào tôi
cũng nhớ Dung. Ba năm, rồi lại bốn năm, thời gian trôi qua vùn vụt,
riêng tôi si tình rồi để tang cho mối tình đầu chừng đó năm cũng đủ
rồi. Tôi vẫn nghĩ, đến một lúc nào đó tôi phải quên Dung, có lẽ đây
là cơ hội giúp tôi xóa bỏ bóng hình Dung trong tim tôi. Chuyện có
được hay không? Chưa biết, tôi phải tìm hiểu thêm về Cúc.
Tôi đón Cúc ở
ký túc xá của nữ sinh viên Đà Lạt. Nhận xét đầu tiên của tôi về Cúc
là nàng không đẹp, bốn điểm trên mười không thể gọi là đẹp được,
nhưng nhờ vào cách ăn mặc với bộ quần áo đắt tiền, đôi giày cao gót
da cá sấu, sợi dây chuyền bạch kim với trái tim nửa vàng nửa trắng
nơi cổ, chiếc vòng ngọc nơi tay, khiến cho sắc đẹp của người con gái
tăng thêm vài phần. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Tôi nhủ thầm,
coi cũng tạm được.
-Thưa cô, tôi
là Quân. Xin hỏi cô có phải là Cúc không?
-Dạ phải.
-Bác Bảy dặn
tôi, đến đưa cô về Sài Gòn.
-Dạ, em có nghe
ba em nói hồi hôm qua.
Tôi hơi ngạc
nhiên:
-Bác Bảy còn ở
Đà Lạt à?
-Dạ không, ba
em ở Sài Gòn, ổng gọi điện thoại cho em tối hôm qua.
Khi biết chắc,
người con gái đứng trước mặt mình là Cúc, tôi đổi cách xưng hô.
-Em đã sẵn sàng
chưa?
-Dạ chưa.
-Anh đợi em hai
chục phút thôi, lẹ lẹ lên.
Hai chục phút
sau, tôi xách va li của Cúc rồi cùng nàng đi bộ ra bến xe lam ở ngã
năm Đa Thiện. Vừa đi tôi vừa nói:
-Bốn giờ chiều,
phi cơ sẽ cất cánh ở phi trường Liên Khương, mình còn dư nhiều thời
giờ. Em đói bụng không?
-Dạ, cũng hơi
đói.
Tôi đưa Cúc tới
quán cà phê bình dân của chị Huệ ở đường Phan Bội Châu. Cúc nói với
tôi:
-Mình lại nhà
hàng Shanghai đi anh.
Tôi chợt nhớ ra
là mình đang đi với một cô gái con nhà giàu. Tự ái của thằng con
trai, mặc cảm con nhà nghèo khiến tôi nói với Cúc, giọng nói cộc
cằn, không một chút lịch sự:
-Anh hai mươi
bốn tuổi, khi anh mới sanh ra nhà hàng Shanghai đã có ở đó rồi, có
từ thời mấy ông Tây thuộc địa cỡi ngựa tới Chic Shanghai ăn uống.
Chừng đó năm, anh đã đi qua nhà hàng này cả hàng triệu lần, chỉ một
lần duy nhất anh bước chân vào đó, không dám ngồi ở phòng ăn, chỉ
ngồi phòng ngoài uống ly cà phê, ăn một dĩa khoai tây chiên. Ăn
khoai tây chiên rồi uống cà phê, đúng là nhà quê lên tỉnh nhưng
trong thực đơn, đó là hai món rẻ nhất. Hôm nay, anh đưa em vào đó ăn
trưa. Nếu em ăn một bữa ăn đúng nghĩa, một phần tư tháng lương của
anh sẽ bay cái vèo. Anh sẽ đưa em tới đó, đứng ngoài đợi em ăn, được
không?
Cúc lúng túng
ra mặt, giọng nói của nàng không được bình tĩnh cho lắm:
-Em đâu có
biết, lần nào lên thăm em, ba cũng đưa cả gia đình vào đó ăn tối. Em
thấy nơi đó thức ăn ngon, tiếp đãi lịch sự.
Tôi nói với
giọng châm biếm:
-Phải rồi, tiền
cũng lịch sự không kém, nơi đó là cái máy chém chứ không phải là nhà
hàng. Chỉ có những người như ba em mới đủ tư cách vào đó, còn anh
phải đợi đến khi nào trúng số anh mới vào. Bây giờ em có muốn vô đây
với anh, ăn khúc bánh mì, uống ly cà phê bình dân hay không?
-Dạ muốn.
-Vậy em còn đợi
gì mà không vô quán?
Tôi nói với chị
Huệ:
-Cho em hai
khúc bánh mì chả, hai ly cà phê.
Chị Huệ nhìn
tôi cười, nụ cười như ngầm nói, tôi méc cho mà coi:
-Cô Vân đâu
rồi.
-Dạ, đi học.
Trường hợp này
kêu bằng oan ơi ông Địa, biết vậy lúc nãy vô Shanghai ăn mà hay hơn.
Tôi cầm khúc bánh mì chả gặm ngon lành, nhìn sang Cúc, khúc bánh mì
vẫn còn nằm nguyên trong dĩa, tôi giục:
-Ăn đi em.
-Anh nhìn chăm
chăm như vậy, làm sao em ăn được.
-Được rồi, ăn
xong anh về cư xá lấy quần áo. Khi anh đi rồi không ai nhìn, lúc đó
em tha hồ mà ăn.
-Anh để em ngồi
một mình ở đây à?
-Phải rồi.
-Em đi theo anh
được không?
-Không.
-Tại sao vậy?
-Nơi anh ở là
cư xá sĩ quan độc thân, về phòng anh người ta dị nghị chứ sao. Hỏi
hoài.
Tôi trở về cư
xá, thay bộ đồ dân sự, mặc bộ đồ tiểu lễ mùa đông. Tôi đứng trước
gương ngắm nghía, sửa lại cái mũ nồi đen trên đầu cho chỉnh tề, kiểm
soát lại quần áo trong va ly, khi biết chắc là đã có thêm bộ đồ tiểu
lễ mùa hè, lúc bấy giờ tôi mới xách va ly quần áo trở lại quán chị
Huệ. Thấy tôi với bộ quân phục, Cúc trầm trồ:
-Bộ đồ này đẹp
quá trời, giống như mấy ông sinh viên Võ Bị phải không anh?
-Bộ đồ đẹp, còn
anh, em thấy thế nào?
-Anh dữ thấy
mồ.
Tôi không nói
gì thêm, ra dấu cho Cúc cùng đi. Từ đường Phan Bội Châu, hai đứa thả
bộ xuống bến xe taxi nằm trước nhà hàng Chic Shanghai.
Có thể, Đà Lạt
là một thành phố duy nhất trên thế giới, nếu muốn đi máy bay phải
tới ga xe lửa. Đâu khoảng năm 1961 khi mà Cộng Sản Bắc Việt đẻ ra
cái Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Dân miền Nam đang sống
trong tự do thanh bình, no ấm đâu có cần mấy ông Bắc Việt vào đây để
giải phóng. Chỉ có những người ngoại quốc ngây thơ mới tin rằng Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là do dân miền Nam lập ra. Từ khi
có Mặt Trận, mấy ông giải phóng đi đến đâu ở đó có chiến tranh, khổ
đau chết chóc kéo theo đến đó. Việt Cộng bằng mọi cách khủng bố dân
chúng, phá hủy nhũng công trình lợi ích công cộng của Việt Nam Cộng
Hòa, hôm nay họ đào đường đắp mô đường bộ, ngày mai đặt mìn giựt sập
cầu phá hủy đường xe lửa, tuần tới phục kích bắn phá dân chúng đi
trên tàu lửa. Đến năm 1968 đoạn đường xe lửa từ Sông Pha lên Đà Lạt
phải ngưng hoạt động. Tôi biết người Pháp đã bỏ ra hàng chục năm,
tốn không biết bao nhiêu công sức, tiền của để xây dựng nên đoạn
đường xe lửa đặc biệt này. Gọi là đặc biệt, vì ngoài hai đường ray
thường, còn có thêm đường ray răng cưa thứ ba ở chính giữa. Khi bắt
đầu leo dốc, đầu máy xe lửa đặc biệt sẽ móc vào đường ray răng cưa.
Xe lửa leo dốc sẽ không bị tuột. Người ta gọi đường xe lửa này là
Cog railroad, do hãng Fuca Thụy Sĩ sản xuất, loại đầu máy xe lửa này
trên thế giới chỉ có ở Thụy Sĩ và sau đó là Đà Lạt. Mấy năm rồi, xe
lửa không chạy được nhưng nhà ga vẫn còn đó, người ta dùng ga xe lửa
làm trạm hàng không.
Ba giờ chiều,
tôi và Cúc ngồi trong tòa nhà kính ở phi trường Liên Khương chờ máy
bay. Hai tách cà phê còn nóng hổi, tỏa mùi thơm ngào ngạt được mang
lên. Qua khung cửa kính, bên ngoài sương mù xuống thật thấp bao phủ
cả núi đồi. Trước mắt tôi, phi đạo mù mờ trong sương chiều. Thấy
cảnh, chạnh lòng nhớ đến bài thơ cũ, tôi khẽ đọc:
Mù sương phi
cảng não nề
Thôi anh ở lại
buồn về em mang.
Tiễn anh một
chén rượu tàn
Một bàn tay
nắm, một hàng lệ mau.
Cúc hỏi tôi:
-Thơ của anh
phải không?
Tôi đùa với
Cúc:
-Anh mà làm thơ
hay như vậy đâu có đi lính làm gì cho mệt, ở nhà làm thơ gánh ra bán
chợ trời, khỏe ru.
-Bài thơ buồn
quá, của ai vậy anh?
-Đó là bài Khúc
Ly Đình của Cao Thị Vạn Giả. Không biết anh nhớ có đúng hay không,
đừng có tin anh.
o O o
Vẫn là những
chiếc taxi nhỏ xíu sơn hai màu xanh trắng của Sài Gòn hơn bốn năm về
trước, đưa tôi và Cúc ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt. Sài Gòn vẫn
vậy, ồn ào náo nhiệt xe cộ dập dìu như mắc cửi, xe chạy trên đường
Công Lý, qua chùa Vĩnh Nghiêm, qua ngã tư Yên Đổ được chừng non cây
số, Cúc nói với tài xế ngừng lại trước một ngôi nhà kín cổng cao
tường.
Mỗi tay một cái
va ly, tôi theo Cúc đi vào nhà. Vừa bước chân qua khỏi cánh cửa cổng
cao quá tầm mắt, tôi khựng người lại. Trước mắt tôi, một ngôi biệt
thự nguy nga, đồ sộ kiến trúc theo kiểu Pháp, giống như những ngôi
biệt thự mà tôi thấy ở Đà Lạt, cũng sân cỏ rộng mênh mông, cũng một
con đường nhỏ lát đá dăm hình chữ C để xe hơi chạy vào tận hàng hiên
của ngôi biệt thự.
Một người đàn
ông cao lớn, mặt mũi phương phi trong bộ vest đúng thời trang đang
đi tới, đi lui trước thềm nhà, nhìn ông ta tôi có cảm tưởng ông sắp
đi họp nội các chính phủ hay họp Quốc Hội. Ông nhìn tôi thật lâu.
Tôi không biết ông muốn gì đành đứng yên, lúng ta lúng túng, tay
chân hình như thừa thãi. Cuối cùng, ông ta cũng lên tiếng:
-Con là Quân?
-Dạ phải.
Ông ta tự giới
thiệu:
-Bác là Bảy,
bạn của ba con.
Quay sang Cúc,
ông nói:
-Con đi đường
có mệt hãy vô phòng mà nghỉ, ba có chuyện riêng muốn nói với Quân.
Tôi hơi ngạc
nhiên, tại sao cha con họ gặp nhau mà không một chút gì vui mừng,
hớn hở. Đợi cho Cúc khuất hẳn sau cánh cửa cuối phòng, bác Bảy mới
nói với tôi:
-Con nói như
thế nào mà Cúc chịu theo con về đây.
Không biết bác
Bảy có lẩm cẩm hay không? Chính ông là người muốn tôi đưa Cúc về
đây, rồi bây giờ lại hỏi. Tôi trả lời:
-Dạ, bác muốn
con đưa Cúc về đây, con đã làm đúng lời bác dặn.
-Đúng là bác
muốn như vậy, nhưng mà có chuyện này bác chưa nói với con. Từ ngày
má của Cúc mất, sau đó bác lấy bà sau, con Cúc đâm ra ghét bác,
không bao giờ chịu nghe lời bác. Ngày hôm qua nó còn nói với bác là,
cho dù bác có đưa mười người tới cạy chân nó cũng không về Sài Gòn
đâu. Bác nhờ con, nhưng không tin là con sẽ đưa Cúc về đây được. Mà
thôi, mọi chuyện sẽ tính sau, con nghỉ cho khỏe, ở chơi vài ngày rồi
đưa nó về lại Đà Lạt. Phòng riêng của con ở trên lầu, phòng thứ hai
bên trái, lát nữa, chị người làm sẽ hướng dẫn con mọi việc trong căn
nhà này.
Ách giữa đàng
lại mang vào cổ, chuyện xung đột, bất hòa giữa hai cha con họ, đang
không tròng vào cổ mình.
Tôi theo chân
chị người làm, đi lên căn phòng dành riêng cho mình. Thang lầu làm
bằng gồ quý, hai lan can với những hàng cột chạm trổ cầu kỳ, tỉ mỉ
được đánh vẹc ni bóng loáng, không một hạt bụi, chứng tỏ nó được lau
chùi hàng ngày. Căn phòng tôi ở khá rộng, đầy đủ tiện nghi, điều mà
tôi thích nhất là cái cửa sổ nhìn xuống sân sau của căn nhà. Tôi
gieo mình xuống giường, đưa mắt nhìn những đường hoa văn chạy quanh
trần nhà rồi chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Đang mơ mơ màng
màng, tôi chợt giật mình vì có ai đó lay nhẹ nơi vai. Tôi mở mắt ra
nhìn rồi nói, giọng nói đầy bực tức:
-Ai cho em vào
đây?
Cúc trả lời:
-Em vào để thức
anh dậy.
Câu trả lời của
Cúc khiến tôi nổi giận đùng đùng. Mặc cảm nghèo hèn, khiến tôi có
thành kiến với lũ con gái nhà giàu, họ dựa vào đồng tiền nên muốn
làm gì thì làm. Tôi lên giọng cay cú với Cúc:
-Vẫn biết đây
là nhà của em, nhưng em phải biết chút lịch sự tối thiểu, ỷ là nhà
của mình rồi muốn làm gì cũng được hay sao?
Cúc nhìn tôi
đầy vẻ ngạc nhiên, đôi mắt ươn ướt như muốn khóc khiến lòng tôi
chùng xuống, bao nhiêu giận dữ vụt tiêu tan, tôi nhẹ giọng:
-Tại sao em vào
mà không gõ cửa?
-Em gõ cửa đến
mấy lần mà không nghe anh trả lời. Cuối cùng, em đành phải mở cửa đi
vào để đánh thức anh dậy. Ba đang đợi anh xuống ăn cơm tối. Anh biết
mấy giờ rồi không?
– Không.
– Đã chín giờ
tối rồi.
Người quá đáng
là tôi chứ không phải là Cúc, tôi nói nhỏ:
-Xin lỗi em.
Tôi theo Cúc đi
xuống nhà. Bác Bảy ngồi nơi bàn ăn, trước mặt ông là chai rượu
Martell, khi thấy tôi, bác lên tiếng:
-Uống với bác
một ly cho ấm bụng, trước khi ăn cơm.
-Thưa bác, con
không biết uống rượu.
Bác Bảy lắc
đầu, nhìn tôi như tiếc rẻ.
-Con đi lính
được bao lâu rồi?
-Dạ, gần năm
năm.
-Lính mà không
biết uống rượu coi bộ hơi yếu, người ta thường nói nam vô tửu như kỳ
vô phong. Ở miền Nam này không biết uống rượu kể như mất vợ. Con có
biết không, đâu ba chục năm trước lần đầu tiên bác gặp ông ngoại của
con Cúc, bác không biết uống rượu. Dân miền Trung của mình mấy ai
biết uống rượu, tiền mua gạo không có lấy tiền đâu mà uống rượu, tuy
vậy bác vẫn cố hầu rượu với ông ấy. Một mình bác uống hết một lít
rượu đế, sau đó bác bị say lúy túy, nằm bò càng nơi góc nhà đến
chiều hôm sau mới tỉnh lại, nhờ vậy mới lấy được má con Cúc.
Bác Bảy chỉ
chiếc ghế đối diện.
-Con ngồi đó,
không cần uống một lít rượu đế như bác ngày xưa. Mấy chục năm rồi,
bây giờ thời thế đã khác, con uống một ly nhỏ Martell là được rồi.
Nghĩ tới Dung
giờ này đã yên phận với mối tình của nàng, tôi nhìn Cúc đang ngồi
đó, bên cạnh bác Bảy rồi quyết định, phải uống một lít rượu đế thôi.
Tôi nâng ly Martell.
-Mời bác.
Suốt bữa ăn,
bác Bảy và Cúc không hề nói chuyện với nhau, chỉ có mình tôi tả xung
hữu đột khi nói với Cúc, lúc phải trả lời bác Bảy. Bữa ăn tối trôi
qua trong không khí tẻ nhạt, Cúc đứng lên:
-Con mệt quá
phải về phòng nghỉ, ba và anh Quân ăn cơm vui vẻ.
Khi bóng Cúc đã
khuất sau cầu thang, bác Bảy hỏi tôi:
-Con buồn ngủ
chưa?
-Dạ chưa.
-Vậy, bác cháu
mình ra sân sau chuyện trò.
Vừa bước ra
khỏi nhà, tôi ngạc nhiên đến sửng người khi nhìn thấy nguyên một
tiểu cảnh ở góc vườn. Dưới ánh sáng lung linh mờ ảo của những ngọn
đèn đặc biệt, một hòn non bộ với thác nước cao chừng hai mét, nước
đổ ào ào, xen vào đó là những cây bonsai với đủ mọi hình dáng, từ
rừng thông xanh chen chúc nhau bên bờ đá, cho đến những cây tùng mọc
lác đác trên sườn núi, mà thân của nó đổ dài theo khe suối, rễ của
nó bám chặt vào vách đá cheo leo. Dưới chân thác nước, tôi đếm được
5 hòn đá có hình dáng giống như những hòn núi đá ở vịnh Hạ Long mà
tôi đã từng thấy qua hình ảnh. Tôi buột miệng:
-Đẹp quá chìmg.
Bác Bảy đến bên
tôi.
-Con có thấy gì
không?
-Dạ năm hòn đá.
-Đúng, bác cho
xây hòn non bộ này vì nghĩ đến quê hương xứ sở của mình. Mỗi khi gặp
khó khăn, phiền phức, bác thường ra đây ngồi nghe nước chảy rôi thả
hồn về quê, bao lo âu phiền muộn sẽ từ từ tan biến. Con có thấy nó
giống như Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng của mình không?
-Dạ con chưa
được về xứ mình, nên không biết núi Ngũ Hành như thế nào.
Bác Bảy chỉ tôi
ngồi xuống một cái ghế đá.
-Bác có chuyện
nhờ con, chỉ là chuyện gia đình.
-Dạ, con sẽ cố
gắng hết sức.
-Chuyện như
vầy, bác là người kinh doanh về nhà cửa ở Sài Gòn. Từ ngôi biệt thự
này chạy về phía phi trường Tân Sơn Nhứt, bác có khoảng chục cái
building cao tầng cho Mỹ mướn.
Tôi nghe bác
Bảy nói mà lạnh cả người, chỉ cần một tòa nhà cho Mỹ mướn, con cháu
sống sung sướng suốt một đời, đàng này ông có những chục tòa nhà cao
tầng, đó là chuyện tôi không bao giờ ngờ tới. Có điều, tôi không
hiểu được tại sao một người như bác Bảy, học hành không được bao
nhiêu vào Sài Gòn với hai bàn tay trắng, chưa đầy ba chục năm sau
lại xây dựng nên một sản nghiệp khổng lồ như vầy. Ông ta phải là một
con người đặc biệt khác thường.
Bác Bảy kéo tôi
ra khỏi dòng suy nghĩ.
-Công việc làm
ăn của bác mỗi ngày một phát triển tốt đẹp, đạt đến giai đoạn cực
thịnh cách đây vài năm, khi mà con số lính Mỹ viễn chinh đổ vào Việt
Nam lên đến hơn nửa triệu người. Trong lúc bác đang bận bịu với công
việc làm ăn, bất ngờ má con Cúc lại đột ngột qua đời vì bệnh tim bẩm
sinh. Phải mất cả mấy tháng trời, nỗi buồn của bác mới nguôi ngoai
được phần nào.
Đang nói
chuyện, bác Bảy thân mật vỗ vai tôi:
-Có chuyện này
bác muốn nói với con, đàn ông bọn mình coi vậy chứ đoản lắm, nói là
buồn, nhưng vợ mất chưa được bao lâu bác đã lật đật cưới bà khác. Bà
sau này có với bác đứa con trai, vừa thôi nôi cách đây độ nửa năm.
Trước đây khi má con Cúc còn sống, nhưng sau khi sanh con Cúc đã
không sanh đẻ được nữa, bác nghĩ rằng ông trời cũng lạ, cho mình
tiền bạc thừa mứa nhung con cái để nối dòng lại quá khắt khe. Nào
ngờ, khi lấy bà sau chưa được bao lâu lại có liền đứa con trai. Ông
bà mình có nói “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” được đứa con
trai bác mừng muốn chết, cho nên bác lẹ lẹ làm tờ di chúc, tài sản
của bác sẽ chia làm hai phần bằng nhau. Con Cúc một phần, thằng con
trai của bác với bà sau một phần. Chuyện bất hòa giữa bác và Cúc bắt
nguồn từ đó. Con Cúc giận bác cho đến giờ.
Bác Bảy ngưng
nói, ông nhìn tôi thật lâu rồi chầm chậm lên tiếng:
-Con và Cúc học
chung trường, cùng là người có ăn học, dễ thông cảm nhau. Bác nhờ
con giải thích cho Cúc hiểu tâm tình của bác, để cha con không còn
giận hờn nhau nữa.
Bây giờ tôi đã
hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện, hiểu rõ mục đích chuyến đi phép bảy
ngày của mình. Sau một lúc suy nghĩ, tôi mạnh dạn trả lời bác Bảy:
-Con nghĩ rằng
bác làm đúng tất cả mọi chuyện, em Cúc hơi quá đáng nếu không muốn
nói là quá ích kỷ, chỉ biết lo cho mình thôi. Con sẽ tìm cách nói
với Cúc.
Một nụ cười
thoáng trên môi bác Bảy, ông nói:
-Cảm ơn con
nhiều, bác biết con sẽ làm được.
Tôi nhìn đồng
hồ đeo tay.
-Bác còn gì sai
bảo con nữa không?
-Không.
Tôi nói:
-Xin phép bác
cho con về phòng nghỉ.
Khi tôi đi được
vài bước, bác Bảy chạy theo đặt vào tay của tôi một cái phong bì dày
cộm.
-Con cầm chút
tiền này, mai đưa Cúc đi chơi.
-Thưa bác con
có tiền.
Bác Bảy nói với
tôi, giọng nói đầy uy quyền của một nhà đại tư bản.
-Tiền lương của
lính Mỹ tính bằng đô la bác coi còn không ra gì huống chi lương của
lính Việt Nam. Tin bác đi, lương tháng của con không đủ cho con Cúc
nó sắm một bộ đồ. Cứ cầm lấy, mai mốt không xài trả lại cho bác sau.
Nếu con muốn.
Tôi biết có
chối từ cũng không được, đành phải cầm lấy cái phong bì. Bác Bảy dặn
thêm:
-Nhà có nhiều
xe, con muốn đi đâu cứ biểu tài xế chở đi.
Tôi ngủ một
giấc cho đến chín giờ sáng mới thức dậy. Hôm nay tôi dự định sẽ tìm
cơ hội để nói với Cúc về chuyện phân chia tài sản của bác Bảy. Tôi
phải thanh toán chiến trường cho lẹ lẹ, như lính Nhảy Dù tấn công
mục tiêu, sau đó còn trở về Đà Lạt.
Khi tôi đi
ngang qua nhà bếp, Cúc đang ngồi nơi bàn ăn với tờ báo trên tay.
Thấy tôi nàng cất tiếng:
-Anh ngủ ngon
không?
Tôi trả lời:
-Lạ nhà, nhưng
vẫn ngủ ngon như thường.
-Anh muốn ăn
sáng ở nhà, hay muốn xuống Sài Gòn đi dạo một vòng rồi ăn sáng luôn?
Tôi chợt nhớ
đến tựa đề của một bài hát khá thịnh hành, bèn đùa với Cúc:
-“Lính mà em”
ăn ở đâu cũng được.
Giọng nói của
Cúc hơi gắt:
-Anh ăn nói
kiểu huề vốn như vậy, làm sao em biết anh muốn gì.
-Xin lỗi em,
thực lòng mà nói anh có biết gì về Sài Gòn đâu. Bốn tháng ở Quân
trường Thủ Đức, cuối tuần nghỉ phép anh chỉ loanh quanh từ tòa nhà
Quốc Hội đến chợ Bến Thành, rồi từ Dinh Độc Lập với con đường Công
Lý chạy qua khỏi cầu cho đến đường Nguyễn Minh Chiếu, chỉ chừng đó
thôi. Anh về Sài Gòn cũng giống như Mán về thành.
-Em có chuyện
này muốn nói với anh, nhưng anh phải hứa là không được tự ái,
-Đồng ý.
-Em muốn mời
anh xuống Sài Gòn ăn trưa, em sẽ trả tiền.
-Đi liền, nhung
anh phải là người trả tiền.
Tôi kể cho Cúc
nghe đầu đuôi câu chuyện giữa tôi và bác Bảy tối hôm qua, kể luôn cả
chuyện bác đã đưa tiền cho tôi. Tôi nói với Cúc:
-Anh đoán số
tiền ba em đưa cho anh nhiều, nhưng anh không ngờ nó nhiều đến như
vậy. Lương trung úy độc thân của anh chỉ có hai mươi lăm ngàn một
tháng, số tiền trong bì thơ bằng hai tháng lương của anh. Mà thôi,
dẹp chuyện tiền bạc qua một bên, anh chỉ muốn nói với em hãy thương
ba em, đừng giận ông ấy nữa. Chuyện ba em chia đôi gia tài cũng phải
thôi, con bà trước hay bà sau cũng là con của ông ấy, hơn nữa đứa bé
lại là con trai. Nỡ lòng nào em dành hết phần của em mình, cho dù là
em cùng cha khác mẹ.
Cúc chăm chú
nhìn tôi nhăn mặt, tỏ vẻ khó chịu, được một lúc nàng mới nói:
-Câu chuyện hơi
dài, mình ra nhà sau ngồi em sẽ kể cho anh nghe. Được không?
-Anh, lúc nào
cũng sẵn sàng.
-Để em dặn chị
Hai làm thức ăn sáng, anh muốn ăn gì?
-Gì cũng được.
Tôi và Cúc ra
ngồi ở bãi cỏ bên hòn non bộ. Cúc mở đầu câu chuyện:
-Trước đây, em
dặn lòng là sẽ không bao giờ về lại Sài Gòn gặp ba em, nhưng hôm qua
lúc gặp anh em lại đổi ý. Em muốn kéo anh về phe em để chống lại ba
em. Em nghĩ, tại sao không nương vào sự tin tưởng của ba em đối với
anh để thuyết phục ông đừng chia gia tài cho má ghẻ của em.Tất cả
những gì ba em nói với anh đều là sự thật, nhưng đó chỉ là một phần
của sự thật thôi, mà một phần thì chẳng khác gì chuyện anh mù sờ
voi. Ôm cái chân voi, rồi la lên là con voi giống cái cột nhà.
Cúc nhìn tôi
như chờ đợi, khi thấy tôi yên lặng, nàng nói tiếp.
-Ông ngoại của
em là người Ấn, sang Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Thời bấy giờ, đa
số người Ấn ở Việt Nam sinh sống bằng nghề cho vay lấy lãi hoặc là
mở cửa hàng buôn bán mỹ phẩm, tơ lụa chở từ Bombay sang. Riêng ông
ngoại em lại lấy vợ Việt, nuôi một đàn dê bán thịt, lấy sữa. Chuyện
cũng dễ hiểu, vì ông không có nhiều vốn như những người Ấn khác.
Ngày xưa, từ cầu Mạc Má Hồng chạy dài đến phi trường Tân Sơn Nhứt là
một vùng đất hoang, cây cối xanh tươi, cỏ dại mọc đầy đồng, lác đác
chỗ này vài chục căn nhà tranh vách đất, chỗ kia dọc theo mặt lộ
mươi căn nhà gạch, gom hết lại độ vài trăm căn nhà. Ông ngoại em cho
đàn dê ăn cỏ trên vùng đất đó.
Tôi ngắt lời
Cúc.
-Khoan đã, em
nói cái cầu tên gì?
-Cây cầu tên là
Mac Mahon, người Việt mình đọc thành Mạc Má Hồng. Sau này đổi tên là
cầu Công Lý.
-Em chỉ thua
anh có vài tuổi sao em rành chuyện xưa của Sài Gòn như vậy?
-Ông ngoại em
kể lại, vì đây là vùng đất của ông ngoại em mà. Chuyện như thế này,
sở thuế của Sài Gòn muốn thâu thuế trên đàn dê của ông ngoại, vì đàn
dê ăn cỏ trên đất của thành phố nhưng không thâu thuế được, phần ông
ngoại lại cho rằng đất ở đây không phải của ông, đàn dê chỉ ăn cỏ
trên đó thôi. Cuối cùng một giải pháp ổn thỏa cho cả hai bên là, sở
đất Sài Gòn ký giấy cho ông ngoại phần đất từ cầu Mạc Má Hồng đến
Tân Sơn Nhứt để ông chăn dê, với điều kiện phải đóng thuế thổ trạch.
Từ một di dân bỗng dưng trở thành địa chủ, ông ngoại phải đi thu
thuế của những gia đình có nhà trên vùng đất này, rồi nộp lại cho sở
thuế của Pháp ở Sài Gòn. Chuyện được sở hữu miếng đất ông ngoại
không phàn nàn, nhưng khi thu thuế đất thường gặp khó khăn, trở
ngại, vì người dân ở đây lý luận rằng: họ là dân Việt Nam, sống trên
đất Việt Nam tại sao lại phải nộp thuế đất cho một anh Ấn Độ. Chuyện
tranh cãi về thuế đất dùng dằng, kéo dài cho đến cái năm Nhật đảo
chánh, ba của em từ Quảng Nam lưu lạc đến vùng này. Ông ngoại thuê
ba để chăn đàn dê và thu thuế đất cho ông. Ba em lúc bấy giờ là một
thanh niên trẻ tuổi lanh lẹ, làm việc giỏi giang, nhất là khi đi thu
thuế đất, không biết ba nói những gì mà việc thu thuế êm xuôi, trót
lọt.
Ông ngoại
thường nói với em “Tao gả má mày cho ba mày, vì tao muốn cột cẳng ba
mày ở đây. Thiếu ba mày, một mình tao làm sao lo nổi mọi chuyện”. Em
nói với ông “Vậy là ông ngoại lợi dụng ba con”. Ông cười rồi nói
“Lúc đầu tao có ý đó thiệt, nhưng sau này tao thương ba mày còn hơn
con ruột”
Chị người làm
bưng ra hai phần ăn sáng. Không khách sáo, tôi kéo khay thức ăn lại
trước mặt mình, vừa ăn vừa hỏi Cúc:
-Ông ngoại em
có bao nhiêu người con?
-Chỉ có một
mình má em.
Tôi đùa với
Cúc:
-Ba em cũng
sướng thiệt, ông ngoại em tạo dựng nên cơ nghiệp. Ba em vào thừa
hưởng.
-Không đúng đâu
anh ơi! Nói như vậy tội nghiệp cho ba em. Trước thập niên năm mươi,
vùng đất từ Tân Son Nhứt về đến cầu Mạc Má Hồng, ai muốn lấy bao
nhiêu đất để xây nhà cũng được, họ chỉ tốn một ít tiền gọi là lệ phí
giấy tờ sau đó phải đóng thuế thổ trạch cho ông ngoại của em. Ông
ngoại sẽ nộp tiền thuế này lại cho sở thuế ở Sài Gòn. Gần hai chục
năm sau, khi lính Mỹ đổ vào Việt Nam, vùng đất này trở thành vùng
đất vàng. Lúc bấy giờ ba em bán bớt đất, xây building cho Mỹ mướn
rồi giàu lên từ dạo ấy đến giờ.
Tôi chấm dứt
bữa ăn sáng bằng một ngụm cà phê, rồi nói với Cúc:
-Tất cả gia tài
sản nghiệp do một tay ông tạo dựng nên, đúng không?
-Đúng, em đâu
có phủ nhận công của ba em đâu.
Tôi mừng quá
sức, vì câu chuyện diễn tiến tốt đẹp theo chiều hướng mà tôi muốn.
-Nếu vậy, ba em
có quyền phân chia tài sản của ông theo ý ông muốn, tại sao em lại
giận ba em?
Gương mặt của
Cúc bỗng nhiên đối sắc. Cúc trả lời tôi, với giọng nói đầy tức giận:
-Cũng tại nơi
hòn non bộ này, năm ngoái khi ba em đi Đà Nẵng lo công việc, má ghẻ
của em dẫn thằng bồ của nó về đây. Con nhỏ không biết em vừa từ Đà
Lạt về lại nhà vào tối hôm trước, đang ở trên lầu. Từ phòng anh ở
nhìn xuống đây, anh sẽ không thấy gì, nhưng bên phòng ngủ của em sẽ
thấy rất rõ.
-Em ăn nói hơi
lỗ mãng, tại sao lại kêu má ghẻ của mình là con nhỏ.
-Nó bằng tuổi
em lại lăng loàn, anh muốn em kêu nó bằng gì?
Rõ ràng là tôi
đang rơi vào tình huống bất ngờ, nhưng tôi vẫn cố gắng vớt vát.
-Tại sao em
biết họ là bồ của nhau?
-Ba em vắng nhà
cả tuần, hai đứa mất nết ngồi đây hôn nhau, không phải là bồ thì gọi
là gì?
Cúc nhìn tôi
với đôi mắt buồn hiu.
-Anh có biết,
tại sao em không muốn ba em chia gia tài cho thằng bé không?
-Không, tại sao
vậy?
-Bởi vì, thằng
bé là con của má ghẻ em với thằng bồ của bả, nó giống thằng bồ của
má ghẻ em như hai giọt nước. Nó đâu phải là con của ba em. Ba em là
cái mỏ vàng mà người đào mỏ là má ghẻ của em và thằng bồ của bả.
Tôi ngồi thừ
người ra đó, tiếng thác nước từ hòn non bộ đổ xuống hồ nghe rào rào
như tiếng mưa rơi. Âm thanh của nó khiến tôi chợt nhớ đến một cuốn
phim đen trắng của Nhật, mà tôi đã được xem cách đây vài năm. Ba
người núp mưa dưới cái cổng tên là Rashomon cổ xưa, dẫn vào miền nam
cố đô Kyoto. Một nửa mái cổng đổ nát, tàn tạ tiêu điều chìm trong
làn nước mưa xám đục, một ông sư, một bác tiều phu, một gã thường
dân…. đâu là sự thật?
Bác Bảy và Cúc,
tôi phải tin ai?
Cho dù câu
chuyện Cúc kể không có một bằng chứng cụ thể nào về gốc gác của
thằng bé, nhưng qua trực giác tôi tin rằng Cúc nói đúng. Còn nếu
muốn suy luận lại càng rõ ràng hơn, một cô gái mới hai mươi tuổi
chịu lấy bác Bảy, một ông già đáng tuổi cha mình, nếu không vì tình
thì chỉ vì tiền mà thôi.
Mục đích của
tôi là thuyết phục Cúc, bây giờ tôi lại bị Cúc thuyết phục.
-Anh đang nghĩ
gì vậy?
Giọng nói của
Cúc kéo tôi trở về với thực tại, mặc dù nghe Cúc nói rõ ràng nhưng
tôi vẫn hỏi lại:
-Em nói gì?
-Anh làm gì mà
ngồi ngẩn người ra như vậy?
Thay vì trả lời
câu hỏi của Cúc, tôi hỏi lại nàng:
-Tại sao, em
không nói chuyện bê bối của bà má ghẻ và thằng bé cho ba em nghe?
-Liệu ba em có
tin lời nói của em hay không? Hay là ông lại cho rằng em đặt chuyện
để vu khống cho người ta. Em muốn nhờ anh nói giùm, đó là lý do tại
sao em đồng ý theo anh từ Đà Lạt về đây.
Tôi lắc đầu:
-Chuyện quan
trọng lại quá sức tế nhị, anh không đủ khả năng. Hơn nữa, nếu ăn nói
không khéo léo, bác Bảy có thể nổi giận cho anh vài cái bạt tai rồi
tống cổ anh ra khỏi nhà với câu nói “Cái trứng đòi khôn hơn con gà”
Hai đứa im lặng
nhìn nhau, cuối cùng tôi nói với Cúc:
-Anh không giúp
được gì cho em đâu. Ngày mai anh sẽ về Đà Lạt, em có muốn đi cùng
với anh hay không, tùy ý em.
Cũng đúng lúc
ấy, tôi nói với Cúc một câu nói mà tôi không hề muốn nói:
-Ba em chia cho
em một nửa gia tài như vậy là quá rồi, nếu ổng để hết gia tài lại
cho thằng bé, em cũng chẳng làm gì được, luật pháp đâu có cấm cản.
Tôi không ngờ
câu nói trong lúc cùng đường lại có kết quả, Cúc ngồi im lặng một
lúc rồi nói với tôi:
-Anh nói đúng,
em sẽ suy nghĩ lại, cảm ơn anh đã giúp em. Giờ này cũng đã hơn mười
một giờ rồi, em mời anh xuống Sài Gòn ăn trưa.
-Chuyện đó
không có gì trở ngại, anh cũng muốn dạo một vòng Sài Gòn.
Tôi mặc bộ đồ
tiểu lễ mùa hè của Trường Võ Bị Đà Lạt, gắn thêm cặp lon trung úy
nơi cầu vai áo rồi thong thả đi xuống nhà. Cúc cũng đã chưng diện
xong xuôi, hai đứa lên chiếc Peugeot 404. Anh tài xế với giọng kính
cẩn.
-Thưa cô muốn
đi đâu?
Cúc trả lời cộc
lốc:
-Sài Gòn.
Quay sang tôi,
Cúc nói:
-Hình như anh
thích mặc đồ lính hơn đồ dân sự.
-Đúng.
-Khi đi phép,
anh có quyền mặc thường phục mà.
-Con người anh
yếu đuối, thiếu tự tin, lúc nhỏ khi đi học bị bạn bè trong lớp hiếp
đáp, đứa bóp mũi, đứa cú đầu, đứa đá đít, có cục kẹo giấu trong túi
cũng bị tụi nó lục lấy mất. Bị ăn hiếp riết thành quen, anh coi đó
là chuyện bình thường. Lớn lên khi vào trung học, anh học hành không
được giỏi giang gì cho lắm, năm nào cũng chỉ hơn được mươi đứa ở
cuối lớp. Lúc thi đậu Tú tài, thấy tên mình trên bảng anh vẫn chưa
tin. Khi đi lính, anh không dám thi vào Hải Quân hay Võ Bị Đà Lạt vì
sợ mình không đủ sức.
Cúc nói:
-Đó là chuyện
xưa, còn bây giờ phải khác chớ.
-Không có gì
khác, một đôi khi em thấy anh ăn nói cộc cằn, thô lỗ rồi nghĩ rằng
anh có cá tính mạnh hoặc dữ nhưng thật ra đó chỉ là phản ứng của một
người nhút nhát, mang đầy mặc cảm. Tự tin sao được khi anh mặc đồ
dân sự đi ngoài phố, là bị cảnh sát gác đường chận lại xét giấy tờ
vì nghi là anh trốn quân dịch. Hơn nữa đen đúa, xấu xí như anh lại
mặc bộ đồ dân sự rẻ tiền không hợp thời trang, đi với một cô gái ăn
mặc sang trọng lịch sự như em dám bị người ta nói “Tiếc thay cây quế
giữa rừng” hoặc tệ hơn nữa có thể bị du đảng Sài Gòn đánh cho gãy
tay, què cẳng như không. Thôi thì cẩn tắc vô áy náy, biết phòng xa
vẫn tốt, mặc bộ đồ tiểu lễ của Trường Võ Bị Đà Lạt, thêm cặp lon
trung úy nơi cầu vai áo, giúp anh tự tin hơn.
Xe chạy vòng
theo bùng binh chợ Bến Thành, khi đi ngang qua nhà hàng Thanh Bạch
tôi nói với anh tài xế.
-Ngừng xe ở
đây.
Cúc quay qua
nhìn tôi:
-Anh muốn ăn
trưa ở Thanh Bạch?
-Không, mấy năm
trước lúc còn là Sinh viên sĩ quan Thủ Đức anh cùng hai người bạn có
ăn tối ở đây, anh chỉ muốn nhìn lại chốn cũ chút xíu.
Khi nói xong,
tôi mới giật minh nghĩ lại, mình chỉ nói có một phần sự thật. Tôi
giấu biệt chuyện có Dung trong bữa ăn đó, giấu chuyện tôi yêu Dung
say đắm như thế nào.
Tối hôm đó,
không biết Cúc nói gì với bác Bảy, ngày hôm sau khi gặp tôi bác Bảy
vồn vã, săn đón, niềm nở chuyện trò với tôi như là thượng khách
trong nhà. Ông dẫn tôi và Cúc đi ăn uống ở những nhà hàng sang trọng
của Sài Gòn và Chợ Lớn, sắm cho tôi những bộ quần áo đắt tiền. Cúc
đã hết giận bác Bảy. Nhìn cha con họ vui vẻ bên nhau, cười nói huyên
thuyên tôi thấy hết sức áy náy trong lòng. Lạy trời, xin bác Bảy
đừng nghe lời nói bậy của tôi trong lúc cùng đường, đem hết gia tài
sản nghiệp của bác để lại cho mẹ con thằng bé.
Liên tiếp mấy
ngày sau đó, Cúc dẫn tôi rong chơi khắp Sài Gòn trên chiếc xe
Peugeot 404. Tôi ăn diện như một tay chơi thứ thiệt của Sài Gòn, áo
quần đắt tiền, lịch sự hợp thời trang, thêm đôi giày da của Ý bóng
láng, khiến cho tôi quên mất mình là con của một gia đình nghèo,
quên luôn mình là lính trong một đất nước mà bom đạn của chiến tranh
đã tàn phá, hủy hoại đến tận cùng của khổ đau.
Gần ngày cuối
cùng của bảy ngày phép, Cúc cho tài xế lái xe ra Vũng Tàu. Tôi ngồi
dựa ngửa trên chiếc ghế dựa nơi bãi biển, bên cạnh là chai bia 33
lạnh ngắt, từng giọt mồ hôi lạnh của chai bia chảy dọc theo thân
chai, mới nhìn thấy chưa kịp uống đã phát thèm. Cúc từ dưới biển đi
lên, thân hình cân đối đầy đặn với làn da trắng mịn màng, gói gọn
trong bộ bikini xanh lợt. Tôi thấy rõ cái hấp lực mãnh liệt trong
một tấm thân căng đầy nhựa sống. Những giọt nước biển trong veo chảy
dài theo thân thể của nàng, long lanh, lấp lánh dưới ánh mặt trời
khiến tôi ngẩn ngơ cả người. Để xóa bỏ ý nghĩ xấu trong đầu, tôi quơ
tay nâng chai bia uống một hơi. Cúc lại gần chiếc ghế bên cạnh tôi
nhẹ giọng:
-Anh ngồi nhớ
ai mà như mất hồn vậy? Xuống tắm biển với em.
Vừa dứt lời,
Cúc nắm dây thẻ bài tôi đeo nơi cổ, kéo tôi đứng lên.
-Cho em coi cái
thẻ bài của anh được không?
Tôi tháo hai
tấm thẻ bài đưa cho Cúc.
-Cho em luôn
cũng được huống gì chỉ coi thôi.
-Thiệt không?
-Anh không biết
nói láo.
Cúc nói:
-Hình như thẻ
bài là vật bất ly thân của lính, phải không anh?
Tôi trả lời
Cúc:
-Đúng, nhưng
chỉ đúng với người lính tác chiến ở ngoài trận địa, nơi mà bom đạn
vô tình, có thể đốt cháy hoặc xé nát thân xác người lính thành nhiều
mảnh nhỏ, công dụng của tấm thẻ bài là để xác nhận tính danh của
người quá cố. Thêm một công dụng nữa cũng không kém phần quan trọng,
là trên tấm thẻ bài còn ghi rõ loại máu của người lính mang nó,
phòng khi bị thương cần được tiếp máu. Anh là lính văn phòng, tấm
thẻ bài không quan trọng lắm đâu. Mai mốt, anh làm lại tấm thẻ mới.
Dưới ánh nắng
ấm của bầu trời Vũng Tàu, hai thân thể đứng gần như chạm nhau, tôi
quay mặt đi không dám nhìn thân hình quá sức hấp dẫn của Cúc trong
bộ áo tắm rồi nói:
-Mấy hôm rày,
anh có chuyện muốn hỏi em nhưng thấy không thuận tiện.
-Chuyện gì vậy
anh?
Tôi hơi ngập
ngừng khi hỏi Cúc
-Em..em có bạn
trai chưa?
Cúc cười:
-Em có nhiều
bạn trai nhưng chưa có bồ. Anh biết rồi, bạn trai và bồ hoàn toàn
khác nhau. Ở vào hoàn cảnh của em, tìm được một người tình quả thực
khó hơn chuyện bắt con lạc đà chui qua cái lỗ kim.
-Em giải thích
rõ hơn được không? Con nhà giàu, học giỏi như em thiếu gì bồ.
-Câu nói đó,
chỉ áp dụng cho con trai chứ không phải cho con gái.
Cúc nói với
gương mặt buồn hiu.
-Con gái xấu
như em không nên học nhiều, học càng cao càng khó kiếm chồng, hơn
nữa nhà em lại quá giàu. Đám bạn trai của em trên Viện đại học, sau
một thời gian quen biết, họ từ từ rút lui nhẹ nhàng không kèn không
trống.
-Tại em kênh
kiệu quá chứ gì?
-Không phải,
chỉ tại không ai muốn ra trường với mảnh bằng kỹ sư đào mỏ.
Câu nói vô tình
của Cúc như một nhát búa đập lên đầu tôi. Đó là vấn nạn đeo đẳng tôi
suốt cả tuần qua.
Ngày xưa, khi
thuyên chuyển về Trường Võ Bị Đà Lạt, lương lính chẳng được bao
nhiêu, tôi ký cóp dành dụm từng xu, chắt chiu góp nhặt từng đồng hy
vọng sau vài năm sẽ có đủ tiền mua chiếc xe Honda hai bánh mới để đi
làm, và cũng để gọi là có chút gì với mọi người. Thời tôi mới ra
trường, chiếc xe Honda trị giá năm mươi ngàn đồng. Bốn năm sau, khi
tôi để dành được năm mươi ngàn đồng giá chiếc xe tăng lên gần gấp
đôi. Tôi không biết gì về Kinh tế học nhưng cứ cái đà lạm phát như
thế này bốn năm nữa, khi tôi để dành được một trăm ngàn, không chừng
giá của chiếc xe Honda sẽ tăng vọt lên khoảng hai trăm ngàn đồng hay
có thể hơn nữa. Như vậy, nếu tôi tiếp tục để dành tiền, cuối đời
cũng chỉ mua được cái bóng chứ không bao giờ mua được chiếc xe.
Chuyện dành dụm
mua chiếc xe Honda hai bánh, bao nhiêu năm rồi tôi làm không được,
thử hỏi chuyện lớn hơn như ông bà mình thường nói “Tậu trâu, cưới
vợ, làm nhà”. Làm sao tôi có thể thực hiện được, suốt đời chỉ là mơ
thôi mà.
Tuần trước bác
Bảy cho tôi năm chục ngàn, tất cả hãy còn nguyên, chưa mẻ lấy một
xu. Nguyên một tuần lễ đi chơi với Cúc, bao nhiêu chi phí Cúc lo
hết. Với số tiền bác Bảy cho, cọng thêm tiền tôi để dành, giờ đây
tôi có thể đi mua một chiếc xe Honda mới tinh. Lẽ ra tôi phải dừng
lại là tốt nhứt, thế nhưng tôi lại nghĩ đến chiếc xe hơi hiệu
Peugeot sang trọng, êm như nhung mà tôi đang đi, căn biệt thự to lớn
đầy đủ tiện nghi trên đường Công Lý tôi đang ở, thêm hàng chục
building cao tầng cho Mỹ mướn. Tôi muốn tiến xa hơn một bước nữa.
Nếu lấy Cúc tôi sẽ có tất cả, chỉ kẹt có một điều, tôi học Văn khoa
nhưng sẽ tốt nghiệp Kỹ sư đào mỏ. Đó là vấn nạn của tôi.
Sau một lúc suy
nghĩ, tôi giải quyết vấn nạn của mình bằng câu nói tỏ tình với Cúc.
-Em có nghĩ
rằng anh là thằng đào mỏ không?
Gương mặt Cúc
thoáng chút ngạc nhiên, sau đó nàng cúi đầu nhìn xuống bộ bikini mà
nàng đang mặc rồi nói với giọng chắc nịch
-Không.
Ngày hôm sau,
tôi hộ tống Cúc về Đà Lạt. Tuần trước, khi đi Sài Gòn với Cúc tôi có
năm chục ngàn gởi tiết kiệm ở Nam Đô ngân hàng. Ngày về, tôi đủ tiền
mua chiếc xe Honda mới với giá hàng trăm ngàn, không chừng tôi còn
có nhiều hơn nữa, chưa biết được.
Trở về Đà Lạt,
chuyện đầu tiên tôi làm là đi mua chiếc Honda mới. Ước mơ trở thành
sự thật, rút ngắn thời gian ít ra cũng được năm năm, tôi vui vẻ lái
xe lang thang cùng khắp Đà Lạt. Tôi nhớ đến câu nói: “Người con trai
có ba chuyện khó khăn phải làm, thứ nhất tậu trâu, thứ nhì cưới vợ,
thứ ba làm nhà.” Mua được chiếc xe giống như chuyện tôi tậu được con
trâu, còn chuyện cưới vợ, làm nhà đã có ba má tôi lo liệu.
Những lúc sau
này, bác Bảy thường xuyên lên Đà Lạt thăm ba má tôi. Chuyện người
lớn nói với nhau tôi không biết được, chỉ biết là năm sau ba tôi bán
căn nhà gỗ ọp ẹp với miếng vườn nhỏ ở Trại Hầm rồi mua một căn nhà
ba tầng khá khang trang ở đường Phan Đình Phùng, gần rạp ciné Ngọc
Hiệp. Tôi biết rằng, tiền bán căn nhà ở Trại Hầm chỉ đủ để ba tôi
mua một căn nhà bếp ở phố. Số tiền khổng lồ cần có để bù vào giá cả
chênh lệch giữa hai căn nhà, phải có bàn tay của bác Bảy nhúng vào.
Tôi trả lại căn
phòng cư xá độc thân của tôi cho trường rồi dọn về ở chung với ba má
của tôi. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, cuộc sống vật chất của tôi
đã thay đổi hoàn toàn. Lương tháng của tôi không cần phải trích ra
vài ngàn phụ giúp mấy đứa em, không cần phải để dành tiền mua xe.
Tôi tiêu xài rộng rãi, thoải mái hơn xưa. Mỗi thứ Bảy, Chủ Nhật tùy
theo có trực hành quân hay không tôi thường chở Cúc dạo phố Đà Lạt,
khi thì cà phê Tùng, cà phê Thủy Tạ, lúc ăn sáng ở phở Bắc Huỳnh gần
ga xe lửa, ăn trưa ở nhà hàng Mê Kông, thậm chí có nhiều lần chúng
tôi vào ăn tối ở nhà hàng Chic Shanghai. Đi chơi với Cúc, năm thì
mười họa, tôi mới được trả tiền cà phê một lần, nói gì đến chuyện
trả tiền ăn nhà hàng. Đà Lạt là một tỉnh nhỏ, chuyện nhỏ chút xíu
như cái móng tay cũng có thể đồn ầm lên. Tình cờ một vài lần, tôi
nghe được những lời thiên hạ xì xầm, đàm tiếu về tôi.
-Vợ chưa cưới
của ông ấy là con nhà tỉ phú ở Sài Gòn.
-Căn nhà ông ấy
ở đường Phan Đình Phùng là do bên vợ mua cho, trước đây nghe nói
nghèo kiết xác ở đâu tận Trại Hầm.
Những lời bàn
ra tán vào về tôi tuy hoàn toàn đúng, nhưng tôi vẫn cảm thấy khó
chịu mặc dầu đã chuẩn bị tinh thần từ trước.
Chương
VII:
Không
rủ cũng tới
Chiến tranh xảy
ra ở Việt Nam nhưng khi nói chuyện hòa đàm lại kéo nhau qua Paris.
Lúc hiệp định ngưng chiến được ký kết, cũng là lúc Mỹ bắt đầu giảm
quân viện cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với lý do rất là rõ ràng:
hết đánh nhau rồi, vũ khí đạn dược hư hao, thất thoát, một đổi một.
Tôi không biết những đơn vị tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
bị ảnh hưởng như thế nào, nhưng riêng Phòng hành quân của Trường Võ
Bị Đà Lạt khó khăn thấy rõ, khi thiếu tá trưởng phòng nói với tôi:
-Kể từ tuần
tới, chuyện đi họp an ninh, lấy mật khẩu bên Quân Trấn, trung úy
dùng xe hai bánh của mình mà đi.
Tôi hỏi ông:
-Thưa thiếu tá,
xe jeep của Phòng hành quân bị hư hay sao?
-Xe vẫn còn tốt
nhưng cấp số xăng cho xe bị cắt giảm, chỉ còn lại một phần tư so với
trước đây.
Vừa dứt lời,
Thiếu tá trưởng Phòng hành quân dẫn tôi tới góc phòng, chỉ vào cái
thùng sắt đựng đạn.
Tôi không hiểu
ý của ông nên nói:
-Thưa thiếu tá,
mấy năm rồi tôi chưa một lần chạm tay đến cây súng M16 treo ở góc
phòng, cấp số đạn mà tôi lãnh bốn năm trước vẫn còn nguyên, không
hao hụt. Tôi không cần đạn, chỉ cần xăng.
Thiếu tá trưởng
phòng nhìn tôi cười vui vẻ:
-Trong thùng
đạn đó có ba lít xăng. Từ nay về sau đó là số xăng mà trung úy sẽ
được lãnh hàng tuần, đổ vào xe Honda hai bánh dùng để đi họp bên
Quân Trấn.
Tôi nói:
-Thiếu tá, mình
ở quân trường thiếu xăng tôi đi họp bằng xe Honda, chuyện không có
gì phải nói nhưng ở đơn vị tác chiến mà thiếu đạn coi bộ không ổn.
Khi đụng trận tụi Việt Cộng cứ AK rồi B40 bắn thoải mái, hết đạn Tàu
cộng với Liên Xô lại tiếp viện, còn lính mình gắn lưỡi lê vô súng
M16 mà đâm Việt Cộng, tôi sợ mình đánh không lại họ.
Tôi tưởng rằng
thiếu tá trưởng phòng cũng đồng ý với tôi, nào ngờ ông nói:
-Đương nhiên là
thua nhưng còn được như vậy là quý rồi. Miền Nam mình giống như
người bịnh ung thư, mang căn bịnh trầm kha không có thuốc chữa, kéo
dài cuộc sống được ngày nào hay ngày nấy.Tao sợ mai mốt Mỹ cúp hẳn
viện trợ, mình làm gì được họ. Viện trợ hay không là quyền của họ
mà.
Tôi bắt đầu đi
làm bằng xe Honda hai bánh. Buổi sáng Đà Lạt sương mù dày đặc, tôi
mặc bộ đồ lính đeo găng tay, thêm chiếc áo Jacket dày cộm mà vẫn
không cảm thấy đủ ấm. Ngồi trên chiếc Honda chạy băng băng trong gió
lạnh mà tôi cứ tiếc mãi chuyện ngày xưa, tiếc hoài thời tôi đi làm
bằng xe bus của trường. Tôi tiếc bầu không khí ấm áp trong xe, tiếc
luôn chuyện được ngắm miễn phí các cô thư ký dân sự làm việc trong
trường, cô nào cô nấy áo măng tô khăn quàng cổ, đẹp như mơ, đẹp hết
biết mà dạn dĩ cũng khỏi chê. Tôi còn nhớ, hồi tôi mới lên thiếu úy,
có cô hỏi tôi:
-Thiếu úy khóa
mấy của Trường Võ Bị?
Hầu hết mọi
người đều lầm lẫn giữa một thiếu úy tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt,
và một thiếu úy đang phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi tốt nghiệp
Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, mấy năm rồi phục vụ tại Trường Võ Bị
Đà Lạt. Nếu ai đó tưởng lầm tôi tốt nghiệp Võ Bị, tôi cũng nhận
luôn, cải chính làm chi cho mệt. Tôi trả lời mấy cô bằng câu đố.
-Đố mấy cô, tôi
khóa mấy, ai nói đúng sẽ được một chầu cà phê Thủy Tạ.
-Thiếu úy khôn
thấy mồ, ông có mời đi cà phê chưa chắc tụi này đã chịu.
Tuy vậy, cũng
có vài tiếng trả lời:
-Khóa 24.
Tôi nói:
-Trật lất.
-Khóa 23.
Tôi cười đắc
chí.
-Cũng trật
luôn, không có cô nào được mời đi uống cà phê Thủy Tạ. Tôi tốt
nghiệp Sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
Một ông thiếu
tá ngồi cuối xe, nghe vậy bèn lên tiếng:
-Các cô cứ lo
chuyện không đâu, hỏi thử xem ông ấy có vợ hay chưa rồi hẳn chuyện
trò tiếp.
Đang nói chuyện
bình thường, đột nhiên ông thiếu tá đổi giọng cằn nhằn, trách móc:
-Các cô có thân
phải liệu mà giữ gìn, lúc nào cũng lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm,
lờ quờ, lạng quạng trao duyên lầm tướng cướp như không.
Tôi muốn tạo
không khí ấm cúng trong xe nên tiếp lời ông thiếu tá:
-Quý vị có thấy
tôi giống tướng cướp không?
Nhiều tiếng
cười khúc khích vang lên xen lẫn một giọng nói nhỏ.
-Cũng khá
giống.
Thời vàng son
một thủa của tôi, mới đó đã chìm vào quá khứ.
Ngày xưa, ông
Thế Lữ tiếc cái thời xa xưa cũ đã làm bài thơ Nhớ Rừng kể lại chuyện
chúa sơn lâm nhớ thời oanh liệt, nghe ra còn có lý. Đằng này, tôi có
gì mà phải tiếc với nuối. Có chứ, tôi giống như anh nông dân đứng
giữa cánh đồng khô hạn mà tiếc vụ lúa được mùa năm trước, như ông
ngư phủ nhìn mấy con cá trong ghe mà tiếc mẻ lưới đầy cá. Tôi tiếc
cái không khí ấm cúng trong xe bus của trường, tiếc cái thủa lái
chiếc xe jeep thắng cái két trước quán cà phê Hạnh Tâm, liếc nhìn
cái lon trung úy trên cầu vai áo rồi khuỳnh tay, dạng chân khệnh
khạng đi vào quán trước cặp mắt hình như là đầy khâm phục của cô thu
ngân. Đó là thời vinh quang tột đỉnh của tôi, không tiếc sao được,
đâu cần phải là chúa sơn lâm mới có quyền nhớ rừng.
Đến trường, khi
ký sổ bàn giao phiên trực hai tay của tôi vẫn còn run lẩy bẩy vì
lạnh. Trung úy Hàn sĩ quan hạ phiên, đưa cho tôi tờ giấy có mấy chữ:
Trung úy Nguyễn Trọng Quân trình diện Đại tá Tham mưu trưởng lúc
mười giờ sáng.
Tôi cầm tờ
giấy, phần run vì lạnh phần run vì sợ, trình diện sếp lớn, chuyện
rủi nhiều hơn may. Tôi nghĩ trong đầu, không biết mình bị lỗi lầm
gì, có khi nào sếp tống cổ mình ra tác chiến hay không? Hỏi xong,
tôi tự trả lời: Chắc không đến nổi nào đâu, dù gì Đại tá Tham mưu
trưởng cũng là chỗ quen biết với bác Bảy. Tôi dặn người hạ sĩ quan
trực chung ca với tôi:
-Có việc gì
cần, trung sĩ gọi điện thoại qua Câu lạc bộ sĩ quan, tôi ngồi bên
đó.
Tôi trình diện
Đại tá Tham mưu trưởng, sau khi uống cạn hai ly cà phê phin đặc
quánh ở câu lạc bộ, cà phê ngon thiệt, nhung có điều nó làm cho tim
tôi đập nhanh hơn bình thường gấp mấy lần.
Đại tá Tham mưu
trưởng ngồi sau bàn làm việc, ông chỉ vào chiếc ghế trước bàn làm
việc của ông
-Mời trung úy
ngồi.
Tôi rón rén
ngồi xuống, lưng thẳng như thời còn là sinh viên ngồi ăn ở nhà bàn,
không dám dựa lưng vào ghế. Đại tá Tham mưu trưởng hỏi tôi:
-Trung úy làm
việc ở Phòng hành quân, thấy thế nào?
-Trình đại tá,
mọi chuyện đều tốt đẹp.
-Tốt, nếu muốn
thuyên chuyển đi phòng khác, trung úy cứ nói với tôi.
Tôi trả lời:
-Thưa đại tá,
tôi rất thích làm việc tại Trung tâm hành quân.
-Tốt.
Nhìn tôi với
cặp mắt thân thiện, Đại tá Tham mưu trưởng hỏi:
-Đám cưới của
trung úy sẽ được tổ chức vào ngày nào?
Tuy Đại tá Tham
mưu trưởng nói tiếng Việt, rõ ràng từng chữ nhưng tôi không hiểu ông
ta nói gì.
-Thưa, đại tá
tôi…tôi…
-Làm rể anh Bảy
Ân khác nào chuột sa hũ nếp. Từ nay, ở cái trường này có ai giàu
bằng trung úy!
Tôi nghĩ, Đại
tá Tham mưu trưởng lầm lẫn giữa tôi với ai đó trong trường nên lẹ lẹ
đính chính:
-Thưa đại tá,
tôi đâu có biết ông Bảy Ân là ai.
Đại tá Tham mưu
trưởng mỉm cười:
-Cha vợ của
mình mà trung úy cũng không biết. Anh Bảy có cô vợ lai Ấn Độ, chủ
nhân của mấy chục cái building ở Sài Gòn, ảnh có cái biệt thự to như
cái dinh Tỉnh trưởng ở đường Công Lý, Sài Gòn.
Chuyện tới đây,
tôi biết là Đại tá Tham mưu trưởng không lầm. Tôi mới là người không
biết gì.
-Thưa, đại tá
muốn nói tới bác Bảy, có cô con gái tên Cúc?
-Chứ còn ai vào
đây nữa!
Tôi biết bác
Bảy đã chọn tôi làm rể, nhưng tại sao ông không nói chuyện đám cưới
với tôi, mà lại nói với sếp lớn của tôi. Đúng là chuyện trong nhà
chưa rõ, ngoài ngõ đã thông.
Tôi nói với Đại
tá Tham mưu trưởng:
-Thưa đại tá,
chuyện đám cưới tôi không dám có ý kiến, mọi chuyện đều do bác Bảy
và ba tôi quyết định.
-Vậy hả? Anh
Bảy Ân với tôi vốn là bạn thâm giao, tôi coi trung úy như con cháu
trong nhà. Hình như trung úy đang theo học ở Viện đại học Đà Lạt,
phải không?
-Dạ phải.
-Tháng tới khi
nghỉ hè ở Viện đại học, tôi sẽ gởi trung úy về Sài Gòn học khóa đại
đội trưởng, trung úy có biết tại sao không?
-Thưa đại tá,
tôi không biết.
-Có cái bằng
đại đội trưởng sẽ được thêm điểm khi chạy cấp bậc đại úy. Trung úy
cần hỏi thêm gì nữa không?
-Thưa không.
-Trung úy có
thể trở về làm việc.
Tôi đứng
nghiêm, hai gót giày chạm vào nhau kêu cái cốp, đưa tay chào Đại tá
Tham mưu trưởng đúng như lễ nghi quân cách mà tôi đã học ở quân
trường, rồi quay người bước đi.
Lời của sếp lớn
nói, chắc như đinh đóng cột. Vừa nghỉ hè ở Viện đại học, tôi nhận
được sự vụ lệnh về Sài Gòn để theo học khóa Đại đội trưởng. Tôi trở
lại Trường Bộ Binh Thủ Đức, đường xưa cảnh cũ hiện ra trước mắt tôi,
cái cổng trường vốn đã xấu nay trông lại càng xấu hơn sau bao mùa
mưa nắng dãi dầu. Vũ Đình Trường với Trung Nghĩa Đài im lìm trong
nắng sớm, những viên đá vụn trải trên sân lấp lánh dưới ánh mặt trời
tuy có đẹp đó, nhưng khi quỳ xuống để gắn lon chắc chắn là không đẹp
chút nào, chỉ tội cho cái đầu gối. Căn nhà tiền chế khổng lồ có cái
tên là Đại Giảng Đường, bị tụi tôi gọi để chế giễu là “Đại Hỏa Lò”
vẫn nóng như lò nướng bánh mì. Ngày xưa khi cả khóa phải vào đây để
học, chúng tôi thường nói đùa với nhau rằng: Hôm nay nguyên khóa
được đi tắm hơi miễn phí.
Cho đến khi tôi
nhìn thấy những căn nhà gạch của đại đội tôi ngày xưa, lòng bỗng
nhiên bồi hồi xúc động, nào là Biên, nào là Long công tử rồi bạn bè
cùng khóa, tất cả lần lượt hiện ra trước mắt tôi như một cuốn phim
chiếu chậm. Tôi nhớ nhiều đến Biên rồi tự nhủ lòng cuối tuần này sẽ
đến thăm ba má Biên, nhân tiện hỏi thăm địa chỉ của Biên. Tôi muốn
viết cho hắn một lá thư. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy mình quá hời hợt với
bạn bè, mang nặng mặc cảm bao năm trường xa cách mà không viết được
một lá thư để thăm hỏi bạn, tôi cho đó là một thiếu sót không thể
tha thứ. Riêng về Dung, người con gái mà tôi yêu không biết giờ này
ra sao. Tôi vẫn nghĩ ràng nàng đã là vợ của Long công tử, có thế là
họ đã có với nhau một hay hai đứa con rồi cũng nên. Cho dù Dung đã
có chồng hay không, tình yêu của tôi dành cho Dung, dành cho người
yêu đầu đời của tôi muôn đời vẫn còn đó không phai.
Tôi đứng ngẩn
ngơ trước cổng nhà Biên, mà cứ tưởng như mình lạc đường vào quá khứ,
năm năm trường, khoảng thời gian xa cách đủ dài khiến cho lòng người
chùng xuống. Nhìn chiếc bàn đá dưới tàn cây vú sữa, nơi mà ngày xưa
tôi ngồi ăn sáng bên Dung, giọng nói của nàng vẫn còn vang vọng bên
tai: “Để em thêm cho anh chút tiêu”. Tôi liếc nhìn chiếc ghế xích đu
mà Dung vẫn thường ngồi, rồi nhắm mắt lại mà cứ nghĩ như mình đang
đong đưa trong gió.
Đã hai, ba lần
tôi đưa tay lên toan bấm chuông nhưng rồi ngừng lại, linh tính như
báo cho tôi biết có một chuyện gì đó không ổn đã xảy ra ở đây. Căn
nhà hình như mang nặng nét u buồn, mất đi sinh khí và không được
tươm tất như ngày xưa. Màu sơn trắng của cửa nhiều chỗ đã đổi sang
màu vàng úa, vài mảnh tường loang lổ, có nơi tróc hẳn lớp xi măng
bên ngoài để lộ ra những viên gạch màu nâu đỏ. Nơi góc vườn, ngày
xưa khóm hoa cúc vàng xinh tươi đẹp đẽ biết bao, nay đã bị cỏ dại
phủ kín, đầy sân lá vàng ngập cả lối đi. Cảnh hoang phế, tàn tạ,
tiêu điều của căn nhà chúng tỏ chủ nhân không thường xuyên chăm sóc.
Tôi chợt nghĩ, hay là ba má Biên đã dọn nhà đi nơi khác rồi?
Tôi quay người
toan trở về, nhưng nghĩ lại đã cất công lặn lội đến đây rồi, ít ra
cũng nên dò hỏi cho tường tận nguồn cơn, để sau này khỏi phải băn
khoăn thắc mắc, biết đâu người chủ mới lại cho mình vài tin tức quý
giá về gia đình Biên. Sau một lúc đắn đo suy nghĩ, tôi mạnh dạn đưa
tay bấm chuông.
Thoạt thấy dáng
người ra mở cổng, tôi giật mình, tim đập mạnh. Dung chứ còn ai nữa,
nàng ốm hơn xưa nhiều với nét buồn hiện rõ trên gương mặt. Thấy tôi,
Dung chạy nhanh ra mở cổng rồi ôm chặt lấy tôi khóc nức nở:
-Anh Quân phải
không?
Tôi còn biết
nói gì hơn là im lặng gật đầu. Dung ngẩng mặt lên nhìn tôi với đôi
mắt đẫm lệ, nàng thổn thức:
-Anh Biên… anh
Biên…
Linh cảm có
chuyện không hay, tôi nắm chặt hai vai của Dung lắc mạnh:
-Anh Biên sao?
Anh Biên sao rồi?
-Ảnh chết rồi.
Hai bàn tay tôi
từ từ lơi ra
-Chết rồi? Chết
ở đâu? Chết như thế nào?
Đột nhiên tôi
cảm thấy như nghẹt thở, khi hai cánh tay Dung ôm chặt lấy tôi từ từ
siết mạnh hơn, nàng nói qua làn nước mắt:
-Anh Quân, em
yêu anh.
Tôi nghe rất rõ
ràng, nhưng phải mất mấy giây sau tôi mới hiểu Dung muốn nói gì với
tôi, câu nói hoàn toàn không liên quan gì đến chuyện mà Dung đang
nói về cái chết của Biên. Tôi nghĩ, khi mà xúc động lên đến tột
đỉnh, lúc đó tâm trí con người có thể rơi vào trạng thái hỗn loạn,
lời nói của họ không còn đúng với những gì họ muốn nói. Tôi ôm lấy
Dung, vỗ nhẹ vào lưng nàng an ủi:
-Anh biết, em
rất thương anh Biên.
-Không. Anh
Quân, em yêu anh.
Tôi chưa kịp có
phản ứng gì, đôi môi của nàng đã gắn chặt môi tôi. Dung hôn tôi say
sưa đắm đuối, cái hôn tràn đầy nước mắt của mấy năm xa cách, có phải
như vậy hay không? Hai mươi bốn tuổi, cái hôn đầu tiên trong đời bất
ngờ đến với một thằng con trai, nhất là đến từ người mình thương
nhớ, đôi chân của tôi hình như run lẩy bẩy trong khi toàn thân tôi
như tê dại. Tôi để mặc cho cảm giác ngất ngây, sung sướng, đê mê,
trôi nổi bềnh bồng đưa đẩy.
Hai chuyện
trọng đại xảy ra cùng một lúc. Biên người bạn cùng khóa với tôi đã
chết. Dung người tôi yêu tha thiết bấy lâu nay, mối tình đầu của tôi
cũng là mối tình tuyệt vọng đang hôn tôi và nói yêu tôi. Tôi đứng
yên như một pho tượng, một thế kỷ vừa mới trôi qua trong yên lặng.
Hai tay tôi hãy còn ôm lấy Dung, môi của tôi vẫn chưa rời khỏi đôi
môi của nàng. Tôi uống nước mắt của Dung, mằn mặn xen lẫn chút ngọt
ngào như nuốt trọn lấy tình yêu mà nàng đã dành cho tôi. Mãi cho đến
khi trái đất bắt đầu quay trở lại, chầm chậm rồi bình thường cũng là
lúc trái tim của tôi từ từ đập trở lại. Lúc bấy giờ tôi mới bình
tĩnh, nhẹ nhàng nâng gương mặt của Dung. Tuy vậy, tôi phải cố gắng
hết sức mới nói được câu.
-Nín đi em,
mình vô nhà được không?
Dung khẽ gật
đầu, nắm chặt lấy tay của tôi như sợ tôi biến mất. Nàng kéo tôi vào
nhà.
Tôi nâng ly cà
phê, nhấp một hơi.
-Em biết không,
năm năm xa cách, mùi cà phê vẫn còn thơm như ngày nào khi anh ngồi
uống với em dưới tàn cây vú sữa. Năm năm thương nhớ có biết bao
nhiêu là chuyện anh cần phải hỏi em, nhưng thôi bây giờ anh muốn
thắp cho Biên một nén nhang, mọi chuyện hãy tính sau.
Qua làn khói
hương nghi ngút quyện trong không khí, trên bàn thờ, Biên nhìn tôi
như mỉm cười. Tôi khấn thầm :
-Hôm nay, tao
trở về lại chốn cũ, những tưởng sẽ biết được tin tức của mày, nào
ngờ âm dương cách trở, mỗi thằng một thế giới. Tha lỗi cho tao đã
không về lại đây sớm hơn.
Tôi đi đến ngồi
bên Dung.
-Bây giờ, anh
có chuyện quan trọng muốn hỏi em.
-Chuyện gì vậy
anh?
-Anh muốn biết
Long công tử đâu rồi.
Dung ngơ ngác
nhìn tôi.
-Anh nói cái
gì? Tại sao lại hỏi em? Em làm sao biết được anh Long ở đâu.
Tôi ngạc nhiên
đến sửng người khiến cho giọng nói của mình hơi ngập ngừng, ngượng
ngập.
-Không phải em
và Long đã lấy nhau rồi hay sao?
Đôi mắt của
Dung tròn xoe nhìn tôi đầy vẻ sửng sốt, nàng nói mà như muốn khóc.
-Từ cái ngày
anh đưa gói quà của anh Long cho em, sau đó anh và anh Long biến mất
khiến em không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Tôi đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác.
-Như vậy, em
không có thương gì anh Long?
-Ai nói với anh
là em thương anh Long?
-Anh nhớ khi
đưa quà của anh Long cho em, em vui mừng nhận quà nhưng sau đó giận
anh, không nói với anh một lời rồi đuổi anh về, khiến anh nghĩ là
mình là kẻ thứ ba trong cuộc nên rút lui là hơn.
Dung nắm lấy
tay tôi siết mạnh.
-Anh hiểu lầm
rồi, ngày ấy em chỉ giả bộ giận anh thôi. Anh có biết, con gái làm
nũng là gì không?
-Làm sao anh
biết được.
-Sinh nhật của
em, anh Long tặng quà cho em, còn quà của anh đâu? Em đợi hoài chẳng
thấy anh nói năng gì khiến em giận anh quá chừng. Em chỉ cần quà của
anh chứ không cần quà của anh Long.
Tôi vội vã giải
thích.
-Tuần lễ trước
khi anh đi phép, Long xuống khu sinh hoạt mua cho em cuốn album rồi
nhờ anh đem đến cho em. Em biết cuốn album đó giá bao nhiêu không?
Dung lắc đầu.
-Em không biết.
-Gần hai ngàn.
Suốt thời gian thụ huấn ở Quân trường Thủ Đức, chưa bao giờ trong
túi của anh có được ngàn bạc. Anh đâu có nhiều tiền như Long công tử
để mua quà cho em.
-Em hiểu rồi,
anh muốn mua cho em món quà đáng giá hơn quà của anh Long phải
không? Em không đòi hỏi gì nơi anh hết. Em chỉ cần một món quà nho
nhỏ. Anh có thể mua cho em cái lược để khi chải đầu em nhớ tới anh.
Anh cũng có thể tặng em cây viết để khi viết thư cho anh, em cảm
thấy gần anh hơn. Anh không có được năm, mười đồng hay sao?
Tôi lặng câm
thương nàng vô hạn. Tôi phải trả một giá quá đắt, bằng mấy năm cách
xa thương nhớ, chỉ vì cái tội ngu ngốc của mình.
-Tha lỗi cho
anh, ngày ấy, anh cứ nghĩ rằng trong một cuộc tranh đua, mình phải
hơn đối thủ của mình mới mong thắng cuộc.
Dung nhìn tôi
với đôi mắt đầy thương yêu.
-Có hai lý do
khiến em có thể nói anh Long không phải là địch thủ của anh. Lý do
thứ nhất là anh Long không hề có tình ý gì với em hết, con gái rất
nhạy cảm về vấn đề này. Hơn nữa, anh Long có nói với em là ảnh có vợ
rồi, vợ anh ấy và đứa con trai một tuổi kháu khỉnh đang sống ở Ban
Mê Thuột trông coi cái đồn điền của ba anh ấy. Ảnh còn hứa với em
khi nào có dịp ảnh sẽ dẫn em lên Ban Mê Thuột chơi, thăm đồn điền,
thăm vợ con ảnh luôn. Còn chuyện hộp quà mà anh Long nhờ anh mang
đến cho em, anh có biết trong đó có những gì hay không?
Tôi chắc giọng
quả quyết:
-Anh biết chứ.
-Có những gì?
-Một cuốn
album.
Dung cười, nụ
cười tươi như đóa hoa phù dung.
-Chỉ đúng có
một nửa, trong đó còn có thêm mấy xấp lụa để may áo dài và một bức
thư.
Dung chồm người
về phía tôi, nàng nũng nịu nói mà như muốn hôn tôi.
-Bức thư em vẫn
còn giữ, thư anh Long viết còn hay hơn những bức thư tình hay nhất
thế giới. Để em lấy cho anh coi.
Tôi ngả người
ra ghế sofa.
-Thư tình của
Long viết cho em, tại sao em lại đưa cho anh đọc, em không sợ anh
ghen hay sao?
-Không, nhờ bức
thư này mà mấy năm nay em vẫn còn đủ can đảm để nhớ anh. Anh đợi đó
một chút.
Tôi cầm bức
thư, giấy đã bắt đầu đổi sang màu vàng úa, nhàu nhò chứng tỏ Dung đã
đọc nó nhiều lần.
Nét chữ của
Long hiện ra trước mắt tôi.
Dung,
Anh gởi mừng
sinh nhật của em cuốn album để em gắn mấy tấm hình bốn đứa chụp
chung trước vòi phun nước. Nhớ để tấm hình của em và thằng bắp cải ở
trang đầu, vì anh biết thằng Quân nó thương em với tất cả tấm lòng
chân thật của nó. Còn mấy xấp lụa để em may áo dài, mặc khi đi chơi
với Quân. Con gái mà mặc jean với áo thun coi ngố ngáo lắm, em phải
mặc áo dài mới thấy ngoan hiền. Em có biết câu thơ “Yểu điệu thục
nữ, Quân tử hảo cầu ” nghĩa là gì không? Chữ quân trong câu thơ này
phải viết hoa. Nghĩa là người con gái phải yểu điệu, dịu dàng thì
thằng Quân nó mới thương..
Đùa với em chút
xíu cho vui, anh và Biên đều lớn hơn thẳng Quân bốn năm tuổi, thằng
nào cũng có dăm ba mối tình dang dở vắt vai, trong khi em là mối
tình đầu của Quân bắp cải, cả hai đứa đều ngây thơ, trong sáng dễ
thương. Em phải luôn nhớ rằng, thẳng Quân nó thương em nhất trên
đời.
Thư đã dài, anh
ngừng bút, chúc em và Quân bắp cải luôn luôn vui vẻ bên nhau.
Anh.
Long.
Đọc xong bức
thư, tôi thầm nghĩ, trên đời này không có ai hào hoa, lịch sự bằng
Long công tử mà cũng không có ai nói láo hay hơn nó. Tôi nhớ mãi,
trong một lần khi gặp má của Long công tử tại khu tiếp tân của
trường, bà nói riêng với tôi:
-Vợ chồng tôi
chỉ có một mình thằng Long, cháu có biết cô nào ngoan hiền giới
thiệu cho nó với. Ai đời đã hai mươi bốn tuổi rồi mà cứ long nhong,
rong chơi suốt ngày không chịu lấy vợ khiến tôi và ông nhà tôi cứ lo
là lo. Chỉ mong mau có cháu nội để bồng bế mà không có.
Tôi nói với bà:
-Bác đừng lo,
Long có nhiều bạn gái quá nên chưa biết chọn cô nào.
Tôi định nói
cho Dung biết là Long công tử nói láo, nhưng chưa kịp mở miệng thì
Dung đã hỏi tôi:
-Anh làm gì mà
ngồi thừ người ra đó.
Tôi nâng ly cà
phê, nhấp một ngụm rồi nói:
-Cái thằng dễ
thương quá sức, vậy mà hồi đó lúc nào anh cũng lo ngay ngáy, lúc nào
cũng sợ.
-Anh sợ gì?
-Sợ em thương
Long công tử chớ còn sợ gì nữa. Đẹp trai, hào hoa, lịch lãm như nó
mà em không thương cũng uổng.
-Anh nói như
vậy mà nghe cho được. Anh có muốn nghe lý do thứ hai hay không?
-Tại sao không?
Dung nhích sát
người tôi, hôn lên má tôi rồi khẽ nói:
-Đây là lý do
chính cũng là lý do quan trọng nhất, em yêu anh, yêu từ cái buổi đầu
gặp gỡ, anh đừng hỏi em tại sao? Em không trả lời được đâu. Trái tim
của em nói là yêu anh, em biết là em yêu anh, đơn giản như vậy thôi.
Còn như anh muốn biết nhiều hơn nữa, chuyện như thế này. Anh còn nhớ
ngày đi phép đầu tiên của mấy anh, khi mình đi taxi từ nhà đến rạp
Rex, anh Biên hích anh một cái cùi chỏ, cố ý xếp anh ngồi bên em,
hành động này khiến em suy nghĩ và đoán rằng anh Biên cũng đồng ý
nếu hai đứa mình yêu nhau, có phải như vậy không anh?
-Đúng vậy.
Trời ạ, nếu
trong một ngày mà trái đất ngừng quay hai lần làm sao người ta sống
cho nổi. Trái tim tôi đã bị sốc hai lần trong một ngày vì những
chuyện xảy ra trước mắt tôi. Nguyên ngày hôm đó, tôi say sưa kể cho
Dung nghe chuyện tôi cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng khi gặp
Dung lần đầu, rồi đến thảm cảnh khi bị Dung đuổi về ngồi một mình
trong rạp ciné không máy lạnh, cũng như mối tình tuyệt vọng của tôi
dành cho nàng suốt mấy năm qua. Mãi mê giãi bày tâm sự, tôi quên
bẳng chuyện tại sao căn nhà hoang vắng như vậy. Khi nhớ ra, tôi hỏi
Dung:
-Em à, hai bác
đâu rồi? Sao anh không thấy.
Dung mỉm cười,
nụ cười như ngầm nói bây giờ anh mới nhớ tới ba má.
-Từ ngày anh
Biên mất, má buồn quá nên dọn về Bạc Liêu sống, rất ít khi lên đây.
Hiện tại, trong nhà chỉ còn em và chị Lành. Ba thường ngày đi làm,
nhiều khi ở lại luôn trong sở, cuối tuần lại về Bạc Liêu với má.
Tôi buột miệng:
-Hai bác là
người Tiều Châu phải không?
-Ba em người
Việt, má người Tiều, sao anh biết?
-Người ta
thường nói ở xứ Bạc Liêu “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Tiều Châu” anh
đoán đại như vậy không ngờ lại đúng.
-Má nghe được
anh nói như dzậy, bà không gả con gái cho anh đâu.
-Nếu vậy, anh
sẽ sửa lại là “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Dạ cổ Hoài Lang”được chưa?
Dung nhăn mặt:
-Được gì mà
được, nghe lấn cấn, lọng cọng cứ như “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà
kia”.
Hai tháng học
đại đội trưởng ở Thủ Đức, đây là một khóa học nhàn nhã nhất trong
quân đội, hai tháng thần tiên trong đời của tôi. Đi học mà tôi cứ
tưởng mình đang sống ở thiên đường hạ giới. Ngày chủ nhật, tôi về
nhà Dung cùng nàng lang thang khắp đó đây, trên chiếc Honda dame của
nàng.
Ngày đầu đi
chơi, Dung mặc chiếc áo dài màu vàng mỡ gà may bằng lụa của Long
công tử tặng. Tôi đứng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn, nhìn hai tà áo như
hai dải lụa nhè nhẹ tung bay phất phơ trong gió, khiến tôi cảm được
cái mịn màng của lụa quấn quýt lấy cái mát dịu của làn da, khi âu
yếm, lúc lả lơi. Phải mất năm năm, tôi mới thấm được ý câu thơ “Nắng
Sài Gòn …” của nhà thơ Nguyên Sa. Tôi nói với Dung.
-Sài Gòn hôm
nay mát quá.
Vì không hiểu ý
của tôi, Dung nói:
-Em cứ tưởng
không bao giờ có dịp mặc cái áo dài này.
Tôi hỏi:
-Tại sao vậy?
Nếu thích, em cứ mặc đâu có ai cấm.
Dung nói mà như
nhắc tôi:
-Anh không nhớ
sao? Trong bức thư anh Long dặn em, chỉ bận áo này khi đi chơi với
anh. Không có anh, em bận để đi với ai? Anh có biết không, khi may
xong mấy cái áo dài mà không được bận em khóc quá chừng. Em đợi hoài
đợi mãi, đợi cho đến ngày hôm nay.
Tôi nói:
-Anh không nghĩ
rằng mình là người có diễm phúc đến như vậy. Nếu anh không trở lại
đây, chẳng lẽ em đợi anh suốt đời hay sao?
Gương mặt Dung
thoáng đượm nét buồn:
-Có chuyện này,
em phải nói với anh. Anh nói đúng, mấy tháng đầu xa cách, em nhớ anh
nhiều lắm, nhớ da diếc, nhớ điên cuồng. Mùa hè năm sáu mươi chín, em
lên Đà Lạt nghỉ mát với ba má. Suốt ngày, em chỉ lang thang ở khu
phố Hòa Bình, mỗi khi đi ngang qua một căn nhà, em lại nhìn vào với
chút hy vọng nho nhỏ là anh đang ở bên trong. Em cứ tiếc hoài, tại
sao ngày xưa em không lấy địa chỉ của anh để giờ đây phải lặn lội
khắp thành phố này tìm anh. Chuyện tìm anh mà không biết địa chỉ,
khác nào như thể tìm chim, chim bay biển Bắc, em tìm biển Đông. Mùa
hè năm ấy trôi qua trong lặng lẽ, u buồn. Cho đến khi em bước chân
vào đại học, bỡ ngỡ trước nếp sống mới, lu bu với bài vở, bạn bè, em
quên anh được phần nào. Cũng vào lúc ấy ba má muốn em lấy chồng. Anh
ấy là thiếu úy Nhảy Dù, con người bạn thân của ba em.
Dung ngưng nói,
nhìn tôi với đôi mắt như hờn trách.
-Em đúng phân
vân giữa ngã ba đường, phải chi ngày xưa anh hứa với em một tiếng là
anh sẽ trở lại chắc em sẽ chờ anh, đằng này anh bỏ đi biệt tăm biệt
tích. Em chần chừ, lần lựa thêm được hơn một năm nữa, cuối cùng em
bằng lòng lấy chồng theo ý của ba má em.
Tôi giật mình,
không hiểu chuyện gì đã xảy ra nên lật đật hỏi Dung:
-Em đã có
chồng, sao còn…còn nói yêu anh? Chồng em đâu rồi?
Dung nắm tay
tôi bóp mạnh.
-Anh làm gì mà
hoảng hốt lên vậy, chuyện đâu còn có đó, từ từ em kể cho anh nghe.
Tụi em làm đám hỏi được ba tháng, đang chuẩn bị đám cưới, em nhận
được tin anh ấy mất ở Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Em
khóc hết nước mắt suốt mấy ngày liền, rồi quyết định sẽ không bao
giờ lấy chồng. Tháng kế đó lại được tin anh Biên tử trận tại chiến
trường Quảng Trị, từ đó về sau em sống như là chết rồi. Em, ngày
ngày đi học như là một người máy, thỉnh thoảng nhớ anh Biên em lại
lấy bức thư của anh Long ra đọc, càng đọc càng nhớ anh, nhớ cho đến
khi gặp lại anh.
Tôi đưa tay bịt
miệng của Dung, rồi nổ máy chiếc xe Honda.
-Mình đi đâu
đây em?
-Tùy anh.
Chúng tôi đến
Thanh Bạch ăn điểm tâm với bò kho bánh mì, tôi mở nắp chai sữa tươi,
bóc giấy dán miệng chai, rót vào ly rồi trịnh trọng đưa cho nàng
sành điệu y hệt như Long công tử. Tôi hỏi Dung:
-Em nhớ gì
không?
-Nhớ chớ, chỉ
thiếu càng cua ram muối.
Tôi cười.
-Anh chịu thua,
nếu bây giờ anh gọi món cua ram muối cho em, có thể chú Sáu nói anh
là thằng khùng bởi vì anh không phải là Long công tử.
Ăn sáng xong,
chúng tôi thả bộ quanh Sài Gòn, nhìn mấy ông Sinh viên sĩ quan Thủ
Đức đi phép, đang dạo phố với bồ. Tôi nói với Dung:
-Em nhớ hồi xưa
mình đi chợ Bến Thành không?
-Làm sao em
quên được. Anh có nhớ mấy bà bán hàng nói gì với tụi mình không?
-Có, mấy bà ấy
nói, em chỉ giỏi ăn hiếp anh.
Dung nhéo tôi
một cái đau điếng.
Buổi trưa,
chúng tôi chạy vô Chợ lớn ăn mì vịt tiềm rồi chui vô rạp ciné máy
lạnh, coi Lý Tiểu Long múa võ hành hiệp giang hồ, thêm vào đó là mối
tình đầy thơ mộng với giai nhân Miêu Khả Tú. Hết ciné, Dung dẫn tôi
vô quán Cái Chùa, uống cà phê đen nhìn thiên hạ dẫn nhau dạo phố.
Dung nói với
tôi:
-Anh đừng có
lo, gọi là quán Cái Chùa nhưng nó chắng dính dáng gì đến Tăng ni hay
Phật tử, mà đó là nơi tụ họp của mấy ông nhà văn, nhà báo của Sài
Gòn.
Tôi hỏi Dung:
-Tại sao em
biết, ở đây chỉ dành riêng cho mấy ông nhà văn và báo chí.
-Anh Biên nói
với em như vậy.
Tôi nói:
-Đúng, anh Biên
nói không bao giờ sai.
Khi chiều đến,
hai đứa kéo nhau qua Thủ Đức mỗi đứa một chai bia 33 nhậu với nem
chua, nem nướng. Nem Thủ Đức vốn nổi tiếng khắp miền Nam, có điều lá
dùng để gói nem hơi nhiều. Một xâu nem độ chừng chục cái đựng trong
một cái rổ nhỏ, hai đứa ăn cho đến khi đống lá gói nem cao hơn chai
bia mới ngừng. Sờ lại bụng vẫn còn thấy đói.
Hai tháng học
đại đội trưởng trôi qua cái vù, nhanh như chớp mắt. Ngày mãn khóa
học, trước khi trở về Đà Lạt tôi nắm chặt tay của Dung.
-Anh sẽ nói với
ba má anh xuống đây gặp ba má em. Mình phải tính chuyện làm đám
cưới.
Nói xong tôi
mới giật mình tỉnh mộng, tôi nói cho có chuyện để mà nói. Tôi biết
mình đang ở trong thế kẹt, ba má tôi và bác Bảy đã định liệu hôn
nhân của tôi và Cúc, người lớn nói chuyện với nhau rồi tuy tôi không
có ý kiến nhưng cũng đã ngầm đồng ý. Giờ đây một bên là mối tình đầu
đầy thơ mộng, một bên là tiền tài và danh vọng, tôi phải chọn bên
nào?
Chương VII:
Không rủ cũng
tới
Chiến tranh xảy
ra ở Việt Nam nhưng khi nói chuyện hòa đàm lại kéo nhau qua Paris.
Lúc hiệp định ngưng chiến được ký kết, cũng là lúc Mỹ bắt đầu giảm
quân viện cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với lý do rất là rõ ràng:
hết đánh nhau rồi, vũ khí đạn dược hư hao, thất thoát, một đổi một.
Tôi không biết những đơn vị tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
bị ảnh hưởng như thế nào, nhưng riêng Phòng hành quân của Trường Võ
Bị Đà Lạt khó khăn thấy rõ, khi thiếu tá trưởng phòng nói với tôi:
-Kể từ tuần
tới, chuyện đi họp an ninh, lấy mật khẩu bên Quân Trấn, trung úy
dùng xe hai bánh của mình mà đi.
Tôi hỏi ông:
-Thưa thiếu tá,
xe jeep của Phòng hành quân bị hư hay sao?
-Xe vẫn còn tốt
nhưng cấp số xăng cho xe bị cắt giảm, chỉ còn lại một phần tư so với
trước đây.
Vừa dứt lời,
Thiếu tá trưởng Phòng hành quân dẫn tôi tới góc phòng, chỉ vào cái
thùng sắt đựng đạn.
Tôi không hiểu
ý của ông nên nói:
-Thưa thiếu tá,
mấy năm rồi tôi chưa một lần chạm tay đến cây súng M16 treo ở góc
phòng, cấp số đạn mà tôi lãnh bốn năm trước vẫn còn nguyên, không
hao hụt. Tôi không cần đạn, chỉ cần xăng.
Thiếu tá trưởng
phòng nhìn tôi cười vui vẻ:
-Trong thùng
đạn đó có ba lít xăng. Từ nay về sau đó là số xăng mà trung úy sẽ
được lãnh hàng tuần, đổ vào xe Honda hai bánh dùng để đi họp bên
Quân Trấn.
Tôi nói:
-Thiếu tá, mình
ở quân trường thiếu xăng tôi đi họp bằng xe Honda, chuyện không có
gì phải nói nhưng ở đơn vị tác chiến mà thiếu đạn coi bộ không ổn.
Khi đụng trận tụi Việt Cộng cứ AK rồi B40 bắn thoải mái, hết đạn Tàu
cộng với Liên Xô lại tiếp viện, còn lính mình gắn lưỡi lê vô súng
M16 mà đâm Việt Cộng, tôi sợ mình đánh không lại họ.
Tôi tưởng rằng
thiếu tá trưởng phòng cũng đồng ý với tôi, nào ngờ ông nói:
-Đương nhiên là
thua nhưng còn được như vậy là quý rồi. Miền Nam mình giống như
người bịnh ung thư, mang căn bịnh trầm kha không có thuốc chữa, kéo
dài cuộc sống được ngày nào hay ngày nấy.Tao sợ mai mốt Mỹ cúp hẳn
viện trợ, mình làm gì được họ. Viện trợ hay không là quyền của họ
mà.
Tôi bắt đầu đi
làm bằng xe Honda hai bánh. Buổi sáng Đà Lạt sương mù dày đặc, tôi
mặc bộ đồ lính đeo găng tay, thêm chiếc áo Jacket dày cộm mà vẫn
không cảm thấy đủ ấm. Ngồi trên chiếc Honda chạy băng băng trong gió
lạnh mà tôi cứ tiếc mãi chuyện ngày xưa, tiếc hoài thời tôi đi làm
bằng xe bus của trường. Tôi tiếc bầu không khí ấm áp trong xe, tiếc
luôn chuyện được ngắm miễn phí các cô thư ký dân sự làm việc trong
trường, cô nào cô nấy áo măng tô khăn quàng cổ, đẹp như mơ, đẹp hết
biết mà dạn dĩ cũng khỏi chê. Tôi còn nhớ, hồi tôi mới lên thiếu úy,
có cô hỏi tôi:
-Thiếu úy khóa
mấy của Trường Võ Bị?
Hầu hết mọi
người đều lầm lẫn giữa một thiếu úy tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt,
và một thiếu úy đang phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi tốt nghiệp
Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, mấy năm rồi phục vụ tại Trường Võ Bị
Đà Lạt. Nếu ai đó tưởng lầm tôi tốt nghiệp Võ Bị, tôi cũng nhận
luôn, cải chính làm chi cho mệt. Tôi trả lời mấy cô bằng câu đố.
-Đố mấy cô, tôi
khóa mấy, ai nói đúng sẽ được một chầu cà phê Thủy Tạ.
-Thiếu úy khôn
thấy mồ, ông có mời đi cà phê chưa chắc tụi này đã chịu.
Tuy vậy, cũng
có vài tiếng trả lời:
-Khóa 24.
Tôi nói:
-Trật lất.
-Khóa 23.
Tôi cười đắc
chí.
-Cũng trật
luôn, không có cô nào được mời đi uống cà phê Thủy Tạ. Tôi tốt
nghiệp Sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
Một ông thiếu
tá ngồi cuối xe, nghe vậy bèn lên tiếng:
-Các cô cứ lo
chuyện không đâu, hỏi thử xem ông ấy có vợ hay chưa rồi hẳn chuyện
trò tiếp.
Đang nói chuyện
bình thường, đột nhiên ông thiếu tá đổi giọng cằn nhằn, trách móc:
-Các cô có thân
phải liệu mà giữ gìn, lúc nào cũng lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm,
lờ quờ, lạng quạng trao duyên lầm tướng cướp như không.
Tôi muốn tạo
không khí ấm cúng trong xe nên tiếp lời ông thiếu tá:
-Quý vị có thấy
tôi giống tướng cướp không?
Nhiều tiếng
cười khúc khích vang lên xen lẫn một giọng nói nhỏ.
-Cũng khá
giống.
Thời vàng son
một thủa của tôi, mới đó đã chìm vào quá khứ.
Ngày xưa, ông
Thế Lữ tiếc cái thời xa xưa cũ đã làm bài thơ Nhớ Rừng kể lại chuyện
chúa sơn lâm nhớ thời oanh liệt, nghe ra còn có lý. Đằng này, tôi có
gì mà phải tiếc với nuối. Có chứ, tôi giống như anh nông dân đứng
giữa cánh đồng khô hạn mà tiếc vụ lúa được mùa năm trước, như ông
ngư phủ nhìn mấy con cá trong ghe mà tiếc mẻ lưới đầy cá. Tôi tiếc
cái không khí ấm cúng trong xe bus của trường, tiếc cái thủa lái
chiếc xe jeep thắng cái két trước quán cà phê Hạnh Tâm, liếc nhìn
cái lon trung úy trên cầu vai áo rồi khuỳnh tay, dạng chân khệnh
khạng đi vào quán trước cặp mắt hình như là đầy khâm phục của cô thu
ngân. Đó là thời vinh quang tột đỉnh của tôi, không tiếc sao được,
đâu cần phải là chúa sơn lâm mới có quyền nhớ rừng.
Đến trường, khi
ký sổ bàn giao phiên trực hai tay của tôi vẫn còn run lẩy bẩy vì
lạnh. Trung úy Hàn sĩ quan hạ phiên, đưa cho tôi tờ giấy có mấy chữ:
Trung úy Nguyễn Trọng Quân trình diện Đại tá Tham mưu trưởng lúc
mười giờ sáng.
Tôi cầm tờ
giấy, phần run vì lạnh phần run vì sợ, trình diện sếp lớn, chuyện
rủi nhiều hơn may. Tôi nghĩ trong đầu, không biết mình bị lỗi lầm
gì, có khi nào sếp tống cổ mình ra tác chiến hay không? Hỏi xong,
tôi tự trả lời: Chắc không đến nổi nào đâu, dù gì Đại tá Tham mưu
trưởng cũng là chỗ quen biết với bác Bảy. Tôi dặn người hạ sĩ quan
trực chung ca với tôi:
-Có việc gì
cần, trung sĩ gọi điện thoại qua Câu lạc bộ sĩ quan, tôi ngồi bên
đó.
Tôi trình diện
Đại tá Tham mưu trưởng, sau khi uống cạn hai ly cà phê phin đặc
quánh ở câu lạc bộ, cà phê ngon thiệt, nhung có điều nó làm cho tim
tôi đập nhanh hơn bình thường gấp mấy lần.
Đại tá Tham mưu
trưởng ngồi sau bàn làm việc, ông chỉ vào chiếc ghế trước bàn làm
việc của ông
-Mời trung úy
ngồi.
Tôi rón rén
ngồi xuống, lưng thẳng như thời còn là sinh viên ngồi ăn ở nhà bàn,
không dám dựa lưng vào ghế. Đại tá Tham mưu trưởng hỏi tôi:
-Trung úy làm
việc ở Phòng hành quân, thấy thế nào?
-Trình đại tá,
mọi chuyện đều tốt đẹp.
-Tốt, nếu muốn
thuyên chuyển đi phòng khác, trung úy cứ nói với tôi.
Tôi trả lời:
-Thưa đại tá,
tôi rất thích làm việc tại Trung tâm hành quân.
-Tốt.
Nhìn tôi với
cặp mắt thân thiện, Đại tá Tham mưu trưởng hỏi:
-Đám cưới của
trung úy sẽ được tổ chức vào ngày nào?
Tuy Đại tá Tham
mưu trưởng nói tiếng Việt, rõ ràng từng chữ nhưng tôi không hiểu ông
ta nói gì.
-Thưa, đại tá
tôi…tôi…
-Làm rể anh Bảy
Ân khác nào chuột sa hũ nếp. Từ nay, ở cái trường này có ai giàu
bằng trung úy!
Tôi nghĩ, Đại
tá Tham mưu trưởng lầm lẫn giữa tôi với ai đó trong trường nên lẹ lẹ
đính chính:
-Thưa đại tá,
tôi đâu có biết ông Bảy Ân là ai.
Đại tá Tham mưu
trưởng mỉm cười:
-Cha vợ của
mình mà trung úy cũng không biết. Anh Bảy có cô vợ lai Ấn Độ, chủ
nhân của mấy chục cái building ở Sài Gòn, ảnh có cái biệt thự to như
cái dinh Tỉnh trưởng ở đường Công Lý, Sài Gòn.
Chuyện tới đây,
tôi biết là Đại tá Tham mưu trưởng không lầm. Tôi mới là người không
biết gì.
-Thưa, đại tá
muốn nói tới bác Bảy, có cô con gái tên Cúc?
-Chứ còn ai vào
đây nữa!
Tôi biết bác
Bảy đã chọn tôi làm rể, nhưng tại sao ông không nói chuyện đám cưới
với tôi, mà lại nói với sếp lớn của tôi. Đúng là chuyện trong nhà
chưa rõ, ngoài ngõ đã thông.
Tôi nói với Đại
tá Tham mưu trưởng:
-Thưa đại tá,
chuyện đám cưới tôi không dám có ý kiến, mọi chuyện đều do bác Bảy
và ba tôi quyết định.
-Vậy hả? Anh
Bảy Ân với tôi vốn là bạn thâm giao, tôi coi trung úy như con cháu
trong nhà. Hình như trung úy đang theo học ở Viện đại học Đà Lạt,
phải không?
-Dạ phải.
-Tháng tới khi
nghỉ hè ở Viện đại học, tôi sẽ gởi trung úy về Sài Gòn học khóa đại
đội trưởng, trung úy có biết tại sao không?
-Thưa đại tá,
tôi không biết.
-Có cái bằng
đại đội trưởng sẽ được thêm điểm khi chạy cấp bậc đại úy. Trung úy
cần hỏi thêm gì nữa không?
-Thưa không.
-Trung úy có
thể trở về làm việc.
Tôi đứng
nghiêm, hai gót giày chạm vào nhau kêu cái cốp, đưa tay chào Đại tá
Tham mưu trưởng đúng như lễ nghi quân cách mà tôi đã học ở quân
trường, rồi quay người bước đi.
Lời của sếp lớn
nói, chắc như đinh đóng cột. Vừa nghỉ hè ở Viện đại học, tôi nhận
được sự vụ lệnh về Sài Gòn để theo học khóa Đại đội trưởng. Tôi trở
lại Trường Bộ Binh Thủ Đức, đường xưa cảnh cũ hiện ra trước mắt tôi,
cái cổng trường vốn đã xấu nay trông lại càng xấu hơn sau bao mùa
mưa nắng dãi dầu. Vũ Đình Trường với Trung Nghĩa Đài im lìm trong
nắng sớm, những viên đá vụn trải trên sân lấp lánh dưới ánh mặt trời
tuy có đẹp đó, nhưng khi quỳ xuống để gắn lon chắc chắn là không đẹp
chút nào, chỉ tội cho cái đầu gối. Căn nhà tiền chế khổng lồ có cái
tên là Đại Giảng Đường, bị tụi tôi gọi để chế giễu là “Đại Hỏa Lò”
vẫn nóng như lò nướng bánh mì. Ngày xưa khi cả khóa phải vào đây để
học, chúng tôi thường nói đùa với nhau rằng: Hôm nay nguyên khóa
được đi tắm hơi miễn phí.
Cho đến khi tôi
nhìn thấy những căn nhà gạch của đại đội tôi ngày xưa, lòng bỗng
nhiên bồi hồi xúc động, nào là Biên, nào là Long công tử rồi bạn bè
cùng khóa, tất cả lần lượt hiện ra trước mắt tôi như một cuốn phim
chiếu chậm. Tôi nhớ nhiều đến Biên rồi tự nhủ lòng cuối tuần này sẽ
đến thăm ba má Biên, nhân tiện hỏi thăm địa chỉ của Biên. Tôi muốn
viết cho hắn một lá thư. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy mình quá hời hợt với
bạn bè, mang nặng mặc cảm bao năm trường xa cách mà không viết được
một lá thư để thăm hỏi bạn, tôi cho đó là một thiếu sót không thể
tha thứ. Riêng về Dung, người con gái mà tôi yêu không biết giờ này
ra sao. Tôi vẫn nghĩ ràng nàng đã là vợ của Long công tử, có thế là
họ đã có với nhau một hay hai đứa con rồi cũng nên. Cho dù Dung đã
có chồng hay không, tình yêu của tôi dành cho Dung, dành cho người
yêu đầu đời của tôi muôn đời vẫn còn đó không phai.
Tôi đứng ngẩn
ngơ trước cổng nhà Biên, mà cứ tưởng như mình lạc đường vào quá khứ,
năm năm trường, khoảng thời gian xa cách đủ dài khiến cho lòng người
chùng xuống. Nhìn chiếc bàn đá dưới tàn cây vú sữa, nơi mà ngày xưa
tôi ngồi ăn sáng bên Dung, giọng nói của nàng vẫn còn vang vọng bên
tai: “Để em thêm cho anh chút tiêu”. Tôi liếc nhìn chiếc ghế xích đu
mà Dung vẫn thường ngồi, rồi nhắm mắt lại mà cứ nghĩ như mình đang
đong đưa trong gió.
Đã hai, ba lần
tôi đưa tay lên toan bấm chuông nhưng rồi ngừng lại, linh tính như
báo cho tôi biết có một chuyện gì đó không ổn đã xảy ra ở đây. Căn
nhà hình như mang nặng nét u buồn, mất đi sinh khí và không được
tươm tất như ngày xưa. Màu sơn trắng của cửa nhiều chỗ đã đổi sang
màu vàng úa, vài mảnh tường loang lổ, có nơi tróc hẳn lớp xi măng
bên ngoài để lộ ra những viên gạch màu nâu đỏ. Nơi góc vườn, ngày
xưa khóm hoa cúc vàng xinh tươi đẹp đẽ biết bao, nay đã bị cỏ dại
phủ kín, đầy sân lá vàng ngập cả lối đi. Cảnh hoang phế, tàn tạ,
tiêu điều của căn nhà chúng tỏ chủ nhân không thường xuyên chăm sóc.
Tôi chợt nghĩ, hay là ba má Biên đã dọn nhà đi nơi khác rồi?
Tôi quay người
toan trở về, nhưng nghĩ lại đã cất công lặn lội đến đây rồi, ít ra
cũng nên dò hỏi cho tường tận nguồn cơn, để sau này khỏi phải băn
khoăn thắc mắc, biết đâu người chủ mới lại cho mình vài tin tức quý
giá về gia đình Biên. Sau một lúc đắn đo suy nghĩ, tôi mạnh dạn đưa
tay bấm chuông.
Thoạt thấy dáng
người ra mở cổng, tôi giật mình, tim đập mạnh. Dung chứ còn ai nữa,
nàng ốm hơn xưa nhiều với nét buồn hiện rõ trên gương mặt. Thấy tôi,
Dung chạy nhanh ra mở cổng rồi ôm chặt lấy tôi khóc nức nở:
-Anh Quân phải
không?
Tôi còn biết
nói gì hơn là im lặng gật đầu. Dung ngẩng mặt lên nhìn tôi với đôi
mắt đẫm lệ, nàng thổn thức:
-Anh Biên… anh
Biên…
Linh cảm có
chuyện không hay, tôi nắm chặt hai vai của Dung lắc mạnh:
-Anh Biên sao?
Anh Biên sao rồi?
-Ảnh chết rồi.
Hai bàn tay tôi
từ từ lơi ra
-Chết rồi? Chết
ở đâu? Chết như thế nào?
Đột nhiên tôi
cảm thấy như nghẹt thở, khi hai cánh tay Dung ôm chặt lấy tôi từ từ
siết mạnh hơn, nàng nói qua làn nước mắt:
-Anh Quân, em
yêu anh.
Tôi nghe rất rõ
ràng, nhưng phải mất mấy giây sau tôi mới hiểu Dung muốn nói gì với
tôi, câu nói hoàn toàn không liên quan gì đến chuyện mà Dung đang
nói về cái chết của Biên. Tôi nghĩ, khi mà xúc động lên đến tột
đỉnh, lúc đó tâm trí con người có thể rơi vào trạng thái hỗn loạn,
lời nói của họ không còn đúng với những gì họ muốn nói. Tôi ôm lấy
Dung, vỗ nhẹ vào lưng nàng an ủi:
-Anh biết, em
rất thương anh Biên.
-Không. Anh
Quân, em yêu anh.
Tôi chưa kịp có
phản ứng gì, đôi môi của nàng đã gắn chặt môi tôi. Dung hôn tôi say
sưa đắm đuối, cái hôn tràn đầy nước mắt của mấy năm xa cách, có phải
như vậy hay không? Hai mươi bốn tuổi, cái hôn đầu tiên trong đời bất
ngờ đến với một thằng con trai, nhất là đến từ người mình thương
nhớ, đôi chân của tôi hình như run lẩy bẩy trong khi toàn thân tôi
như tê dại. Tôi để mặc cho cảm giác ngất ngây, sung sướng, đê mê,
trôi nổi bềnh bồng đưa đẩy.
Hai chuyện
trọng đại xảy ra cùng một lúc. Biên người bạn cùng khóa với tôi đã
chết. Dung người tôi yêu tha thiết bấy lâu nay, mối tình đầu của tôi
cũng là mối tình tuyệt vọng đang hôn tôi và nói yêu tôi. Tôi đứng
yên như một pho tượng, một thế kỷ vừa mới trôi qua trong yên lặng.
Hai tay tôi hãy còn ôm lấy Dung, môi của tôi vẫn chưa rời khỏi đôi
môi của nàng. Tôi uống nước mắt của Dung, mằn mặn xen lẫn chút ngọt
ngào như nuốt trọn lấy tình yêu mà nàng đã dành cho tôi. Mãi cho đến
khi trái đất bắt đầu quay trở lại, chầm chậm rồi bình thường cũng là
lúc trái tim của tôi từ từ đập trở lại. Lúc bấy giờ tôi mới bình
tĩnh, nhẹ nhàng nâng gương mặt của Dung. Tuy vậy, tôi phải cố gắng
hết sức mới nói được câu.
-Nín đi em,
mình vô nhà được không?
Dung khẽ gật
đầu, nắm chặt lấy tay của tôi như sợ tôi biến mất. Nàng kéo tôi vào
nhà.
Tôi nâng ly cà
phê, nhấp một hơi.
-Em biết không,
năm năm xa cách, mùi cà phê vẫn còn thơm như ngày nào khi anh ngồi
uống với em dưới tàn cây vú sữa. Năm năm thương nhớ có biết bao
nhiêu là chuyện anh cần phải hỏi em, nhưng thôi bây giờ anh muốn
thắp cho Biên một nén nhang, mọi chuyện hãy tính sau.
Qua làn khói
hương nghi ngút quyện trong không khí, trên bàn thờ, Biên nhìn tôi
như mỉm cười. Tôi khấn thầm :
-Hôm nay, tao
trở về lại chốn cũ, những tưởng sẽ biết được tin tức của mày, nào
ngờ âm dương cách trở, mỗi thằng một thế giới. Tha lỗi cho tao đã
không về lại đây sớm hơn.
Tôi đi đến ngồi
bên Dung.
-Bây giờ, anh
có chuyện quan trọng muốn hỏi em.
-Chuyện gì vậy
anh?
-Anh muốn biết
Long công tử đâu rồi.
Dung ngơ ngác
nhìn tôi.
-Anh nói cái
gì? Tại sao lại hỏi em? Em làm sao biết được anh Long ở đâu.
Tôi ngạc nhiên
đến sửng người khiến cho giọng nói của mình hơi ngập ngừng, ngượng
ngập.
-Không phải em
và Long đã lấy nhau rồi hay sao?
Đôi mắt của
Dung tròn xoe nhìn tôi đầy vẻ sửng sốt, nàng nói mà như muốn khóc.
-Từ cái ngày
anh đưa gói quà của anh Long cho em, sau đó anh và anh Long biến mất
khiến em không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Tôi đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác.
-Như vậy, em
không có thương gì anh Long?
-Ai nói với anh
là em thương anh Long?
-Anh nhớ khi
đưa quà của anh Long cho em, em vui mừng nhận quà nhưng sau đó giận
anh, không nói với anh một lời rồi đuổi anh về, khiến anh nghĩ là
mình là kẻ thứ ba trong cuộc nên rút lui là hơn.
Dung nắm lấy
tay tôi siết mạnh.
-Anh hiểu lầm
rồi, ngày ấy em chỉ giả bộ giận anh thôi. Anh có biết, con gái làm
nũng là gì không?
-Làm sao anh
biết được.
-Sinh nhật của
em, anh Long tặng quà cho em, còn quà của anh đâu? Em đợi hoài chẳng
thấy anh nói năng gì khiến em giận anh quá chừng. Em chỉ cần quà của
anh chứ không cần quà của anh Long.
Tôi vội vã giải
thích.
-Tuần lễ trước
khi anh đi phép, Long xuống khu sinh hoạt mua cho em cuốn album rồi
nhờ anh đem đến cho em. Em biết cuốn album đó giá bao nhiêu không?
Dung lắc đầu.
-Em không biết.
-Gần hai ngàn.
Suốt thời gian thụ huấn ở Quân trường Thủ Đức, chưa bao giờ trong
túi của anh có được ngàn bạc. Anh đâu có nhiều tiền như Long công tử
để mua quà cho em.
-Em hiểu rồi,
anh muốn mua cho em món quà đáng giá hơn quà của anh Long phải
không? Em không đòi hỏi gì nơi anh hết. Em chỉ cần một món quà nho
nhỏ. Anh có thể mua cho em cái lược để khi chải đầu em nhớ tới anh.
Anh cũng có thể tặng em cây viết để khi viết thư cho anh, em cảm
thấy gần anh hơn. Anh không có được năm, mười đồng hay sao?
Tôi lặng câm
thương nàng vô hạn. Tôi phải trả một giá quá đắt, bằng mấy năm cách
xa thương nhớ, chỉ vì cái tội ngu ngốc của mình.
-Tha lỗi cho
anh, ngày ấy, anh cứ nghĩ rằng trong một cuộc tranh đua, mình phải
hơn đối thủ của mình mới mong thắng cuộc.
Dung nhìn tôi
với đôi mắt đầy thương yêu.
-Có hai lý do
khiến em có thể nói anh Long không phải là địch thủ của anh. Lý do
thứ nhất là anh Long không hề có tình ý gì với em hết, con gái rất
nhạy cảm về vấn đề này. Hơn nữa, anh Long có nói với em là ảnh có vợ
rồi, vợ anh ấy và đứa con trai một tuổi kháu khỉnh đang sống ở Ban
Mê Thuột trông coi cái đồn điền của ba anh ấy. Ảnh còn hứa với em
khi nào có dịp ảnh sẽ dẫn em lên Ban Mê Thuột chơi, thăm đồn điền,
thăm vợ con ảnh luôn. Còn chuyện hộp quà mà anh Long nhờ anh mang
đến cho em, anh có biết trong đó có những gì hay không?
Tôi chắc giọng
quả quyết:
-Anh biết chứ.
-Có những gì?
-Một cuốn
album.
Dung cười, nụ
cười tươi như đóa hoa phù dung.
-Chỉ đúng có
một nửa, trong đó còn có thêm mấy xấp lụa để may áo dài và một bức
thư.
Dung chồm người
về phía tôi, nàng nũng nịu nói mà như muốn hôn tôi.
-Bức thư em vẫn
còn giữ, thư anh Long viết còn hay hơn những bức thư tình hay nhất
thế giới. Để em lấy cho anh coi.
Tôi ngả người
ra ghế sofa.
-Thư tình của
Long viết cho em, tại sao em lại đưa cho anh đọc, em không sợ anh
ghen hay sao?
-Không, nhờ bức
thư này mà mấy năm nay em vẫn còn đủ can đảm để nhớ anh. Anh đợi đó
một chút.
Tôi cầm bức
thư, giấy đã bắt đầu đổi sang màu vàng úa, nhàu nhò chứng tỏ Dung đã
đọc nó nhiều lần.
Nét chữ của
Long hiện ra trước mắt tôi.
Dung,
Anh gởi
mừng sinh nhật của em cuốn album để em gắn mấy tấm hình bốn đứa chụp
chung trước vòi phun nước. Nhớ để tấm hình của em và thằng bắp cải ở
trang đầu, vì anh biết thằng Quân nó thương em với tất cả tấm lòng
chân thật của nó. Còn mấy xấp lụa để em may áo dài, mặc khi đi chơi
với Quân. Con gái mà mặc jean với áo thun coi ngố ngáo lắm, em phải
mặc áo dài mới thấy ngoan hiền. Em có biết câu thơ “Yểu điệu thục
nữ, Quân tử hảo cầu ” nghĩa là gì không? Chữ quân trong câu thơ này
phải viết hoa. Nghĩa là người con gái phải yểu điệu, dịu dàng thì
thằng Quân nó mới thương..
Đùa với em
chút xíu cho vui, anh và Biên đều lớn hơn thẳng Quân bốn năm tuổi,
thằng nào cũng có dăm ba mối tình dang dở vắt vai, trong khi em là
mối tình đầu của Quân bắp cải, cả hai đứa đều ngây thơ, trong sáng
dễ thương. Em phải luôn nhớ rằng, thẳng Quân nó thương em nhất trên
đời.
Thư đã dài,
anh ngừng bút, chúc em và Quân bắp cải luôn luôn vui vẻ bên nhau.
Anh.
Long.
Đọc xong bức
thư, tôi thầm nghĩ, trên đời này không có ai hào hoa, lịch sự bằng
Long công tử mà cũng không có ai nói láo hay hơn nó. Tôi nhớ mãi,
trong một lần khi gặp má của Long công tử tại khu tiếp tân của
trường, bà nói riêng với tôi:
-Vợ chồng tôi
chỉ có một mình thằng Long, cháu có biết cô nào ngoan hiền giới
thiệu cho nó với. Ai đời đã hai mươi bốn tuổi rồi mà cứ long nhong,
rong chơi suốt ngày không chịu lấy vợ khiến tôi và ông nhà tôi cứ lo
là lo. Chỉ mong mau có cháu nội để bồng bế mà không có.
Tôi nói với bà:
-Bác đừng lo,
Long có nhiều bạn gái quá nên chưa biết chọn cô nào.
Tôi định nói
cho Dung biết là Long công tử nói láo, nhưng chưa kịp mở miệng thì
Dung đã hỏi tôi:
-Anh làm gì mà
ngồi thừ người ra đó.
Tôi nâng ly cà
phê, nhấp một ngụm rồi nói:
-Cái thằng dễ
thương quá sức, vậy mà hồi đó lúc nào anh cũng lo ngay ngáy, lúc nào
cũng sợ.
-Anh sợ gì?
-Sợ em thương
Long công tử chớ còn sợ gì nữa. Đẹp trai, hào hoa, lịch lãm như nó
mà em không thương cũng uổng.
-Anh nói như
vậy mà nghe cho được. Anh có muốn nghe lý do thứ hai hay không?
-Tại sao không?
Dung nhích sát
người tôi, hôn lên má tôi rồi khẽ nói:
-Đây là lý do
chính cũng là lý do quan trọng nhất, em yêu anh, yêu từ cái buổi đầu
gặp gỡ, anh đừng hỏi em tại sao? Em không trả lời được đâu. Trái tim
của em nói là yêu anh, em biết là em yêu anh, đơn giản như vậy thôi.
Còn như anh muốn biết nhiều hơn nữa, chuyện như thế này. Anh còn nhớ
ngày đi phép đầu tiên của mấy anh, khi mình đi taxi từ nhà đến rạp
Rex, anh Biên hích anh một cái cùi chỏ, cố ý xếp anh ngồi bên em,
hành động này khiến em suy nghĩ và đoán rằng anh Biên cũng đồng ý
nếu hai đứa mình yêu nhau, có phải như vậy không anh?
-Đúng vậy.
Trời ạ, nếu
trong một ngày mà trái đất ngừng quay hai lần làm sao người ta sống
cho nổi. Trái tim tôi đã bị sốc hai lần trong một ngày vì những
chuyện xảy ra trước mắt tôi. Nguyên ngày hôm đó, tôi say sưa kể cho
Dung nghe chuyện tôi cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng khi gặp
Dung lần đầu, rồi đến thảm cảnh khi bị Dung đuổi về ngồi một mình
trong rạp ciné không máy lạnh, cũng như mối tình tuyệt vọng của tôi
dành cho nàng suốt mấy năm qua. Mãi mê giãi bày tâm sự, tôi quên
bẳng chuyện tại sao căn nhà hoang vắng như vậy. Khi nhớ ra, tôi hỏi
Dung:
-Em à, hai bác
đâu rồi? Sao anh không thấy.
Dung mỉm cười,
nụ cười như ngầm nói bây giờ anh mới nhớ tới ba má.
-Từ ngày anh
Biên mất, má buồn quá nên dọn về Bạc Liêu sống, rất ít khi lên đây.
Hiện tại, trong nhà chỉ còn em và chị Lành. Ba thường ngày đi làm,
nhiều khi ở lại luôn trong sở, cuối tuần lại về Bạc Liêu với má.
Tôi buột miệng:
-Hai bác là
người Tiều Châu phải không?
-Ba em người
Việt, má người Tiều, sao anh biết?
-Người ta
thường nói ở xứ Bạc Liêu “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Tiều Châu” anh
đoán đại như vậy không ngờ lại đúng.
-Má nghe được
anh nói như dzậy, bà không gả con gái cho anh đâu.
-Nếu vậy, anh
sẽ sửa lại là “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Dạ cổ Hoài Lang”được chưa?
Dung nhăn mặt:
-Được gì mà
được, nghe lấn cấn, lọng cọng cứ như “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà
kia”.
Hai tháng học
đại đội trưởng ở Thủ Đức, đây là một khóa học nhàn nhã nhất trong
quân đội, hai tháng thần tiên trong đời của tôi. Đi học mà tôi cứ
tưởng mình đang sống ở thiên đường hạ giới. Ngày chủ nhật, tôi về
nhà Dung cùng nàng lang thang khắp đó đây, trên chiếc Honda dame của
nàng.
Ngày đầu đi
chơi, Dung mặc chiếc áo dài màu vàng mỡ gà may bằng lụa của Long
công tử tặng. Tôi đứng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn, nhìn hai tà áo như
hai dải lụa nhè nhẹ tung bay phất phơ trong gió, khiến tôi cảm được
cái mịn màng của lụa quấn quýt lấy cái mát dịu của làn da, khi âu
yếm, lúc lả lơi. Phải mất năm năm, tôi mới thấm được ý câu thơ “Nắng
Sài Gòn …” của nhà thơ Nguyên Sa. Tôi nói với Dung.
-Sài Gòn hôm
nay mát quá.
Vì không hiểu ý
của tôi, Dung nói:
-Em cứ tưởng
không bao giờ có dịp mặc cái áo dài này.
Tôi hỏi:
-Tại sao vậy?
Nếu thích, em cứ mặc đâu có ai cấm.
Dung nói mà như
nhắc tôi:
-Anh không nhớ
sao? Trong bức thư anh Long dặn em, chỉ bận áo này khi đi chơi với
anh. Không có anh, em bận để đi với ai? Anh có biết không, khi may
xong mấy cái áo dài mà không được bận em khóc quá chừng. Em đợi hoài
đợi mãi, đợi cho đến ngày hôm nay.
Tôi nói:
-Anh không nghĩ
rằng mình là người có diễm phúc đến như vậy. Nếu anh không trở lại
đây, chẳng lẽ em đợi anh suốt đời hay sao?
Gương mặt Dung
thoáng đượm nét buồn:
-Có chuyện này,
em phải nói với anh. Anh nói đúng, mấy tháng đầu xa cách, em nhớ anh
nhiều lắm, nhớ da diếc, nhớ điên cuồng. Mùa hè năm sáu mươi chín, em
lên Đà Lạt nghỉ mát với ba má. Suốt ngày, em chỉ lang thang ở khu
phố Hòa Bình, mỗi khi đi ngang qua một căn nhà, em lại nhìn vào với
chút hy vọng nho nhỏ là anh đang ở bên trong. Em cứ tiếc hoài, tại
sao ngày xưa em không lấy địa chỉ của anh để giờ đây phải lặn lội
khắp thành phố này tìm anh. Chuyện tìm anh mà không biết địa chỉ,
khác nào như thể tìm chim, chim bay biển Bắc, em tìm biển Đông. Mùa
hè năm ấy trôi qua trong lặng lẽ, u buồn. Cho đến khi em bước chân
vào đại học, bỡ ngỡ trước nếp sống mới, lu bu với bài vở, bạn bè, em
quên anh được phần nào. Cũng vào lúc ấy ba má muốn em lấy chồng. Anh
ấy là thiếu úy Nhảy Dù, con người bạn thân của ba em.
Dung ngưng nói,
nhìn tôi với đôi mắt như hờn trách.
-Em đúng phân
vân giữa ngã ba đường, phải chi ngày xưa anh hứa với em một tiếng là
anh sẽ trở lại chắc em sẽ chờ anh, đằng này anh bỏ đi biệt tăm biệt
tích. Em chần chừ, lần lựa thêm được hơn một năm nữa, cuối cùng em
bằng lòng lấy chồng theo ý của ba má em.
Tôi giật mình,
không hiểu chuyện gì đã xảy ra nên lật đật hỏi Dung:
-Em đã có
chồng, sao còn…còn nói yêu anh? Chồng em đâu rồi?
Dung nắm tay
tôi bóp mạnh.
-Anh làm gì mà
hoảng hốt lên vậy, chuyện đâu còn có đó, từ từ em kể cho anh nghe.
Tụi em làm đám hỏi được ba tháng, đang chuẩn bị đám cưới, em nhận
được tin anh ấy mất ở Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Em
khóc hết nước mắt suốt mấy ngày liền, rồi quyết định sẽ không bao
giờ lấy chồng. Tháng kế đó lại được tin anh Biên tử trận tại chiến
trường Quảng Trị, từ đó về sau em sống như là chết rồi. Em, ngày
ngày đi học như là một người máy, thỉnh thoảng nhớ anh Biên em lại
lấy bức thư của anh Long ra đọc, càng đọc càng nhớ anh, nhớ cho đến
khi gặp lại anh.
Tôi đưa tay bịt
miệng của Dung, rồi nổ máy chiếc xe Honda.
-Mình đi đâu
đây em?
-Tùy anh.
Chúng tôi đến
Thanh Bạch ăn điểm tâm với bò kho bánh mì, tôi mở nắp chai sữa tươi,
bóc giấy dán miệng chai, rót vào ly rồi trịnh trọng đưa cho nàng
sành điệu y hệt như Long công tử. Tôi hỏi Dung:
-Em nhớ gì
không?
-Nhớ chớ, chỉ
thiếu càng cua ram muối.
Tôi cười.
-Anh chịu thua,
nếu bây giờ anh gọi món cua ram muối cho em, có thể chú Sáu nói anh
là thằng khùng bởi vì anh không phải là Long công tử.
Ăn sáng xong,
chúng tôi thả bộ quanh Sài Gòn, nhìn mấy ông Sinh viên sĩ quan Thủ
Đức đi phép, đang dạo phố với bồ. Tôi nói với Dung:
-Em nhớ hồi xưa
mình đi chợ Bến Thành không?
-Làm sao em
quên được. Anh có nhớ mấy bà bán hàng nói gì với tụi mình không?
-Có, mấy bà ấy
nói, em chỉ giỏi ăn hiếp anh.
Dung nhéo tôi
một cái đau điếng.
Buổi trưa,
chúng tôi chạy vô Chợ lớn ăn mì vịt tiềm rồi chui vô rạp ciné máy
lạnh, coi Lý Tiểu Long múa võ hành hiệp giang hồ, thêm vào đó là mối
tình đầy thơ mộng với giai nhân Miêu Khả Tú. Hết ciné, Dung dẫn tôi
vô quán Cái Chùa, uống cà phê đen nhìn thiên hạ dẫn nhau dạo phố.
Dung nói với
tôi:
-Anh đừng có
lo, gọi là quán Cái Chùa nhưng nó chắng dính dáng gì đến Tăng ni hay
Phật tử, mà đó là nơi tụ họp của mấy ông nhà văn, nhà báo của Sài
Gòn.
Tôi hỏi Dung:
-Tại sao em
biết, ở đây chỉ dành riêng cho mấy ông nhà văn và báo chí.
-Anh Biên nói
với em như vậy.
Tôi nói:
-Đúng, anh Biên
nói không bao giờ sai.
Khi chiều đến,
hai đứa kéo nhau qua Thủ Đức mỗi đứa một chai bia 33 nhậu với nem
chua, nem nướng. Nem Thủ Đức vốn nổi tiếng khắp miền Nam, có điều lá
dùng để gói nem hơi nhiều. Một xâu nem độ chừng chục cái đựng trong
một cái rổ nhỏ, hai đứa ăn cho đến khi đống lá gói nem cao hơn chai
bia mới ngừng. Sờ lại bụng vẫn còn thấy đói.
Hai tháng học
đại đội trưởng trôi qua cái vù, nhanh như chớp mắt. Ngày mãn khóa
học, trước khi trở về Đà Lạt tôi nắm chặt tay của Dung.
-Anh sẽ nói với
ba má anh xuống đây gặp ba má em. Mình phải tính chuyện làm đám
cưới.
Nói xong tôi
mới giật mình tỉnh mộng, tôi nói cho có chuyện để mà nói. Tôi biết
mình đang ở trong thế kẹt, ba má tôi và bác Bảy đã định liệu hôn
nhân của tôi và Cúc, người lớn nói chuyện với nhau rồi tuy tôi không
có ý kiến nhưng cũng đã ngầm đồng ý. Giờ đây một bên là mối tình đầu
đầy thơ mộng, một bên là tiền tài và danh vọng, tôi phải chọn bên
nào?
(CÒN TIẾP)
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *