֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
TRẠI TẬP TRUNG
PHẦN THỨ HAI
THƠM NỒNG TRÁI ĐẮNG(Rừng Lá Z30 D)
(Rừng Lá Z30 D)
CHƯƠNG 12
Đi về đâu? Tôi không biết. Và tôi cũng chẳng cần biết làm ǵ. Tôi đă đi từ nhà tôi đến Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đă đi từ Sở công an đến đề lao Gia Định. Tôi đă đi từ đề lao Gia Định đến khám lớn Chí Ḥa. Tôi đă đi từ cái tĩnh này vào cái tĩnh khác. Rồi tôi đi từ khám lớn Chí Ḥa đến Sa Ác, tôi đi từ cái tĩnh ra cái động. Tôi có kinh nghiệm này: Cái tĩnh là sự đầy đọa linh hồn, cái động là sự đầy đọa thể xác. Cả hai cộng lại thành một h́nh phạt của thù hận mà người cộng sản đă tự hào tuyết hận tôi, tuyết hận một nhà văn chống đối họ bằng tư tưởng và chữ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bất lương Mỹ đă phó thác cái sứ mạng trả thù nhà văn nhân bản cho chủ nghĩa cộng sản bất nhân Nga. Không có nhà văn nào tự nhận ḿnh c̣n lương tri mà không phẫn nộ thái độ xấc xược, vênh váo, chơi cha của bọn Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ở khắp nơi trên thế giới. Bọn Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ đại diện cho những chính sách, những chủ thuyết hèn mọn của những chính phủ những lănh tụ tối cao của Nhà Trắng, của Ngũ Giác Đài, của Quốc Hội. Dân tộc Hoa Kỳ đă trở nên kiêu căng, ngạo mạn do cái chính sách ngu muội của “lập pháp” và “hành pháp” của họ với các nước nhỏ, nhất là các nước lệ thuộc vào đồng đô la viện trợ. Nước Mỹ không biết cứu giúp ai. Nước Mỹ không có ḷng trắc ẩn. Nước Mỹ chích vào mạch máu tiểu nhược quốc một chai sérum th́ sẽ rút ra một lít máu. Nước Mỹ rồi sẽ là Babylone. Hồi chuông báo động một đại hồng thủy mới đă điểm. Con tầu của ông Noé sẽ khước từ cứu vớt dân tộc Mỹ. Hoặc là, dân tộc ấy sẽ chịu lời nguyền như dân tộc Do Thái đă chịu. Dân tộc ấy cần biết đau khổ. Và cộng sản sẽ dạy họ thế nào là đau khổ. Lúc đó, họ sẽ hiểu c̣ng made in USA không phải để cộng sản c̣ng tay những người công chính chống cộng sản, mà c̣n để cộng sản c̣ng tay người Mỹ tống vào các trại tập trung khổ sai lao động. Lúc đó, người Mỹ sẽ đói, sẽ ăn bọ cạp, thằn lằn, chuột cống cào cào, châu chấu, rắn rết rau rừng, cỏ dại.. . Lúc đó, người Mỹ sẽ khiêng bom chưa nổ, sẽ lấp hố bom, sẽ xuống hầm phân. Và, lúc đó họ sẽ thấy họ là con người đích thực, con người nguyên vẹn không giả vờ chẻ đôi, một nửa cứ sát hại nhân loại bằng bom đạn dă man, một nửa cứ nghêu ngao phản chiến rẻ tiền.
Tôi nói thẳng: Tôi chống đối chính sách của Mỹ đối xử với các nước nhỏ nhiệt t́nh như tôi chống đối chủ nghĩa cộng sản. Tư bản là cộng sản giầu. Mỹ và Liên Xô cùng bản chất gian manh khốn nạn. Hai đứa đang ghét nhau chuyện giầu nghèo. Thề thôi. Chẳng c̣n ư thức hệ ǵ cả. Muốn thoát đại hồng thủy, dân tộc Mỹ phải làm cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để cùng các dân tộc khác, thành tâm và lương thiện xóa bỏ nốt chủ nghĩa cộng sản. Khi hai chủ nghĩa khốn kiếp này bị hủy diệt, tham vọng đê tiện của chúng bị hủy diệt luôn. Loài người sẽ sống ḥa b́nh, hữu nghị, hạnh phúc mà không cần bất cứ một chủ nghĩa nào. Khách quan mà nhận xét mà phê phán hai chủ nghĩa này đă bất lực trong mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Chúng c̣n tồn tại ngày nào nhân loại c̣n phải chới với trong chiến tranh ngục tù và thù hận Vậy nên hủy diệt chúng. Dân tộc Mỹ sẽ lănh đạo cuộc chiến của Thiên Thần chổng ác quỷ, của con người chống quái vật 1.> Những nhà văn trước khi trở thành nạn nhân của cộng sản đều đă là nạn nhân của tư bản Mỹ. Diễn nghĩa rộng hơn, nhiều dân tộc bị tư bản Mỹ làm mồi dâng cộng sản. Cuba, Việt Nam, Angola, Nicaragua. Sẽ thêm nữa. Bởi v́, ở đâu chính sách Mỹ can thiệp trực tiếp ở đó chính nghĩa cộng sản rực rỡ và sức mạnh cộng sản đuổi Mỹ cuốn cờ chạy dài. Nước Mỹ thay v́ xây Đài Chiến Thắng… giả vờ, nên tạc tượng Đại sứ John Dean ôm cờ sao sọc, mặt mày tái mét “nhanh bước chân nhi đồng”. Đừng quên khắc câu nói bất hủ của hoàng thân Sim Matak giữa trái tim John Dean: “Cái chết đối với tôi không quan trọng. Điều quan trọng là tôi đă trót tin người Mỹ”. Tượng John Dean nên dựng ở thủ phủ mỗi tiểu bang Hiệp Chủng Quốc. Để nhắc nhở cái dân tộc ngạo mạn, xấc xược ấy sự thua trận nhục nhă và sự phản bội có chứng cớ. Tất cả những danh từ, động từ, tĩnh từ liên quan tới chung thủy, thành thật, đồng minh, gắn bó, hữu nghị trong tự điền Hoa kỳ cần xóa bỏ. Muốn để lại, cần ghi chú: Chỉ áp dụng cho kẻ thù, không áp dụng cho bạn và đầy tớ.
Tôi là nhà văn, từ biết cầm bút bầy tỏ chính kiến, đă không tha thứ cho cái chính sách ngược ngạo của Hoa kỳ ở nước tôi. Chính sách ấy tạo ra bè lũ tay sai nắm quyền thống trị. Bọn thống trị cầy cáo này ngu dốt, tham nhũng. Chúng nó chỉ có tài ngoan ngoăn vâng lời chủ đàn áp, bóc lột dân tộc tôi. Người Mỹ tuyên bố khai phóng dân chủ, tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc tôi. Nhưng người Mỹ đă chỉ thị đầy tớ đâm lưỡi lê chảy máu dân chủ và thắt cổ tự do. Người Mỹ ở Việt Nam khích lệ đầy tớ tham nhũng và ăn chia tiền tham nhũng. Rốt cuộc, dân Việt Nam phải chống cộng sản, chống đầy tớ Mỹ, chống cả Mỹ. Sự mỉa mai nhất của chiến tranh Việt Nam là lính Mỹ, con em của dân tộc Mỹ đă chết nhục như những tên đánh mướn hèn hạ. Họ bị chính sách Mỹ lừa bịp. Họ đâu có được vinh dự hy sinh v́ tổ quốc, v́ lư tưởng bảo vệ tự do – dân chủ. Họ đă chết thảm trong “cuộc chiến mà họ không được phép chiến thắng” cho bọn tay sai của chính sách Mỹ ăn cắp, phè phỡn. Những cựu chiến binh thất thểu trên quê hương của họ có ai biết Cao văn Viên gửi ngân hàng ngoại quốc bao nhiêu triệu đô la? Có biết Nguyễn văn Thiệu đang giữ bao nhiêu triệu đô la? Như bất cứ một người Việt Nam liêm sỉ nào, tôi đă chống cộng sản, chống chính sách Mỹ và đầy tớ Mỹ. Và tôi bị đầy tớ Mỹ cấm viết, cấm luôn cả bút hiệu viết báo theo lệnh của chủ Mỹ của chúng. Tôi nghĩ, đến hôm nay, chỉ c̣n những thằng nhà văn vô liêm sỉ mới tiếp tục ngửa tay nhận tiền Mỹ làm công tác “văn hóa”. Những thằng nhà văn vô liêm sỉ ấy vẫn viết lách ăn lương khoán của Mỹ và vẫn được cộng sản ca ngợi công khai trên báo chí của chúng. Chỉ những nhà văn liêm sỉ là thất thế và bị vây hăm giữa ba thế lực cộng sản, phản chiến Mỹ và chính phủ Mỹ. Và đôi khi c̣n bị vây hăm bởi chính đồng nghiệp chống cộng của họ. Chưa kể họ c̣n bị vây hăm bởi các công ty kháng chiến, các hợp tác xă giải phóng, các tổ hợp phục quốc, các hăng thầu ái quốc và đám văn nghệ sa đích đố kỵ dơ dáy. Nhưng tín hiệu mới của chữ nghĩa dấn thân lúc nào cũng sẵn sàng phóng ra. Hôm qua. Hôm nay. Trong nước. Ngoài nước. Là người, không ai biết cúi mặt. Sự ngẩng mặt có thể dẫn vào tù, dẫn ra trại tập trung, dẫn xuống hầm phân, dẫn đếnn nơi chốn nào khác ḿnh chưa biết, dẫn bằng ngơ hẹp, đường hẹp, dẫn qua cửa hẹp, dẫn đến sự sống. Khi đă đến đích của sự sống, cái chết vô nghĩa, cái tồn tại mới đáng kể. Bởi v́, cái tồn tại là cái ǵ để lại sau lần chui qua cửa hẹp.
Tôi đang đi trên con đường hẹp. Con đường hẹp dẫn tôi vào Rừng Lá. Là đây, trại lao cải Z30 D. Bên kia dẫy núi Mây Tào là TH6 Đồng Nai, bên này là Z30 D Thuận Hải, một tỉnh gồm Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân. Bí số của các trại tập trung khổ sai lao động tỉnh Thuận Hải là Z . Z30 D là một trong những Z30 từ A, B, C. D đến H, I, K, L, M. . . Từ quốc lộ số 1 , cây số nào tôi không nhớ, rẽ bên phải, đi khoảng hơn ngh́n thước là tới Z30 D, K1. Khu vực này, trước 1975 là Rừng Lá hăi hùng. Du kích Việt cộng ẩn núp nơi đây, thường chặn xe đ̣ tuyên truyền và xin “ủng hộ” tiền bạc. Đáng lẽ phải gọi là rừng Buông v́ đa số cây rừng là cây Buông, thứ cây chỉ dùng được đọt lá. Cây Buông thích hợp đất cát. Rễ của nó giống hệt chùm râu ăn không sâu nhưng tóe ra khoảng đất rộng. Thân nó như thân cây dừa nước. Hai mươi năm Buông mới trổ hoa, kết trái. Và chết. Tuổi thọ của nó vỏn vẹn hai mươi năm. Trái cây Buông có chất độc. Người ta sử dụng để thuốc cá suối cạn. Rang khô, tán nhỏ ném xuống suối, cá sẽ nổi lên ngáp ngáp. Đọt lá của nó để đan quạt, đan giỏ… Lá già để lợp nhà, làm tiếp. Thân nó vô tích sự. Nó nằm mục đợi nấm mọc mùa mưa. Có hai thứ nấm ngon nhất và quư nhất. Là nấm mối và nấm Buông. Nấm mối nở trên g̣ mối. Nấm Buông nở trên thân Buông. Sau 1975, cộng sản dùng sức người của tù nhân phát quang khu rừng lá Buông, xây dựng một trại tập trung mang bí số Z30 D. Trại này di chuyền từ Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh ra nên vẫn giữ tên cũ Thủ Đức Z30 D . Con đường đất lớn ngoài quốc lộ dẫn vào trại là do tù nhân phạt rừng, hạ cây đào đất mà đắp.
Z30 D có ba K, cũng như ba khu. K là K2 và K3 . K tôi đến là K1 . Thủ tục nhận tù mới nhập trại ở Z30 D rất đơn giản. Có lẽ tù mới chỉ có hai tên. Người ta mở c̣ng cho chúng tôi trên xe. Chúng tôi xách hành lư bước xuống. Tôi ngơ ngác nh́n một…dinh thự! Phải tôi đang đứng giữa sân trải đá răm xen lẫn sỏi của một dinh thự, chắc chắn, lớn hơn bất cứ một Bộ nào của nước Việt Nam cộng ḥa ở Sài g̣n. Sân có nhiều mảng vườn trồng hoa. Cỏ bên lối đi trải đá răm xanh um, tỉa xén và chăm sóc công phu. Những dẫy nhà nền cao, mái ngói đỏ au. Tôi không thấy cái vẻ “lao cải” ở đây. Ai dám bảo đây là nơi của chúa ngục, là nơi nhận chỉ thị đầy đọa tù nhân?
Người ta làm thủ tục nhập trại cho chúng tôi rất nhanh trong một căn pḥng sàn lót gạch hoa cửa sổ thoáng mát. Anh cán bộ hồ sơ của TH6 từ giă chúng tôi. Anh ta nói:
- Ở đây, trại sẽ tạo mọi cơ hội thuận lợi cho các anh về sum họp gia đ́nh. Tôi bảo đảm với các anh , trại nầy là trại cuối cùng của các anh. Các anh sẽ được tha ngày rất gần.
Chúng tôi được dẫn sang trại đối diện cái dinh thự gọi là cơ quan. Cơ quan vắn tắt. Trật tự của trại khám xét hành lư của chúng tôi, khám xét thân thể chúng tôi dưới sự giám sát của cai tù. Cộng sản đă lên án chính sách chiến tranh hóa Việt Nam của Mỹ. Nghĩa là họ chửi Mỹ dùng Việt Nam tàn sát Việt Nam. Cũng thế cộng sản dùng tù nhân khám xét tù nhân hạch hỏi tù nhân, làm khó dễ tù nhân. Sau màn kiểm tra người và vật, chúng tôi được dẫn vô một căn nhà. Tôi lại ngạc nhiên căn nhà tù tường gạch cửa sổ gỗ chấn song sắt, mái lợp fibro ciment. Căn nhà có kho, có kệ chứa thực phẩm của tư nhân và nồi niêu, ca cóng; có cầu tiêu bàn xối nước, có hồ nước lớn. Hồ nước xây bên trong nhà cầu tiêu có ba pḥng, có sàn tắm. Căn nhà hai tầng kiều TH6 nhưng gỗ bào nhẵn làm sàn gác có kệ để hành lư. Tầng dưới lót gạch hoa, có hầm để hành lư cá nhân đậy nấp gỗ ngay đầu ḿnh. Có hàng chục căn nhà và mỗi căn thuộc quyền xử dụng của một đội dưới 50 tù nhân.
Z30 D, K1 có hai khu. A và B. Khu A là khu kiểu mẫu của cả ba K và của một trại cải tạo kiểu mẫu của toàn bộ nhà tù nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam . Thư viện khang trang rất nhiều sách báo cộng sản. Có thể đọc Lê nín toàn tập, Xít ta lin toàn tập, Thời niên thiếu của Mác…. tại đây. Cũng có thể đọc Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo và Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck hay Cuộc đời Leonard de Vinci… C̣n có thể đọc Temps moderne của Liên Xô, ấn bản Pháp ngữ. Thư viện đủ các thứ tự điển. Quản thủ thư viện là tù nhân trong Tổ thông tin văn hóa. Bệnh xá có hai bác sĩ, một tù, một cách mạng. Bác sĩ cách mạng tên Hoàng Cầm, dân Nam bộ tập kết. Bác sĩ tù nhân tên Nguyễn Vân Hạc, nghị sĩ, người đă cống Ban giám thị Z30 D chiếc Peugeot 404 để được làm bác sĩ của tù nhân. Như vậy, tránh lao động vất vả. Khi tôi đến bác sĩ Vân Hạc đă về, bác sĩ Nguyễn Hữu Nhơn của binh chủng Thủy quân lục chiến được gọi thay thế, thêm nha sĩ Phạm Huy Hoàn giă từ cuốc xẻng. Bệnh xá Z30 D có hai y tá, nhiều thuốc và nhiều giường. C̣n có bếp riêng cấp dưỡng bệnh nhân theo tiêu chuẩn bồi dưỡng. Sân trại có vườn hoa và ba hồ nước lớn. Nước dẫn từ suối bằng ống lớn, máy bơm. Z30 D có máy điện chạy 24 trên 24, có cả château d’eau…hiện đại. Nói tóm lại khu A của K1 là khu kiểu mẫu và lư tưởng mọi mặt. Rơ ràng, nó là trại học tập cải tạo.
Cách một hàng rào tre và cái cổng qua nhà bếp của trại tù, khu B y hệt Sa Ác A TH6. Tệ hơn nữa, mái lợp lá Buông và tường phên lá Buông bọc ngoài tường cây cắm dầy khít. Chế độ đại tiện là…đổ thùng! Thiên đường khu A và địa ngục khu B. V́ là trại kiểu mẫu nên kỷ luật cũng kiểu mẫu. Dẫy cachot gồm 5 pḥng sát khít hội trường. Giây kẽm gai không được xử dụng ở Z30 D. Vây quanh trại là hàng rào cây cao chôn sâu và sát khít. Lại thêm cây nhỏ làm nẹp ngang siết kỹ bằng giây thép. Cứ một thước rào có một cột trụ cây thật lớn. Hàng rào cây…đúp. Ở giữa là lối đi. Ngoài hàng rào, người ta trồng tre. Khi xe lên cao xanh um, trại sẽ là cái làng. . . êm ấm. Z30 D có đài phát thanh, phát thanh mỗi tối từ 8 giờ đến 9 giờ. Phụ trách chương tŕnh là tù nhân Bùi Hoàng Cầm cảnh sát đặc biệt kiêm cựu kư giả của nhật báo Đồng Nai của chủ nhiệm Huỳnh Thành Vị. Ông Vị và danh ca Duy Trác đă nằm tại khu B Z30 D, K1 . Họ bị chuyển ra trại trừng gjới Phủ Khánh trước ngày tôi tới Z30 D. Đài phát thanh là “kẻ thù” của tù nhân. Bởi rằng, chương tŕnh của họ là đọc tên những tù nhân khai bệnh nằm nhà. Nhiều tù nhân bị phê b́nh ốm giả vờ. Nhiệm vụ của Bùi Hoàng Cầm là, sáng sáng, qua bệnh xá ghi chép tên tù nhân khai bệnh, kiểm điểm xem trong tháng tù nhân khai bệnh nằm nhà mấy lần, bao nhiêu ngày. Anh ta làm việc theo chỉ thị thôi. Nhưng anh ta bị tù nhân lên án nặng nề và chụp mũ “ăng ten” tổ bố. Z30 D tổ chức khác hẳn TH6. Tù nhân h́nh sự, chính trị lẫn lộn một đội. Tù nhân chính trị được làm trật tự, thăm nuôi và lâm sản.
Ông Hồ Hữu Tường và tôi được tạm đẩy vào căn nhà của Đội văn nghệ, thể thao. Đội này đàn sáo, ca múa, ảo thuật, vẽ panneau, viết khẩu hiệu và đá bóng. Vậy nó phân làm hai tổ. Tổ văn nghệ lại chia đôi: Ban tân nhạc và ban cổ nhạc. Dụng cụ âm nhạc do tù chế tạo. Tù nhân chế tạo đàn guitare, đàn violon, đàn nguyệt, đàn tranh , đàn gáo, đàn c̣. .. Tân nhạc th́ khá hơn, dụng cụ do trại mua làm cảnh. Có cả giàn trống, guitare điện. Đội văn nghệ, thể thao nhàn hạ, nhiều đặc ân đặc lợi nên bị ghét. Ở đâu có lợi, ở đấy có ganh ghét. Hễ hôm nay Tổ văn nghệ ở nhà tưới cây th́ Tổ thể thao đi phát quang thật xa ngoài quốc lộ, ngày mai Tổ thể thao ở nhà, Tổ văn nghệ ra đi. Ra khỏi trại. có tiền tha hồ ăn hủ tíu, miến gà, mua chuối, mua trứng đem về. Bạn thân ở đội khác có thể gởi tiền nhờ mua chuối, mua rau…. Bạn không thân bị từ chối. Đó là nguyên nhân của chụp mũ. Lúc tôi vào căn nhà, người đón tiếp tôi là Lê Ngọc Biên.
- Tôi là anh em cột chèo với anh Trương Đ́nh Huân, em của chị Thanh Khánh, anh nhớ chưa?
- Nhớ rồi.
Anh Biên làm ḿ gói chiêu đăi ông Tường và tôi. Chúng tôi chưa kịp tắm th́ vệ binh tới dẫn chúng tôi ra suối tắm. Và sau đó, chúng tôi được dẫn lên văn pḥng của Phó giám thị, ủy viên chính trị của Z30 D, thiếu tá Phan Hữu Phúc. Ông Tường vào trước, tôi ngồi ngoài hành lang. Phó giám thị Phúc làm việc riêng từng người. Đến lượt tôi, ông Tường về trại thay v́ ngồi đợi tôi cùng về. Tôi không biết nội dung cuộc mạn đàm ngắn ngủi giữa Phó giám thị Phúc và ông Tường. Riêng tôi Phó giám thị Phúc rất ân cần. Ông ta pha ấm trà mới, rót nước mời tôi. Tự tay ông ta bóc gói thuốc Phù Đổng đưa tôi rút và quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.
- Anh đi đường có mệt không? – Ông ta hỏi tôi.
- B́nh thường, thưa ông Phó giám thị. -Tôi đáp.
- Cứ gọi tôi là cán bộ.
- Vâng.
- Anh sẽ về nhưng anh nhớ rằng anh được tha là do ở sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối không một thế lực ngoại quốc nào có thể can thiệp cho anh ra khỏi trại cả.
- Tôi nghĩ thế.
- Những ngày c̣n ở trại, nhất là ở đây, anh không nói cho bất cứ ai anh đă ở các trại nào và từ trại nào vừa đến.
- Vâng.
- Tôi sẽ gặp anh sau.
- Vâng.
~ Anh cần ǵ, cứ báo cáo cán bộ quản giáo hay cán bộ trực trại xin gặp tôi, tôi sẽ giải quyết ngay.
- Cám ơn cán bộ.
Sau đó, ông ta hỏi thăm chuyện gia đ́nh tôi và dự định cho tương lai khi tôi trở lại đời sống. Tôi về trại một lát th́ các đội tan lao.
° ° °
Qua sự thông tin của trật tự, một số anh em đến t́m tôi. Tôi giữ lời hứa với Phó giám thị Phúc, không nói về các nhà tù tôi đă bị nhốt và trại lao cải tôi vừa rời Số anh em này thất vọng tôi ngay. Họ thấy tôi không phải là nhân vật hào hùng của tiểu thuyết của tôi. Và họ cho rằng họ đă hiểu tại sao tôi được ân huệ biên chế ngay vào Đội văn nghệ, thể thao. Rồi Bùi Hoàng Cầm, nhà báo, nhân vật bị tù nhân nguyền rủa từ khu B sang thăm tôi. Rồi những tù nhân bị đánh dấu “ăng ten” như hoạ sĩ Có, sĩ quan cảnh sát, nhà ảo thuật Hưởng, hạ sĩ quan an ninh quân đội, săn sóc tôi rất chu đáo buổi đầu khiến số anh em có kết luận dễ dàng: Tất cả những thằng nhà văn, nhà báo ở các trại đều làm công việc như thằng nhà báo Bùi Hoàng Cầm! Một tuần lễ sau người ta bảo tôi là Bùi Hoàng Cầm của TH6 B, Xuyên Mộc, Đồng Nai. Tôi tin chắc ông Hồ Hữu Tường đă được Phó giám thị Phúc yêu cầu như đă yêu cầu tôi “không nói cho bất cứ một ai anh đă ở các trại nào và từ trại nào vừa đến”. Không hề có phát thanh… học tập, phát thanh mỗi tối ở Sa Ác B. Cách nhau dẫy Mây Tào, sự thật bên kia và bên đây đă chẳng giống nhau rồi. Bấy giờ, tôi không cần t́m hiểu. Sau này tôi mới t́m hiểu và tôi ghê tởm cái thủ đoạn cộng sản. Họ triệt hạ tôi, họ làm tôi mất hết tư cách rồi mới thả tôi về. Để tôi hoàn toàn tê liệt. Họ bảo tôi đừng nói rồi họ rỉ tai trật tự, họ tung tin Hồ Hữu Tường và tôi từ đâu tới, đă làm những ǵ thật dơ dáy ở các trại cũ. Điều bấy giờ tôi suy nghĩ chỉ là câu nói hé lộ một xác nhận Amnesty International sắp cứu tôi ra. “Anh sẽ về nhưng anh nhớ rằng anh được tha là do ở sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối không một thế lực ngoại quốc nào có thể can thiệp cho anh ra khỏi trại cả”.
Tôi nằm ở Đội văn nghệ và thể thao hai ngày nghỉ mệt. Anh Lê Ngọc Biên kể cho tôi nghe nhiều chuyện thú vị. Anh đă ở Suối Máu, đă đáp chuyến tầu HQ 503 đi Phú Quốc, đă ở Phước Long. Mấy tháng trước có phái đoàn Amnesty lnternational thăm Z30 D, K 1 . Tù nhân c̣ mồi của Đội văn nghệ và thể thao sắm vai trại viên trại học tập cải tạo. Mỗi diễn viên được phát một bộ quần áo mới không đóng dấu tù. Đầu tóc cắt gọn. Râu ria cạo nhẵn. Các Nhà quét dọn sạch sẽ, sắp xếp ngăn nắp. Các hồ nước bơm đầy. Bệnh xá tươm tất. Thư viện gọn gàng. Giàn nhạc đầy đủ dụng cụ. Phái đoàn tới, được Ban giám thị hướng dẫn thăm khu A và chỉ khu A thôi. Hai thông dịch viên Pháp-Việt, Việt-Pháp và Anh-Việt, Việt-Anh là Lê Ngọc Biên, Nguyễn văn Dụ, tù nhân. Amnesty International thăm Nhà, thấy Nhà khang trang thoáng mát, đầy đủ…tiện nghi; thăm thư viện, thấy thư viện đầy sách. C̣ mồi chăm chú học tập tư tưởng Mác Lê, c̣ mồi đang đàn sáo, lại chơi Le Beau Danube bleu, Only you, Smoke gets in your eyes…; thăm bệnh xá thấy bệnh nhân tù nhân “hồ hởi phấn khởi”; thăm sân, thấy hoa phô sắc, cỏ thắm tươi. Th́ bằng ḷng lắm. Lại phỏng vấn tù nhân được lệnh phiên dịch : “Cám ơn chính sách học tập cải tạo khoan hồng và nhân đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi không phải là tù nhân mà là trại viên trại học tập cải tạo. Chúng tôi học tư tưởng làm người cao quư và tập lao động cho bớt lười biếng. Chúng tôi ăn ba bữa, đầy đủ dinh dưỡng, tinh thần và thể xác thoải mái, không hề bị đánh đập tra tấn thể xác hay tinh thần . .”
Phái đoàn thấy tù nhân đâu có nhiều. Bởi v́, hàng ngàn tù nhân đă bị lùa vào tận chân núi từ sáng sớm. Đề pḥng, bất th́nh ĺnh, phái đoàn trở lại, tối mịt tù nhân mới được lùa về. Chẳng hiểu phái đoàn AI đánh giá Z30 D ra sao. Có điều, chắc chắn, phái đoàn không bao giờ nh́n rơ sự thật ở nón mũ, giầy giép, quân áo, ca cóng của tù nhân xuất trại lao động.
Lê Ngọc Biên nói, chuyến thăm của AI, tù nhân c̣ mồi và thông dịch viên đều bị tù nhân nguyền rủa, lên án nặng nề. Càng bị nguyền rủa hơn, sau chuyến viếng thăm của Al, Biên và Dụ được biên chế sang Đội văn nghệ và thể thao. Sự thiếu may mắn của tôi là về Z30 D, tôi bị vào Đội văn nghệ và thể thao. Giá tôi vào cachot, có thể tôi lừng danh anh hùng tù ngục!
Ngày thứ tư, đột xuất có một phái đoàn ngoại quốc thăm trại Z30 D kiểu mẫu. Tôi đă theo đội đi lao động từ hôm qua. Hôm nay cả đội của tôi ở nhà làm… c̣ mồi. Tù nhân toàn trại đi lao động từ sớm tinh mơ. Riêng ông Hồ Hữu Tường và tôi được đưa sang “dấu” ở pḥng trật tự khu B. Người ta phát giấy cho chúng tôi khai lư lịch. Cảnh tượng tiếp phái đoàn này y hệt cảnh tượng tiếp phái đoàn AI. Lê Ngọc Biên và Nguyễn văn Dụ không được chỉ định thông dịch. Đă có thông dịch viên của Bộ nội vụ. V́ phái đoàn là phái đoàn Liên-tôn thế giới, thân cộng sản Việt Nam. Thế giới cũng có một số thằng vô danh tiểu tốt buôn công danh bằng cách họp thành một phái đoàn sang thăm nhà tù kiều mẫu Z30 D dàn cảnh công phu, đầy xảo thuật của đạo diễn Đảng để về tuyên bố ngược lại tất cả những ǵ các phái đoàn khác đă công kích chế độ nhà tù cộng sản. Thế là chúng nổi tiếng. Báo chí cộng sản thế giới, báo chí thân cộng sản Tây phương và Mỹ đă đánh bóng chúng nó, đă coi chúng nó như người của sự thật. Thế giới tự do, thế giới của lương tri, của lẽ phải, của tôn trọng sự thật đă có một bọn khốn kiếp gọi là Liên-tôn ḷ ḍ đến trại Z30 D phả thêm mùi tanh ươn vào thứ nhân quyền bị thắt cổ lè lưỡi bởi cộng sản. Tôi không biết cộng sản Việt Nam đă trả bọn này bao nhiêu tiền? Với cộng sản Việt Nam c̣n phải lột lưỡi để ca ngợi chế độ lao tù của họ.
Từ kinh nghiệm Liên-tôn viếng nhà tù kiểu mẫu Z30 D, tôi thấy không thể tin tưởng vào bất cứ một hội đoàn nhân đạo nào của thế giới tự do, trừ Amnesty International. Rất tiếc, AI không lên tiếng về sự vi phạm nhân quyền. AI trung lập với tất cả các chế độ chính trị. AI can thiệp cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở bất cứ quốc gia nào có tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng.
AI đă can thiệp cho Vũ Hạnh dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. AI lại can thiệp cho Cao Dao dưới chế độ Lê Duẩn. Cho nên sự thật về ngục tù và tù nhân trong chế độ cộng sản đă chỉ được thế giới mường tượng hay căn cứ vào những báo cáo bán rẻ lương tâm cho cộng sản của những hạng người tương tự Liên-tôn, của lũ phản chiến thân cộng sản, của đám báo chi Mỹ đă ngồi xổm lên nghĩa vụ luận. Lương tri của nhân loại cần phải được đánh thức, cần phải được lay động bằng tiếng nói đích thực và trung thực của những người thoát lên từ vực thẳm. Nhưng, buồn thay, những người thoát lên từ vực thẳm đă im lặng, hoàn toàn im lặng. Thỉnh thoảng, có một vài lên tiếng với đồng bào của ḿnh. Th́ đă bị khoả lấp bởi tiếng rao bán xổ số kháng chiến, tiếng mơ quảng cáo lạc quyên phục quốc. Chưa thấy ai đặt vấn đề với bọn nhà báo Mỹ – đă mô tả chuồng cọp Côn Sơn, đă đ̣i cải thiện chế độ lao tù miền Nam trước 1975- mô tả các trại tập trung khổ sai lao động của đàn bà con nít, thương phế binh ở Long Thành – ở quần đảo Phước Long sau 1975. Chưa thấy ai lạc quyên tiền đăng nguyên hai trang trên các nhật báo lừng danh xuất bản tại Nữu ước, Hoa Thịnh Đốn, Ba Lê, Đông kinh, Luân đôn…để nói về tù nhân và ngục tù cộng sản. Chưa thấy ai lạc quyên tiền để dịch thuật và xuất bản một cuốn sách viết về ngục tù cộng sản Việt Nam trích từ những cuốn hồi kư của những người thoát lên và thoát ra từ vực thẳm. Chưa thấy ǵ cả. Chỉ thấy rơ ràng người ta đă hoan hỉ bỏ đô la vào túi áo ông Mặt trận, vào thùng sương, vào những cuộc liên hoan ăn uống có nhẩy đầm. Rất nhiều tinh hoa của dân tộc đang quằn quại trong nhà tù cộng sản mà đồng bào của họ ở hải ngoại đă lăng quên không nghĩ chuyện cứu họ, thản nhiên để họ chết ṃn. Rất nhiều những thằng chó đẻ sống phè phỡn bằng tiền lạc quyên cho mục đích bịp bợm. Rốt cuộc, nỗi thống khổ của tù nhân được cai thầu chiêm bao và báo cáo chiêm bao ấy với người ngoại quốc. Cai thầu hưởng danh lợi. Tù nhân được…hứa hẹn sẽ can thiệp. Bao giờ? Mai. Mai rồi mốt. Mốt rồi mút. Mút rồi mít. Mít rồi mịt. Rồi mù mịt.. . Thế giới tự do yêu sự hợp lư đến ngây thơ và ngu xuẩn. Tiếng nói của người đă nh́n sự thật là hợp lư. Phái đoàn Liên-tôn kia, chẳng hạn. Tiếng nói của người chưa nh́n sự thật chỉ nói theo báo cáo là tiếng nói vu vơ, không hợp lư. Tiếng nói của những người thoát lên từ vực thẳm là hợp lư, chính xác là tiếng nói của sự thật.
Song, buồn bao nhiêu, tiếng nói của sự thật là tiếng nói Việt Nam viết bằng chữ Việt Nam . Thế giới không biết nghe tiếng Việt Nam, không biết đọc chữ Việt Nam. Mà chúng ta th́ không ai thích đóng góp tiền để chuyển dịch tiếng nói của sự thật vàng mười sang Anh ngữ, Pháp ngữ, Y pha nho ngữ, Đức ngữ, Ư ngữ. Người Pháp và người Mỹ sẽ chỉ thấy ngục tù Việt Nam qua cuốn Goulang vietnamien, Vietnamese Gulag của gă tù nhân de luxe 11 tháng ở đề lao Gia Định. Nhà tù được viết kiến nghị, được tự do đi xin chữ kư, cả trăm tù nhân kư vào kiến nghị th́ nhà tù cộng sản là. . . thiên đường, cần ǵ phải đ̣i nhân quyền và tự do cho tù nhân!
Cái phái đoàn Liên tôn…thiếc kia viếng trại lao cải kiểu mẫu Z30 D đúng 15 phút. Giàn nhạc chỉ chơi có một bài Love is blue! Không sợ, đột xuất, họ trở lại nh́n sự thật trần truồng – bồ tèo mà – Ban giám thị cho tù nhân núp dưới chân núi về sớm. Tù nhân được cơ hội suy diễn : Ông Hồ Hữu Tường và tôi được đem về đây làm c̣ mồi. C̣ mồi ǵ nhỉ? Tôi bỗng thấy chua xót cái câu mà cai tù nào cũng thích nói với tù nhân: “Các anh không thương các anh th́ ai thương các anh”.Quả thật, một số tù nhân đă tỏ ra tàn nhẫn với tù nhân. Bạn tù, mấy kỳ liền không có thăm nuôi, thay v́ an ủi bạn, chia sẻ cho bạn dúm tôm khô, vài vắt ḿ, người ta nỡ phát ngôn: “Vợ bỏ rồi hả? Chắc vợ đi theo bộ đội bỏ rơi anh rồi”?
Người ta sẽ buồn cười điều “Cấm mua bán, đổi chác” trong Nội quy . Tôi không buồn cười. V́ tôi biết chuyện một tù nhân không nghiện thuốc lào, thuốc rê mà có cả mấy bánh thuốc lá, mấy bịch thuốc rê. Thuốc lào của anh ta thuộc loại xiện,sáng sớm kéo một điếu là phê. Có tù nhân đă đổi cái quần treillis lấy 2 hộp quẹt thuốc lào xiện. Tù nhân này không thăm nuôi, dĩ nhiên. Ở Sa Ác B, có thuốc lào xiện là có tất cả. Thuốc lào có thể đổi rau muống non, củ cải, rau mồng tơi, mướp, củ mài… Nhiều tù nhân đă lấy râu ngô phơi khô tẩm nước điếu rồi lại phơi khô để hút. Giá trị của thuốc lào vô kề. Hễ có thuốc lào xiện, điếu cầy xiện sẽ thêm bạn bớt thù và sẽ chỉ c̣n bạn. Ở Sa Ác B cho tù nhận thuốc mà cấm tù nhận diêm, đá lửa, bật lửa. Nhưng tù nhân xoay đâu ra bật lửa, đá lửa, xăng th́ tự do dùng. Bèn có ba câu Anh ngữ lao cải:
- Đông vui hao lao
Đông vui th́ tốn thuốc lào.
-Đông phen hao rê
Đông bạn th́ tốn thuốc rê
-Tham nuoi no dzim
Thăm nuôi không có diêm
Với tù nhân nghiện thuốc lào, đa số tuyệt đối, th́ thiếu thuốc lào c̣n hại cho cơ thể hơn là thiếu chất protéine, chất mỡ, chất đường… Đầy rẫy những kẻ hám lợi trong tù. Và đầy rẫy những kẻ thích làm khổ người khác. Vô cớ và vô lư. Tôi mang thêm tội c̣ mồi. Đă có kinh nghiệm ra cái động ở Sa Ác, tôi tiết kiệm tối đa ngôn ngữ ở Z30D. Với những kẻ không đáng nói, nửa lời không nói.
--------------------------------
1
Tác giả có tham vọng viết cuốn sách nhan đề Sấm Kư cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tiên tri cuộc cách mạng tiểu tư sản hào hoa cứu vớt dân tộc Mỹ thoát nạn đại hồng thủy.
CHƯƠNG 13
Ở Đội văn nghệ và thể thao, mọi người đều quư tôi. Đội này không có tù h́nh sự. Đa số là sĩ quan và hạ sĩ quan cảnh sát. Phần c̣n lại là sĩ quan quân đội. Những người này đă trải qua nhiều trại lao cải. Tôi nằm phía trên, giữa Biên và Hưởng. Một hôm, Biên tâm sự:
- Chúng nó bảo thằng Có, thằng Hưỏng và thằng Ánh là “ăng-ten” gây ra vụ một số anh em đi Phú Khánh.
- Tôi không cần biết.
- Ông nên biết.
- Biết để làm chi. Toàn chuyện tầm phào.
- Biết để hiểu trắng và đen, đen và trắng trong tù.
- Vậy ông kể đi.
- Thằng Ánh đă sang làm Đội trưởng Đội trừng giới, chúng nó càng tin nó làm “ăng-ten”. Tết vừa rồi, thằng Ánh sáng tác khẩu hiệu, thơ vè; thằng Có vẽ và viết tay trái; thằng Hưởng dán. Thằng Có vẽ ở pḥng hội hoạ, ai dám nghi nó. Thằng Hưởng ảo thuật dán nhanh như làm tṛ. Cả trại khoan khoái đọc thơ, vè, khẩu hiệu, khen nhặng những thằng dám chơi là ái quốc là can đảm.
- Rồi sao lại thành”ăng-ten”.
- V́ chúng nó chửi những thằng viết, vẽ dán khẩu hiệu, chửi loạn cả lên.
- Tại sao có vụ đi Phú Khánh?
- Chuyện cũ tích lại. Ông Huỳnh Thành Vị nhà tôi cứ ngứa miệng căi chuyện Paris với thằng chưa đến Paris rồi chửi nó ngu ngọng. Cán bộ nghe thấy nó bèn chụp mũ ông Vị chửi nó ngọng. Ông Duy Trác th́ chủ nhật nào cũng vác đàn đi hát nhạc vàng… ôi, đủ thứ. Xẩy ra vụ dán khẩu hiệu chửi cộng sản, nó không bắt được ai bèn giận cá chém thớt đưa những anh bị nó ghim ra Phú Khánh dằn mặt anh em.
- Hưởng, Ánh và Có im lặng?
- Chứ cái ǵ nữa! Chúng nó không buồn v́ c̣n một vài người biết chuyện. Đấy, trắng hóa đen là vậy. Tôi bị chúng nó chửi c̣ mồi, nay đến ông bị cất một chỗ cũng cứ rằng đă gặp phái đoàn Liên-tôn làm c̣ mồi. Cái trại này táp nham, ông sống lâu sẽ rơ. Ông sẽ khổ tâm lắm đấy. Cộng sản nó theo dơi ông, tù nhân theo dơi ông từng hành động. Ai bảo ông nổi tiếng? Vào tù vô danh tiểu tốt là yên thân.
- Ông nhận xét đúng.
- Ở tù cộng sản có những nỗi oan không dám thanh minh. Như tôi. Tôi c̣ mồi mẹ ǵ đâu. Anh Trương Đ́nh Huân phục vụ ở UNESCO nhờ Amnesty International can thiệp cho tôi v́ gốc tôi là giáo sư biệt phái về Trung tâm học liệu. AI ghi tên tôi và trại tôi đang cải tạo. Thằng Dụ cũng thế. AI đ̣i gặp hai đứa tôi. Chúng tôi thông dịch theo đúng lời nói của tù nhân được phỏng vấn. Có thông dịch viên của họ giám sát vớ vẩn ốm đ̣n à? Nó đâu tin ḿnh. AI hứa can thiệp cho tôi về sớm. Tôi phải làm kiểm điểm mờ người, phải hứa không tiết lộ chuyện AI can thiệp cho tôi. Rồi chúng tôi bị biên chế qua Đội văn nghệ. Tôi văn nghệ mẹ ǵ. Nó đề pḥng tôi ngứa miệng bên khu B. Ngu sao. Tôi ngậm họng mặc chúng nó chửi lèm bèm.
Lê Ngọc Biên triết lư:
- Người Việt Nam đếch có kinh nghiệm ǵ cả, kể luôn kinh nghiệm ở tù cộng sản. Chỉ a dua, phán xét bậy.
Biên nói đúng. Đă không có kinh nghiệm cộng sản đến nỗi bị nó bắt bỏ tù rồi vẫn không chịu học tập kinh nghiệm cộng sản trong tù. H́nh như, cái…truyền thống bạn đáng diệt hơn kẻ thù có từ 20 năm miền Nam chống cộng. Kẻ thù xa, đối lập gần. Đối lập có thể đảo chính ḿnh, kẻ thù thôn tính cả nước. “Đất nước mất, mất tất cả”. Cả nước rơi vào tay kẻ thù, ô kê. Quyền bính của ḿnh rơi vào tay đối lập, nô ô kê. Truyền thống này đưa sang Mỹ, sang Tây. Mày đối lập ông, mày nguy hiểm hơn cộng sản. Nghĩ cũng bẽ bàng khi phải đứng chung chiến tuyến với bọn vô lại. Bọn vô lại kháng chiến, phục quốc chỉ muốn những người chống chúng nó gian manh, bịp bợm bỏ rơi chuyện chống cộng hoặc đầu hàng cộng sản. Để chúng nó tự do kháng chiến bịp, phục quốc lừa. Có một thằng vô lại vén môi lên tồ tồ rẳng: Giải phóng Việt Nam không phải là ước mơ mà c̣n là nhiệm vụ, bổn phận. Tôi t́m cách giành lại quê hương bằng cách làm cho cộng sản kiệt quệ về quân sự, kinh tế, chính trị! Rơ khẩu khí một thằng vô lại. Nó đă viết sách nhận nó ngu dốt chính trị, thầy nó không chịu dạy nó. Nay nó đ̣i “giành lại quê hương đ̣i làm cho cộng sản kiệt quệ chính trị”. Lại c̣n kinh tế nữa, trời ạ! Độc Ngữ viết hai câu thơ khá độc:
Đó cái gọi là tướng
Lũ sán kim ngọ nguậy ngứa hậu môn
Thằng này câm đi th́ dần dần hết vô lại. Nó càng đao to búa lớn, càng vô lại hết thuốc chữa. Quê hương Việt Nam không cần vô lại nữa. Thời của vô lại cai trị dân tộc đă cáo chung. Thầy Gerald Ford dạy: “Lịch sử đă sang trang”. Hiểu chưa? Đă sang trang mới cho tuổi trẻ Việt Nam làm chính quyền. Sẽ không c̣n phỉ quyền gian ác và ngụy quyền vô lại trên quê hương Việt Nam tương lai.
- Ông ạ, tôi linh cảm tôi sắp về. Biên nói.
- Ông tin AI cứu nổi ông?
- Tin lắm.
- Tốt thôi.
- Tôi hiểu chỉ ông mới viết được truyện về những đứa trẻ con ở trại Phú Văn.
- Truyện thế nào?
Biên kể ngọn đồi mà tù nhân cải tạo đặt tên là Đồi Fanta (La Colline de Fanta, Les Éditions Belfond). Ngọn đồi này đă làm tôi quên mọi ưu phiền Z30 D. Ít ra, cái trại lao cải hắc ám cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, đă cho tôi một toan tính ngày mai. Tôi ghim vào đầu óc ngọn đồi ô nhục và hy vọng sớm được tha để viết cuốn sách về nó.
Những ngày ở Đội văn nghệ và thể thao, tôi có dịp đi lao động ngoài quốc lộ. Quản giáo đội này tên Hào, ham chơi hơn giáo dục tù nhân. Chúng tôi thường cuốc bộ theo hướng ra Phan Thiết. Chừng hai cây số cách trại, có một cái chợ nhỏ của một xă nằm sát quốc lộ. Tên chợ tôi quên rồi. Chợ có vài quán cà phê, hủ tíu, bún ḅ xào. Mỗi sáng, đội của chúng tôi dừng chân nơi đây ăn điểm tâm uống cà phê rồi mới vào rừng. Quản giáo và vệ binh ở lại đá banh bàn, thụt bi da và ngủ. Đội muốn đi đâu muốn làm ǵ tùy ư, miễn là trở lại tập họp tại chợ đúng 14 giờ. Đội lao động rất lè phè và “tự do” mua bán, ăn uống. Đó là lư do phải chấp nhận sự ghét bỏ của các đội khác.
Tôi lấy làm lạ điều này: Không hề thấy tù nhân h́nh sự hay chính trị ở các đội lâm sản trốn trại. Những người này muốn trốn, sẽ trốn dễ đàng. Họ vào rừng từ 7 giờ sáng, 16 giờ mới về. Các đội lâm sản không cần vệ binh. Làm sao đủ vệ binh canh giữ? Vậy tù nhân tự giác. Và hiếm họa lắm mới có một tù nhân ở đội lâm sản ra đi không về… trại. Dẫu có tù nhân ra đi, các tù nhân c̣n lại vẫn tự do vào rừng và, nếu thích, cứ việc sắp xếp chương tŕnh về sum họp gia đ́nh không cần Giấy ra trại. Điều lạ ấy chính là nghệ thuật quản lư tù nhân của cộng sản. Đâu cần Phạm Hùng hay Cao Đăng Chiếm chọn tù nhân biên chế vào đội lâm sản. Chỉ là Ban Giám Thị và đám công an chăn trâu cắt cỏ, ngọng níu lưỡi tuyển chọn. Tù nhân tiến bộ đến mức không thèm trốn trại. Các đội lâm sản không chấp nhận sĩ quan tác chiến, quân báo, nhẩy dù, thủy quân lục chiến. Phản động cũng bị chê. Đa số là cảnh sát và sĩ quan văn pḥng. Nếu tôi c̣n ở Đội văn nghệ và thể thao, thể nào cũng có ngày tôi trốn trại. Tôi đă phác họa kế hoạch ngon lành. Rất tiếc, chưa kịp trốn th́ tôi bi biên chế sang Đội 27 nông nghiệp. Có lẽ, người ta đă đoán được âm mưu của tôi.
Đội 27 nông nghiệp của K Z30 D, khi tôi sang, vừa thay đổi quản giáo mới. Quản giáo tên Hà, dân Hà Tĩnh. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết điều này: Hễ tên cai tù ở miền nào bị Mỹ dội bom nhiều nhất, tên ấy khe khắt nhất. Quản giáo Hà là tên cai tù ấy. Hắn mang quân hàm trung sĩ. Đội của tôi nhan nhản đại úy, trung úy phi công, hải quân. Và cũng nhan nhản h́nh sự vô lại. Tôi được sống lại không khí xô bồ như ở các pḥng giam đề lao Gia Định, khám lớn Chí Ḥa. Bấy giờ, Đội trưởng lành Vũ Tiến Đạt, một người đầy đủ tư cách. Hiện trường lao động của chúng tôi nằm sát con đường ra vào cổng chính của trại, đối diện nhà thăm gặp. Chúng tôi có nhà lô. Sa Ác B không có nhà lô. Đội 27 đă canh tác nhiều vụ khoai, ngô và đậu xanh. Đội chia nhiều Tổ và các tổ lao động giống nhau, không chuyên biệt như đội rau xanh. Công việc của tôi là cuốc đất, lên luống, rắc phân hoá học, đặt phân xanh, bỏ hạt bắp, giây khoai, làm cỏbắp, vén giây khoai… Chờ đợi thu hoạch chúng tôi chặt cây điên điển đào hầm chôn để làm phân xanh cho vụ mới.
Mùa thu hoạch th́ lao động cả chủ nhật. Hết bắp lại ngô. So với Sa Ác lao động ở Rừng Lá không đáng kể. Tôi bằng ḷng thái độ lao động của tù nhân Sa Ác hơn. Ở đội của tôi tại Z30D, người ta chấp nhận nghe quản giáo “giáo dục”. Người ta thản nhiên ”Nghe chúng nó chửi quen rồi”! Và người ta không xấu hổ ăn cắp mướp, ăn cắp bắp non, ăn cắp khoai… Một số tù nhân tự dẫm lên phẩm cách của ḿnh đă bắt cả đội phải xếp hàng, đứng nghiêm, nghe quản giáo phê b́nh bằng giọng điệu xấc xược, trịch thượng.
Quản giáo không bao giờ giáo dục một tù nhân. Chỉ cần một tù nhân ăn cắp trái mướp trên giàn mướp của hắn, hắn sẽ tập họp đội, miệt thị “các anh toàn bọn ăn cắp, thế mà cứ tưởng ḿnh sĩ quan, trí thức” và đem vợ con tù nhân vào cuộc học tập “các anh là bọn mất tính người, không c̣n t́nh người, cố kéo dài thời gian cải tạo để bắt vợ con nhịn ăn mặc thăm nuôi các anh!” Tôi thấy số người tự xóa bỏ nhân cách của ḿnh vẫn b́nh thản, vẫn nhe răng cười. Tôi th́ tôi lấy làm đau đớn lắm. Thà nhịn ăn mướp, thà cuốc đúng chỉ tiêu chứ không chịu nghe cai tù giáo huấn. Nhưng vô ích, tất cả tù nhân tự trọng, những tù nhân bằng ḷng để cộng sản thù ghét, không bằng ḷng để cộng sản khinh bỉ, đều bị đồng hóa bởi số tù nhân vô lại .Anh Vũ Tiến Đạt hiểu tâm sự tôi . Anh chuyện riêng với tôi:
- Sự khốn nạn của chúng ta là chúng ta đă không được phép chọn người sống chung một đội.
- Cộng sản nó muốn vậy.
- Đồng ư, song anh đă rơ, trong đám vô lại có cả vài ông sĩ quan của chúng tôi. Bọn này to mồm nhất, yêu nước nhất, căm hờn cộng sản nhất và sẵn sàng chụp cứt lên đầu kẻ đồng cảnh ngộ tàn bạo nhất. Anh mới về đội, chưa hiểu hết sự t́nh năo nề. Chia rẽ, kèn cựa, chụp mũ, chửi bới, đánh lộn chẳng c̣n ra tù…chính trị ǵ cả. Riết rồi tù h́nh sự trộm cắp nó khinh thường. Cờ bạc sát phạt nhau tới…tán đường cuối cùng! Tôi cứ giả mù, giả điếc, giả câm. Đánh đấm nhau, chửi bới nhau rồi đưa nhau vào biên bản cuối tuần. Năm năm cải tạo rồi, ấu trĩ ǵ! Làm Đội trưởng khổ hơn chó.
Đội 27 nông nghiệp, chỉ có vài tên vô lại quậy phá. Chúng nó trêu chọc cả đàn bà, con gái đi thăm nuôi chồng, cha, anh. Chúng nó nói năng nham nhở, mất dậy. Chúng nó đă làm phiền cả đội. Những người đứng tuổi im lặng, cầu an. Đa số phẫn nộ nhưng không tỏ thái độ. Có một tù nhân tên Thành, Trưởng ty cảnh sát thời Ngô Đ́nh Diệm, con bà phước từ khi tŕnh diện học tập cải tạo bị đám vô lại đặt hỗn danh Thành chạp và bị chúng nó ghét ra mặt. Chỉ v́ ông Thành đói, ai cho ǵ cũng nhận và vớ được cái ǵ cũng ăn. Chúng nó, dĩ nhiên, không cho ông Thành một miếng sắn lát song, ai cho ông Thành nắm ḿ, dúm tôm khô, chúng nó ngăn cản. Tôi đă thường xuyên tặng hủ tíu, tặng ḿ vụn, tặng phần bo bo nguyên ngày chủ nhật cho ông Thành. Tôi bị chúng nó ghét. Nhờ tôi có thuốc lào xiện, lại chủ trương “đông phen no lo hao lao”, tôi đă chế ngự chúng nó. Gô thuốc lào mở nắp, tha hồ các “phen” hít và phê. Thuốc lào xiện là thước đo giá trị con người!
- Anh ơi anh đừng ăn cơm chung với thằng Thịnh.
- Tại sao?
-Nó là thằng đi rêu rao anh làm c̣ mồi. Anh cứ thử hỏi các bố sĩ quan của Sư đoàn 18 là biết nó. Quân báo đấy. Nó bô bô khoe thành tích đă ăn cắp cái máy bơm nước của một nông dân rồi cho lính bán lại cho nông dân này.
- Chuyện nhảm.
- Nhảm ǵ, cháu của nông dân này lại là sĩ quan cùng Sư đoàn 18 và cùng ở đội ḿnh.
- Cậu thích th́ ăn chung với tôi luôn.
-Em mến anh nhưng em ghét thằng Thịnh.
- Cậu muốn sao?
- Anh đuổi ngay thằng Thịnh đi, em xin về ăn chung, phục dịch anh.
Thuốc lào ngon và túi thăm nuôi nặng và thường xuyên của tôi đă “đổi thù thành bạn”. Hợp với thành ngữ Bạn tù t́nh nhà thổ. Tôi sống yên thân ở Đội 27 nông nghiệp. Rồi tôi trở thành một máy ghi âm chuyên ghi tin miệng của đám vô lại tố cáo nhau.
- Anh này.
- Mấy tháng trước anh đă gặp phái đoàn Liên tôn hả?
- Ai nói vậy?
- Cán bộ giáo dục.
- Nói với cậu à?
- Với bạn em bên khu B, bạn em nói lại với tụi em.
- Cậu tin chứ?
- Hồi đó chúng em tin, chúng em rao rêu hại anh.
- Bây giờ cậu tin cán bộ hay tin tôi?
- Em tin anh.
- Thế th́ tôi không gặp phái đoàn nào cả.
-Tại sao cán bộ bịa đặt nhỉ?
- Tôi không hiểu.
Nếu bạn đọc Lê nin toàn tập, bạn sẽ gặp câu này: “Dùng bọn côn đồ mạt hạng để chúng diệt những phần tử lương thiện đối nghịch cách mạng. Khi những phần tử lương thiện bị triệt hạ, sẽ diệt bọn côn đồ mạt hạng”. Cộng sản áp dụng đúng sách vở của sư tổ vào nhà tù. Cho nên bọn tù nhân vô lại, bọn ăn cắp khoai ḿ, ăn vụng thịt dưới bếp, ăn tranh phần khoai và cơm cháy của heo, vân vân… đă được xử dụng để triệt hạ những tù nhân cố gắng giữ phẩm cách làm người trong bất cứ nghịch cảnh nào.
° ° °
Tổ chức của Z30 D hơi khác TH6 một chút. Ở đây không quân sự hóa nếp sống nên thiếu hoạt cảnh báo cáo xuất trại. Các đội cứ ngồi tại sân tập họp, Đội trưởng tới gần điếm canh báo cáo quân số với cán bộ trực trại. Cán bộ ghi vào sổ trực. Thế là đội đứng dậy xuất trại. Qua cổng, tất cả phải dở nón, mũ. Điều này đă ghi rơ trong Nội quy. Ở đây an ninh gọi là chấp pháp. Công an đặc trách an ninh gọi là cán bộ chấp pháp. Chấp pháp của trại chỉ điều tra những việc xẩy ra ở trại. Tù nhân bị chấp pháp gọi lên “làm việc” có nghĩa là chuẩn bị vào cachot. Chấp pháp bao trùm quyền uy. Chỉ dưới Ban Giám Thị. Ở đâycó một đội chuyên gài ḿn phá núi và một tổ thiết kế. Ở đây có hồ rộng nuôi cá. Nói tóm lại, nội dung của Z30 D hiểm độc gấp bội TH6, h́nh thức của nó là… kiểu mẫu. Các phái đoàn ngoại quốc thân cộng sản và không chống cộng sản đều chỉ được dẫn tới Z30 D, K1 , khu A và cơ quan. Dĩ nhiên, họ chỉ thấy h́nh thức. Cộng sản nặng phần tŕnh diễn hơn quốc gia. Nghệ thuật tŕnh diễn của họ cộng thêm nghệ thuật chơi chữ của họ đă khiến thế giới tự do mê sảng. Ở đây, trật tự đa số là tù nhân chính trị. Công an cộng sản hiểu rơ cảnh sát quốc gia. Do đó, trật tự được tuyển lựa từ thành phần cảnh sát đặc biệt , an ninh quân đội.
Trật tự khu A gồm 4 người tạo thành một giai cấp đặc quyền, đặc lợi và trở thành đối tượng thù hận của tù nhân. Người thứ nhất là ông già Tới, can tội h́nh sự, mẫn cán với cai tù nhưng vô tội vạ với tù nhân, nóng tính mà tâm địa tốt. Người thứ hai là ông già Phú, giảng sư Đại học Vạn Hạnh, can tội vượt biên, thông thạo Anh, Pháp ngữ, kiến thức rộng, giỏi toán học, được chỉ định làm trật tự để dạy một ông chấp pháp học toán và Anh văn. Người thứ ba, tôi quên tên, một ông già cảnh sát hiền lành, cả khu yêu mến. (Ông này được tha hồi tháng 4 1980, người thay thế là một viên chức của VTX, tôi không nhớ tên). Người thứ tư là Trần Trọng Thanh trung uư cảnh sát đặc biệt, chuyên thẩm vấn Việt cộng ở Biên Hoà. Trần Trọng Thanh dân Quảng Ngải, một loại ngụy quân tử trong tù. Hắn xúi ông già Tới gây khó dễ cho tù nhân. C̣n hằn, hắn đóng vai thiện. Khuôn mặt Trần Trọng Thanh xám xịt, vui buồn khó đoán. Hắn là cáo già của pḥng trật tự.
Ở Z30 D, mỗi nhà có một pḥng ăn, cửa sổ thoáng mát bàn ghế sạch sẽ. Có bếp lợp mái tôn cho tù nhân ca cóng những ngày được phép ca cóng. Trật tự nấu nướng bằng bếp riêng ở ngay pḥng. Họ lấy than hồng của bếp trại mà cải thiện bữa ăn. Họ ăn sang hơn cả cai tù. Cai tù mua thịt cá giùm họ. Rau, mướp, bầu, bí th́ họ xin các đội rau xanh. Những ngày lễ lớn hay những hôm đột xuất có thịt heo, trật tự được chia phần thịt tươi gấp 10 tiêu chuẩn tù nhân. Cơm của trật tự luôn luôn thừa thăi. Pḥng của trật tự có chiếc máy vô tuyến truyền h́nh. Máy này, thỉnh thoảng, đem ra sân cho tù nhân giải trí kịch nhạc cách mạng. Trật tự chỉ thị công tác lao động cho vệ sinh và sai phái vệ sinh. Mỗi lần vợ thăm nuôi, trật tự được ngủ với vợ một đêm ở nhà thăm gặp. Cái đặc quyền, đặc lợi do hưởng đầy đặc ân đă khiến một vài anh trật tự quên mất bản thân ḿnh là tù nhân. Ở khu A, Trần Trọng Thanh thâu tóm hết đặc quyền, đặc lợi. Ông già Phú “con bà phước”, ông già Tới vợ đă chết. Trần Trọng Thanh vợ buôn bán khá, mấy đứa con trai lại vượt biên thoát, thăm nuôi ê hề tiền bạc thừa thăi cung phụng chấp pháp và trực trại.
Z30 D, K1 là trại kiểu mẫu, kỷ luật gay gắt nhưng ca cóng tự do ngoài băi. Ở đây, người ta chỉ đ̣i hỏi tuyệt đối “an tâm cải tạo” nghĩa là đừng có tư tưởng trốn trại và chống đối Nội quy. Nội quy trại tù là pháp lệnh của Nhà nước xă hội chủ nghĩa thu hẹp. Chống Nội quy tội nặng hơn các tội cũ và mới. Người ta lư luận rằng, ở tù mà chống Nội quy ra đời sẽ chống Chế độ. Bởi vậy trên tấm Giấy ra trại, phần “Nhận xét quá tŕnh cải tạo”, đa số tuyệt đối tù nhân được tha đều ghi câu tương tự danh ngôn bất hủ “biết rồi, khổ lắm, nói măi” của nhân vật Số đỏ: “Trong thời gian học tập đă có nhiều tiến bộ, lao động và học tập tốt, chấp hành nội quy của trại nghiêm”. Một số nhỏ bị “nhận xét” thế này: “Trong thời gian tập có tiến bộ nhưng vẫn thiếu thiện chí cải tạo, chưa chấp hành nội quy tốt”. Bèn thêm câu: “Đương sự cần được chính quyền địa phương giáo dục thêm” th́ kể như số vất vả. Sẽ bị công an phường bắt “đi học” dài dài. Sẽ có cuốn vở chép nhật kư để công an phường theo dơi mọi sinh hoạt.
Giấy ra trại là một lối chơi chữ của cộng sản. Anh ra trại thôi, có thể, anh lại bị vào trại. Doăn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy đă vào trại sau khi ra trại. Giấy ra trại, với tù nhân mang án phạt “tập trung cải tạo, TTCT” là thứ giấy thủ thân đến khi nhắm mắt. Tiêu đề của nó là Giấy ra trại nhưng văn từ th́ lại “Thi hành án văn, quyết đinh tha số… ngày… tháng… năm… của Bộ Nội Vụ. Nay có giấy tha cho anh, chị có tên sau đây…” Trên Giấy ra trại của tôi, ghi rơ “Can tội Nhà Văn Phản Động. Bị bắt ngày 8-04-1976, án phạt TTCT. Theo quyết định, án văn số không có, ngày tháng không có. Nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cứ… tự do bắt tưới hạt sen, chẳng thèm quyết định, án văn . Thế giới có thể nh́n rơ sự bắt người.,sự giam nhốt người – sự hành hạ người và sự tha người của chủ nghĩa cộng sản trên mộtGiấy ra trại của bất cứ một tù nhân nào. Nếu mắt thế giới không thông manh và óc thế giới không đặc khịt, họ sẽ t́m ra một định nghĩa về nhân quyền ở Việt Nam hôm nay. Trong phần “Nhận xét quá tŕnh cải tạo” c̣n hai câu ác độc:
1- Nơi cư trú do chính quyền địa phương quy định.
2- Đương sự không được cư trú tại nơi đăng kư nhân khẩu thường trú trước khi bị bắt.
Nếu tù nhân đă cư ngụ ở nhà của ḿnh do ḿnh đứng tên trên bằng khoán, ḿnh sống chung với vợ con ḿnh trước ngày ḿnh bị bắt, Sài g̣n chẳng hạn, nay được tha, chính quyền địa phương nó “quy định” cá nhân ḿnh về Long Xuyên hay lên Ban Mê Thuột ḿnh phải…l ưu vong ngay trên quê hương của ḿnh. Vợ ḿnh nó không làm giấy bảo đảm cho ḿnh tạm trú tại nhà ḿnh th́ dẫu chính quyền địa phương quy định” nơi cư trú cho ḿnh là nhà ḿnh”, ḿnh vẫn đành lưu vong. Bị ghi câu số 1 đă lận đận. Bị ghi câu số 2 th́ khốn nạn, th́ kể như biệt xứ bất thành án văn, khỏi cần vượt biên tha phương cầu thực. Giấy ra trại của tôi ghi câu số 1. May mắn, tôi không bị “quản chế” nên “được hưởng quyền công dân”. Tù nhân bị quản chế một thời gian nào đó, phải tŕnh diện công an địa phương hàng ngày, hàng tuần và chờ đợi sự khoan hồng của nhân dân khu phố ḿnh cư ngụ trong cuộc họp quyết định “trả lại quyền công dân”. Tù nhân dưới chế độ cộng sản, vào tù đă khổ, đă nhục ; ra tù c̣n khổ, c̣n nhục hơn 1.
Nội quy nhà tù và trại lao cải quan trọng thế đấy. Anh bị tống vào cachot để “thành khẩn suy nghĩ” mà viết tự khai trong thời gian anh bị thẩm vấn th́ không sao cả. Anh bị tống vào cachot v́ tội trốn trại, tội chống đối Nội quy, Giấy ra trại của anh nhất định bị ghi nhữngcâu nhận xét độc ác. Và đó là bản chất nhân đạo của chủ nghĩa, của chế độ. Ở trại kiểu mau Z30 D, K1, lao động có thể lề mề nhưng tư tưởng bị kiểm soát gắt gao. Bởi nó là son phấn của chính sách học tập cải tạo, là nơi Tú Bà cộng sản dễ lửa bịp khách làng chơi thế giới tự do bằng “nước vỏ lựu, hoa mào gà” Mác-xít-lê-ni-nít!
Đầu tháng 5-1980, Z30 D thả một số đông tù nhân sĩ quan quân đội, cảnh sát và hạ sĩ quan an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt. Lê Ngọc Biên trúng số kỳ này. Những người trúng số K2 và K3 ra hết K1 . Họ tập trung ở hội trường, ăn ngủ ở đó thêm 10 ngày để chờ làm thủ tục. Thủ tục là ǵ? Lănh đồng hồ, bút máy nhẫn vàng, giây chuyềnvàng đă đăng kư. Lănh giấy ra trại, tiền đi đường…. Chỉ cần làm việc một ngày là xong mọi thủ tục. Nhưng Ban Giám Thị muốn “thầu” nhân lực 10 ngày của tù nhân. Họ sắp về nên lao động hăng lắm. Tù nhân vào rừng chặt đọt buông và bắt cắc kè để Ban Giám Thịbán cho Hợp tác xă ở thành phố Hồ Chí Minh. Tiền vào túi Ban Giám Thị. Không có bảo đảm về tính mạng cho tù nhân đă được tha nếu họ chết trong lao động “làm giày cho Ban giám thị”. Những người được tha ṃn mỏi thêm 10 ngày. Họ rất sợ Bộ Nội Vụ ra quyết định mới giữ họ lạivài năm nữa. 10 ngày lâu bằng suốt quá tŕnh lao cải. Chỉ khi xách túi hành lư nhỏ, cầm giấy ra trại, lĩnh vài đồng bạc tiền đường và bước nhanh ra quốc lộ, người được tha mới thở phào. Ân huệ của cộng sản thật đ̣i đoạn. Ban Giám Thị Z30D đă bóc lột tù nhân đến giọt giọt mồ hôi lao cải cuối cùng.
Giám thị Z30 D tên Nguyễn văn Mạnh, mang quân hàm Đại tá công an, già nua, có cô vợ trẻ. Vợ hắn bắt tù canh tác riêng một vườn ngô, vườn khoai. Tù nhân phải ăn thêm ngô, khoai của vợ Giám thị Mạnh. Mụ này bán ngô, khoai cho trại. Mụ cũng nuôi đàn vịt, bán trứng cho tù nhân qua trung gian tù nhân Đội chăn nuôi, giá cắt cổ. Ở Z30 D, chúng tôi phải ăn sắn lát. Bạn biết sắn lát chứ? Nông dân hai bên quốc lộ số 1 thuộc phạm vi huyện Hàm Tân trồng khoai ḿ, thái từng lát mỏng, phơi nắng đầy đường cho khô cứng rồi đóng bao bố nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Nhà nước bán rẻ cho nhà tù. Nhà tù hầm sắn lát cho tù nhân ăn. Sắn lát ăn với nước muối. Tiêu chuẩn như vầy:
- Sáng, điểm tâm một chén sắn lát đầy có ngọn. Lao động 4 giờ.
- Trưa, một chén sắn lát, một chén cơm. Lao động 4 giờ.
-Chiều, một chén sắn lát, một chén cơm. Ngủ 8 giờ.
Ăn sắn lát thảm hơn ăn bo bo, ăn bắp đá. Với khoai, bắp, sắn, bo bo là thực phẩm lư tưởng. Răng rụng và bao tử loét v́ bắp đá, bo bo, sắn lát.
Thỉnh thoảng, tù nhân bị ăn cá biển ươn cả tuần. Chả là công an kinh tế ngoài quốc lộ bắt trúng cá Phan Thiết chở vào Sài g̣n bán lậu. Bèn phạt. Dân buôn chạy tiền phạt thời gian hạn định không nổi. Đành để công an kinh tế tịch thu. Công an kinh tế bán rẻ rề cho Ban Giám Thị Z30 D. Tù ăn cá thối 7 ngày th́ 7 ngày sau ăn toàn sắn lát. Gạo trừ cá. Ban Giám Thị bán gạo cho dân ngoài quốc lộ. Thỉnh thoảng, tù nhân được phát muồng xanh chua ḷm. Ăn muồng xanh cũng bị trừ phần cơm. Ban Giám Thị rất giỏi kế hoạch kinh tế…nhà tù. Mỗi tháng, một tù nhân bị ăn cắp một kư gạo nhai sắn lát thay cơm, 3000 tù nhân đă đóng góp vào túi Ban Giám Thị số tiền lớn, năm này qua năm khác. Chưa kể đọt buông, cắc kè của hàng ngàn tù nhân được tha “lao động tự giác 10 ngày”. Z30D, bí số của đốn mạt! Nó là thứ kiểu mẫu của gian lận, bịp bợm.
Z30 D có hai nhân vật tù nhân. Ông Paul Nur, Tổng trưởng Bộ sắc tộc triều đại Nguyễn văn Thiệu và cụ Trân (hay Trản), thân phụ của cố thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ông Paul Nur, “con bà phước”, nấu bếp ở Đội cấp dưỡng. Tổng trưởng Paul Nur thường được cán bộ ưu ái cho giết ḅ những ngày lễ lớn. Đền công ông, cán bộ tặng ông da ḅ! Ông đem về treo sàn bếp. Một ngày xấu trời của năm 1982, Tổng trưởng Paul Nur ăn khá nhiều da ḅ hầm. Ông bị śnh bụng. Bác sĩ Nhơn đă về. Bác sĩ Hoàng Cầm măi đi chơi xa. Y tá không biết trị bệnh. Thế là Tổng trưởng Paul Nur về…sum họp với tổ tiên. Cụ Trản thuộc loại lăo thành phản động. Cụ bất chấp kỷ luật của Z30 D. H́nh tưởng một cụ già ngoài 70 tuổi mà c̣n bị đày đoạ ở Đội trừng giới, sẽ hiểu tinh thần bất khuất của cụ.
Thời gian tôi ở Z30 D, hầu như tháng nào cũng được kết quả xổ số. Tháng 7-1980, khá đông sĩ quan cải tạo ở Thanh Nghệ Tĩnht về Z30 D. Có ông thiếu tá nhẩy dù Phạm Đ́nh Cung, hỗn danh Cung củ đậu. Tù nhân cải tạo ở miền Nam vẫn tưởng tù nhân cải tạo ở miền Bắc ngoan cường lắm. Z30 D đă thất vọng nhóm tù nhân về từ Thanh Nghệ Tỉnh. Họ ở khu B. Nhiều lúc tôi muốn văng tục với loài người. Con người không dám phản kháng chỉ mong con người khác phản kháng. Và khi con người ḿnh kỳ vọng bất động, ḿnh thất vọng, ḿnh coi thường! Tôi đă bị nghe những lời b́nh phẩm nặng nề tù nhân Thanh Nghệ Tỉnh của những ông tù nhân Z30 D thuộc loại “bầy tỏ chí khí trong bóng tối “. Tù nhân Thanh Nghệ Tỉnh về không bị biên chế sang các đội cũ của Z30 D. Họ được ở chung với nhau. Và đó là những đội của sĩ quan quân đội tŕnh diện học tập cải tạo. Tháng 9-1980, Đội 27 của tôi gặp sự rắc rối. Bấy giờ Vũ Tiến Đạt đă bị “cất chức” Đội trưởng. Đội trưởng mới Nguyễn văn Thành, sĩ quan cảnh sát tốt nghiệp Viện cảnh sát quốc gia, tác giả vụ bắt ṣng bài tổ chức tại nhà ca sĩ Thanh Thúy, đường Cao thắng và vụ đột nhập ṣng thuốc phiện Tư Cao. Nguyên nhân sự rắc rối như vầy: Tôi nằm giữa Nguyễn văn Hải, trung úy quân đội và Bùi Đ́nh Mừng, phản động hiện hành. Ngô của đội tôi đă ra bắp. Quản giáo chọn người đi canh ruộng bắp. Thư kư đội (tôi quên tên), trung úy không-ảnh, được giao phó công tác canh ngô. Chủ nhật, anh ta về muộn, lúc trại đă điểm danh chiều và tù nhân đă vào “chuồng”, cửa đă khóa. Anh ta đứng ngoài đợi trực trại mở cửa. Nguyễn văn Hải ngứa miệng:
- Sao không trốn luôn đi? Chăm lắm. Trước đây mà chăm một góc thôi, đâu đến nỗi mất nước.
Bùi Đ́nh Mừng vồ được câu “đại phản động” này. Nó vốn thù ghét Nguyễn văn Hải “con bà phước”, v́ Hải ưa nói móc nó. Mừng to họng nhất đội, thích đấm đá và thích chụp mũ “ăng ten” lên đầu người khác. Nó hỏi tôi:
- Anh có nghe ǵ không?
- Nghe ǵ?
- Anh Hải vừa nói.
- Không.
- Tại sao anh không nghe?
- Tôi bận hút thuốc lào và rồi tôi phê…
Họp đội, Bùi Đ́nh Mừng đưa Nguyễn văn Hải vào mục phê b́nh. Nó nhắc nguyên văn câu của Hải. Nó bắt tôi làm chứng. Tôi nói:
- Tôi không nghe thấy ǵ cả. V́ tôi phê thuốc lào. Dẫu tôi nghe thấy, làm chứng hay không là do tôi thích hay không, anh Mừng không có quyền bắt tôi làm chứng. Chứng nhân là ân nhân của pháp luật, không là nạn nhân của pháp luật, anh Mừng hiểu chưa?
Đội trưởng Thành không ghi chuyện này vào biên bản. Bùi Đ́nh Mừng báo cáo quản giáo. Họp đội tại nhà lô. Mừng quyết liệt tố cáo Hải. Tôi vẫn “không nghe ǵ cả,v́ phê thuốc lào”. Phiên họp giải tán. Quản giáo gọi tôi, hỏi riêng:
- Anh Hải có khả năng nói thế không?
- Tôi không nghe ǵ cả.
- Có khả năng nói thôi?
- Tôi biết anh Mừng ghét anh Hải. Khi người ta ghét nhau th́ nhẹ là nặng, ít là nhiều.
Quản giáo bỏ qua vụ này. Tôi thêm hỗn danh Long phê sau khi đă là Long ếch mù. Bùi Đ́nh Mừng không dám sinh sự với tôi. Từ đó, nó hết bảo người này “ăng ten” người kia “ăng ten”. Và “cơ” của tôi bắt đầu lên!
--------------------------------
1
Xin đón đọc Chiến Bại, tiểu thuyết của Duyên Anh viết về những tù nhân trở về đời sống cũ.
ă hội chủ nghĩa. C̣n lâu mới tiến lên xă hội cộng sản. Ông Phạm Văn Đồng đă khẳng định vậy, trong một cuốn sách văn nô viết kư tên ông ta. Con người phải nhục nhằn, ṃn mỏi thêm nữa, thêm măi; phải trường kỳ thống khổ để khi đạt được lư tưởng cộng sản, nó trở thành kẻ mất hết cảm xúc, cảm giác; nó không thèm muốn đến cả hạnh phúc nó mơ ước. Bởi v́, lúc ấy, nó hết là con người. Năm 1848, Engels phóng raTuyên ngôn Đảng cộng sản, tính đến nay, 1987, đă là 139 năm. 139 năm loài người “có” chủ nghĩa và Đảng cộng sản mà chủ nghĩa và Đảng ấy mới chỉ hồ hởi phấn khởi thông báo rằng, đă có những hai công dân hưởng quy chế xă hội cộng sản ở Đông Đức! Nếu thành tích khiêm tốn này chưa đủ nói lên sự “ưu việt” của chủ nghĩa cộng sản “bách chiến bách thắng”, của “đỉnh cao trí tuệ” loài người, nên ghi chú thêm rằng: Hai công dân Đông Đức hưởng quy chế xă hội cộng sản là hai nhà bác học! Mà quy chế xă hội cộng sản là ǵ? Đó là mua sắm ăn uống ở bất cứ nơi nào cũng không phải trả tiền. Đặc biệt không phải… xếp hàng, chen lấn! Như thế, c̣n lâu ngục tù mới rập khuôn cộng sản. Và nó chẳng thể giúp tù nhân hiểu thêm sự thống khổ mới của quy chế ngục tù cộng sản. Nên trại lao cải nào cũng giống trại lao cải nào, nhà tù nào cũng giống nhà tù nào. Đă sống tĩnh ở Chí Hỏa, đă sống động ở Sa ác là đă sống trong bóng tối, ngoài ánh sáng, sống trọn vẹn cuộc đời tù tội không xét xử, không án tích.
Hai mươi năm trước, đọc bài phỏng vấn danh ca Charles Aznavour đăng trên tuần báo Jour de France, sau chuyến đi tŕnh diễn của Aznavour ở Liên Xô về, tôi thấy người danh ca này có nhận xét độc đáo vô cùng.
- Ông vừa tŕnh di diễn ở Liên Xô về?
- Vâng.
- Khán giả Liên Xô thế nào?
- Ở Liên Xô, đă thành công tại Moscou, sẽ hoàn toàn thành công khắp nơi. Tôi đă thành công tại Moscou. Ở Mỹ chẳng hạn, th́ khác. Thành công tại Washington chưa chắc đă thành công tại Houston, có khi, c̣n thất bại tại Los Angeles…
Trong chế độ cộng sản, mọi thứ đều rập khuôn, kể cả khuôn thưởng ngoạn nghệ thuật, khuôn hoan hô, khuôn đả đảo, khuôn nói dối, khuôn hứa láo, khuôn bịp, khuôn đạo đức giả, khuôn chà đạp phẩm cách con người, khuôn tước đoạt nhân quyền, khuôn bắt bỏ tù, khuôn lao cải…. Th́ qua một nhà tủ đă là qua tất cả nhà tù, qua một trại tập trung đă là qua tất cả trại tập trung. Ở Z30 D không có những con gọng vó để tôi được soi sáng thêm cái triết lư sống lội ngược ḍng. Nên tôi nhớ Sa Ác, nhớ sông Ray, nhớ đề lao Gia Định, nhớ khu C1, nhớ Chí Hoà, nhớ khu FG. Tôi có ư nghĩ này: Càng ở những nơi đau khổ nhất, con người càng gần gũi nhau và ḷng người rộng mở, t́nh người thắm thiết. Ở nhà tù, khi anh từ cachot ra, anh được đón tiếp như anh em ruột thịt lưu lạc phương xa trở về mái nhà gia đ́nh… Ở trại tập trung, khi anh từ cachot ra, anh cảm thấy lẻ loi, cô độc dù, đôi bận, anh đă v́ mọi người mà “dấn thân’ vào cachot. Thành ra tôi tương tư nhà tù, tôi thèm được trở lại nhà tù, thèm được ghẻ mủ, thèm được cấp mỗi ngày bốn ca nước, thèm nghe tiếng kẻng gầm gừ đe dọa thân phận làm người… Con người chỉ có thể ngủ vùi trong hoan lạc mà khó có thể ngủ vùi trong thống khổ. Nỗi thống khổ giúp con người thức tỉnh, suy tư truy nă thân phận nó, thân phận dân tộc nó và thôi thúc nó chiến đấu. Thiếu thống khổ bản thân là thiểu cảm thông nỗi thống khổ của tha nhân, đôi khi, c̣n thô bạo dầy đạp lên cả nỗi thống khô của tha nhân, của dân tộc, của nhân loại. Những kẻ chưa một lần thống khổ là những kẻ chưa biết chiến đấu. Những kẻ chưa kể khổ, than khổ, tố khổ lại là những kẻ không biết chiến đấu Nhưng, tệ mạt nhất, vẫn là những kẻ tưởng tượng thống khổ, bêu nhục thống khổ và nhân danh khổ để đấu thầu ḷng yêu nước, sự vinh hoa và một chút tiếng tăm gầy c̣m. Những kẻ này cần thiết phải bị vào nhà tù cộng sản. Để họ vỡ nghĩa thống khổ. Để họ hiểu cái hun hút của một ngày tù. Một ngày thôi. Nói chi một tháng, một năm, sáu năm, mười năm, trọn đời. Sự phán xét phẩm cách, nhân cách của người khác chỉ có giá trị khi chính ta bị bỏ khát ở conex những trưa nắng bỏng, ta há hốc miệng, lưỡi thè ra như chó và ta sẵn sàng liếm từng giọt nước do cai ngục hắt qua kẽ hở của cửa Conex. Những kẻ hăng say luận về nhân cách, về ḷng can đảm thường quên bản năng sinh tồn. Tôi tin rằng, bị bỏ khát trong conex, những kẻ ưa phán xét con người nhất sẽ là những kẻ không thích liếm giọt nước h́nh phạt mà t́nh nguyện quỳ lạy để nốc ừng ực một ca ân huệ có điều kiện sám hối. Chỉ cần một lần xuống hầm phân vục cứt đầy ṛi bằng tay trần, chỉ cần một lần lặn xuống sông kiếm đá, ở Sa Ác, tôi tự cho phép tôi ngồi lên mặt những kẻ hèn mạt chuyên nghề ph́ nọc độc vào nỗi bất hạnh của đồng loại.
Bỗng tôi nhớ Chí Ḥa và Đoàn Kế Tường vô cùng.
° ° °
Người bạn tuổi nhỏ của tôi có biệt tài “sáng tạo” lời ca cho những bản nhạc “cách mạng” và nhạc “Mỹ Ngụy”. Anh ta “chế” lời bản Love Story, tiếc rằng tôi quên hết, chỉ nhớ câu đầu. Tôi nghĩ, chỉ cần một câu là diễn tả trọn vẹn tâm sự của tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng trong các chế độ cộng sản.
Biết vào tù rất khó
mà ḿnh vào tù rất dễ
Ḿnh vào tù rất dễ
mà ḿnh về th́ rất khó
Ba năm rồi đó…
K hi Đoàn Kế Tường nghêu ngao, cả pḥng cười. Cười xong th́ thấm thía. Sống với cộng sản, vào tù thật dễ, thật đông, vào cả làng một lúc mà về thật khó, thật ít, về từng người . Đoàn Kế Tường là vua chế lời ca mới và vua sưu tầm lời ca “phản động” của dân gian. Anh ta đă hát cho chúng tôi nghe bài Đường tầu thống nhất
Năm xưa anh phá núi, em mở đường
xuyên Trường Sơn đồi núi chập chùng
Năm nay cũng bao bàn tay
phá núi trên mở núi dưới
Tự hào là ta anh dũng
Tự hào là những chàng trai
Tuổi thanh niên sức dai Phù Đổng
Cháu ngoan của bác Hồ
đi mở đường thống nhất quê hương….
thành bài Bài ca của dân móc túi
Năm xưa anh móc túi em giật đồ
xa-cảng Miền Tây thành phố Sàig̣n
Năm nay cũng bao bàn tay
móc túi trên luồn túi dưới
Tự hào là dân móc túi
Tự hào là những chàng trai
Tuổi thanh niên trót theo cộng sản
Cháu ngoan của bác Hồ
chuyên giật đồ móc túi nhân dân…
Bài Vàm Cỏ Đông
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có ḍng sông
Anh vẫn gọi với ḷng tha thiết
Vàm Cỏ Đông… ơi…Vàm Cỏ Đông
Thành bài Vùng Bù Đăng.
Ở tận Huê kỳ anh có biết
Quê hương em đếch có ǵ ăn
Em mới dọn đến vùng kinh tế mới
Vùng Bù Đăng hay Bù Nho
Vùng Bù Đăng hỡi vùng Bù Đăng
Sắn ngô nhai măi khốn khổ vô cùng
Mỹ cút đi rồi, chồng học tập muôn năm
Bài Lá đỏ:
Gặp em trên cao lộng gió
Đường Trường Sơn ào ào lá đỏ…
Thành bài Chợ trời:
Gặp em khơi khơi đầu gió
Đường Hàm Nghi ồn ào lính đuổi
Em đứng cạnh cột đèn như con buôn
vai áo nhuộm phong trần
Quần đen, bao nhiêu một cái
Đài xài pin chừng nào mới đổi
Em bán bằng tiền Hồ hay đô-la
hay giá vàng Kim Thành
Chào em, em gái chợ đen, ôi em gái chợ đen
Hẹn gặp em giữa nhà tù
Đoàn Kế Tường thuộc, ít nhất, hai chục bài ca cách mạng lời… hai. Anh ta chế lời bài Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn mới thú vị:
Một ngh́n năm ta đuổi thằng Tầu
Một trăm năm ta đuổi thằng Tây
Hai mươi năm đuổi Mẽo từng ngày
Gia tài của mẹ: gạo độn ngô khoai
Gia tài của mẹ: gạo mốc dài dài.
Dạy con đeo răng sắt mà nhai
Dạy con mua thuốc đau dạ dầy
Ăn sắn con thành chai
Ăn sắn tiêu h́nh hài
Chưa đủ, anh ta chế thêm:
Một ngh́n năm sinh được cụ Hồ
Một trăm năm răng rụng cạp ngô
Hai mươi năm sản xuất từng giờ
Gia tài của mẹ trả nợ Liên Xô
Gia tài của mẹ c̣n cái chuồng ḅ.
Dạy cho con lấy đá mà ăn
Dạy cho con lấy rơm mà gặm
Con sẽ no lầm than
Con sẽ no nhục nhằn…
Tôi đă mơ mộng, nếu thoát đời tù, trốn ra ngoai quốc, xách đàn đi hát dạo những “ca khúc cách mạng” lời “phản động”, đọc ca dao và kể chuyện tiếu lâm cộng cho đồng bào hải ngoại nghe. Giấc mộng của tôi đă cháy. Bây giờ, nó thành tro tàn. Người ta không hiểu nổi giá trị chống cộng sâu sắc của dân gian. Và người ta đă, đang, tiếp tục chống cộng sản theo cung cách “mới”, cái thứ “mới” làm héo hon niềm tin của người ở lại, của cả kẻ ra đi, cái thứ gọi là mới mà đă cũ mèm, lạc hậu, trong khi, cộng sản không ngừng “sáng tạo” những thủ thuật lưu manh. Mỗi thủ thuật cộng sản phóng ra, chúng ta chới với, chúng ta chụp mũ lẫn nhau lung tung, chúng ta chổng chúng ta, chúng ta chia rẽ nhau và chúng ta giết nhau. Riêng cái thủ thuật chấp nhận cho người Việt Nam rời khỏi Việt Nam sau 1975, bất kể chính thức, bán chính thức hay vượt biên, vượt biển, được về thăm Việt Nam, du lịch Việt Nam dễ dàng, cộng sản đă được cả ch́ lẫn chài. Ch́ là ngoại tệ và tuyên truyền. Chài là chúng ta gấu ó nhau, ngờ vực nhau và vô hiệu hóa tị nạn chính trị. Lúc nào và ở đâu, cộng sản cũng thâm độc. Sau ngày 30 tháng 4-1975, chúng ta nhận diện rơ những tên nằm vùng gộc, những tên ăn cơm quốc gia ngon nhất, những tên chống cộng nỏ mồm nhất và chụp mũ cộng sản lên đầu người quốc gia kỹ nhất. Những tên nằm vùng này nằm trong mọi lănh vực, mọi cơ cấu quốc gia. Người ta sẽ nh́n rơ “đồng nghiệp” nằm vùng của chúng ở Hoa kỳ, ngày nào đó, khi Hoa kỳ bang giao với cộng sản Việt Nam. Người ta sẽ ngỡ ngàng. Người ta sẽ có kinh nghiệm. Nhưng kinh nghiệm đó không c̣n cơ hội… rút tỉa nữa. Cũng chẳng ai thiết rút tỉa nữa. Nói tóm lại, cộng sản Việt Nam đánh chúng ta mọi mặt, đánh rộng răi, đánh kiểu mới; chúng ta thu hẹp sự đánh cộng sản vào từng Mặt trận, từng Lực lượng, từng Hội đoàn… Chúng ta đánh chúng ta kỹ hơn chúng ta đánh cộng sản. Cộng sản chuyên chế, cấm đối lập. Chúng ta cũng cấm… đối lập, dù chúng ta hô hoán chiến đấu cho tự do, dân chủ. Năm 1985, ở Mỹ, ở Úc, ở Âu, chúng ta vẫn chống cộng kiểu cũ, mốt 1954 ở Việt Nam. Vẫn vậy, những cuộc tuần hành đả đảo cộng sản ngày quốc hận 30-4-75 như ngày quốc hận 20-7-54, càng năm càng thưa dần. Vẫn vậy, những trang báo, những h́nh ảnh mô tả Hà nội, Sài g̣n hôm nay nghèo đói, cúp điện. Vẫn vậy, những buổi diễn thuyết hiếm hoi bàn về cái thế tất thua của cộng sản một cách khơi khơi. Cái mới mà chúng ta mong mỏi là tư tưởng chiến đấu thật mới, thật thích ứng với người Việt lưu vong để tận diệt cộng sản giải phóng quê hương th́ chưa hề có. Nhưng đă có những Hội Nghị và Nghị Hội với những khuôn mặt cũ mèm không bao giờ biết xấu hổ. Xin làm ơn ghi nhận: Cộng sản Việt Nam đă đưa ra nhiều khuôn mật thật mới. H́nh như ít ai trong chúng ta “bi quan” nghĩ rằng, chúng ta không được phép thất bại, không c̣n th́ giờ làm lại nữa v́ chúng ta “lăo thành” rồi. H́nh như, tất cả đều “lạc quan” ḿnh c̣n trẻ lắm, sau ḿnh là đại hồng thủy nên đă thất bại liên miên, đă làm lại liên miên và chưa chịu tỉnh ngộ những kẻ đă hết thời th́ không thể tạo thế.
Hôm nay là thế của tuổi trẻ dĩ văng vằng vặc trăng sao, hiện tại hừng hực mặt trời, thời của sư tử trẻ không c̣n là thời của mèo già. Tuổi trẻ sẽ tạo ra thế. Nhiệt t́nh, tự phụ, thông minh, kiến thức và lương thiện của tuổi trẻ tạo ra cái thế chiến đấu mới để chiến thắng cộng sản. Nhưng, tuổi trẻ, anh ở đâu, thần tượng của tôi, hy vọng của dân tộc? Anh cũng c̣n chưa có mặt tại Nghị Hội, nói chi anh là lănh tụ. Mà tôi, tôi chưa ngu đi lạy bọn mèo già hen suyễn để chúng nó “thương t́nh” cho tôi ân huệ tŕnh bầy sự chống cộng sâu sắc của đồng bào quốc nội và đồng bào quốc ngoại. Bởi, tôi biết mèo già sẽ từ chối. Chúng nó không thích ai chổng cộng sản hay hơn chúng nó. Chúng nó độc quyền hen suyễn kḥ khè chống cộng sản.
Một triệu bài báo viết về sự nghèo đói của thủ đô nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam không hơn một bức hí họa không lời của dân gian vẽ trên tường rêu của Hà Nội. Bức tranh rất đơn sơ: Cái xe đạp không chuông, không “phanh”, không đèn, không “gác đờ bu” , “gác đờ sen”, chỉ có có mỗi cái “poọc ba ga” chở ba bó rau muống. Mỗi bó rau muống được ghi chú bằng lời một bài hát ca ngợi Đảng: Cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau. Vậy th́ ba bó rau muống trên cái “poọc ba ga” của cái xe đạp tam tứ ngũ lục thất bát. . .vô, bó thứ nhất cho ngày nay, bó thứ hai cho ngày mai, bó thứ ba cho muôn đời sau , tưởng đă đủ “chửi cha” Đảng và chủ nghĩa cộng sản. Giá trị chống cộng của bức hí họa là nó đánh cộng sản ngay trên đất cộng sản, nó đánh Đảng, đánh bọn thống trị bóc lột quần chúng và làm ngu dốt quần chúng. Nó không đánh nạn nhân của cộng sản, những người sống trong quỹ đạo cộng sản và bị trở thành công cụ tội nghiệp của cộng sản. Nó không đánh con người khờ khạo nói ngọng .
Đến câu chuyện tiếu lâm sau đây th́ tôi quả quyết quốc ngoại chống cộng thua hẳn quốc nội chống cộng về mặt tư tưởng: Unesco tổ chức thi tranh, giải thưởng lớn, đề tài “Nạn đói và người đói”. Các nước trên thế giới đều được gửi tranh dự thi, bất kể theo chế độ chính trị nào. Ṿng thứ nhất, tranh của họa sĩ Hoa kỳ bị bại. Ṿng nh́: các nước Tây Âu. Ṿng ba: các nước Nam Mỹ, Phí Châu. Ṿng tư: Liên Xô và các nước Đông Âu. Cuối cùng, Unesco tuyên bố tranh của họa sĩ nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam đoạt giải thượng ngoại hạng. Pḥng triển lăm khai mạc chỉ treo bức tranh thuộc loại “siêu phẩm” trúng giải. Loài người háo hức đi xem và đều trầm trồ ca ngợi là thể hiện đúng “Nạn đói và người đói” ở các nước cộng sản. Bức tranh diễn tả một công dân Việt Nam trần truồng, gầy đét, ngồi khom lưng rặn ra. Rặn hoài mà phân không ra. Rặn đến màng nhện mọc kín đít, trùm mông mà phân vẫn không ra. V́ có ǵ ăn đâu mà tiêu hóa! Đói thế là đói ở cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiếu lâm trên được ca dao phụ họa:
Từ khi ta có cụ Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào
Và
Ai sinh ra cái củ ḿ
Hỏi để làm ǵ, đáp để mà ăn
Nước nhà măi măi khó khăn
Dân ḿnh măi măi phải ăn khoai ḿ
Tôi không mấy tin tưởng vào “sự nghiệp chống cộng” của những kẻ thiếu nhiệt t́nh và chưa hề thể nghiệm nỗi thống khổ kinh qua đoạn trường cộng sản. Những lănh tụ mèo già hen suyễn kḥ khè chống cộng chỉ khiến tôi buồn nôn. Từ trong ngục tù tôi đă nghĩ rắng những cái sẹo cộng sản trên thể xác đàn anh, những dấu ấn cộng sản khó phai nḥa trong tâm khảm đàn anh, sự lương thiện chiến đấu của đàn anh cộng với nhiệt t́nh và ḷng tự phụ của đàn em, chắc chắn, sẽ làm nên đại sự. Đàn em đủ sức công kênh nhau hái trái chín vàng mơ ước nấp sau chùm lá nào đó trên cây cao mỏi mắt chờ đợi đàn anh hướng dẫn. Nhưng đàn anh biết trái chín vàng mơ ước ở chỗ nào mà không chịu chỉ hay đă chỉ láo, chỉ bậy để đàn em múa tay vu vơ rồi tuyệt vọng và sa đọa. Tôi nhớ Đoàn Kế Tường, nhớ Chí Ḥa và nhớ vô cùng những con sư tử lăng mạn tôi đă gặp ở đề lao Gia Định… Dù bị quốc gia giả đạo đức, dù bị cộng sản đánh dập đánh vùi và gắn cho tước hiệu “nhà văn du đăng”, đọc lại Điệu ru nước mắt, Sa mạc tuổi trẻ, tôi vẫn thấy tự hào là đă nói lên được nỗi niềm u ẩn của tuổi trẻ. Tôi lại tiếp tục nói giùm tâm sự của họ, của tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-1975, khi tôi gặp họ trong tù, ngoài đời; trong nước, ngoài nước. Tuổi trẻ trong nước đă kinh qua thống khổ cộng sản. Tôi tin rằng tuổi trẻ ngoài nước cũng đă kinh qua thống khổ cộng sản hoặc đă cảm thông nỗi thống khổ cộng sản mà dân tộc đang ngậm ngùi chịu đựng.
Thế th́, giấc mơ của tôi không tàn. V́ chúng ta c̣n tuổi trẻ, c̣n nhiều tuổi trẻ.
CHƯƠNG 15
Những trang đă viết về tuổi trẻ,
cho tuổi trẻ suy tư từ ngục tù.
Những ai đă trọ ở quán Đề Lao Gia Định vào những năm 1975, 1976 và 1977 đều biết mặt hay biết tên những người tuổi trẻ Sài g̣n đánh cộng sản, bị khép tội phản động, những người tuổi trẻ Sài g̣n mà tôi gọi là những con sư tử non lăng mạn và cô đơn. Từ cuối 75 tới giữa 76, bầy sư tử lăng mạn lần lượt dính cạm bẫy và hiên ngang vào tù. Con trai. Con gái. Tất cả đều ngẩng mặt thách thức cachot, xiềng xích. Tất cả đều thắp lửa tím rực rỡ làm kẻ thù nể nang và làm đàn anh cúi mặt.
° ° °
Phẩm cách tuổi trẻ
Tôi chưa thấy cái kiêu hùng của Bà Trưng, Bà Triệu, của Cô Giang, cô Bắc. Nhưng tôi đă thấy, tận mắt, các cô sinh viên trường Luật, các cô nữ sinh trường Lê Văn Duyệt, Gia Long chân mang xiềng mà miệng vẫn mỉm cười.
Tôi chưa thấy cái anh dũng của Phạm Hồng Tháỉ, của Nguyễn Thái Học, của Kư Con, của Trần B́nh Trọng. Nhưng tôi đă thấy, tận mắt, các cậu sinh viên Vạn Hạnh, các cậu học sinh Chu văn An, Nguyên Trăi… tay đeo c̣ng mà mắt vẫn mộng mơ.
Họ biến thành khách hàng thượng hạng sáng giá nhất của Công Ty Khách Sạn Nhà Tù Cộng Sản. Người trẻ măng, 16 tuổi. Người trưởng thành, 22 tuổi. Tôi nh́n các cô ra vào cachot và in dấu chân tuyệt đẹp trên hành lang khu C1 . Tôi nh́n các cậu ra vào cachot và gửi niềm tin chiến đấu thánh thiện trong gió quê hương. Rồi, hân hạnh biết bao, tôi được nằm chung với các cậu qua các pḥng giam của các khu Cl và C2. Và khu FG, AH, BC của đỉnh cao tù ngục Chí Hoà.
Tôi quen thân Đặng Hữu Trí 16 tuổi, hiền lành và rất dễ thương. Đặng Hữu Trí can tội dám lập một ṭa án xử Hồ Chí Minh. Ṭa án vỏn vẹn ba người. Trí đóng vai chánh án. Hai bạn của Trí, một công tố viện, một luật sư . Bị cáo Hồ Chí Minh chỉ là bức chân dung Người, in offset do nhật báo Sàig̣n giải phóng ấn hành. Luật sư cố gắng biện hộ tội ác cho Hồ Chí Minh. Công tố viện buộc tội khắt khe. Chánh án Trí tuyên án xử tử Hồ Chí Minh. Chân dung Bác bị châm lửa đốt ngay tại ṭa, một lớp học vắng vẻ. Ṭa bế mạc. Câu chuyện được truyền tụng trong bạn bè. Rồi lọt tai công an. Chánh án, công tố viện, luật sư bị c̣ng tay, bịt mắt dẫn đi. Luật sư, nhờ bênh vực Hồ Chi Minh, được tha về, sau một tuần lễ chấp pháp. Công tố viện, chánh án nằm cachot dài dài. Mà vẫn tự hào ḿnh đă dám xử tử Hồ Chí Minh.
Tôi quen thân Hoàng Sơn Trường, 18 tuổi, cận thị, can tội chống phá “cách mạng”. Sài g̣n mất, Trường mất mát nhiều thầy, cô, bạn bè, kỷ niệm. Cậu buồn bă đi t́m phục quốc. Chẳng gặp ai, cậu ghé chùa An Lạc, rủ một chú tiểu tính chuyện nước non . Chú tiểu – tôi quên tên – hẳn đă đọc Tiêu Sơn tráng sĩ, bèn dậy t́nh sông núi. Vậy là chùa An Lạc, nằm phía sau đường Phạm Ngũ Lăo, Sài g̣n, biến thành trụ sở của “tổ chức”! “Tổ chức” nhiều nhiệt t́nh nhưng lắm vụng dại. Và “tổ chức” bị lộ. Hoàng Sơn Trường và An Lạc tráng sĩ vào tù . Mẹ của Hoàng Sơn Trường “nằm vùng” tới chức Phó chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh Sông Bé. Trường nằm cachot, hai tay bị c̣ng chéo sau lưng liên tiếp 38 ngày đêm v́ khước từlàm việc. Mẹ Trường tới đề lao, dụ dỗ cậu khai báo “đồng bọn” để được tha ngay hoặc mẹ cậu sẽ đoạn tuyệt cậu. Trường không khai báo. Cậu bị gia đ́nh bỏ rơi. Và cậu không hề than thở.
Những cậu học sinh như Đặng Hữu Trí, Hoàng Sơn Trường, tôi đă gặp. Thí dụ thêm Đặng Cơ Bản, Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượng, Trí loa, Trí ghẻ, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long… Các cậu ấy anh hùng trong hành động và biết giữ ǵn phẩm cách khi sa cơ, thất thế. Tuyệt đối tôn trọng Nội quy nhà tù. Không lèm bèm trong bóng tối. Không chống đối rẻ tiền. Biết kính mến người tuổi tác và sẵn sàng giúp đỡ người bệnh hoạn. Điều mà tôi suy nghĩ và cộng sản suy nghĩ hơn là động lực nào đă quyến rũ các cô các cậu Sài g̣n xuống thuyền một cách lăng mạn thế! Trước khi mời cộng sản chiếm Sàig̣n, người Mỹ đă tận dụng các hệ thống tuyên truyền vĩ đại của ḿnh để hù dân tộc Việt Nam, rằng cộng sản sẽ giết hết dân Sài g̣n, sẽ có “biển máu” ở miền Nam. v.v… Do đó, bọn thống trị hèn mạt, bọn tướng lănh đào ngũ, bọn dân biểu, nghị sĩ bù nh́n, bọn làm giầu bằng chiến tranh, bọn lănh tụ xôi thịt…đă cuốn gói chạy thật nhanh, dù bị lính Mỹ đạp đá như súc vật, ở phi trường Tân Sơn Nhất và ở Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ! Bọn hưởng thụ trên xác chết của lính chiến, bọn nhẩy đầm trên tiếng khóc của quả phụ, bọn uống sâm banh nước mắt của cô nhi, bọn cười đùa nỗi khổ của đồng bào, bọn kên kên rút ruột, mổ mắt tổ quốc, đă cuốn gói chạy thật nhanh để lại toàn bộ “chiến hữu” cho cộng sản quản lư, trong tù và trại tập trung khổ sai lao động. Tất cả đều đă tan ră. Bức dư đồ rách bươm . Đàn trẻ của Tản Đà, đau đớn thay, lại toàn lũ lănh đạo chỉ biết chạy, chạy và chạy. Những kẻ không thích chạy trốn, không thèm chạy trốn mà c̣n đ̣i bồi vá bức dư đồ rách, đẹp đẽ thay, lại là tuổi trẻ Sài g̣n sau 30-4-1975.
Người cộng sản đặt nghi vấn: Tuổi trẻ Sàig̣n chống chúng tôi với mục đích ǵ? Họ có bị tước đoạt quyền bính đâu mà đ̣i phục hồi quyền bính cũ? Mà họ đă làm ǵ có quyền bính. Giữa chúng tôi và họ chưa nợ nần ǵ nhau. Tại sao họ chống chúng tôi? Nghi vấn ấy đă làm điên đầu cộng sản. Tuy rất cay cú tuổi trẻ nhưng họ phải kính phục. Những câu trả lời của tuổi trẻ Sài g̣n hôm nay nằm trong Sỏi đá ngậm ngùi, Bầy sư tử lăng mạng, Hồn say phấn lạ. Nên nhớ thêm rằng, trong nhà tù cộng sản tôi đă gặp khá nhiều tổng trưởng, thủ tướng, bộ trưởng, sư đoàn trưởng! Rặt bọn thèm quyền bính phong chức tước cho nhau và tự phong. Rồi đi tù ! Tuổi trẻ Sài g̣n không xuống thuyền v́ chức tước, v́ quyền bính. Họ mới đích thực là lănh tụ của tôi. Phần c̣n lại của đời tôi, tôi sẽ dành để ca ngợi họ. Nhiều người đă chết. Nhiều người đă về nhà với bệnh hoạn. Riêng và duy nhất Bầy sư tử lăng mạn, gồm 28 người, dưới sự lănh đạo của Lương Việt Cương, hiện đang nằm dưới hầm đá của trại Nam Hà B, Hà Nam Ninh (trại Đầm Đùn cũ). Chẳng một ai ở ngoài nước biết đến họ, dẫu người ta hô hào chống cộng sản, kháng chiến và tôn vinh vô số liệt sĩ. H́nh như, những người tuổi trẻ dấn thân vào cuộc chiến đấu mới cũng chẳng thấy cần thiết phải có sự biết đến của những ai đang “âm mưu” chống cộng sản, ở ngoại quốc, dĩ nhiên. Trước hết, tuổi trẻ Việt Nam đă thực sự trưởng thành. Để tự làm cái mũ đội lên chính đầu ḿnh. Thế hệ tuổi trẻ làm guốc cho lănh tụ giả h́nh mài ṃn vẹt trên đường công danh đă chấm dứt. Ở Sàig̣n, đừng tưởng dân chúng c̣n ham nghe những tiếng nói chết vọng về từ bên kia Thái B́nh dương. Đừng tưởng nữa và nên im lặng. Giữa tiếng nói sống và tiếng nói chết đă là một phân ranh đánh dấu một thời đại. Thời đại của chống cộng rầm rộ và ồn ào đă vô hiệu quả. Những hô hoán chống cộng là tiếng nói chết. Nó đang buồn hắt hiu bên kia ranh giới của ba mươi năm cũ. Bên đây ranh giới, tiếng nói sống quyến rũ và tích cực: Đánh cộng sản. Đánh bằng nhiệt t́nh và ḷng tự phụ. Đánh cộng sản để thắng cộng sản. Đánh cộng sản không mưu cầu địa vị, công danh; không mộng mơ cái chức lănh tụ hư ảo. Đánh cộng sản v́ hạnh phúc của dân tộc, v́ quyền sống của con người và thản nhiên bước vào tù ngục để bị đầy đọa đến chết ṃn.
Nhưng, từ đó, từ khởi sự của tuổi trẻ Sàig̣n 30-4-75, là một thời đại mới, thời đại đánh cộng sản; thời đại mời gọi thương yêu gần gũi, thời đại ngăn cấm tàn sát, tù ngục, tập trung sau chiến thắng. Và tôi, người nghệ sĩ, tôi xin phép được đứng trong thời đại mới- dù tôi ở Paris, ở Washington hay ở Sài g̣n. Tôi đặt hết niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam, bất kể lưu vong hay không lưu vong, thế hệ tuổi trẻ biết sáng tạo trong đấu, nhân danh hạnh phúc dân tộc, tự lên ngôi để vừa đánh cộng sản vừa học cách đánh. Nhị thập bát tú, 28 con sư tử non trong Bầy sư tử lăng mạn , như những lănh tụ của tôi, những con người đích thực giải thoát quê hương, không cần ai nghĩ tới cái chết của ḿnh, không cần ai quyên tiền đóng góp, không cần cả một nén hương tưởng niệm.
(Trước khi vào Sỏi Đá Ngậm Ngùi)
Nam Á Paris 1985
° ° °
Tư tưởng mới của tuổi trẻ
Tôi đứng dậy, ra tận cửa, nh́n bên ngoài qua ô cửa gió. Đêm buồn bă. Sân cỏ ướt đẫm sương khuya. Dẫy tập thể, đèn néon sáng trưng. Các pḥng tù nữ, mọi người đang ngủ trong những cái mùng giăng thấp lè tè. Ở pḥng bệnh lao, một vài ông già ôm ngực ho. Từng chuỗi tiếng ho quằn quại cơ hồ những băng đạn quạt vào cuộc đời khốn khổ. Con đường hệ lụy, không ai ngờ lại có những nhà tù và những người tù chẳng hiểu ḿnh can tội ǵ. Người ta sinh ra, cố sống thật lương thiện với ḷng ḿnh mà cam đành nằm ngục. Nếu người ta biết gian dối, người ta chấp nhận triết lư sống của loài cỏ đuôi chồn, có lẽ, yên thân hơn. Khổ nỗi, những người quá lương thiện thường bất b́nh những kẻ gian lận trong các tṛ chơi tư tưởng. Và, do đó, mới sản sinh ra loại tù nhân tư tưởng. Anh không chấp nhận một quan điểm nào đó của một người nào đó, nếu người ấy chưa nắm quyền bính, anh sẽ bị bôi bẩn, sẽ bị truyền khẩu hạ nhục, sẽ bị rỉ tai vấy nhơ; nếu người ấy nắm quyền bính, anh sẽ bị bỏ tù, sẽ bị giết. Người ta đă chống đối tư tưởng của nhau và người ta đă giết nhau theo cung cách ấy. Nhưng ít ai nghe tiếng ho quằn quại trong ngục thất đêm khuya, những tiếng ho không gợi niềm trắc ẩn và không đánh thức nổi lương tri của con người.
Trước đây, tôi sống rất hời hợt, tôi đă sống với h́nh thức của đời sống chứ chưa hề sống với nội dung nó. Mỗi kinh qua của lịch sử là mỗi kinh nghiệm tuyệt vời. Nhiều thứ phải chết cho nhiều thứ sống lại. Những thứ chết là ḷng ích kỷ, sự ỷ lại, tâm hồn vọng ngoại, thói tị hiềm và mưu cầu hạnh phúc riêng tư. Những thứ sống lại là nhiệt t́nh, ḷng tự phụ, sự can đảm, niềm tự tin và ước mơ xây dựng hạnh phúc cho mọi người. Tôi thức tỉnh do lịch sử sang trang bất ngờ, nhưng tôi khôn lớn , tôi biết nh́n vào nội dung cuộc sống nhờ những đêm im lặng hăi hùng trong các thứ cachot. Cuộc sống vô tận, tôi mới chỉ ngốn hết ba mươi trang. Tôi chưa hiểu ḿnh sẽ sẽ đọc đến trang thứ bao nhiêu. Thật ḷng, tôi muốn đọc tới trang cuối cùng. Nhiều bạn bè tôi đă di tản trước ngày 30-4-1975. Họ đang có mặt ở Mỹ, ở Pháp, ở Gia Nă Đại . Tôi không biết tâm trạng họ ra sao, nhưng biết chắc họ đă thỏa măn vật chất.
Đời sống được định nghĩa thế nào? Nếu nó đă được định nghĩa là sự thụ hưởng th́ mọi kinh qua của lịch sử đều vô ích, th́ những người di tản qua Mỹ, qua Pháp phải cám ơn cộng sản. Nhờ cộng sản thôn tính miền Nam họ mới có cơ hội xa quê hương, có nhà cao cửa rộng, có xe hơi chạy vung vít, có những đêm nhảy đầm tíu tít và có những giọt nước mắt cay thuốc lá gửi về “xót xa cho những người ở lại”. Ngay thẳng mà nói, nhiều người di tản và vượt biển phải cám ơn cộng sản vô vàn. Đời sống tăm tối của họ, sự ngu dốt của họ tại quê nhà đă rực rỡ và sáng giá tại quê người. Và họ đă dám âm mưu cả chuyện về giải thoát chúng tôi! Buồn cho họ, đời sống đă không bao giờ được định nghĩa là sự thụ hưởng vật chất. Những miếng ngon nhất và những miếng tồi tệ nhất đều tiêu hoá giống nhau và đều có mùi vị giống nhau. Miếng ngon có thể làm cho con người béo mập, ph́ nộn, đồng thời, nó cũng làm con người ngu si, ích kỷ, hẹp ḥi, ti tiện. Miếng tồi tệ – miếng cơm tù đày, chẳng hạn – làm gầy ṃn con người nhưng lại giúp con người khôn ra, lớn lên, đầy đủ chiều cao, chiều rộng, chiều sâu; giúp con người từng trải, độ lượng và cao thượng. Vậy th́ đời sống chỉ có định nghĩa chính xác với ai dám sống, sống đến tận cùng và can đảm chịu đựng mọi thử thách cam go của đời sống. Bởi v́, sau những thử thách khốn cùng, con người sẽ để lại một ư nghĩa cao cả cho những đời sống kế tiếp.
Tôi không có tham vọng ghê gớm ấy. Đời sống đẩy tôi vào sự thử thách quá ngỡ ngàng đối với tôi. Lịch sử dẫn tôi ra khơi, bỏ tôi loay hoay giữa cuồng sóng. Tôi phải tự lo lấy. Không ai giúp tôi cả. Không ai an ủi tôi cả. Tôi nhập cuộc cũng không cần đ̣i hỏi những đền bù này nọ. Tôi chiến đấu cần thiết như tôi thở, tôi yêu. Thế thôi. Lăng mạn và cô đơn. Âm thầm và khiêm tốn. C̣n ai thích hiểu sao, tùy ư họ. Tôi không bao giờ là chiến hữu của những người trong trận tuyến hư ảo, những người đang cổ vơ phục hồi cái dĩ văng tanh ươn, mục ră. Nếu chiến đấu để sống lại tháng năm buồn tênh cũ, thà chấp nhận cái hiện tại rạc rài này c̣n hơn. Tôi cũng chẳng bao giờ là chiến hữu của những người hiếu sát hung hăng đ̣i giết hết quân thù. Thời đại của tàn sát đă cáo chung. Không có thứ hạnh phúc nào tưới bằng máu cả. Những kẻ toan tính thọc huyết kẻ thù như thọc huyết heo là những kẻ ngu xuẩn, hắc ám và dốt nát; là những kẻ toan tính thiết lập ở quê hương Việt Nam những ḷ sát sinh ghê tởm hơn cả những trại tập trung lao cải. Tôi chống sự man rợ từ mọi phía và tôi thành thật nói rằng, khi lịch sử đă sang trang có nghĩa là gánh hát đă ră đám, đào ca, kép hát và hề đă bị sa thải. Không ai để cho bọn đào kép cũ chơi tuồng mới nữa. Dân tộc đă chán nản họ.
Chỉ c̣n những đứa vô liêm sĩ mới tự hoá trang, mũ mảng cân đai diễn tṛ phục hồi dĩ văng. Và cũng chỉ c̣n những đứa cắn hạt gạo chưa vỡ mới cổ vơ cái tṛ hề rẻ tiền ấy. Chúng tôi dấn thân v́ không muốn bị tách rời khỏi dĩ văng của ḿnh. Dĩ văng của chúng tôi, dứt khoát, không nằm trong dĩ văng hèn mạt của hai mươi năm lịch sử ô uế miền Nam, của ba mươi năm lịch sử ô uế miền Bắc. Nó ở trên tất cả. Nó đ̣i hỏi kép mới, tuồng mới. Nó đ̣i hỏi tẩy sạch những trang lịch sử đầy vi trùng mác xít của bọn lănh tụ giả danh, của lũ lănh tụ tôi mọi tư bản. Nó đ̣i hỏi một tương lai thật mới, thật lạ, thật nhân bản. Nó muốn dân tộc đoàn tụ và yêu thương . Hàng chục ngàn người tuổi trẻ Sàig̣n, bầy sư tử non của thời đại, đang có mặt trong các ngục tù cộng sản, đă xuống thuyền v́ nó. Sư tử không rống, như đào tàn tạ nhan sắc, như kép hoen rỉ giọng ca. Sư tử âm thầm và khiêm tốn. Sư tử lăng mạn và cô đơn. Ư nghĩa cao cả của chiến đấu là, hăy trực diện đương đầu với quân thù, hăy chấp nhận trừng phạt của quân thù, không kêu cứu, không rên siết, không nghĩ thất bại, không màng thành công. Ư nghĩa đó làm sao t́m được ở bọn chạy trốn, bọn đào ngũ trước lệnh đầu hàng. Ở bất cứ không gian và thời gian nào, bọn tiêu bạc giả vẫn ồn ào hơn những người tiêu bạc thật, và, đôi khi, tiếng nói của chúng khỏa lấp tiếng nói của người khác bằng bạc giả của chúng tung ra.
Tôi trở về chỗ nằm, đợi chờ giấc ngủ. Con cắc-kè già trên cây me góc sân cọ cựa cổ họng và buông những tiếng buồn thảm. Đêm cachot, nghe cắc-kè kêu, h́nh tưởng vô vàn những đổ vỡ, mất mát. Cuộc chiến hai mươi năm kết thúc thật phũ phàng nhưng cũng thật lạ lùng. Vớ những người Việt Nam chân chính muốn tái tạo một xă hội lương thiện, tốt đẹp th́ sự kết thúc của cuộc chiến là một vận hội mới. Nó bứng tận cội rễ giai cấp thống trị bất lương và gian manh. Nó phơi bầy rơ rệt chân tướng của bọn tướng lănh “pạc-ti-dăng”, gái, rượu, ăn cắp, buôn thuốc phiện, chứa thổ đổ hồ. Nó tước đoạt hết quyền uy kinh tế của lũ tư sản mại bản Chợ Lớn, thứ quyền uy từng rút máu và gặm thịt nhân dân Việt Nam và thông đồng với Cộng Sản. Nó đẩy đám làm giầu trong chiến tranh, làm giầu trên nghĩa trang quân đội vào tù ngục. Nó d́m bọn cầy cáo, gia nô, hạc gỗ xuống đất đen. Đồng thời nó lay động tâm hồn thật của dân chúng. Nó kêu gọi vất bỏ ích kỷ, ươn hèn. Nó mời gọi đùm bọc, yêu thương. Nó soi sáng ư nghĩa tự do, dân chủ, đau khổ và hạnh phúc. Nó cụ thể những ǵ đă là trừu tượng. Nó kích thích những giọt nước mắt và vuốt ve nhiệt t́nh. Không cần nói Cộng Sản gian ác, thú vật nữa. Bầy quỷ đă vào thành phố. Và ngay cả con nít cũng xa lánh, ghét bỏ. Người Việt nh́n rơ cả trái đất để làm lại miếng đất cua ḿnh. Chuyến đi trăm năm của người Việt đă quá xa, quá cay đắng. Bây giờ là lúc trở về. Trở về từ bước thứ nhất thong thả, vững chắc. Trở về từ ư nghĩ mới, tâm hồn mới, tư tưởng mới. Những kẻ ôm khư khư cái hào quang đắc thời nô bộc không thể trở về. Thời đại của khuyển Nho, khuyển Tây, khuyển Nhật, khuyển Mỹ đă đăng cáo phó. Và sắp đăng cáo phó thời đại khuyển Nga, khuyển Tàu.
Đă vắng mặt chính quyền trên đất nước này, lâu rồi. Chỉ có phỉ quyền và ngụy quyền. Một bên ăn cướp, một bên ăn cắp. Cả hai đều là tay sai của ngoại bang. Cả hai đều tồi tệ, đốn mạt. Số phận của dân tộc chúng ta, bao nhiêu thế hệ tuổi trẻ, nằm trong tay bọn ăn cướp và bọn ăn cắp. Lịch sử dâng hiến chúng ta vận hội mới, lịch sử lột mặt nạ phỉ quyền, lịch sử đào thải ngụy quyền. Chúng ta có thể làm chính quyền rồi đấy. Cả dân tộc đang làm chính quyền trong ngục tù bao la và trong ngục tù giới hạn. Hạnh phúc của người Việt Nam không thể có từ nước miếng ly hương, từ sự mô phỏng áo quần, khăn rằn lố lăng khờ khạo, từ champagne tuyên ngôn, tuyên cáo. Mà phải khởi sự tù bát cơm độn ngô, khoai, sắn, từ những giọt mồ hôi cưỡng bức rơi xuống luống cầy; từ nỗi khát sữa của em thơ; từ nỗi thèm gặp con trong tù của mẹ già; từ những cái ǵ khắt khe, quái đản đă từng phút diễn ra trên khắp quê hương, đang từng phút đè nặng lên thân phận dân tộc Việt Nam.
Sự kết thúc của cuộc chiến hai mươi năm đă làm nhiều người lớn lên, đằm thắm, thiết tha; nhưng cũng làm nhiều người bé đi, giả tạo, hời hợt. Nghĩ mà thương những người lính của chúng ta đă chết anh dũng ở chiến trường. Những con người bé nhỏ chưa để họ yên nghỉ dưới mồ. Kẻ thù đă quật mồ mả họ, san bằng nhiều nghĩa trang của họ, bêu nhục và khu trừ vợ con họ. Những con người bé nhỏ c̣n nỡ nhân danh xác chết tuyệt tích nấm mồ của họ, tính chuyện mưu bá đồ vương. Những con người bé nhỏ không thích làm chính quyền. Với họ, có lẽ, làm chính quyền nhiêu khê quá. Họ phải khởi sự từ số không . Mà khởi sự từ số không th́ họ không ra ǵ cả. Do đó, họ khư khư cái dĩ văng phù phiếm, xúm nhau lại đánh bóng nó thêm, mô phỏng tṛ chơi của phỉ quyền, hăm hở trong cuộc phục hồi quyền bính dĩ văng, phục hồi ngụy quyền, phục hồi rác rưởi và cóc chết. Tôi dấn thân để đóng góp đôi chút vào công cuộc tạo dựng một chính quyền cho xứ sở, để được sống b́nh yên chung quanh những người Việt Nam hiền lành, lương thiện, được tuân lệnh những người cai trị sáng suốt, hiền lành, lương thiện. Ngoài ra, tôi không tơ hào ǵ cả. Bởi v́, lịch sử vừa mới dậy tôi, tất cả đều phù ảo, trừ hạnh phúc vĩnh cửu của mọi người.
(Ư nghĩ của cô Lan trong Sỏi đá ngậm ngùi -
Nam Á Paris, 1985)
° ° °
Thư cho tuổi trẻ dấn thân
Em Hoàng Sơn Trường,
Anh không biết em c̣n sống dưới hầm đá biệt giam ở trại Đầm Đùn hay đă chết rồi. Nếu em c̣n sống, em đang đếm từng ngày trong bóng tối lạnh lẽo. Nếu em đă chết, xác em chôn dưới vùng đất nào của quê hương, chẳng ai rơ. Chắc chắn trên nấm mồ hiu quạnh của em, thiếu cái mộ bia mơ ước như em thường nói với anh, hồi chúng ta nằm chung xà-lim số 7 hôi hám của khu C1 đề lao Gia Định. Em mơ ước ǵ nhỉ? Em muốn mộ bia của em khắc Búa Liềm và C̣ng Mỹ. Và em giải thích rằng, v́ C̣ng Mỹ và Búa Liềm mà em chiến đấu và em hy sinh tuổi trẻ của em. Mơ ước của em thật lạ lùng. Nó cũng lạ lùng như sự dấn thân lăng mạn và cô đơn của em, của bạn bè em, của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tuyệt vời.
Em nhớ chứ, Trường thân mến, hôm đầu gặp gỡ, anh thử em bằng câu hỏi ngờ vực và bằng sự phán xét kẻ cả về mục đích em theo đuổi, em đă trả lời anh:
“Em kính mến anh lắm. Nhưng con đường em đi em tin là chính đạo và lư tưởng. Mong anh đừng bàn tán rắc rối!”
Anh phục em từ đó. Chúng ta thân nhau. Trong tù, dĩ nhiên. Em kể anh nghe cái động lực xui em chiến đấu và sự trở về đời sống thảnh thơi, im lặng của em. Thế thôi. Là đă hừng hực mặt trời tuổi trẻ. Là đă vằng vặc mặt trăng tuổi trẻ. Ở tù không hứa hẹn gần nhau lâu, anh bị chuyển xà-lim, chuyển dài dài, chuyển phờ phạc. Anh phiêu lưu khắp cơi đề lao. Cuối cùng, anh gặp Ngô Tỵ tại xà lim số 3C1 . Ngô Tỵ nói về em: “Em không hề biết mặt thằng Trường khi em gia nhập tổ chức của nó. Em vẫn tưởng nó phải lớn tuổi, to con, đầy vẻ bí mật. Nằm khu A, buổi sáng, đi đổ rác em gặp tráng sĩ chùa An Lạc, em hỏi tráng sĩ chứ đảng trưởng đâu, tráng sĩ kéo một thằng lùn tỉ, đeo kính cận ra cửa xà lim khoe em. Em bèn hỡi ơi, đảng trưởng của ḿnh nhóc hơn ḿnh”. Anh hỏi Ngô Tỵ: “Bây giờ, em c̣n phục nó không?” Ngô Tỵ cười: “Nó hay thật, anh ạ”! Em đă quyến rũ bao nhiêu bạn bè, em đă quyến rũ anh. Em tuyệt diệu.
Anh gặp thêm Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượn, Nguyễn Khánh Long, Đặng Cơ Bản, Nguyễn Hữu Trí… Rồi lang thang sang khám Chí Ḥa, anh gặp vô số những khuôn mặt yêu nước khiến anh lợm giọng. Và anh buồn bă là không c̣n được sống với các em. Những khuôn mặt yêu nước: những anh già nua thèm danh vọng trải dải đời ḿnh qua các chế độ chưa nắm nổi một địa vị b́nh thường, những anh thèm thuồng quyền bính đến ngớ ngẩn tội nghiệp đă tụ tập nhau mưu đồ phục hồi dĩ văng tanh ươn. Họ lập chính phủ, phong cho nhau làm tổng thống, thủ tướng, tổng trưởng. Một xà lim của anh có đến…ba nội các. Và ba vị thủ tướng hét chửi nhau v́ quan điểm chính trị lại chửi nhau v́ cơm chia không đồng đều, v́ chỗ ngủ thiếu ni tấc! Anh gặp những ông quận trưởng vẽ vời chức tước tỉnh trưởng ngày mai. Anh gặp những ông chánh án, dự thẩm vẽ vời món tiền lương “ráp pen” ngày mai. Anh gặp những ông tá vẽ vời sao tướng ngàn ḿnh chống cộng sản v́ tổ quốc và dân tộc. Họ ưa kể lể công lao nằm tù của họ. Nằm tù, với họ, là cái ǵ thiêng liêng, cái ǵ đầy đủ đặc quyền đặc lợi khi cộng sản tan ră. Nằm tù với họ, là sự ngưỡng mộ của toàn dân, mặc dù họ v́ vạ miệng, v́ say mèm nói láo, v́ ham danh vọng nhào vô, v́ tự ư dẫn xác đi tŕnh diện xin ở tù. Các em khác hẳn họ. Các em khiêm tốn. Các em im lặng. Chiến đấu im lặng. Sa cơ thất thế im lặng. Đau khổ im lặng. Và thành công càng im lặng hơn. Mà các em đă làm ǵ có quyền bính. Mà các em đă hưởng thụ được ǵ từ quyền bính của dĩ văng? Anh chợt nhớ một câu văn bất hủ của nhà văn Ngọc Giao trên trang đầu tiều thuyết “Nhà quê”: Con ốc nhỏ trôi giạt trên băi cát, bé nhỏ thế thôi, câm nín thế thôi, thế mà trong ḷng nó chứa đựng cả sóng gió của đại trùng dương đấy, bạn ạ!”
Em , các em , chính các em là những con ốc nhỏ cô đơn và vĩ đại đang trôi giạt trong ḷng dân tộc. Ư nghĩa chiến đấu của em, của các em, anh thấy nó tựa tư tưởng của một nhân vật của nhà văn Eric Maria Remarque trong “The Night in Lisbon”: Khi thế giới c̣n những bọn dă man tàn bạo và ḿnh c̣n khả năng chống lại chúng mà không dám chống th́ đó là tội ác”
Nhân vật này cho giấy thông hành người khác, ông ta khước từ trốn sang Mỹ, ông ta ở lại Âu Châu, gia nhập lính lê dương để chiến đấu diệt phát-xít. Các em cũng khước từ tất cả để chiến đấu chống cộng sản v́, dân tộc chúng ta, dân tộc Ba Lan, Tiệp Khắc.. đang đầy ngập bọn dă man tàn bạo, đang bị trùm kín bóng tối của chủ nghĩa cộng sản đốn mạt.
Một bông hồng nào cho em, Trường thân mến. Anh chỉ mới mừng tuổi em hộp diêm, mùng một Tết năm 1977 ở đề lao Gia Đ́nh. Và em rất thông minh, nói nhỏ: “Vâng, em sẽ măi măi giữ lửa!”
Em thừa hiểu, tù nhân như anh em ḿnh, cộng sản chẳng dại ǵ mà nhốt một chỗ lâu ngày. Họ phân tán dần dần. Sớm gần, chiều xa. Tháng 5 năm 1977, em chuyển trại, các em chuyền trại. Tháng 12 năm 1977 anh sang Chí Ḥa. Tháng 11 năm 1978, anh bị đầy vào rừng già Sa Ác. Tháng 2 năm 1980 , anh về Hàm Tân. Đầu năm 1981 , tù nhân ở trại Nam Hà B được điều về miền Nam. Khoảng 500 người nhập trại Hàm Tân, Z30 D. Anh gặp vài anh bạn cũ. Có Vũ Xuân Thông, trung tá chỉ huy phó Lữ đoàn Biệt cách dù 801, tài tử cao ráo bô trai trong phim “người t́nh không chân dung”. Bạn anh kể cho anh nghe một cuộc vùng dậy ở Nam Hà B do nhóm 28 “ông nhóc” dưới sự lănh đạo của Lương Việt Cương đă thổi lửa vào tâm hồn mấy ngàn sĩ quan từ lâu đă cam đành. Lương Việt Cương, anh nhớ lắm chứ, mắt ốc nhồi, giáo sư toán lư hóa, c̣n trẻ, hồi làm sinh viên ở Đà Lạt đă chan chứa nhiệt t́nh, hồi ở đề lao Gia Định đă từ cachot này qua cachot khác. Anh nôn nao quá, vội hỏi:”Nhóm 28 ông nhóc có Hoàng Sơn Trường, Đinh Vượng, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long?” Có, có, có… Họ trả lời anh. Vậy là em đă bị lưu đầy ra tận miền Bắc. Những địa danh nào đă in dấu chân em? Anh chạnh nghĩ em đang nằm dưới hầm đá trại Đầm Đùn, và anh bất b́nh. Luôn luôn, chúng ta thừa thăi bọn tiêu bạc giả. Và bọn tiêu bạc giả cậy ḿnh vô liêm sỉ, dùng bạc giả của chúng khỏa lấp dư luận, bôi bẩn những người công chính. C̣n em, c̣n bạn em, ai biết đến cuộc chiến đấu cô đơn của em?
Anh hiểu em. Anh hiểu em nhiều lắm. Em đi chiến đấu hôm nay như năm xửa, năm xưa em xé vở gấp tầu bay đẹp phóng lên trời; gấp tầu thủy xinh thả trôi gịng nước. Em phơi phới. Em chuyền nhẩy. Em làm đẹp cuộc đời và không cần cuộc đời biết đến, không bắt cuộc đời nghĩ đến. Có nhiều cuộc đời nhỏ trong một cuộc lớn. Cuộc đời lớn không biết đến em v́ thật sự không biết hay chưa biết. Nhưng cuộc đời nhỏ, vốn dĩ nó nhỏ, bản chất nó hẹp ḥi, nó biết đến em mà nó cứ giả vờ không thèm biết. Nó sợ hăi biết đến em, sợ hăi nói về em với cùng khắp cuộc đời. Nó lo ngại em nổi tiếng hơn nó, em trở thành thần tượng, em trở thành đại thụ c̣n nó chỉ là cỏ hèn. Nó ghen với em. Và nó t́m cách hăm hại em, cô lập em, bôi bẩn em. Nó không dám chiến đấu bằng con số không thật tṛn trong h́nh vuông thật đẹp đâu. Nó phả́ bấu víu lấy cái tước vị quá khứ phù ảo và chua ôi làm lư tưởng. Những đứa ghẻ lở, hắc lào rất sợ tắm sông trần truồng. Những đứa vô tài bất tướng lại thích khoa trương, càng ghét những tài năng vàng mười.
Vậy th́ giữa cuộc đời nhỏ đầy rác rưởi và em đă có một phân cách.
Nó chiến đấu để phục hồi dĩ văng quyền bính cũ. Em chiến đấu để khai phóng tương lai.
Nó ngoảnh lại. Em nh́n lên.
Nó chiến đấu cho nó. Em chiến đấu cho mọi người.
Em trực diện với nghịch cảnh. Nó nằm chiêm bao nỗi khổ.
Em chiến đấu bằng nhiệt t́nh và ḷng tự phụ của tuổi trẻ Việt Nam. Nó chiến đấu bằng tiền quyên góp phè phởn.
Em không cần nó biết đến em là em xứng đáng, em được quyền kiêu ngạo.
Trong truyện dài Sỏi đá ngậm ngùi anh đă viết rằng, nỗi thống khổ là văn phạm của đời sống, sự cô đơn là ánh sáng soi rơ đất trời. Em, các em, chiến đấu trong thống khổ và cô đơn, trong im lặng và thầm kín. Các em đang làm tác phẩm lớn cho đời sống, đang cố gắng để lại những dấu ấn vàng son trên sinh đạo mà các em đă một lần vượt qua. Anh, các anh, những nhà văn, nhà thơ những nghệ sĩ sáng tạo cũng mang nỗi thống khổ và cô đơn như các em. Các anh đă, đang và c̣n làm tác phẩm cho đời sống. Phải nói một cách khẳng định rằng, chỉ có nghệ sĩ sáng tạo mới biết làm đẹp đời sống, chỉ có nhà văn, nhà thơ mới đủ tài năng và thẩm quyền làm đẹp đời sống của những ai làm đẹp đời sống. Chúng ta đau khổ, chúng ta cô đơn, chúng ta im lặng chịu đựng. Bởi v́ chúng ta làm việc để làm việc, chúng ta không làm việc để phô trương. H́nh như chúng ta vẫn chưa yên thân. Chúng ta vẫn bị cái thứ cuộc đời nhỏ ŕnh rập nghi ngờ. Thứ cuộc đời nhỏ gồm một lũ thích ngồi trong xó tối giả giọng chó sủa gây khó chịu cho người đi ngoài ánh sáng. Thứ cuộc đời gồm một lũ chẳng thích làm ǵ mà chỉ sợ người khác làm hơn ḿnh. Cái thứ ấy, trong Thuyền Nhân anh viết:
“Bao giờ biển nổi giận? Bao giờ trời gầm thét? Bấy giờ ṿng tṛn bao la sẽ là cơi mịt mù và con thuyền vượt biên ngoi ngóp trong cái cơi mịt mù khôn cùng đó. Và con người lại càng hiểu giá trị làm người của ḿnh không bằng tấm mảng mục. Con người sẽ sợ hăi, sợ chết. Con người sẽ khóc lóc, than van. Con người sẽ biến mất những ích kỷ hèn mọn, những ghen tuông đê tiện, những phán xét ngu muội. Con người, bấy giờ, bỗng thèm sống và tự hứa với chính ḿnh, nếu sống sót sẽ cố sống ra vẻ một con người. Những kẻ thích thị phi người khác, thích nghị luận những lầm lỗi mơ hồ của người khác, thích phán xét người khác bằng những điều đồn đại vu khống, thích nằm chiêm bao nỗi khổ, chẳng khi nào được vinh dự ch́m đắm giữa mù khơi, ngoi ngóp trong nỗi sợ. Những kẻ ấy, những kẻ giả h́nh ấy, chỉ cần một phút chênh vênh trên đường chết, năm phút nhức nhối tinh thần, mười phút quặn đau thể xác là gục xuống cúi lạy cái quyền uy có thể ban phát cho chúng kiếp sống cỏ dại. Chúng sẽ khả ố, bỉ ổi gấp triệu triệu lỗi lầm của những người bị chúng phán xét oan ức. Bất hạnh cho bọn giả h́nh. Thượng Đế đă không bố thí cho chúng một miếng ân sủng nhỏ về nỗi cô đơn và niềm thống khổ. Do đó một đời tẻ nhạt chúng đeo đuổi, chúng chỉ loay hoay trong cái ṿng tṛn nhỏ bé đánh đai bởi những ư nghĩ bẩn thỉu của kèn cựa, tranh giành, vu khống, chụp mũ, nói xấu, bôi bẩn và nhục mạ người vắng mặt. Chúng ngu dốt không biết định nghĩa hai tiếng cao thượng. Chúng hèn nhát không dám mặt đối mặt người công chính. Chúng lầm lũi như bọ hung. Chúng chẳng thể hiểu thế nào là tồn tại, là sự phục sinh của nỗi chết. Việc làm của người công chính, ư nghĩ tốt đẹp của người công chính để lại cho đời sống sẽ phục sinh cái chết của người công chính. Tác phẩm để đời của nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… phục sinh cái chết của họ và cho phép họ tồn tại vĩnh cửu. Bọ hung không để lại cho đời sống cái ǵ. Chúng chỉ để lại vết tích ô nhục trong gia phả của chúng cho con cháu chúng tưởng niệm xót xa. Người công chính đă được tuyên dương xứng đáng trong Thánh Kinh. Chúa đă dành cho họ phần thưởng trên Thiên Đàng. Dưới cơi thế, họ vẫn can đảm sống, vẫn làm đẹp đời ḿnh, đời người khác. V́ họ biết, đời sống chỉ có một số bọ hung, một số Lư Thông gian ác. C̣n rất đông Thạch Sanh và công chúa cổ tích”
Trường, em hiểu tại sao Lư Thông cứ muốn Thạch Sanh nằm măi dưới hang không ? À, Thạch Sanh lên đời th́ Lư Thông xuống lỗ. Thạch Sanh có cây đàn muôn điệu. Lư Thông chỉ có cái đàn miệng với bài duy nhất ” Người đi đường và con chó”. Vậy nó không biết đến em, nó ŕnh rập em, nó nghi ngờ em v́ nó sợ nó là lănh tụ giả mà em là lănh tụ thật. Nó muốn độc tôn. Nó muốn chỉ có nó quốc ngoại. Nó không muốn có ai quốc nội. Anh viết về các em, anh nhận các em là lănh tụ cao quư, anh minh, vĩ đại của anh, nó sẽ chán lắm, cái cuộc đời nhỏ ấy mà, nó sẽ hầm hè anh nó sẽ lập ṭa án (!) xử anh, nó sẽ ghi tên vào sổ đen! Ồ, chấp chi. Chúng ta vẫn c̣n nơi nương tựa vững chắc. Là cuộc đời lớn, bao la, rộng mở, công b́nh, hào sảng. Không có khí giới nào giết nổi những tâm hồn ngọc. Anh sẽ tiêu pha không tiếc chữ nghĩa vàng son để bọc lấy những tấm ḷng thơm ngát của các em, của những người tuổi trẻ Việt Nam chiến đấu trong thống khổ và cô đơn. Bầy sư tử lăng mạn ở quê nhà hăy yên tâm sống và yên tâm chết. Lịch sử sẽ thay đổi. Phải thay đổi. Đó là chân lư. Và chân lư ấy phóng lên bầu trời quê hương ngút ngàn thù hận bằng cung cách sống, chết dưới hầm đá trại Đầm Đùn. Sống làm thăng hoa yêu thương, rực rỡ t́nh người. Chết làm phục sinh tự do dân chủ và nở rộ hoa nhân ái lên c̣ng tư bản, trong ngục vô sản. Cung cách sống chết khai sinh một kỷ nguyên mới của những người tiểu tư sản lăng mạn, hào sảng và ước mơ….
Thế nhé em yêu dấu!
(Vào với Bầy sư tử lăng mạn)
Nam Á Paris, 1986
° ° °
Người tuổi trẻ suy tư
Chàng ngồi dựa lưng vào chiều ngang bức tường cachot, chân duỗi chưa thẳng đă đụng bức tường đối diện. Quá nửa dĩa cơm và ca nước đầy khiến chàng tỉnh táo. Trong đời chàng, từ thơ ấu tới nay, chưa bao giờ chàng được uống thử nước nào tuyệt diệu bằng ca nước lạnh đầu tiên trong ngục tù. Mỗi hớp nước là mỗi niềm bí ẩn của đời sống. Đó là hạnh phúc trong bất hạnh. Hạnh phúc không thể t́m thấy ở một cảnh vui phù ảo, giả tạo. Cũng vậy, tự do, dân chủ, độc lập không thể kiến tạo bằng những ḥ hét giả vờ, những dấn thân ngụy tạo ở miền hoan lạc nương cậy. Giá trị của người đi chiến đấu là chấp nhận mọi thống khổ và biết t́m sự thống khổ những ư nghĩa cao cả cho mọi người là h́nh tưởng nỗi khao khát tự do của dân tộc. H́nh tưởng mọi người trong cộng đồng dân tộc sẽ uống từng hớp tự do sau những năm đói quằn quại thê lương. Nỗi thống khổ mời gọichiến đấu. Kinh qua thống khổ là thắp hào quang chiến đấu. Vậy th́ nỗi thống khổ đă soi sáng con đường chiến đấu… Trước hết, nỗi thống khổ mang tính chất tiểu ngă sẽ ḥa nhập vào đại ngă. Người đi chiến đấu hiểu rơ tại sao ḿnh phải chiến đấu, v́ ai ḿnh chiến đấu, lư tưởng nào thôi thúc ḿnh chiến đấu. Chàng vừa khám phá ra niềm rung động của thống khổ. Chàng như Thạch Sanh bị lấp dưới hang. Nhờ ở dưới hang, chàng có cơ hội soi bóng ḿnh trên mặt nước lung linh, huyền ảo, so lại dây đàn, nay cùng điệu mới ḥa nhập hồn ḿnh với hồn nhân gian. Âm điệu, thần thánhcủa Thạch Sanh được tôi luyện bằng cảm xúc từ oán khổ. Và âm điệu ấy đă thoát lên đời, đă làm xao xuyến ma quỷ, đă dạy những Lư Thông về địa ngục hèn mạt của chúng.
Chàng đang ngồi trong cachot như Thạch Sanh đă ngồi dưới hang sâu thăm thẳm. Chàng đang t́m hạnh phúc trong bất hạnh như Thạch Sanh đă so dây đàn, soi bóng ḿnh, t́m cái tuyệt đối chân thiện mỹ cho cuộc đời. Chàng bằng ḷng lắm, nghĩ rằng, mỗi ngày oan nghiệt, đời sống sẽ cống hiến thêm cho con người một niềm bí ẩn. Sống để đi đến tận cùng của đời sống tức là sống để thu nhận trời biển oan khiên cho riêng ḿnh. Chưa đủ. Đi đến tận cùng của đời sống để xóa bỏ tất cả oan khiên cho mọi người mới đích thực là lư tưởng. Lư tưởng này không thể t́m thấy ở bọn quen thụ hưởng. Những bọn quen thụ hưởng là những bọn nào?
Trước hết là đám ruồi xanh đă bu kín trên cái miệng đỉnh chung tôi mọi cũ. Chúng đă hèn mọn chạy trốn, bỏ cuộc như những tên đào ngũ khốn kiếp. Chúng ngu dại không chịu nằm yên thân phận giống bầy chó ghẻ già nua, ngồi gặm những khúc xương đầy thịt mà chúng ngoạm chặc trên bước đường bôn tẩu. Chúng càng dốt nát không hiểu thời và thế. Thời của chúng đă cáo chung. Thế của chúng đă mất mát. Vậy mà chúng c̣n muối mặt xưng tước vị cũ, phong cho nhau tước vị mới, tranh giành lănh đạo, cách chức lẫn nhau, mặc quần áo mới, quấn khăn rằn, trơ trẽn diễn tuồng kháng chiến cứu nước! Chúng lêu bêu xứ người, bất tài vô tướng, làm thầy hay làm thợ cũng chẳng xong, do đó, chúng tương tư quyền bínhvà phát động cuộc chiến đấu phục hồi dĩ văng – phục hồi quyền bính của dĩ văng. Chúng huyễn hoặc người nhẹ dạ, khỏa lấp dư luận, dọa nạt người công chính, bôi bác người đối lập. Chúng là lănh tụ độc quyền giải phóng quê hương, là bầy tướng tá Quảng Lạc diễn chèo, là bọn mà Nguyễn Khuyến đă mỉa mai:” Vua chèo c̣n chẳng ra ǵ, Quan chèo thêm nữa khác chi thằng hề!”
Thứ đến là bọn trí thức bất lương, t́nh nguyện làm đám “ba quân, dạ dạ” chạy cờ cho lănh tụ Quảng Lạc để được chia tiền lạc quyên, xổ số. Bọn này lănh nhiệm vụ bao vây, ngăn cản những người tài năng vàng mười dám nói sự thật. Những người tài năng dám nói sự thật đều là những người đă quằn quại trong ngục tù cộng sản, thừa thải kinh nghiệm đánh cộng sản và chưa hề làm đầy tớ Mỹ. Những người này đă nổi tiếng ở Việt Nam, chúng sợ lưu vong sẽ nổi tiếng hơn, sẽ “cướp” hết quyền lănh đạo của chúng. Và chúng tạo dựng nhiều chuyện khả ố: Chuyện khiếp nhược không dám chống đối các cai tù chăn trâu cắt cỏ, chuyện làm tay sai cho cộng sản trong tù bị chọc thủng mắt, bị liệng xuống giếng, chuyện vượt biên bị liệng xuống biển, chuyện cộng sản gài vượt biên để dễ hoạt động cho cộng sản, vân vân… Bọn trí thức nửa mùa và bất lương này lập hàng rào cô lập người công chính. Chúng sợ người công chính đến với tuổi trẻ th́ chúng hóa thành giả h́nhvà nhỡ bị lột quần áo, mọi người sẽ thấy rơ tác phẩm ghẻ lở, què quặt, cóp nhặt của chúng. Và chúng hết nhí nhố. Tội nghiệp chưa?
Sau hết là bọn sống ở Pháp ṛng ră 30 năm, dài hơn cuộc chiến Việt Nam khốn khổ, chẳng hiểu đất nước ḿnh ra sao mà cứ thích chất vấn những nạn nhân cộng sản. Chúng không chịu sáng tạo, thấy người ta sáng tạo th́ chúng ghen ghét, hạch hỏi:”Tại sao lại sáng tác nhiều thế?”! Và cũng chỉ đến biết vỗ tay hoan hô tướng tá Quảng Lạc.
Đó, những hạng vừa kể trên, dẫu có sống thêm chín kiếp cũng không dám đi đến tận cùng của đời sống để xóa bỏ tất cả oan khiên cho mọi người. Chúng chỉ giỏi bịa đặt, chỉ dám núp trong xó tối ph́ nọc rắn. Tội nặng nhất của chúng và công ty là lừa gạt niềm tin của mọi người, làm cản trở sự nghiệp tiêu diệt cộng sản giải thoát dân tộc. Chúng làm ǵ có lư tưởng. Chúng chỉ có cái miệng lưỡi của “người đi đường và con chó!”
Lư tưởng đi đến tận cùng đời sống để xóa bỏ oan khiên cho dân tộc, giải phóng tổ quốc, tạo dựng hạnh phúc cho giống ṇi là lư tưởng của tuổi trẻ hôm nay. Tuổi trẻ hôm nay, tuổi trẻ thế hệ sau 30 tháng 4 năm 1975, có dĩ văng vằng vặc trăng sao, có hiện tại hừng hực mặt trời. Họ chưa hề thụ hưởng ǵ của dĩ văng. Họ cũng chẳng hề có quyền bính ǵ trong dĩ văng. Họ chưa hề làm tôi mọi cho một thứ quyền lực quốc tế nào, tư bản hay cộng sản, Mỹ hay Liên xô. Nói cho đúng, tuổi trẻ đă là nạn nhân thảm thương của dĩ văng, của những quyền lực thao túng quê hương Việt Nam từ 1945. Từ chiêu bài quyến rũ“toàn dân đoàn kết kháng chiến chống Pháp giành độc lập” đến cách mạng què cụt 1-11 “tiêu diệt chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm” mấy thế hệ tuổi trẻ đă bị lừa bịp, đă chết không một nấm mồ, đă mang thương tích u mê v́ tham vọng của chủ nghĩa và sự khờ khạo của lănh tụ quốc gia.
Những người tuổi trẻ của Hà Nội 1946 hồn ở đâu bây giờ? Những người tuổi trẻ tuyệt diệu đó, những sinh viên tự vệ thành dũng cảm đem thân ḿnh ngăn xe tăng của thực dân Pháp, c̣n ai nhớ chiến tích của họ, c̣n ai tưởng niệm họ? Những người tuổi trẻ lăng mạn cách mạng trong trung đoàn Kư Con, trung đoàn Thủ Đô c̣n lại ai? Họ đă bị cộng sản trá h́nh Việt Minh đẩy lên tuyến đầu chết thay cho họ cả rồi. Đến cuối 1950, lịch sử và Đảng sử chỉ ghi chép sự hy sinh cho tổ quốc và nhân dân của những người lính nông dân. “Ta là người nông dân, mặc áo lính, chiến đấu v́ giai cấp bị áp bức từ bốn ngàn năm.”
Ôi, những người tuổi trẻ thế hệ 1945, những người mà nhà văn Nguyễn Mạnh Côn gọi là những người “lạc đường vào lịch sử,” những người đă lo ngại Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc trong mơ ước của ḿnh, Nguyễn Ái Quốc là tên cộng sản xảo quyệt, là thứ Lê Chiêu Thống chủ nghĩa phi nhân. Nhiệt t́nh và ḷng tự chủ của tuổi trẻ Việt Nam thế hệ 1945 đă bị cộng sản nướng khét bằng lửa mác xít. Bị nướng ṛng ră 10 năm cho một nền độc lập cắt đôi tổ quốc; cho triền miên đói rách, ngu dốt, thanh toán, thủ tiêu, đấu tố, tù đày. Khi có những biến động trong lịch sử, những kẻ tiền phong dấy động là tuổi trẻ và những kẻ bị khai thác tận t́nh, bị lợi dụng tội nghiệp vẫn chỉ là tuổi trẻ.
Bạn c̣n nhớ những người tuổi trẻ Sàig̣n 1955 khởi sự công cuộc chống cộng sản không? Họ đă dấn thân tích cực. Họ đ̣i “treo cổ Hồ Chí Minh.” Họ muốn “chặt ngang thây Trường Chinh.” Họ truy lùng Văn Tiến Dũng giữa Sàig̣n. Họ đốt “Gallieni, Majestic.” Họ khai phóng một phong trào. Họ lay động bọn khiếp nhược, tiêu cực. Họ làm sinh động đời sống. Trong họ, nhiều người bị bỏ tù, bị đánh đập, bị bắn mù mắt. Chế độ vững vàng nhờ tinh thần sư tử của họ. Và chế độ bắt bớ, đàn áp họ. Chế độ chỉ ban phát ân huệ cho bọn “cai thầu tuổi trẻ.” Bọn cai thầu trúng mối lớn của ông Ngô Đ́nh Nhu. Bọn cai thầu đang có mặt ở Paris. Bạn muốn biết chúng nó là ai không? Có đứa nhờ thầu tuổi trẻ mà vinh hiển suốt đời. Có đứa mon men măi cũng leo lên chức Bộ Trưởng. Kinh nghiệm đấu thầu tuổi trẻ của chúng nó là cẩm nang của bọn thầu khoán tuổi trẻ quốc ngoại hôm nay. Kinh nghiệm của cai thầu tuổi trẻ, buồn thay, chỉ là thương đau của dân tộc, là xoáy ṃn niềm tin của tuổi trẻ, là phôi pha nhiệt t́nh, là ngờ vực, là lừng khừng với đời sống. Sau hết , là bọn bon chen trên đường khoa bảng giá áo túi cơm và nổi loạn vô duyên cớ và tích lũy thù hận đàn anh. Chừng thù hận có dịp bung ra, đó là cơ hội rạch nát lịch sử. Tuổi trẻ Việt Nam bị trúng một phát tên độc ngóc đầu lên không nổi: Mũi tên USA. Người Mỹ sách động tuổi trẻ tiêu diệt chế độ Ngô Đ́nh Diệm để được suy tôn “thần tượng” Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn! Bọn phản nghịch dốt nát biến thành thần tượng của tuổi trẻ. Mỉa mai quá. Sự mỉa mai thấm vào tim phổi tuổi trẻ, sự nổi loạn có duyên cớ khai sinh. Và hậu quả của thức tỉnh là tuổi trẻ triền miên hưởng phi tiễn, dùi cui, lựu đạn cay và ngục tù của đám bảo vệ chế độ, đám công an, cảnh sát, đám c̣ cơm vô liêm sĩ.
Đàng ngoài hay đàng trong, tuổi trẻ đă là công cụ của các thứ chế độ, của lănh tụ đảng phái, của bọn thầu khoán bất lương. Ba mươi năm, tuổi trẻ bị đày ra chiến trường cho những tham vọng khốn kiếp của cộng sản và tư bản và bầy tôi mọi của chúng. Mấy triệu thanh niên đă chết dọc đường ṃn Hồ Chí Minh, khe núi Trường Sơn, rừng già Pleime, biển cát Hạ Lào. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng vẫn sống. Bọn tướng lănh Sàig̣n vẫn sống. Trong nước, phù thủy gian ác cộng sản lại huyền hoặc tuổi trẻ bằng chiêu bài mới “ba gịng thác cách mạng” để lừa tuổi trẻ phơi xác ở Kampuchia “v́ nghĩa vụ quốc tế,” lừa tuổi trẻ vào nơi khỉ ho c̣ gáy để làm, “thanh niên xung phong” đi tải đạn ra chiến trường, lừa tuổi trẻ vào ngục tù, trại tập trung để ngăn chặn phản kháng. Ngoài nước, đạo diễn mù lạivỗ về tuổi trẻ, vuốt ve nhiệt t́nh tuổi trẻ bằng chiêu bài kháng chiến chống cộng sản tŕnh diễn. Ở không gian và thời gian nào th́ tuổi trẻ cũng vẫn là những người nặng t́nh non nước, những người con xứng đáng được tổ quốc tin cậy, những người dám làm lịch sử và không mang công danh địa vị. Họ ví như cây ăn trái hứa hẹn những mùa màng tốt đẹp, vô hạn. Bọn lănh tụ trá h́nh, bọn đào ngũ chạy trốn hèn mọn đă là những cây mục chờ ngày gục xuống vĩa đời. Chúng đă nắm quyền bính và vẫn thèm thuồng quyền bính để bảo vệ quyền lợi của chúng, để thao túng, để hống hách. Khi quyền bính bị tuớc đoạt, chúng nằm tương tư quyền bính. V́ ngu dốt, chúng không thể tạo nổi thứ quyền bính tự tạo nên chúng phải bấu víu lấy tước vị tôi mọi cũ trong cái thế nhân dân đă phủ nhận tước vị cũ của chúng. Và chúng diễn tṛ yêu nước một cách vụng về. Đứa mặc quần áo, quấn khăn rằn của kẻ thù, tự phong chủ tịch. Dựa trên cái quá khứ “công an xung phong,” vênh vang tự biến ḿnh thành kẻ viết chủ thuyết cho phong trào!
Lịch sử hiện đại chỉ thấy bọn tướng lănh thoán nghịch, bọn sĩ quan tá, úylàm đảochính. Chưa hề thấy, trong nhân loại, bọn thư lại đi làm cách mạng. Thư lại là bọn giở chiêu nào nướng chiêu ấy, chế độ nào cũng tốt, cũng đáng phục vụ miễn răng yên thân. Cũng chẳng thấy công an cảnh sát làm cách mạng bao giờ! Công an, cảnh sát là công cụ bảo vệ chế độ và lănh tụ đắc lực và hữu hiệu nhất. Một phong trào, một đoàn thể, một lực lượng nào âm mưu lật đổ chế độ, dù là chế độ độc tài, công an sẽ đàn áp thẳng tay. Tuổi trẻ Việt Nam từ 1963 đến 1975, ở Sàig̣n, c̣n ấm áp những kỷ niệm đàn áp dă man của cảnh sát nổi, cảnh sát ch́m, cảnh sát dă chiến. Người nữ sinh viên nào bị đốt núm vú ở Ty Cảnh sát Quận 1? Người nam sinh viên nào hưởng liên tiếp một tuần lễ đ̣n của thợ đánh người ở trong nha Cảnh sát? Cứ hỏi ông Phạm Văn Liễu, ông Trang Sĩ Tấn, một là Tổng Giám đốc Cảnh sát, một là Giám đốc Nha Cảnh sát Đô Thành, sẽ biết rơ thủ đoạn đàn áp sinh viên học sinh Sàig̣n xuống đường đ̣i hỏi tự do, dân chủ. Tuổi trẻ trong nước năm xưa bị nếm dùi cui, phi tiễn tàn bạo của cảnh sát. Một số người nông nổi v́ quá căm phẩn đă bỏ vô mật khu theo cộng sản. Cảnh sát và tinh thần bảo vệ chế độ của họ đă dồn tuổi trẻ vào bước đường cùng, đă giết chết nhiệt t́nh của tuổi trẻ. Người tuổi trẻ Việt Nam du học lâu năm ở ngoại quốc chưa có kinh nghiệm cay đắng của những người thuộc thế hệ họ. Ḷng yêu nước và niềm tin giải phóng dân tộc của họ bị ru ngủ bởi lũ c̣ mồi. H́nh tưởng một cậu bé ngây thơ, mặc quần áo Tết, cố len vào đám bầu cua cá cọp. Biết cậu bé ham ăn, c̣ mồi đánh đâu thắng đấy. Cậu bé móc túi, lôi ra những phong bao ĺ x́ thơm tho, theo c̣ mồi liệng tiền xuống chiếu bạc. Và cậu bé cháy túi. Chủ ṣng và c̣ mồi chia tiền nhau, chia những đồng tiền của cậu bé non nớt, ham vui!
Tuổi trẻ Việt Nam thường xuyên bị c̣ mồi chính trị dụ dỗ. Ở Mỹ Châu, ở Úc Châu, ở Âu Châu thiếu ǵ c̣ mồi kháng chiến. Ngay ở Paris cũng có thứ c̣ mồi gớm ghiếc đó. Nó in được bạc giả nên nó tiêu bạc giả vung vít. Nó dùng bạc giả nên nó khỏa lấp người công chính, vu khống người công chính và ngăn cách người công chính tới gần tuổi trẻ. Nó giả h́nh văn nghệ. Nó vô liêm sỉ nhận ḿnh là nhà văn để len lỏi vào cơi văn học nghệ thuật. Tất cả đều đáng bỏ qua, bởi v́, sẽ có ngày mọi người biết nó tiêu bạc giả. Nhưng một điều không thể tha thứ cho nó v́ nó nhúng vào tội ác đối với dân tộc, đối với công cuộc kháng chiến giải phóng quê hương chân chính, đích thực là nó đă đưa tuổi trẻ Việt Nam ở Âu Châu vào tay tên trùm cảnh sát, tên trùm đă dày thành tích tra tấn, đàn áp, bỏ tù tuổi trẻ dám chống chế độ độc tài, tham nhũng. Thiếu tuổi trẻ và nhất là tuổi trẻ trí thức, bảng hiệu của Công ty của trùm cảnh sát và đồng bọn không thể làm ăn, chia chác được. Do đó, c̣ mồi đă xâm nhập tuổi trẻ, khuynh loát tuổi trẻ, biến tuổi trẻ thành những người đi lạc quyên và bán vé xổ số. Nghĩ cũng bẽ bàng khi tuổi trẻ hôm nay suy tôn một kẻ từng đàn áp không thương xót tuổi trẻ hôm qua! Có lẽ người ta muốn tạo dựng một chế độ cảnh sát mới ở Việt Nam mai này?
Đó, chàng đă suy nghiệm thân phận tuổi trẻ Việt Nam. Và, dưới hang sâu thăm thẳm, chàng vừa nhận ra một chân lư: Tuổi trẻ Việt Nam bị làm guốc cho các chế độ, các lănh tụ thật và giả lâu quá rồi. Guốc ṃn, vất đi. Một thế hệ rác rưởi. Thay guốc mới. Thêm một thế hệ mệt mỏi, lạc lỏng. Bây giờ là lúc tuổi trẻ Việt Nam phải làm mũ, nón tự đội lên chính đầu ḿnh mà đi t́m hạnh phúc vinh quang cho dân tộc. Bởi v́, dĩ văng của tuổi trẻ hôm nay là mặt trăng, hiện tại của tuổi trẻ hôm nay là mặt trời. Tuổi trẻ hôm nay không mảy may mặc cảm tội lỗi nào với dân tộc, với quê hương. Chàng sảng khoái và bất giác, chàng nói lớn: “Ta khởi sự từ số không, từ ngục tù cộng sản.”
(Trích “Một người tên là Trần Văn Bá”)
° ° °
Tuổi trẻ chiến đấu
Chúng ta là những người biết sống và biết chết. Chúng ta không phải là những người sợ sống và sợ chết. Đồng ư. Sống và chết, hiểu theo nghĩa của chúng ta, của những người tự nguyện chiến đấu cho lư tưởng dân tộc. Chẳng ai được phép đ̣i hỏi ǵ chúng ta trước, trong và sau chiến đấu. Chẳng ai được phép ban phát ǵ cho chúng ta trước, trong và sau chiến đấu. Đó là hănh diện của kẻ chiến đấu tự nguyện. Chúng ta không cần sự phê phán của đám sử gia rẻ tiền hay sự tranh luận bệ rạc về chính sử, ngoại sử, dă sử của đám nghiên cứu lịch sử bằng tài liệu mốc thếch, xuyên tạc cả ngợi khen lẫn chê trách. Chúng ta là lịch sử, lịch sử của tuổi trẻ Việt Nam trưởng thành từ một kinh qua khốn cùng của đất nước. Chỉ c̣n tuổi trẻ mới có quyền nói ḿnh yêu nước mà không phải cúi mặt xấu hổ. Dĩ văng tuổi trẻ vằng vặc trăng sao. V́ chưa hề ngửa tay nhận tiền ngoại quốc, chưa hề nhận ân huệ tôi đ̣i của ngoại bang để vênh váo quyền bính thống trị bù nh́n bốc lột và đàn áp nhân dân. Hiện tại tuổi trẻ rực rỡ mặt trời. V́ chúng ta không cam đành, chúng ta dám chiến đấu chống cộng sản nhiệt t́nh và tự phụ, lăng mạn và cô đơn trong hoàng hôn chiến bại, trong đào ngũ chạy trốn của bọn sinh ra để sống nhục và chết nhục. Tương lai tuổi trẻ rạng ngời ánh sáng. V́ chúng ta không chiến đấu để mưu đồ quyền lực, tước vị, công danh, phú quư . Chúng ta là chiến sĩ vô danh. Chúng ta sẽ cố gắng để vui niềm vui của dân tộc như chúng ta đă buồn nỗi buồn của dân tộc. Không có cố gắng nào không dẫn đến kết quả. Sự thành công của chiến đấu, niềm vui động đất của dân tộc, bắt chúng ta cố gắng không ngừng, bắt chúng ta thắp sáng ư chí chiến đấu từng phút, từng giây, bắt chúng ta sáng tạo chiến đấu từng phút, từng giây. Chúng ta đầy đủ uy thế bệ vệ và sức mạnh tuyệt luân của sư tử. Chúng ta là sư tử lăng mạn. Ở mỗi chúng ta không ai nghĩ thất bại. Không có thất bại luẩn quẩn trong đầu óc chúng ta, trong trái tim chúng ta, trong hơi thở chúng ta.
Chúng ta chưa quên câu nói bất hủ của Vị Ưởng: “Sống v́ tổ quốc khó khăn hơn chết”. Nhưng khi phải chết, trong nỗi chết thiếu tiếng thở dài tuyệt vọng. Cho nên, Vị Ưởng, Thương Hoài, Dzũng ḅ, Mục rỗ, Năm c̣ vẫn tin cuộc chiến thành công dẫu ḿnh tan xác. Cho nên, Ngư Phủ tự sát, vẫn tin cuộc chiến thành công. Cho nên, Độc Thư đứng thẳng dẫm chân lên h́nh phạt của thù hận mà tuẫn tiết, vẫn tin cuộc chiến thành công.
Chúng ta đều là những người biết sống biết chết. Chúng ta ngạo mạn. Bởi chúng ta là thái dương, tinh tú trong mù sương của lịch sử hôm nay. Cứ chủ quan mà nói, kẻ thù cộng sản chỉ khiếp sợ chúng ta. Chúng ta đă chứng minh điều đó. Chẳng có dấy động nào thiếu tuổi trẻ tiên phong. Chẳng có băo tố nào thiếu tuổi trẻ nổi gió.Chẳng có cách mạng nào thiếu tuổi trẻ mở đường.
Cộng sản nói đời đă đổi từ 30-4-1975. Chúng ta nói đàn anh đă chết hết từ 30-4-1975. Không c̣n kẻ nào xứng đáng để chúng ta gọi là đàn anh. Trần Du có thể trả lời. Lê Thanh có thể trả lời. Nguyễn Ngọc có thể trả lời. Bất cứ ai trong chúng ta đều có thể trả lời. Bất cứ một người tuổi trẻ Việc Nam nào lớn khôn từ nỗi đau 30-4-975 đă có thể trả lời . Và đều được phép khinh miệt đàn anh. Họ đă làm hư hỏng đất nước ṛng ră ba mươi năm. Họ đă chết dù họ c̣n sống. Cỏ dại bám vào lúa làm hại mùa màng th́ phải nhổ lên, đốt cháy. Chúng ta không cần nhổ cỏ dại . Cộng sản đă giúp chúng ta. Cộng sản đă kéo màn để chúng ta nh́n rơ đàn anh chúng ta trên sân khấu nham nhở. Rặt bọn đào kép đầu quân hết chế độ này sang chế độ khác. Rặt lũ đạo diễn mù đeo kính đen. Rặt những vở tuồng lều bều tham vọng quyền bính tôi đ̣i hèn mọn. Đàn anh chưa hề chiến đấu. Đàn anh chưa hề biết sống và biết chết. Những kẻ không biết sống và biết chết là những kẻ sống chết không có thái độ. Và họ chẳng có ǵ để lại cả. Họ sống như lợn ủn ỉn đ̣i ăn tối ngày và chết như cóc nhái thối tha bờ bụi. Những cây mục hút đất mầu quê mẹ no nê ngh́n năm không trổ hoa đơm trái ấy, ở đâu đó, xa ĺa t́nh tự dân tộc, xa ĺa nỗi thống khổ của dân tộc, lại đang rắc hạt tiêu vào mắt, lại đang nuốt ớt lột lưỡi, nhỏ lệ khóc quê hương và lên tiếng ái quốc huyễn hoặc quá khứ, ve vuốt hiện tại, phỉnh phờ tương lai.
Chúng ta không tin họ. Chúng ta chỉ tin chúng ta. Chúng ta tin chúng ta v́, trước hết, không huyễn hoặc chúng ta , không ve vuốt chúng ta, không phỉnh phờ chúng ta. Chúng ta tin chúng ta v́, sau hết, chúng ta biết tại sao chúng ta chiến đấu và chúng ta chiến đấu cho mục đích nào. Chúng ta tin chúng ta v́, ngoài ra, chúng ta biết chúng ta đầy đủ nhiệt t́nh, thừa thăi ḷng tự phụ, tràn trề sáng tạo, lăng mạn, lạc quan. Hẳn nhiên, chúng ta cô đơn . Và chúng ta bằng ḷng cô đơn. Nỗi cô đơn giúp chúng ta nh́n rơ chúng ta, nh́n rơ thân phận của dân tộc chúng ta.
Nỗi cô đơn thắp giùm chúng ta đốm lửa nhận đường chiến đấu, dẫn dắt chúng ta gần gũi nhau, thương yêu nhau, soi lối cho chúng ta sáng tạo chiến đấu và dạy chúng ta khôn lớn. Trong cô đơn, chúng ta có Đạn lên ṇng, chúng ta có vận động cách mạng Tây Sơn. Và niềm kiêu hănh của thời đại chúng ta, chúng ta có chủ thuyết tư sản. Một ngh́n năm binh lửa triền miên, nước Trung hoa vĩ đại sản sinh một trăm triết gia gọi là “bách gia chư tử”. Bốn năm đau khổ, dân tộc Việt Nam sản sinh một Nguyên Ngọc. Chủ thuyết tiểu tư sản của người Việt Nam lập thuyết trong nỗi cô đơn khôn cùng của lịch sử Việt Năm là nỗi rạc rài của lịch sử nhân loại. Chủ thuyết tiểu tư sản, chắc chắn, sẽ dẫn đạo cuộc tân cách mạng Tây Sơn thành công, sẽ đem lại hạnh phúc vĩnh cửu cho dân tộc Viết Nam và loài người trên trái đất sau một thế kỷ bị đầy đọa bởi hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản. Để có thành công, chúng ta phải biết đề pḥng thất bại. Đề pḥng thất bại và không nghĩ đến thất bại thật khác nhau. Trí tuệ của kẻ mưu đồ đại nghĩa mênh mông khôn tả. Nó biến hóa theo sáng tạo. Nhưng căn bản của nó vốn là biết ḿnh, biết người. Chúng ta biết kẻ thù của chúng ta, kẻ thù của chúng ta không biết chúng ta. Đó là điểm chúng ta hơn hẳn bọn đàn anh. Chúng ta lại biết cái thế của chúng ta và biết cả cái thế của kẻ thù. Do đó, chúng ta c̣n tồn tại, không bị chúng tiêu diệt. Ở đây, ngoài tôi, không ai biết anh em Đạn lên ṇng gồm những ai, tên ǵ, làm việc ở đâu. Ở đây, ngoài anh em hiện diện hôm nay và Quỳnh Đào, người ta chỉ biết tôi là tên nhạc sĩ phản bội, kẻ thù chỉ biết tôi là hàng thần lơ láo. Nếu hôm nào tôi ngă gục, Phong trào vẫn nguyên vẹn, vẫn ngạo nghễ chiến đấu. Chúng ta biết kẻ thù tinh vi, xảo quyệt, tài giỏi, thừa thải người . Chúng ta không được phép coi thường kẻ thù, không được đánh giá kẻ thù rẻ tiền khi nhận xét gă bộ đội quê mùa hay tên công an ngu dốt. Chúng ta phải đánh giá kẻ thù qua Vơ Nguyên Giáp chiến thắng Pháp; qua Lê Đức Thọ ngang cơ Kissinger, qua Trần Quốc Hoàn trùm KGB Việt cộng; qua Mai Chí Thọ, Trần Độ, Tố Hữu,Trường Chinh… Với chủ thuyết tiểu tư sản, kẻ thù của chúng ta là Karl Marx, Lénine. Vậy th́ chúng ta , mỗi người biết nhiệm vụ của ḿnh, biết số người cộng tác của riêng ḿnh để , nếu phải chết, vẫn tin Phong trào vẫn tồn tại, sẽ thành công. Tôi mong, ngoài mấy anh hiện diện hôm nay biết nhau thôi, người của anh em không nên biết. Tôi chẳng dám nghi ngờ ai, tôi chỉ đề pḥng. Bởi v́, có khi người ta chưa kịp chọn cách chết mà cộng sản tinh vi đủ phương pháp bắt cả người chết phải khai sự thật. Tôi nói ít, mong anh em hiểu nhiều. Điều anh em vẫn đang thắc mắc là tại sao, lần đầu tiên, tôi yêu cầu gặp nhiều anh em một lần và nói nhiều. Tôi xin giải thích ngay: Kinh nghiệm Phan Thức. Tôi quen biết ông Phan Thức trước năm 1975. Thuở ấy tôi là một nghệ sĩ thuần túy. Tôi thấy ở ông Phan Thức có vài điểm tôi phục. Có lẽ là thời say mê lư tưởng của tuổi trẻ ông. Ông Phan Thức kiến thức vững vàng, tuy hơi ngây thơ. Tôi yêu những người già ngây thơ. Sau 1975, tôi nhập cuộc chiến đấu. Và tôi cũng tâm sự với ông Phan Thức. Ông ta t́m tôi, nhờ tôi một việc. Tôi thất vọng, hoàn toàn thất vọng về đàn anh ảo tưởng. Tôi đă cứu ông Phan Thức sa lưới công an. Anh Trần Du đ̣i khử ông ta để tránh hậu họa. Ḷng trắc ẩn níu tôi lại. Ông Phan Thức đă trốn chạy. Nếu ông ta bị Mai Chí thọ bắt, tôi phải tự xử. Để Phong trào tồn tại. Tôi chưa hiểu t́nh trạng ra sao với tôi và với ông Phan Thức, song đây là kinh nghiệm của chúng ta vừa chiến đấu vừa học tập dân chủ. Tất cả lănh tụ độc tài đều mọc mầm từ sự sợ hăi nghe phê b́nh và không dám tự phê b́nh. Chẳng bao giờ tôi là lănh tụ cả. Chúng ta cũng chẳng ai mong mỏi có lá cờ phủ trên quan tài khi gục ngă. Tôi gây ra lỗi lầm, tôi nhận lỗi. Tôi biết sống và biết chết. Sống và chết không thành vấn đề quan trọng. Quan trọng là cách mạng Tây Sơn thành công. Cái chức vị huynh trưởng mờ ảo, hư thực này tôi xin được giao cho Trần Du. Anh em sẽ tiếp tục hư thực, mờ ảo chức vị đó. Tôi hoàn toàn tin cậy anh em. Anh em sẽ là đầu óc, là tay trái, tay phải của anh Trần Du. Tôi sẽ gặp riêng anh Trần Du bàn rơ Đạn lên ṇng Sàig̣n và cơ sở miền Tây . Tôi không bỏ cuộc. Tôi vẫn chiến đấu. Nhưng chúng ta nên chuẩn bị tư tưởng chu đáo. Cách mạng không giống thảo khấu. Thảo khấu sẽ tan ră, nếu chủ soái chết. Cách mạng Tây Sơn phải tồn tại đến thành công nếu Duy Tâm chết, Trần Du chết, Lê Thanh chết, Vũ Hải chết.. Và, với Nguyễn Ngọc tôi muốn nhắc vài lời: Karl Marx chết, Fiedrich Engels viết Tuyên ngôn đảng Cộng sản và Lénine thực hiện. Anh Nguyễn Ngọc cần nhiều người thực hiện chủ thuyết tiểu tư sản.
(Hồn say phấn lạ)
Xuân Thu, 1988
° ° °
Tuổi trẻ quốc ngoại xuống thuyền
Tự bản chất, tôi không hề có tham vọng chính trị .Như những người tuổi trẻ cùng thế hệ, tôi sinh ra và lớn lên trong chiến tranh Việt Nam triền miên. Khi tôi thật sự trưởng thành, tôi chỉ thấy, khắp quê hương tôi những biến động và biến động. Những biến động tạo ra bởi tham vọng bất nhân của chủ nghĩa tư bản, tham vọng phi nhân của chủ nghĩa cộng sản. Những biến động gây ra binh lửa, chết chóc, đói khổ, ngu dốt và chia rẽ. Để khiêu vũ trên băi tha ma, để đua thuyền trên gịng sông nước mắt, chủ nghĩa cưa đôi dân tộc tôi và toa rập với nhau kiến trúc hai miền thù hận. Bằng ư thức hệ và bằng cả vũ khí tư bản cộng sản. Tham vọng của chủ nghĩa đẻ thêm tham vọng quyền bính của lũ tôi đ̣i bản xứ. Một bên là đám ăn cướp. Một bên là đám ăn cắp. Đúng nghĩa nhất, lănh tụ Hà nội và mọi cơ cấu của nó là phỉ quyền. Bởi v́ nó hằng phô trương thành tích cướp chính quyền. Lănh tụ Sài g̣n và mọi cơ cấu của nó là ngụy quyền. Bởi v́ nó được nặn ra do thế lực và áp lực ngoại nhân do bầu cử gian dối, lừa gạt. Đám ăn cướp ḥ hét chuyên chế. Đám ăn cắp ḥ hét độc chiếm. Với mệnh lệnh của chủ nghĩa với ân huệ của chủ nghĩa, phỉ quyền và ngụy quyền tranh giành quyền bính. Những khúc xương dính chút mảng thịt ném xuống mặt tổ quốc, chúng nhào tới quần thảo. Đề gặm. Để cạp. Khi chúng nuốt những miếng nuôi chim mồi của chủ nghĩa, dân tộc tôi cay đắng, đ̣i đoạn, thù hận chia ĺa. Bỗng nhiên. dân tộc tôi biến thành một dân tộc hiếu chiến, man rợ!
Để lănh tụ Hồ Chí Minh trở thành “cha già dân tộc”,đám phong kiến quan liêu đội lốt vô sản áo rách đă nướng một thế hệ tuổi trẻ tinh hoa và nồng nhiệt vào cuộc chiến 10 năm để có nền độc lập què cụt và thân thể tổ quốc bị cưa ngang. Không cần kháng chiến giành độc lập, không cần đổ máu, không cần tiêu thổ kháng chíến, nước Mă Lai tầm thường vẫn có độc lập đầy đủ chủ quyền, thịnh vượng, ấm no hạnh phúc và đang có tiếng nói trong sự ổn định t́nh h́nh Việt Nam! Đó là sự mỉa mai, là chứng minh cho ngu xuẩn của phỉ quyền. Nó đă gang họng miệt thị tiền nhân, vọng ngoại đê tiện: “Quang Trung chỉ nh́n được 10 năm, Lénine nh́n xa 100 năm!” Nó răm rắp tin nghe giáo điều của chủ nghĩa, nó sáng tạo tṛ chơi “giải phóng dân tộc” là nó trở nên thông manh, mù quáng. Nó bị lớp màng xanh tham vọng anh hùng giai cấp phủ lấp tim óc. Và nó dẫn dắt dân tộc vào cuộc phiêu lưu 10 năm để dân tộc dạt vào bờ băi lạc hậu, khốn cùng, phân ly. Chưa đủ, nó tiêu diệt thêm 2 triệu con người Việt Nam hiền ḥa, nó bảo “cải cách ruộng đất”, thực ra để củng cố quyền bính gần sụp đổ của nó. Rồi , vẫn giáo điều “giải phóng dân tộc” tham vọng của nó lên cân, nó đưa dân tộc phiêu lưu chiến tranh, mời mọc tư tưởng và súng đạn tư bản nhập cuộc. Nó nướng thêm mấy thế hệ tuổi trẻ ṛng ră 20 năm “giải phóng”! Được ǵ? Một đất nước xanh xao hết máu. Sự cô lập. Nhà tù. Trại tập trung. Thù hận anh em. Và đói khổ. Và già nua, bệnh hoạn. Chưa hề thấy- kể cả ngay trong thế giới cộng sản – một chế độ nào khụ khị, ù lỳ như chế độ cộng sản Việt Nam. Lănh tụ rặt những bô lăo, những cổ thụ không c̣n khả năng đâm chồi, nẩy lộc. Họ cứ khăng khăng nghĩ, sau họ là đại hồng thủy. Do đó, dân tộc héo hắt và tuổi trẻ thui chột.
C̣n đám lănh tụ lính pạc-ti-dăng, khố xanh, khố đỏ ra sao? Đó là lũ ṛi bọ đục khoét xương tủy tổ quốc, lũ tôi mọi hèn mọn của chủ nghĩa tư bản. Nó nhân danh “quốc gia”, bóc lột xương máu của lính chiến bóc lột niềm tin của dân tộc, đàn áp tuổi trẻ tận t́nh. Nó chỉ biết thoán nghịch, rượu, gái và cờ bạc. Nó ăn cắp tiền bạc của nhân dân, ḅn rút tài sản của quốc gia chuyển ra ngoại quốc. Để đeo sao trên cầu vai nó, đă dẫm lên xác chết của hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh hy sinh v́ tự do, dân chủ của đất nước. Để đóng đinh trên tước vị tổng thống, thủ tướng, nó đă quấn khăn tang cho hàng triệu cô nhi quả phụ. Nó diễn hành trong tiếng than khóc của ṇi giống. Nó bán đứng dân tộc nó cho sự vinh hoa, phú quư và quyền uy thống trị. Vây quanh nó là bọn gia nô, cầy cáo hiến kế dâng mưu làm bại hoại tổ quốc. Nó cúi gục mặt cam đành để ngoại nhân khinh nhờn cái uy linh của đất nước. Điều bi thảm nhất là nó giương danh “chính nghĩa quốc gia” bêu nhục quốc gia. Nó thao túng tất cả. Nó độc quyền yêu nước giả vờ và ngăn chặn tiến hóa của dân tộc. Nó ăn cắp cả vũ khí để giết kẻ thù bán cho kẻ thù. Nó đánh đổi bất khuất truyền thống, lấy vọng ngoại, ỷ lại đê hèn. Cuối cùng, nó đào ngũ chạy trốn trước lệnh đầu hàng, bỏ mặc quân dân ngơ ngác. Chưa hề thấy trong lịch sử Việt Nam hạng tướng quốc cao bồi, mật vụ; hạng tham quyền cố vị và ngu dốt như thế.
Nếu chúng không ngu dốt, đám lănh tụ phong kiến đội lốt vô sản và đám lănh tụ khố xanh khố đỏ, chúng đă hiểu được cái thế ḥa giải dân tộc và thống nhất tổ quốc sau này. Ḥa giải dân tộc không thể bao giờ có bằng sự nuôi dưỡng thù hận huynh đệ, thù hận ṇi giống. Người già rồi sẽ chết, phải chết, kể cả lănh tụ vĩ đại muôn năm . Tương lai một dân tộc là ở sự làm việc của người trẻ. Những người trẻ sẽ biết phán xét cha anh, sẽ hiểu giá trị của đoàn tụ, sẽ nhường nhịn nhau, ḥa giải với nhau v́ sự trường tồn của xứ sở. Nếu hiểu được vậy, chúng đă không thích chiến tranh. Và khôn ngoan hơn, chúng biết lấy tiền của ngoại nhân xây dựng hạnh phúc cho dân tộc và kiến thiết đất nước. V́ chúng ngu dốt lại đầy tham vọng nên chúng biến thành công cụ của chủ nghĩa. Một đứa háo danh. Một đứa ham tiền. Cả hai đều thèm quyền bính. Rốt cuộc quê hương tôi là băi chiến trường đọ vũ khí mới nhất của cộng sản và tư bản; dân tộc tôi hứng bom Mỹ, hỏa tiễn Liên xô và đạn AK Trung quốc. Dân tộc tôi nào biết tư bản ra sao, vô sản ra sao, thế mà cứ phải đâm chém nhau v́ chiến tranh giải phóng và chiến tranh ư thức hệ. Hết làm “thành tŕ chống Cộng bảo vệ Đông Nam Á” lại đến làm “thành tŕ bảo vệ xă hội xă hội chủ nghĩa”! Chiến tranh chấm dứt, chúng tôi c̣n ǵ ?Hố bom. Hầm chông. Rừng tàn tạ v́ thuốc khai quang. Đói khổ. Lạc hậu và lạc hậu.
Điều bi thảm nhất của dân tộc tôi là sau ḥa b́nh của thứ gọi là chiến tranh ư thức hệ khốn kiếp, chiến tranh tâm lư chó má, nhà tù và trại tập trung được xây dựng nhanh hơn, nhiều hơn trường học bị bom đạn tàn phá. Người Việt Nam coi người Việt Nam là kẻ thù nguy hiểm. Khi chủ nghĩa tư bản ngự trị trên một nửa đất nước tôi, tṛ chơi của nó là bom đạn, càn quét, giết người, c̣ng xích tra tấn và tù ngục. Người Việt Nam công cụ của chủ nghĩa cộng sản ở một nửa đất nước phía trên, bị đẩy vào chỗ chết bị bắt bớ, bị gọi là cộng phỉ và bị tra tấn, giam nhốt vào các nhà tù do Mỹ viện trợ. Ở trong những nhà tù Mỹ quốc viện trợ, tṛ chơi của chủ nghĩa tư bản xoay cộng phỉ phờ phạc rồi báo chí Mỹ miệt thị người Việt Nam không tôn trọng nhân quyền. Khi chủ nghĩa cộng sản thôn tính miền Nam, người Việt Nam bị coi là thua trận người Việt Nam, bị coi là ngụy quân ngụy quyền, bị lùa vào các nhà tù, trại tập trung rập khuôn mẫu Liên xô và người… ngụy bị người Việt Nam c̣ng xích chân tay bằng khóa chế tạo tại USA! Đất nước tôi lại là nhà tù trại tập trung sau hai mươi năm là băi chiến trường khốc liệt. Thù hận do các thứ chủ nghĩa xâm nhập. Các thứ chủ nghĩa hữu nghị với nhau, nắm tay nhau liên hoan trên quê hương nghèo đói của tôi. C̣n chúng tôi, chúng tôi thù hận lẫn nhau. Chúng tôi nhân danh chủ nghĩa để băm vằm nhau. Chủ nghĩa và bọn đầy tớ vong bản thủ lợi.
Thù hận chưa ngưng, dù đất nước đă tan tác, rạc rài. V́ tham vọng của chủ nghĩa, tham vọng của lănh tụ cái chế độ xă hội xă hội chủ nghĩa đă áp đặt lên khắp quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi những tai họa và những tai họa. Một xă hội sưu thuế mới, đê tiện hơn cả xă hội sưu thuế trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Bọn thu thuế mới, bọn đảng viên cộng sản, gian ác và thủ đoạn gấp ngàn lần bọn lư trưởng, chánh tổng. Dân chúng quằn quại v́ sưu thuế. Ruộng đất ph́ nhiêu, lúa cấy đến bốn vụ mà dân vẫn phải ăn độn khoai sắn. Tự do, dân chủ là nước hoa đối với con nhà nghèo. Hạnh phúc là mỏi ṃn chờ đợi. Tuổi trẻ hắt hiu, cằn cỗi. Dinh dưỡng thiếu thốn, lao động quần quật, tuổi trẻ choắt lại, thấp bé, môi thâm, mắt mờ. Đă thế, vẫn bị đầy ra chiến trường nước ngoài để chết, để đui mù, què quặt cho “nghĩa vụ quốc tế”. Dân tộc bốn ngh́n năm văn hiến bỗng hóa thành một dân tộc dốt nát v́ chỉ được học, được biết những giáo điều viết lại của bầy ngự sử mác-xít. Những tài năng của đất nước bị chôn sống trong nghĩa địa cải tạo, bị thủ tiêu, bị lưu đầy. Do đó, thù hận cũ chưa nguôi, thù hận mới khởi sự. Và đó là chân lư.
Trong nước, phỉ quyền lộng hành, hủy diệt mọi công tŕnh dựng nước của tiền nhân, thúc bách dân chúng cam đành chấp nhận cuộc sống tối tăm ảm đạm. Ngoài nước, đám tàn dư của ngụy quyền tiêu biểu là những tên tướng tá xuất thân khố xanh, khố đỏ, pạc-ti-đăng; những tên chính khách chuyên nghiệp hèn mạt; những tên nghị sĩ dân biểu gia nô; những tên trí thức bất lương, tiêu bạc giả lại mở miệng hôi thối nói chuyện nước non. Sau khi bỏ lính chiến đào ngũ, sau khi bỏ cử tri chạy trốn, sau khi bỏ đồng chí lẩn cút, sang nước Mỹ an toàn không một bóng dáng Việt cộng, lũ tội đồ của dân tộc âm mưu phục hồi quyền bính tôi đ̣i cũ, thứ quyền bính cho chúng bóc lột xương máu của quân dân một cách hợp pháp và có… chính nghĩa quốc gia. Bọn quốc gia giả h́nh này, bọn cầy cáo của ngoại nhân, bọn đă làm ung thối tổ quốc, bọn đă đánh bạc bằng máu của lính chiến, bằng mồ hôi của dân lành, bọn đă làm băng hoại cuộc chiến đấu chống cộng sản xâm lăng, lại tiếp tục làm băng hoại cuộc chiến đấu chống cộng sản cua dân trong nước, làm mất niềm tin hồi hương của lưu dân khắp thế giới bởi những tranh giành quyền lănh đạo độc tôn, bởi những công kích nhục mạ lẫn nhau, bởi những thủ đoạn lừa gạt bịp bợm của chúng. Và, thê lương hơn, bởi tinh thần vọng ngoại khó gột rửa. Một số vẫn ôm chặt chân ông chủ Mỹ. Há chúng chưa quên bàn chân ông chủ Mỹ đă đạp đá chúng những cú cuối cùng khi chúng chạy vào Ṭa Đại Sứ hay phi trường Tân Sơn Nhất lạy van xin trốn khỏi Việt Nam? Chẳng đứa nào có một chút liêm sỉ lănh đạo của Cheng Heng, của Siêu Matak? Hai nhà lănh đạo Kampuchia này đă khước từ ân huệ di tản của Mỹ, kẻ lừa gạt dân tộc họ, t́nh nguyện ở lại đất nước để được tưới máu của họ xuống đất quê hương, để được chết chung với chiến hữu, với dân tộc họ bằng lưỡi lê Khờ me đỏ. Một số t́m cách bám chân ông chủ cũ của Việt cộng là bố Tầu hồng, kẻ thù truyền kiếp của giống ṇi Bách Việt, kẻ đă đô hộ chúng ta hàng ngh́n năm, đă bắt tổ tiên ta lên rừng kiếm ngà voi, xuống biển ṃ ngọc trai hết thế kỷ này sang thế kỷ khác. Há chúng chưa học lịch sử tranh đấu của ṇi giống Bách Việt, chưa biết Lê Chiêu Thống và sự nghiệp rước giặc vào nhà? Học đ̣i tham vọng quyền bính, chúng theo đóm lũ Hoàng văn Hoan, Trương Như Tảng chống bè lũ Lê Duẩn. Há chúng chẳng hiểu Hoan và Tảng bị cộng sản khu trừ đâm ra cay cú mà chống bọn khu trừ ḿnh chứ đâu phải v́ dân tộc mà thoát ly cộng sản. Há chúng chẳng rơ Hoan vẫn tôn thờ tên tội đồ muôn thuở của dân tộc là Hồ Chí Minh? Một số kết hợp tướng bẩn và tá cớm bầy tṛ lạc quyên xổ số, tem phiếu lấy tiền bảo rằng mua súng đạn về lập chiến khu chống cộng sản. Công ty yêu nước của tẩy và cớm làm ăn khấm khá nhờ lưu dân nóng ḷng trở lại quê hương, khao khát trở lại quê hương. Được đám trí thức bất lương đồng loă cổ vơ và vinh tôn hết ngôn ngữ c̣ mồi trên báo chí, thêm nữa, những tên giả h́nh trí thức, giả h́nh văn nghệ chui vào hội đoàn này, hội đoàn nọ chia rẽ giữa các hội đoàn, bôi bẩn những người tài năng không đồng quan điểm với công ty của nó, huyễn hoặc sinh viên, tạo nghi ngờ giữa tuổi trẻ và đàn anh để lôi kéo tuổi trẻ suy tôn lănh tụ tẩy và cớm, những tên đă đàn áp tuổi trẻ tận t́nh. Há chúng tưởng người thức giả quên chuyện chúng đào ngũ vất lại hàng ngàn xe tăng, hàng ngàn đại bác, ..hàng ngàn máy bay, hàng triệu tấn súng đạn và ngót triệu quân tinh nhuệ? Bây giờ chúng lạc quyên, xổ số để mua được mấy khẩu đại bác?
Nh́n thẳng vào sinh hoạt cứu quốc của đám tàn dư ngụy quyền ở quốc ngoại, hướng về dân tộc đang rên siết dưới gót giầy thống trị bạo tàn của phỉ quyền quốc nội , tôi, người tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-1975, tự đặt ḿnh vào cái thế phải chống cả tàn dư ngụy quyền và phỉ quyền. Ngụy quyền lưu manh. Phỉ quyền gian ác. Nước Việt Nam không thể nào được xây dựng kiện toàn bằng lưu manh và gian ác. Dân tộc Việt Nam không thể nào có tự do, dân chủ, hạnh phúc, thương yêu bởi đám lưu manh và phường gian ác. Lịch sử thống trị của ngụy và phỉ đă chứng minh trên hai miền đất nước. Phỉ quyền đang bóp nghẹt dân tộc bằng quyền bính chuyên chính vô sản. Ngụy quyền đang phát động chiến đấu phục hồi quyền bính tôi đ̣i. Hai thứ quyền bính này chỉ là nọc độc ph́ vào tim óc tổ quốc, chỉ là ṛi bọ đục nát gan phổi dân tộc . Tôi đă thấy và thấy rơ hơn từ những ngày tôi cô đơn trong ngục tù phỉ quyền. Và tôi nghĩ tới một chính quyền tương lai của đất nước tôi. Và tôi nghĩ tới thân phận tuổi trẻ Việt Nam bị lừa gạt ṛng ră ba mươi năm trời, bị gạt ra ngoài lề lịch sử. Nhiệt t́nh và ḷng tự phụ của tuổi trẻ đă tiêu pha lăng phí cho những âm mưu củng cố quyền bính khốn nạn của phỉ và ngụy. Bây giờ là lúc tuổi trẻ phải quyết định lấy số phận dân tộc ḿnh, phải nhận thức đúng vai tṛ và nhiệm vụ của ḿnh đối với lịch sử ṇi giống, phải tích cực chiến đấu để xây dựng chính quyền. Không có chính quyền, không bao giờ có hạnh phúc vĩnh cửu. Muốn có chinh quyền, điều kiện tiên quyết là phải xóa bỏ tàn dư ngụy quyền và âm mưu phục hồi quyền bính tôi đ̣i dĩ văng, phải xóa bỏ phỉ quyền. Tôi thành khẩn nghĩ rằng sứ mạng xóa bỏ ngụy và phỉ chỉ có tuổi trẻ thế hệ tôi, trong và ngoài nước làm nổi. Bởi v́ đại nghĩa ở trong tim chúng tôi.
Thế hệ tôi là nạn nhân đau đớn của phỉ quyền và ngụy quyền, đồng thời là chứng nhân buồn bă của niềm tủi nhục của tổ quốc trong thế tranh giành quyền lực giữa hai thứ chủ nghĩa khốn kiếp. Chúng tôi chưa hề là tay sai của bất cứ một thứ quyền lực nào đă thao túng ở Việt Nam. Nói rơ rệt, chúng tôi chưa hề là phỉ, là ngụy. Trong chúng tôi nhiều người đă là lính chiến. Nhưng ở bất cứ một chế độ nào, người lính vẫn chỉ là người cầm súng bảo vệ tổ quốc, quê hương dân tộc. Chế độ sẽ mất như chế độ đă mất, tổ quốc, quê hương, dân tộc c̣n măi, vĩnh cửu. Người lính bảo vệ cái vĩnh cửu đó, không bảo vệ chế độ hay lănh tụ. Chế độ, lănh tụ và chủ nghĩa đă lợi dụng người lính. Người lính gục ngă giữa chiến trường vẫn tin rằng ḿnh chết cho tổ quốc, không chết cho chế độ, lănh tụ. chủ nghĩa. Người ta hằng nói đến quân đội và nhân danh quân đội. Có bao giờ quân đội là tướng lănh đâu! Quân đội là lính chiến và những sĩ quan can đảm. Quân đội không bao giờ là của riêng bọn tướng tá hèn mọn đào ngũ để chúng nhân danh này nọ. Chúng tôi chưa hề để lại những dấu tích ô nhục trên quê hương. Chúng tôi chưa nắm quyền bính và không tham vọng quyền bính. Dĩ văng của chúng tôi đẹp. Hiện tại của chúng tôi đẹp. Chúng tôi đi làm đẹp tương lai. Chỉ có thế hệ tuổi trẻ hôm nay, thế hệ trưởng thành sau 30-4-75, mới đủ khả năng tạo dựng chỉnh quyền cho xứ sở, mới đủ tư cách xóa bỏ ngụy quyền, phỉ quyền.
Kinh nghiệm lịch sử dạy chúng tôi những bài học quư giá về sự trông cậy ngoại bang. Sau Lê Chiêu Thống rước Tầu là Nguyễn Ánh rước Tây. Nô lệ và nô lệ. Những ḥ hét của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Cường Để được tích sự ǵ? Người Nhật đă có mặt ở Việt Nam không phải v́ Cường Để cầu cứu đủ làm sáng mắt chúng ta. Sau Hồ Chí Minh t́nh nguyện làm đầy tớ Liên Xô đến Ngô Đ́nh Diệm cam đành làm đầy tớ Mỹ. Chiến tranh và chiến tranh. Phản bội và tù ngục, lưu đầy. Vậy mà vẫn c̣n những kẻ ngu xuẩn muốn ôm chân tài phiệt Nhật Bản, muốn luồn cúi bá quyền Trung Hoa. Nghĩ thật tủi vong hồn anh hùng, liệt sĩ đă chết v́ chiến đấu chống Tầu, chống Nhật xâm lăng! Bối cảnh lịch sử tuy đă khác nhưng hoàn cảnh lịch sử vẫn giống nhau. Nghĩa là mọi vùng dậy đạp đổ bạo quyền phải xuất phát từ trong nước. Chính nghĩa ở đó. Chính nghĩa lung linh từ giọt nước mắt tủi nhục của bà mẹ. Chính nghĩa sang sảng từ tiếng khóc đói sữa của em thơ. Chính nghĩa ánh lên từ những giọt mồ hôi cưỡng bức đổ xuống nông trường, công trường vô vọng. Chính nghĩa tỏa ra từ những ngục tù xiềng xích. Chính nghĩa đó không t́m thấy ở những ly champagne liên hoan chào mừng lạc quyên, xổ số trúng mối; ở những chỉ thị ngu đần của kẻ mất tổ quốc mà vẫn to miệng hô hoán chỉ có ta mới giải thoát được quê hương. Chính nghĩa đó cũng không t́m thấy ở những đồng bạc ti tiện ngửa tay xin Nhật, xin Tầu; ở những đài phát thanh thuê mướn, ở những chiến khu màn bạc.
Những suy nghĩ, những phán xét của tôi, trước đây, c̣n mơ hồ. Từ ngày tôi về nước, tất cả những ǵ tôi nghe, tôi thấy đă cụ thể cái mơ hồ của tôi. Và, rất ngay thẳng, tôi quả quyết rằng, mọi nỗ lực lương thiện và chí t́nh quốc ngoại chỉ nhằm mục đích hỗ trợ cuộc chiến đấu đích thực quốc nội chứ không thể giành quyền chỉ đạo. Người ta đă không chịu hiểu điều này, nên mới xâu xé, bôi bẩn và tạo ra chia rẽ phân hóa lực lượng. Nghĩ cho cùng th́ đó là bản chất của quân phiệt, mật vụ thôi. Chúng đ̣i đấu tranh cho tự do dân chủ mà chúng không thích tṛ chơi dân chủ và luật dân chủ. Chúng muốn bắt mọi người đi vào quỹ đạo lạc quyên, xổ số đi vào cái hũ gạo tối om? Ai chống lại chúng, chúng chụp mũ dơ bẩn và rỉ tai bêu nhục. Nếu chúng dám về nước, chúng sẽ thấy chúng nhỏ bé đi và trẻ em trong nước đă lớn hơn chúng đủ mọi phương diện. Tôi về nước. Tôi nằm tù. Tôi bị c̣ng tay, xích chân. Từ nỗi cô đơn tù ngục, tôi sáng tạo cuộc chiến đấu mới của tôi. Tôi nhớ anh em nhà Tây Sơn. Và tôi nghĩ rằng, trước hay sau, sớm hay muộn, sẽ phải có cuộc cách mạng Tây Sơn mới giải quyết xong toàn bộ vấn đề của dân tộc tôi. Như thế, tôi có thể khẳng định rằng, tôi và tuổi trẻ thế hệ tôi, v́ nỗi ngậm ngùi của dân tộc mà chiến đấu. Tôi thuộc về dân tộc tôi . Và tôi chiến đấu trong cô đơn. Đừng bảo tôi chiến đấu trong bất cứ một tổ chức nào. Đă đúng thời điểm người tuổi trẻ đội mũ lên chính đầu ḿnh, chiến đấu v́ tổ quốc, dân tộc ḿnh, không dại dột làm giầy giép cho mọi thứ lănh tụ hay chủ nghĩa nào hết. Tuổi trẻ là lănh tụ tuyệt vời nhất. Tôi tự hào tôi đă thấy tôi là người tuổi trẻ dám chiến đấu.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
Dân tộc Việt Nam không cần thắp đuốc đi t́m tự do, dân chủ, nhân quyền ở Washington, Moscow, Paris, London, Péking, Tokyo. Đó là con đường của bọn nô lệ vọng ngoại, làm nhục dân tộc, phản bội tổ quốc, đă đưa đến kết thúc đau thương vào ngày 30 – 4- 1975 và để lại một xă hội thảm hại, đói nghèo lạc hậu ở Việt Nam gần nửa thế kỷ nay..Đă đến lúc quốc dân Việt Nam phải dũng cảm, kiên quyết đứng lên dành lại quyền quyết định vận mạng của đất nước. Kim Âu
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAmerican ProgressvFaivCity
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều
vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvViệt Học
vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài G̣nvLuật KhoavVăn Chương
vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN