MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa
֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution
֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media
֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer
֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học ֎ Báo Chí
֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt
֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập
֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc
֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp
֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ
֎ Drug Smuggling in Vietnam War
֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975
֎ RAND History of Vietnam War era
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008
֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009
֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009
֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009
֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010
֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010
֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010
֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011
֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011
֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011
֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012
֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014
֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015
֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016
֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016
֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016
֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017
֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017
֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017
֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018
֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018
֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018
֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017.
֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.
֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.
֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018
֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.
֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.
֎ Nov/2018. Dec/2018. Jan/2019
vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV
vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO
vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState
vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee
vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate
vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive
vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect
vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme
vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics
vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND
vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL
vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters
vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon
vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim
vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite
vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale
vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider
vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove
vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen
vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch
vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS
vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes
vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign
vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media
vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty
vScien&TechvACLUvVeteranvGateway
vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav
vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị
vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen
vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại
vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền
vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu
vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc
vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn
vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn
vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng
vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia
vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều
vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism
vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức
vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv
vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG
vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn NghệvSOTT
vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN
BINH THƯ YẾU LƯỢC
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
BINH THƯ YẾU LƯỢC
QUYỂN IV.
I - ĐÁNH THÀNH
Đuổi giặc vào thành lũy, bức tới gần mà vây, qua mấy tuần mà không thay đổi, đó không phải là thuật thắng giặc. Như ở trong vây mà giặc có quân ngựa mạnh giỏi, binh khí bền sắc, lương cỏ đầy đủ, ngoài có quân viện có thể chờ, th́ nên đắp cồn đất, xẻ ng̣i, cách vây trăm dặm(?) mở đường gián đạo, số người đắp đào ấy không nên nhiều, tùy đất rộng hẹp mà dùng, chứa quân du binh, chia từng bộ phận mà đi lại, cất nhắc, gặp cần kíp th́ cứu ứng. Trong vây mà quân giặc cùng thiếu lo liều chết để giữ nên lại sinh kế khác th́ ta phục tinh binh ở đường của giặc để chờ, ba mặt ṿng vây th́ quân sĩ nghiêm cẩn chuẩn bị chống đánh, mở vây một mặt để chừa cho giặc một đường sống. Giặc không chạy th́ không đánh; giặc chạy th́ cho quân phục nổi đánh khiến ḷng nó hoang mang. Như thế có thể thắng được. Thế cho nên cái phép vây giặc, không nên lấy sự giữ chắc làm hay.
Binh pháp nói: Vây thành nên bỏ hở (một chỗ)1, là để cho giặc đem nhau trốn ra mà đánh. Trong thuật dùng binh, đánh thành là kém nhất, bất đắc dĩ mới phải làm2. Nay đem binh và công cụ đều tiến, địch phải sợ mà bền giữ. Đánh quân viện đến bất thần, khiến địch lương hết quân mỏi, ngoài không cướp bóc vào đâu, tiến thoái không đường, cũng không bằng lấy quân khinh kỵ thẳng đến dưới thành, nó thấy binh bản bộ chưa đến, ư hẳn thư ḷng, ta bày quân gầy yếu để dụ nó ra mà đánh, gặp quân phục th́ là bị bắt.
*
* *
Thành ở kề sông lớn, lâu dài bền chắc, chớ có khinh thường. Vả địch dựa vào mặt thành mà đấu, ta ngửa lên mà đánh th́ có khác ǵ đem quân sĩ mà gieo vào đống lửa? Không bằng hăy bao vây mà giữ. Ta cứ nghỉ quân chăn ngựa, ngồi ăn và vận chuyển, đợi cho trong thành hết lương, rồi sau dựng thang mây mà bức, ném hịch vào để kêu gọi. Tướng sĩ nó sẽ thoát thân mà trốn chết, cha con c̣n chẳng giữ được nhau, huống chi là quân ô hợp.
_______________________________________
1. Tôn tử, thiên VII.
2. Tôn tử, thiên III.
*
* *
Khí giới đánh thành, phá hại là quan trọng nhất, mà thế đáng sợ nhất th́ không ǵ bằng súng. Nhưng cũng toàn tự người dùng cả. Nếu người đánh thành dùng được mà người giữ thành không thể chống được th́ người đánh thành có thể thành công. Nếu người giữ thành dùng được th́ người giỏi đánh thành cũng khó thành công.
*
* *
Nếu giặc v́ vây ngoài bền giữ, mà trong dinh cấp bách, xin hàng không cho, muốn ra không được nên phải liều đánh, muôn người một ḷng c̣n chẳng đương nổi huống là mười vạn người. Không bằng triệt vây rút quân, trong thành thấy đă giải vây, thế tất tự ra, ra th́ hoang mang, ắt là dễ phá.
Thành bền quân nhiều, đánh th́ sức ta không nổi, nếu có giặc ở ngoài nữa th́ trong ngoài bị địch, đó là đường nguy vậy. Nay bọn phản bội cùng họp ở trong cô thành, trời hoặc khiến chúng ở đấy để cùng chịu giết, ta nên dùng toàn sách để ràng buộc chúng. Chỉ bền giữ ba mặt, nếu giặc Ngô do lục địa mà đến, quân lương hẳn ít, ta đem quân khinh kỵ chẹt đường vận tải, th́ không đánh mà vỡ. Giặc Ngô vỡ th́ bọn Khâm ắt phải bị bắt.
*
* *
Phép làm thang mây nối nhau. Phàm điều trọng yếu trong phép dùng binh, trèo núi lội nước, vượt chỗ hiểm tới chỗ nguy, không điều ǵ là không đầy đủ rơ ràng. Nếu gặp giặc ở trong thành cao vài mươi trượng, th́ nên dùng phép ǵ để trèo lên? Nên dùng hai tầng thang mây. Thang thứ nhất dài 30 trượng 4 thước, thang thứ hai cũng dài 30 trượng 3 thước rưỡi. Trước đặt tầng thứ hai ở trong tầng thứ nhất, đầu thang lại dùng gỗ bền làm chốt ngang, đục lỗ xuyên qua hai thang để kết liền với nhau làm một. Ở đầu dưới thang thứ hai lại đóng móc sắt. Như muốn lên thành, trước phải đặt hai tầng thang kết làm một dựa vào bên thành; trước lên thang tầng thứ nhất, đến đầu thang th́ lật dựng tầng thứ hai phóng vụt lên trên thành, đem móc sắt ở đầu thang móc vào đầu thành, rồi như kiến bám mà leo lên, không đâu là không tới. Đó là cách làm thang mây nối nhau vậy.
H́nh 24. Thang mây
*
* *
Sách Binh lược:
Thành bỏ không, không nên vào, v́ thành không chẳng biết hư thực thế nào mà lường.
Thành liền không nên đánh, đánh thành là điều nhà binh rất kiêng. V́ ở thành là nơi chứa lương cỏ khí giới, quân tướng đóng giữ ở đó.
Người xưa đánh thành, có khi làm thang mây để leo lên; có khi làm cầu bay để vượt qua hào lũy; có khi tranh nhau mà leo lên; có khi chia quân vạch đất mà giữ; có khi chở đất đắp luỹ để vây; có khi làm da trâu để chắn mà đến dưới thành rồi đào hầm vào chân thành để cho thành sụp. Ta trộm nghĩ như thế nguy lắm. V́ nếu trong thành hết cả binh tướng đều lên trên thành, tên nỏ bắn xuống như mưa, hoặc bó cỏ tẩm dầu đốt mà ném xuống, th́ chẳng nguy cho những binh bám leo sao? Họ lại làm sào gạc nai để chống thang mây; lại lấy dây sắt treo hỏa pháo từ trên thành thả xuống chỗ hầm đào mà nổ th́ da trâu và người đều tan nát cả; lại làm thương phi hỏa cho thuốc vào lấy lửa đốt mà phóng; hoặc lấy người dũng cảm, mở cửa xông ra huyết chiến, trong ngoài tử thương cũng bằng nhau. Người ta lại có thể ở ngoài thành đắp núi giả để đặt pháo đắp luỹ cao giữ cho bền chắc khiến giặc phải khốn đốn mà đợi cho nó tự chết, như thế th́ chỉ tranh nhau cái thành không mà thôi. Cho nên nhà binh gặp thế bắt đắc dĩ mới phải đánh thành.
*
* *
Đánh thành. Ngu Hử đời Hậu Hàn làm thái thú Vũ-đô1 quân không đầy 3000 người, mà quân Khương có hàng vạn đánh vây Xích-đ́nh2 mấy chục ngày. Hử bèn ra lệnh cho quân sĩ không bắn nỏ cứng mà ngầm bắn nỏ con. Người Khương cho rằng tên đạn yếu không thể bắn đến, dồn quân đánh gấp. Hử bấy giờ đem 2000 nỏ cứng cùng bắn, không phát nào là không trúng, người Khương sợ hăi mà rút lui.
___________________________________
Nay là đất tỉnh Cam-túc.
Ở phía tây-nam Thành huyện tỉnh Cam-túc.
Dụ vào thành. Cuối đời Hán, Tào Tháo và Lữ Bố cầm cự nhau ở Bộc-dương1. Trần Cung bảo Lữ Bố rằng: có thể sai nhà giàu họ Điền giả hiến mật thư xin làm nội ứng, dụ Tháo vào thành. Tháo tin lời. Lưu Việp bảo Tháo rằng: Trần Cung nhiều mưu, hoặc nhiều cách phản gián, không thể không đề pḥng. Nên chia quân làm ba đội: một đội vào thành, hai đội phục ngoài thành để tiếp ứng. Họ Điền lại sai người dâng thư hẹn lúc canh một th́ trên thành thổi ốc làm hiệu. Đến kỳ, Tháo đem quân đến vào thành. Súng nổ bốn bề, lửa bốc, quân phục đều ra. Tháo cả thua.
Ích-châu2 mục nhà Tấn là La Thượng sai Ngỗi Bá đánh thành Thục, cùng Lư Hùng giao chiến, có thua có được Hùng bèn mộ người Vũ-đô là Phác Tần, đánh cho thấy máu, sai đi lừa La Thượng là muốn làm nội ứng, lấy lửa làm hiệu. Thượng tin lời, ra hết tinh binh sai Ngỗi Bá đem theo Tần mà đánh Hùng. Hùng ra đánh. Tướng là Lư Nhương đặt quân phục ở đường. Tần lấy thang dài dựa vào thành đốt lửa. Quân Bá thấy lửa dấy lên, tranh nhau trèo thang. Tần lấy dây trói hết 500 người đem chém cả. Hùng nhân buông quân, trong ngoài giáp đánh, cả phá được quân La Thượng.
Nhàn làm cho nhọc. Doăn Tử-kỳ đánh Thư-dương3. Trương Tuần ở trong thành ban đêm khua trống nghiêm quân, làm như sắp ra trận. Giặc nghe, suốt đến sáng pḥng bị. Khi đă sáng, Tuần nghỉ quân im trống. Giặc dùng phi lâu ḍm vào trong thành, không thấy có ǵ, bèn cởi giáp nghỉ quân. Tuần cùng với Nam Tễ-vân, Lợi Vạn-xuân hơn 10 người tướng, mỗi tướng đem 50 quân kỵ, mở cửa ra thẳng xông vào dinh giặc, đến thẳng dưới cờ Tử-kỳ, chém giết rất nhiều.
Bọn chín tiết độ sứ Quách Tử-nghi4 vây Nghiệp-thành5, đào ba lần hào, đưa nước sông Chương rót vào, nguy ở sớm chiều. Tư-minh chạy đến cứu Nghiệp-thành, khiến các quân đặt dinh cách thành 50 dặm, mỗi dinh đánh 300 cái trống để uy hiếp ở xa; mỗi dinh kén 500 tinh binh, ngày ngày cướp bóc ở dưới thành; hễ quan quân ra th́ lại tan về các quân. Người ngựa trâu xe trong thành ngày có bị mất, kiếm củi rất khó, ngày th́ pḥng đêm đến, đêm th́ pḥng ngày đến. Tư-minh bèn dẫn đại quân thẳng đến dưới thành, định ngày quyết chiến, quan quân cả thua.
Phàm giặc vây thành, đóng măi không đi, muốn đánh cho được, không ǵ bằng đêm quấy rối. Đặc biệt kén binh sĩ 500 người, theo đúng trang phục của giặc, hiệu lệnh của giặc, có ám hiệu riêng, mỗi khi gặp đêm tối mưa tuyết, chợt thấy giặc có hơi trễ nải, th́ mở cửa hoặc do cửa kín chạy ra, dùng súng, dùng gậy, dùng quả đấm, phá rối dinh giặc, tụ tan chớp nhoáng, ai nấy tự đánh. Gặp gió thuận th́ dùng hỏa khí hỏa pháo để đốt kho tàng; giặc sợ th́ giả cách cùng sợ, giặc ngủ lại giả cách cùng ngủ; nhưng lấy im lặng làm mầu, đánh ngầm làm diệu. Đại khái cứ trống canh hai th́ ra thành, trống canh năm th́ vào thành, đánh dinh tây th́ vào cửa đông, đánh dinh nam th́ vào cửa bắc, nhưng phải lấy ám hiệu nhận làm quân ta mới cho đi. Đó gọi là quân ma, phải kín như c̣ ṛ, nhanh như cắt vụt, không phải người cảm tử và người tập rèn th́ không thể làm được; hay chỉ dùng súng lớn mà đều bắn vào dinh giặc.
______________________________________
1. Ở phía nam huyện Bộc-dương tỉnh Hà-bắc.
2. Nay là đất tỉnh Tứ-xuyên.
3. Ở phía nam huyện Thương-khâu tỉnh Hà-nam.
4. Quách Tử-nghi là công thần của nhà Đường, trong cuộc dẹp loạn An Sử, Quách Tử-nghi cùng tám tiết độ sứ khác là bọn Lư Quang-bật vây Nghiệp-thành, nhưng bị Sử Tư-minh đánh bại.
5. Tại tỉnh Hà-nam, huyện Lâm-chương.
No làm cho đói. Bọn chín tiết độ sứ Quách Tử-nghi vây Nghiệp-thành sắp được. Bấy giờ thiên hạ đói kém, việc chuyển lương phía Nam từ miền Giang Hoài, phía Tây từ miền Quan Phần, thuyền xe nối nhau. Sử Tư-minh1 sai nhiều tráng sĩ, dùng trộm trang hiệu của quan quân để lộn ṣng vào mà đốc thúc việc vận chuyển, không cho chậm trễ, giết càn nhiều người. Người vận lương sợ hăi, hễ thuyền xe chở lương đến là ngầm phóng lửa đốt ngay. Đi lại tụ tán, quân địch cùng nhau quấy rối, quan quân không thể xét được, do đó các quân thiếu ăn, cả vỡ.
Lại Trương Tuần nhà Đường giữ Thư-dương, gặp lương thiếu, Lệnh-hồ Triều chở gạo muối cho giặc vừa đến. Tuần đêm đóng quân ở phía nam thành. Triều đem hết quân lại chống. Tuần sai dũng sĩ ngậm tăm đến bến sông, lấy được ngh́n hộc gạo muối, c̣n dư th́ đốt hết rồi về.
Chúa Kim có 7 vạn quân đóng ở dưới thành Sở-châu2, có 3.000 quân giữ lương ở Hoài-âm, lại có 3.000 chiếc thuyền chở lương đậu ở sông Thái-thành. Tổng Tất gặp được gián điệp mà biết, nói rằng: Quân địch gấp mười quân ta, khó dùng sức mà thắng, có thể dùng kế phá được. Bèn sai thống lĩnh là Hứa Phục lẻn đường đi tới Hoài-âm, trống canh hai ngậm tăm đến dinh địch, đều đem theo lửa ngầm phục ở dưới xe lương hơn 50 chỗ, nghe hiệu th́ đốt. Địch rối sợ chạy trốn, lương cỏ đều hết. Sở-châu được giải vây.
Binh pháp nói: lấy tĩnh để thắng. Lại nói: Lánh kẻ mạnh mà tĩnh. Lại nói: Thấy địch tĩnh th́ làm ồn. Tĩnh là khí giới lớn để giữ thành. Tổ Đĩnh3 nước Tề làm thứ sử Bắc Từ-châu, gặp khi có quân Trần đến cướp, trăm họ nhiều người làm phản. Đĩnh không mở cửa thành, các tỳ tướng đều sai xuống thành ngồi yên; đường phố cấm không cho người đi lại; gà chó không được gáy sủa; giặc không nghe thấy ǵ, không hiểu tại sao, hoặc ngờ người chạy bỏ thành không, không đặt cảnh bị ǵ hết. Đĩnh vụt khiến kêu la vang trời. Giặc cả sợ, tức th́ tan chạy.
__________________________________
1. Sử Tư-minh là lănh tụ nghịch quân chống nhà Đường.
2. Tức là quận Hoài-âm, trị sở cũ ở huyện Hoài-âm tỉnh Giang-tô.
3. Tổ Đĩnh: Tổ Đĩnh người Bắc Tề, làm thứ sử Từ-châu, khi ấy người nước Trần đến đánh, nhân dân nhiều người làm phản. Đĩnh sai không đóng cửa thành, người coi thành đều xuống cả dưới thành ngồi im lặng, đường th́ cấm người đi lại. Địch không hiểu thế nào, tưởng là người chạy đi hết bỏ thành không, không pḥng bị. Thốt nhiên Đĩnh đem quân xông ra ḥ hét, quân địch kinh hăi chạy tan.
--------------------------------------------------------------------------------
Lại chiến dịch Thuận-xương1. Lưu Ỷ nhà Tống không đầy 3 vạn quân. Mỗi buổi hôm tiếng trống của giặc đánh vang cả núi hang, dinh giặc huyên náo, thâu đêm có tiếng. Ỷ ở trong thành cứ yên lặng, chẳng nghe tiếng chó tiếng gà, chỉ lấy tĩnh mà đối phó với huyên náo. Và đại thắng.
Vương Hưu-phạm2 người Quế-dương nhà Tống làm phản, triều đ́nh sợ hăi. Tiêu Đạo-thành đến Tân-đ́nh, sửa đắp thành lũy chưa xong, tiền quân của Hưu-phạm đă đến Tân-lâm. Đạo-thành cởi áo nằm chơi cho yên ḷng dân chúng.
Ngột-truật nước Kim đánh Thuận-xương. Bấy giờ trời nóng. Địch từ xa lại, ngày đêm chẳng cởi áo giáp. Lưu Ỷ th́ sĩ khí nhàn rỗi. Quân Kim đều là người ở Bắc phương. Không khí buổi sáng mát lạnh, Ỷ giữ quân không động. Kịp đến giờ mùi, sức địch đă mệt và có ư rối ren, Ỷ bỗng sai mấy trăm người ra cửa Tây tiếp chiến; chốc lại đem mấy ngh́n người ra cửa Nam, ra lệnh răn không được ḥ hét, chỉ dùng đao búa mà vào trận chém loạn. Từ giờ mùi đến giờ thân. Giặc thua lui. Tức th́ dùng mộc mă mà chắn, nghỉ ngơi một chút; nhưng tiếng trống trên thành không dứt. Bèn đem cơm canh cho các chiến sĩ ngồi ăn, như lúc b́nh thời. Địch tan chạy, không ai dám đến gần. Khi ăn xong rồi, triệt bỏ mộc mă, lại phá giặc, liền phá được. Trong chiến dịch này, Ỷ ra đánh quân chỉ có gần 5.000 người, mà quân Kim kể có vài mươi vạn, duy dùng cách “dĩ dật đăi lao” mà thắng vậy.
Lại Lưu Ỷ giữ Thuận-xương, bấy giờ trời rất nóng, quân Kim mặc áo giáp tiền đến. Ỷ sai một người lính đứng ở trong nắng, hỏi biết là áo giáp nóng, không thể đụng tay, bèn đem hết cả 5.000 người trong thành chia làm 5 đội, hạ lệnh cho trong quân y theo thứ tự ăn cơm, sĩ tốt đổi phiên nhau mà nghỉ. Và cả bại quân Kim3.
Sửa trị. Trong khi giữ thành và tới trận, nên sửa trị những công cụ dùng để giữ hay để đánh, như làm lầu canh, treo màn chiên, đặt giá súng, đặt giường nỏ, chở gạch đá, làm đuốc bếp, sắm lửa dầu v.v...
_______________________________________
1. Thuận-xương: Tên đất, thuộc tỉnh An-huy, Trung-quốc, Lưu Ỷ đời Tống Cao-tôn đánh phá Kim thái tử là Ngột-truật ở đấy. Khi hai quân cầm cự nhau ở thành Thuận-xương, Ngột-truật đêm sai người đến gần thành nghe ngóng, thấy trong thành im lặng không có tiếng gà chó.
2. Thời Nam Tống, Lưu Dụ, Vương Hưu-phạm phản, Tiêu Đạo-thành (sau là Nam Tề Cao đế) đem quân đi đánh. Khi đến Tân-đ́nh (nay thuộc tỉnh Giang-tô, Trung-quốc), thành lũy chưa đắp xong mà quân của Hưu-phạm đă đến Tân-lâm. Đạo-thành cởi áo nằm khềnh ở Tân-đ́nh để yên ḷng quân.
3. Nguyên văn chép vắn tắt. Tỷ dụ này ư nói quân Kim mặc áo giáp mà phơi nắng, rất là nhọc mệt, mà quân của Lưu Ỷ th́ chia làm 5 đội thay phiên nhau mà vừa đánh vừa nghỉ, dùng cách “dĩ dật đăi lao” nên đánh bại quân Kim.
*
* *
PHÉP HỎA CÔNG.
Phép hỏa công đánh làm sao?1
Thưa rằng: Đợi ngày nắng ráo mới nên, hoặc sai 5, 3 người đột nhập mà đốt. Thấy nó có loạn động, quân ứng ở ngoài xông vào th́ được. Nhược bằng có kiên tranh th́ chớ đánh. Nếu nó đóng ở nơi thảo mộc, có thể đốt ngoài mà đánh, chẳng có nó lại đốt ở trong. Phép hỏa công là thế.
Quả dẫn lửa2. Dùng giấy làm quả cầu trong chứa gạch đá vụn, có thể nặng 3 cân hay 5 cân, nấu sáp ong, nhựa thông và bột than làm bùn bôi khắp vào vật ấy, rồi lấy dây gai xỏ qua. Phàm khi sắp ném hỏa cầu th́ phóng quả cầu này trước để lấy mức xa gần3.
H́nh 25. Quả dẫn lửa.
Quả mù thuốc độc. Quả này nặng 5 cân, dùng lưu hoàng 15 lạng, ô dầu thảo 5 lạng, diêm tiêu 1 cân 14 lạng, ba đậu 5 lạng, lang độc 5 lạng, đồng du (dầu trảu) 2 lạng rưỡi, bột than gỗ 5 lạng, nhựa thông 2 lạng rưỡi, thạch tín 2 lạng, sáp ong 1 lạng, trực nhự 1 lạng 1 phân, ma nhự 1 lạng 1 phân. Các thứ ấy giă với nhau rồi nặn làm quả tṛn, xỏ qua một sợi dây gai dài 1 trượng 2 thước và nặng nửa cân, rồi lấy thuốc bao ngoài mà bao.
H́nh 26. Quả mù thuốc độc
_______________________________________
1. Mục này đặc biệt viết bằng chữ nôm.
2. Những đồ hỏa công sau này là chép theo sách Vơ kinh tổng yếu, quyển II và sách Vơ bị chế thắng chí.
3. Quả này làm nặng bằng quả cầu thực, ném nó để lấy mức xa gần rồi theo mức ấy mà tiến lên hay lùi xuống để ném hỏa cầu cho trúng đích.
Trâu lửa pháo xông trận. Dùng con trâu già bỏ đi, buộc dao sắc vào sừng, hai bên ḿnh cặp tre sát vào chân cho không thể quay được, trên lưng đội một ống pháo sắt lớn chứa một đấu thuốc, thuốc để quanh co ở trong pháo; pháo chứa những thuốc liệt hỏa, thần sa, thần hỏa. Phàm khi quân giặc rất nhiều quân ta rất ít, dùng trâu ấy xông vào người ngựa gặp phải tức th́ tan nát. Khi xông vào trận giặc th́ lửa phát pháo nổ, thế như sấm động, ầm một tiếng không kịp bịt tai. Dù khó nhọc mấy ở trong mấy trùng vây của giặc cũng phá tan được.
H́nh 27. Trâu lửa
Thuyền lửa. Dùng thuyền nát hay bè gỗ, chở đầy rơm củi, từ trên đầu gió thuận ḍng mà đốt lửa để đốt chiến hạm lâu thuyền của địch.
H́nh 28. Thuyền lửa
Cung bắn tên quả lựu. Lấy thuốc súng dùng hai ba tờ bông và giấy gói lại, ở giữa cắm tên, dùng dược bàng căn3 bọc thành h́nh quả lựu, ngoài thêm vải gai buộc kỹ, lấy nhựa thông chảy sơn kín lại, dùng giấy tẩm dầu quấn lấy ng̣i thuốc; thẳng trước mắt đặt mũi tên sắt. Nên phong mũi nhọn lại đảo ngược móc câu, khi đốt ng̣i thuốc để phát hỏa th́ mới mở cung bắn đi. Hễ đụng vào người ngựa hay mui buồm của thuyền th́ cháy không tắt được. Đó cũng là đồ tiện lợi.
H́nh 29. Cung bắn tên quả lựu
Tên hai hổ đuổi dê. Cán dài 5 thước, một cán ba mũi; hai ống chứa thuốc súng tốt quay về vè tên, một ống thuốc súng kém quay về mũi tên, cộng ba ống, đường kính 7 phân, dài 4 tấc 5 phân, buộc vào một cái cần. Bắn xa 500 bước. Hai ống thuốc súng tốt ra lửa hết th́ đến ống thuốc xấu ra lửa, có thể đốt cháy cả sàn trại, cháy cả thuyền địch và phá hủy nhà ở của địch. Một người dùng th́ trăm người sợ hăi, rất là huyền diệu. Cũng phải bôi thuốc “kiến hỏa phong hầu” và thuốc “phản phúc hỏa thương đao” để pḥng.
H́nh 30. Tên hai hổ đuổi dê.
_______________________________________
1.Chữ Hán là ? 傍 根 không rơ có đúng chữ không, chúng tôi cứ phiên âm, không rơ là chất ǵ.
*
* *
Sách Tôn tử:
Phàm hỏa công có 5 phép: một là đốt người; hai là đối lương chứa; ba là đốt xe cộ; bốn là đốt kho tàng; năm là đốt đội ngũ.
Dùng lửa phải có cái để nhàn; đốt lửa phải có sẵn chỗ; phát lửa có thời; nổi lửa có ngày. Thời là ở trời khô ráo; ngày là lúc mặt trăng ở phần sao Cơ sao Bích sao Dục sao Chẩn. Phàm gặp bốn sao ấy là ngày nổi gió. Phàm hỏa công th́ phải nhân năm cách đốt ấy mà biến đổi để ứng tiếp. Lửa phát ở trong th́ sớm ứng ngoài; khi lửa cháy mà thấy quân cứ yên tĩnh th́ đợi mà không đánh. Hết sức của lửa, có nên theo th́ theo, không nên theo th́ thôi. Lửa có khi phát ở ngoài, không chờ ở trong, theo thời mà đốt. Lửa đốt ở trên gió không đốt ở dưới gió. Ban ngày th́ gió lâu, ban đêm th́ gió đứng. Phàm quân phải biết cái biến của năm cách đốt, lấy số1 mà giữ. Cho nên lấy lửa giúp việc đánh th́ rơ ràng thắng, lấy nước giúp việc đánh th́ mạnh.
Nước có thể tuyệt, nhưng không thể đoạt được. Phàm chiến thắng công thủ mà không xét định công lao là sự chẳng lành, gọi là “công cốc”. Cho liên minh chúa phải nghĩ, lương tướng phải làm. Không lợi th́ không động, không được th́ không dùng, không nguy th́ không chiến. Chúa không nên v́ giận mà dấy quân, tướng không nên v́ tức mà đánh trận. Hợp với lợi th́ động, không hợp với lợi th́ thôi. Giận có thể lại mừng; tức có thể lại vui; nước mất th́ không thể lại c̣n; người chết th́ không thể lại sống. Cho nên nói minh chúa phải cẩn thận, lương tướng phải răn dè. Đó là đạo yên nước vẹn quân vậy2.
*
* *
Sách Bảo giám:
Không vào hang cọp th́ không bắt được cọp con. Nhưng bây giờ chỉ có cách là nhân đêm tối mà dùng lửa để đánh giặc; khiến giặc không biết quân ta nhiều ít thế nào, ắt phải cả sợ, quân có thể bị giết hết vậy. Diệt được giặc ấy th́ nước Thiện-thiện vỡ mật, uy nhà Hán có thể tự dựng3.
Binh sĩ ở ngoài cửa ải, vốn không phải là con hiền cháu thảo, đều v́ có tội lỗi mà điều bổ ra chốn biên đồn, mà người Nam Di th́ mang ḷng chim muông, khó nuôi dễ bại. Nay ngươi chỉ nên khiêm cấm, nhưng nước trong th́ không có cá lớn, chính nghiêm th́ không có b́nh ḥa, nên rộng răi mà tha lỗi nhỏ, nắm lắy đại cương mà thôi.
_______________________________________
1. Số đây là độ số của bốn sao, quan hệ với gió.
2. Tôn tử, thiên XII.
3. Lời của Ban Siêu, xem Hậu Hán thư, Ban Siêu truyện
*
* *
Sách Vơ kinh:
Vơ vương hỏi:1 Đem quân vào đất chư hầu, gặp chỗ cỏ sâu rậm rạp khắp quanh trước sau tả hữu quân ta, ba quân đi đă mấy trăm dặm, người ngựa đều mỏi, đă dừng nghỉ rồi, quân địch nhân trời ráo gió mạnh, đốt trên đầu gió của ta, và cho xạ kỵ cùng binh tinh nhuệ phục vững ở sau ta, ba quân sợ hăi chạy tán loạn, như thế th́ làm sao được? - Thái công thưa: Như thế th́ lấy thang bay và thang mây mà trông xa tả hữu, xét rơ trước sau. Nếu thấy lửa cháy th́ ta cũng đốt theo ở phía trước ta, rồi lại đốt ở phía sau ta. Ví như giặc đă đến th́ đem quân lui đến chỗ đất đen (đă bị đốt rồi) mà đóng bền ở đó. Giặc đến, c̣n ở sau ta, thấy lửa đă cháy th́ liền chạy xa. Ta giữ chỗ đất đen mà đóng, cho nỏ mạnh quân giỏi hộ vệ hai bên, rồi lại đốt trước và sau ta. Làm như thế th́ giặc không thể hại ta được.
Vơ vương lại hỏi: Giặc đốt tả hữu ta, lại đốt trước sau ta, khói che phủ quân ta, mà đại quân th́ nhắm chỗ đất đen mà vượt ra, như thế th́ làm thế nào? - Trả lời: Như thế th́ ta phải chia quân làm bốn, dùng thế trận vơ xung, cho nỏ mạnh hộ vệ hai bên quân ta. Phép ấy không thắng mà cũng không bại.
*
* *
Phép diều lửa đốt giặc2
_______________________________________
1. Mục này Binh thư yếu lược trích Vơ kinh nhưng chép sai và lộn xộn, chúng tôi sửa lại theo Vơ kinh trực giải (phần “Lục thao” chương 14) mà dịch.
2. Chép cả thiên “Hỏa công” của Hổ trướng khu cơ gồm 9 chương, đây bỏ cả, xem ở sau.
*
* *
Sách Hành quân tu trí:1.
Binh thư nói: Đánh thành tiếng mau thế dữ, như sấm như sét, khiến tráng sĩ không kịp bịt tai. Lư Tĩnh nói: Việc binh quư nhanh chóng, để lâu sinh biến. Sách Tam lược nói: Nhổ đừng để lâu.
Phàm thành hư có nên lấy không? Hư tức là không có người ngựa lương cỏ, không đủ đánh, lấy được th́ không trọn vẹn. Lại nếu không có quân cứu ở ngoài th́ chỉ nên dùng hào sâu lũy cao mà chờ, kế giặc không thi hành vào đâu được, tự nhiên phải t́m ra, dễ bắt. Hoặc ở trong thành hết lương, lâu phải đ̣i ra. Ta dùng mưu giả làm khuất quân, điểm họp người ngựa, chừa ra một góc trống không, đêm th́ giả cách đốt lửa cho giặc trông thấy. Nó tất do chỗ không mà đâm ra. Ở nơi yếu hại ta nên đặt nhiều quân kỳ quân phục, cung cứng nỏ mạnh đón chặn ở đầu đuôi, không cho cứu nhau, rồi sai những tướng nhỏ lănh quân bộ vào thành yên vỗ cư dân, giữ ǵn kho tàng.
Thành thực2 là trong thành đủ ăn đủ binh, cầu đánh không ra, chắc có quân cứu viện ở ngoài. Như thế th́ không nên giữ lâu, hẳn sẽ sinh biến, có thể có quân ở ngoài đến cứu. Nên dùng nhiều mưu lạ mà đánh cho nhanh.
_____________________________________
1. Xem Vơ bị chế thắng chí, quyển 7, chương “Thố trị điều kiện”.
2. Thực là trái với hư.
*
* *
Phép phá thành, đồ đánh thành, đều có luật lệnh, cộng có 12 điều, nên nhận rơ mà theo:
1. Phép “Nga xa động tử”, cho chở đất mà lấp hào, làm núi đất ở phía trong động hào1. Khiến người chia làm hai hàng tả hữu, một hàng chuyển đất vào hào để lấp, một hàng chuyển đồ đựng không ở động (hào) ra. Chỉ sai riêng những tráng sĩ đem đất vào thôi, không nên sai người đi lại khiêng gánh không tiện. Đắp được g̣ đất có thể đứng trông được; lại đóng cọc gỗ, rồi dùng túi vải đựng đất chồng chất để lên thành; chứa nhiều củi đóm thành đống cao rộng ở bên thành là hay. C̣n khoảng đất ở động (hào) th́ đặt nhiều thùng nước bùn và chổi gai để pḥng dầu rái, hỏa tiễn và hỏa pháo của địch ném xuống.
2. Dùng xe đầu hổ và lừa gỗ nhọn đầu đặt ở dưới chân thành, dùng cuốc mỏ quạ đào hố cho thành tự sụp đổ
3. Dùng thang mây ba chân để lên thành, th́ mộc lôi2 trên thành ném xuống không thể làm hại được.
4. Dùng pháo lửa đánh vào lầu của thành và dùng xe húc để xông cửa, phá rào.
5. Dùng pháo lửa, tên lửa, chim lửa đốt kho tàng trong thành.
6. Đào lỗ ở thành, đêm sai chiến sĩ vào thành, phá mở cửa để lọt vào, đốt kho tàng lương thực.
7. Đem quân lính của ḿnh chia làm phen thứ, khiến ngày đêm nổi chiêng nổi trống và la hét mà đánh luôn làm cho địch không thể ngồi yên, như thế ba ngày đêm không được ngủ, người th́ mỏi mệt suy yếu, ta cũng làm ra cách mệt thật mà phải tạm nghỉ ngơi, giữa lúc nửa đêm trăng tối, chợt sai những binh mạnh dạn nhanh nhẹn lên thành cướp cửa, phá cổng, dẫn quân vào thành.
8. Thường ở nơi yếu hại đặt quân kỳ quân phục để chặn quân ngoài đến cứu; như không có th́ thôi, nếu quả có th́ chia quân ra mà chống chọi.
9. Có thể trong đêm dùng cung cứng nỏ mạnh bắn tên vào thành, buộc giấy vào tên lấy ư khuyên làm gián điệp quay lại làm hại, hứa cho trọng thưởng. Nếu sĩ tốt thu được th́ đem dụ dỗ lẫn nhau, khiến cho trong ngoài cùng ứng.
10. Biết rơ được tướng địch, dùng nhưng kẻ mưu chủ tâm phúc, những kẻ phụ tá tả hữu nào, có người tài năng th́ có thể viết chữ trên cái tên tỏ ư ước hội với nhau, bắn vào trong thành, cũng có thể làm phản gián được, khiến cho trên dưới tự đánh giết lẫn nhau.
_______________________________________
1. Tức là chỗ rănh hào trống rỗng.
2. Đùi gỗ.
*
* *
Sách Vơ kinh tổng yếu1:
Phép dùng binh, giữ toàn nước là hơn cả, phá nước là bực thứ; giữ toàn quân là hơn cả, phá quân là bực thứ. Đều là nói dùng mưu để dụ hàng địch. Phải là bắt đắc dĩ mới phải sửa xe cộ, sắm khí giới, ba tháng th́ mới xong, đào đất và đắp núi đất lại ba tháng rồi mới xong, sợ hại người lắm. Cho nên nói đánh thành là hạ sách. Nhưng đánh cũng có phép. Phải biết sức mạnh yếu của địch, lường số nhiều ít của ta, hoặc đánh mà không vây, hoặc vây mà không đánh biết được phép ấy th́ có thể thắng được.
Đại khái đánh là đánh vào nơi nó phải giữ và nơi nó phải cứu. Cho nên thành có khi nên gấp mà lấy, có khi nên hoăn mà thắng. Nếu địch với ta thế ngang nhau mà ngoài có quân viện mạnh, lo trước bụng sau lưng đều bị địch th́ nên đánh gấp để gấp thu lợi. Nếu ta mạnh nó yếu, ngoài không có quân viện, sức đủ để chế được, th́ nên ràng buộc mà giữ để đợi nó sinh tệ. Thế bảo là không đánh bằng quân mà làm khốn bằng kế, khiến nó tự nhổ thành, tự hủy thành. Nếu thành liền quân nhiều, địch muốn cầm quân ta mà quân viện lại đến th́ trong ngoài ta sẽ bị địch, nếu nhổ đi th́ chưa đủ làm nổi mà không nhổ th́ đủ để bẻ gẫy uy địch, nếu như thế mà người tướng không dằn được bực tức lại cho quân sĩ leo lên thành, quân sĩ bị thương mà thành không nhổ được, th́ đó là tai vạ của sự đánh vậy. Thế gọi là không biết sức mạnh yếu của địch vậy.
Binh pháp nói: “Quân gấp mười th́ vây, gấp năm th́ đánh”2, quân ít th́ không vây lâu, chia ra mà đánh, ĺa mà họp lại. Thế gọi là lường số nhiều ít của ta.
Lại thành có khi không nên đánh, có khi tất phải đánh. Cho nên đem quân đến thành, trước phải sai gián điệp thăm ḍ, t́m biết số lương trong thành, tính người chi phí, lương nhiều mà người ít th́ đánh mà đừng vây, lương ít mà người nhiều th́ vây mà đừng đánh. Thế gọi là hoặc đánh hoặc vây.
Phàm muốn đánh thành th́ phải chuẩn bị đồ đánh, rồi sau mới làm, được chỗ đất sống rồi sau mới đến. Chạy tới chỗ nó phải cứu, tức là đánh vào nơi chủ yếu của quân. Dứt chỗ nó cậy nhờ, tức là cắt đường chở lương mà giữ lối về, khiến ngoại giao của nó không đến cứu được vậy.
Quân vây phải ở cách thành ngoài 300 bước, th́ cung tên không tới, gian nguy không thông. Địch ra chọc thủng vây v́ thế đă chùn, muốn đánh một mặt th́ bốn mặt làm rối lên, khiến địch không biết đâu mà pḥng bị. Đó là binh mưu vậy.
Không đào mồ mả, không giết già trẻ, đàn bà con gái, không đốt nhà cửa, không làm nhơ giếng bếp, không hủy thần từ phật tự, là sợ làm cho địch giận vậy.
Phá thành, tiếng trống chưa dứt th́ không cho tù tản đi, khi cho tù tản đi, nên hẹn cho thời giờ, đến hẹn th́ đánh ba hồi trống, quân lính đều phải về dinh. Nếu bắt được phụ nữ th́ ngoài ba ngày không được lưu ở trong dinh. Đó là binh lễ vậy.
Lấy được thành bảo của địch, không phải là nơi yếu hại có thể cậy được th́ không chia quân trấn giữ. Được cơi gần với địch th́ cố giữ để làm nơi cất chứa lương củi rơm cỏ. Đó là để khỏi sự vận chuyển khó nhọc vậy.
_______________________________________
1. Xem Vơ bị tổng yếu, Tiền tập, quyển 10, chương “Công thành pháp”.
2. Tôn tử, thiên III
*
* *
ĐỒ ĐÁNH THÀNH.
Cầu hào. Dài ngắn lấy hào làm chuẩn, dưới đặt hai bánh xe lớn, đầu xâu hai bánh xe nhỏ, đẩy vào hào, bánh xe lọt xuống th́ cầu bằng, có thể sang được. Nếu hào rộng th́ dùng cầu gấp; phép làm cầu gấp th́ dùng hai cái cầu hào tiếp nhau, ở giữa đặt một cái trục chuyển, phép dùng cũng như thế..
H́nh 31. Cầu hào
H́nh 32. Cầu hào gấp
Thang mây xe. Dùng gỗ lớn làm giường, dưới đặt sáu bánh xe, trên dựng hai cái thang, đều dài hơn 2 trượng. giữa đặt trục chuyển. Bốn mặt xe dùng da trâu sống để che, ở trong dùng người đẩy lên. Tới thánh th́ lật thang bay lên trên thang mây để ḍm trong thành.
Thang bay. Dài 2, 3 trượng, đầu xỏ hai bánh xe. Muốn dựng vào thành th́ để hai bánh xe bám vào thành mà đẩy lên.
H́nh 33. Thang bay
Thang bay tre. Làm bằng một cây tre to, hai bên lắp bực chân mà trèo.
H́nh 34. Thang bay tre
Thang bay bóp đầu. Phép làm thang bay bóp đầu, làm hai tầng, tầng dưới như thang bay, tầng trên dùng một cây tre, giữa thang có cái trục chuyển để lật đầu thang lên, đầu cây tre xỏ hai bánh xe, dùng để bám vào thành cho dễ đẩy lên.
H́nh 35. Thang bay bóp đầu
Xe lửa. Lấy cái xe hai bánh, ở giữa làm cái ḷ, trên đặt vạc đựng đầy dầu, dùng than và củi đun sôi lên; bốn mặt lại chứa củi. Đến dưới lầu của thành th́ phóng lửa cho cháy lên rồi đi, chắc địch phải dội nước vào, dầu được nước th́ dầu cháy càng cao, lầu cũng có thể đốt được.
[/i]H́nh 36[/i]. Xe lửa
Lừa gỗ đầu nhọn. H́nh lừa gỗ đầu nhọn như xe phần ôn, chỉ thêm hai bánh, trên đặt gỗ ngang lớn làm xương sống, dài 1 trượng 5 thước, trên nhọn dưới vuông, cao 8 thước, lấy da trâu bọc, trong xe 10 người đun đến sát dưới thành. Dùng làm địa đạo1.
H́nh 37. Lừa gỗ
Xe trâu gỗ. Dùng gỗ bền ván chắc làm nhà nửa mái, bọc da trâu sống, dưới đặt bốn bánh xe, tự trong đun đi, để che cho người đánh thành, cũng một loại với lừa gỗ.
H́nh 38. Xe trâu gỗ
Màn gỗ. Dùng ván mà làm như cái b́nh phong, dùng da trâu mà che, trên đặt cái cần trục chở bằng bốn bánh xe, muốn cao thấp th́ lấy dây mà kéo. Phàm đánh thành muốn leo lên th́ lấy màn gỗ che trước mặt cho khỏi tên đạn.
H́nh 39. Màn gỗ
Xe vọng lâu. Phàm xe vọng lâu cũng như vọng lâu ở trong thành, để ḍm xuống xem công việc trong thành, khi đánh thành muốn dời chuyển cho tiện nên làm xe để chở. Phép làm, dựng gỗ làm ṭa xe và càng xe, dài 1 trượng 5 thước, dưới đặt bốn bánh, bánh cao 3 thước 5 tấc, trên dựng cột trông dài 45 thước, đường kính trên 8 tấc, đường kính dưới 1 thước 2 tấc, trên đặt vọng lâu, dưới đặt trục chuyển, hai bên đặt gỗ chạng, buộc ba lớp dây gai, lớp trên hai sợi đều dài 70 thước, lớp giữa hai sợi đều dài 50 thước, lớp dưới hai sợi đều dài 40 thước, đeo 10 cái cọc sắt có ṿng. Phàm dựng cột th́ cũng như cách dựng cột buồm ở trên thuyền, đóng cọc và chằng sáu mặt cho kỹ. C̣n th́ đại khái đều như phép vọng lâu trong thành.
H́nh 40. Xe vọng lâu
__________________________________
1. Có tác dụng như địa đạo, tức đường ngầm dưới đất.
Hỏa câu (móc lửa). Lấy cái đao hai móc làm lưỡi.
H́nh 41. Móc lửa
Sào xa (xe tổ). Dùng tám bánh xe, ở giữa dựng một cái cột cao, đầu đặt ṛng rọc, lấy dây kéo cái chuồng lên đầu cột; cái chuồng th́ vuông bốn thước, cao 5 thước, bọc da trâu sống để đỡ tên đạn, cao thấp lấy thành làm mức, khiến người nấp trong chuồng ấy ḍm công việc trong thành. Xa trông như tổ chim, nên gọi là sào xa.
H́nh 42. Sào xa
Pháo (súng) bắn xa. Cách chế pháo bắn xa, nên dùng sắt Phúc-kiến, rồi đến sắt rèn. Lửa than gỗ tốt nhất, thứ đến lửa than mỏ. Khi sắt ở trong ḷ th́ dùng rơm băm nhỏ, pha lẫn với đất vàng, bỏ dần vào lửa, khiến cho cứt sắt chảy ra, rèn đến 5, 6 lửa. Dùng đất vàng ḥa làm nước, cho rơm vào ngâm một hai đêm, rồi đem sắt thả vào trong nước ấy chừng nửa ngày th́ lấy ra, lại rèn nữa, đến ngoài mười lửa. Sắt sống 5, 7 cân, rèn c̣n 1 cân th́ mới chín. Khi vào ḷ th́ dùng đất vàng bọc kín lại, một là để pḥng tro bụi, hai là để lấy nghĩa thổ sinh kim, không đến nỗi khô tinh khí của sắt đi. Như làm pháo bắn xa, th́ đem sắt chia làm tám khối giống như ḥn ngói, dài 1 thước 4 tấc, rộng 1 thước 1 tấc, giữa dày mép mỏng, đem 4 ḥn mà đánh thành một cây giống h́nh cây tre, tám ḥn đánh thành hai cây, xong rồi, dùng máy cái đanh sắt nối hai cây sắt ấy lại làm một. Lại dùng sắt như trước 30 cân chia làm hai khối, cũng đánh h́nh như ngói, ráp thêm vào chỗ đễ làm cơ trong ḷng cho đầy thêm. Hơi có tro bụi th́ ngày sau có thể tổn hại. Phải cho sạch bụi và đừng có lỗ nhỏ có thể lọt được những hạt cát dùng để dũa mài. Pháo làm xong, cho lên giá, dùng dây mực để lấy chuẩn, không sai phân nào. Dùng dũa thép dũa cho sáng. Các súng đại ước đều theo thế mà làm. Lại bảo rằng miệng súng loe th́ lửa tan mà sức chậm, miệng súng bóp th́ lửa thu mà sức nhanh, cũng ví như người ta mở miệng hà hơi th́ không có sức, chúm miệng phun hơi th́ có sức. Thuốc đạn ra ống khó th́ đi xa, ra ống dễ th́ đi gần, cũng như bắn tên, tay sau buông tên, kéo căng th́ có lực, kéo nới th́ ít lực. Tiếng súng nhỏ th́ vang mà lảnh tai, tiếng rộng th́ tan mà không lảnh tai, cũng như nghe nhạc, tiếng quản vào tai th́ sâu, tiếng trống vào tai th́ nông.
*
* *
CÁC THỨ HỎA DƯỢC1
Hỏa dược thần. Khi cướp dinh phá trại, xung phong đánh địch th́ dùng:
Thạch Hoàng, Thư hoàng, Lô hoa, Tùng hương, Hùng hoàng, Hắc phê (thạch tín), Ngải noạt, Đậu mạt
Ngân hạnh diệp, Ba sương, Lưu hoàng, Nhược khôi (tro nứa), Liễu khôi (tro liễu), Can phẩn (cứt khô), Tiêu hỏa.
Hỏa dược độc. Khi phá trận mà dùng, giặc ngửi thấy hơi, tối tăm choáng váng, cháy cả da thịt.
Xuyên ô, Nam tinh, Bán hạ, Xà mai, Kim đính phê, Ba sương, Ngân tú, Can phẩn (cứt khô), Ngải noạt, Kim trấp, Sam khôi, Ban miêu, Khương trấp, Hà mô du
Cách ô, Lang độc, Lạn cốt thảo, Nha tạo, Thiết cước phê, Can tất (sơn khô), Tùng hương, Hùng hoàng, Lưu hỏa, Liễu khôi, Đoạn trường thảo, Yên cao, Hoa khôi, Ngân hạnh.
Hỏa dược bay. Xung trận phá trại, đốt lương, thiêu hủy quân mă bộ của giặc, đều dùng được cả.
Lô hoa (trộn dầu trảu rồi phơi khô), Tùng hương, Ngân hạnh diệp, Tạo dác mạt, Nhược khôi, Lưu hỏa, Ban miêu
Huyền hoàng, Can phẩn, Tiêu hỏa, Hoa khôi, Liễu khôi, Thạch hoàng.
Hỏa dược pháp. Rất là lợi hại, khiến giặc một vật không nh́n thấy được, một bước không thể đi được, bắt sống quân giặc th́ dùng thuốc này.
Lương khương, Quân khương, Xuyên tân, Hắc liễu, Du tạo, Thạch tín, Nhân tinh, Thạch hoàng, Tiêu hỏa, Nhược khôi, Liễu khôi
Can khương, Hổ khương, Hồ tân, Xích liễu, Đại tạo, Khoáng khôi, Tùng hương, Hùng hoàng, Lục hỏa, Hoa khôi.
Hỏa dược khói. Thuốc này đụng phải giặc, da thịt cháy ngay, thấy máu trào lên nghẹn họng.
Thiết tử, Nao sa, Nhân trung trấp, Hổ dược, Lưu hỏa, Liễu khôi
Từ phong, Ngân tú, Đồng du, Tiêu hỏa, Nhược khôi, Ban miêu.
Hổ dược ngược gió. Gió ngược càng mạng, khói lửa che trời.
Lang phẩn, Giang đồn cốt, Tiêu hỏa, Nhược khôi, Sam khôi
Ngải noạt, Giang đồn du, Lưu hỏa, Hoa khôi, Ban miêu.
____________________________________
1. Xem Vơ bị chế thắng chí, quyển 16. Mỗi bài thuốc có kèm theo một bài ca, chúng tôi không dịch bài ca.
*
* *
Sách Vơ bị chế thắng chí:
Thời gió. Phép hỏa công, lấy gió làm thế. Gió mạnh th́ lửa hừng, lửa mạnh th́ gió sinh, gió lửa cùng xoay nhau th́ mới thắng được. Cho nên người làm tướng phải biết thời của gió, dùng độ số của mặt trăng đi để làm chuẩn. Mạt trăng đi ở phần sao Cơ (13 độ trời), sao Chẩn (15 độ), sao Trương (17 độ), sao Dực (19 độ), th́ không quá 3 ngày hẳn sẽ có gió lớn mấy ngày liền. Ngửa xem các v́ sao thấy sáng nhấp nháy không định th́ không quá 3 ngày hẳn sẽ có gió lớn trọn ngày. Mây đen đêm che ở miệng sao Đẩu th́ gió mưa cùng nổi. Mây từ phương bắc nổi lên th́ gió to. Mây đen qua Ngân hà th́ gió to mấy ngày. Trăng quầng sắc xanh mấy ṿng th́ có gió không mưa. Mặt trời lặn mây đen trải ra th́ có gió ở xa tới. Gió từ mươi dặm đến bay bụi động lá; gió từ trăm dặm đến thổi cát bay ngói; gió từ ngh́n dặm đến sức có thể lăn đá; gió từ muôn dặm đến sức có thể nhổ cây. Biết được thời của gió mà khéo dùng th́ muôn lần đánh muôn lần thắng.
Địa lợi. Phép hỏa công, trên th́ thuận thiên thời, dưới th́ ứng địa lợi. Đồng bằng sông rộng, đánh xa th́ thắng (dùng viễn khí1 mà đánh). Rừng rậm đường hẹp, đánh sát th́ thắng (dùng pháp khí2 thuận gió mà đánh). Dựa cao đánh thấp th́ thế thuận, dùng đồ nặng với lửa mạnh mà úp xuống. Dưới đánh trên th́ thế nghịch, dùng đố sắc với lửa hừng mà phun lên. Hai bên đều là hỏa khí cả, th́nh ĺnh mà gặp, không kịp thành trận, th́ thế dễ loạn, dùng viễn khí mà đánh trước th́ thắng. Hai bên đều đóng dinh trại, muốn cướp xe lương, trước phải xem đường phục binh, thấy thế dễ làm, dùng hiệu khiến nổi đánh bốn mặt th́ thắng. Ở trong thành đánh ra ngoài th́ nên đánh chỗ bền chắc; ở ngoài thành đánh vào trong th́ nên đánh chỗ mềm yếu. Đánh thủy th́ phải ở trước đầu gió, đồ dùng th́ như loại khói mù. Mui và buồm th́ phải tẩm thuốc thế nào cho lửa không bén. Đó là chước ứng chiến vậy. Nếu không phân biệt địa lợi mà dùng cho thuận, th́ hẳn là bỏ khí cụ mà chạy, chỉ giúp thêm cho giặc mà thôi.
Điều răn của binh. Phàm gặp những lăng tẩm vua chúa đời trước, đền miếu thánh hiền, đô ấp đ̣ông dân, làng ngơ xúm xít, nếu dùng hỏa công th́ đều là thiến ư sùng đạo và không có ḷng thương dân. Đó là điều răn thứ nhất.
Trước vướng rừng rậm, tiến không chỗ giữ, lưng dựa đầm nước, lui không lối chạy, lại sát dinh trại, trận quân chưa bày, phàm gặp nơi đó mà dùng lửa để đánh th́ sợ cháy lan cả đến ḿnh. Đó là điều răn thứ hai. Thời gió chưa định, địa lợi chưa có, gió mạnh tắt lửa, vạ không ǵ to bằng thế.
Phép đánh hỏa công trước hết phải giữ nơi đất hiểm, sau chờ tin gió. Đó là điều răn thứ ba.
Quân địch muốn quy hàng mà chưa nhân được lúc hở, nếu ta nhân gió phóng lửa th́ ngọc đá đều cháy. Đó là điều răn thứ tư.
Trong quân địch có những tay tướng giỏi, ta muốn dùng lấy tất phải đặt kế mà bắt sống. Đó là điều răn thứ năm.
Quân địch đă hàng lại c̣n ngờ là phản mà vội chôn đi để cho thất chí, như Bạch Khởi chôn quân nước Triệu, bất nhân quá đỗi. Đó là điều răn thứ sáu.
Quân địch bị thua, cướp bóc dân ta để trương thanh thế nên nghĩ chước lạ mà cứu vớt mệnh dân; không cứu vớt dân mà lại dùng hỏa công th́ gọi là bất trí. Đó là điều răn thứ bảy.
Măng mồng vừa lớn, cá sâu mới dậy, đốt sạch sành sanh, giết hại sinh vật rất nhiều, làm tổn nhân đức, đó là điều răn thứ tám.
Tuân theo tám điều răn đó, làm sao cho mây bay quạ họp, quỷ thần khó lường được cơ, chớp giật sấm vang, tạo hóa không thấy được diệu.
______________________________________
1. Khí giới đánh xa.
2. Khí giới dùng kỹ thuật riêng.
*
* *
CÁC LOẠI HỎA KHÍ
Pháo thần vạn hỏa phi sa. Dùng rượu đốt sao chế các vị thuốc, chứa trong cóng sành, ngầm để thuốc nổ vào, rồi quăng ở dưới thành, lửa bốc cháy cóng nổ, khói bay mù mịt làm mờ cả mắt giặc, kế đem súng đạn nỏ tên đánh theo. Nên dùng các vị thuốc sau đây, pháo giấy th́ lấy nhựa thông rưới vào, chế tạo rất dễ.
H́nh 43. Pháo thần phi sa
Thiên tửu (rượu mạnh), Phê hoàng, Nao sa, Lương khương, Đại tạo, Phụ mạt, Bán hạ, Ô đầu, Khoáng sa (tức mạt than đá lấy ở nước), Tạo dác, Can khương, Liễu tiết (phơi khô giă nhỏ), Tiêu phấn, Ba đậu xác, Trịnh trục (quả ngón vàng).
Pháo bầy ong. Đan cật tre thành một cái giỏ tṛn, dùng giấy dầy phất hồ 40, 50 lần, phơi khô, trên lại phết giấy dầu 15 lần; mở một lỗ ng̣i pháo, lấy 3 cân thuốc súng, già nửa cân tật lê sắt, nửa cần phi yến độc hỏa, phơi pháo giấy vài chục ống nạp vào trong. Sức nổ rất lớn, chẳng những có thể đánh người, mà lửa phi yến bay khắp bốn phía dính vào ḿnh người hay gặp mui buồm càng có thể bén cháy, tưới nước không tắt. Ném vào giặc th́ cái ǵ cũng tan nát.
H́nh 44. Pháo bầy ong
Pháo sấm vang. Pháo th́ dùng sắt sống mà đúc, trong để thuốc thần yên, dùng pháo cái bắn vào trận giặc, lửa phát pháo nổ, một tiếng như sấm, lửa chuyền vào pháo, pháo vỡ tung bay ra như viên đạn ch́, người ngựa đều bị thương, nhân cơ đó mà đánh th́ tất phá được giặc. Hoặc muốn bắt sống, hoặc muốn đánh chết, tùy cơ mà dùng. Một thứ dùng hỏa thần sa, một thứ dùng liệt hỏa từ phong, một thứ dùng phi hỏa thần yên, một thứ dùng thần hỏa thần phong, một thứ dùng pháp hỏa thần yên, một thứ dùng pháp hỏa thần sa1.
H́nh 45. Pháo sấm vang
Pháo gỗ. Dùng gỗ bền mà chế, không kỳ lớn nhỏ, xoi rỗng ruột, ngoài niền bốn dây đai sắt. dưới mở một lỗ để đặt ng̣i; nhồi thuốc súng cho đầy, miệng cho vào một ít đất vàng, sau cho vào những viên sắt đá và ng̣i thuốc, xỏ liền với máy súng, lửa nổ pháo vỡ bay tung lên. Tiện cho việc giữ thành. Việc khẩn cấp chế tạo cũng dễ.
H́nh 46. Pháo gỗ
Pháo quả lựu. Pháo đúc bằng sắt sống, tạo h́nh giống quả lựu, có lỗ để đổ các thứ thuốc súng thuốc khói vào. Đổ thuốc chỉ độ 6 phần 10, bỏ vào một cái chén rượu, trong chén bỏ mồi nổ, dùng nắp sắt đậy miệng. Pháo bôi phấn trắng, trên vẽ cỏ hoa năm sắc, nhè nhẹ thả trên đất bên đường, giặc thấy cho là đồ chơi, giơ tay nhặt lấy, đụng phải th́ máy mở ra, pháo nổ tan nát, khói bụi mù trời, thần sa dùi vào các lỗ trên ḿnh giặc, xuyên vào hầu, khiến cắn răng lại, mù hai mắt, máu chảy tủy trôi, lửa độc đốt râu sém thịt, đó là lợi khí giết giặc rất nhậy.
H́nh 47. Pháo quả lựu
Súng tre đánh giặc ban đêm. Dùng tre dày bền th́ tốt, ngoài dùng dây da trâu sống buộc chịt rất chặt, phơi khô..., dùng 24 viên đạn lửa, cho thuốc súng đầy vào ống tre, dùng gỗ bịt miệng lại. Nếu giặc đă vào cơi th́ nhân đêm sai nhiều quân giỏi bí mật đến dinh giặc, hoặc canh một hoặc canh hai, mà chia đốt, ngọn lửa cháy rực, quân giặc ngờ sợ rối loạn, liệu thế lùa quân hỗn chiến.
___________________________________
1. Đều là tên các thứ thuốc nổ khác nhau.
II – GIỮ THÀNH
Thành là để bảo vệ dân. Phép giữ thành chính từ mưu đánh thành mà sinh ra. Khi địch ngửa đánh th́ đắp lũy cao mà giữ; khi địch đánh thẳng th́ đắp lũy dầy mà giữ; lo địch đến sát tường mà phá th́ đào hào mà giữ; lo địch ở xa thành mà bắn th́ làm nữ tường mà giữ. Cho nên muốn giữ giỏi th́ phải biết rơ sự đánh giỏi. Duy người biết lo mới hay chống được sự lo. Đời xưa Công Thâu và Mặc Địch hằng cùng chống nhau mà cùng làm thầy cho nhau.
Cách giữ thành giỏi.
Một là hiểm yếu. Bắc phương nhận hàng, Lương-châu1 ḥa với rợ Nhung mà mở đất ngh́n dặm, chẳng mượn chiến công. Chủng đóng Khoan-châu, chữa lại thành bỏ, Giới dời đến Hợp-thành, lại dời sang Điếu-sơn, thế gọi là giữ hiểm. Ngụy được Hải-châu, thành gối núi cô, Đ́nh-chi giữ đất Dương, ḍm núi B́nh-sơn, đều là nhờ trọng thành bao bọc ở trong, hoặc đào ng̣i rănh để ngăn ngựa, hoặc chứa ao hồ để hăm địch, hoặc cách ba biển mà bảo vệ thành Sính, hoặc trồng cây du để chặn quân kỵ, thế gọi là đặt hiểm. Hoặc được đất chắc, đều có thể làm gốc bền vững được; bùn nổi cát xốp th́ phải đào vét cho hết, y như cách đào giếng, một tầng cát một tầng bùn, cuối cùng hẳn có đất vàng. Đến như nền móng rộng dày, th́ tính ở trên mà chở đất bồi vào cho bền chắc mà không lở.
H́nh 48. Kiểu thành
Hai là bền dày. Kim Thế tôn lấy đất ở Hổ-lao để đắp Biện-thành2, đến khi Mông-cổ đánh Biện-thành, súng bắn vào chỉ lơm mà thôi, thế mới gọi là bền. Chu Tự trấn đất Tương-dương3, mẹ Tự là Hàn thị bảo rằng góc tây-bắc hẳn bị địch đánh trước, bèn ở góc ấy đắp xiên hơn 20 trượng, khi giặc đánh góc tây-bắc vỡ, bèn bền giữ thành mới; thế mới gọi là dày.
________________________________
1. Tức là đất Hán-trung thuộc đất tỉnh Thiểm-tây ngày nay.
2. Biện thành: tức là Biện-kinh của nhà Tống, đất huyện Khai-phong tỉnh Hà-nam.
3. Quận, đất của tỉnh Hồ-bắc ngày nay.
Ba là h́nh chế. Tống Nghệ tổ đắp Kinh thành, bày tôi vẽ đồ để tiến, dùng bút ngự bôi ra h́nh như khúc giun, sai theo đúng thức ấy mà xây đắp; đến sau Thái Kinh đổi dinh, mở làm thành vuông, người Kim đến đánh, đặt súng bốn góc, một súng nổ ra th́ theo tiếng mà vỡ đổ cả, bấy giờ mới biết Nghệ tổ có kiến thức xa vậy. Thời Đường Túc tôn, Vơ-uy cửu tính Thương Hồ1 làm phản. Bấy giờ trong thành lớn Vơ-uy có bảy thành nhỏ th́ Hồ giữ mất năm. Phán quan là Thôi Xưng đem quân ở hai thành để kháng cự, trong tuần nhật th́ yên. Đó lại là cái lợi của trùng thành vậy.
Hào là để giữ thành. Hào tốt hay xấu, thành giữ được hay không là quan hệ ở đó. Cho nên đắp thành tất phải đào hào. Hào có ba điều cần:
Một là cần sâu. Sâu th́ không dễ lấp, ước lấy 3 trượng làm mức. Như có nông th́ cả dân cư trong ngoài, phàm có đắp nhà đốt gạch, cho lấy đất ở hào mà làm; nhà nước có làm cũng như thế. Dân có tội nhẹ th́ phạt chuyển và xe đất để bồi vào chân thành phía trong hào. Phương ngôn nói: Hào sâu một trượng thành cao 10 trượng; hào sâu đến suối, thành cao đụng trời. Đó là càng sâu th́ càng giúp cho cao vậy.
Hai là cần rộng: Rộng th́ không thể dễ vượt, ước lấy 10 trượng làm mức, đáy rộng một nửa. Lấy súng đạn trên thành bắn được tới phía ngoài là vừa; xa quá th́ súng bắn không thể tới địch được. Quanh bờ nên trồng nhiều cây rễ xoắn và cỏ rậm để giữ, đó là cách khéo giữ lở vậy.
Ba là nên có hố ngầm. Có hố ngầm th́ không dễ sang trộm. Phép làm là ở dưới đáy hào cứ chừng 10 bước là đào giếng, sâu rộng mỗi bề đều 1 trượng và lấy đến suối làm mức, lại ngoài th́ đem nước sông vào, trong th́ tiết nước lụt ra, để cho sâu thêm. Lại ngầm đánh dấu nơi cạn để tiện sai quân sang đánh. Thế gọi là trùng uyên2.
Có ba cái ấy là đủ việc hào.
___________________________________
1. Vơ-uy là tên huyện ở đất tỉnh Cam-túc ngày nay, đời Đường bị người Hồi-ngột chiếm - Cửu tính là chín bộ lạc Hồi-ngột ở Vơ-uy.
2. Hai lớp vực sâu.
Nếu là thành ở núi th́ địa thế không thể đào hào được. Cách thành 2 trượng, đào lỗ cao thấp, hoặc xen kẽ với khối đá, để chống thang bắc trèo lên. Lại hoặc tháng đông th́ dùng túi cát bày như hàng liễu, đem nước tưới vào, mộl đêm th́ rét đóng lại thành băng, trơn không lên được, công ít mà dễ giữ. Thế gọi là trùng hiểm1.
Nếu có khe sông quanh thành, thuyền bè có thể đi thông được, th́ trồng cọc ở giữa nước không bằng cắm ngầm chông sắt ở bên bờ, lợi khí không nên để cho người biết, v́ là vật hữu h́nh th́ giặc dễ pḥng, vật vô h́nh th́ giặc dễ mắc.
H́nh 49. Đài địch
Ở trên và ngoài thành th́ đài địch nên có, đóa (ụ canh) nên có, tường dê ngựa nên có, cửa ngầm nên có. Đài địch là nơi chủ để giết địch, không thể giết địch th́ thà không có đài. Quy chế làm đài quư ở dài lên, mà không quư ở rộng ngang, dùng đá lớn xây dày mặt trước để che chống địch; bỏ trống hai bên tả hữu mà để rỗng bên trong, dùng thang để lên xuống các tầng, đều có lỗ để bắn hỏa khí, để tiện trông ḍm; lỗ th́ trong hẹp ngoài rộng, để tiện nhằm sang tả sang hữu. Các đài cách nhau không nên quá gần, gần sợ khi đối phóng thần khí th́ lại tự đánh vào thành; nhưng cũng không nên quá xa, xa th́ tên đạn vô hiệu lực, không thể tới địch (nếu địch leo thành ở giữa hai đài th́ hai đài quá xa nhau bắn chéo lại không đến nơi). Phàm địch đánh thành, chỉ lo đánh lên trên, không lo đánh ra bên; những loại xe phần ôn lừa gỗ th́ đều pḥng ở trên mà không lo pḥng ở dưới, thế th́ lấy ǵ mà ứng phó? Làm đài rỗng th́ khi tả hữu giáp đánh, giữa khoảng hai đài có thể bắn súng bắn nỏ đến được.
Đóa (ụ canh) là để che ḿnh; nếu không che được ḿnh th́ không có đóa. Đóa không nên quá cao, cao th́ không ném được đá; miệng đóa không nên quá hẹp, hẹp th́ trở ngại cho việc ném bắn giặc. Ngày nay làm đoá cao ngang tới lông mày, miệng vừa lọt cánh tay, đều không thể dùng được. Nếu muốn dùng được, th́ ở trong đóa nên xây một cái nền cao và rộng độ chừng 3 thước, vừa có thể giữ vững đóa, vừa có thể đánh địch, vừa có thể cho quân nghỉ, lại đều nên chừa lỗ treo, giặc ở xa th́ do miệng đóa mà trông, dùng súng hay nỏ mà bắn, giặc ở gần th́ do lỗ treo mà trông, tùy cơ mà chống, ta có thể chống giặc, giặc không thể hại được ta, như thế th́ dễ chống. Phàm gạch xây lỗ treo th́ trước phải làm khuôn cong mà nung, xong rồi th́ xếp vào mà xây.
____________________________________
1. Hai lớp hiểm.
C̣n như tường dê ngựa th́ làm ở ngoài thành và ở bên bờ hào, không kỳ rộng hẹp, hẹp th́ chừng một trượng, rộng th́ không vượt ra bờ hào. Làm tường ấy th́ gạch hay đất tùy tiện, mỗi trĩ1 làm một lỗ bắn súng lớn, quá năm bước th́ làm một lỗ bắn súng vừa cách đất 3 thước, trên mỗi lỗ châu mai ấy đều làm một cái kẽ (cao 3 tấc rộng 3 tấc) để tiện trông ḍm. Lại trên 3 thước th́ làm một lỗ châu mai nhỏ (rộng 1 tấc). Sống tường th́ dùng đá nhọn gạch sắc để chống giữ. Giặc ở bên kia hào th́ dùng súng lớn mà đánh, giặc lên tường th́ lấy búa lớn côn lửa mà ném xuống. Hoặc nhất thời thu vén không kịp, hay đêm tối khó làm, không dám mở cửa, th́ những người lánh nạn và các loại trâu ḅ, đều cho tạm lánh vào trong tường. Thành với tường nương tựa nhau, tường lấy thành làm bản mệnh, hoăn cấp giúp nhau, tiến lui có thuật. Đối với cái thành không hào th́ càng thấy công dụng của tường ấy. Lưu Ỷ sở dĩ thắng được ở Thuận-xương là v́ thế. Chống giữ đă chắc mới có thể xuất kỳ dụng trá2.
H́nh 50. Tường dê ngựa
Lấy đánh thay giữ, lấy chống giải vây th́ không ǵ cần bằng cửa ngầm. Lẻn trông nơi nào ra vào thuận tiện đục làm cửa, ngoài chừa hơn 1 thước, đến lúc cần mới mở, trong th́ bày cột phay gỗ lim để chống. Hoặc giặc mới đến, dinh trận chưa chỉnh, hoặc đêm tối nhân giặc không biết, hoặc giặc đánh thành mới nghỉ, hoặc giặc vây lâu đă trễ nải, ta ngầm cho quân tinh kỵ ngậm tăm đánh úp, thắng chẳng đuổi xa, giặc mệt th́ tự nghỉ. Nhưng ở trên thành chứa nhiều gạch đá, pḥng khi giặc phạm tới th́ kíp đánh không bỏ mất cơ. Đó là cửa ngầm, cũng gọi là cửa đột. Kín ở dưới chín tầng đất là ngầm, động ở trên chín tầng trời là đột. Cửa là pḥng bọn gian tế lẻn ra; cửa đột là pḥng kẻ địch đánh úp vào, phải cẩn thận vậy.
Trong thành th́ đường thành phải có, hào trong phải có, hạng chiến3 phải có, bảo giáp phải có, chứa trữ phải có. Phàm trong thành, nên để nhiều đường bậc đá, nửa dặm làm một chỗ, để pḥng khi hoăn cấp, mỗi một chỗ có một cái rào, nghiêm giữ đóng mở, một là để pḥng giặc lên, hai là để pḥng quân lười. Phàm ở trong thành, đều nên đào hào trong sâu rộng, mẫu mực cung tương đương với hào ngoài, bờ ngoài của hào cũng xây tường. Khi giặc đă vào thành rồi cũng c̣n có cái ngăn giữ ở trong, nếu thay đổi nhau mà giáp đánh th́ giặc hẳn bại. Xưa thành Thư-dương bị vây, giặc ở ngoài thành đắp trùng hào mộc sách4 để giữ. Trương Tuần ở trong cũng làm hào để chống là như thế đó. Trong thành có hào th́ mới có thể nói đến hạng chiến (đánh ngơ) được.
_________________________________
1. Thành dài 3 trượng, cao 1 trượng là một trĩ.
2. Ra quân kỳ, dùng thuật dối.
3. Hạng chiến là đánh nhau trong đường ngơ.
4. Hai lần hào với rào gỗ.
Phép đánh ngơ, Hứa Qú1 đă làm ở Lạc-lăng, khiến dân đắp tường cao hơn nóc nhà, làm cửa ṭ ṿ ở dưới, một người ở trong cửa ṭ ṿ, c̣n dư mọi người đều phục ở trong ngơ. Mở toang cửa thành, giặc quả ùa đến, súng không bắn vào đâu, mác không đâm vào đâu. Cờ phất lên th́ quân phục dậy, bắt chém vô số. V́ là chống được ngoài thành là kế hay nhất, nhưng một số giặc đă vào thành mà đóng cửa lại th́ như ở trong vạc sôi, cũng không thể không pḥng vậy. Túng sử không thể pḥng bị hết trong ngơ th́ những đường trọng yếu gần thành, tất không thể không nghiêm giữ để hăm địch.
C̣n như phép giữ đất có thể thông hành trong ngày thường cùng lúc lâm sự th́ chỉ có phép bảo giáp và phép chứa trữ. Về phép bảo giáp th́ lấy phép mà biên dân làm hộ ngũ, phàm việc xét định, tra chẩn2, hỏi trộm, đều nhờ đó mà làm, mà trong việc giữ thành th́ càng khẩn cấp, để cho nghiêm hiệu lệnh, cho đều công việc, để xét gian tế, để cẩn thận việc củi lửa và việc trộm cướp. Phép bảo giáp mà làm được th́ chứa trữ cũng dễ. Chứa lương không ǵ tiện bằng sai dân tự chứa, v́ là nộp vào kho th́ dù ít dân cũng có vẻ khó chịu, mà chứa ở nhà th́ đầy cót ai cũng vui theo. Nếu khiến mỗi nhà đều có chứa trữ th́ lo ǵ giặc đến mà không có lương ăn. Nhưng chứa trữ không phải thóc mà thôi. Đài thành bị vây, công khanh lấy ăn làm lo, trai gái sang hèn đều ra đội gạo, nếu mà không pḥng rơm củi, th́ đến sau phải dỡ sảnh Thượng thư để làm củi, dỡ nhà tranh để cho ngựa ăn. Lại nếu không trữ cá mắm th́ lâu ngày người ta sinh ra ḿnh phù khó thở, chết đến 8, 9 phần 10. Thế th́ củi cũng phải pḥng, rơm cỏ cũng phải pḥng, muối mắm cũng phải pḥng. Hung-nô vây Sở-lặc, làm tuyệt mất đường lấy nước ở ngoài thành, Bắc Ngụy vây Hổ-lao, đào hầm dưới đất để rút mất mạch giếng trong thành, thế th́ nước cũng phải pḥng bị. Ngoài ra, lại có thầy thuốc, thợ kỹ nghệ mọi người cần dùng đều phải pḥng bị và những vật binh khí, hỏa khí, đá gỗ, than dầu, những vật cần dùng cũng phải pḥng bị.
Điều cốt yếu về hiệu lệnh, trước hết là thống nhất quyền bính. Quan giữ đất là chủ, ở giữa mà điều độ, dư chia bốn mặt bốn góc, đều đặt chánh phó, lấy những tá nhị và thân sĩ sung làm, việc nhỏ cho được xử đoán. Như cờ xí hiệu lệnh mà có ǵ không tiện th́ phải bẩm chủ thủ, không được tự tiện thay đổi. Chính trị ra tự nhiều mối th́ bại; pháp lệnh không thi hành được th́ bại. Thứ đến việc giữ yên hương dân, thay đổi thổ mộc. Vu Khiêm3 tâu: Ngoài quách không được tỏ là hèn yếu, dân ở ngoài quách đều dời vào trong, không để cho thất sở. Phàm dân lánh loạn vào thành, có thân thuộc th́ ở với thân thuộc, không có thân thuộc th́ quan phải xếp đặt, trai gái không ở lẫn nhau, đều theo hàng ngũ. Dân làng nhiều người, nên pḥng bọn gian tế. Phép đề pḥng gian tế là dựng rào để ngoài hào để hỏi xét, chia cửa ra vào để phân biệt, lấy người bà con quen biết bảo lănh để xét, rồi sau chia vào các khu vực đóng quân; họp lại th́ khó chu đáo, chia ra th́ dễ giữ, mà đoạn lạc không thể không rơ.
___________________________________
1. Hứa Qùy: Người thời Minh Thành-hóa. Có mưu lược, làm tri huyện Lạc-lăng, b́nh giặc cỏ có công (Lạc-lăng tại tỉnh Sơn-đông ngày nay).
2. Tra chẩn: Tra xét nhân số và chẩn cứu người nghèo.
3. Vu Khiêm: Binh bộ thượng thư đời Cảnh đế nhà Minh, Lă Viễn người Mông-cổ xâm lược Trung-quốc, bức đến kinh đô. Vu Khiêm chống cự đuổi được.
Có mấy điều cấm ước cần phải bày tỏ: Cấm nói ngoa, cấm phương sĩ1, sợ v́ phiến hoặc quân chúng mà tiết lộ sự t́nh. Cấm hàng trà, cấm quân trọ, cấm đi đêm, sợ là chỗ chứa kẻ gian mà rủ trộm cướp. Cấm thổi kèn thổi c̣i, dựng cần dựng nêu, sợ là hưởng ứng theo giặc mà làm loạn tai mắt. Cấm động càn, cấm kêu la, sợ là giặc làm cho ta sợ, mà thừa dịp. Cấm ĺa bỏ khu vực đóng quân, phàm cửa, rào, đài, nữ tường, kho, ngục, trung dinh, du dinh, cơ dinh, chiến dinh, những chỗ phải dừng, đi quá một bước th́ chém, để cho thống nhất dân chúng. Cấm tự tiện vào khu vực đóng quân, sợ gián điệp của giặc thác nghề buôn bán để ḍ xem t́nh h́nh. Cấm mở riêng cửa ngơ. Cấm trả lời riêng cho giặc. Cấm gửi riêng thư cho giặc. Ai phạm cấm th́ chém, quân pháp càng nên nghiêm ngặt. Giữ đă bền chắc rồi, mới có thể chống giặc. Phương lược chống giặc là: khao thưởng để cổ vơ quân sĩ; chúng cam khổ để củng cố quần chúng; cẩn thận xét canh để pḥng có động; hậu đăi trinh gián để biết t́nh h́nh địch; kén tử sĩ làm thân binh để đàn áp; đặt du binh thay phiên nhau để sách ứng; đóng binh ngoại ở nơi quan yếu để dựa nhau. Phàm thấy giặc đến, th́ mọi người đều phải giữ nữ tường, có báo động th́ luân phiên nhau mà giữ, không báo động th́ luân phiên phau mà tuần; chuyền cơm cho nhau và thay đổi nhau để ngủ, đều phải ở luôn chỗ ḿnh. Phàm ỉa đái th́ chứa lấy, đem đun nóng mà tưới vào địch. Đá th́ theo từng loại mà chứa, ḥn lớn để xô ḥn nhỏ để ném. Tro th́ văi cho giặc mù mắt. Cḥi lầu lấy bùn mà trát để pḥng sự đốt cháy. Để sẵn giấy mực mà pḥng khi hoăn cấp dùng đến. Luôn luôn đi tuần để xét sự sơ hở. Phạt cho tin, thưởng cho đúng, cốt để gây hùng khí cho quân.
Phàm dùng thuật giữ thành, tâm phải một, khí phải mạnh, sức phải nhàn, chân phải định, tiếng phải tĩnh. Trí cùng biết mà cùng chết, th́ tâm là một. Biết đánh khó mà giữ dễ, th́ khí mạnh. Giữ một dặm không bằng giữ một trượng, giữ một trượng không bằng giữ một thước; càng xa th́ chỉ tổ nhọc, càng gần th́ đắc lực; ở ngoài mười bước không uổng tên đạn, thế th́ sức nhàn. Giặc đánh đông nam th́ ta pḥng tây bắc, du binh ứng bốn mặt, thủ binh đừng thay đổi, đều chết ở chỗ ḿnh, không ĺa 5 thước. Thà ta khiến người đến, đừng để người khiến ta đến, thế th́ chân định. Tiếng loạn th́ không nghe được hiệu lệnh, tiếng ồn th́ không nghiêm được tâm chí, tiếng rối th́ quân giặc đắc kế. Tay chỉ miệng nói, không làm huyên náo, đêm th́ mơ canh, ngày th́ cờ xí, như thế th́ tiếng mới tĩnh vậy.
H́nh 51. Cửa thành
_____________________________________
1. Phương sĩ: Những người làm các nghề thuật số, thầy bói, thầy tướng v.v...
Phàm giặc đóng ở thành, là lấy nhàn mà đợi sự nhọc của ta, lấy no mà đợi sự đói của ta, lấy bền chắc mà đợi mũi nhọn của ta, lấy nhởn nhơ mà đợi sự pḥng của ta; nói phao giải vây để yên ư ta; nói phao tăng binh để đoạt khí ta; khi động khi tĩnh để làm mệt chí ta; hoăn tiến tán xung1 để làm hao sức ta; đắp luỹ thêm rào để làm nản trí2 ta. Ta chỉ nhất định tỏ là không sợ, rút vây ta không mừng, đánh gấp ta không run; tỏ nhát ta không tiến; rút quân ta không theo; ước ḥa ta không tin; giả gây hấn ta không lấy làm lợi; chợt lui quân ta cũng không trễ nải; giữ lâu ta cũng không ngă ḷng; có đợi th́ ta không ra. Hễ chạy th́ chết; có viện th́ sống.
Pḥng địch không ǵ trọng bằng cửa, đóng cọc ở ngoài để pḥng địch đốt; đào hố ở trong để hăm quân giặc thừa cơ xông vào; treo ván ở trên để dụ địch vào cho ta bắt. Phàm cách làm cửa nên pḥng hỏa công; làm lỗ để chĩa súng và giáo ra th́ kẻ tới đánh không dám xông vào trước; làm ao ở trên để chứa nước th́ lửa không thể đốt được; bằng lửa đă cháy rồi th́ đem chum nước mà ném xuống, hoặc dùng túi đựng trấu cát thấm ướt mà đè, hoặc làm thêm thành bán nguyệt đào ao to để cách ra. Đó đều là cách pḥng nguy cấp, chứ không phải là chỉ dùng đá xây đất đắp để tự lấp ḿnh mà chống giặc đâu.
Pḥng địch lại không ǵ hay bằng nữ tường. Phép dùng nữ tường, dùng chăn chiên chăn bông xấp nước mà treo lên, để chắn tên và chống lửa, hoặc trên treo gỗ nhọn hay dùng rèm che ngoài, pḥng khi giặc lẻn đánh úp và trèo thang. Phên treo và da trâu để chống giặc bên ngoài vào, và tạc thủng giữa để tḥ mũi tên ở trong bắn ra, tùy theo hướng đánh mà căng màn vải th́ tên đạn và xe xông cũng không thể phá hỏng được. Nếu phá hỏng nữ tường, th́ lấy gỗ vần đến để thay nữ tường; nếu lại phá hỏng đến thành, th́ kíp làm rào phên mà chống đỡ, lấy giáo và nỏ cứng mà giữ, không th́ thêm lửa đốt và kíp đắp thành bán nguyệt để che, ở trong th́ đào hào sâu để giữ, thế th́ giặc không thể hại ta được.
H́nh 52. Nữ tường gỗ
Cửa và nữ tường đă bền chắc rồi, th́ phải chuyên pḥng gian, phàm kẻ gian sinh ra có khi là người bị vây ở trong hay ở ngoài. Ta nên trước yên ở trong rồi sau mới đến ngoài. Khi giặc đă đắc chí th́ bọn gian hẳn theo giặc vào, thừa cờ mà cướp bóc, làm lo sợ cho cùng dân. Vậy ta nên mở kho cấp lương cho dân, trao giáo cho dân, th́ những dân cùng cũng giúp được việc vậy. Quân giũ Bắc-môn, v́ thích làm quan mà bị nguy, cửa lũy Quy-châu, v́ đám cưới mà mở, thành Nhữ-châu th́ v́ người ứng mộ đắp đất mà bị vỡ. Đó là kẻ gian nội ứng vậy. Chọn người thân tín để dùng; thêm then khóa ở ngoài để giữ cho vững, thế th́ nội ứng bị chẹt. Vây giữ đă lâu th́ ḷng người không nghĩ được bền, một kẻ trèo dây xuống, mọi người sinh ngờ sợ, hoặc hiềm khích với ta, hoặc thông với địch để bày mưu kế. Đó là kẻ gian ĺa phản vậy. Đặt lệnh nghiêm về việc thất hỏa, chuẩn bị sẵn sàng những đồ cứu hỏa, giữ kho thuốc súng, giữ nhà chứa cỏ, đó là cách ngăn ngừa sự biến vậy.
H́nh 61. Phên treo
_________________________________
1. Hoăn sự tiến cho chậm lại; tản sự xung đột cho nhẹ đi.
2. Để khiến trí trễ biếng đi mà mất cảnh giác.
Ngục là chỗ sinh biến cố; kho là nơi nhử cướp đến; cửa hông đường tắt là mối đưa giặc vào. Cần phải trừ bọn ác nghiệt đi. Quân gian tự ngoài đến không những do gián điệp đâu. Có kẻ ngụy mạo, có kẻ úp ngầm, có kẻ trá dụ. Như Loan ngồi xe đàn bà mà vào Khúc-ốc; người Man mặc áo quân vua mà hăm thành Kiện-vi; Huy bắt chước cờ Thục mà đánh được Cảnh Sùng; giặc xưng là trung sứ mà vào U-châu. Thế gọi là ngụy mạo. Nhân đêm tuyết mà vào nước Thái, nhân sương mù mà phá Giáp trại, đó là nhân tối tăm mà đánh úp. Đầu năm phá Tú-dung, chiều mồng một tết cướp Côn-lôn, đó là nhân ngày tết mà đánh úp. Thang dựa ngoài thành mà Hoa-châu bị nguy, mười sáu quân kỵ vào mà Long-đức bị phá, đó là nhân lúc không pḥng mà đánh úp. Thế gọi là đánh úp ngầm. Giả cách lui mà tiến thực; đă đi mà trở lại; tiếng trước mà chụp sau; cầu ḥa để chuẩn bị; giả hàng để đặt gián điệp. Thế gọi là trá dụ. Lệnh nghiêm th́ ngăn được ngụy mạo; pḥng mật th́ giữ được đánh úp; v́ trọng th́ chống được trá dụ.
Tuy nhiên, giặc đánh ngoài không những chỉ có âm mưu mà thôi. Lại c̣n hiểm thuật nữa. Đánh theo hiểm thuật có 12 điều:
1. Thổ sơn, 2. Đăng đạo, 3. Điền hào, 4. Vân thê, 5. Mộc lư, 6. Địa đạo, 7. Chàng mộc, 8. Câu cạn, 9. Nghĩ phụ, 10. Pháo thạch, 11. Hỏa công, 12. Thủy công1.
Phép chống cự th́ như sau đây: Núi ngoài địch đă đắp rồi, th́ ở trong cũng đắp núi mà ứng lại, đắp lên càng cao, để chế ngọn núi ở ngoài tức là chế rơ; hoặc là làm đường dưới đất cho đi ngầm tới, khiến núi đất kia sụt mà không đứng được, tức là chế ngầm ở dưới. Đó là phép chống thổ sơn.
Địch chồng túi đất và chứa củi để làm bực mà lên, th́ ta lẻn đem cỏ khô pha lẫn nhựa thông, nhân gió đốt vào th́ đống chất của họ hẳn đổ. Đó là phép chống đăng đạo.
Địch đánh lấp hào, th́ ta dùng đất bọc cỏ ném xuống như mưa, hay đun cầu xe, trong chứa củi đất, vừa tiến vừa đổ, vượt sang không ai cản được, nếu có sẵn th́ lấy thuốc súng làm chủ, ném ra như sao, tung ra như băo, địch thua mà rút lui. Đó là phép chống điền hào.
__________________________________
1. Thổ sơn: Núi đất đắp ở ngoài thành để leo lên mà nh́n vào trong thành và nhân đó mà trèo lên thành - Đăng đạo: Bực đắp để trèo lên thành – Điền hào: Lấp hào để đi qua cho dễ - Vân thê: Dùng thang mây mà trèo thành - Mộc lư: Dùng lừa gỗ mà lấp hào và đào thành - Chàng mộc: Gỗ để húc - Câu can: Cần móc - Nghĩ phụ: Leo thành như kiến leo - Pháo thạch: Súng đạn - Hỏa công: Đánh bằng lửa – Thủy công: Đánh bằng nước.
Thang mây tung trời, th́ ta căng chăn ướt ở trên. Địch chở nhiều lính giỏi trong xe phần ôn, chở theo đất củi để lấp hào th́ làm thế nào? Rằng liệu xem thế có thể đốt th́ dùng tên lửa là hơn. Hoặc địch dùng lối đục tường th́ ta dùng ba thứ khí cụ, một là câu (móc), hai là chùy (dùi), ba là liệu (đuốc). Nếu không chống được th́ phải đào ao thông với đường ngầm và chứa cỏ khô, ngầm hăm mà đừng đốt, hễ nặng th́ sẽ sụt xuống, đánh trống bắn theo, lửa cháy rực trời, xác giặc thành đống. Đó là phép chống vân thê.
Thang cao đă hỏng, địch hẳn dùng mộc lư(lừa gỗ) che bằng da trâu sống, 10 người lính một xe, đến thẳng chân thành, vừa cuốc vừa bừa, thành đổ xuống hào, tên đạn không làm ǵ được, th́ làm thế nào? Rằng phải bó lau tẩm dầu, x̣e như đuôi én, ném ra mà đốt có thể cháy hết ngay; nếu da ướt không cháy th́ dùng sắt vụn đốt ở ḷ mà tung ra, như muôn hột châu dùi thủng vật dày bền, phút chốc tan nát, pha lẫn dầu mỡ th́ lửa bốc càng cháy to. Đó là phép chống mộc lư.
Đánh ở trên đă cùng, địch lại đánh ở dưới, bèn mưu dùng đường ngầm, đào đất để làm hại, mổ xoi trong đất làm cho tường đổ vách nghiêng, th́ làm thế nào? Rằng dùng núi để chống núi, th́ dùng hầm để chống hầm; quanh thành đào nhiều lỗ, đặt cong mà nghe, nếu nghe tiếng oang oang th́ đào hầm để đón, tung tro tung khói khiến nó như chuột bị hun, nó biết có pḥng th́ bỏ không làm nữa. Đó là phép chống địa đạo.
Đánh thành đă không xong, địch toan mưu đánh nữ tường, vừa húc vừa móc, vừa leo lên vừa bắn súng, bốn việc ấy đều thi hành cả, chủ nhân thảng thốt th́ làm thế nào? Rằng nếu địch đem gỗ húc mà đến, th́ nên dùng cần móc mà cắt cho dây đứt gỗ rơi th́ kế ấy không th́ hành được. Nếu địch dùng cần móc mà đến, th́ lấy dao xô mà chống, lưỡi dao cong quay ra ngoài, chuôi dài tḥng xuống ch́a lưỡi ra mà chống, lưỡi dao phải nên sắc. C̣n như chống địch leo lên th́ có nhiều cách: dùng dây móc kéo ở trên cho ván đinh xán xuống, lăn đá ném cây như mưa xuống; gấp th́ dùng búa nặng bổ vào kẻ leo gần, xa th́ dùng chông gai mà cản. C̣n chống súng đạn, th́ lấy mềm mà chống cứng, căng màn chăng lưới, gầu vải túi lương, che bằng da trâu, vá chỗ tường vỡ. Đó là phép chống bốn lối đánh trên.
H́nh 53. Gỗ húc ở trên xe húc
Dám hỏi cách chống hỏa công th́ làm thế nào? Rằng khi giặc đem lửa mà đến, hoặc dùng xe cao để vạc trên ḷ đốt cho dầu sôi, chứa củi thổi thêm, nếu dội nước th́ càng cháy to, có thể sợ đốt lầu, th́ ta nên ném cát ướt và nước bùn; hoặc địch dùng bó cành thông tẩm dầu mà đốt lầu, th́ ta dùng câu liêm sắt để cắt bỏ đuốc; nếu lửa đă cháy tới nơi th́ dùng nước mà tưới, hoặc thùng hoặc túi, dội cho đến tắt, nếu chậm th́ nguy, ăn năn không kịp. Đó là phép chống hỏa công.
Dám hỏi: Giặc đánh thủy công th́ làm thế nào? Rằng đánh thủy công, v́ thành ta thấp, ta phải lấy ván chắn lấp, không chịu phải làm tôm cá; kíp mộ những người lội giỏi, đem thuổng, đi thuyền ban đêm, ngậm tăm mà phá đập túi cát, trại giặc vỡ loạn, đánh luôn mà đừng la ồn. Đó là phép chống thủy công.
Người hỏi nhận là phải.
*
* *
Người giữ giỏi th́ giữ đồng quanh thành; người giữ không giỏi th́ giữ thành quách. Quân kỳ quân chính bổ sung cho nhau, như ṿng tṛn không mối. Chỗ nào có thể đánh bất ngờ th́ sai quân trông nom; chỗ nào có thể cho du binh tới, cất chặn đường lương, chỗ nào có thể phục quân, có thể đánh giặc sang nửa chừng, ngoài quân bộ kỵ đóng đồn th́ chia giữ những nơi yếu hại để cùng ứng với thành; địch bị hiếp cả trước và sau th́ phải cướp lương cướp củi, khốn lâu phải thua.
Đất là để nuôi dân, thành là để giữ đất. Chăm làm ruộng th́ dân không đói, chăm giữ thành th́ đất không nguy, chăm đánh th́ thành không bị vây. Trung quân và tả hữu tiền hậu các quân đều có phần đất, bốn bên làm tường, không cho đi thông qua lại. Tướng có phần đất, súy có phần đất, bá có phần đất, đều phải đào hào đắp thành mà phải nêu rơ hiệu lệnh của trại, khiến không có đủ trăm người th́ không được đi qua; không có đủ một trăm người mà vào, th́ bá phải giết đi, bá không giết th́ bị đồng tội. Trong quân đường ngang đường dọc, cứ một trăm hai mươi bước th́ lập một cái trụ, tính số người và đất mà đặt trụ trông nhau, cấm giao thông riêng, không có tiết phù của tướng lại th́ không được đi thông. Những người kiếm củi lấy cỏ chăn trâu đều phải đi thành hàng ngũ, không thành hàng ngũ th́ không được đi qua. Lại thuộc không có tiết quân sĩ không có ngũ mà đi ngang cửa là giết, đi quá phần đất là giết. Cho nên trong không có người can phạm lệnh cấm và ngoài không bắt được kẻ gian.
Phép giữ đất, lấy tráng nam ở trong thành làm một quân, tráng nữ làm một quân, người già yếu làm một quân. Ba quân không cho được gặp nhau. V́ tráng nam mà gặp tráng nữ th́ phí sức mà sinh ra ḷng gian, chí phân tán mà sức không chuyên, cường tráng mà gặp già yếu th́ người già làm cho người trẻ buồn, người yếu làm cho người mạnh thương, buồn thương ở ḷng th́ khiến người dơng sinh lo, người tráng không đánh. Cho nên người khéo giữ th́ địch không biết đánh vào đâu. Người thủ bị không thể không cẩn thận. Người khéo giữ th́ như cái ṿng, khiến địch không có chỗ nào hở mà lẻn vào được. Phàm người ta giữ thân thể mà huyết mạch qua lại lưu thông cả tứ chi th́ được yên khỏe. Nếu có một mạch không chạy, một khí không thông, th́ chưa có ai là không bị bệnh. Thế nên người dùng binh giỏi, tuy quân đóng bốn mặt, nhưng khi cấp nạn th́ đầu đuôi vẫn ứng được với nhau không cùng. Thế mới là diệu.
Đất ở một phương, ở trong một cơi, ở khoảng một thành, chia quân mà giữ. Đất trọng yếu th́ phải đóng nhiều quân; không th́ phải lường tính số người nhiều ít, quân lính mạnh yếu; quân bộ quân kỵ, trừ nơi trung dinh của đại tướng ra, ngoài đều chia đất đóng riêng. Thế th́ những nơi pḥng ngừa không bỏ trống. Địch đến đánh úp, bốn mặt đều biết cả, lúc gấp th́ phải đem quân trung dinh tới đánh, chứ các dinh khác th́ không thể giảm bớt, v́ sợ địch đánh ở một nơi mà đem quân đánh úp nơi có giảm bớt. Chỗ đất dừng đóng th́ phải đi quanh xem xét bốn mặt; nên kén những người tâm phúc mạnh dạn cho đem quân bộ kỵ để chống bốn mặt xung yếu, số người tùy theo nhiều ít, khiến tuy không có giao ứng mà có công dụng của chỗ xung yếu vậy.
Thành càng lớn th́ giữ càng dễ1. Chia ra từng đoạn, làm nhiều ngăn cách th́ dễ giữ. Nếu đă giữ, th́ trước phải tính đặt những nơi hiểm mà phục binh, khiến giặc muốn lên thành dù lên được th́ hễ lên là chết, giặc muốn vào thành dù vào được th́ hễ vào là chết. Quân giặc dùng pháo đánh thành, người chống giữ cũng phải dùng pháo. Ở trong cửa thành th́ hẳn khó yên, pháo lớn cũng khó dùng được số nhiều; tuy có pháo đài, mà chỗ ở đài cũng không rộng lắm; lại pháo vừa muốn bắn th́ quân địch ở ngoài thấy trước hẳn dùng nhiều pháo mà đánh; lại trên thành pháo phải ở chỗ cao, tự nhiên vời giặc, ở ngoài giặc cứ chiếu thẳng vào đấy mà bắn. Lấy thế mà xem, th́ người chống giữ không thể dùng pháo là rơ vậy. Ví như dựng pháo ở dưới chân trong thành, mà trước mỗi một cỗ pháo th́ chôn gỗ để che cho giặc ở ngoài không trông thấy chỗ đặt pháo, dẫu có tay bắn giỏi cũng không bắn vào được. Có người nói rằng pháo ở trong thành th́ pháo thủ không thể thấy được ở ngoài thành, lấy ǵ làm chuẩn đích? Mỗi cỗ pháo nên dùng riêng một người đứng ở lỗ thành, chuyên xem pháo ở trong, nếu thấy pháo nhắm vừa đúng với vật ngoài th́ bảo bắn, nếu hơi xiên th́ bảo phải thử quay pháo đi; nếu xiên nhiều th́ bảo kéo pháo chuyển đi, rồi nhắm lại mà bắn cho trúng, cho ít trật. Lại trong thành có thể đặt nhiều pháo. Chống giữ bằng pháo th́ chỉ có như thế thôi.
Có kẻ hỏi: Lấy ǵ mà chống ở ngoài thành? Dưới chân thành tự có tường mặt ngựa2, hai bên đều trông thấy chân ngoài của thành. Ở đầu tường ném xuống những thứ giết giặc. Quân giặc mới đến dưới thành, xem khí thế của giặc khó chống được, th́ nên khiến ở dưới chân trong thành, đào một lần hào cho sâu, cách ngoài hào vài trượng đắp một lần thành nữa, đối với cửa thành cũ lại không làm cửa, mà lại ở dưới thành mới đắp đi theo hào trong chừng 2, 3 dặm rồi mới mở cửa để cho người vào thành lớn th́ không đi thẳng được, phải theo bờ hào trong đi quanh dưới chân thành mới 2, 3 dặm mới vào cửa được, như thế th́ giặc dù giỏi lấp hào chẳng qua chỉ lấp được hào ngoài, hẳn không lấp được hào trong. Nếu giặc do cửa mà vào thành th́ phải đi quanh bờ hào trong dưới chân thành mới, quân ta ở trên thành mới trông xuống giặc, vật ǵ mà chẳng dùng được, chính đó là đất chết của giặc, hẳn giặc không dám vào. Đă do cửa chính vào thành mà lại c̣n không dám vào, th́ c̣n vâng mệnh đánh thành sao được. Chỉ pḥng bị như thế th́ nếu quân giặc rất nhiều, đánh hàng trăm cách, ta ở trong thành cũng có thể cười nói mà đuổi nó đi.
Cách giữ thành chẳng những mở các cửa to, mà ở khoảng giữa hai cửa lại mở 2, 3 cửa nữa, cả quanh thành có vài mươi cửa, mỗi cửa đều cho chở thổ mộc tự trong thành ra ngoài, lấp hào làm đường cho quân ta ra vào không trở ngại. Ta ở trên thành, trông thấy quân giặc đi tuần, thừa chỗ tiện lợi cho quân ra đánh giết, hoặc đêm cho quân ra, khiến giặc ở ngoài phải pḥng bị, ngày đêm không lúc nào được nghỉ, thế th́ giặc không thể nào đánh lâu được. Vả lại ta ở trong thành mở cổng thành ra lấp hào không phải là coi thường giặc, mà v́ tự ta phải đặt hiểm cho đủ để nếu giặc vào thành th́ phải chết.
___________________________________
1. Có lẽ là càng khó th́ phải. Sách Vơ bị chế thắng chí, chương “Thành chí” nói: Thành không nên lớn, lớn th́ khó giữ.
2. Có lẽ là tường dê ngựa.
Đài địch không thể làm theo lối cũ. Nên ở trên tường mặt ngựa1 đắp tường cao dày, dưới để lỗ h́nh chữ phẩm(品) rộng 1 thước để trông ḍm và đâm thương. Gần dưới chân tường lấy gỗ nhỏ làm cái giá lợp ngói cho người chống giữ tránh nắng lạnh mưa gió. Nóc nhà ở trong tường phải thấp, th́ ở ngoài dù bắn nhiều cũng không đụng.
Lại trên hào làm cầu, trong cầu lại có cầu treo, tạm thời ngăn địch cũng được. Lúc xuất quân th́ không thể không trở ngại, nên làm cầu máy th́ quân ta ra vào đều tiện. Cửa thành nên làm quanh co khúc chiết, phía sau vào thành phải cách hơn 100 bước, không những súng đạn giặc không bắn tới, mà nếu giặc do chỗ cửa thành cũ mà vào, hễ đi một bước vào trong th́ giặc phải sa bẫy, v́ là trong trăm bước, trên dưới hai vách thành đều có thể đặt những đồ mà người đánh giặc cần để giết giặc. Trước cửa cũ th́ đắp ngang một cái tường hộ môn cao hơn 1 trượng, hai đầu che quá cửa 2, 3 thước, để khi mở cửa đóng cửa cho người ngựa ra vào th́ người ngoài hào đều không trông thấy, thế th́ ai c̣n dám ŕnh ngó! Dưới chân thành ngoài, cách thành 2 trượng th́ đến hào, trên bờ hào đắp tường dê ngựa cao dày, cao 1 trượng dày 6 thước, dưới chân trong tường cũng đắp cái tước đài cao 2, 3 trượng, rộng 4 thước, tước đài và tường dê ngựa cũng đều chừa lỗ h́nh chữ phẩm(品) để ḍm ngó và đâm thương, cũng như đầu nữ tường ở trên thành lớn. Trên tước đài, th́ chôn gỗ, để pḥng giặc lấp hào và phá thành dê ngựa. Nếu giặc đến dưới chân thành, th́ giặc hai mặt bị đánh, trên tước đài và dưới thành lớn cùng bắn ra. Thế là giặc chỉ đánh một mặt mà quân ta ba mặt chống lại. Trong tường dê ngựa th́ quân ta nhờ tường ấy ngăn đỡ súng đạn ngoài hào, thế là tường dê ngựa cùng với thành lớn, hai thành đều dùng, khiến giặc có phá được tường dê ngựa cũng không dám vào. Cho nên tường dê ngựa so với thành lớn, dù rất thấp mỏng, nhưng cái công chống giữ bền chắc th́ cũng chẳng kém ǵ thành lớn. Lại lính đóng trong tường dê ngựa đó chính là mở thành đặt trại để lưu quân phục, chẳng biết quân giặc có thể dùng cách ǵ mà giải! Như thế đă có tường dê ngựa th́ có thể không phải dùng chàng nạng gạc nai nữa. Lại nên đặt nhiều cửa ngầm ở ḿnh thành lớn để cho quân ḿnh ra vào ở tường dê ngựa. Tường dê ngựa chỉ cách chân thành lớn 2 trượng, không nên xa quá sợ ở trên thành lớn ném gạch đá xuống khó qua, rơi vào trong tường mà hại người ḿnh, và cũng không nên gần quá, sợ chật hẹp khó quay thương. Lại ở trong chân thành lớn đào hào trong sâu rộng, trên mặt hào đo để đất độ 5, 7 thước làm đường đi lại, ở ngoài th́ đắp thành bài, để sẵn nhiều gỗ mà dùng khi giặc cướp thành. Thiết bị như thế th́ dẫu giặc đánh giỏi cũng không đủ sợ.
H́nh 59. Chàng nạng
______________________________________
1. Chỗ khác gọi là tường dê ngựa.
*
* *
Sách Vơ kinh tổng yếu1 nói về phép giữ thành; Nếu giặc cướp sắp đến cách ngoài thành 500 bước, đều phải đẵn hết cây phá hết cầu, dỡ nhà, lấp giếng, có suối th́ đều bỏ thuốc độc xuống, đá gỗ gạch ngói, rơm cỏ lương thực, súc vật và đồ đạc của cư dân, đều dời hết vào trong thành, nếu dời không kịp th́ đốt đi...
Phàm kho tàng chứa để, lầu sàn, cánh cửa, khung cửa, và những nơi lửa có thể cháy tới, hết thảy dùng chăn trùm lên và lấy bùn mà trát; dưới sàn lầu th́ tùy nơi chứa những gỗ đá, mác búa và các đồ đoản binh khác, ngoài th́ dựng xe nỏ, giá súng, ở trên lầu sàn và nữ tường th́ che rèm dầy và phên tre. Trong thành th́ dựng vọng lâu. Biên số dân tráng nam làm một quân để sung làm binh, tráng nữ làm một quân, để làm việc tạp, già yếu làm một quân để giúp vào việc ăn uống, chăn nuôi, kiếm củi; ba quân không được qua lại thăm hỏi nhau. Những người trí khôn sức mạnh, mưu cơ tài giỏi, nghề khéo nói hay, như loại làm giả gà kêu chó cắn, không người nào là không kính nể để pḥng sau dùng. Mỗi tướng trên thành đều lập một người điển chưởng để t́m gọi trăm thức vật dùng. Trước hết phải làm vài mươi cái cờ nhỏ, có t́m gọi vật ǵ th́ viết to tên vật ấy dán lên cờ giơ lên bảo cho người dưới thành biết. Lại kiểm xét trước những vật cần dùng, đều chia làm từng bộ phận, sai lại viên phụ trách cẩn thận ŕnh xem, thấy cất cờ lên th́ phải ứng ngay mà đưa lên thành. Dưới thành cứ trăm bước là cấp ba hay năm mươi người tạp dịch giữ việc khiêng vác các vật t́m gọi ấy, đều giao cho một viên quan đốc lănh. Đường sá đêm đi th́ phải đốt đèn đuốc để ngừa kẻ gian ra vào và quân sĩ qua lại riêng với nhau. Lường tính ở trên thành 1 bước th́ đặt một giáp sĩ, 10 bước th́ thêm 5 người pḥng lúc bất thần rút đổi; 5 bước có một ngũ trưởng, 10 bước có một thập trưởng, 100 bước có một người tướng. Sai riêng ngu hậu lănh chiến, làm thẻ thư hùng cho cầm để đi tuần trong thành, đến đâu phải đưa cho người thủ đội khám hỏi rồi mới được đi qua. Nếu thế giặc ở ngoài mạnh, mà ḷng quân ở trong chia hai, th́ hoặc chuyển tả đội để làm hữu đội, đổi tiền quân đặt làm hậu quân, hoặc một ngày mấy lần đổi, hoặc mấy ngày không thay đổi; lại cất lẻn cho người cầm thẻ ngụy đi tuần để thử xem tướng sĩ có biết hay không....
Phàm ở trong thành, những vật cung cấp hàng ngày, cho đến nước nôi, đều phải có hạn lượng. Khiến dân mỗi nhà làm một cái giếng chứa nước mưa ở trên cao để pḥng cháy và trước xuống lệnh rằng ai để thất hỏa th́ chém, chính đó là cách pḥng ngừa kẻ gian. Hoặc khi trong thành có cháy, th́ chỉ sai quân lại pḥng hỏa lănh dân đinh đến cứu; lại cấp báo cho chủ tướng, chủ tướng sai người thân tín tả hữu kíp đến.
Phàm ở trong thành có thất hỏa và có việc báo động phi thường th́ chủ tướng sai đánh năm hồi trống, quan và quân trên dưới nghe trống không được ĺa bỏ chức chưởng, dân không được chạy ra đường ngơ.
Phàm giặc đến ngoài thành th́ cấm trong thành không ai được dựng vật ǵ cao như loại cây sào cây nêu và không được thổi đồ nhạc khí, sợ làm nội ứng cho giặc.
Phàm ở trong thành có sứ giả đến th́ đưa đến chủ tướng, các tướng nhỏ và quan dân không được tiếp kiến; như được thư bay ở trong thành th́ không được đọc phải cầm đưa cho người có trách nhiệm ở bản dinh, để nguyên phong đưa tŕnh chủ tướng.
Phàm có người hiểu biết thuật số tinh khí th́ hết thảy thu về quan nha, không cho nói trộm cùng người khác và cấm bàn nói những chuyện quái dị, làm mê hoặc quân chúng.
Phàm hiệu lệnh đă ra, chủ tướng và phó tướng trở xuống không ai được tự ư chỉ huy khác đi, hết thảy phải y theo điều kiện ước thúc.
Thanh dă.
Phàm trăm họ ở bốn cửa vào thành lánh nạn, hết thảy những của riêng ở ngoài cửa, trừ những số đă dỡ đem vào trong thành rồi, c̣n cây dài, ván lớn, chiếu mỏng, gỗ sắt, rơm củi ở bếp, đừng để lại một cái ǵ, một là chỉ để cho giặc đốt phá uổng, hai là giặc có thể mượn lấy để làm đồ đánh thành, ta phải muôn phần cẩn thận. Ngoài thành có cây to th́ đẵn đi, gần thành càng nên đề pḥng. Ngoài thành trong 3 trượng có nhà cửa, thấy giặc đến th́ dỡ đi, không kịp th́ đốt đi. Hễ vách bằng gỗ th́ một lần đốt là cháy hết, tức th́ có thể đốt được; hễ là tường gạch đá, giặc ở xa th́ không phục vụ giặc, những giặc ở gần th́ dỡ phá không kịp; nếu như giặc lấy số độ trăm người cho phục ở ngoài nóc nhà mà bắn đánh người giữ thành, hay là giặc cho quân vào trong mà phá thông tường vách, bắc thang bắc gỗ ở dưới thành, có thể leo lên thành được, hay là giặc vào trong nhà mà vận đất đắp, làm bực mà lên thành, những cái đó ta đều không thể làm sao được. Nếu có nhà ở gần thành trong 1 trượng, thân thành lại thấp hơn nóc nhà, thế là thành không giữ được. Hàng hóa tre gỗ ở ngoài quách, nếu không dời đi, th́ đều làm đồ đánh thành cho giặc cả, nên báo cho các lái buôn, hàng đă đem lên bờ rồi th́ y số chở ngay vào thành để bán, c̣n hàng ở dưới nước th́ đều phải dời đi ra ngoài 50, 60 dặm, tạm ẩn vào các kênh nhỏ, chờ khi giặc lui rồi sẽ buôn bán. Nếu trái lệnh th́ sung vào nhà nước để dùng. C̣n nhà giầu ở các hương trấn ngoài thành chứa gạo ở nhà, và những nhà đong chứa để chờ giá, th́ hễ lư bảo sở tại nghe được tin báo động, phải nghiêm bắt vận tải vào thành, cho nhân dân đong chứa, chỉ cho đem vào thành bán, không được mang một hột ra ngoài. Những kho công vận chở đă hết, th́ quan phụ trách bắt lương trưởng đong gạo vào kho. Như có kẻ nào không chịu chở, để gạo ở làng cho giặc lấy, th́ gạo ấy tịch thu ngay để làm lương nuôi lính giữ thành. Lại tra xét các nhà giầu có ai đem trâu rượu tiền của mở cửa đón giặc, th́ đó đều là thông đồng với giặc, chiếu theo pháp luật chém bêu đầu.
_______________________________________
1. Xem thêm sách Vơ bị chế thắng chí, chương “Ước thúc”.
*
* *
Sách Vơ bị chế thống chí:
Phái dân phu.
Những người buôn rau, bán nước, làm thuê và côn đồ nghèo, sớm lại chiều đi th́ miễn biên.
Từ 60 tuổi trở lên, không có con, vợ chồng già, lại không nhà ở, không người sai khiến th́ miễn biên.
Vợ goá từ 15 tuổi trở xuống, con dại, lại không có nhà ở và người sai khiến th́ miễn biên.
Những người mắt ḷa, tàn tật, yếu đuối, lại không có nhà ở và người sai khiến th́ miễn biên. Người nào ngẫu nhiên ốm th́ không cho miễn.
Mỗi ụ phải dùng 2 người hay 3 người, luân phiên nhau mà ăn cơm và khuân chuyển các vật liệu; nếu chỉ có một người th́ làm sao đứng một ngày một đêm mà không mỏi mệt, giặc nhân lúc mỏi mệt mà đánh th́ lấy sức đâu mà chống? Tổng kê các ụ ở thành có bao nhiêu quân, trong thành hoặc quân hoặc dân và nhân đinh bao nhiêu, mỗi ụ hoặc 2 tên hoặc 3 tên, viết tên họ vào tường ụ, một ngày một đêm luân ban thay đổi, tại mỗi 100 ụ hoặc 50 ụ, xét người giàu có hữu dụng chọn lấy một người làm giáp trưởng, một người làm phó, áo xanh thắt buộc gọn gàng, đeo một cái đao, tay cầm một lá cờ hiệu, c̣n các dân phu th́ đều mặc sẵn một áo hiệu hoặc đỏ hoặc vàng, cầm một ngọn đao thương, lại một cái búa sắt hay một chuỳ sắt cũng được, như thiếu một cái cũng không trách. Như số binh đinh thặng nhiều th́ phái thêm vào nơi xung yếu.
Định thời giờ.
Phàm những khi chưa có báo động, mỗi buổi sáng sớm thổi kèn và đánh trống một hồi, người giữ thành xuống thành, mỗi buổi chiều thổi kèn đánh trống một hồi, người giữ thành lên thành. Khi có tin tức th́ trên lầu đánh ba tiếng trống, các nhà nhất tè ra cửa, lại nổ ba tiếng pháo, các nhà nhất tề lên thành, lại nổ ba tiếng pháo, các nhà đều tới ụ và phần đất đứng cho đầy đủ. Lần thứ hai nổ pháo phải đợi cháy hết một cái hương; lần thứ ba nổ pháo xong, lại để cháy một cái hương, rồi đánh chuông 360 tiếng. Quan thống suất đều chiếu phần đất của ḿnh mà tra xét có người nào không đến th́ lấy quân pháp xử trí.
Chia đóa ngũ.
Năm ụ làm một ngũ, đặt một bài gỗ, ở trên viết cả tên họ các người. Mỗi đêm mỗi người giữ một trống canh, trông nh́n ra ngoài, thay nhau lần lượt. Thường có 4 người nằm nghỉ, tinh lực không mệt, hoăn cấp có sẵn. Mỗi canh đặt một lá cờ nhỏ, trên cờ dán những tên họ của người tuần đêm, ví như Triệu Giáp canh một, Tiền Ất canh hai. Người canh tuần cầm cờ ở tay, chỉ nhắm trông năm cửa ụ xem dưới thành có người gian tế hay không. Một khi có giặc đến th́ gọi những người đồng ngũ thức dậy, cầm b́nh tro, cục đá, khí giới để đánh. Cứ năm ụ th́ làm một rạp, chọn một người tuổi trẻ can đảm làm trưởng ụ.
Chia phần đất.
Xung quanh thành đại thế bốn cửa th́ có bốn quan, bốn góc lại chia bốn quan để thống lănh các đài; mỗi đài lại chia cho một người đầu mục, quản lănh một số quân mạnh yếu bao nhiêu. Xếp đặt thế nào, đều chia phần đất để cho mọi việc đều có chuyên trách.
Đài địch.
Cửa ụ trên đài địch, mỗi ụ dùng 3 người lính, kén chọn những người sức mạnh, nghiêng ḿnh trông ra ngoài, lưng hướng vào trong, xa gần đây đó đều nghiêng nh́n hết. Các đài đều biên chữ hiệu vào để chia phần đất, phân biệt hiệu cờ và hiệu chiêng trống cùng đồ kêu, ban ngày xem tên cờ, ban đêm nghe tiếng hiệu, rồi đem chữ tên cờ và tên đồ kêu viết to lên tường ụ, khiến mọi người quen nhận. Đều lấy đài địch làm chuẩn…
Nếu ban ngày quân địch phạm vào dưới thành ụ thứ nhất hiệu chữ Thiên, th́ người cai quản đài địch ấy phải phất cờ hồng. Ban đêm mà giặc phạm vào dưới thành ụ hiệu chữ Thiên, th́ người cai quản đài địch ấy đánh trống. Các binh giữ thành nhất tề giới nghiêm chờ đánh. Các lầu thành tả hữu đều phải cho binh tới đó để ứng viện. Đài địch ở hai bên cùng hướng về đấy để cùng đánh. C̣n quan và quân các đài ụ khác, không phải phần đất th́ không được loạn động. Các cửa tuy không có báo động, quân giữ cũng phải giới nghiêm, không cho tự tiện ĺa bỏ phần đất mà ứng viện, sợ giặc giương đông kích tây, nhân chỗ sơ hở mà lên. Như thế pḥng giữ mới nghiêm, mà ứng phó không rối. Nếu có một người binh nào sai lầm th́ lấy quân pháp trị nặng.
Đặt tuần tra.
Quân ở các ụ kẻ siêng người lười không như nhau, phải thường xem xét. Nhưng nếu khiến mọi người điểm tên, năm canh ồn ào, th́ người giữ ụ không có thể nằm ngủ được, tinh thần mỏi mệt, không phải là kế hay. Nên lấy cửa thành làm hạn, như từ cửa đông đến cửa nam chẳng hạn, mỗi cửa đặt 10 người lính tuần la, đặt một lá cờ đỏ nhỏ, giữa viết chữ tuần la, mỗi canh 2 người lính luân ban thay đổi nhau đi tuần mà coi, đều chỉ cần cầm cờ qua lại, giữ miệng không cho ḥ hét, không đánh mơ lắc chuông. Nếu có lính canh ụ nào ngủ say không trông nh́n, và đèn lửa ở ụ nào bị tắt, th́ thu lấy cờ canh, sáng hôm sau đến chỗ quan tổng tuần bẩm xét, nhưng lúc đó vẫn đánh thức người lính canh dậy thắp đèn, không được thét đánh. Trái phép th́ bẩm xét.
Đặt quan đi tuần.
Đặt việc tuần la c̣n sợ sơ hở. Mỗi cửa lại chọn 2 viên quan vơ, cho mỗi người một con ngựa và làm bài canh tên canh. Như đi tuần từ cửa đông đến cửa nam là lúc canh hai, quan cửa đông phải đem một cái tên canh giao cho quan ở trên lầu thành cửa nam kiểm thu, quan cửa nam lại giao cái bài canh hai cho quan cửa đông làm chứng. Cứ luân phiên lần lượt như thế cho hết ṿng. Sáng hôm sau đưa cả cho quan tổng tuần tra xét. Nếu các quan đem bài và tên trao riêng cho nhau mà không thân đi canh, xét được th́ lấy quân pháp trị nặng. Quan tuần trước xét số 10 người lính tuần tra, nếu ở các ụ canh có ai ngủ say không trông nh́n để tắt đèn, bị mất cờ canh cờ tuần, th́ sáng sớm hôm sau đưa đến chỗ quan tổng tuần xét trị. Cũng chỉ cho đi tuần xem xét, không được ḥ hét đánh mơ, làm rối cho những người canh ụ.
Đặt du binh.
Các cửa lại đặt riêng du binh 50 người, chia làm 2 đội, đợi có báo động th́ hiệp sức sách ứng, cùng nhau chống giặc. Những trước phải có ước hẹn. Phàm gặp quân giặc ban đêm đến đánh cửa, th́ cho phóng 3 mũi tên lửa và bắn gấp 3 phát súng, khẩn cấp mười phần th́ đánh 3 hồi thanh la, các du binh được phái ở cửa ấy phải đều ra chống giặc. Tổng quản phái riêng quân chi binh ứng viện. Một cửa có động th́ các cửa đóng chặt giữ vững, không được khinh động, để pḥng giặc giương đông kích tây; càng cấm lính canh ụ, sợ rối bỏ chỗ của ḿnh. Đến như lúc mưa to gió dữ, nửa đêm sáng sớm, người dễ trễ nải, giặc hay nhân sơ hở, càng nên đốc thúc.
Phân biệt trai gái.
Khi dùng đàn bà, không nên cho cùng với trai trẻ lẫn lộn, sợ sinh ra sự gian tà.
Cấm yêu ngụy.
Dám nói sự quái dị và truyền lời xằng bậy, đều hay làm hỏng việc, quân pháp phải nên trừng trị.
Xét gian tế.
Trong thành rất đáng lo là có kẻ gian tế lẻn phục. Nên ở các đầu ngơ nghiêm đặt rào gỗ, luân phiền các bảo giáp để pḥng thủ, khi tối khi sáng, tùy lúc mở đóng, không kỳ sĩ phu cử giám, sinh viên, lại dịch, cứ theo nhà lần lượt canh giữ, không cho bỏ qua. Mười nhà làm chung một tờ bảo kết, cùng bảo đảm kiểm xét lẫn nhau. Nếu có kẻ gian tế mà không chịu phát giác, việc lộ ra th́ bị tội chung. Mỗi rào gỗ phải đặt binh phu, hoặc 10 người, hoặc 20 người, đều tham gia việc canh giữ, lập một người làm trưởng ngơ để thống lănh việc tuần tra mà pḥng gian tế. Khi giặc sắp đến đánh thành th́ trước họp bọn bảo trưởng, cấp cho cái thẻ liên tọa, khiến các bảo tự đi hiểu dụ, các giáp tự đi củ sát, như có nhà nào dung chứa bọn gian tế th́ cả giáp bị tội chung, theo quân pháp mà trị nặng.
Nghiêm trộm cắp.
Tráng đinh lên thành, trong nhà không c̣n người coi giữ, kẻ tiểu nhân hay thừa cơ trộm cắp. Nếu bắt được thực tang th́ không phân biệt trộm hay cướp, ngay khi ấy đánh cho chết để cảnh cáo mọi người. Những kẻ ăn uống không đủ, th́ phải bẩm rơ để quan chẩn cắp theo đó mà giúp đỡ.
Pḥng lửa cháy.
Đánh thành, địch thường phục nhiều gian tế ở trong thành khiến phóng lửa để cho người giữ thành chạy cứu rồi thừa lúc sơ hở mà lên thành. Vậy phải đặt một chi binh, hoặc 50 tên, hoặc 100 tên, chọn đóng ở nơi chính giữa, để thường xem các nhà mà chuyên coi việc cứu lửa. Các phường trưởng, bảo trưởng, tiểu giáp đều chia phần đất, sắm đủ ống nước, gầu vẩy, câu liêm, chổi gai, thang tre, búa, cưa. Mỗi khi một phường bị cháy th́ bảo giáp ở bản phường cùng lính chữa cháy phải cứu, không được rộn kêu. Binh phu giữ thành đều phải giữ ụ, dù đến nhà ḿnh bị cháy cũng không được bỏ chỗ. Nếu bảo giáp bản phường cứu chữa không xong để đến cháy lan, và người không phải là cư dân bản phường thừa cơ cướp nhà bị cháy, tra ra th́ lấy quân pháp trị nặng. Những dân trong thành ở gần thành không nên chất đống rơm rạ củi cỏ, sợ ngoài thành bắn tên lửa vào, nên phải dụ cấm, ít th́ thu cất, nhiều th́ dời để nơi trống cho tiện.
Phái người canh.
Gặp đêm, người ở năm ụ canh đều đứng ở ụ trông ra ngoài, nghe trông Trung quân nổ súng hay hạ đèn. Trong năm ụ luân phiên cắt một người canh giữ, chuyên đứng trông ra ngoài, c̣n dư đều yên ngủ. Hết canh một, thổi 3 tiếng kèn dài để chuyển canh, lại một người khác dậy canh, người đă canh rồi đi ngủ, không cho cởi áo. Sang canh khác cũng như thế. Nếu ban đêm chợt nghe tiếng súng ở Trung quân và thấy bật 2 đèn, th́ đó là có quân giặc đến đánh thành, không kể có được chia canh hay không, hết thảy đều phải ra cửa ụ đứng nh́n ra ngoài. Một chỗ có giặc th́ thúc trống khua thanh la, các phô toàn thành cũng đều thúc trống khua thanh la. Nếu một phô thanh la và trống im th́ các phô khác cũng thôi. Như giặc đă lùi th́ Trung quân hạ đèn bắn súng, các người canh đi ngủ. Ụ nào đến phiên canh th́ chiếu theo cũ mà cầm canh. Bọn gian tế trong thành làm nội ứng hẳn chờ lúc đêm khuya mà hành động, lấy trống canh định thời giờ. Nếu khi giặc đến thành th́ trống canh ở lầu canh chỉ đánh canh một canh hai rồi thôi, chờ đến sáng rơ th́ đánh trống canh năm để tan canh, làm như thế là để cho bọn gian tế lầm thời giờ, đó cũng là một phép hay vậy.
Rơ hiệu lệnh.
Phàm ở trong một rạp1, một người không đến, hay đêm về nhà riêng, th́ tội lây người trưởng ụ, đều đánh 20 gậy, người chính phạm th́ cắt tai, đồng ụ đồng rạp cũng tội lây. Gặp khi giặc đánh vào thành mà không đến th́ người chính phạm bị giết rao cho mọi người biết, trưởng ụ th́ cắt tai, đồng ụ đồng rạp th́ trói đánh. Như cờ, rạp, khí giới, tên đạn, súng lửa, thanh la và trống các loại mà có một vật không được chu đáo th́ kẻ chính phạm bị trói đánh, đồng ụ đồng rạp phải tội lây. Từ 5 ụ trở lên, th́ bản quản kỳ phải trói đánh. Ở vệ2 thành từ một phô trở lên, ở sở3 thành từ 2 phô trở lên, th́ quan chưởng ấn và quan phân quản bị trói đánh. Khi giặc đánh thành, để thiếu thốn và phóng hỏa khí không đúng phép th́ người chính phạm bị giết rao cho mọi người biết, những người bị tội lây như trên kia đều cắt tai. Kẻ nào quay đầu lại th́ cắt tai. Kẻ nào thiện tiện hành động th́ cắt tai. Thấy giặc mà nói to làm ồn, hay bị thương mà kêu to sợ chạy, th́ chiếu theo luật lâm trận co rút mà giết rao cho mọi người biết. Đêm hoảng sợ th́ xét bởi v́ đâu, cả rạp cả ụ và bản quản kỳ bị tội lây. Trung quân ở nơi cao mà tiếp ứng ở ngoài và hiệu lệnh các ụ canh bị nhầm chậm th́ quan chưởng ấn bị trị nặng, người trông điếm canh giữ hiệu lệnh th́ giết rao cho mọi người biết. Trong các phô, gặp khi giữ thành mà để đến tắt lửa cùng thanh la và trống đánh không rơ ràng, đều bắt tội quan cai quản. Phàm người phục ở đường đă đốt hiệu lửa mà Trung quân tiếp ứng chậm trễ, hay súng nổ không kêu đến nỗi người ở rạp nghe không rơ, cùng là lồng đèn không sáng, đến nỗi giặc xông đến dưới thành, đánh thành lên trĩ, th́ người giữ hiệu trống và người đứng trông đều giết rao cho mọi người biết, quyết không tha sống. Quan chưởng ấn th́ trói đánh 100 roi và cắt tai.
Việc nhu bị.
Mao tử nói: Nhu bị trước phải sắm sẵn những vật cần dùng, chỉnh đốn những đồ cần dùng...
Sách Vơ bị tổng yếu nói: Phàm phép giữ thành có 5 điều bị thua:
Một là quân lớn mạnh th́ ít, quân nhỏ yếu th́ nhiều;
Hai là thành lớn mà người ít;
Ba là lương ít mà người nhiều;
Bốn là súc vật và của cải chứa ở ngoài;
Năm là bọn cường hào không tuân lệnh.
Thêm nữa là ở ngoài th́ cao mà trong thành th́ thấp; mạch đất cao mà hào rănh nông; khí cụ giữ thành chưa đủ, nước củi không có; dẫu có thành cao cũng nên bỏ mà đừng giữ.
Cũng có 5 điều trọn vẹn:
Một là thành tŕ sửa sang tốt;
Hai là khí giới đủ;
Ba là người ít mà thóc nhiều;
Bốn là trên dưới thân yêu nhau;
Năm là việc thưởng phạt nghiêm trọng.
Thêm nữa lại được ở dưới núi lớn, ở kề sông rộng, cao không gần như hạn mà nước dùng đủ, thấp không gần với nước mà ng̣i rănh ít, nhân được của trời, dùng được lợi đất, đất chắc nước chảy, hiểm trở khá cậy. Gồm được các h́nh thế ấy th́ việc giữ có dư sức. Cho nên Binh pháp4 nói “Thành có khi không đánh” và nói “người giữ giỏi giấu ở dưới chín lần đất” đều là thế đấy.
__________________________________
1. Cứ năm ụ th́ làm một rạp.
2, 3. Vệ và sở là chỗ đóng quân để giữ các địa phương trọng yếu, vệ lớn hơn sở.
4. Tôn tử.
Sách Hổ kiểm kinh nói: Trong khi giữ thành th́ thức ăn, ngũ cốc, lương khô, cá muối, vải lụa, thuốc men, thợ thuyền trăm nghề rèn đúc, rơm rạ, lau sậy, than tro, cứt đái, cát sắt, củi lửa, nhựa thông, cỏ khô, dầu mỡ, vỏ gai, chăn chiên, gai góc, phên rèm, chơ vạc, cong chum, dùi đục, dao cưa, đùi dài, thang dài, thang ngắn, câu liêm, móc sắt, những vật người ta thường dùng, hết thảy phải đủ, phải sai sửa sang chỗ hư hỏng, để sẵn trên thành. Ở khoảng vào đội phải đặt ở chỗ lề xoay 2 súng nhỏ, ở chỗ lề đá một súng lớn, và thang mây, gỗ húc v.v... Ở khoảng ấy trước phải theo ḿnh thành dùng gỗ nhô lên làm nữ tường chồng, cao hơn nữ tường đất 5 tấc trở lên, lấy ván mà dùng, tùy việc hoăn cấp mà mở đóng. Nếu địch dùng tên đạn, th́ mép đá dưới lầu tường cho nó nhô ra ngoài mà treo lủng lẳng tấm da trâu sống, hoặc chăn chiên hay túi lông để che. Những nhà trong thành đều sai đặt nước pḥng hỏa, hẹn trước rằng để cháy th́ chém. Những nơi phát hỏa phần nhiều là sợ có quân gian đốt, phải khiến chủ tướng gần đó bắt bộ quan lĩnh già trẻ đàn bà con gái đến cứu. Lửa cháy th́ sở bộ kíp tŕnh với đại tướng thân lĩnh người thân tín tả hữu đến cứu. Trong thành bấy giờ có sự sợ hăi và có nhiều người lộn xộn, những người ở trên thành không được tự ĺa chức việc mà chạy rối ở đường phố. Ai trái th́ xử chém.
Nếu giặc đẩy xe lại đánh, th́ trước đem súng tay bắn, súng tay đă trúng th́ bị thương hẳn nhiều; kẻ đến bị thương th́ sức không đều nữa.
*
* *
Cửa treo. Treo ván gỗ làm cửa, dùng sắt mà đóng như ván sàn.
Ván treo. Quanh thành ở trên đài địch đều treo ván cả; khi bị địch đánh, th́ lật ván lên để bắn tên đạn.
Cửa đột. Đục ở ḿnh thành, đối thẳng với dinh địch, ở trong đào ít nhiều đường ngầm tới cách mặt ngoài thành 5, 6 tấc th́ đừng đào nữa, nửa đêm giặc mới đến, dinh trại chưa định, cho quân tinh kỵ do cửa đột ấy nhảy ra đánh lúc không ngờ.
Trát cánh cửa. Lấy bùn đất trát cánh cửa, dày độ ba thước, để chống chất lửa.
Đục cửa. Pḥng định bức tới cửa, trước đục cánh cửa vài mươi lỗ để chỉa nỏ bắn ra và chỉa giáo dài mà đâm, dù địch có bức tới cũng không gần được cửa.
Trát sàn cửa. Lấy bùn trát sàn gỗ trên cửa, ước dầy 5 tấc để chống lửa.
Phên dày. Ở trên nữ tường, nhô đầu rui ra cách tường 3 thước, lấy cành liễu cành gai mà đan phên dài độ 2 trượng, rộng 5 thước, treo ra đầu rui để đỡ tên đạn.
Màn vải. Dùng vải dày làm màn, dùng sào treo ra ở ngoài nữ tường th́ đỡ cho tên đạn không bắn vào tường được.
Đùi liền. Như kẹp đập lúa, để quay mà đánh người leo lên thành ngoài nữ tường.
Cần trượng. Như cây thương, đầu làm hai chỉa, dùng để chống thang bay và người leo lên thành.
Cần móc. Như cây thương, lưỡi có móc câu, có thể móc người. Trên thành có sàn gỗ, có thể chứa được một đội quân, làm móc sắt cán dài đặt đấy để dùng. Nếu giặc trèo nữ tường nhảy lên, đợi tḥ ḿnh lên th́ các móc đều đưa ra ngoặc kéo vào trong thành, rồi lấy dao, dùi, búa xúm lại mà đánh.
Tật lê sắt. Nếu giặc dùng mộc lư (lừa gỗ) đánh thành, th́ ta dùng tật lê sắt để ném. Phép làm tật lê sắt, lấy sắt chín đường kính rộng 1 thước 2 tấc, bốn thanh ngang dọc như h́nh chông gai, rồi đem nước sắt dội vào giữa, nặng 50 cân, trên đặt mũi sắt và dây xích sắt để ném thẳng xuống rồi dùng ṛng rọc kéo lên. Trên mộc lư có da trâu trát bùn, ném tật lê sắt rồi phóng đuốc tưới dầu mà đốt.
Củ ấu sắt. H́nh như tật lê sắt nhỏ, có cái ṿng luồn. Nếu giặc dùng xe húc đánh thành, th́ ta dùng ṿng sắt to và ốc thừa tử1 mà làm, dùng dây mà vặn, khi gặp đầu húc, ta dùng cái ṿng luồn vào đầu húc, giữa chỗ khuyết, sai tướng sĩ kéo th́ cái xe húc bị lật đổ, cung nỏ cùng bắn, giặc tự nhiên phải thua chạy.
Đánh thuốc mù. Dùng vôi và cám, theo chiều gió ở trên thành mà tung xuống, làm cho mù mắt, rồi đem nước sôi dội xuống.
Lề xoay. Ở đầu cầu đặt lề xoay, đặt ván có lề xoay th́ người ngựa không sang được, đều lăn nhào xuống nước.
Nữ tường lề xoay. Phàm quân đánh thành, để chống đỡ tên đạn phải đội mũ hến th́ trông xiên không tiện, mặc áo giáp dày nặng th́ tiến lùi lại khó, tiến đă không lên được thành, lui th́ bị vướng ở sau, quân giặc lấy làm xôn xao, ta làm nữ tường lề xoay nhô ra ngoài thành, cho ṛng rọc thả dây sắt xuống, đầu dây sắt buộc chân chi2 ném xuống giữa chỗ quân giặc đương xôn xao.
Bắn nỏ tên lớn. Dùng gỗ dâu vàng làm cung dài 1 trượng 2 thước, đường kính 7 tấc, hai đầu cánh cung 3 tấc, chống vào xe vặn mà giương cung, tên lớn bắn một phát, tiếng như sấm vang.
Chứa gỗ. Chứa một đống gỗ, đường kính 1 thước, đầu nhỏ 6, 7 tấc, dài 5 thước, chờ giặc lên thành th́ ném đống gỗ ấy xuống.
Chứa đá. Chứa sẵn các thứ đá lớn nhỏ theo ḿnh để ném quân giặc.
_______________________________________
1. Ốc thừa tử, không rơ là cái ǵ.
2. Tức là phi câu, móc sắt để ném.
Cong nghe. Đất sâu hơn thành, bốn góc đào giếng, giếng đào sâu 2 trượng, sai người úp cái cong mới ở trên giếng, ngồi ở bên ngoài, giặc đến th́ nghe, trong có lỗ, các địa đạo ở trong thành đều nghe trong cong mà phân biệt xa gần.
Thiên tỉnh. Ở tám phương trong thành đào giếng sâu 2 trượng, lấy cong mới dùng da mỏng bưng miệng như trống, khiến người thính tai gối lên miệng cong mà nghe th́ giặc ở cách thành 500 thước cũng đều biết hết.
Liệu tính lương thực. Việc giữ thành toàn nhờ vào cư dân, mà cư dân th́ toàn nhờ vào binh mà ăn. Vậy nên trước phải liệu dân liệu quân mà liệu thức ăn. Dân ở trong thành và dân ở ngoài lánh nạn mỗi người mỗi ngày tính gạo ăn hết nửa cân, than hoặc củi 5 cân, tính từng miệng ăn, phải chứa sẵn 3 tháng. Nếu không tự trù bị th́ ai đoái đến ḿnh. Ninh-hạ bị vây mà chết đói hết nhiều, nên hỏi xem. Những người hàng ngày chỉ kiếm lấy từng thưng từng lẻ, bị thành đóng cửa th́ hết lương. Ta đă nhờ họ mà giữ thành th́ ta phải thay họ mà liệu miếng ăn, không thế th́ họ phải đói, sao giữ được giặc! Cho nên một phủ không có 1 vạn cân cỏ, 2 vạn cân lương, 20 vạn cân than, 150 cái giếng, châu huyện lớn không có 5 ngh́n cỏ, 1 vạn rưởi lương, 10 vạn than, 70 cái giếng, châu huyện nhỏ không có 2 ngh́n cỏ, 1 vạn lương, 5 vạn than; 50 cái giếng, th́ đều là cẩu thả, chờ mệnh ở trời, may mới khỏi địch. Phàm những người giữ thành có gạo th́ tự cấp, không gạo th́ quan cấp, mỗi lần cấp một thạch làm một suất, 10 người có một người đầu bếp, cùng ăn một chỗ. Nếu để các nhà đưa cơm th́ rồi không thể nói được, và truyền đạt khó tới, no đói bất thường, đó là lối thua vậy. Dân ngoài lánh nạn th́ có họ mạc nhờ họ mạc, không có họ mạc th́ nhàn ước phải xếp đặt, như ở trong chùa miếu th́ tăng đạo phải báo tên, kén chọn mà khiến giữ thành, cho pḥng nằm một nơi. C̣n dư các nơi chùa chiền công quán đều phải cho dân làng ở đậu, chật hẹp khó dung, nhưng đă có thức ăn và thóc, ngoài ra không hại. Đại khái con trai mạnh mẽ đă cho giữ thành, người già yếu cùng ở mấy nơi, đàn bà cùng ở mấy nơi, ở ngoài cửa dán tên để tiện sự ghi nhận. Ở trên thành th́ 10 người làm một phô, phô th́ trên che chăn chiếu để chống gió mưa, 10 người một bếp, 5 người 1 lần cắt phiên nhau ăn, đàn ông già và đàn bà th́ làm thức ăn, đàn bà khỏe th́ gánh nước, trẻ con th́ sai khiến đi lại. Đốt lửa th́ dùng củi, không dùng rơm cỏ, để pḥng cháy. Dùng dao đá lửa để pḥng khi lửa tắt.
Pḥng việc sửa đắp. Trên thành mỗi mặt phải pḥng bị một vạn gạch, đất vàng 10 xe, vôi 10 cân, nước 100 lọ. Mỗi 10 ụ th́ dùng 2 tấm sắt, 2 con dao nhọn, 6 cái cánh cửa, gậy dài 15 thước 4 chiếc, để pḥng khi giặc đánh phá vào tường thành mà kịp thời sửa chữa.
Đặt hiểm trong hào. Có sông ở gần hào th́ nên đóng hơn trăm cái cọc gỗ, theo h́nh chữ nhân (人) ở trong sông, cao hơn mặt nước độ 1 thước, pḥng có lâu thuyền đến phá thành.
Đặt sàn hờ. Nên gác ở ngoài ụ canh một cái sàn hờ, mỗi cái ước rộng 3, 4 thước, dài 6, 7, 8 thước, quanh thành đặt tiếp liền nhau. Phép gác th́ hoặc dùng gỗ nhỏ hay dùng tre, mỗi cây dài bằng chiều rộng của sàn, chừng 3, 4 thước, một nửa ch́a ra ngoài ụ, một nửa phóng vào trong ụ; ngoài th́ làm sàn hờ, trên sàn th́ lấy đá gạch mà đè, trời lạnh th́ để thêm vài bao vôi ở trên; trong th́ dùng dây mà treo đá lủng lẳng. Nếu giặc bắc thang lên sàn, th́ sàn mỏng mảnh không để thang được, gạch đá liền rơi xuống thành, những đá treo ở ngoài th́ rơi xuống thành, những đá treo ở trong th́ rơi xuống trong tường, người giữ ụ canh do đó mà tự biết. Nếu giặc đặt thang ở dưới sàn mà treo lên sàn, th́ khi leo lên đương đầu vào sàn làm cho đá rơi loạn xuống.
Đặt cây nại hà. Ở khoảng tường ụ, dựng cây nại hà. Phép dựng cây nại hà phải dùng ba cây gỗ làm giá, hai cây đứng, trên gác một cây gọi là cây nại hà, nặng nhẹ phải xứng với cây gỗ đứng, trên cây này th́ đóng chốt xen tráo trở lẫn nhau, rồi gài ngược những gai hổ sợ1, dùng 3 thước dây cỏ to bằng ngón tay, một đầu buộc bó gai, một đầu buộc ḥn đá nặng 2, 3 cân, lấy đá và dây cuốn vào gai và gỗ tḥng đầu xuống bên ngoài tường. Khi giặc lại đánh úp, đă không thể vịn bám mà leo lên, lại không thể bay qua mà vào. Hễ động chạm đến th́ đá rơi xuống và cây gai cũng rớt, giặc tự bị thương, binh phu canh ụ do đó mà biết, tức th́ ném gạch đá xuống làm cho giặc bị thương nhiều. V́ giặc không thể làm thế nào được, cho nên gọi là cây nại hà.
H́nh 62. Cây nại hà
Nghiêm cửa thành. Các cửa nếu dùng đá xây kín hay dùng đất lấp đi th́ có thể pḥng sự bất trắc. Nhưng quân ta c̣n phải ra đánh, sợ cản trở lối ra vào, cho nên chỉ đục năm lỗ ở cánh cửa vừa ngang ngực, dùng năm cung nỏ mà giữ th́ giặc không dám tới gần.
Đặt cửa xuyên. Trong thành, đầu cửa đường mă đạo ở hai bên phải xây tường bền chắc, thẳng tiếp với các nhà phố, dưới tường để cửa cho tiện nhân dân ra vào. Cách cửa thành 1 trượng, đào 1 đường hố, rộng 5 thước, sâu 1 trượng, dài thông tới hai bên đường phố, dùng mũi thương sắt nhọn dài 1 thước đóng lên trên ván, để đầy đáy hố; bên hố th́ đóng cọc nhỏ lấy dây gai ràng qua ràng lại, trên trải chiếu, trên chiếu đổ đất, cốt cho bằng mặt đất để không ai nhận biết được. Đợi khi đánh thành cửa mở, tự nhiên có kẻ tranh tiến vào, nếu rơi xuống hầm th́ trên thành lấy đá ném loạn xuống, hẳn có người chết, như thế th́ họ không dám tiến nữa. Nhân dân nếu cần đi lại th́ ở hai đầu đường hầm đặt ba tấm ván liền nhau, làm lan can để vịn, sợ xảy chân một cái th́ rơi xuống, không thể sống được.
Chuẩn bị tạp vật. Những vật dùng về hỏa khí như diêm tiêu, lưu hoàng, ch́, sắt, quan hệ không nhỏ, không thể bỏ cho giặc dùng được. Những khách bán và phường đúc phần nhiều ở ngoài thành. Nên trước tra xét tên họ nhà hàng và phường đúc, hễ có báo động th́ cho giáp bảo địa phương ấy áp đ̣i diêm tiêu, lưu hoàng, tiền kẽm và các đồ sắt khuân chuyển vào thành, và chuyên sai quan đến xét hỏi, kẻ nào trái lệnh th́ xử theo tội giao thông với giặc, của cải th́ sung vào nhà nước. Giáp bảo không báo th́ cũng xét hỏi cả. Như có dùng vào việc công th́ chiếu theo thời giá đem bạc mà mua. Những b́nh vôi, thuốc độc và các vật dùng để sửa xây, đều do các ḷ vôi và các ḷ gốm lănh giá đúng hạn đưa đến. Vôi th́ phong ghi lại để ở các tự viên dọc thành để pḥng cấp dụng. C̣n b́nh vôi th́ sai chủ ḷ gốm lănh giá, làm những cái b́nh vôi nhỏ nhẹ, nung dối, không nên quá kỹ, dự bị để dùng. Trên thành muốn đốt giặc phải nhờ rơm cỏ và củi khô. Trước kỳ cho giá khiến hộ củi hộ lương lănh bán cho hàng ngh́n vạn bó, đánh đống, chứa vào những kho xưởng bỏ rỗi để chờ lúc cần dùng. Dầu đuốc là những vật cần cho việc giữ thành, không thể thiếu được, nên xét các hàng dầu, các phố bán dầu ở ngoài thành, giao cho các giáp bảo trong ngày có báo động áp dân y kỳ vận chuyển các hạng dầu rái, dầu lạc, dầu trẩu, dầu vừng, sáp trắng vào thành cho mở hàng bán, như có dùng vào việc công th́ chiếu theo thời giá đem bạc mà mua. Lại đốc quan tra xét hễ không y kỳ chở vào th́ cả tổng giáp phải phạt mang gông, mà dầu th́ thu vào nhà nước. Thợ rèn, thợ tên, thợ cung, thợ nỏ, thọ tre gỗ, thợ thuốc súng, thợ đá đất, đều phải sẵn nhiều trong thành để pḥng khi cần dùng. Dưới cửa thành để sẵn ang nước, một là để dùng lúc khát, hai là để dùng chữa cháy. Trên thành cứ năm ụ canh th́ đặt một ang nước to, chứa nước đủ dùng. Mỗi một hiệu đầu để sẵn một cái bàn, bút nghiên một bộ, giấy nhỏ rộng một tấc độ 100 tờ, pḥng lúc hoăn cấp cần để viết chữ truyền báo các nơi; chổi gai hai bó, câu liêm hai bộ để pḥng chữa cháy. Để nhiều đèn lồng soi thành, pḥng ban đêm có giặc đào thành, hay nhắm chỗ đen tối thả dây leo vào trong thành phóng lửa làm rối trong quân.
Chuẩn bị tuyên truyền. Mỗi một ụ canh để sẵn một cái mơ gỗ hay tre; mỗi phô để sẵn một trống lớn một trống nhỏ, 2 thanh la; mỗi phô dùng một con ngựa khỏe để đi truyền tin khẩn cấp, mỗi đài địch để sẵn lưu tinh2 gặp khi cần cấp th́ đốt để cho du binh của bản diện tiếp ứng, mỗi phô lại để sẵn một chậu lửa rấm, giữ không cho tắt.
Chuẩn bị đèn lửa. Mỗi ụ canh để một cái đèn, 3 ụ canh treo một cái đèn. Đèn phất giấy bóng mới cho sáng, trên đèn đậy chụp bằng giấy bóng để pḥng mưa, trên chụp đè một miếng ngói nhỏ để pḥng gió; được chụp bằng cót tre th́ càng tốt. Mỗi đèn dùng một cái cần buộc dây gióng xuống dưới thành cách đất 7 thước, để nếu giặc đến dưới thành th́ ta chiếu thấy, mà ta cầm cần ở cửa ụ canh th́ giặc không thấy ta. Khi kéo đèn th́ có người canh, không để nhỡ việc. Nhưng dây treo đèn nên làm nhỏ, chỉ vừa mang được một cái đèn, giặc không thể bám dây ấy mà leo lên thành được. Mười ụ canh dùng một cái hỏa cầu th́ tốn dầu đuốc không mấy.
_______________________________________
1. Thứ gai lớn và sắc.
2. Tức là pháo thăng thiên làm hiệu.
*
* *
Sách Vơ kinh tổng yếu:
Phàm phép giữ thành, khi giặc đến sát thành th́ cứ im lặng mà đợi, không ra đánh ngay. Liệu giặc đến vừa tầm tên đạn, th́ dùng thuật mà phá, nếu gặp được chủ tướng của giặc đến, th́ tính lúc tiện lợi, dùng nỏ tốt xúm bắn và ném đá xuống cho chết, thế th́ giặc sợ hăi thế tất phải lui. Nếu được người giặc xin hàng hay xin ḥa th́ cũng đừng nên trễ nải, mà nên càng chống giữ cẩn thận pḥng nó lừa ta. Nếu giặc đánh đă lâu không nhổ được thành mà bỏ đi, th́ đó là quân đă mỏi mệt, nên theo mà đánh th́ tất phá được. Đó là nhờ có tướng giỏi, thấy lợi th́ làm, không câu nệ theo lối thường mà kiểm xét vậy.
Phàm giặc đánh mọi cách không lợi th́ tất dẫn nước để dội vào thành. Ta phải lấp kín các cửa, xét thành có chỗ nào hỏng th́ đắp lại. Trong thành đă bị vây chặt th́ phải xem nước ở ngoài cao thấp thế nào, rồi đắp riêng một cái tường rộng, lấy đất ở ngoài tường cho sâu tới một trượng. Binh lính th́ vẫn giữ thành như cũ. Xem khắp địa thế có nơi nào có thể tiêu nước th́ cách vài mươi bước đào một cái giếng, các giếng thông nhau ở trong cho nước chảy tiêu đi. Nếu nước đă vào thành th́ ở chỗ ngoài tường mới đắp, làm 20 chiếc thuyền, mỗi thuyền kén 30 người dũng sĩ, giữ lấy cha mẹ vợ con làm con tin, rồi trao cho cung nỏ gươm ngắn và thuổng cuốc, khiến đêm tối từ cửa ngậm tăm mà ra đào đê kè của giặc, phá dinh trại của giặc. Những dũng sĩ kén đấy phải dự lập thủy chiến. Liệu sức không đủ th́ cho thêm thuyền để đi. Hoặc giặc đă biết th́ trên thành khua trống reo ḥ để trợ thế.
Phàm giặc có quân dũng hăn, hẳn khiến đến xung đột cửa thành của ta, ta nên giả làm không biết, mở cửa để chờ, trên đường đặt hố sập ngựa và cầu máy, ở chỗ tường lớp ngơ cong th́ cho phục binh đánh úp. Nếu ước lượng giặc độ 1, 2 trăm người th́ hạ ván tháp của các lớp cửa, khiến giặc quân trước đă thua, quân sau bị đứt.
Phàm trong thành khí giới đă đủ, chống giữ đă được, nên ra quân kỳ, dùng thuật trá, lấy đánh thay giữ, để mà giải vây. Trước hết phải làm cửa ngầm, hoặc nhân giặc mới đến, trận chưa chỉnh, hoặc đêm hôm nhân giặc không biết, hoặc giặc đánh thành mới nghỉ, hoặc giặc vây lâu đă mỏi, lẻn cho quân tinh kỵ ngậm tăm ra đánh, đánh giặc thua rồi th́ không nên đuổi theo; hoặc quân ta chưa ra mà giặc đă đến, xông cửa mà vào, th́ ta ở trên thành quay mặt vào trong mà vần đá to cho rớt xuống đè để chặn không cho nó vào.
*
* *
Sách Hành quân tu trí:
Dùng ống pháo lửa, thương dài, đùi gỗ, pháo tay để đánh người dưới thành.
H́nh 58. Đùi gỗ
Dùng nỏ bàn, phóng tên lửa và pháo lửa mà đốt cỏ củi lấp hào.
Dùng pháo lửa để bắn thổ sơn và nga xa động tử1.
Thành trại nếu ở vào nơi đồng bằng, hay ở gần có suối tự cao nguyên chảy xuống và có sông ng̣i, th́ nên pḥng giặc dùng cách xẻ úng cho nước ngập thành ta. Tỉnh Hà-đông ngày nay, tức thành Thái-nguyên ngày xưa, quân nhà Tống đă xẻ sông Phần-thủy mà dội xuống quân Lưu Duy-nguyên là thế.
Quanh thành đặt nhiều cửa đột, ngầm cho quân mạnh và ngựa đánh vào chỗ không ngờ của giặc. Nếu giặc ở trên núi cao ngoài thành, dựng vọng lâu để xem hư thực ở trong thành ta, nếu quân ngựa ở trong thành có ít, th́ cho cùng với trâu ngựa của cư dân, hết thảy đều mặc giáp mà phô bày ở nơi phố chợ, lại khiến cư dân lên thành, trai trẻ đứng trước, già yếu đứng sau, cần nối tiếp nhau.
______________________________________
1. Thổ sơn: Núi đất đắp ở ngoài thành để leo lên mà nh́n vào trong thành và nhân đó mà trèo lên thành.
Phép “Nga xa động tử”, cho chở đất mà lấp hào, làm núi đất ở phía trong động hào (Tức là chỗ rănh hào trống rỗng). Khiến người chia làm hai hàng tả hữu, một hàng chuyển đất vào hào để lấp, một hàng chuyển đồ đựng không ở động (hào) ra. Chỉ sai riêng những tráng sĩ đem đất vào thôi, không nên sai người đi lại khiêng gánh không tiện. Đắp được g̣ đất có thể đứng trông được; lại đóng cọc gỗ, rồi dùng túi vải đựng đất chồng chất để lên thành; chứa nhiều củi đóm thành đống cao rộng ở bên thành là hay. C̣n khoảng đất ở động (hào) th́ đặt nhiều thùng nước bùn và chổi gai để pḥng dầu rái, hỏa tiễn và hỏa pháo của địch ném xuống.
Trọng nhàn chỉnh. Giữ thành cần phải định khí. Phàm ở ngoài 50 bước, nghe thấy giặc hét nói đập phá hay dùng quân tiên phong đi tuần trước, nói phao là đến đánh, th́ đừng động. Khi cách thành 10 bước th́ đài địch mới bắn tên đạn và dùng thương. Giặc đội cỏ vào đánh thành th́ lăn đá to xuống; giặc chở xe đến đào thành th́ ném củi vào hai bên xe và dùng lên lửa để đốt. Giặc đến dưới thành, thế tất phải ngửa mặt lên, th́ ta phun phân, phun lửa, văi tro. Giặc ba người cầm cần móc mà đánh ta, th́ ta dùng cái xẻng bán nguyệt mà cắt dây da, tất 1 người ngă lăn ra, hai người ngă nghiêng ra; một người cầm cần móc th́ lấy xẻng bán nguyệt mà đẩy chếch đi, đẩy khỏe th́ ngă, nhưng phải dùng búa lớn mà đánh nát đầu móc. Nếu giặc bắc thang mây 4, 5 người xâu cá mà leo lên, th́ ta dùng cái xẻng bán nguyệt, 4, 5 người dựa cột hết sức mà đẩy, nếu là thành đất th́ đẩy ra ngoài là thang phải đổ, nếu là thành gạch th́ đẩy xiên là thang phải nghiêng; lại dùng thương ba mũi cực lực mà đâm vào mặt giặc, ḷng giặc, bụng giặc, cốt đâm trúng một chỗ nào. Giặc bám tay vào cửa ụ th́ dùng búa ŕu mà chặt đứt mười ngón tay. Nếu dao của giặc liếc quanh cửa ụ th́ dùng gậy lớn đánh vào dao, hoặc lấy vũ tu thương mà bắt giặc, lôi lên mà giết. Đầu giặc khi vào cửa, thấy cái mũ th́ dùng búa mà đánh vỡ óc, thấy cổ th́ dùng dao búa mà chém lấy đầu; đă nhảy vào trong ụ rồi th́ chân tay không làm ǵ được nữa, dân phu cả giáp cứ loạn xạ đánh chém, cốt sao cho chết. Giết chết 3, 5 tên giặc th́ treo đầu lên thành, quăng xác xuống dưới, giặc tự vỡ mật, không dám tới gần. Nếu không định khí trước, khi giặc mới ở ngoài trăm bước đă hoang mang, loạn phóng tên đạn, khí giới đă hết, khí lực đă thiếu, gan ruột đă loạn, đến khi giặc tới gần thành th́ lấy ǵ mà chống! Đó là điều rất phải răn trong việc giữ thành.
Cẩn thận tên đạn. Khi quan quân đi tuần thành, đến bên thành bắn tên hay súng, trên thành không được ồn ào. Đợi giặc đến gần thành, mới sai những tay bắn giỏi bắn quen nhân tiện mà bắn, cốt sao cho trúng giết được 1, 2 tên giặc, th́ bọn khác tất phải rút lui. Chúng không biết quân ta hay dở hư thực thế nào. Không nên bắn loạn mà hết tên thuốc. Nếu bốn mặt thang mây vây đánh, th́ nên gom sức đều chống, không nên câu nệ.
Ném gạch đá. Trên thành xếp nhiều gạch đá. Rất kiêng khi giặc c̣n ở ngoài 10 thước phóng càn tên đạn và hỏa khí, đă không trúng giặc lại tốn thực dụng. Đại khái khí cụ giữ thành đều dùng ở trong 10 thước, phải thấy rơ ràng th́ mới đích đáng: Người ta thường nói: giữ một dặm không bằng giữ một trượng, giữ một trượng không bằng giữ một thước. Càng xa càng uổng công, càng gần càng đắc lực. V́ là cái mục đích giữ thành là chỉ sợ giặc lên thành, mà phép chống giặc là chỉ ngăn giặc lên thành, đánh xa lại không trúng, lại phí sức, lại tốn đồ dùng th́ làm ǵ?
Nấu cứt người. Nấu phân người đến sôi, đựng vào lọ nhỏ mỏng, dùng lá tre đút nút khiến sao đến khi ném th́ lọ vỡ cứt tung, chạm vào thịt người th́ bỏng đau đến chết.
Quư ngủ ngày. Quân chiến đấu không ngủ th́ sợ quân giặc nhân đêm khuya lúc mệt lẻn vào, nên ban ngày phải chia ban luân phiên mà ngủ.
Dối trống đêm. Đêm th́ thúc trống hai ba lần như là sắp xuất quân, làm cho địch đêm không được ngủ, mà quân ta thực th́ yên nghỉ trên thành; phải báo trước cho mọi người trên thành biết cho khỏi rối loạn. Trọn ngày ỉa đái đều ném ra dưới chân thành ngoài. Trong thành người ít việc gấp, những phụ nữ c̣n trẻ nên mặc áo mũ đàn ông lên thành pḥng ngự. Sớm chiều ḥ hét, đàn ông đàn bà con trẻ cũng nên đều tiếng, tỏ là ta có nhiều người, để trương thanh thế. Nhưng trai gái một nhà phải họp với nhau một chỗ. Ai dám đùa cợt nhảm nhí th́ chém đầu rao cho mọi người biết.
*
* *
KHÍ CỤ GIỮ THÀNH1.
Hố sập ngựa2. Dài 5 thước, rộng 3 thước, sâu 4 thước, trong hố trồng hai thứ thương gạc nai và chông tre, đều vót nhọn, đốt lửa cho thêm bền. Hố th́ bày theo h́nh chữ bốc (卜), trên đậy bằng cỏ, hoặc trên trồng cỏ, cốt sao cho địch không biết. Phàm trên đường địch đến và trong ngoài cửa thành đều đặt hố này.
Phên dày. Lấy cành cây kinh hay cây liễu mà đan, dài 5 thước, rộng 4 thước, bọc bằng da trâu sống, ở sau lưng th́ đặt cái sào ngang dài 6, 7 thước.
H́nh 54. Phên dày.
Dùng ở trên sàn chiến th́ lấy mộc mă mà dựa, ở ngoài nữ tường th́ lấy que chân chó mà treo.
Xa cước lôi (Đùi bánh xe). Dùng cây gỗ đường kính 5 tấc, hai đầu đặt hai bánh xe, đường kính 2 thước, lấy dây xích sắt và xa trục mà phóng xuống rồi lại kéo lên, dùng để đánh quân địch leo thành.
H́nh 55. Đùi bánh xe
Phi câu (Móc bay). Có tên là chân chi bằng sắt, móc câu dài và sắc ch́a ra bốn phía, buộc dây xích sắt và tiếp bằng dây gai. Phàm quân địch mặc áo giáp nặng, đều có nón nhọn, sợ tên đạn không dám ngửa nh́n lên, chờ chúng đến họp đông th́ ném móc vào giữa đám đông rồi kéo gấp lên, mỗi móc có thể móc được 2 người.
H́nh 56. Móc bay
_______________________________________
1. Mục này trích ở sách Vơ bị chế thắng chí, quyển 11.
2. Ở quyển I chương “Binh cụ” đă có nói về “hố sập ngựa” rồi.
H́nh 57. Móc sắt dài
H́nh 60. Phên gác
H́nh 63. Chum nghe
III – XÔNG VÂY
Quân địch vây thành chặn đứt đường sau ta, trong cuộc đánh dữ dội, thư thả th́ quân tất bại loạn, đánh nhanh th́ có thể hoành hành xông ra. Nếu đă ra ngoài ṿng vây th́ quân tả chạy mau bên tả, quân hữu chạy mau bên hữu, không giành đường với địch.
Lại biết được những nơi trống hở mà gắng sức để ra. Lại ngậm tăm đi đêm mà ra, dũng sĩ ở trước, nhược sĩ ở giữa, quân phục ở sau. Ra rồi đi thong thả, cẩn thận, không sợ hăi. Quân địch nếu tiến th́ quân phục đánh như từ trong đất ra, như từ trên trời xuống, c̣n ai chống lại được!
Phàm ra, trước phải đốt xe cộ, đốt lương thực của ta, bảo rơ cho lại sĩ của ta rằng đấu mạnh th́ sống, không đấu mạnh th́ chết. Chỗ g̣ đống hiểm trở th́ địch không dám theo, kẻ ra trước lấy lửa làm dấu, kẻ ra sau đến chỗ lửa th́ dừng.
Nhân thiên thời mà phá được dịch. Lưu Ỷ nhà Tống đóng quân ở phủ Thuận-xương1, quân Kim đă vây 4 ngày. Quân Kim càng ngày càng đông, bèn dời dinh sang Lư-thôn. Ỷ sai Diêm Sung mộ 500 người tráng sĩ đánh đêm vào dinh. Chiều hôm ấy trời muốn mưa, chớp sáng bốn mặt, hễ thấy ai tóc dóc2 th́ giết. Quân Kim đuổi 15 dặm. Ỷ lại mộ 100 người cho đi, có người xin ngậm tăm, Ỷ nói: “Không nên dùng tăm”. Sai bẻ tre làm c̣i, như c̣i trẻ con ở ngoài chợ làm tṛ chơi, mỗi người cầm một cái để làm hiệu, thẳng tới dinh quân Kim. Hễ thấy chớp ḷe sáng th́ đều đánh hăng, chớp thôi th́ náu im không động. Quân giặc cả loạn. Trăm người hễ nghe tiếng c̣i th́ họp lại, quân Kim lại càng không thể lường được. Đánh như thế suốt đêm, quân Kim chết rất nhiều.
Hoặc có kế giả làm thần mà giải vây, như Cảnh Cung nhà Hán giữ thành Kim-bồ3, dùng thuốc độc bắn tên, gọi là tên thần của quân Hán. Hung-nô sợ mà giải vây.
Hoặc dùng hỏa công mà giải vây, như Hoàng-phủ Tung đánh giặc Hoàng-cân4.
___________________________________
1. Thuận-xương: Tên đất, thuộc tỉnh An-huy, Trung-quốc.
2. Người Kim dóc tóc.
3. Thuộc đất Tân-cương ngày nay.
4. Nông dân khởi nghĩa ở cuối đời Hậu Hán.
Hoặc dùng cách kêu khống mà giải vây. Như Lưu Côn nhà Tấn bị giặc vây, bèn nhân đêm trăng lên lầu kêu khống, thổi khúc kèn Hồ, tiếng ai oán véo von. Giặc nghe lấy làm buồn, bỏ vây chạy.
Hoặc có người trá hàng mà giải vây. Như Lư Quang-bật nhà Đường bị giặc vây, khiến người nói dối hẹn với giặc ra hàng, bèn ngầm đào đường hầm mà dinh địch bị hăm.
Hoặc có người giả chạy mà giải vây. Như Trương Tuần nhà Đường bị Lệnh-hồ Triều vây, Tuần nói dối Triều là muốn đem quân chạy, xin lui một xá. Triều cho. Bèn bỏ thành không ra bốn phía cách 30 dặm, dỡ nhà đẵn cây rồi trở về pḥng bị. Lại dụ Triều trả cho 30 con ngựa để cấp cho quân kiêu kỵ, xông ra bắt được 40 tên tướng giặc.
Hoặc liều giữ mà giải vây. Như Lưu Ỷ nhà Tống dùng thắng quân đánh vỡ Ngột-truật nước Kim.
Hoặc dùng phản gián mà giải vây. Như Trần B́nh nhà Hán khiến người vẽ tượng mỹ nhân gửi biếu Yêm Chi để giải vây thành Bạch-đăng1.
Phàm quân ta vây đă đắc thế rồi, giặc chưa tính kịp, ta tức th́ t́m con đường mà quân viện của giặc tất phải đi để giữ chặn; lại khiến quân phục đợi đó; lại trương cao cờ trống làm cho người ở trong ṿng vây phải sợ. Thấy quân nó rối loạn th́ phải thừa lúc sơ hở mà đánh.
Phép đánh giặc, trước phải đánh quân viện, khiến không có quân ngoài đến cứu. Liệu số thóc ở trong thành, tính số người tiêu phí, lương nhiều người ít th́ đánh mà đừng vây, lương ít người nhiều th́ vây mà đừng đánh; sức chưa khuất, thóc chưa hết, thành c̣n bền, mà quân viện đến th́ phải đánh ngay.
___________________________________
1. Thành ở núi Bạch-đăng, tại phía đông huyện Đại-đồng tỉnh Sơn-tây, Hán Cao tổ bị Hung-nô vây, ở đấy 7 tháng - Yêm Chi là tù trưởng Hung-nô.
IV - ỨNG CỨU
Đánh nên có thứ tự, cứu không nên có thứ tự. Có tội nên đánh th́ dấy quân mà đánh. Có ước hôn nhân, có nghĩa lân bang, th́ nên thương hoạn nạn mà dấy quân để cứu. Cùng một quân, nhưng đánh th́ lấy có thứ tự làm hơn, - thứ tự là có ư chỉnh đốn quân ngũ và cẩn thận việc đánh, không làm nóng nảy - mà cứu th́ lấy gấp làm hơn. Thứ tự là có ḷng hoăn quân sợ giặc, giả tiếng đi cứu thôi. Như năm Kỷ dậu quân phương Bắc được cái nghĩa đến cứu1, mà bị thất thủ là do thất cơ chứ không phải v́ tội chậm.
Kết viện. Binh pháp nói: “Có quân tất thắng th́ hẳn có thành tất thủ; không có quân tất cứu th́ không có thành tất thủ”. Thế không thể pḥng bị được th́ nên rộng kết thanh viện, ngồi chịu khốn ở cô thành th́ thật là không nên.
Việc giữ trước hết phải kết viện để tiếp ứng. Phàm quân viện tới thành, đừng nên khinh tín, sợ có khi giặc giả hiệu áo của ta để đánh lừa ta. Nên chọn người tâm phúc tinh tế leo mà xuống, nhận xét cho đúng thực th́ mới mời. Đừng khiến họ giữ hiểm dựng trại ở ngoài thành. Hẹn ước nhau cử sự, tất phải đây đó hợp kỳ, trong ngoài giáp đánh, mới có thể giải vây được. Nếu như hai bên bảo nhau chỉ lấy tiếng tăm mà ứng họa, th́ việc phải hỏng. Nên răn, nên răn!
Cứu sự nguy cấp của người, phải hết ḷng thành.
Phàm quân đi ứng cứu, không cứu ở nơi tất phải cứu, mà phải cứu ở nơi không tất phải cứu, th́ vây sẽ giải được.
____________________________________
1. Chỉ việc quân Thanh sang cứu nhà Lê, nhân chiếm cứ nước ta, sau bị Nguyễn Huệ đánh đuổi.
V - LUI ĐÁNH
Đại tướng hành quân, mọi điều thận trọng, vốn đă chu đáo cẩn mật, nhưng đối luỹ đánh địch, cầm quân chống tướng, việc có nhiều điều bất trắc. Người nào có quan hệ đến sự tiến chỉ của một quân th́ nên nêu lên để làm đầu cho quân sĩ, người nào có quan hệ đến sự tồn vong của cả trận, th́ nên xem là cần thiết cho ba quân. Đi mà không biết dậy ở chỗ nào, dừng mà không biết nấp ở nơi nào, cứ theo bóng người khác mà làm mà điều quân th́ không biết, vào giữ chốn đao gươm la liệt mà chỉ lo đặt ḿnh vào nơi vững chắc, người như thế th́ đại tướng phải lánh vậy. Được thua là sự thường của nhà binh, người giỏi dùng binh có thể nhân bại mà làm thành. Nay ta đổi giếng lũy trước, xuất kỳ bất ư, đó là chước kỳ vậy. Quân ta mới thua, sĩ khí tan ră, tướng giặc thắng mà sinh kiêu, có ḷng khinh ta, nên đóng lũy mà chờ. Quân giặc kiêu, ta có thể đánh một trận mà thắng được.
Điện là một việc khó của nhà binh. Điện nghĩa là đi sau. Phép binh lấy điện làm công, v́ là quân thua mà chạy, giặc nhân chạy mà đuổi theo, có thể lui lại sau mà chống bọn đuổi theo, không phải người dơng th́ không làm được, cho nên nhà binh lấy điện là khó có người vậy.
Nên lui th́ lui, đừng lui v́ nhút nhát. Đem quân tới trận, khi tiến khi lui, lường theo thế mà thôi. Kinh Dịch quẻ Sự hào lục tứ nói rằng “Quân dừng ở phía tả, không lỗi”, tức là nói quân lui. V́ là biết khó mà lui, lường thế không thể thắng được, bèn thu vén quân mà rút lui, hơn là tiến mà đổ mất vậy. Có thể tiến mà lại lui, đó mới là lỗi.
Người cầm quân giỏi có khi không tiến, lui mà tiến vậy.
Không nên tiến mà tiến, đó là con đường thua vậy.
Binh pháp nói: “Quân đổ th́ tướng bị giết”. Lại nói: “Đổ th́ tướng bị giết, đó là đạo thường trong việc hành quân”. V́ là tướng lui mà quân được sống, th́ sao lại xông vào mũi nhọn của địch mà chết? Thế cho nên cứ tiến liều th́ không tới đâu mà không đổ mất. Đừng đổ tội cho thua th́ rồi mới đi tới thành công được, tôi xin thưa như thế.
VI - THẮNG VÀ ĐẶT PHỤC
Phàm theo chạy mà nghỉ, gặp quân địch đỗ ở đường th́ bắt ngay.
Giặc đánh đă mệt, có thể đuổi được có năm trường hợp, không thể đuổi được có sáu trường hợp. Thấy khí của giặc đă kém, có thể đuổi, đó là một. Quân bộ kỵ tán loạn, nhiều người chạy xiêu ngă không thành bộ ngũ, đó là hai. Chạy tới làng xóm, chạy vào thành quách, đó là ba. Xe chở lương và đồ binh giáp tan tác mà không thu được, đó là bốn. Chủ tướng đă chết, đó là năm. Khe ng̣i cũ mà nước bỗng cạn hết, đó là một trường hợp không nên đuổi. Đă quá tầm nh́n thấu, đó là hai. Thua trận trốn chạy mà hàng ngũ không rối loạn lắm, cờ xí không lộn xộn lắm, đó là ba. Quan và quân chạy rảo không xiêu ngă lắm, quân bộ quân kỵ không lẫn lộn, đó là bốn. Giặc chạy mất đường, tả hữu là núi hang, ở trước cung như thế, đó là năm. Đường cùng lương hết mà quan và quân chưa tan hẳn, đó là sáu. Thế cho nên gặp trường hợp nên đuổi th́ đuổi gấp, không nên đuổi th́ đóng chặt cửa thành mà xem, hẳn có biến đổi lợi hại. Chờ họ cất quân, hễ lợi th́ ta tiến mà hại th́ ta lui. Binh pháp nói “Chim bay lên là có quân phục, cây cối động là có quân đến”, như thế cũng chưa chắc là có quân phục quân đến, sợ là họ làm nghi binh vậy. Có thể là quân giặc đă chạy trốn mà sai những người già yếu rung động cây cối và làm sợ chim muông. Lại nói “Không ước mà xin ḥa là có mưu, nửa tiến nửa lùi là dụ”, đó cũng có thể là đại binh đă lẩn trốn, sợ người sau theo đến mà làm cho ta ngờ vậy.
Một khi đă thắng phải giới nghiêm quân ta. Đă được toàn thắng, đuổi giặc chẳng qua là dư uy thôi. Nếu trong khi đuổi riết, giặc phút dừng lại không động, ví như không phải có quân tiếp ứng th́ tức là đằng trước có hiểm trở, không thể trốn gấp được. Quân ta nếu nhân lúc đó mà đánh, th́ quân ta là quân mỏi mệt, mà quân giặc là quân có sinh lực, ta lấy ḷng thắng trận mà kiêu, giặc lấy ḷng cứu chết rửa hờn, nếu ta thắng nữa th́ chẳng qua là cuộc đuổi giặc chạy thêm, bằng thua th́ công lao trước bỏ hết cả. Như thế há chẳng phạm vào điều kỵ đuổi giặc cùng đường, trước chết sau sống ư? Chỉ nên cứ đuổi theo sau, khiến cho giặc giày đạp lẫn nhau, thu lấy xe lương và quân hàng. Như giặc dừng lại không động, th́ ta thu quân ngay, hoặc là tức th́ hạ dinh, ngày th́ dựng nhiều cờ xí, đêm th́ đánh trống đốt lửa, bắn súng cho nhiều, hiệu lệnh nghiêm minh, người ngựa rầm rộ, chiêng trống đêm canh, hai bên giăng dày quân phục, bốn mặt ngầm đặt các tay bắn giỏi. Giới nghiêm hiệu lệnh so với khi chưa thắng địch lại càng nghiêm khẩn hơn, một là để pḥng trộm cướp, hai là để răn ḷng khinh nhờn. Lại viết hịch chiêu phủ bắn vào dinh giặc, hoặc sai những kẻ sĩ có tài biện luận lấy lợi hại mà hiểu dụ, tỏ ḷng thành tín. Giặc lấy sự sống thừa rũ đầu mất khí, thấy uy thế đường đường chính chính của ta th́ sợ ḷng hoa mắt, thịnh suy thấy rơ, một đêm nghĩ ngợi, chí đă nản rồi, kịp nghe hịch chiêu phủ, không dám không hàng. Thế gọi là được vạn toàn mà tất thành công vậy.
VII - PHÉP NHẬN HÀNG
Nhận hàng cũng như chịu địch, phải biết sắp đặt cho nghiêm. Từ khi dùng binh nửa năm nay, chưa có kẻ nào ra hàng, nay không hỏi thực hay dối, cứ nên hậu thưởng để khuyến khích tương lai. Nhưng không nên đặt họ ở chỗ yếu địa.
Những người quy phụ th́ nên nhân làng quê của họ mà cho cày ruộng, nhân đó mà lập người trưởng, nhỏ lớn đều biên làm quân, khiến được tự canh tự thủ. Kẻ có tài năng th́ chia cho đất đai, cho làm chức việc, để khiến họ đừng trốn chạy, để cho bớt thế đi.
*
* *
Nhận hàng cần phải pḥng bị cẩn thận: Sách Bảo giám nói: “Nhận hàng nghiêm hơn chịu địch, phải biết pḥng bị cho nghiêm, v́ rằng chịu địch cũng đă nghiêm rồi, mà nhận hàng càng phải nghiêm nữa”. Chịu địch th́ ai ai cũng có ḷng muốn giết, đều phải nghiêm răn, c̣n nhận hàng mà không nghiêm, họ có ḷng ngờ sợ mà ta lại kiêu nhờn, nếu có sự bất trắc biến cố xảy ra trong lúc thảng thốt, th́ không sao chống được. Cần phải trước hết xét thế mạnh hay yếu, t́nh thật hay dối, thực có thể tin th́ mới cho đầu hàng, định cho kỳ hạn, nghiêm chỉnh dinh ngũ, ngoài trương hai đại đội bày ở trước hai bên tả hữu đại dinh để chờ. Lại nên có thị vệ đứng kín, khiến không có thể thấy được ở sau lều tướng. Trăm quan th́ ai giữ việc nấy, như không trông không thấy việc ǵ. Không cho họ xem và nói với nhau mà mất vị thứ. Đợi khi người chưởng hiệu ở hai cánh đánh 3 hồi chiêng trống, đặt súng đại bác lên bệ, uy nghi chỉnh túc, mới truyền hiệu lệnh. Hàng binh đứng một chỗ, chỉ truyền cho bọn đầu mục cởi bỏ các vật, trước vào yết kiến. Vỗ về xong, tŕnh dâng sổ sách số mục quan và quân hàng, ngựa, khí giới, lương thảo. Cấp cho một cái bài miễn tử, sai đầu mục cầm đi tuyên báo cho các hàng binh, rồi th́ bỏ hết các vật, giao cho nhân viên chấp sự ta thu giữ, rồi mới sai điệu cả đến ngoài cửa viên, cho khúm núm nghe lời phủ dụ. Bọn đầu mục th́ hoặc được thưởng cấp áo mũ, hoặc cấp bài thẻ; các hàng binh th́ đều thưởng gạo thịt để tỏ ân tín. Sai nhân viên có tài năng hỏi các hàng binh. Ai xin về th́ đứng riêng ra một bên, cho chờ điền cấp văn bài, giao cho quan địa phương phát về quê để an tháp. Những văn bài đều nên dự bị, chỉ điền tên họ quê quán cho chóng việc là hơn. Ai xin làm binh th́ đứng riêng một bên, chia phái vào trong các đội quân ta, cho tướng hiệu của ta quản lănh lẫn lộn. Càng nên cho dinh đội cách nhau, để không thể tụ họp một nơi; cẩn mật đề pḥng, không cho thời thường tụ nhau chuyện tṛ. Bọn đầu mục th́ chiếu theo phẩm cấp được cho, mỗi ngày theo ban tướng hiệu ta mà đăi trà, không có dị đồng. Hoặc chọn trong đó có người tài kỹ trung thành th́ lấy 1, 2 người dùng trước để giữ ḷng mọi người. Binh đinh gặp khuyết th́ cũng bổ trước 1, 2 người để tỏ là có dùng. Nghiêm dụ quân ta không nên khinh khi lăng nhục, không nên đối với hàng binh khoe khoang được thua, không nên gọi càn bằng tên hàng tốt, sợ người ta buồn rầu mà sinh thù oán. Đến như quân địch lớn chưa diệt xong mà trước có kẻ về hàng, nếu không phải là người biết thời vụ th́ tức có người hiềm nghi. Vậy phải nên rộng cách đối đăi, khuyên cho đổi mới, hậu thưởng trọng dụng, không triệt quân của họ, không bỏ quyền của họ, để rộng sự chiêu tập. Tóm lại là phải tuỳ theo kinh quyền làm sao cho được thích nghi.
Ví như có một người địch làm hàng tốt, hoặc làm ra dáng người nông phu, đến trước cửa quân nói kín ư ḿnh xin làm hướng đạo, nếu không liệu xem t́nh hư thực thế nào, th́ có khi bị dụ vào ṿng vây, trúng phải kế địch. Nên giữ lại ở trong quân, lấy sự thực dối mà bảo cho biết rằng nếu thực th́ có trọng thưởng, nếu dối th́ xử trọng tội, rồi sau mới đem quân tiến đi, như thế th́ t́nh ư của nó phải lộ ra vậy.
*
* *
Tóm lại 13 điều cầu ḥa nhận hàng như sau:
1. Tiếp ứng quân địch đầu hàng, quân ta phải lên ở chỗ cao bày trận, luôn luôn ước thúc, không nên có chút trễ nải. Phải dự pḥng sự lừa dối. Như quân họ bày trận, dùng dằng chưa định, nếu có người tù trưởng cầu ḥa mà tham tá không theo, dẫu đó chưa được t́nh thực, nhưng cũng nhận cho rồi sẽ gấp làm mưu chước để tính liệu cũng được.
2. Có một người định cầu ḥa, cũng họp đặt bàn sở màn trướng, và trước sai dũng tướng đi t́m xét qua, sợ sau có quân phục mưu đánh ta chăng.
3. Khi nhận hàng mà nhận hội thề ước định với địch, chỗ gặp nhau không nên gần cơi của địch, và không nên ở chốn núi rừng nguy hiểm, sợ nó đặt mưu mà đánh úp ta.
4. Hội thề nên ở chốn đồng bằng nội rộng, hay gần dinh trại ta cũng không hại, nhưng không cho đem nhiều người ngựa đến gần dinh ta. Nếu họ không có khí dụng ǵ th́ không hại.
5. Trong ngày hội thề, trước sai du binh đem quân sinh lực lùng khắp những nơi hiểm trở bốn phía, như nơi nào có phục binh th́ kíp báo cho chủ tướng, tức th́ chuẩn bị ứng địch.
6. Hai quân gặp nhau, chưa từng đánh trận mà địch khiến người cầu ḥa, ấy có thể là địch có ư ngờ binh thế của ta, ngầm sai quân tinh nhuệ xông đánh ta trong lúc không ngờ, vậy nên kỹ càng xem xét thực dối. Nếu họ cần cầu ḥa, ta phải pḥng bị gấp, như có đại quân của địch xông đánh th́ ta cũng không thất cơ.
7. Khi đă từng chiến đấu, đôi bên chưa chia thắng phụ mà địch khiến người đến cầu ḥa, tất nhiên là có mưu riêng, kíp nên đề pḥng. Tôn tử nói: “Không ước mà xin ḥa là có mưu vậy”.
8. Khi họ hẹn xin quân ta dời đóng nơi xa, th́ người nghị ḥa ấy là muốn được quân ta lui để họ đem người ngựa đặt phục mà đánh, cần phải đề pḥng. Tôn tử nói. “Nửa tiến nửa lui là dụ ta vậy”.
9. Khi thám thấy nước họ thực có việc nên xin nghị ḥa để về nước, sợ ta đánh úp nên xin ḥa để lui quân, th́ lời có khác, nên bắt buộc ngả giáo bỏ giáp, đặt lời minh thệ mà chờ mệnh vua ta, rồi ngấm ngầm đến chỗ yếu hại trên đường về của giặc đặt nhiều quân kỳ quân phục, sợ họ nhân đêm trốn về.
10. Khi quân họ đánh thua, thế muốn cầu ḥa, th́ đợi lập định lời ước thệ, thề vĩnh viễn không xâm lấn nhau, rồi khiến họ nộp khí giới và các ngựa tốt, và coi chừng người tù trưởng để chờ mệnh vua.
11. Khi giặc cướp hoặc v́ bất đắc dĩ bắt buộc, hoặc v́ nhất thời ô hợp, nay biết ăn năn, nếu có thể khiến hàng th́ nên mở ḷng thành thực, hết sức vỗ về, ngơ hầu giữ toàn được là hơn.
12. Khi quân giặc lại hàng, quả là không có ư khác, nên khiến ước hẹn đổi lỗi làm lành, và nên xử trí thích nghi, đừng nên đem ḷng ngờ vực, khiến bị ch́m đắm.
13: Thu được quân giặc đầu hàng, sai người coi giữ, giải giao cho các nơi thu quân, riêng chờ lệnh vua, đừng cho họp ở một nơi mà sinh ra biến.
Những việc cầu ḥa thụ hàng ở trên chỉ pḥng sự dối trá không thực mà bị hăm hại; nếu là thực t́nh th́ sự xử trí ở ta, họa phúc biết trước. Kẻ làm tướng phải nên xét kỹ.
.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.