US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 13
Toán “Con Nai” đến Kim Lũng
Sau
những tháng kiên tŕ điều đ́nh với người Pháp mà không mang
lại kết quả ǵ, Hồ Chí Minh vẫn bền bỉ cung cấp cho OSS
nhiều tin tức và sự giúp đỡ rất có giá trị đối với các kế
hoạch hoạt động bí mật của chúng tôi.
Tôi vẫn giữ được liên lạc với ông qua các nhân viên ở Côn
minh, Posech và Tŕnh Tây.
Ông Hồ đă trở về bản doanh của ḿnh ở Đông Dương, đi qua Pắc
Bó, trạm trú chân đầu tiên, rồi đến Tân Trào, nơi ông đặt
căn cứ chính trị và quân sự để lănh đạo các hoạt động của
Việt Minh cho đến khi ông chuyển về Hà Nội vào 4 tháng sau.
Vào giữa tháng 6, tôi phát triển thêm
một số quan hệ với những người được lựa chọn trong cộng đồng
Việt kiều ở Côn Minh. Tôi đă để
nhiều th́ giờ nghe tin tức và điều thích thú đối với tôi
nhất là nghe kể về những thành tích của Việt Minh ở Đông
Dương và về “tài khôn khéo” của Hồ Chí Minh, lănh tụ của họ.
Câu chuyện về việc tôi gặp gỡ với ông Hồ đă gây nhiều lời
bàn tán chung quanh sự hợp tác
của chúng tôi và vai tṛ của OSS đối với phong trào Việt
Minh ở Côn Minh. Những dư luận này, một
thứ tự đề cao “tâng bốc” ḿnh bắt nguồn ngay từ các tổ chúc
Việt Minh ở Côn Minh. Nhưng điều
đó cũng chứng tỏ rằng việc đặt được những quan hệ công tác
tốt đối với các hội viên của Việt Minh quả thực là điều bổ
ích.
Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, nhưng thỉnh
thoảng họ lại sa vào một vài “thổ ngữ địa phương”, làm cho
tôi chẳng hiểu ǵ. Họ nói cả đến những
nhân vật, chắc là quan trọng, nhưng rất xa lạ đối với tôi.
Họ kể về những địa danh ở Đông Dương mà
tôi chưa hề nghe thấy bao giờ, nhưng sau tôi cũng phải cố
gắng xác định lại trên bản đồ.
Tuy vậy tôi cũng đă biết được khá nhiều về phong trào độc
lập của người Việt Nam và đă báo cáo một cách trung thực với
Trùng Khánh và Washington về các sự kiện và những phán đoán
của tôi.
Những báo cáo về thực chất và ư nghĩa
của Việt Minh của tôi nói trên cũng không gây được ảnh hưởng
ǵ đối với Bộ chỉ huy Chiến trường và Đại sứ quán.
Whitaker đă chất vấn cả về nguồn tin
cũng như những kết luận của tôi.
Ông đă được nhân viên Đại sứ quán khuyên bảo là tôi đă phí
phạm thời gian để cho một số ít cộng sản cuồng tín đánh lừa.
Nhưng Whitaker, Helliwell và Heppner cũng không thể không
biết đến giá trị những tin t́nh báo do Việt Minh cung cấp
hoặc hiệu lực của nhiều nhân viên Việt Nam mà tôi đă sử dụng
trong các chiến dịch phá hoại các mục tiêu Nhật Bản. Tất
nhiên là người Trung Quốc ở Bộ tham mưu Chiến trường và các
sĩ quan phái đoàn quân sự Pháp có quan hệ với Đại sứ quán Mỹ
đă không thích sự cộng tác của người Việt Nam, nhưng chúng
tôi ở OSS th́ lại vui ḷng tiếp tục sự hợp tác không chính
thức của chúng tôi.
CHỈ CÓ MỘT SỰ LỰA CHỌN - VIỆT
MINH
Đứng
trước âm mưu của Pháp và Trung Quốc nhằm làm trở ngại cho
các cố gắng của OSS và cũng biết rơ xu hướng của người Mỹ
thích những ǵ thiết thực cụ thể, tôi đă chỉ thị cho một
nhân viên tham mưu chuẩn bị cho tôi một hồ sơ đầy đủ về
những thành tựu của Việt Minh đă đạt được tử cuộc đảo chính
mồng 9-3. Hai ngày sau tôi đưa ra cho Heppner một lô t́nh
h́nh khá quan trọng: 6 tỉnh ở phía Bắc Kỳ thuộc quyền kiểm
soát về quân sự và hành chính của Việt Minh, một đội quân
Giải phóng đă được thành lập gồm các đơn vị tự vệ và du
kích, một tổ chức tuyên truyền có hiệu lực với một số phương
tiện báo chí và điện đài hạn chế, một chương tŕnh chính trị
xă hội - quân sự và cái cực kỳ quan trọng này, đó là sự ủng
hộ của quần chúng nhân dân Việt Nam, một yếu tố mà khốn khổ
cho chúng ta là đă không biết đến trong những năm 1960,
1970.
Heppner thấy không có lợi trong việc
thúc bách giải quyết vấn đề này với Đại sứ quán, ông liền
thảo luận riêng với tướng Wedemeyer và Goss, đồng thời cho
gửi bản tài liệu của tôi về Washington cho cá nhân tướng
Donovan. Sau đó, suốt trong thời
gian tôi làm nhiệm vụ ở Chiến trường Trung Hoa, các hoạt
động và quan hệ của tôi với người Việt Nam đă không c̣n
thành vấn đề nữa.
Trong tuần lễ đầu tháng 6, Hồ Chí Minh đă cho tôi biết tin
ông đă chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích “được huấn
luyện tốt” để phục vụ cho bất kỳ kế hoạch nào của tôi chống
lại Nhật. Số du kích này đă được tập trung ở một địa điểm
trong khu vực chợ Chu, Định Hóa, và tôi đă báo tin cho ông
Hồ biết là tôi cám ơn ông về đề nghị nói trên và sẽ chú ư
xem xét vấn đề này một cách nghiêm chỉnh. Đề nghị của ông Hồ
đă đến đúng vào một lúc thuận lợi, khi mà đội quân Pháp dưới
quyền của Courthelac (được thành lập để chuẩn bị cho trận
đánh nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc Trấn Nam Quan -
Hà Nội) đă từ chối không chịu tham gia huấn luyện và không
nhận nhiệm vụ đă được đề ra. Helliwell, Wampler và tôi đă
bắt buộc phải đi đến kết luận là người Pháp tham gia vào các
hoạt động của OSS một cách rất chậm chạp và mang
theo đầy những chủ trương phá
rối. Wampler và tôi tán thành thay thế
người Pháp bởi người Việt trong hoạt động phá hoại này nhưng
Helliwell vẫn c̣n ngần ngại. Kế hoạch đầu tiên cho
nhiệm vụ này đă định để cho toán “Con Mèo” do Holland chỉ
huy và toán “Con Nai” do Thomas chỉ huy, mỗi toán được tiếp
nhận và huấn luyện 50 binh sĩ Pháp ở Tŕnh Tây.
Helliwell lo ngại về những ảnh hưởng chính trị nếu chúng tôi
sử dụng du kích Việt Nam để thay thế cho Pháp và ông cũng
không muốn phải thu lại những vũ khí và trang bị đă sẵn sàng
cung cấp cho đội quân Pháp để chuyển cho người Việt Nam. Tôi
đưa ra lư do là nếu chúng ta sử dụng đơn vị của ông Hồ ở chợ
Chu th́ sẽ loại bỏ được việc phải cho đi bộ hoặc chuyên chở
người Pháp một quăng đường 25 dặm đến biên giới, cộng thêm
150 dặm nữa để đi tới Hà Nội. Với những đường ṃn trong rừng
hiện nay th́ cự ly đó sẽ là gần 250 dặm, nghĩa là 10 đến 15
ngày đi đường. Ngoài ra c̣n phải kể đến những điều thuận lợi
quan trọng khác trong việc sử dụng căn cứ và người của Việt
Minh cho hoạt động này, như chúng ta sẽ được sự ủng hộ của
dân chúng địa phương và có địa h́nh che chở cực kỳ thuận
lợi. Những lợi ích thực tiễn này đă có
sức nặng và cuối cùng Helliwell đă đồng ư. Đội quân Pháp của
Courthelac đă không bao gị được sử dụng nữa.
Trong lúc này, nhóm GBT cũng có một nhân vật chủ chốt của họ
Frankie Tan, ở tại bản doanh của ông Hồ, làm nhiệm vụ thu
thập t́nh báo về Nhật và đồng thời cùng với AGAS triển khai
mạng lưới giúp giải thoát người của chúng ta. Frankie Tan
cũng đang t́m kiếm những người Mỹ bị bắt đă chạy thoát trong
khu tam giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn, nơi trung
tâm các hoạt động chống Nhật của ông Hồ. AGAS đă lập được
một mạng luới vô tuyến trên suốt đất nước, từ Hà Nội đến Sài
G̣n, thống nhất theo kế hoạch của OSS.
Chúng tôi đề nghị với Wichtrich của AGAS cùng nhau hợp tác
với Hồ Chí Minh và tiến hành những hoạt động độc lập đối với
người Pháp. Wichtrich đồng ư và chỉ định một trung úy
trẻ tuổi tên là Phelan gánh vác nhiệm vụ của AGAS và làm
liên lạc giữa OSS và Việt Minh cho đến khi toán “Con Mèo” và
toán “Con Nai” của chúng tôi đến căn cứ của ông Hồ.
Sau khi Sainteny đă ra lệnh đ́nh chỉ hoàn toàn cộng tác của
người Pháp với OSS và sau khi điện đài ở Pakhoi im tiếng,
tôi mới yêu cầu Trương Quốc Anh, một trong số các đầu mối
tiếp xúc với Việt Minh của tôi, báo cho ông Hồ biết rằng tôi
rất quan tâm đến đề nghị của ông và đồng ư là sẽ có một toán
người Mỹ, do một sĩ quan cao cấp đứng đầu, sẽ được thả dù
xuống vùng Tuyên Quang.
Trong khi nói chuyện, ông báo cho tôi
biết là thiếu tá Sainteny đă kết giao với Nguyễn Tường Tam.
Tôi thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp
với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lănh tụ
của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu.
Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đă
được một nhân viên Pháp Việt trong toán “Con Nai” xác định
là đúng.
Ngày 30-6, tôi nhận được trả lời của ông
Hồ đồng ư tiếp nhận toán của chúng tôi và yêu cầu được biết
khi nào th́ người Mỹ có thể đến.
Trong tḥi gian đó Phelan đă được thả xuống khu vực Tuyên
Quang và đă gặp được Frankie Tan.
Chúng tôi báo cho thiếu tá Davis ở Posech biết về sự thay
đổi trong kế hoạch và gợi ư Davis cho máy bay đưa các cán bộ
của toán “Con Nai” và “Con Mèo” đến vùng Tuyên Quang, ở đó
AGAS và GBT đă cho chuẩn bị sẵn những địa điểm thả dù. Tôi
yêu cầu Davis nhắc nhở Thomas và Rolland phải sửa lại kế
hoạch đầu tiên định thu nạp binh lính Pháp vào trong nhiệm
vụ của họ và cũng báo cho Davis biết là chúng tôi đă có tin
tức xác thực của Việt Minh nói rằng một đội quân du kích cỡ
lớn đă sẵn sàng ở địa điểm thả dù, mặc dù họ có xu hướng
chính trị mác xít, nhiệm vụ trước mắt của họ là chiến đấu
chống Nhật và đó cũng là điều quan tâm chủ yếu đối với hoạt
động của chúng ta. Nhưng cũng phải sau
ít nhiều nhầm lẫn và cả một mớ điện tín qua lại giữa Posech
và Côn Minh, Thomas mới rút ra được kết luận là một hoạt
động phối hợp Pháp - Mỹ có thể không được người Việt Nam
hoan nghênh.
CĂN CỨ TRONG RỪNG CỦA ÔNG HỒ
Thomas
đă quyết định tự ḿnh đi trinh sát t́nh h́nh trước khi cam
kết cho người Pháp hay người Việt tham gia toán của ḿnh.
Ông tổ chức một tổ phái đi trước gồm có bản thân Thomas,
trung úy Montfort thuộc quân đội Pháp, hai binh nh́ người Mỹ
và hai người Việt Nam được giới thiệu nguyên là
đội(1) trong quân đội Pháp. Cuối
buổi chiều ngày 16-7, nhóm này được thả dù xuống vùng lân
cận làng Kim Lũng, cách Tuyên Quang khoảng 20 dặm về phía
đông. Cuộc thả dù được tiến hành một cách trôi chảy, trừ
việc Thomas, Montfort và một lính Mỹ đă bị rơi một cách
không hay vào những ngọn cây và phải nhờ người ta gỡ xuống
đất. Theo Thomas th́ lúc đó ông ta được nghênh tiếp bởi
khoảng 200 người trang bị bằng “súng trường Pháp, mấy khẩu
Bren, carbin, tiểu liên và mấy khẩu Sten”.
Thomas đă tả lại và coi điều đó như là
“một ủy ban đón tiếp gây xúc động rất sâu sắc”.
Báo cáo đầu tiên của Thomas đă được thêm thắt vào: “Khi đó
tôi được đưa đến gặp ông Ḥe, một trong những người lănh đạo
lớn của Việt Minh. Ông Ḥe nói tiếng Anh
rất tuyệt nhưng người ốm yếu v́ mới cuốc bộ từ Tŕnh Tây về.
Ông tiếp đón chúng tôi hết sức thân
thiết. Rồi chúng tôi được chỉ đến
khu vực dành riêng cho chúng tôi, một cái cḥi tre đặc biệt
gồm một cái sàn bằng nứa làm cách mặt đất vài feet, mái lợp
bằng lá gồi. Bữa ăn chiều hôm đó có
bia (mới thu nhặt được), măng
tre, thịt ḅ thui. Họ vừa mới giết một con ḅ để dành chiêu
đăi chúng tôi”.
Từ sớm tinh mơ ngày hôm sau, một sĩ quan
M.5 đă đến t́m tôi báo tin thiếu tá Thomas và trung úy
Montfort đă bị du kích Việt Minh bắt giữ.
Tôi nói cho ông ta yên trí là không phải
như vậy và tôi đă được Thomas báo cáo là việc thả dù đă được
thực hiện đúng như kế hoạch đă định.
Người sĩ quan có thể vẫn chưa yên tâm và
đă tiết lộ với tôi là Montfort và hai người Việt Nam tên là
Logos và Phác đều là nhân viên của M.5 phái đi làm “nhiệm vụ
đặc biệt”. Ông rất lo lắng cho an
ninh của họ và phát biểu mong được OSS bảo đảm cho họ được
trở lại một cách an toàn thuộc quyền chỉ huy của người Pháp
trong một thời gian tốt nhất có thể được.
Trong những ngày đó, tôi đă được biết là M.5 chú ư t́m cách
tiếp xúc với Hồ Chí Minh và đă yêu cầu Gordon thuộc nhóm GBT
thu xếp cho một cuộc gặp gỡ. M.5
đă chỉ thị cho thiếu tá Rivol, nhân viên M.5 ở Tŕnh Tây
theo dơi cuộc thu xếp của nhóm GBT, và đă cử Montfort đi
cùng Thomas đến bản doanh của ông Hồ. Thực không may cho
M.5, vốn có xu hướng thích chạy theo các hoạt động bằng cửa
sau, khi Montfort đến Kim Lũng được ngụy trang như một sĩ
quan Mỹ th́ cái tṛ giả dối này đă bị thất bại, v́ Montfort
gần như ngay tức khắc, đă bị nhận mặt bởi một du kích Việt
Minh trước đây không lâu đă phục vụ dưới quyền ông trong đội
quân thuộc địa Pháp.
Thomas đă viết trong bản báo cáo đầu tiên: “Đă có một cuộc
họp dài với ông Hồ…, về vấn đề người Pháp”.
Ông Hồ đă nói với Thomas bằng một giọng
quả quyết rằng “sẽ không thể để cho trung úy Montfort, một
sĩ quan Pháp ở lại, cũng như bất cứ người Pháp nào đến nữa
cũng sẽ không được hoan nghênh”.
C̣n đối với binh lính Việt nam (đi cùng người Pháp), ông Hồ
đồng ư cho họ ở lại nhưng ông không tin là người Pháp sẽ
buông tha họ. Điều đó lại trở
thành vấn đề.
Trong khi chờ để được đưa về Posech, viên “đội” Pháp mấy
ngày sau đó lại bị một du kích Việt Minh phát hiện ra là một
đảng viên Việt Narn Quốc dân đảng, một đảng quốc gia thân
Trung Quốc. Trong khi bị hỏi, Phác đă
thú nhận là người trung gian đứng thu xếp cuộc gặp gỡ ở Côn
Minh (đă nêu ở phần trên) giữa thủ lĩnh của M.5 và Nguyễn
Tường Tam. Để biện bạch trong t́nh trạng khó khăn
nguy hiểm lúc đó, Phác đă nói với những người Việt Nam tra
hỏi hắn rằng hắn đă đi theo Montfort với hy vọng là Việt
Minh sẽ để hắn ở lại và đánh Nhật. Tất nhiên những người
Việt Minh đă có những nhận xét khác về vấn đề này, và viên
“đội” hay “thiếu úy” Phác đă bị giam giữ chặt chẽ cho đến
khi được dời khỏi nói đây.
Ngày 31-7, Montfort và hai người Việt Nam đă được dời đi
cùng với 20 người Pháp lánh nạn t́m thấy ở một làng gần khu
vực AGAS hoạt động. Số người Pháp này đă
được du kích Việt Minh giải thoát ngày mùng 4-7 tại một trại
tập trung thường dân của Nhật ở Tam Đảo. Montfort đă
dẫn những người đi bộ theo đường
ṃn cho tới biên giới, c̣n đàn bà và trẻ con th́ được chở
bằng máy bay sang Trung Quốc.
Ngay trong ngày Thomas tới, ông Hồ thường xuyên t́m bắt “cơ
hội thuận lợi” đă nắm lấy dịp có mặt người Mỹ để bắt liên
lạc với người Pháp ở Trung Quốc. Ông đă yêu cầu Thomas báo
cho nhà chức trách Mỹ biết rằng “Mặt trận Việt Minh vui ḷng
muốn nói chuyện với một sĩ quan cao cấp Pháp nào đó, như
tướng Sabattier chẳng hạn (sic), để biết những ǵ mà người
Pháp muốn đề xuất ra”. Mấy ngày sau, AGAS ở Côn Minh báo cho
tôi biết đă nhận được một điện tín của ông Hồ nhằm gửi cho
các nhà chức trách Pháp và nói rằng ông Hồ sẽ hoan nghênh
một cuộc nói chuyện với một quan chức cao cấp Pháp, đặc biệt
là về vấn đề tuyên bố của De Gaulle liên quan đến Đông Dương
mà ông Hồ cho rằng c̣n có một số điểm không rơ ràng.
Tôi gọi ư cho AGAS chuyển bức diện cho
M.5, nhưng sau đó tôi nhận biết ở đây người ta đă tiếp nhận
nó một cách khá lạnh nhạt.
Ngày 25-7 Thomas lại báo cáo, cho rằng một lần nữa ông Hồ đă
tỏ ư muốn nói chuyện với người Pháp, hoặc ở Côn Minh hoặc ở
Bắc Kỳ, về một yêu cầu cải cách năm điểm gửi cho Chính phủ
Pháp. Đó là:
“Chúng tôi, Mặt trận Việt Minh, yêu cầu người Pháp cho công
bố và ghi vào trong chính sách tương lai của Pháp ở Đông
Dương các điểm sau đây:
1. Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu ra một nghị viện để
quản lư đất nước, có một viên Toàn quyền người Pháp làm chủ
tịch cho đến khi chúng tôi hoàn toàn đuợc độc lập. Viên Toàn
quyền sẽ lập ra nội các hay đoàn cố vấn được nghị viện chấp
nhận. Quyền hành chính xác của các quan
chức nói trên sẽ được thảo luận sau.
2. Độc lập phải được ban bố cho đất nước, trong ṿng ít nhất
là 5 năm, nhưng không quá 10 năm.
3. Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại
cho nhân dân trong nước thông qua một sự đền bù thỏa đáng.
4. Mọi quyền tự do do Liên Hợp Quốc đề xuất ra được đảm bảo
thi hành cho người Đông Dương.
5. Cấm chỉ việc bán thuốc phiện.
Chúng tôi hy vọng rằng các điều khoản
trên sẽ được Chính phủ Pháp chấp nhận”.
Thomas đă gửi bức điện trên của ông Hồ cho Davis ở Posech để
chuyển cho AGAS Côn Minh tiếp theo
với bản thứ nhất. Ở đó họ đă chuyển ngay
bức điện thứ hai này cho phái đoàn quân sự Pháp.
Dù cho các điện tín của ông Hồ đă không được đáp lại và
không được công nhận, đến một chừng mực nào đi nữa th́ vai
tṛ chúng tôi cũng chỉ là thực hiện một dịch vụ, tránh không
để cho bị lôi kéo vào việc ủng hộ thiên vị cho bên này hay
bên kia. Nhưng cũng thật là thú vị mà phản ảnh rằng các yêu
cầu nhũn nhặn của Việt Minh, mặc dù là người Pháp không thể
chấp nhận được, cũng đă có thể sử dụng được để làm cơ sở
thích hợp cho một cuộc thương lượng. Thực vậy, cả hai bản đề
nghị gặp gỡ trên những cơ sở nghiêm chỉnh nói trên cũng chỉ
là những dự định đầu tiên trong nhiều lần của người Việt Nam
để thương thuyết với người Pháp với tư cách là người đại
diện cho tương lai đất nước họ. Thật quá rơ ràng là sự không
khoan nhượng của Pháp đă làm cho mọi dự định muốn thương
lượng trở thành không có kết quả.
Từ đó về sau, việc người Pháp tham gia
nhiệm vụ toán “Con Nai” được chấm dứt và toán của thiếu tá
Thomas ở lại với những người du kích Việt Minh cho đến tận
khi họ về tới Hà Nội ngày 9-9-1945. Trong 7 tuần lễ ở
đây, Thomas và các chuyên viên người Mỹ đă để ra 4 tuần để
huấn luyện cho khoảng 200 người được lựa chọn kỹ lưỡng để
làm cán bộ lănh đạo tương lai cho quân đội của các tướng Chu
Văn Tấn và Vơ Nguyên Giáp về việc sử dụng những vũ khí Mỹ
mới nhất và chiến thuật đánh du kích. Một số chúng tôi cũng
đă có nghĩ tới việc trong tương lai những vũ khí và sự huấn
luyện đó có thể sẽ được sử dụng để chống lại người Pháp,
nhưng không một ai lại tưởng tượng được rằng chúng sẽ có bao
giờ có thể được dùng để chống lại người Mỹ.
Chú thích :
(1) cấp bậc tương đương Thượng sĩ nhất
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures